You are on page 1of 10

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

MB:

TB:

- Khái quát
- “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn
đường đến xứ sở cái đẹp” (Pautopxki).Với tinh thần của một nhà
văn tôn thờ cái đẹp, suốt đời đi tìm cái đẹp, trong “Người lái đò
sông Đà”, Nguyễn Tuân cũng đã dẫn ta đến với “xứ sở cái đẹp”.
Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, của Đà giang vừa hung bạo, hùng vĩ
vừa trữ tình, thơ mộng. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân
đặt tên cho tác phẩm của mình là “Người lái đò sông Đà” trong khi
vẽ nên bức tranh thiên nhiên sông Đà rộng lớn. Thực chất, nhà văn
miêu tả cái hùng vĩ của sông Đà để lấy nó làm tôn vinh lên vẻ đẹp
của con người lao động miền sông nước.
- Nếu như nhà văn Nam Cao từng để cho nhân vật của mình xuất
hiện trong thanh âm của tiếng chửi, của sự tuyệt vọng và cô độc;
Tô Hoài để cho nhân vật Mị xuất hiện với hình ảnh ngồi bên tảng
đá, cạnh tàu ngựa với dáng vẻ âm thầm, lầm lũi; thì Nguyễn Tuân
lại để cho người lái đò sông Đà xuất hiện trong tâm thức người đọc
trong ngoại hình bước vào tuổi bảy mươi, đầu tóc bạc trắng nhưng
thân hình “cao to và gon guánh như chất sừng, chất mun”, thân
hình ấy “vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch” cùng
cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Cánh tay “lêu nghêu
như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như đang kẹp lấy
một cuống lái tưởng tượng”, giọng ông thì “ào ào như tiếng nước
trước mặt ghềnh sông”,ngoại hình ông lái đò hiện lên đã in đậm
dấu ấn của những con người lao động Tây Bắc. Trên ngực nổi lên
một số “củ nâu” thương tích mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi đó
là “thứ Huân chương lao động siêu hạng”. Nếu như “Đoàn thuyền
đánh cá” là một khúc tráng ca về người lao động:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng bể
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
-Huy Cận-
Thì ở “Người lái đò sông Đà” Nguyễn Tuân đã để con người làm chủ
thiên nhiên, làm chủ cuộc sống mới trong những năm đầu xây dựng đất
nước. Qua những hình ảnh so sánh đã toát lên vẻ đẹp của những con
người phi thường, những anh hùng của miền sơn nước. Nhân vật người
lái đò không chỉ phi thường ở ngoại hình mà con phi thường ở ý chí, sức
sống mạnh mẽ với công việc của mình. Tuy trong bối cảnh xu thế văn
học hiện thực xã hội chủ nghĩa tập trung xây dựng con người và cuộc
sống mới. Nguyễn Tuân đã rất tinh tế khi xây dựng nên một điển hình
cho những kiếp sống tồn tại, âm thầm lao động chống chọi lại với thiên
nhiên. Chính vì vậy hình tượng người lái đò mang tính phổ quát để trở
thành hình tượng điển hình như Bielinxki từng nói: “ Điển hình trong
văn chương là những người lạ mà ta đã từng quen biết từ rất lâu”. Ông
lái đò được Nguyễn Tuân “nhào nặn” như tượng đài của nhân dân dù đó
là một con người rất dỗi bình thường, không tên, không tuổi, không quê
quán và phải lao động trong môi trường khắc nghiệt đầy dữ dội.
