You are on page 1of 74

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Học Văn Chị Hiên

NỘI DUNG BUỔI 3 + 4

Người lái đò sông Đà


Nguyễn Tuân

I. Khái quát về tác giả


Nguyễn Tuân: ( 1910 – 1987) quê ở Hà Nội
- Sinh ra trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã suy tàn.
- Tính cách: Nguyễn Tuân yêu Việt Nam với những giá trị văn hóa cổ truyền của
dân tộc. Ông yêu tha thiết Tiếng Việt, những kiệt tác văn chương của Nguyễn
Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà..., những nhạc điệu của các lối hát ca
trù dân dã mà thiết tha, những nét đẹp rất riêng của Việt Nam.
- Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết để
khẳng định cá tính độc đáo của mình, tự gán cho mình một chứng bệnh gọi là
"Chủ nghĩa xê dịch". Lối sống tự do phóng túng của ông không phù hợp với chế
độ thuộc địa (hai lần bị tù).
- Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Đối
với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí "khổ hạnh"
và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỷ của mình để chứng minh
cho quan niệm ấy.
- Phong cách nghệ thuật:
+ Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể
thâu tóm trong một chữ "ngông”. Ông đi tìm cái đẹp của thời xưa còn
vương sót lại và ông gọi là Vang bóng một thời.
+ Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi
quan trọng. Ông vẫn tiếp cận thế giới, con người thiên về phương diện
văn hóa nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây ông còn tìm thấy chất tài hoa
nghệ sĩ ở cả nhân dân đại chúng. Còn giọng khinh bạc thì chủ yếu chỉ là
để ném vào kẻ thù của dân tộc hay những mặt tiêu cực của xã hội.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

+ Tài hoa và uyên bác: Ông thể hiện sự tài hoa trong việc dựng người,
dựng cảnh, tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật, trong những
so sánh, liên tưởng táo bạo, bất ngờ với những hình ảnh đẹp đầy gợi cảm;
uyên bác trong việc vận dụng những kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau để làm phong phú và giàu có thêm khả năng diễn tả của nghệ thuật
văn chương.
Những nhận định hay về tác giả, tác phẩm

1. Có ý kiến cho rằng, Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa về người sĩ. Đối
với ông, văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là
nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Nhưng Nguyễn
Tuân, xét từ bản chất, không phải là người theo chủ nghĩa hình thức. Tài phải đi
đôi với tâm. Ấy là "thiên lương" trong sạch, là lòng yêu nước thiết tha, là nhân
cách cứng cỏi trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục.

2. Người đọc mến Nguyễn Tuân về tài, nhưng còn trọng ông về nhân cách
ấy nữa. Văn Nguyễn Tuân, tuy thế, không phải ai cũng ưa thích. Vả lại một số
bài viết của ông cũng có nhược điểm: mạch văn quá phóng túng theo lối tùy
hứng, khó theo dõi; nhiều đoạn tham phô bày kiến thức và tư liệu khiến người
đọc cảm thấy nặng nề...

3. “… Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một


tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ… Khi gân
guốc, khi mềm mại, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên như
một đứa trẻ thơ, những trang viết, những câu văn của Nguyễn Tuân mang hơi
thở ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dạng. Sự tự ý thức sâu sắc về
tài năng của mình không phải là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự
giải phóng năng lượng rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác
phẩm kì vĩ…”. (Phan Huy Đông, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng).
4. “… Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên
nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có
tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau
như tác giả nói- “hung bạo và trữ tình…” (GS. Nguyễn Đăng Mạnh)
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

5. “… Nguyễn Tuân- một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm
xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm…”. (GS. Nguyễn Đăng Mạnh)

II. Về tác phẩm


a. Hoàn cảnh sáng tác
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), gồm 15
bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng
CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong
kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với
nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực
tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng
tạo. Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn
Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ
vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”

Từ khóa ghi nhớ Sông Đà – 1960 – Chuyến đi thực tế 1958 – Phong cảnh thiên
nhiên tuyệt mỹ - “Chất vàng mười trong tâm hồn con người”

b. Những vấn đề cần lưu ý


1. Hình tượng dòng sông Đà với 2 nét tính cách đối lập: Hung bạo – Trữ tình
2. Hình tượng người lái đò sông Đà với 2 vẻ đẹp: Trí dũng – tài hoa
III. Hướng dẫn giải quyết các vấn đề cần lưu ý trong tác phẩm
Gợi ý cách mở bài
MB1: Nhận xét về Nguyễn Tuân, có ai đó đã từng tinh tế cho rằng: “Nguyễn Tuân là
một định nghĩa đầy đủ nhất về người nghệ sĩ”. Ông là nhà văn của những cảm giác
mạnh, nhà văn của núi cao, vực sâu, thác dữ, của những phong cảnh tuyệt mỹ, nhà văn
có 1 phong cách nghệ thuật độc đáo. Trong suốt quá trình sáng tác của mình, Nguyễn
Tuân đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam rất nhiều những tác phẩm có giá trị, một
trong số đó, không thể không kể tới tùy bút: “Người lái đò sông Đà”. Hình ảnh hiện lên
trong tùy bút này để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc chính là vẻ đẹp con
sông Đà – một vẻ đẹp vừa hung bạo, vừa trữ tình.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

MB2: Có những dòng sông không biết tự bao giờ đã trở thành nhịp bắt nguồn cho những
rung cảm trong tâm hồn người nghệ sĩ. Tôi cũng nhớ về những dòng sông trong văn học
theo cách của riêng mình. Là con sông quê hương trong thơ của Tế Hanh những trưa hè
oi ả, là con sông anh hùng trong thơ Hoàng Cầm sau mỗi lần lãng đãng về xứ Kinh Bắc
mộng mơ, là con sông Vàm cả tha thiết chở phù sa những tháng ngày bão lũ,… và là
hình ảnh của dòng sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình trong tùy bút “Người lái đò sông
Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân. Khi đi tìm hiểu về vẻ đẹp của dòng sông này, tôi đã
thấy những khám phá thật độc đáo trong văn phong của người nghệ sĩ uyên bác Nguyễn
Tuân.

Vấn đề 1: Phân tích hình tượng dòng sông Đà

Vấn đề 1 Nội dung cần có:

Luận điểm 1: Giới thiệu về HCST, XX, MĐST


Luận điểm 2: Vẻ đẹp của dòng sông Đà
· Khái quát về hình tượng sông Đà
· Vẻ đẹp dòng sông Đà thể hiện qua 2 nét tính cách
>> Hung bạo: Đá 2 bên bờ sông, những cái hút nước, quãng
mặt ghềnh Hát Loóng, thác nước, thạch thủy trận
>> Trữ tình: Áng tóc trữ tình, cố nhân, bờ tiền sử

Cảm hứng chủ đạo:

“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông

Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”

Có thể thấy, ngay từ lời đề từ đã bộc lộ cảm hứng sáng tạo của tác phẩm và Nguyễn
Tuân muốn truyền tải qua tùy bút của mình. Cội nguồn sáng tác của tác phẩm bắt nguồn
từ cảm hứng ngợi ca, yêu mến quê hương đất nước và yêu mến những vẻ đẹp tìm thấy
trong cuộc sống: Vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của con người. Đó là hình ảnh của con
sông Đà hung bạo và trữ tình, hình ảnh người lái đò như một người nghệ sĩ trí dũng, tài
hoa. Tác phẩm này, cũng ghi dấu ấn trong lòng đọc giả về Nguyễn Tuân – người nghệ
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

sĩ với phong cách nghệ thuật vô cùng độc đáo. Ông tìm đến sông Đà – dòng sông duy
nhất chảy về hướng đông – giống như việc tìm đến chính bản ngã của bản thân mình –
một phong cách nghệ thuật độc đáo.

· Khái quát về hình tượng sông Đà


Nguyễn Tuân tài tình lắm, tài tình nhất là trong việc lựa chọn những nhân vật chính
trong tác phẩm của mình. Tôi còn nhớ Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” được miêu tả
một cách “hào sảng” khi nói về tài năng, sức vóc, khi miêu tả cảnh tưởng viết chữ nơi
ngục tù,.. tôi vẫn còn nhớ hình ảnh ông Lý Văn trong truyện Ném bút chì, với sức ngang
tàng của cái “bút chì” ấy có thể lụy cả một cành tre, cho đến cái nghệ thuật cầu kỵ trong
việc lồng ghép cả một tích truyện vào trong chiếc đèn xẻ rãnh của ông Cử Hai làm cho
cậu con Ngộ Lang. Những cái nghệ thuật cầu kỳ phức tạp nhưng đầy ý nghĩa đó chẳng
thể nào bắt gặp được nữa ở giữa xã hội hiện đại bây giờ… Và cách lựa chọn nhân vật
của Nguyễn Tuân, vẫn luôn cầu kỳ như vậy. Nguyễn Tuân tìm đến với nhân vật “sông
Đà” cũng là thêm một lần nữa tìm về cái đẹp, thêm một lần nữa ghi dấu ấn bản ngã của
chính bản thân mình lên những trang văn.
Trong những trang văn của Nguyễn Tuân, sông Đà hàm chứa trong đó hai vẻ đẹp thoạt
nghe tưởng chừng đối lập: hung bạo và trữ tình. Đó là 2 vẻ đẹp được phác họa ra từ cái
nhìn chủ quan của tác giả và vẻ đẹp khách quan của dòng sông. Dưới quyền năng ngôn
từ của Nguyễn Tuân, nhân vật sông Đà được hiện lên với hai vẻ đẹp – 2 nét tính cách
đối lập: hung bạo và trữ tình. Lúc hung bạo, con sông giống như một con quái thú gầm
gào, điên cuồng chỉ trực muốn nuốt những ai ngang qua khúc sông này; khi trữ tình,
dòng sông lại trở về với vẻ hiền hòa, sóng sánh chất thơ và bất chợt trở nên thân thiết
với con người giống như một “cố nhân”.
Nguyễn Quang Bích đã từng có một phát hiện thú vị về sông Đà, được thể hiện qua 2
câu: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu” được hiểu là mọi dòng sông
đều chảy về hướng Đông, duy chỉ có sông Đà là chảy về hướng Bắc. Có thể thấy rằng,
ngay từ việc lựa chọn cho nhân vật của mình, Nguyễn Tuân cũng đã bộc lộ được “tạng
văn, tạng người” của mình. Được đánh giá là một nhà văn của chủ nghĩa “xê dịch”,
Nguyễn Tuân gắn cuộc đời của mình với chiếc vali, với những chuyến đi để tìm kiếm
cái đẹp, ghi lại những điều đó trong trang văn của mình. Lần này, Nguyễn Tuân kéo
vali ngược đường lên Tây Bắc, để tìm kiếm những vẻ đẹp của sông Đà, điều này thật
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

hợp lý khi sau này nhận định về Nguyễn, đã có rất nhiều những nhà phê bình nói ông
là nhà văn của những cảm giác mạnh, của núi cao, vực sâu, của những phong cảnh tuyệt
mỹ và việc tìm đến, viết về dòng sông này thực sự là một cách giải thích hợp lý cho
cảm hứng sáng tạo của Nguyễn Tuân.
Cá tính độc đáo của sông Đà, sự khác biệt của dòng sông này chính là điều thu hút, thôi
thúc Nguyễn Tuân phải lên đường, phải viết. Để rồi lời đề từ Nguyễn Tuân chọn cho
tác phẩm của mình đó là: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”. Một cảm hứng ngợi
ca, tự hào về vẻ đẹp non sông đất nước đã được thể hiện ngay từ “lối đi vào” của tùy
bút đặc sắc này.
· Lai lịch của dòng sông Đà
Nguyễn Tuân là vậy, đã tìm đến cái đẹp, nhất định phải tìm đến cùng. Đó là lý do tại
sao Nguyễn không quản ngại đường xá xa xôi, núi thác hiểm trở, tìm đến nơi tận cùng
khởi nguồn của dòng sông này. Nhà văn đưa người đọc trở về những lai lịch của con
sông Đà. Sông Đà khai sinh ở huyện Cảnh Đông tỉnh Vân Nam- Trung Quốc lấy tên là
Ly Tiên, khi đi qua 1 vùng núi Ác đến nửa đường thì xin nhập quốc tịch Việt Nam,
trưởng thành mãi lên đến ngã ba Trung Hà thì nhập vào với sông Hồng. Có thể thấy
rằng, không phải là một nhà địa lý học, nhưng tất cả những kiến thức Nguyễn Tuân đem
đến cho ta qua những trang văn của mình đều là những kiến thức bổ ích và có giá trị
nghiên cứu cao. Nguyễn Tuân bây giờ, không coi sông Đà là một sinh thể vô tri nữa,
đối với ông, đây là một nhân vật, một con người, một tâm hồn mà ông khao khát được
khám phá.
· Tính cách hùng vĩ, hung bạo của sông Đà
a. Sự hùng vĩ hung bạo qua diện mạo

§ Hùng vĩ thể hiện ở những quãng sông hẹp

Nhà văn Nguyễn Tuân đã dồn hết tâm ý để xây dựng hình tượng sông Đà. Bằng những
trang viết sinh động, vốn kiến thức liên ngành, đa ngành Nguyễn Tuân đã làm nổi bật
sự hung bạo, dữ dằn của dòng sông. Với con mắt của nhà điêu khắc, Nguyễn Tuân đã
có những so sánh liên tưởng đầy mới lạ và bất ngờ. “ cảnh đá bờ sông dựng vách thành,
mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. “ Có vách đá thành chẹt lòng sông
như một cái yết hầu”. Có những quãng lòng sông hẹp tới mức con nay con hổ có thể
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia. Đá ở bờ sông đã chắn hết ánh nắng. chúng không
cho bất kì tia nắng nào rọi xuống mặt sông trừ lúc giữa trưa. Bởi thế quãng sông này
luôn âm u, lạnh lẽo đến rợn người. Sự hiểm trở của sông Đà còn thể hiện ở chỗ vách đá
thành” chẹt lòng… yết hầu” so sánh với một bộ phận nhỏ hẹp ở con người, Nguyễn
Tuân đã diễn tả thật hình ảnh sự nhỏ hẹp của dòng sông để tô đậm hơn cảm giác ấy, nhà
văn nhấn mạnh bằng những liên tưởng và cảm giác “ Đứng… tắt phụt đèn điện”. Những
so sánh liên tưởng của tác giả vừa chính xác tinh tế, bất ngờ và lã lẫm. Từ kho ấn tượng
của mình, nhà văn sáng tạo ra những hình ảnh gây chấn động trước tưởng tượng và cảm
xúc mỗi người đọc.

§ Hùng vĩ ở những ghềnh và thác

Con sông Đà có tất cả 73 con thác trải dài từ biên giới Việt – Trung về tới thác bờ thác
ở đây dữ dội tạo thành những mặt ghềnh của sóng

+ Đặc tả mặt ghềnh Hát Loóng

Sông Đà nơi ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng muốn đòi nợ xuýt bất cứ con
thuyền nào tóm được qua đây”. Những âm thanh của gió của nước và gió đã tạo thành
một bản hợp xướng hùng vĩ đang đang ầm ập, đổ sập lao tới. Câu chữ của Nguyễn Tuân
dường như cũng xô đuổi nhau trong cái âm hưởng cuồn cuộn gùn ghè của nước sông
Đà. Đặc điểm ấy của khúc sông khiến nó giống như một kẻ lưu manh lúc nào cũng thích
gây gổ, lúc nào cũng muốn đòi nợ xuýt người lái đò. Ở chi tiết này, thủ pháp điệp từ,
điệp ngữ, điệp chữ: “ nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió.” Những thanh trắc được gieo
liên tiếp tạo âm hưởng dữ dội với nhịp điệu khẩn trương, dồn dập hư vừa xô, vừa đẩy,
vừa hợp sức với gió, với sóng, với đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên giữa dòng.
Câu văn đang đi bằng những nhịp ngắn bỗng duỗi dài ra theo lối tăng tiếng khiến cho
những ảnh hưởng của sóng, của gió càng trở nên mãnh liệt. Hình thái của dòng sông
được hà văn nén lại trong 1 thứ văn cheo leo, gây chấn động mạnh vào thần kinh cảm
thụ nghệ thuật của người đọc.

