You are on page 1of 6

Đề 4: “Thạch trận dàn bày vừa xong…lúc ngừng chèo” (SGK 188-190).

Cảm
nhận của anh /chị về vẻ đẹp hình tượng ông lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó nhận
xét quan niệm về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
A.MB: “Mỗi tác phẩm đều có ít nhiều nhà nhà văn trong đó” câu nói của Thạch
Lam là một sự thể hiện trước hết cũng như đúc kết của cả một đời văn đã gợi cho ta
nghĩ đến Nguyễn Tuân- Con người đọc xem là “một cái định nghĩa về người nghệ
sĩ”.Nguyễn Tuân luôn tìm kiếm và phát hiện những cái mới lạ,điều đó được thể hiện
rõ qua tuỳ bút “ NLĐSĐ”.Bằng ngòi bút tài hoa,uyên bác,Nguyễn Tuân để thể hiện
1 dấu ấn không thể phai mờ về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình là phông nền
đẹp đẽ nhất nổi bật 1 chiến binh sông nước với tay lái “ra hoa” với chất vàng mười
trong tâm hồn- Người lái đò tài hoa trí dũng.Ấn tượng sâu đậm về người lái đò vô
danh trên dòng Đà Giang đã được Nguyễn Tuân khắc hoạ qua đoạn văn bản sau:
“Thạch trận dàn bày vừa xong…lúc ngừng chèo”
B.TB
1.Tổng:
- HCST: Tuỳ bút “NLĐSĐ” được sáng tác năm 1960,là kết quả của nhiều lần
Nguyễn Tuân đến với Sông Đà,để tìm kiếm thứ “vàng 10” đã qua thử lửa đặc biệt là
chất vàng mười trong tâm hồn của những người lao động Tây Bắc.Với tuỳ bút này
nguyễn Tuân đã tập trung miêu tả vẻ đẹp của những người lái đò vô danh nhưng lại
là 1 nghệ sĩ trên sông nước- một người anh hùng trong công cuộc chinh phục thiên
nhiên.
-Vị trí +ND:Đoạn văn bản trên thuộc phần sau của tuỳ bút NLĐSĐ,là đoạn văn
Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực,cảm hứng ngợi ca dâng trào khiến ông biến cuộc
vượt thác sông Đà của ông lái đò chẳng khác nào một thiên anh hùng ca. Người lái
đò trên sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến trong tác phẩm là một ông già 70 tuổi
đã giành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc sông Đà. Đó là một người lái
đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh
tay giữ lái độ sáu chục lần...” trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy
hiểm và gian khổ này. Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong
nghề lái đò, và đã đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh
vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn
Tuân tiếp tục bày tỏ sự khâm phục của mình đối với con người này: “Sông Đà, với
ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu
chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”. Thật là một cách so sánh “rất
văn chương” đầy thú vị và cũng “rất là Nguyền Tuân”.
2.Phân:  
Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao
to gọn quánh như chất sừng, chất mun” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một
“chàng trai”, “trẻ tráng quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “vàng mười”. Ồng
đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với thế lực của những bãi đá ghê
gớm, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa
của một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình
như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi
lần có chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ
lấy thuyền”. 
Cuộc sống của người lái đò sông Đà là một cuộc chiến đấu giành giật sự sống từ tay
tử thần rình rập nơi những con thác luôn ẩn tàng nỗi hiểm nguy, vẻ đẹp dữ dội này
trong phẩm chất người lái đò được nhà văn tập trung bút lực miêu tả qua những tình
tiết vượt thác. Thông qua những tình tiết này, Nguyễn Tuân đã dựng lên hình ảnh tài
hoa nghệ sĩ chan hòa xuyên thấm vào với vẻ đẹp kiêu hùng của hình ảnh 1 chiến sĩ.
Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò gắn sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền
trưởng dày dạn kinh nghiệm thủy chiến. Và đồng thời song hành với bản lĩnh chiến
đấu, tinh thần dũng cảm phi thường. Xuôi theo dòng văn, người đọc cảm nhận rất rõ
nét hình ảnh người lái đò lúc nào cũng ngạo nghễ vươn lên trên cái nền thiên nhiên
hung dữ ghê rợn. Thiên nhiên ác hiểm cố nhấn chìm số phận của con người, dập vùi
họ đây họ đến chỗ chết, nhưng con người luôn quật cường và chiến thắng không chỉ
bằng cơ bắp mà bằng cả trí tuệ bằng tình yêu công việc, nhờ đó hình ảnh được khắc
họa trở lên tỏa sáng, sừng sững.