- Những kinh nghiệm của người lái đò đã được nhà văn khắc họa
qua câu văn: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một
trăm lần rồi chỉnh tay giữ lại độ sáu chục lần”, ông hiểu sông Đà
như hiểu chính mình, đến mức “ông thuộc đến cả dấu chấm than,
dấu câu và cả những đoạn xuống dòng”. Nguyễn Tuân đã thể hiện
sự cảm phục của mình với người lái đò bằng những hình ảnh so
sánh đầy chất văn, cuộc sống của ông lão tuy đơn giản, bình
thường nhưng lại đầy sự phi thường. Nguyễn Tuân muốn tạo ra
một chân dung vô danh để nhân vật người lái đò trở thành đại diện
cho những con người bình dị ẩn khuất giữa núi rừng Tây Bắc,
những con người ấy chứa đựng “thứ vàng mười” đích thực. “Hình
tượng văn học là sự tổng hợp những tư tưởng và say mê, là kết quả
của một tấm lòng đầy thiết tha” (Biêlinxki). Hình tượng nhân vật
trong tác phẩm bao giờ cũng mang dấu ấn mạnh mẽ của chủ quan
nhà văn, bộc lộ tiếng nói riêng, phong cách độc đáo của người
nghệ sĩ. Mỗi hình tượng nhân vật điển hình lại tỏa chiếu ra một ánh
sáng riêng. Đó chính là ánh sáng của tư tưởng nhà văn, của lí
tưởng thẩm mĩ được soi chiếu qua hình tượng. Hình tượng nhân
vật là nơi gửi gắm trái tim sôi nổi nhiệt thành, đầy yêu thương của
người viết. Nhờ đó mà nhà văn đã ca ngợi tài năng của người lái
đò đầy điêu luyện, gọi ông lag “tay lái ra hoa”, người đã từng vượt
qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải
nước”. Những dòng văn của Nguyễn Tuân đã khắc họa thật sinh
động hình ảnh của một con người yêu lao động, yêu nghề sông
nước, từng trải và đầy kinh nghiệm. Hơn thế, vẻ đẹp nghệ sĩ của
ông lái đò không chỉ dừng ở một người lái đò thông thường mà là
một nghệ sĩ của nghệ thuật sông nước, như một nhạc trưởng tài ba
chỉ đạo cả dàn nhạc trên con thuyền để vượt qua bản trường ca
mang tên “sông Đà”.
- Nguyễn Minh Châu đã từng nói: “Nhà văn phải là người đi tìm
những hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con người”. Nguyễn Tuân là
nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp. cũng vì thế mà nhà văn luôn tìm
những hạt ngọc nơi những con người lao động nhỏ bé. Người lái
đò chính là minh chứng cho phong cách nghệ thuật của nhà văn:
luôn nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Qua ngòi bút
của Nguyễn Tuân, ông lái đò hiện lên là người tài trí, dũng cảm,
phi thường. Có lẽ bao tình cảm với sông Đà đều được nhà văn gửi
gắm ở người lái đò, nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó máu
thịt với sông Đà, hiểu và yêu dòng sông đến mức thuộc lòng từng
tên thác, tên ghềnh. Ông thuộc cả từng: “dấu chấm than, dấu câu
và cả những đoạn xuống dòng”, ông nắm rõ “binh pháp của thần
sông thần đá”, thuộc luôn cả “quy luật phục kích của lũ đá nơi ải
nước”. Như một vị tướng lĩnh tài ba vận dụng binh pháp “biết địch
biết ta, trăm trận trăm thắng”, chính vì thế mà ông dễ dàng khuất
phục, chế ngự sự hung bạo của con sông Đà. Ông chỉ là một người
lao động bình thường nhưng bằng trí dũng song toàn, ông đã đánh
thắng thiên nhiên để tồn tại. Trong cuộc chiến không cân sức, ông
lái đò như người hùng cưỡi chiến mã, tay cầm gươm vượt qua kẻ
địch.
- Con sông Đà dữ dội, nó chia thành mấy đợt đánh, ở trùng vi thứ
nhất, nó mở ra bốn cửa tử, cửa sinh thì nằm “lập lờ phía tả ngạn”,
sóng nước ở đây đóng vai trò tiêu diệt tất cả những chiếc thuyền đi
qua. Vừa vào thạch trận thì “mặt nước hò la vang dậy”, “ùa vào mà
vẻ gãy cán chèo võ khí” , luồng sóng hung tợn như thể “quân liều
mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông
thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên.” Lúc này ông lái đò nằm
trong tự thế bị động nhưng vẫn cố gắng giữ bình tình, “bám chắc
màu chèo” để khỏi bị hất lên khỏi sóng. Ngay cả lúc bị trúng đòn
hiểm, đau đớn đến mức “mặt méo bệch đi”, nhưng ông vẫn nén
nhịn đau, “hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái” để đưa còn thuyền
vào cửa sinh. Đối với người lái đò, con thuyền là chiến mã, mái
chèo chính là thanh gươm, hình ảnh ông lái đò hiện lên như người
chiến sĩ khí phách hiên ngang, dũng cảm giữa sóng nước dữ tợn.
- Phá xong trùng vi thạch trận thứ nhất, ông lái đò không một phút
nghỉ tay nghỉ mắt mà phải tiếp tục phá vòng vây thứ hai. Đợt hai
“tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại bố trí lệch qua bờ hữu ngạn”
dòng sông thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật. Tại trận
chiến định giáp lá cà này, chúng quyết sinh tử với ông lái đò:
“dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp
quật vu hồi chiếc thuyền”. Không còn là tư thế của “đô vật” nữa
mà nó là tư thế của hùm beo vồ con mồi, tư thế hiểm độc nhất của
thú dữ. Khi bọn đá định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử thì ông
lái đò đã “nhớ mặt bọn này”, không một chút nghỉ tay nghỉ mắt,
ông lái đò nhanh chóng “rảo bơi chèo lên”, “đè sấn lên lên chặt đôi
ra để mở đường tiến”, bọn thủy quân đã bị “bỏ hết lại sau thuyền”.