+ Đặc tả thác nước


Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

Hung bạo của sông Đà còn được thể hiện qua tiếng thác nước dữ dội. Thác ở đây từ rất
xa đã nghe thấy âm thanh hãi hùng ghê rợn của nước. Âm thanh ấy khi thì như là “oán
trách gì” rồi lại như là “ van xin”, rồi lại như là khiêu khích, giọng “gằn và chế nhạo”.
Một câu văn ngắn mà đủ các cung bậc âm thanh của tiếng thác vừa thể hiện vốn từ
phong phú vùa thể hiện trình độ thẩm âm tinh tế của tác giả. Không chỉ như vậy âm
thanh của thác nước còn được so sánh âm thanh “rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng
lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Nhà văn đã sử dụng ngôn từ để tái
hiện âm thanh, những giai âm của bản nhạc giao hưởng hùng tráng, của sóng, cử gió,
của thác đá. Khúc dạo đầu nỉ non, thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các
nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc tự nhiên đang ở đỉnh điểm phấn khích, man dại.
Trong đó, âm vang cuồng loạn của núi rừng làm thanh viện cho con thác giận dữ, ầm
ầm va đập vào bờ đá: “thế rồi nó rống lên như tiếng 1000 con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu, rừng tre, nứa nổ lửa, đang phá tường rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét
với đàn trâu da cháy bùng bùng”... Dám lấy lửa để tả cái vốn đối lập với lửa – dòng
nước; dám lấy rừng để tả sông, có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân mới ngông ngạo vậy thôi!

Tiếng thác nước như được phóng to lên hết kích cỡ giống như bản nhạc của thiên nhiên
mà các nhạc khí đều bừng bừng ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man
dại. Những âm thanh cuồng loạn như thanh viện hỗ trợ làm cho sự giận dữ của nước
sông như tăng lên gấp bội. Chúng va đập vào vách đá tạo nên một sức mạnh hoang dại
ghê gớm khủng khiếp, sức mạnh hoang dại ấy của Sông Đà mang đến cho người đọc
cảm giác sợ hãi như phải chứng kiến trận động đất chấn động khiến núi lửa phun trào
hay một cơn đại hồng thủy với sóng thần cao ngất. Bằng biện pháp nghệ thuật so sánh
liên tưởng tài hoa độc đáo và cách dùng động từ mạnh nhà văn Nguyễn Tuân đã làm
nổi bật lên chân dung của con sông Đà hung hãn quái dị và đáng sợ.

+ Hung bạo nhất là ở những cái hút nước chết người.

Ấn tượng về sự sợ hãi và chết chóc được tạo ra rất rõ ở đoạn văn nói về những cái hút
nước. Về hình thù nó giống như cái giếng bê tông thả xuống để chuẩn bị làm móng câu.
Về âm thanh nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, nó kêu ặc ặc như tiếng rót
dầu sôi. Với cách dùng từ tượng thanh “ ặc ặc”, nhà văn Nguyễn Tuân đã khiến người
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

đọc như được nghe thấy âm thanh của một con thủy quái khổng lồ đang bị bóp cổ. Điều
đó đã khiến chúng ta sởn gai ốc khi nghe cái âm thanh quái lạ của cái hút nước này. Sự
chết chóc hiện ra khi nhà văn so sánh “ trên mặt cái hút xoáy tít đáy cũng đang quay lừ
lừ những cánh quạ đàn”, rồi tường thuật “ có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống,
thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông
đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Thay vì kể lại nỗi sợ hãi,
Nguyễn Tuân đã bắt người đọc phải chiêm nghiệm tự mình phải trải qua nỗi sợ hãi khi
nhà văn nhấn mạnh cái dữ dội ấy qua góc nhìn điện ảnh. Ông hình dung có một nhà
quay phim nào đó dũng cảm dám ngồi trên chiếc thuyền thúng cùng với máy quay, để
cái hút nó hút cả thuyền, cả người và máy quay xuống tít đáy thế rồi quay ngược ống
kính lên thu ảnh. Cái thước phim màu quay tít ấy đã truyền cảm giác sợ hãi đặc biệt cho
người đọc. Nó giống như chúng ta đang sợ hãi ghì chặt lấy mép ghế khi phải ngồi xem
cái cảnh tượng hãi hùng của một thước phim 3D. Với phong cách viết tài hoa kết hợp
với vốn kiến thức uyên bác Nguyễn Tuân đã tạo ấn tượng mạnh mẽ mạnh vào giác
quan người đọc một hình ảnh dữ dội đến khủng khiếp khi miêu tả những hút nước của
sông Đà.

b. Sự hùng vĩ hung bạo qua tâm địa

Điều đó thể hiện qua những trùng vi thạch trận dưới lòng sông. Đá Sông Đà là một đạo
quân thiện chiến được tương trợ bởi những boongke chìm những pháo đài nổi. Với
những thạch trận nham hiểm và dữ dội, Sông Đà đã quyết tiêu diệt hết thảy các thủy thủ
và thuyền trưởng trên sông. Những trùng vi thạch trận trên Sông Đà như những trận đồ
bát quái với nhiều cửa tử mà chỉ có duy nhất một cửa sinh. Vòng đầu nó bày ra năm cửa
trận trong đó có tới 4 cửa tử mà chỉ có một cửa sinh duy nhất, cái cửa sinh nằm lập lờ
nơi phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai nó lại tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con
thuyền, cửa sinh chúng chuyển mãi qua phía bờ hữu ngạn. Vòng thứ ba thì cả hai bên
gần tả hữu bờ sông đều là luồng chết, cửa sinh duy nhất nằm ở giữa hòn đá hậu vệ của
con thác.

Mỗi hòn đá trên Sông Đà đều thiện chiến liều mạng và có nhiệm vụ riêng. Chúng chia
ra làm hàng tiền vệ và hậu vệ, chúng dàn hàng ngang để chặn đánh và đòi ăn chết con
thuyền muốn vượt. Đá ở đây hàng ngàn năm vẫn mai phục kiên nhẫn và bền bỉ dưới
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

lòng sông. Cứ thấy con thuyền nào đi qua là như một đám lưu manh ngỗ ngược và hung
hãn, những hòn đá lại giáng tai họa cho những con thuyền trên sông. Chúng nhất tề
nhổm cả dậy vồ lấy thuyền. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng như muốn khắc sâu cho người
đọc ấn tượng về những hòn đá sông Đà nên ông đã không chỉ thổi hồn mà còn tạo ra
diện mạo cho từng viên đá. Là đá mà mặt thằng nào cũng nhăn nhúm, méo mó, ngỗ
ngược. Với nghệ thuật nhân hóa, Nguyễn Tuân đã làm sống dậy một cách dữ dội hình
thù của những viên đá vô tri: “một hòn trông nghiêng thì y như đang hất hàm hỏi con
thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách
thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào.”

Sự kết hợp giữa những trùng vi thạch trận với sóng nước Sông Đà đã tạo nên chân dung
loài thủy quái khổng lồ hung hãn bạo ngược và vô cùng nham hiểm xảo quyệt. Nó như
một hung thần với một sức mạnh hủy diệt ghê gớm. Trong cuộc chiến với người lái đò,
Sông Đà đã giở ra đủ mọi mánh khóe mưu ma để đánh lừa con thuyền vào thế trận đã
bày sẵn hướng người lái đò vào những cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì nó đánh phục kích,
giữa lòng sông thì lại tỏ ra sơ hở để dụ con thuyền theo vào để rồi bất ngờ đánh khuýp
vu hồi, khi giáp lá cà thì nó giở mọi ngón đòn hiểm ác như đánh đòn âm, đòn tỉa, đá
trái, thúc gối vào bụng vào hông, tóm thắt lưng, bóp chặt bộ hạ… vừa đánh vừa hò la
vang trời để áp đảo tinh thần đối phương. Dưới con mắt nhìn của Nguyễn Tuân hầu như
tất cả những gì thuộc về sông Đà đều dữ dội. Gió thì gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng
muốn đòi nợ xuýt bất cứ con đò nào tóm được trên sông. Cát Sông Đà thì đục thủng gan
bàn chân lỗ rỗ như những vết hà, đục thủng đáy và mạn dưới con thuyền. Với lời văn
góc cạnh câu văn giàu tính tạo hình lại kết hợp với các động từ mạnh, lối ví von ẩn dụ
tượng trưng tác giả đã có những liên tưởng bất ngờ thú vị về sự khôn ngoan mưu trí
hiểm ác của con Sông Đà. Nó thực sự là một kẻ thù số một trong cuộc đấu trí, đấu lực
với con người.

Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, sự hùng vĩ của Đà giang đã hiện ra ở nhiều
dáng vẻ khác nhau, tất cả đều toát lên sự hoang dại, sức mạnh kỳ bí, một đối tượng ẩn
chứa bao sức mạnh lạ lùng của thiên nhiên. Con sông đôc, lạ đấy thích hợp với ngòi bút
độc lạ Nguyễn Tuân: “Sông Đà quay sóng và câu văn Nguyễn Tuân cũng dậy sóng”
(Phan Huy Dũng). Những dòng văn xuôi trúc trắc gập ghềnh như muốn chạy đua cùng
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

với sóng thác sông Đà, nhà văn đã cực tả sự hùng vĩ của dòng sông để tôn vinh, tô đậm
tầm vóc và giá trị của con người.
· Sông Đà thơ mộng, trữ tình

Con sông Đà hung bạo, dằn dữ, khắc nghiệt bao nhiêu thì càng thơ mộng. Duyên dáng,
trữ tình bấy nhiêu.
Bản tráng ca về Đà giang còn có những nốt nhạc trầm trong trẻo, ngọt ngào, lắng sâu.
Dường như có 1 sự chuyển mạch trong câu văn của Ng. Tuân, từ những dòng trúc trắc
chuyển sang những câu văn đẹp như những dòng thơ, vừa tạo hình, vừa biểu cảm thật
sự đã đem đến những khoái cảm thầm mới, lãnh mạnh cho người đọc. Ng. Tuân đã có
những phát hiện mới mẻ về sông Đà trong nguồn cảm hứng dạt dào, lai láng muốn để
thơ vào sông nước. Mạch ý chuyển đổi bằng 1 câu văn thật lạ: " Sóng thác xèo xèo tan
trong trí nhớ". Từ cảm giác hồi hộp gieo neo đến rùng rợn, người đọc lại được chiêm
ngưỡng dòng sông ở góc độ lãng mạn, trữ tình.

Dưới con mắt của Nguyễn Tuân dòng Sông Đà giống như một cô gái trẻ trong dáng vẻ
diễm lệ yêu kiều. Khi nhìn từ trên cao nhà văn Nguyễn Tuân cảm nhận “ Sông Đà tuôn
dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.Nhà
văn Nguyễn Tuân đã có cách dùng từ thật độc đáo:Từ “áng” vốn là từ thường được đi
liền với tác phẩm văn học lớn nhưng ở đây nhà văn lại dùng từ “áng” để miêu tả dòng
Sông Đà . Bằng cách này Nguyễn Tuân đã khiến người đọc cảm nhận dòng Sông Đà
giống như một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ mà thiên nhiên ban tặng cho con người.
Hơn nữa tác giả lại có cách kết hợp từ vô cùng thú vị. Từ “ áng” lại đi liền với “tóc” và
“tóc’’ đi liền với “trữ tình”, cách kết hợp này cho ta thấy dòng Sông Đà đẹp như một cô
gái Tây Bắc với mái tóc dài duyên dáng đang thả dài trong sương khói. Cách viết của
tác giả còn gợi lên một dòng sông vừa mang dáng vẻ yểu điệu trong những sắc màu,
vừa mang cái huyền ảo mềm mại trong khói sương của những dòng sông từng xuất hiện
trong ca dao.

§ Dòng sông như dải lụa đào.


Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

Sông Đà còn rất đẹp với sắc màu của nước thay đổi theo mùa. “Mùa xuân dòng xanh
ngọc bích”. Màu ngọc bích là màu vừa có sắc vừa có ánh sáng, thứ ánh sáng mát dịu
mà quyến rũ toát ra từ bên trong. Mùa thu “ nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một
người bầm đi vì rượu bữa”. Chính sự thay đổi màu nước ấy đã khiến dòng sông luôn
luôn mới mẻ. Trên sông còn có những con thuyền đuôi én lướt trên sông, có những con
cá dầm xanh, cá anh vũ “bụng trắng như bạc rơi thoi” quấy vọt lên mặt nước. Tất cả
đem đến cho Sông Đà một vẻ đẹp vừa hiện thực vừa huyền ảo lại rất duyên dáng dịu
dàng giàu chất thơ.

§ Vẻ đẹp của Sông Đà còn được thể hiện qua tâm hồn.
Qua nhiều lần đi thực tế Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã cảm nhận dòng sông như
một cố nhân. Cảnh sông nước êm đềm đã khơi gợi ở lòng người bao ý tình lãng mạn.
Nhà thơ Tản Đà đã từng lấy tên núi tên sông làm bút danh thì cảm nhận: “ Dải sông Đà
bọt nước lênh đênh/ Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.” Còn Nguyễn Tuân, ông thấy dòng
sông như một người tình nhân chưa quen biết. Rồi có lúc Nguyễn Tuân lại thấy Sông
như một “Cố nhân”. Hai chữ “cố nhân” thật khiến người ta bùi ngùi bao cảm xúc. Đó
là người bạn tâm giao, một người bạn khi gần thì dạt dào cảm xúc mà khi xa thì muôn
vàn nhung nhớ. Một người bạn đã lâu rồi không gặp, mà khi gập vẫn luôn cảm nhận
được đủ đầy những xúc cảm trong tâm hồn.

Giọng văn của tác giả ở đây bỗng trở nên tươi tắn lạ thường khi nói đến Sông Đà: “ bờ
Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi! Trông con
sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.
Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm âm ấm như gặp lại cố
nhân”. Có thể nói nhà văn đã lồng cảnh vào cảnh, tình vào tình để thú nhận với chính
mình về nỗi đắm say, phải lòng trước vẻ đẹp duyên dáng tuyệt mỹ của sóng nước Đà
giang và mây trời Tây Bắc, để cảm xúc thăng hoa, để thi ca lai láng, để dòng Sông Đà
hiện lên với cảnh sắc đắm say lòng người.

§ Dòng sông đượm sắc màu cổ tích.

Sắc màu cổ tích được thể hiện trong một đoạn văn vừa đặc sắc vừa giàu chất thơ. “
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà…” Câu văn mở đầu toàn thanh bằng, nhẹ nhàng và êm ái.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

Như thể nó chứa đựng bên trong lời tự tình của con sông, tạo tâm thế của một cuộc du
ngoạn, gợi hình ảnh con đò lặng lẽ trôi. Nó đưa người đọc vào thế giới cổ tích, vào
không gian yên ắng lặng lờ thời tiền sử xa xưa. Ghềnh thác đã lùi xa, dòng sông bỗng
dịu dàng mê đắm, cảnh ven sông trở nên lặng lờ thơ mộng. “ Hình như từ đời Lý, Trần,
đời Lê quãng sông này cũng chỉ lặng lờ đến thế mà thôi”.

Cái độc đáo của nhà văn khi miêu tả bờ sông là ở chỗ, người ta thường lấy cái cụ thể để
so sánh làm rõ cái trừu tượng hoặc ít cụ thể hơn. Nhưng ở đây Nguyễn Tuân lại là ngược
lại ông đã lấy cái trừu tượng để so sánh làm mờ cái cụ thể: “bờ sông hoang dại như một
bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Điều này khiến người
đọc như chìm sâu hơn vào ảo giác, như trở về thời ấu thơ với câu những chuyện “ngày
xửa ngày xưa” của bà của mẹ. Ta hiểu vì sao ở đây tác giả lại thèm nghe một tiếng còi
sương. Phải chăng nhà văn Nguyễn Tuân đang thèm muốn một âm thanh để thoát khỏi
cái “lặng tờ” của cảnh vật? Chính điều này đã khiến cả cảng vật và con người đều như
đang chìm vào không gian đượm màu cổ tích.