Ở trùng vây thứ nhất, bọn đá sông mở ra năm cửa trận hình đánh lừa con thuyền, có
bốn cửa tử và một cửa sinh, cửa sinh lại nằm lập lờ ở phía tả ngạn. Ông lái đò xung
trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái
thuyền vụt tới”. Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. Những hòn đá “bệ vệ oai phong lẫm
liệt” được nước thác “reo hò làm thanh viện” chúng liều mạng xông vào mà “đá
trái” mà “thúc gối vào bụng và hông thuyền... Có lúc chúng đội cả thuyền lên”. Lúc
này ông lái đò ở tư thế bị động, đối mặt với thiên nhiên. Tuy bị động nhưng cũng rất
hiên ngang như một tướng soái. Nguy hiểm là vậy nhưng ông lái đò vẫn bình tĩnh
“hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”. Ngay cả lúc bị con thủy quái này
đánh miếng đòn hiểm nhất “bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Đối phương tung ra
liên tiếp những binh chủng nước, mặt sóng sôi sùng sục như có lừa châm vào đầu
sóng. Ông đò cố nén vết thương “hai chân vần kẹp lấy cuống lái” dù mặt méo bệch
đi vì đau đớn nhưng tiếng chỉ huy của ông vẫn sắc lạnh, tỉnh táo, đưa con thuyền
thoát khỏi nguy hiểm và tiến nhanh vào vòng vây thứ hai. Ở vòng vây thứ nhất, một
con thuyền rất mong manh trước một đổi phương đông đảo, ranh ma. Tuy bị động
nhưng ông đò đã chiến thắng bằng sự bình tĩnh, khôn ngoan và mưu trí.

Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đã phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi
luôn chiến thuật. Bọn đá sông mở ra thêm nhiều cứa trận vô cùng hiểm trở, bổ trí
nhiều cửa tử hơn và chỉ có một cửa sinh nhưng nằm lập lờ phía hữu ngạn: “Dòng
thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Trên sông đá sông Đà đã thay
đổi chiến thuật, không phải là tư thế của đô vật nữa mà là tư thế của hùm beo vồ
mồi, một tư thế hiểm độc của thú dữ. Ông lái đò bắt đầu cuộc tấn công bằng cách
“nắm chặt được cái bờm sóng đúng luồng rồi” ông cho con thuyền “phóng nhanh
vào cửa sinh mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Ông đò đã chuyển từ
tư thế bị động sang chủ động. Nếu dòng thác là hùm beo thì ông lái đò đã có được tư
thế của “Võ Tòng đả hổ, cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.
Đây là một tư thế đứng trên đầu kẻ thù. vẫn chưa chịu thua, “bọn thủy quân cửa ải
nước bên bờ trái liền xô ra định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử”, ông đò nhớ
mặt bọn này nên đứa thì “ông tránh mà rảo bơi chèo lên”, đứa thì bị ông “đè sấn lên
mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối cùng ông thắng còn bọn đá tướng thất bại
thảm hại đưa cái mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Một dãy dài những động từ,
tính từ được Nguyễn Tuân sử dụng để tả tư thế chiến thắng của ông đò: “rảo bơi
chèo”, “đè sấn lên”, “chặt đôi ra”... Những từ ngữ ấy đã thể hiện được phẩm chất
chiến sĩ của người lái đò trên chiến trường sông Đà. Ở vòng vây thứ hai, ông đò đã
chiến thắng bằng sự mưu trí. dũng cảm, sự am hiểu tường tận về con sông.