- Ông đò “nắm chặt lấy cái bờm sóng”, “ghì cương lái bám chắc lấy
luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một
đường chéo về phía cửa đá ấy”. Ông đò đã chuyển tư thế bị động
sang chủ động. Nếu con sông “hùm beo” thì ông lái đò lại có tư thế
của ‚Võ Tòng đả hổ: “cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng
như là cưỡi hổ”. Người lái đò hữu đột tả xung khiến cho con sông
hung hăng phải trở nên thất thế.
- Đợt ba nó chỉ có cửa sinh nằm “ở ngay giữa những bọn đá hậu vệ
của con thác”, hai bên “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”.
Nhưng với con mắt tinh tế, ông linh hoạt trong từng đợt đánh. Ông
lão đã “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vụt
qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong lại
cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua
hơi nước, vừa xuyên, vừa tự động lái được”. Dưới bàn tay chèo lái
điêu luyện của ông, con thuyền như hóa thành con tuấn mã hiểu ý
chủ, biết phối hợp với ông đò né tránh luồng sóng nước dữ dội.
Con thuyền như đang bay trong không gian. Hơn nữa, Nguyễn
Tuân đã đưa ra một phép so sánh độc đáo và chính xác, gây được
nhiều ấn tượng trong lòng độc giả đó là hình ảnh người lái đò và
người lái xe đang lao xuống dốc đèo. Người lái xe khi nguy nan
vẫn còn chỗ để bám víu, đó là phanh tay, có thể tiến, có thể lùi.
Nhưng người lái đò bây giờ thì không còn đường lui: “cái thuyền
mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ
không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay
ngang mà úp xuống chứ không có lùi gì cả”. Ông lái đò như một
chiến tướng phát huy trọn vẹn, đầy đủ tài trí sự linh hoạt ứng biến
của mình. Chính sự kiên cường, dũng cảm, sự am hiểu tường tận
về dòng sông Đà đã mang lại chiến thắng vẻ vang cho ông lái đò.
- Nếu như trong cuộc chiến họ là những người anh hùng với sức
mạnh phi thường thì sau chiến thắng ấy, họ lại cho thấy vẻ đẹp ở
bề sâu tâm hồn, nhân cách: “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng
chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ
tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng
nhớ…” Đó chính là tài hoa của những người lái đò. Nét tài hoa
được thể hiện ở những cảnh vượt thác, ông băng băng trên sông Đà
một cách đầy ung dung, bình tĩnh, thể hiện phong thái nghệ sĩ “tay
lái ra hoa” ở trùng vi thạch trận. Đó là trình độ nhuần nhuyễn, điêu
luyện của một tay lành nghề. Cách ông nhìn nhận về công việc của
mình cũng bình thản đến lạ. Song đối với ông và những người lái
đò khác đều coi đây là một chiến công bình thường. Nhưng chính
sự bình thường ấy đã tạo nên sự phi thường ở tâm hồn họ, làm cho
nhân cách của họ càng trở nên đáng trân trọng và cao quý. Ghềnh
thác đối với họ là bạn cũng là thử thách phải vượt qua. Cũng vì vậy
mà khi đối mặt với con sông hung bạo, “thứ kẻ thù số một” ấy, ông
không hề sợ hãi mà luôn bình tĩnh, chủ động trong mọi tình huống
để chỉ huy con thuyền vượt qua thác dữ.
- Những biện pháp ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả vận dụng
sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Lối ngắt nhịp
gãy vụn diễn tả tình thế gay go, quyết liệt và khẩn trương. Nguyễn
Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ hùng hậu, đa dạng, câu
chữ tuôn chảy ào ạt, trùng trùng điệp điệp tạo ra một bức tranh về
trận chiến hoành tráng. Kết hợp với phong cách sử dụng nhiều loại
hình nghệ thuật, trong đoạn này Nguyễn Tuân đã cho ta thấy cách
viết của ông như kịch bản của một bộ phim, và qua bàn tay người
đạo diễn, nó tạo ra sự sống động, hồi hộp đến từng phút giây. Qua
đó làm nổi bật lên hình ảnh người lao động anh hùng hằng ngày
chiến đấu, vật lộn với sức mạnh của thiên nhiên. Chính vẻ hung
bạo của dòng sông đã làm bừng sáng lên vẻ đẹp và sức mạnh trí
dũng của con người lao động.