Luận điểm 3: Bình luận nâng cao ý nghĩa của việc sử dụng hình tượng sông Đà
Ng. Tuân đã xây dựng tình cách hình tượng sông Đà – 1 hình ảnh tiêu biểu miền Tây
Bắc. Có người nói Nguyễn Tuân sông Đà như đang đề thơ vào sông nước. Trong văn
sông Đà in đậm bản năng văn chương của Nguyễn Tuân . Sông Đà bị chinh phục bởi 1
quyền năng riêng của người viết- quyền năng ngôn từ. "Với 1 ý thức ngôn từ mới mẻ,
Nguyễn Tuân đã truyền hồn cho chữ, chữ truyền hồn cho dòng sông và dòng sông truyền
hồn cho độc giả". Với những trang viết tài hoa của mình, nhà văn đã thật sự trở thành 1
thầy phù thuỷ trong nghệ thuật hô chữ, gọi câu. Ngôn ngữ giàu có, sắc sảo, biến hoá
linh hoạt, giàu hình ảnh, giàu âm điệu mà nhà văn tung ra, trải ra trên trang viết như thể
thì tài với tạo hoá. Cùng với một vốn kiến thức liên ngành, đa ngành, đã làm sống dậy
sông Đà - hình tượng văn học độc đáo - sông Đà trở thành “dòng sông ánh sáng - dòng
sông hùng vĩ - địa chỉ lớn của văn, thơ, nhạc, hoạ Việt Nam thế kỷ XX”
Vấn đề 2: Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

Vấn đề 2 Nội dung cần có:

- Những đặc điểm của nhân vật người lái đò sông Đà:

· Khái quát về nhân vật người lái đò sông Đà


· Vẻ đẹp trí dũng - dũng sĩ
· Vẻ đẹp tài hoa - nghệ sĩ

Hướng dẫn chi tiết

a. Cách giới thiệu nhân vật

Đối với mỗi nhà văn, việc giới thiệu nhân vật hay cách để cho nhân vật của mình xuất
hiện như thế nào là một trong những điều vô cùng quan trọng. Nếu như nhà Văn Nam
Cao từng để cho nhân vật của mình xuất hiện trong thanh âm của tiếng chửi, của sự
tuyệt vọng và cô độc, Tô Hoài để cho nhân vật Mị của mình xuất hiện với hình ảnh bên
tảng đá, cạnh tàu ngựa với dáng vẻ âm thầm, lầm lũi thì Nguyễn Tuân lại để cho người
lái đò sông Đà xuất hiện trong tâm thức của người đọc đặt trong mối tương quan giữa
thạch thủy trận của Đà giang. Dòng sông Đà hung bạo, dữ tợn như vậy, thiên nhiên bao
la, choáng ngợp tưởng chừng như nuốt chửng hình ảnh của con người bé nhỏ, thế nhưng
không, đối lập lại với điều này là tầm vóc của con người lao động bình thường thoáng
chốc trở nên vĩ đại, lớn lao, phi thường. Dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, dòng
sông và con người soi chiếu vào nhau để từ đó phát hiện ra những vẻ đẹp của riêng
mình.

b. Lai lịch, ngoại hình

Lật dở từng trang viết của Nguyễn Tuân, ta được biết ông đò quê ở Lai Châu làm nghề
chèo đò trên dòng sông Đà đã hơn 10 năm, Với khoảng thời gian chinh chiến này, đủ
để đôi tay của ông vững vàng và trở thành một tay lái lão luyện: “ Trên sông Đà ông
xuôi, ông ngược trên 100 lần rồi và chính tay ông giữ lái độ 60 lần. Ông là một con
người từng trải , là linh hồn của muôn thủa sông nước Đà giang, ông hiểu dòng sông
như chính bản thân mình.” Đối với người lái đò sông Đà, dòng sông này là nơi để ông
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

ghi lại những dấu ấn, viết những bản thiên hùng ca trong cuộc đời của mình. Nó thân
thuộc tới mức, như cách ông nhớ một bài văn, nhớ từng dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm
than và cả những đoạn xuống dòng. Nguyễn Tuân thể hiện sự cảm phục của mình với
người lái đò bằng những hình ảnh so sánh đầy chất văn, cuộc sống của ông lão, đơn
giản bình thường nhưng cũng vô cùng phi thường.

Ông lái đò xuất hiện trong lòng đọc giả với hình ảnh của một ông lão 70 tuổi với mái
tóc bạc phơ. Cái đầu bạc quắc thước đặt trên một thân hình cao to gọn quánh những
chất sừng, chất mun và 2 cánh tay trẻ tráng. Nhãn giới của ông cao vời vợi, tiếng nói ào
ào như nước thác trước mặt ghềnh sông. Hai chân khuỳnh khuỳnh như lúc nào cũng kẹp
chặt một cái cuống lái trong tưởng tượng, tay ông dài lêu nghêu. Trong tâm thức của
người đọc, ông lái đò hiện lên với hình ảnh của một con người cưỡi sóng, đạp gió là vẻ
đẹp của người anh hùng lao động giữa cuộc sống đời thường. Ông lái đò được tác giả
miêu tả bằng những cảm nhận phong phú từ các giác quan, cảm hứng của người nghệ
sĩ và bằng kho từ ngữ phong phú, giàu giá trị tạo hình để cho người đọc có được đủ đầy
nhất những con người sinh ra từ sóng nước Đà Giang.

c. Ông lái đò – con người tài hoa, trí dũng vô song

Không phải tự nhiên, Nguyễn Tuân lại viết về hình ảnh của người lái đò sông Đà giống
như hình ảnh của một người chiến tướng, một người dũng tướng can trường, thông
minh, trí dũng vô song. Bởi lẽ, công việc hàng ngày của ông là vượt thác ghềnh, phá
thạch trận vòng vây của thủy thần ác quái. Bằng kinh nghiệm của mình, ông xử lý tình
huống nguy hiểm một cách khéo léo, dứt khoát, táo bạo, tài tử đến kỳ diệu. Nhà văn đã
đặt hình ảnh của người lái đò, trong trận chiến với Đà giang dữ dội, hung bạo, quỷ
quyệt, để làm nổi bật vẻ đẹp của người lao động bình thường.

Trong trận thủy chiến, đã có những lúc thác nước sông Đà mưu mô xảo quyệt tới mức
như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, thúc gối vào bụng, vào hông thuyền.
Ông lái đò lúc bấy giờ đã bị thương vẫn nhất định giữ lấy mái chèo, hay chân kẹp chặt
cuống lái, với ông “cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ”. Ông “nắm
chặt lấy bờm sóng, đúng guồng rồi ông đò ghì cương lái mà lái miết một đường chéo
về phía cửa đá”. Chinh chiến đã lâu, ông đò thuộc lòng binh pháp của thần sông, thần
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

đá nơi đây, cho nên ông lão đã vận dụng sáng tạo những chiến thuật của mình để giành
lấy chiến thắng cuối cùng. “ Đứa thì ông tránh và rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn
chặt đôi ra để mở đường tiến.”Ông lão ấy đã giao chiến với tướng đá, quân đá thạch
trận sông Đà như một dũng sĩ anh hùng giữa đời thường. Ông làm chủ thiên nhiên và
tin vào sức mạnh của chính bản thân mình.

Đối với người lái đò, con thuyền là chiến mã, mái chèo là thanh gươm, ông lái hiện lên
vững chãi, lồng lộng giữa sóng nước dữ tợn. Đối lập với thiên nhiên sông nước bao là
mênh mông, thế nhưng sức vóc của ông không hề nhỏ bé, đơn độc, ông hiện lên vững
chãi, lồng lộng giữa sóng nước Đà giang.

Con sông Đà dữ tợn đến mức muốn tìm mọi cách để nuốt chửng con thuyền không cho
đi ngang qua đây. Có những lúc chúng đội cả thuyền lên, nó bám lấy thuyền như đô vật
bám lấy thắt lưng của đối thủ, trong tình cảnh như vậy, ông đò như đang bị lật ngửa
mình ra giữa âm thanh của đất trời. Bằng trí dũng của mình, qua được vòng 1, rồi vòng
2, vòng 3 trở nên khó khăn hơn bao giờ hết bởi lẽ so với 2 vòng trước, vòng này là ít
cửa nhất, bên phải, bên trái đều là luồng chết cả. Luồng sống duy nhất ở chặng 3 này là
nằm ở giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Ông lái đò hiện lên với sự nhịp nhàng, điêu
luyện khi chèo lái con thuyền: “ Vút, vút, cửa ngoài, của trong lại cửa trong cùng thuyền
như một mũi tên tre xuyên qua nhanh hơn nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn
được.” Nguyễn Tuân đã đưa ra một phép so sánh độc đáo và chính xác, gây được nhiều
ấn tượng trong lòng đọc giả đó là hình ảnh người lái đò và người lái xe đang lao xuống
dốc đèo. Người lái xe khi nguy nan vẫn còn chỗ để bám víu, đó là phanh tay, có tiến
lên, lùi lại còn đối với người lái đò bây giờ thì không còn đường lùi “ Cái thuyền mà
lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao
trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà úp xuống chứ không có lùi gì cả”.
Trong trận thủy chiến, ông lái đò như một chiến tướng “tả xung hữu đột”, phát huy trọn
vẹn, đủ đầy tài trí sự linh hoạt ứng biến của mình. Vượt qua 3 trùng vi thạch trận với rất
ít cửa sinh, ông lái đò đã thành công trong việc phá vỡ trùng vi thạch trận này để giành
thắng lợi về cho mình. Miêu tả ông lái đò, Nguyễn Tuân muốn đưa ra một triết lý, một
thông điệp: “ Giữa thế giới tàn độc, dữ dội và nham hiểm, thế giới man dại đầy những
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

cạm bẫy ấy, con người vẫn dũng cảm, vẫn đủ kinh nghiệm tìm lại luồn sinh bằng sự trải
nghiệm và trí tuệ tuyệt vời của mình.”

d. Ông lái đò – người nghệ sĩ giữa sông nước Đà giang

Hình ảnh ông lái đò – một người lao động bình thường hiện lên trong tâm thức người
đọc không chỉ là một chiến tướng trí dũng song toàn, một con người điêu luyện trong
công việc của mình mà còn hiện lên với hình ảnh của một người nghệ sĩ với tay lái ra
hoa, tay lái nở hoa. Ông là một người vừa thông minh, anh hùng, dũng cảm, vừa tài
tình, tài tử, nghệ sĩ. Thật tinh tế, Nguyễn Tuân đã tạo được một cái nền nghệ thuật phù
hợp để tôn vinh nhân vật của mình. Trận thủy chiến dữ dội như vậy, khó khăn như vậy
thế nhưng bằng tài năng, trí dũng của mình, ông lái đò đã vượt qua tất cả những khó
khăn để trở về với cuộc sống thanh bình. “Thế là hết thác, dòng sông vặn mình vào một
cái bến cát có hang lạnh…sông nước lại thanh bình…đêm đó nhà đò đốt lửa trong hang
đá , nước ống cơm lam mà bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh…” Ông lái đò bây giờ,
trải qua hết những thời khắc khó khăn vất vả đề trở về với những phút giây thanh bình,
mơ mộng, quên đi khoảnh khắc mình vừa cận kề với cái chết, quên đi khoảnh khắc phải
đối mặt với thủy quái. Có thể thấy, ông lái đò sông Đà là một dũng tướng mang trong
mình tâm thái của một người nghệ sĩ: ung dung, tự do, tự tại. Đó là một cao nhân, đồng
thời cũng là một “tao nhân”.

Viết về người lái đò sông Đà, ngòi bút Nguyễn Tuân hiện lên với tràn đầy cảm hứng
lãng mạn Cảm hứng ấy thấm sâu và lan tỏa trong những câu văn viết về đời thực, viết
về con người thực. Cảm hứng lãng mạn được sử dụng trong tùy bút, đặc biệt khi viết về
người lái đò đã tạo nên một khúc ca tươi đẹp, hào sảng khi viết về con người lao động.
Cảm hứng ngợi ca vẫn được Nguyễn Tuân giữ nguyên vẹn khi viết về nhân vật thứ 2
này của mình.

“Ông đò đã thôi lái làm nghề nhưng trên ngực vẫn bầm tụ một củ khoai nâu… đấy là
hình ảnh quý giá của một thứ huân chương siêu hang.” Nguyễn Tuân gọi đó là một thứ
huân chương siêu hạng, một thứ huân chương dành cho người hùng trong cuộc sống
đời thường. Hình ảnh này thật đẹp đẽ và đáng trân trọng biết bao.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

Viết về người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã đem đến cho người đọc đủ đầy nhất
những cảm nhận về một con người dũng cảm, trí tuệ nhưng cũng vô cùng nghệ sĩ. Tôi
sẽ còn nhớ mãi hình ảnh về câu chuyện họ nói với nhau khi trở về sóng nước thanh
bình, tôi sẽ còn nhớ mãi hình ảnh của tấm huân chương siêu hạng “độc đáo”, và cũng
sẽ còn nhớ mãi hình ảnh của một con người, cả cuộc đời ghi tên mình bên sóng nước
Đà giang.

Tác phẩm:

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG


(HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG)
I. Khái quát về tác giả
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937, tại thành phố Huế

Quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Cuộc đời:

Ông từng là Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên-Huế, Chủ tịch Hội
Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt.

- Năm 2007, ông được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, cùng đợt với
vợ là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

- Hiện nay nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường và vợ đang cư ngụ tại Thành phố Hồ Chí
Minh

Sự nghiệp sáng tác:

PCNT: Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút ký.
Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ
và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn
kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý...Tất cả được thể hiện
qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
· Viết nhiều và viết hay về Huế, được coi là một nhà Huế học

Những nhận định hay về tác giả, tác phẩm


Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

1. Nhà văn Nguyễn Tuân: Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường có "rất nhiều
ánh lửa”
2. Nhà văn Nguyên Ngọc: Trong một cuốn sách gần đây của anh, viết và in
ngay giữa những ngày anh đang vật lộn với cơn bệnh nặng-chứng tỏ ở anh một
đức tính dũng cảm và một nghị lực phi thường của một người lao động nghệ
thuật-anh tự coi mình là "người ham chơi". Quả thật, anh là một người ham sống
đến mê mải, sống và đi, đi để được sống, với đất nước, với nhân dân, với con
người, đi say mê và say mê viết về họ…
3. Nhà thơ Hoàng Cát:
Hoàng Phủ Ngọc Tường có một phong cách viết bút ký văn học của riêng mình.
Thế mạnh của ông là tri thức văn học, triết học, lịch sử, địa lý sâu và rộng, gần
như đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm nào và ở đâu thì ông vẫn có thể tung hoành
thoải mái ngòi bút được…
4. Nhà thơ Ngô Minh:
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số rất ít nhà văn viết bút ký nổi tiếng ở
nước ta vài chục năm nay. Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường hấp dẫn người
đọc ở tấm lòng nhân văn sâu sắc, trí tuệ uyên bác và chất Huế thơ huyền hoặc,
quyến rũ. Đó là những trang viết tài hoa, tài tử, tài tình...Thực ra, bút ký Hoàng
Phủ Ngọc Tường chính là những áng thơ văn xuôi cuốn hút người đọc...thơ
Hoàng Phủ Ngọc Tường là vẻ đẹp của nỗi buồn hoài niệm, những day dứt triết
học, từ sâu thẳm thời gian, sâu thẳm đất đai vọng lên trong tâm khảm người đọc.
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho rằng thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường thấm đẫm
"triết học về cái chết...thơ anh buồn mỗi nỗi buồn đứt ruột...Đấy là thơ của cõi
âm"... Đó là một nhận xét xác đáng.
5. Trên Website vnexpress:
Dường như trong suốt cuộc đời mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường bị ám ảnh bởi
hoa. Điều đó, dù cuộc đời lận đận những ngày tù cộng với những năm tháng bôn
ba khắc nghiệt của chiến tranh vẫn không tước đoạt nổi của ông...Ông viết rất
nhiều về hoa và đặc biệt, ông bị ám ảnh bởi sắc diện phù dung.
II. Về tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

Được viết vào tháng 1/ 1981 và in trong tập bút ký cùng tên xuất bản năm 1986

Nằm ở phần 1 của bài ký


b. Những vấn đề cần lưu ý
Vẻ đẹp của dòng sông Hương qua ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” – Hoàng Phủ Ngọc
Tường

III. Hướng dẫn giải quyết các vấn đề cần lưu ý trong tác phẩm
Gợi ý cách mở bài
Cách 1: Nhà thơ Thu Bồn đã từng viết trong tác phẩm của mình:

“Con sông dùng dằng con sông không chảy

Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”

Những câu thơ quen thuộc nhắc nhớ về dòng Hương – dòng sông, dòng Huế, dòng thơ.
Đã có biết bao nhiêu người nghệ sĩ đã từng sinh ra ở Huế, sống tại Huế, tới Huế khi đến
với dòng Hương đều “nặng lòng” với “người con gái này”. Không phải tự nhiên, sông
Hương lại đi vào trong những tác phẩm nghệ thuật một cách tự nhiên và tình tứ như thế.
So với những dòng sông được thi ca gọi tên, Hương giang mang vẻ đẹp và sức quyến
rũ của riêng mình. Đó cũng là nguyên cớ tại sao, một người yêu Huế nồng nàn như
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về sông Hương một cách rất tình, rất sâu như thế! Đọc
ký “ Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta thấy nổi bật trong
tác phẩm chính là vẻ đẹp của dòng Hương giang. Một dòng sông của thi ca, dòng sông
văn hóa, dòng sông lịch sử, dòng sông thuộc về con người Huế, ôm trọn trong mình
phong cách Huế.