Trùng vây thứ ba là một không gian của trận địa để nhằm tiêu diệt đối phương: bên
phải bên trái đều là “luồng chết cả”, cái luồng sống nằm ở giữa ngay con thác. Bên
cạnh đó là cách thức bố phòng tấn công như trong chiến trận: “bọn đá hậu vệ” canh
cửa hòng “bắt chết” cái thuyền. Trên cái phông nền chiến trận cẩn mật và đầy thách
thức ấy, ông lái đò hiện lên như vị tướng cầm quân với chiến thuật tài ba. ông mưu
trí phóng thăng con thuyền, chọc thủng cửa giữa đỏ. Thuyền vút qua công đá cánh
mở’ cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cừa trong cùng. Chiếc thuyền như
một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn
được. Dường như tác giả tập trung cao độ bút lực vào đoạn văn này. Những ẩn dụ,
so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn
tượng. Lối ngắt nhịp gãy vụn ra đã diễn tả tình thế gay go, quyết liệt và khẩn trương.
Để tả tốc độ thuyền lao đi, tác giả không dùng từ “vươn” mà dùng từ "vút”, lặp lại
nhiều lần, kết hợp với hình ảnh so sánh: “thuyền như một mũi tên tre” để diễn tả tốc
độ cực lớn của chiếc thuyền. Từ “tự động”, đã biểu đạt khá chính xác sức phản ứng
linh hoạt, nhạy bén, điêu luyện của ông đò. Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân
ngôn ngữ thật hùng hậu, đa dạng, biến ảo thần kỳ với liên tục những phép tu từ vô
cùng sinh động: so sánh ngầm, nhân hóa, cường điệu... Câu chữ tuôn chảy ào ạt,
điệp điệp trùng trùng tạo ra một bức tranh chiến trận hoành tráng về không gian, ấn
tượng về hình ảnh hiểm nguy, gay cấn về tình huống... Kết hợp với phong cách sử
dụng nhiều loại hình nghệ thuật, trong đoạn viết này Nguyễn Tuân đã cho ta thấy
cách viết của ông như kịch bản phim và qua bàn tay đạo diễn, nó tạo ra sự sống
động hồi hộp âu lo, thán phục... với biết bao cảm xúc nảy nở trong lòng người đọc.
Ở vòng vây này, ông đò đã chiến thắng không chỉ bằng sự mưu trí, dũng cảm mà
hơn thế bằng tay lái điêu luyện thành thục “tay lái ra hoa”. Con thuyền lướt nhanh
trên đầu sóng, sóng của Sông Đà và sóng của ngôn ngữ Nguyễn Tuân. Cảnh vượt
thác là bài ca chiến trận hào hùng, hình ảnh bừng sáng: ông lái đò oai phong lẫm liệt
như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết liệt và quyết đoán, uyển chuyển
linh hoạt như một nghệ sĩ xử lý tình huống với trái tim khát khao chinh phục... đã
lập thành hào quang chiến thắng.

Đối với người lái đò, hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là một phần trong cuộc
sống thường nhật của ông, được ông chấp nhận như một tất yếu; tác giả đã làm cho
hình ảnh người lái đò lấp lánh hơn, giàu chất nghệ sĩ hơn từ công việc đối mặt với
hiểm nguy đã trở thành bình thường. Khi vượt qua gian nguy, sóng nước lại tan xèo
xèo trong trí nhớ sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá,
nướng ống cơm lam, và toàn bàn về cá anh vũ cá dầm xanh... Cũng chẳng thấy ai
bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thẳng vừa qua. Giọng văn thanh thoát, nhẹ
nhàng ta lại thấm thía thêm vẻ đẹp của người lái đò Sông Đà. Họ anh hùng biết bao
trong lao động nhưng cũng thật khiêm nhường, bình dị biết bao trong cuộc sống đời
thường. Chất trữ tình bên lửa cháy và có cả những câu chuyện đời thường ở quá khứ
ở phía trước nhưng tuyệt nhiên không có hồi ức về hiểm nguy mà tất cả đều lãng
mạn ngọt ngào. Điều ấy như một thứ khí chất, một tính cách cấu thành con người
ông lái đò. Nó khác biệt với người bình thường mỗi khi đối mặt nguy hiểm vẫn phải
toan tính âu lo; và khi vượt qua rồi vẫn cảm thấy bất an vẫn hồi hộp mỗi khi nhớ về.
Cái phi thường trở thành cái bình thường, chất chiến sĩ hòa quyện với phong thái tài
tử nghệ sĩ. Từ đó mà tôn cao thêm tầm vóc của người lao động. Và tụ lại trong con
người ông lái đò một phẩm chất kép: phong thái nghệ sĩ và tính cách người anh
hùng sông nước. Con người mà trái tim nghệ sĩ đập thầm lặng nhưng mạnh mẽ
trong cơ thể thép, ý chí thép.