- Trong tâm thức của người đọc, ông lái đò hiện lên với hình ảnh của
một con người cưỡi sóng, đạp gió, là vẻ đẹp của người anh hùng
lao động giữa cuộc sống đời thường. Ông lái đò được tác giả miêu
tả bằng những cảm nhận phong phú từ các giác quan, cảm hứng
của người nghệ sĩ và bằng kho từ ngữ phong phú, giàu giá trị tạo
hình. Qua những miêu tả tài tình, Nguyễn Tuân đã thể hiện phẩm
chất tốt đẹp của người lao động, điều mà trước kia qua những trang
viết ông chưa từng nói tới. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào
hùng, hình ảnh bừng sáng: ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị
danh tướng, trí dũng song toàn, quyết liệt và quyết đoán mà cũng
uyển chuyển linh hoạt trong cách xử lý tình huống đột ngột, bất
ngờ. Trong hoàn cảnh ấy, nói như nhà| văn Balzac: “Bản chất của
con người thường bị bánh xe của số phận che đậy, và khi lao vào
bão tố, dù tốt hay xấu, tự nó bộc lộ”. Ở ông lái đò, người đọc có
thể dễ dàng thấy rằng đó thực sự là một người đầy kinh nghiệm, có
bản lĩnh phi thường, gan dạ, vô cùng mưu trí, nhanh nhẹn và rất
quyết đoán dù đã ở tuổi gần đất xa trời. Đối với ông đò, hiểm nguy
trên dòng sông cũng chính là một phần trong cuộc sống thường
nhật của ông, được ông chấp nhận như một điều tất yếu. Hơn nữa,
miêu tả ông lái đò, Nguyễn Tuân cũng muốn đưa ra một triết lý:
“Giữa thế giới tàn độc, dữ dội và nham hiểm, thế giới man dại đầy
những cạm bẫy, con người vẫn dũng cảm, vẫn đủ kinh nghiệm tìm
lại luồng sinh bằng sự trải nghiệm và trí tuệ tuyệt vời của mình”.
Cái phẩm chất trí tuệ ấy chắc chắn đã vượt qua giới hạn của một
con người. Nó là kinh nghiệm của bao đời, bao người vượt thác
trên sông gom lại. Đó là trí tuệ của biển lớn nhân dân hợp lại trong
ông. Tôn ông lên thành con người ưu tú của dân tộc, một con
người có tầm trí tuệ và sức mạnh phi thường. Đó là con người của
thời đại mới, thế hệ con người gánh vác cho đất nước những sứ
mệnh lớn lao vô cùng.
- Nguyễn Tuân đã khắc họa bức chân dung của con người lao động
mới vừa hiên ngang, khí phách, oai phong, hùng dũng vừa điêu
luyện trong cuộc đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên để giành lấy
sự sống. Nguyễn Tuân đặc biệt ca ngợi những chiến tích trong lao
động, ông cho rằng “đồng tiền tụ máu cũng là hình ảnh quý giá của
một thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đò
Sông Đà”. Đây là cách so sánh thể hiện tình cảm yêu quý và lòng
tôn trọng của tác giả đối với ông đò. Người lái đò trong tác phẩm
thực sự trở thành hình tượng chân thật và sống động, là sự ký thác
ý tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân. Hình tượng ông lái đò đẹp một
cách kiêu hãnh trong mối tương quan đồng hiện với ‚nhân vật‛
sông Đà dữ dội mà kì vĩ. Thông qua hành trình vượt thác của ông
lái đò, nhà văn như muốn cùng chúng ta nghiền ngẫm một triết lý:
Giữa cái thế giới của độc dữ và nham hiểm, cái thế giới đầy sức
mạnh man dại và lập lờ cạm bẫy, con người vẫn có đủ khả năng
chế ngự để sinh tồn.