Cách 2: Ai đó đã từng n có nói rằng: “Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một
dòng sông để thương để nhớ, giống như cuộc đời của mỗi con người, có nhiều cuộc tình
nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo. Dòng sông để thương để nhớ của
mỗi người rất khác nhau. Nếu như Văn Cao cả đời gắn liền với dòng sông Lô hùng
tráng, nếu Hoàng Cầm là nỗi nhớ khi ta đi ngang qua “sông Đuống trôi đi một dòng lấp
lánh”, nếu Hoài Vũ cả đời gắn liền với con sông Vàm Cỏ tha thiết chở Phù Sa thì Hoàng
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

Phủ Ngọc Tường lại song hành cùng trái tim độc giả qua ký: “Ai đã đặt tên cho dòng
sông.”

MĐST: Bài ký ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương dưới nhiều góc độ khác nhau để qua đó
bộc lộ niềm tự hào, yêu mến đối với lịch sử vẻ vang của đất Huế cùng với nét đẹp thiên
nhiên, văn hóa, con người nơi đây. Tác phẩm cũng chính là sự thể hiện cho tài năng của
Hoàng Phủ Ngọc Tường, nét đặc sắc trong nghệ thuật viết ký của ông.

Vấn đề Nội dung cần có:

- Khái quát về hình tượng sông Hương

- Vẻ đẹp của sông Hương dưới các góc nhìn:

· Địa lý: Thủy trình của dòng sông Hương (Nơi thượng
nguồn, ngoại vi, vào trong lòng thành phố, rời khỏi thành
phố)
· Lịch sử: Sử thi viết giữa màu lá cỏ xanh biếc
· Âm nhạc: Nơi ra đời của âm nhạc cổ điển Huế
· Văn hóa: Người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở
· Thi ca: Dòng sông không bao giờ tự lặp lại chính mình
· Giải thích ý nghĩa nhan đề của tác phẩm

Hướng dẫn chi tiết vấn đề:

a. Khái quát về hình tượng dòng sông Hương

Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn hình tượng sông Hương là hình tượng chính trong bài ký
của mình. Bởi lẽ xuất phát từ tình yêu, niềm tự hào của một người con dành cho đất
Huế nên ông đã rất chủ động vận dụng vốn hiểu biết sâu rộng, vốn ngôn từ phong phú
của mình để viết lên những dòng ký tràn đầy cảm xúc về một dòng sông như một biểu
tượng đẹp nhất cho Huế mộng, Huế thơ. Dòng sông Hương trong ký, được cảm nhận
qua rất nhiều những góc độ khác nhau: Từ cảnh sắc thiên nhiên, góc độ lịch sử, văn hóa,
góc độ thi ca và trí tưởng tượng sáng tạo đầy tài hoa của tác giả.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

Vẫn giữ trong tác phẩm của mình một cái tôi riêng có, thế nhưng, trong tác phẩm ký
này, cái tôi của người nghệ sĩ dường như đang hòa nhập một cách mượt mà vào dòng
chảy của Hương giang. Những trang ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường mang tới cho
người đọc những miền không gian xanh thẳm ẩn chìm những vết văn hóa trầm tích từ
thiên nhiên. Sự hòa nhập đó đã khiến cho những dòng kí cứ thế tự nhiên đi vào lòng
đọc giả, không gượng ép. Người ta đọc “Ai đã đặt tên cho dòng sông” rồi trong lòng lại
cứ “lấn cấn” một nỗi niềm mong đến Huế. Những trang văn của HPNT xét ở nhiều góc
độ đã mang tới cho người đọc một lượng thông tin bổ ích, bên cạnh đó nó lại mang dáng
dấp của một bài thơ trữ tình “cứ tưới mãi” những xúc cảm đẹp đẽ vào trong lòng người
đọc.

Điểm tựa cảm xúc của tác giả bắt nguồn từ một nét riêng biệt của dòng sông Hương: “
Hình như chỉ có sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Sông Hương qua ký
của Hoàng Phủ Ngọc Tường không còn là một sự vật vô tri nữa mà nó đã nhanh chóng
trở thành người bạn, người tình, người tri kỷ của biết bao nhiêu người.

b. Thủy trình của dòng Hương

*Sông Hương nơi thượng nguồn

Trong quá trình viết ký, Hoàng Phủ Ngọc Tường hẳn đã tìm tòi và nghiên cứu rất sâu
về dòng sông Hương để có thể khai thác ra những nét độc đáo của dòng sông này. Nơi
thượng nguồn, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản trường ca giữa rừng già. Không
phải ngẫu nhiên mà HPNT lại đặt cho sông Hương tên gọi như vậy. Bởi lẽ, nơi khởi
nguồn của Hương giang gắn liền với cánh rừng Trường Sơn hùng vĩ, cũng nhờ có đại
ngàn hun đúc, dòng sông nơi thượng nguồn mang vẻ đẹp vừa hùng tráng, vừa trữ tình
như một bản trường ca bất tử của thiên nhiên. HPNT viết trong ký: “ Trước khi về đến
vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa những
bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những
đáy vực sâu bí ẩn và có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những rặng dài chói
lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.” Nhà văn đã viết một câu văn thật dài, thế nhưng cái
độc đáo trong cách viết của HPNT đó là tách câu văn này thành nhiều ý nhỏ, nhiều vế
liên tục lặp lại gợi lên những dư vang như một bản trường ca. Thủ pháp điệp cấu trúc
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

với việc sử dụng những động từ, tính từ giàu sức biểu cảm đã tạo nên âm hưởng mạnh
mẽ, hùng tráng của dòng sông trong mối quan hệ với rừng già – đại ngàn Trường Sơn.
Tôi thực lòng băn khoăn không hiểu, Hoàng Phủ Ngọc Tường liệu có tốn một khoảng
thời gian thật dài để cất công lên đại ngàn Trường Sơn tìm hiểu không, chỉ nghĩ tới đây
thôi, tôi lại tự cảm thấy mình thật nực cười. Hẳn rằng, các bạn cũng sẽ thỉnh thoảng có
những ý nghĩ điên rồ như vậy nhỉ?

Quay trở lại với vẻ đẹp của Hương giang nơi thượng nguồn, trong những liên tưởng của
mình, HPNT đã gọi song Hương bằng một cái tên vừa quen, vừa lạ: “ Cô gái Digan
phóng khoáng và man dại”. Trong văn học và đặc biệt đặt trong bối cảnh đó là những
dòng viết về sông Hương, đây thực sự là một hình ảnh so sánh gây ấn tượng với người
đọc. Nó thật thú vị, táo bạo và bất ngờ khi Hương giang bây giờ đã trở thành một cô gái
dân tộc Bohemian thích sống lang thang, tự do, yêu ca hát. Hình ảnh của một người con
gái hoang dã, lang thang trên những thảo nguyên lãng mạn của nước Pháp, với trang
phục rực rỡ, hát những bài ca đắm say. Nhà văn đã thổi hồn vào dòng sông vô tri để
dòng sông bây giờ mang hình hài của người thiếu nữ. Với hình ảnh độc đáo này, tác giả
đã khắc ghi vào trong tâm trí người đọc những ấn tượng về vẻ đẹp của dòng sông Hương
nơi thượng nguồn: Hoang sơ, bí ẩn, quyến rũ, lãng mạn và cũng vô cùng tình tứ. Con
sông không chỉ có hình hài, còn có linh hồn, tính cách: “ Rừng già đã hun đúc cho nó
một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Bên cạnh việ khám phá vẻ đẹp
và tính cách của dòng sông Hương nơi thượng nguồn, HPNT đã có một phát hiện vô
cùng độc đáo, đó được coi là sự “ghi công” đối với sông Hương – một khía cạnh mà ít
ai nhìn nhận về dòng sông này. Sông Hương đã trở thành “người mẹ phù sa” của một
vùng văn hóa xứ sở” – đó là một đấng sáng tạo đã tạo nên, giữ gìn và bảo tồn văn hóa
của vùng đất Huế đẹp, Huế thơ. Trước đây, người ta vẫn chỉ luôn nhìn nhận sông Hương
dưới góc độ vẻ đẹp thiên nhiên mà quên mất đi rằng, khởi nguồn của dòng sông này,
cũng chính là khởi nguồn, nơi bắt đầu cho một không gian văn hóa của một vùng thiên
nhiên xứ sở. Nói một cách đơn giản, nếu không có dòng sông Hương thì không có văn
hóa Huế như ngày nay. Cũng bởi lẽ này mà từng ngày, từng giờ sông Hương chảy lững
lờ trong thành phố Huế là từng ngày, từng giờ dòng sông bồi đắp phù sa cho vùng đất
mẹ. Thế nhưng không vì lẽ đó mà sông Hương mang vẻ “kiêu ngạo hay ngôn cuồng”,
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

trái lại sông Hương lại ôm trọn trong mình một vẻ đẹp khiêm nhường, cứ lặng lẽ trôi
chảy, lặng lẽ từng ngày bồi đắp thêm những gì tinh túy, đặc sắc trong văn hóa Huế.

*Sông Hương chảy qua ngoại vi thành phố Huế

Hương giang nơi thượng nguồn phóng khoáng và man dại, sông Hương nơi thượng
nguồn mang vẻ đẹp của một bàn hùng ca, mang vẻ đẹp tinh tế, lãng mạn và man dại thì
sông Hương khi chảy qua ngoại vi của thành phố Huế lại mang một vẻ đẹp khác hơn.
Đó là vẻ đẹp giống như “ người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu
Hóa đầy hoa dại” chờ người tình mong đợi của mình đến đánh thức. Từ đây, hành trình
của sông Hương khi nó bắt đầu trở về xuôi tựa như một người con gái đẹp trong câu
chuyện nhuốm màu cổ tích. Đó là một cuộc tìm kiếm có ý thức, dòng sông đang tìm
đến tình nhân đích thực của cuộc đời mình, tìm đến tình yêu, đến giới hạn của sự giao
hòa, tuyệt đích, vô biên. HPNT thật tinh tế khi lựa chọn hình ảnh và từ ngữ để viết về
hình tượng của mình, đó là một thiếu nữ bừng tỉnh giấc sau một giấc ngủ dài, được đánh
thức sau giấc ngủ bình yên, con sông bây giờ mang dáng vóc thanh tân, tràn về nhựa
sống. “ Sông Hương dã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc sông, khúc
quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Để theo đuổi tình yêu và
đến với người tình đích thực trong cuộc đời của mình, Hương giang không ngại băng
mình qua những khó khăn, hành trình đến với người tình của mình của sông Hương
phải vượt qua rất nhiều những khó khăn, thử thách. Một loạt những chướng ngại vật đã
được nhắc tới trong ký: Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biểu,…nhưng cũng nhờ hành
trình gian nan ấy, sông Hương lại có cơ hội để được thể hiện tất cả vẻ đẹp của mình, vẻ
đẹp của những đường cong uốn lượn tuyệt mỹ.

Sông Hương từ rừng già xuống đến ngoại vi thành phố, ra đi từ cánh đồng Châu Hóa
đẹp mơ màng, dòng Hương qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, vượt qua một lòng vực
sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm. Lối hành văn của HPNT
quả thật luôn giữ trong mình một nét riêng, không ồn ã, không cao ngạo, đó là một sự
uyển chuyển giàu hình ảnh gợi tả và biểu cảm tạo nên sức hấp dẫn cho hình ảnh của
sông Hương. Mọi bước đi của dòng Hương đều gắn liền với những địa danh khác nhau
của xứ Huế, cũng nhờ đó, mà hành trình trở về với người tình của dòng Hương không
nhàm chán, luôn có sự thay đổi và tự làm mới chính mình.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

Sông Hương bây giờ đã thực sự trở thành một sinh thể có linh hồn, được phác họa bằng
những câu văn giàu chất tạo hình, ngỡ như những đường cọ, nét bút của người họa sĩ
đang vẽ ra một kiệt tác cho chính mình. Thiên nhiên xứ Huế, đặc biệt là biểu trưng tiêu
biểu – dòng Hương đã được ông vẽ lên bằng những liên tưởng hết sức thi vị, bằng thủ
pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, đặc biệt ấn tượng là hệ thống từ ngữ giàu cảm xúc,
hình ảnh góp phần khắc họa vẻ đẹp của dòng sông, giống như một người con gái luôn
tự biết làm mới mình, thay đổi chính mình để không nhàm chán trước khi đến gặp tình
yêu đích thực. Vượt qua những khó khăn trở ngại để đến gặp người tình, đặc biệt là khi
vượt qua một lòng vực sâu để sắc nước trở nên xanh thẳm, sông Hương bây giờ gợi liên
tưởng cho người đọc giống như một tấm lụa mềm mại trên cơ thể người thiếu nữ. Một
điều khác biệt ta có thể nhìn nhận, đó cũng có thể coi là chất riêng của HPNT khi viết
về sông Hương đó là thủy trình của Hương giang không được diễn tả dưới góc độ địa
lý, mà nó được phác họa giống như một cuộc dạo chơi, một hành trình của cô gái xinh
đẹp tìm đến với tình yêu đích thực trong cuộc đời mình, một cuộc dạo chơi đầy tình tứ,
lãng mạn, phóng khoáng.