3.Hợp: nhận xét quan niệm về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.

Đọc hết đoạn vượt thác đầy cam go, gay cấn của ông lái đò Lai Châu, ta cứ cảm
tưởng mình vừa coi một bộ phim hành động nghẹt thở, hồi hộp đến từng phút giây,
mà ông lái đò chính là nhân vật chính. Hình ảnh người lao động anh hùng, hằng
ngày chiến đấu vật lộn với thiên nhiên trong nguy hiểm trùng trùng đã làm nổi bật
lên vẻ đẹp và sức mạnh của con người trước thiên nhiên hùng vĩ và kiêu ngạo. Đây
là một cuộc chiến không cân sức, nhưng bằng sự thông minh, gan dạ, kiên cường
bất khuất, con người lao động đã chế ngự, vượt lên trên cái sự khiêu khích, hằn học
của thiên nhiên.
-Hình tượng ông lái đò được tác giả xây dựng trên hai vai trò, vừa là người chiến sĩ
anh hùng, quả cảm, vừa là người nghệ sĩ tài ba đã viết nên một bản hùng ca tuyệt
đẹp về cuộc sống lao động, về nghệ thuật chèo lái trên con sông Đà rộng lớn.
Nguyễn Tuân có một quan điểm nghệ thuật đầy mới mẻ, có phần tương đồng với
một số tác giả như Nam Cao hay Nguyễn Huy Tưởng, ông cho rằng nghệ thuật
không phải chỉ là những người nghệ sĩ với những hình tượng thơ mộng, mơ hồ cao
xa như mây-trăng, gió-núi, mà người làm nghệ thuật còn là những người lao động,
vốn đã nhuần nhuyễn, đạt đỉnh cao điêu luyện trong chính nghề nghiệp của mình thì
cũng là người làm nghệ thuật chân chính, thứ nghệ thuật ấy chính là nghệ thuật
trong lao động. Bởi trong những con người ấy chất chứa cả một niềm đam mê sâu
sắc, niềm tin yêu, luôn tìm cách sáng tạo, đột phá, tạo ra những cung đường mới mẻ
cho nghề nghiệp của mình.
-Ông lái đò là người lao động bình thường vô danh nhưng lại mang cốt cách của
một tâm hồn nghệ sĩ. Trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh ông là một con người
phi thường, tài hoa. Một nghệ sĩ có phong thái ung dung, nhàn nhã, khiêm tốn. Ông
chính là hình tượng con người lao động là biểu tượng cho trí dũng song toàn trong
hành trình đi tìm cái đẹp của nhà văn. Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa
bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động trong gian lao nguy hiểm
nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng ông lái đò trong tùy bút “Người lái
đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong nghề. Cuộc vượt thác của
người khách sông Đà quả thật là phi thường, xứng đáng là một trong những “cảnh
tượng xưa nay chưa từng có”.

C.KB: : Viết về người lái đò Sông Đà, viết về một vùng đất của Tổ quốc, Nguyễn
Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết với người lao động và thiên
nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động thì ông lái đò hiện lên càng anh
dũng, ngoan cường trong lao động, ta lại càng thấy được bản lĩnh, tấm lòng và tài
năng của Nguyễn Tuân.  Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình dị  ấy “ thứ
vàng mười đã qua thử lửa” của núi rừng Tây Bắc. Cuộc sống quanh ta vốn rất cũ kĩ,
tầm thường, gió vẫn thổi, mây vẫn trôi, ngày lại qua ngày.. nhà văn chính là người
đã mang lại cho ta một thế giới mới, tinh khôi hơn,diệu kì hơn. Và Nguyễn Tuân đã
làm tròn sứ mệnh của một nhà văn, ông đã góp phần mang đến cho Thế giới những
sắc màu mới. Bước vào thế giới của Nguyễn Tuân, chúng ta như bước vào một chân
trời với màu sắc huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái
đẹp, của tài hoa và sự uyên bác.

You might also like