- Ẩn hiện ở ông đò là vẻ đẹp của người lao động mang sắc thái của
người nông dân Việt Nam cần cù, chăm chỉ, đó chính là “thứ vàng
mười” được phát hiện qua con mắt tinh tế của Nguyễn Tuân như
một phát hiện mới mẻ mà các nhà văn đã bỏ qua. Có thể thấy,
người lái đò mang vẻ đẹp của những người lao động thời kỳ hiện
đại: giản dị, khiêm nhường nhưng lại vô cùng khỏe khoắn, hùng
tráng, tài trí. Đây chính là những con người lao động làm chủ được
thiên nhiên, làm chủ cuộc đời và công việc của mình. Có thể nói,
thể hiện những vẻ đẹp của ông lái đò chính là một sự tinh tế và sắc
sảo trong ngòi bút của Nguyễn Tuân khi để cập đến chất vàng
mười trong “Người lái đò Sông Đà”. Qua hình tượng ông lái đò,
Nguyễn Tuân đưa ra một cái nhìn mới về chủ nghĩa anh hùng. Nó
không chỉ có ở nơi chiến trường, trong chiến tranh gian khổ, ác liệt
mà nó ở ngay trong cuộc sống hàng ngày.
- Viết về người lái đò sông Đà, ngòi bút Nguyễn Tuân tràn đầy cảm
hứng lãng mạn. Cảm hứng ấy thấm sâu và lan tỏa trong những câu
văn viết về đời thực, viết về con người thực. Đặc biệt, khi viết về
người lái đò, tác giả đã tạo nên một khúc ca tươi đẹp, hào sảng khi
viết về con người lao động. Ở Nguyễn Tuân, không chỉ có những
người làm nghệ sĩ như ông thì mới được gọi là nghệ sĩ, những
người với công việc thường ngày, họ làm hết mình với công việc
của mình thì họ cũng là nghệ sĩ chân chính. Ông lái đò với nghệ
thuật chèo đò vượt thác của mình, ông trở thành một “tay lái ra
hoa”. Ông đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, phong
thái ung dung của người nghệ sĩ; ông chỉ huy cuộc vượt thác một
cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn thử thách đó bằng cái nhìn
giản dị mà cũng rất đỗi lãng mạn. Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông
lái đò gắn với sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày
dạn kinh nghiệm thủy chiến. Và đồng thời, song hành với bản lĩnh
chiến đấu, tinh thần dũng cảm phi thường, người đọc cảm nhận rõ
nét hình ảnh người lái đò lúc nào cũng ngạo nghễ vươn lên trên cái
nền thiên nhiên hung dữ ghê rợn. Thiên nhiên hiểm ác cố nhấn
chìm số phận con người, đẩy họ vào chỗ chết, nhưng con người
luôn quật cường và chiến thắng không chỉ bằng cơ bắp mà bằng cả
trí tuệ, bằng tình yêu công việc.
- Thật tinh tế, Nguyễn Tuân đã tạo được một cái nền nghệ thuật phù
hợp để tôn vinh nhân vật của mình. Trận thủy chiến dữ dội như
vậy, khó khăn như vậy, thế nhưng bằng tài năng, sự trí dũng của
mình, ông đò đã vượt qua tất cả để trở về với cuộc sống thanh
bình. Sau cuộc vượt thác, mọi nguy hiểm như tan biến "sóng nước
xèo xèo tan trong trí nhớ". Họ lại đốt lửa nướng ống cơm lam bản
chuyện của anh vũ, cả rồng xanh như không có gì xảy ra. Giọng
văn thanh thoát, nhẹ nhàng càng thấm thía hơn vẻ đẹp của những
người lái đò sông Đà. Họ anh hùng biết bao trong lao động, nhưng
cũng thật khiêm nhường, bình dị biết bao trong cuộc sống đời
thường. Chất trữ tình bên ngọn lửa và cả những câu chuyện đời
thường ở quá khứ, ở phía trước nhưng tuyệt nhiên không có hồi ức
về nguy hiểm mà tất cả đều lãng mạn, ngọt ngào. Điều ấy như một
thứ khí chất, một tính cách cấu th|nh con người ông lái đò. Nó khác
biệt với người bình thường ở chỗ mỗi khi đối mặt với nguy hiểm
vẫn luôn toan tính, lo âu, khi vượt qua rồi vẫn cảm thấy bất an, hồi
hộp mỗi khi nhớ về. Đó là cái khí chất nghệ sĩ ở mỗi con người
bình thường luôn ung dung thanh thản sau những thác lũ cuộc đời.
Cái phi thường trở thành cái bình thường, chất chiến sĩ hòa quyện
với phong thái tài tử nghệ sĩ. Từ đó mà tôn cao thêm tầm vóc của
người lao động. Nguyễn Tuân đem đến cho người đọc cảm nhận về
vẻ đẹp giản dị nơi đầu sóng ngọn gió, một cái nhìn toàn diện về
người lao động: lạc quan, kiên cường, dũng cảm mà cũng không
kém phần tài hoa.

You might also like