*Sông Hương khi chảy qua thành phố Huế

Điểm đến cuối cùng của dòng sông, cuộc gặp gỡ ngàn ngàn phút giây mong đợi cũng
đã đến, sông Hương đến với Huế, ùa vào Huế, mang trong mình những dư vị cảm xúc
tươi vui: “ Sông Hương tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim
Long”. Về với Huế, giống như cuộc hội ngộ của người tình ngàn năm, một mối tình
thủy chung, son sắt. Sông Hương bây giờ mang vẻ đẹp vô cùng độc đáo được diễn tả
qua những lời văn của HPNT: “ điệu slow tình cảm dành riêng cho đất Huế”. Không
một chút ồn ào, nhà văn tiếp cận vẻ đẹp của sông Hương qua góc nhìn âm nhạc. Trong
tiếng Anh, slow có nghĩa là chậm và sông Hương đã trở thành một giai điệu trữ tình
trầm lắng dành riêng cho đất Huế - miền đất đầy thơ mà mộng. HPNT cũng rất tinh tế,
nhạy cảm khi phát hiện ra một đặc điểm rất riêng của dòng Hương, đó là lưu tốc ( tốc
độ dòng chảy) của con sông này là rất chậm. Đặc điểm này được nhà văn giải thích qua
2 nguyên nhân về mặt địa lý: “ Những chi lưu ấy cùng với 2 hòn đảo nhỏ trên sông đã
làm giảm hẳn lưu tốc dòng nước khiến cho sông Hương khi chảy qua thành phố Huế đã
trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh.” Để làm nổi bật đặc
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

trưng này, HPNT đã cố tình đưa ra hình ảnh về con sông Neva băng băng lướt qua cũng
điện Petecbua để đổ ra biển Ban tích, lưu tốc của con sông này nhanh đến mức: “không
kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo”.
Dưới góc độ địa lý, HPNT đưa ra một cách nhìn nhận rất chuẩn xác, thế nhưng để làm
rõ hơn điều này, cũng là để thể hiện chất riêng của mình, tình cảm của mình dành cho
con sông này, cho đất Huế nhà văn đã mượn câu nói của Hê ra clit trong cách nói đầy
hình ảnh: “ Khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh”. Nhà văn đã đem tới
một cách lý giải vô cùng mới mẻ cho đọc giả, đó là cách lý giải bằng con tim, gạt đi tất
cả những lý trí trước đó. Sông Hương chạy chậm, thực chậm, điệu chảy lững lờ là bởi
nó thực sự yêu quý thành phố này, nó muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố
- người tình của mình. Có thể thấy một điều, nếu ở thượng nguồn, sông Hương gầm gào
cuộn xoáy, dữ dội hát bản hùng ca của rừng già, mau mau chóng chóng muốn tới gặp
tình nhân thì bây giờ, khi phút giây đó đã tới, sông Hương lại bẽn lẽn, nghẹn ngào,
quyến luyến khi chỉ vài phút giây nữa thôi sẽ phải rời xa nơi này, sắp rời khỏi kinh
thành. Bao ưu tư, bao vương vấn khi rời xa nơi đây, một cách giải thích quả thực là vô
cùng hợp lý của HPNT.

c. Vẻ đẹp của dòng sông qua góc nhìn âm nhạc, lịch sử, thi ca và cuộc đời

* Vẻ đẹp của dòng sông qua góc nhìn âm nhạc

Khi sông Hương chảy lặng lờ qua thành phố Huế, nhà văn đã có một phát hiện vô cùng
thú vị: “ Sông Hương là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Đây quả thực là một sự
so sánh vô cùng bất ngờ và độc đáo. Với sự hiểu biết của mình, HPNT đã huy động vốn
kiến thức và vốn ngôn từ sâu rộng để đưa vẻ đẹp của sông Hương gắn liền với âm nhạc.
Âm nhạc cổ điển, âm nhạc dân gian Huế đều được hình thành từ mặt nước dòng Hương.
Ai đã từng có dịp đến với Huế, thưởng thức nhã nhạc cung đình Huế, được tận mắt xem
những người nghệ sĩ biểu diễn ca Huế trên sông Hương mới có thể cảm nhận được đầy
đủ ý vị trữ tình của dòng chảy ấy. Chúng ta đều biết rằng, một phần làm nên sự đặc sắc
trong văn hóa Huế đó chính là nền âm nhạc đặc sắc của xứ Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã rất tinh tế khi dẫn ra câu chuyện về người nghệ sĩ già chơi đàn hơn nửa thế kỷ, một
buổi tối khi nghe con gái đọc Kiều:
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

“ Trong như tiếng hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời” đã nhổm dậy vỗ đùi
chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên đó chính là “Tứ đại cảnh”. Câu chuyện trên
có ý nghĩa khẳng định về mối quan hệ mật thiết giữa sông Hương và nền âm nhạc Huế.
Cảm nhận của Nguyễn Du về điệu “Tứ đại cảnh” của người Huế đã hiện diện trên những
trang viết của đại thi hào Nguyễn Du khi miêu tả về tiếng đàn của Kiều. Chính sông
Hương là nơi khởi nguồn cho những làn điệu dân ca Nam ai, Nam bình, những điệu mái
hò mái đẩy, lời ca Huế luôn đồng hành và sóng sánh cùng với dòng nước Hương Giang.

Sông Hương kết thúc cuộc hành trình đến gặp người yêu của mình. Cuộc gặp gỡ đã kết
thúc, những cảm xúc quyến luyến vẫn còn nơi đây khi Hương giang trong giây phút rời
khỏi kinh thành Huế. Khi rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính Bắc
nhưng do đặc điểm địa lý ở nước ta hầu hết các dòng sông đều chảy về hướng Đông và
đổ ra biển. Cũng do điều này mà thủy trình của Hương giang đổi hướng, có một chút
biến động trong thủy trình. Sông Hương chuyển mình sang hướng Đông để đổ ra biển,
cũng chính vì điều này, mà dòng Hương thêm một lần nữa được đi qua một góc của
thành phố Huế tại thị trấn Bao Vinh xưa cổ, đây cũng là một đặc điểm địa lý tự nhiên
của dòng sông Hương.

Trong hành trình về với người tình đích thực của mình, sông Hương mang vẻ đẹp của
người con gái lẳng lơ, vương vấn, tình tứ nhưng cũng thật chí tình chí nghĩa. Trong
trường liên tưởng, nhà văn đã thêm một lần so sánh sông Hương với nàng Kiều khi xa
Kim Trọng, nàng trở lại tìm chàng để nói một lời thề trước khi chia xa đây là một liên
tưởng mang đậm màu sắc văn chương khiến cho dòng Hương đẹp một cách trọn vẹn
trong cảm nhận của người đọc. Bằng sự hiểu biết và vốn từ ngữ phong phú của mình,
thêm vào đó là sự gắn kết đặt hình tượng sông Hương trong mối quan hệ truyền thống
dân tộc, người nghệ sĩ đã lột tả vẻ đẹp của một dòng Hương – một dòng Hương của thi
ca mộng mơ, dòng Hương thuộc trọn vẹn về đất Huế.

* Sông Hương – Dòng sông của sử thi viết giữa màu lá cỏ xanh biếc

Dòng sông Hương dưới góc nhìn lịch sử bây giờ không còn là cô gá Digan phóng
khoáng và man dại, cũng không phải thiếu nữ ngủ mơ màng giữa cánh đầu Châu Hóa
mà bây giờ, người tình của đất Huế đang mang trong mình một màu lịch sử - đang trở
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

thành một chứng nhân trước biết bao biến thiên của lịch sử thiêng liêng. HPNT viết
trong ký của mình: “ Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang , của sử
thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc…” Những trang văn của người nghệ sĩ gợi lại cho
người đọc biết bao quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc ta, nhấn mạnh sự hòa quyện
giữa chất hùng tráng và trữ tình. Với người Huế, với những người yêu sông Hương,
dòng sông này không những là một bản hùng ca, 1 bản trường ca mà còn là một bản
tình ca giữa đời thường.

Trong những trang viết của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn thấy từ dòng sông
những dấu tích lịch sử, từng nhánh rẽ của dòng sông cho đến cả những cây đa, cây cổ
thụ bên dòng sông cũng hàm ẩn một phần lịch sử. Nhà văn đã tiến hành một “cuộc quay
ngược thời gian” ngoạn mục để trở về quá khứ, khẳng định vai trò của sông Hương
trong lịch sử dân tộc. Với một đất nước có bề dày lịch sử như Việt Nam, kể từ thời vua
Hùng , sông Hương đã là dòng sông biên thùy xa xôi. Bước sang thời trung đại, với tên
gọi khác là Linh Giang nó đã cùng với nhân dân Huế “oanh oanh liệt liệt” bảo vệ phần
biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt. Sông Hương gắn liền với những chiến công
của người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ. Trải qua những cuộc chiến tàn
khốc và đẫm máu của những cuộc khởi nghĩa thế kỷ XIX, sông Hương gắn liền với
cuộc cách mạng tháng Tám với những chiến công vang dội, rung chuyển. Đặc biệt là
trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968, sông Hương cũng như kinh thành Huế cùng
với những người dân Huế đã chứng kiến sự tàn phá khủng khiếp của đế quốc Mỹ. Sông
Hương cùng với những người dân xứ Huế đã chiến đấu một cách kiên cường, bất khuất
và dũng cảm để chống lại kẻ thù. Không phải ngẫu nhiên mà một hội nghị tổng kết
chiến tranh đồng chí đại tướng đã phát biểu: “” Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên
thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc.”
Cùng với rất nhiều những dòng sông trên đất nước Việt Nam như sông Bến Hải, sông
Gianh, sông Đà, sông Bạch Đằng,… sông Hương đã trở thành dòng sông của lịch sử
mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi lại những tháng năm chiến đấu kiên cường của
nhân dân ta. Bên cạnh sự mềm mại, dịu dàng, vẻ đẹp của sông Hương còn được nhìn
nhận ở những khía cạnh khác nhau đặc biệt là khía cạnh lịch sử.

* Sông Hương – Dòng sông của thi ca, không bao giờ tự lặp lại chính mình
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

Đã có biết bao nhà thơ, nhà văn – những người nghệ sĩ khác nhau tìm đến và viết về
dòng Hương với một tình cảm trìu mến. Hương Giang, dưới ngòi bút của HPNT, cũng
được nhìn nhận dưới góc độ thi ca – một góc độ trữ tình, mượt mà. Sông Hương dưới
góc nhìn này là một dòng sông không bao giờ tự lặp lại chính mình, cũng không bao
giờ lặp lại trong mỗi góc nhìn của người nghệ sĩ. Nhà văn đã có cho mình một phát hiện
vô cùng độc đáo khi nghiên cứu về sông Hương đó chính là: mỗi nhà thơ đều có những
khám phá riêng về dòng Hương. Với cách viết trích dẫn, HPNT đã làm sống dậy trong
lòng những người đọc biết bao vần thơ hay về Huế, về dòng Hương qua thơ của Tản
Đà: “Dòng sông trắng, lá cây xanh”. Đó là sự tương giao, sự đồng điệu của những tâm
hồn người nghệ sĩ. Đó là nét chấm phá tiêu biểu của nhà văn trong tác phẩm của mình.
Bên cạnh chi tiết này, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện vẻ đẹp của một sức mạnh
phục sinh trong tâm hồn nhờ cuộc sống mới, nhờ thời đại mới, con người mới, cách
mạng đã gột rửa, thanh tẩy mọi nhuốc nhơ, nhục nhã ê chề của đời ca nữ, kỹ nữ trên
sông Hương:

“ Răng không cô gái trên sông

Ngày mai cô sẽ từ trong tới ngoài

Thơm như hương nhụy hoa lài

Sạch như nước suối ban mai giữa rừng”

Văn đàn Việt Nam cũng đã ghi nhận biết bao nhiêu tao nhân, mặc khách buông lòng
mình về dòng Hương. Trong thơ Hàn Mặc Tử, cũng đã từng gây cho bạn đọc những bồi
hồi và ám ảnh:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

Nhà thơ Thu Bồn cũng đã từng viết trong tác phẩm của mình:

“Con sông dùng dằng con sông không chảy

Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”


Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

Hương Giang cứ tự tình, lặng lờ mà đem trong mình chất thơ đầy ăm ắp như thế. Ký
của Hoàng Phủ cứ thôi thúc con người ta phải đến Huế một lần, thôi thúc con người ta
tìm đến những tứ thơ về dòng Hương, dòng Huế…

* Dòng sông của cuộc đời

Trở về với cuộc sống đời thường, sông Hương mang một vẻ đẹp dịu hiền và khiêm
nhường như thế. Điều làm nên vẻ đẹp đáng trọng của con sông chính là biết nghe lời
kêu gọi của Tổ quốc và hy sinh thân mình cho Tổ quốc. Khi trở về với cuộc sống bình
thường, sông Hương dịu hiền hệt như người con gái Huế. Những đổi thay bất ngờ của
sông Hương mang dáng dấp của đất nước Việt Nam, con người Việt Nam suốt mấy
nghìn năm qua. Những biến thiên của cuộc đời suốt mấy ngàn năm lịch sử cho thấy sự
thích ứng của con người Việt Nam là vô hạn, sức mạnh của con người Việt Nam là vô
hạn. Luôn tự làm mới mình, cũng chính vì điều này, mà sông Hương luôn gây được
thiện cảm với bất kỳ ai biết tới.

* Khái quát – Giải mã về nhan đề

Tôi đọc xong “Ai đã đặt tên cho dòng sông” cuối cùng cũng thỏa mãn cho những mong
muốn của mình về việc muốn truy tìm căn nguyên của cái tên. Hoàng Phủ chọn một
huyền thoại, để lý giải về một cái tên. Vì yêu thương dòng sông này, những người dân
ven sông đã nấu thứ nước của hàng trăm loài hoa đổ xuống để nước của dòng sông này
thơ mát muôn đời. Tôi tự hỏi, mình có đang thực lòng thực dạ muốn ôm trọn hình ảnh
của dòng sông này vào trong trái tim hay không? Bởi lẽ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
quá xuất sắc khi xây dựng hình tượng về dòng Hương – dòng Huế qua những góc nhìn
khác nhau: góc độ lịch sử, góc độ thiên nhiên, góc độ thi ca, góc độ âm nhạc, góc độ
cuộc đời,…

Bài ca về sông Hương sẽ còn được biết bao nhiêu con người hát hoài hát mãi. Ký ức có
trôi đi, thì lịch sử vẫn luôn nhuộm một màu tự hào chói lọi lên dòng sông của một khúc
tâm tình. Dòng Hương – một dòng văn hóa – một dòng Huế thật thơ!

Vợ chồng A Phủ
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

(Tô Hoài)
I. Khái quát về tác giả
Tô Hoài (1920 - 2014)
- Sinh ra trong một gia đình thợ thủ công. Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải
làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,...
nhưng có những lúc thất nghiệp.
- Sự nghiệp văn chương: Ban đầu được bạn đọc chú ý nhiều qua tác phẩm truyện
“Dế Mèn phiêu lưu ký”. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc.
Trong chiến tranh Đông Dương, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí,
nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như Truyện Tây Bắc.
- Quá trình lao động nghệ thuật hơn 60 năm miệt mài, tâm huyết, với số lượng tác
phẩm đồ sộ: 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện
dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác.
- Phong cách nghệ thuật: Lối kể chuyện có duyên, tự nhiên, là nhà văn có vốn am
hiểu rộng, khéo léo đưa hiểu biết của mình vào trong tác phẩm. Là nhà văn có
biệt tài miêu tả ngoại cảnh.
- Tác phẩm chính: Dế Mèn phiêu lưu ký (1941); O chuột (1942); Nhà nghèo
(1944); Truyện Tây Bắc (1953); Miền Tây (1967); Cát bụi chân ai (1992); Ba
người khác (2006),…
Những nhận định hay về tác giả, tác phẩm
1. “Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông như cuốn Bách khoa
Toàn thư mà không Viện sĩ nào, không Học giả nào có thể sánh được. Tôi đã có
dịp tò mò hỏi ông về Hà Nội và rất ngạc nhiên. Tôi không ngờ ông hiểu Hà Nội
sâu sắc đến thế. Tôi gọi ông là Nhà Hà Nội học, dù ông không nghiên cứu.”

Nhà thơ Trần Đăng Khoa

2. "Văn chương Tô Hoài sẽ còn mãi, xanh biếc theo thời gian. Vì nó lưu giữ cho
chúng ta đời sống. Vì nó phả lại nhịp đập của lịch sử. Vì nó nói lên câu chuyện
muôn đời của kiếp nhân sinh. Sẽ còn có ai sau Tô Hoài làm công việc ấy cho thời
này của chúng ta hôm nay?"
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

(PGS-TS Nguyễn Thị Thanh Xuân, Giảng viên trường ĐH Khoa học xã hội và
nhân văn, ĐH Quốc gia TP.HCM)

3. “Nhà văn Tô Hoài đã thôi hiện diện ở cõi người ta, một năm và mãi mãi nhưng
những tác phẩm của nhà văn Tô Hoài sẽ còn sống lâu ở cõi trần. Văn chương của
ông, những con chữ trên các trang sách của ông vẫn tiếp tục cuộc hành trình lâu
dài cùng người đọc, với người đọc. Riêng đối với Hà Nội, sự nghiệp văn chương
của Tô Hoài là một kho báu. Nhờ ông, một người chưa biết Hà Nội chỉ đọc riêng
sách của ông về chốn kinh thành này thôi đã đủ để hiểu Hà Nội là gì và thế nào.
Nhờ ông, các thế hệ mai sau muốn tìm hiểu, muốn phục dựng, muốn làm lịch sử,
nghệ thuật về Hà Nội đều có tư liệu của một chứng nhân đáng tin cậy.” (Nhà phê
bình Phạm Xuân Nguyên)

4. “Văn chương của Tô Hoài thấm đậm chất Kẻ Chợ trong giọng điệu, cái nhìn,
nhân vật, phong cảnh. Ông viết nhiều về Hà Nội, cả chuyện xưa và chuyện nay, đã
đành. Ngay cả khi ông viết về miền núi, về các chuyện lịch sử, dã sử, về những
chuyến đi nước ngoài thì thấp thoáng trong và ngoài trang sách của ông vẫn là tính
cách và cốt cách của một nhà văn Kẻ Chợ hóm hỉnh, tinh quái, khôn ngoan, rành
đời”. ((Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên)

5. “Không chỉ hấp dẫn người đọc ở nguồn tư liệu tươi rói về đời sống văn nghệ một
thời mà còn ở giọng kể và cách tạo không khí truyện kể trong tác phẩm của Tô
Hoài. Dù ở thể loại nào, hồi ký hay tiểu thuyết, người kể chuyện trần thuật ở ngôi
thứ nhất xuyên suốt ba tác phẩm Cát bụi chân ai, Chiều chiều và Ba người khác,
vẫn là nhân vật giàu trải nghiệm, luôn chuyển dẫn từ quá khứ đến hiện tại nhờ hồi
tưởng và liên tưởng, với giọng kể hóm hỉnh thể hiện cái nhìn bình thản và an nhiên
trước mọi biến cố... Sự linh hoạt của ngòi bút và phong cách văn xuôi hấp dẫn của
Tô Hoài có lẽ bắt nguồn từ chính quan niệm của ông: Cuộc đời như là văn chương”.
(Nhà phê bình văn học Đỗ Hải Ninh)

II. Về tác phẩm


a. Hoàn cảnh sáng tác
Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" in trong tập truyện Tây Bắc – Tập truyện được trao giải
nhất về truyện, kí - Giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955. "Truyện Tây
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

Bắc" là kết quả của chuyến thâm nhập thực tế của Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng
Tây Bắc (1952). Trong chuyến đi này, Tô Hoài đã sống và gắn bó nghĩa tình với đồng
bào các dân tộc Thái, Mường, Mông,..Và chính cuộc sống của đồng bào các dân tộc
miền núi đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo để Tô Hoài hoàn thành ba truyện ngắn: "Cứu
đất cứu mường", "Mường Giơn" và "Vợ chồng A Phủ".

Từ khóa ghi nhớ Chuyến đi thâm nhập thực tế - 1952 – Thành quả đẹp – Tập truyện
Tây Bắc

b. Những vấn đề cần lưu ý


1. Nhân vật: Mị - Sức sống tiềm tàng
2. Chi tiết: Tiếng sáo
3. Giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô
Hoài).
III. Hướng dẫn giải quyết các vấn đề cần lưu ý trong tác phẩm
Gợi ý cách mở bài
MB1: Trong quá trình sáng tác nghệ thuật của mình, mỗi người nghệ sĩ đều có một
không gian nghệ thuật của riêng mình. Nếu nhà thơ Hoàng Cầm, cả một đời đắm đuối
trong không gian Kinh Bắc đầy thơ và mộng, nếu Nguyên Ngọc Nguyễn Trung Thành
luôn trải lòng cùng bạn đọc qua không gian Tây Nguyên đậm chất sử thi, Hoàng Phủ
Ngọc Tường chọn Huế và viết về Huế bằng tất cả tình cảm, tình yêu của mình thì Tô
Hoài – nhà văn một thời của trẻ thơ lại chọn cho mình không gian nơi dẻo cao Tây
Bắc để đến, để sáng tác. Một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của Tô Hoài nằm
trong không gian nghệ thuật này không thể không kể tới đó là “Vợ chồng A Phủ”.
MB2: Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại VN với số lượng tác phẩm đạt
kỉ lục.Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề
tài Tây Bắc của ông .Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể . Truyện
viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của
bọn thực dân phong kiến miền núi . Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật
Mị , qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng
của nhân dân Tây Bắc.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

MB3: Tô Hoài từng tâm sự: “Đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ
cho tôi nhiều quá, tôi không thể nào quên, tôi không thể bao giờ quên được…” Người
đọc vẫn thường tự hỏi tại sao Tô Hoài lại có những khoảng nhớ thương nhiều như vậy
dành cho mảnh đất và con người Tây Bắc, để rồi trong những tác phẩm của mình, ông
viết về Tây Bắc về những con người nơi đây bằng những câu chuyện thật cảm động.
Một trong số những truyện ngắn tiêu biểu đưa Tô Hoài trở về cùng niềm thương nỗi
nhớ mang tên Tây Bắc không thể không kể tới đó chính là truyện ngắn: “Vợ chồng A
Phủ”.
Vấn đề 1: Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị

Những luận điểm cần có:


1. Khái niệm sức sống tiềm tàng
2. Nhân vật Mị - Nguồn gốc, lai lịch, cuộc sống trước và sau khi tới
nhà Thống lí Pá Tra
3. Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị thể hiện qua
· Dám chết, dám sống >> Khi cảm thấy cuộc đời không còn bất cứ ý
nghĩa nào nữa
· Đêm tình mùa xuân
· Đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ

Hướng dẫn chi tiết


* Sức sống tiềm tàng là gì?
Sức sống tiềm tàng là khả năng sống từ sâu thẳm bên trong của con người được bộc lộ
trong những hoàn cảnh khắc nghiệt. Nó được ví như hạt mầm bị vùi trong cát bỏng,
chỉ đợi một cơn mưa là nảy mầm thành cây đời xanh tươi.
* Nhân vật Mị - Nguồn gốc, lai lịch, cuộc sống ở nhà Thống lí Pá Tra
Mị là nhân vật chính của tác phẩm. Là một cô gái người dân tộc H'mông vô cùng xinh
đẹp, chăm chỉ lao động, có tài thổi lá hay như thổi sáo, được biết bao nhiêu chàng trai
yêu mến ngày đêm đi theo từ núi này sang núi nọ. Với những gì mình có, đáng lẽ Mị
phải nhận được một tương lai hạnh phúc, vậy mà, cuộc đời của Mị được ghi lại là số
phận của bi kịch. Tô Hoài đã mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả với một đoạn văn trữ tình ngoại đề: “Ai ở xa
về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai
bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa,
dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười
rượi” .
Đối với mỗi nhà văn, việc để cho nhân vật của mình xuất hiện như thế nào là một trong
những điều vô cùng quan trọng. Nếu như Nam Cao, chọn cách ném Chí Phèo lên giữa
trang sách để Chí Phèo xuất hiện cùng tiếng chửi, nếu Kim Lân để cho nhân vật bà cụ
Tứ xuất hiện với tiếng “ho húng hắng” của người già thì Tô Hoài lại để nhân vật của
mình xuất hiện trong một khung cảnh miền núi rất đặc biệt. Cách giới thiệu tạo ra
những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái
quay sợi, tảng đá, tàu ngựa ; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng
sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”.
Mị xuất hiện bên cạnh những vật vô tri, có cảm giác như người con gái ấy cũng không
hề có một chút cảm xúc nào. Trước cửa có một tảng đá đặt cạnh chuồng ngựa, hình
ảnh của tảng đá ấy phải chẳng là tảng đá của số phận đang đè nặng lên Mị. Khuôn mặt
“buồn rười rượi” gợi ra một số phận đau khổ , bất hạnh, khiến cho người đọc vô cùng
tò mò về số phận của người con gái này.
Trước khi về làm dâu nhà Thống lí, Mị vốn là một người con gái đẹp . Mị có nhan sắc,
và có khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi: “thổi lá cũng hay như thổi sáo” . Cô còn
một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương . Quả thế, Mị đã nhận
được tình yêu và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước
âm thanh hò hẹn của người yêu .
Thế nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh.
Để gánh nợ cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con
dâu gạt nợ trong nhà thống lí . Chỉ vì món nợ truyền kiếp, món nợ tiền kiếp từ hồi cha
mẹ mới lấy nhau vẫn chưa trả được, Mị trở thành cô con dâu gạt nợ không công, trở
thành vợ của A Sử - con trai nhà Thống Lý, bị chúng nó bắt về và lừa gạt một cách
trắng trợn. Những ngày ở nhà thống Lý, đối với một cô gái đã từng khao khát được
yêu, được sống như Mị mà nói, đó quả là những ngày sống ở nơi địa ngục trần gian.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con người với danh
nghĩa là con dâu, nhưng thực chất chính là tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu
ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai
cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”. Đàn bà con
gái nhà này quanh năm quần quật làm việc, Mị cũng vậy, càng ngày Mị càng không
nói, Mị cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Tất cả những cực nhọc mà Mị phải
trải qua đã khiến cho một cô gái đang ở trong thanh xuân đẹp nhất của cuộc đời mình
trở nên mất đi cảm giác được sống thực sự.
Bên cạnh làm việc quần quật như nô lệ không công cho gia đình nhà Thống lý, nhà
văn còn khắc họa đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của Mị. Một cô Mị mới hồi nào
còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm , “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” . Và
nhất là hình ảnh căn buồng của Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị
ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là
nắng . Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn
Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong
kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống . Chế độ ấy thực sự đáng
lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống
trong những con người vô cùng đáng sống.
* Sức sống tiềm tàng của Mị - Diễn biến tâm trạng của Mị
Mị đã từng muốn chết mà không được chết , vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha.
Đây là một trong những biểu hiện đầu tiên của lòng ham sống – dám chết khi nghĩ rằng
cuộc đời này không còn bất kỳ ý nghĩa nào nữa. Nhưng đến lúc có thể chết đi, vì cha
Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. Có nhiều người
cho rằng, hành động này của Mị là hết sức đáng thương thế nhưng tôi lại nghĩ khác,
tôi nghĩ rằng đây cũng chính là một trong những hành động thể hiện sự khát sống của
Mị, dám sống ngay cả khi trên cuộc đời này không còn bất kỳ ý nghĩa gì nữa. Đây là
2 trong số những tín hiệu đầu tiên chứng tỏ rằng trong trái tim của cô gái này, nhất
định vẫn ẩn chứa một lòng ham sống rất lớn.
· Đêm tình mùa xuân
Sức sống của Mị dường như mất đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia
đang là một con người. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quên trong đáy
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan, gặp thời cơ
thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng
nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu .
Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người tuổi trẻ. Thêm
một điều lạ lùng là năm ấy mùa xuân lại đến sớm với Hồng Ngài, đây quả là sự bất
ngờ bởi lâu lắm rồi xuân mới đến Hồng Ngài sớm như vậy, những biến đổi của mùa
xuân cũng đã làm cho lòng người có những xao động nhỏ. Gió rét, sắc vàng ửng của
cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các loài hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi
loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Mị quan sát thấy cảnh sắc
thiên nhiên có sự đổi khác, những đám trẻ chơi quay, chơi cù, không khí nhộn nhịp,
ấm áp tại Hồng Ngài khiến những tảng băng trong trái tim của cô gái này đang tan ra.
Tác nhân quan trọng là hơi rượu . Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống
từng bát, “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng
quên vừa đem về nỗi nhớ. Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng , người
hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tàn lúc nào cũng không hay) nhưng lại
nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi…), và quan trọng hơn là Mị vẫn
nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người : “Mị vẫn còn
trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị
và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau” .
Nhưng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh bồng về với những
khát khao hạnh phúc yêu đương có lẽ vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa
xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng
của người thiếu phụ. “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi… Tai
Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng…Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay
ngoài đường” Tiếng sáo được lặp lại nhiều lần, để rồi sau bao tháng ngày câm lặng, Mị
cất tiếng nói đầu tiên, là một bản tình ca yêu đương đầy xao xuyến.
“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Tao chưa có con trai, con gái
Tao đi tìm người yêu”
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời
khắc ấy, ta mới thấy trong lòng Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng
Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ
mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi.
Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần, cho tới khi nó
lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn
vào trong ảo giác : “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời điểm đó Mị
mới có hành động như một kẻ mộng du: Mị xắn miếng mỡ, thắp sáng căn phòng u tối;
quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm
như trong một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy
A Sử hỏi. A Sử biết Mị muốn đi chơi và chuẩn bị đi chơi, hắn tức lắm, đánh rồi trói
đứng Mị vào cột, tắt đèn đóng sập cửa lại. Những hành động nhẫn tâm của A Sử dường
như muốn đẩy Mị vào bóng tối, dìm Mị chết trong sự bế tắc và tuyệt vọng thế nhưng
Mị thật tâm chẳng hề để ý tới những gì đang diễn ra với mình. Mị đang ở trong trạng
thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh
trong cảm giác du xuân. Bây giờ, tiếng sáng vẫn đang rập rờn trong đầu của Mị, “Tiếng
sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tâm hồn Mị đang còn sống
trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc
mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân
bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến
một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và
cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai
cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần
đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà thậm chí
còn câm lặng hơn trước .
· Đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ
Mùa đông trên núi cao dài và lạnh lắm, Mị có một thói quen không thể bỏ đó là sưởi
lửa mỗi buổi đêm. Với Mị, bếp lửa là người bạn, là tri âm, là tri kỷ, là thứ hiếm hoi
mang tới cho Mị một nguồn sáng ấm áp, giúp Mị vượt qua sự lạnh giá, cô đơn trên rẻo
cao này. Dù đã có nhiều lần, A Sử về và nhìn thấy Mị sưởi lửa, hắn đạp Mị ngã lăn
nhưng Mị vẫn nhất quyết không bỏ thói quen này. Có lẽ cũng chính vì thói quen này
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

và ánh sáng của bếp lửa, đã giúp Mị nhìn thấy những giọt nước mắt lăn dài trên má
của A Phủ, để lòng ham sống của cô gái này được bùng nổ, giải thoát cho người và
cũng chính là tự giải thoát cho mình.
Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi . Những va
chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân
đã khiến A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà Thống lí. Và bản năng của một người
con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ
phàng: bị trói đứng. A Phủ đi chăn đàn bò, mải bẫy nhím để hổ ăn mất nửa con bò, thế
nhưng A Phủ thậm chí còn rượt đuổi theo và bắt được con hổ đó. Nhưng Thống lí Pá
Tra không quán tâm, điều những tên địa chủ như hắn quan tâm chỉ là đã mất một con
bò và thằng A Phủ phải chịu phạt. Chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng
thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát
trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của
cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết
đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bởi
trong hoàn cảnh của Mị, cô gái này thực sự đã quá khổ để có thể đồng cảm với nỗi khổ
của người khác, thậm chí, trái tim của Mị bây giờ còn mất hết những cảm xúc, chỉ còn
một trái tim đóng băng, lạnh giá vô cùng.
Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt:“Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước
mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã sạm đen”. Và giọt nước mắt kia là giọt nước
cuối cùng làm tràn ly nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã
từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã từng khóc, nước mắt chảy xuống
cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A
Phủ, đã giúp Mị nhớ ra hoàn cảnh của mình, xót thương cho chính mình. Và Mị đã nhớ
lại mọi chuyện, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy có
người nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần có tình thương
với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh ngộ. Nhưng nó còn vượt lên giới
hạn thương mình: “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn
người kia việc gì mà phải chết”. Mị không cảm thấy sợ hãi, chỉ cảm thấy một điều duy
nhất bây giờ: “Cha con chúng nó thật độc ác”. Nghĩ thế, Mị cầm dao cắt dây trói cho
A Phủ để rồi có khựng lại vài giây rồi bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho
mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát
vọng thay đổi số phận. Đến bây giờ, tất cả những nỗi sợ hãi như cường quyền, bạo
quyền hay thần quyền đều tan biến, chỉ còn lại trong Mị là một lòng ham sống vô cùng
mãnh liệt, trào sôi.
Hai người dắt tay nhau đi, chạy trong đêm tối, mặc kệ tất cả những khổ ải nơi Hồng
Ngài này đề tới Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu, 2 người được giác ngộ cách mạng và
kết hôn với nhau, trở thành những chiến sĩ kiên trung trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc.
Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ có lòng
yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những
con người ham sống như Mị.
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Nguyễn Minh Châu
I. VỀ TÁC GIẢ NGUYỄN MINH CHÂU (1930 - 1989)
- Là cây bút đi tiên phong cho quá trình đổi mới văn học như nhà văn Nguyên
Ngọc ca ngợi: “Nguyễn Minh Châu thuộc trong số những nhà văn mở đường
tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay”. Ông luôn ý thức về ngòi bút
của mình, luôn trăn trở, tìm tòi, đổi mới cách viết cũng như phát hiện những điều
mới mẻ, có ý nghĩa trong cuộc sống để thể hiện.
- Quá trình sáng tác của Nguyễn Minh Châu: chia làm 2 chặng:
+ Trước 1975: chủ yếu là những tác phẩm mang khuynh hướng sử thi và
cảm hứng lãng mạn.
+ Sau 1975: tác phẩm của ông chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những
vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh.
- Là cây bút có nhiều trải nghiệm trong cuộc sống, cuộc sống của những người
lính ngoài chiến trường cũng như cuộc sống của những người dân chài sau chiến
tranh, Nguyễn Minh Châu đã dựng lên một bức tranh góc cạnh có chiều sâu, có
sức khái quát cao về cuộc sống đa diện, nhiều chiều luôn vận động và phát triển.

II. VỀ TÁC PHẨM “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”


1. Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

a. Phát hiện đầy mộng mơ về một khung cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ
- Để có được tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng,
nghệ sĩ Phùng đã tới một vùng biển miền Trung từng là chiến trường cũ của anh,
đã dự tình bố cục, đã “phục kích” mấy buổi sáng để chộp được một cảnh thật
ưng ý.
- Đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra một vẻ đẹp “trời cho” trên
mặt biển mờ sương. Vẻ đẹp mà cả đời bấm máy anh chỉ có diễm phúc bắt gặp
một lần. Đó là hình ảnh một chiếc thuyền lưới vó đang lướt thẳng vào bờ trên
mặt biển mờ sương như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Nhà
văn Nguyễn Minh Châu đã miêu tả thật chi tiết và sống động khung cảnh tuyệt
mĩ ấy: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù màu trắng
sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào”, “vài bóng người lớn
lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi khum khum đang hướng
mặt vào bờ”. “Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và
đẹp một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích”. => Đó là một khung cảnh thiên nhiên
tuyệt mĩ, lung linh, huyền ảo trong màn sương sớm.
- Tâm trạng của người nghệ sĩ: Khi được chiêm ngưỡng bức ảnh nghệ thuật của
tạo hóa, người nghệ sĩ trở nên “bối rối”, cảm thấy “trong trái tim như có cái gì
bóp thắt vào”. Và, trong khoảnh khắc ấy, anh phát hiện ra “cái đẹp chính là đạo
đức”, “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh
khắc trong ngần của tâm hồn”.
=> Đó là phút giây hạnh phúc tột đỉnh bởi người nghệ sĩ đã cảm nhận được cái
chân thiện mĩ của cuộc đời, cảm nhận thấy tâm hồn mình như được thanh lọc,
như được trở nên trong trẻo và tinh khiết.
b. Phát hiện đầy nghịch lí, trớ trêu như trò đùa của cuộc sống
- Cảnh tượng: Ngay khi tâm hồn đang bay bổng với những cảm xúc thẩm mĩ, đang
tận hưởng khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn thì nghệ sĩ nhiếp ảnh đã vô cùng
ngạc nhiên khi phát hiện ra sự thật đằng sau bức tranh toàn bích, toàn thiện đó.
Anh chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người
đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu, một người đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc
ác. Đó là một cảnh tượng diễn ra trước mắt: người đàn ông đánh đập vợ một cách
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

thô bạo, dã man, đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái
bạt tai ngã dúi xuống cát.
- Thái độ của người nghệ sĩ trước cảnh tượng này: Chứng kiến những cảnh tượng
đó, nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến sững sờ, “mọi việc diễn ra khiến tôi kinh ngạc
đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Người nghệ sĩ
như “chết lặng”, anh không ngờ đằng sau cái vẻ toàn bích của tạo hóa lại có cái
xấu, cái ác đến mức không thể tin được. Không thể chịu được khi thấy cảnh
tượng ấy, Phùng đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới. Bản chất người
lính khiến anh không thể làm ngơ trước bạo hành.
c. Ý nghĩa của hai phát hiện
- Qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, bạn đọc nhận thức được rằng:
+ Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều, không phải bao giờ cũng đẹp, cũng
là nghệ thuật mà nó chứa đựng nhiều nghịch lí, mâu thuẫn giữa cái đẹp
và cái xấu, cái thiện và cái ác.
+ Người nghệ sĩ phải tìm hiểu cuộc đời trong mối quan hệ đa chiều, bằng
nhiều góc độ khác nhau.
2. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện
- Người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện theo lời mời của chánh án Đẩu, người
có ý định khuyên bảo, thậm chí đề nghị người đàn bà khốn khổ ấy từ bỏ lão
chồng vũ phu. Nhưng người đàn bà đã từ chối sự giúp đỡ ấy, chị chịu đau đớn,
đánh đổi bằng mọi giá để không phải bỏ chồng. Câu chuyện của người đàn bà
hàng chài ở tòa án huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời. Nó giúp những người
như Phùng, Đẩu hiểu được nguyên do của những điều tưởng chừng vô lí.
+ Bề ngoài, đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng
thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ,
năm ngày một trận nặng”. Vậy mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão đàn ông
vũ phu ấy.
+ Qua những lời giãi bày thật tình của người mẹ đáng thương ấy, người ta
mới thấy nguồn gốc của mọi sự chịu đựng, hi sinh của chị. Đó là tình
thương vô bờ dành cho những đứa con “đám đàn bà ở thuyền chúng tôi
cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa...phải sống
cho con chứ không thể sống cho mình.”
=> Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản thì chỉ cần yêu cầu người đàn bà li dị
chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì sẽ thấy suy nghĩ
và cách ứng xử của người đàn bà hàng chài là không thể khác được. Trong khổ
đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ
nhoi.
- Qua câu chuyện ở tòa án huyện, ta thấm thía rằng không thể dễ dãi, đơn giản
trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của đời sống.
3. Các nhân vật trong truyện
a, Nhận vật người đàn bà hàng chài
* Đây là người đàn bà không tên, điển hình cho những người phụ nữ có số phận bất
hạnh nhưng giàu tình thương yêu.
* Ngoại hình:
- Trạc ngoài 40, cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ và tấm lưng áo bạc
phếch. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm kéo lưới, tái ngắt và dường như đang
buồn ngủ.
=> Chân dung con người có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, sinh ra để gánh vác công
việc, để chèo chống với phong ba.
* Số phận:
- Xấu xí: vì xấu xí nên cơ hội hạnh phúc ít hơn những người khác, bệnh đậu mùa
khiến chị rỗ mặt. Mặc dù gia đình khá giả, có nhà ở trên phố nhưng vì ngoại hình
xấu xí nên không nên duyên với ai. Người đàn bà lại có mang với một anh con
trai nhà hàng chài hay đến nhà mua đồ về đan lưới nên họ đã trở thành vợ chồng.
- Nghèo khổ: gia đình đông đúc trên một con thuyền chật hẹp nghèo túng quanh
năm. Những ngày không đi biển được, cả nhà phải ăn xương rồng luộc chấm
muối.
- Bị bạo hành gia đình:
+ Bạo hành về thể xác: Người chồng chị vốn hiền lành nhưng cục tính, bị
cái nghèo, cái khổ và nỗi vất vả đè nặng nên biến đổi tâm tính trở thành
kẻ vũ phu, thường xuyên đánh vợ để giải tỏa những khó chịu, ấm ức “ba
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, cứ khi nào lão thấy khổ quá
lại lôi vợ ra đánh, trút giận với những lời lẽ cay độc”. Người đàn bà chỉ
nhẫn nhịn chịu đựng “không hề kêu một tiếng, không chống trả, không
tìm cách chạy trốn”.
+ Những khổ sở, dằn vặt về tinh thần: khi phải chứng kiến đứa con căm ghét
bố đến tột cùng mà mình không có cách nào để xóa đi sự thù hằn đó,
người đàn bà đã ý thức được sự nguy hiểm của cái ác và thói côn đồ hình
thành trong lòng đứa con. Chị đã cho con về sống với ông ngoại ở trên
rừng nhưng mỗi lần đi cùng ông chở gỗ về miền biển, thằng bé lại không
thể làm ngơ khi mẹ bị đánh. Với sự bồng bột của tuổi trẻ, đứa con đã ném
hận thù về phía người cha và sẵn sàng giấu con dao trong người để giết
cha, khiến người mẹ vô cùng đau đớn. Nỗi đau này lớn hơn nỗi đau thể
xác.
* Vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất:
- Yêu thương chồng con:
+ Chị chấp nhận, cam chịu bị đánh không kêu ca, không trốn chạy bởi chị
hiểu trong cuộc sống mưu sinh đầy gian khổ trên con thuyền rất cần người
đàn ông dù người đàn ông ấy có man rợ, tàn bạo. Vì cuộc sống của những
đứa con, chị thà bị đánh chứ không chịu bỏ chồng.
+ Chị đã từ chối lời đề nghị giải thoát ra khỏi lão chồng vũ phu với lí lẽ:
“Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không phải sống
cho mình như trên đất được.” Đây là cách ứng xử thể hiện tình yêu thương
con vô bờ.
+ Hành động thương con: gọi con, ôm chầm lấy con, đau đớn khi con đã
chứng kiến cảnh bạo lực gia đình.
- Giàu lòng nhân hậu, vị tha và luôn biết chắt chiu những hạnh phúc đời thường.
+ Cách nhìn của người đàn bà về người chồng của mình: Nếu nghệ sĩ Phùng
nhìn người đàn ông dưới góc độ lí lịch, thành phần, chánh án Đẩu nhìn
người đàn ông dưới góc độ pháp luật, thằng Phác nhìn người đàn ông dưới
con mắt trẻ thơ thì chỉ duy nhất người phụ nữ - nạn nhân của bạo hành gia
đình lại nhìn anh ta dưới con mắt thương cảm bởi chị hiểu lí do vì sao
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

người chồng lại trở nên độc ác như vậy. Đó là vì cái đói cái nghèo, vì gánh
nặng mưu sinh đã ghì con người ta xuống sát đất, biến đổi cả tâm tính con
người. Trong khi mọi người nhìn người đàn ông như một ác nhân thì
người phụ nữ nhìn anh ta như một nạn nhân.
+ Người phụ nữ luôn chắt chiu, trận trọng những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi,
đời thường: vui nhất khi nhìn đàn con được ăn no, khi vợ chồng, con cái
sống vui vẻ, hòa thuận.
- Mặc dù thất học nhưng có cái nhìn sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời, thấu tình đạt lí.
+ Qua những tâm sự ở tòa án huyện: Chị xuất hiện ở tòa án huyện trong tâm
thế bị động, không tự nguyện và cũng không muốn viết đơn bỏ chồng.
Khi mới bước chân đến tòa án, chị tỏ ra rất lúng túng và sợ sệt, xưng hô
lễ phép “con” - “quý tòa” và nhìn xung quanh với ánh mắt lo sợ. Nhưng
khi nghe lời khuyên và hiểu thiện chí của Đẩu, của Phùng, chị thay đổi
thái độ: từ chối lời đề nghị giúp đỡ, đau đớn đánh đổi mọi giá để không
phải bỏ chồng, đưa ra những lí do bằng việc kể lại câu chuyện về cuộc
đời mình. Qua câu chuyện ta thấy được trong sự cam chịu, nhẫn nhục đầy
vô lí ấy lại chứa đựng cái lí của sự hi sinh.
+ Có thể thấy sự sắc sảo, hiểu biết, thấu hiểu lẽ đời ở người phụ nữ này
không bộ lộ, hiển hiện ở bên ngoài mà được cất giữ, giấu kín ở bên trong.
Đây là người phụ nữ khiêm nhường, dù biết tất cả nhưng không chọn cách
sống cho riêng mình.
=> Qua câu chuyện, ta thấy rõ không thể dễ dãi đơn giản trong việc nhìn nhận một sự
việc, hiện tượng, con người trong cuộc sống.
* Chiều sâu tư tưởng của nhà văn gửi gắm qua nhân vật
- Giá trị hiện thực: Đất nước vẫn chưa thoát khỏi sư chấn của chiến tranh, đời sống
của nhân dân và số phận cá nhân là những vấn đề không thể giải quyết nhanh
chóng, cách mạng không thể giải quyết bi kịch cho mỗi cá nhân một cách đơn
giản, bởi vậy mỗi con người phải đối diện với bi kịch của cuộc đời mình, chấp
nhận nó và dung hòa với nó.
- Giá trị nhân đạo:
+ Thể hiện cái nhìn mang tính chất cảm thông, chia sẻ.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

+ Lên án nạn bạo hành gia đình với những hành động đi ngược lại quyền
sống của con người, phá hủy mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người.
+ Phát hiện và ca ngợi những phẩm chất của con người. Từ đó đặt niềm tin
vào bản tính tốt đẹp của con người.
* Khái quát
- Nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống đầy nghịch lí thông qua việc khắc họa
ngoại hình và xây dựng lớp ngôn ngữ đối thoại để người đàn bà hàng chài bộc
lộ những phẩm chất đáng quý. Từ đó nhà văn phản ánh chân thực cuộc sống với
những bi kịch của con người miền biển sau chiến tranh và thể hiện những đổi
mới trong quan niệm của nhà văn về con người, về cách nhìn nhận cuộc sống.
- Với cách xây dựng tình huống và nghệ thuật kể chuyện độc đáo, chân thực, nghệ
thuật xây dựng nhân vật sống động, đào sâu tâm lí để nhân vật tự đối diện và
phơi trải lòng mình, “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu đã để lại
trong lòng người đọc những dư vang nghệ thuật về cuộc sống.
b, Nhân vật nghệ sĩ Phùng
* Vị trí
- Nhân vật Phùng được khám phá ở vẻ đẹp của 1 người lính và của 1 người nghệ
sĩ. Đó là con người có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, mang trong mình tình yêu cái
đẹp mãnh liệt. Đồng thời anh cũng là một con người nhân hậu, giàu trách nhiệm
với cuộc đời.
* Đặc điểm tính cách
- Phùng là một nghệ sĩ chân chính, nhạy cảm và có tình yêu cái đẹp mãnh liệt
+ Thể hiện qua tâm hồn tinh tế với những rung cảm rất mãnh liệt, luôn khao
khát tìm kiếm cái đẹp hoàn mỹ. Phùng là một người say mê công việc và
có ý thức trách nhiệm với nghề nghiệp của mình. Anh sẵn sàng bỏ ra hàng
tuần để săn lùng bức ảnh đẹp. Nhờ vậy Phùng đã chụp được bức ảnh đích
thực của một đời lao động nghệ thuật và phát hiện được nhiều điều.
+ Phẩm chất nghệ sĩ của Phùng thể hiện qua cách anh cảm nhận sâu sắc về
cuộc sống và con người.
Phùng đã phát hiện ra sự đối lập trong bức tranh miền biển: Phát hiện thứ
nhất đầy vẻ thơ mộng. Anh cảm nhận được vẻ đẹp mơ màng, huyền ảo
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

của thiên nhiên vùng biển, đặc biệt là hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa trên
biển sớm mờ sương. Từ góc độ của một người nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng
hài lòng với những gì mình đã kịp ghi lại trong ống kính. Bức ảnh ấy là
sáng tạo, là công sức của một đời nghệ sĩ, là khoảnh khắc bùng phát của
niềm đam mê nghệ thuật. Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí khi con thuyền
tiến vào bờ. Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến một sự thật nghiệt ngã,
sự bạo hành gia đình.
Mặc dù khám phá ra những đối lập song Phòng không quay lưng lại với
sự thật cho dù nó phũ phàng, trần trụi. Anh đã hai lần chứng kiến cảnh
người đàn ông đánh đập vợ một cách tàn nhẫn và trực tiếp nghe câu
chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện, từ đó dẫn đến sự thay
đổi trong cách nhìn của Phùng về nghệ thuật và cuộc đời: từ mơ mộng,
bay bổng đến sững sờ, vỡ lẽ, từ thương hại, bất bình đến cảm thông, thấu
hiểu. Đó cũng là quá trình đi tìm bản chất nghệ thuật và cuộc sống của
người nghệ sĩ.
- Phùng còn là một người lính với tấm lòng nhân hậu, cao đẹp
+ Là chiến sĩ từng tham gia kháng chiến chống Mỹ, anh luôn tôn trọng lẽ
phải và sự công bằng xã hội. Hai lần chứng kiến cảnh người đàn ông đánh
vợ, Phùng xông vào can thiệp, chân thành muốn giúp đỡ người đàn bà
đáng thương.
+ Dũng cảm bênh vực những phận người khốn khổ, mở rộng hồn mình để
lắng nghe “những vang động của đời”
* Đánh giá
- Xuất thân từ một người lính bước ra từ chiến tranh, Phùng đã có quá trình tự
nhận thức về cuộc đời: đằng sau câu chuyện của gia đình hàng chài là cả một vấn
đề nhân sinh và để nhận ra được điều đó cần phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc.
- Nhân vật Phùng thuộc kiểu nhân vật tự nhận thức. Anh hội tự trong mình vẻ đẹp
của một người nghệ sĩ chân chính và vẻ đẹp của một người lính có tấm lòng nhân
hậu. NMC đã khắc họa thành công nhân vật này trong một tình huống đầy nghịch
lí với điểm nhìn trần thuật độc đáo. Câu chuyện được kể dưới cái nhìn của Phùng
nên càng gần gũi, chân thực và sâu sắc hơn.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

c, Nhân vật bé Phác


- Phản ứng quyết liệt khi chứng kiến cảnh bố đánh mẹ.
- Tuyên bố với các bác ở xưởng đóng tàu: nó còn có mặt ở duwois biển này thì mẹ
nó không bị đánh.
- Hành động an ủi mẹ: “lặng lẽ đưa ngón tay lên khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ
như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt.”
=> Thương mẹ theo kiểu trẻ con, sốc nổi theo cách của đứa con trai vùng biển.
4. Tấm ảnh trong bộ lịch năm ấy
- Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ đều thấy “hiện lên cái màu
hồng hồng của ánh sương mai”, nhìn lâu hơn nữa bao giờ anh cũng thấy “người
đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh…”
+ “Cái màu hồng hồng của ánh sương mai chính là chất thơ của cuộc sống,
là cái đẹp lãng mạn của cuộc đời, là biểu tượng của nghệ thuật.
+ “Người đàn bà bước ra từ tấm ảnh” là hiện thân cho những lam lũ, khốn
khó đời thường, là sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh.
=> Quan niệm của nhà văn về nghệ thuật: Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa
cuộc đời và phải là cuộc đời, luôn luôn vì cuộc đời.
5. Đặc sắc nghệ thuật
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, mang ý nghĩa phát hiện về đời
sống. Tác giả đã tạo ra nhiều tình huống như thế vừa nối tiếp nhau trong mạch
truyện, lại vừa đột ngột, bất ngờ giúp người đọc nhận ra bản chất của sự việc một
cách thú vị, thấm thía để hiểu sâu sắc chủ đề của tác phẩm. Các tình huống truyện
cứ thế nối tiếp nhau và được NMC đẩy lên cao trào, ngày càng xoáy sâu hơn để
phát hiện, khám phá tính cách con người và sự thật cuộc đời.
- Nghệ thuật kể chuyện sinh động: người kể chuyện là Phùng. Quan đó tác giả đã
tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống
của tình huống truyện, lời kể trở nên khách quan, chân thực, giàu tính thuyết
phục.
- Ngôn ngữ nhân vật: phù hợp với đặc điểm tính cách, bộc lộ phần tâm hồn bên
trong nhân vật:
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

+ Lời của người đàn ông: thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ đầy vẻ tục tằn,
thô bạo.
+ Lời người đàn bà: dịu dàng, xót xa khi nói với con, thật đau đớn và thấu
trải lẽ đời khi nói về thân phận mình.
+ Lời của Đẩu ở tòa án huyện thể hiện một con người tốt bụng và nhiệt
thảnh.

III. TÀI LIỆU MỞ RỘNG


1. Mở bài
MB1: Ai đó đã từng viết: “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức
phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp”. Có lẽ nhận
định đó chính là nơi khơi nguồn cảm hứng cho rất nhiều nhà văn Việt Nam trong đó
không thể không kể đến Kim Lân với nhân vật người vợ nhặt và Nguyễn Minh Châu
với nhân vật người đàn bà hàng chài. Cả hai nhân vật đều mang một hoàn cảnh đặc biệt
và mới lạ trong làng văn xuôi hiện đại và nó cũng làm sáng lên giá trị nhân đạo của cả
hai tác phẩm.

MB2: Nguyễn Minh Châu từng tâm niệm trong sự nghiệp cầm bút của mình: “Văn học
và đời sống là những đường tròn đồng tâm và tâm điểm chính là con người.” Quả thực
là như vậy. Nếu như trước đó, bước vào văn nghiệp trong tâm thế của một cây bút lãng
mạn, thì sau này, trong quá trình viết, tìm hiểu khai thác về cuộc đời, Nguyễn Minh
Châu nhìn nhận ra được sứ mệnh của người cầm bút. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài
xa” là một trong những truyện ngắn thể hiện rõ nét tư duy “nghệ thuật vị nhân sinh” –
văn học sinh ra là vì con người, vì cuộc đời của ông.

MB3: Trong tôi vẫn luôn còn đó những ám ảnh bởi bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa”
của Nguyễn Minh Châu. Biết bao nhiêu những nghiệt ngã sau vẻ đẹp tưởng chừng hoàn
mỹ đến vậy để cho bạn đọc thấy được những khía cạnh khác của xã hội những năm 80
đầy “giông bão”. Có một nhân vật đã để lại rất nhiều ấn tượng với đọc giả - là người
đàn bà hàng chài – hình ảnh của một người phụ nữ với vẻ ngoài không được đẹp đẽ
nhưng lại mang trong mình một vẻ đẹp khuất lấp, một sức sống mãnh liệt. Để rồi, hình
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

ảnh của người đàn bà hàng chài đã sống như thế, in đậm trong trái tim của bạn đọc nhiều
thế hệ.

MB4: Có một nhà văn đã từng nói: “Cái đẹp chính là liều thuốc giúp trái tim của người
nghệ sĩ thăng hoa hơn. Cái đẹp thanh lọc tâm hồn con người, cái đẹp khiến cho người
ta trở nên thánh thiện và cao thượng hơn.” Tôi vẫn còn nhớ nhân vật Phùng trong “Chiếc
thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu) đã từng xúc động, bối rối như thế nào khi khám
phá ra một vẻ đẹp toàn bích lúc ngắm nhìn bức tranh chiếc thuyền mờ ảo trong sương
khói. Nhân vật Phùng cũng từ bức tranh toàn bích này khám phá ra muôn màu, muôn
vẻ của cuộc sống đời thường. Và nhân vật này, cũng đã giúp cho nhà văn Nguyễn Minh
Châu thể hiện được tư tưởng, triết lý nhân văn sâu sắc về vẻ đẹp con người, vẻ đẹp nghệ
thuật, vẻ đẹp cuộc đời.

2. Kết bài
KB1: Qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã nêu lên bài học
về cái nhìn đa diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với các nghệ sĩ
chân chính. Từ tình huống truyện có ý nghĩa khám phá, phát hiện về sự thật đời sống
và qua sự thay đổi nhận thức của Phùng, của Đẩu, tác giả đã khẳng định mối quan hệ
giữa nghệ thuật và hiện thực. Theo ông, bổn phận của người nghệ sĩ là phải phát hiện
ra bản chất của cuộc đời. Cái Đẹp, cái Thiện trước hết phải là sự chân thực, Cuộc sống
vốn phức tạp, chúng ta không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận con người và cuộc
sống mà cần có cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc cùng với sự tìm tòi, phát hiện để hiểu đúng
bản chất của nó.

KB2: Những thay đổi trong nhận thức của nhân vật Phùng và Đẩu là bước ngoặt quan
trọng giúp nhà văn Nguyễn Minh Châu truyền tải thông điệp của mình. Thêm vào đó,
đây cũng chính là sự củng cố cho bản thân nhà văn với tư duy văn học đầy mới mẻ của
mình: “Văn học và đời sống là những đường tròn đồng tâm và tâm điểm chính là con
người.”
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

KB3: Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã trở
thành một viên ngọc quý của văn học Việt Nam trong những năm 80 - Giai đoạn chứng
kiến những đổi mới trong xã hội và cả trong lĩnh vực văn học. Nguyễn Minh Châu đi
sâu vào khai thác những vấn đề tưởng chừng nhỏ nhặt nhưng lại đem tới bài học thấm
thía, giúp người đọc nhận ra được những góc khuất khác nhau về con người. Nhìn mọi
vấn đề, sự việc, chúng ta cần trang bị cho mình một cái nhìn đa chiều. Không dừng lại
ở đa chiều, hãy nhìn nhận dưới góc độ cảm thông để cảm thấy cuộc đời này vẫn còn
thấm đẫm tình người đến vậy!

KB4: Hình ảnh người đàn bà hàng chài đã trở thành “nỗi ám ảnh" với chính nhân vật
người nghệ sĩ Phùng, cũng là hình ảnh đem đến những ấn tượng đặc biệt trong lòng đọc
giả. Một chút ồn ào, một chút đau đớn, một chút tủi hờn, một chút xót thương, một chút
đồng cảm,...tôi vẫn nghĩ rằng những cảm xúc bản thân còn lưu lại sau khi đọc xong câu
chuyện này còn nhiều hơn như thế. Và hình ảnh người đàn bà hàng chài vẫn vẫn, đẹp
đẽ, thánh thiện, bao dung. Người đàn bà ấy là biểu trưng cho biết bao nhiêu những người
phụ nữ hàng chài khác mang trong mình một vẻ đẹp khuất lấp, chỉ cần gạt nhẹ một chút
đã thấy sáng lấp lánh, long lanh.

3. Nhận định liên hệ


1. Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ kì diệu đến nỗi cả một
đời người cũng chưa đủ để nhận thức khám phá tất cả những cái đó. (Nguyễn Minh
Châu)
2. Trên con đường đi tới chủ nghĩa hiện thực, đôi khi chúng ta phải khai chiến cả với
những quan niệm tốt đẹp và lâu dài của chính mình. (Nguyễn Minh Châu)
3. Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ
cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm
ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân
phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và
sống cùng cuộc đời (Lê Ngọc Chương - “Chiếc thuyền ngoài xa”, một ẩn dụ của Nguyễn
Minh Châu)
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

4. Nhân quyền “giống như món trang sức đắt tiền trong tủ kính mà những đôi bàn tay
lam lũ không thể chạm vào”. (Trích bài viết “Chiếc thuyền ngoài xa: sự xa xỉ quyền của
con người)
5. Truyện mang lại nhiều dư âm trong lòng độc giả, khắc khoải về số phận một người
đàn bà như thế, thật mỏng manh, xa vời, chấp chới như “chiếc thuyền ngoài xa” không
biết đâu là bến bờ hạnh phúc. (Ngọc Huy)
6. Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt
Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này. (Nhà
văn Nguyễn Khải)
7. Những cái tưởng như bình thường, lặt vặt trong cuộc sống hàng ngày, dưới con mắt
và ngòi bút Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết
lí. (Nhà văn Tô Hoài)

RỪNG XÀ NU
Nguyễn Trung Thành
I. VỀ TÁC GIẢ NGUYỄN TRUNG THÀNH
- Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) là nhà văn có sở trường viết về vùng đất
Tây Nguyên hùng vĩ, thơ mộng mà anh hùng, bất khuất.
- Ông hiểu về phong tục tập quán và con người Tây Nguyên - nơi ông từng yêu
mến, gắn bó trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông đã viết
về con người ở mảnh đất này với tấm lòng trân trọng, cảm phục: trong cuộc
kháng chiến chống Pháp là “Đất nước đứng lên”, trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ là “Rừng xà nu”, cả hai tác phẩm đều được xem là đỉnh cao của văn học hiện
đại trong hai thời kì lịch sử đó.
- Truyện của Nguyễn Trung Thành có lối viết trong sáng, chặt chẽ, ngôn ngữ đẹp,
giàu chất hiện thực nhưng lại có tầm khái quát cao, đậm chất sử thi và cảm hứng
lãng mạn, tất cả tạo nên sức hấp dẫn và lôi cuốn với người đọc.

II. VỀ TÁC PHẨM RỪNG XÀ NU


Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

* Xuất xứ: Viết năm 1965, in lần đầu trên tạp chí Văn nghệ Quân Giải phóng Trung
Trung bộ số 2/1965, sau được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện
Ngọc”.
* Hoàn cảnh sáng tác:
- Đầu năm 1965, Mỹ đổ bộ ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra
miền Bắc.
- “Rừng xà nu” được viết đúng thời điểm cả nước sục sôi đánh Mỹ và được hoàn
thành ở khu căn cứ chiến trường miền Trung Trung Bộ.
- Mặc dù “Rừng xà nu” viết về sự kiện nổi dậy của dân làng Xô Man trong thời kì
đồng khởi trước 1960 nhưng chủ đề tư tưởng tác phẩm vẫn có quan hệ mật thiết
với tình hình thời sự của cuộc kháng chiến lúc tác phẩm ra đời.
* Hướng dẫn phân tích tác phẩm
1. Hình tượng rừng xà nu, cây xà nu
a. Giới thiệu khái quát về cây xà nu
- Cây xà nu là một loại cây họ thông, có nhiều ở Tây Nguyên, đây là loại cây có
sức sống mãnh liệt, nó có thể sinh sôi, nảy nở ngay cả trên những vùng đất khô
cằn hay khí hậu khắc nghiệt: “Một loại cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và
trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứa nhựa, tán lá vừa thanh nhã, vừa rắn rỏi,
vừa mênh mông, tưởng như đã sống từ ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau,
từng cây, hàng triệu cây vô tận…” Chính loài cây có sức sống man dại và trong
sạch này đã trở thành nỗi ám ảnh đối với Nguyễn Trung Thành khi viết về Tây
Nguyên.
- Ý nghĩa và vị trí:
+ Mở đầu tác phẩm nhà văn đã tập trung miêu tả cây xà nu bằng một đoạn
văn dài. Kết thúc tác phẩm vẫn là hình ảnh những rừng xà nu nối tiếp nhau
chạy đến tận chân trời. Đây là kết cấu theo kiểu đầu cuối tương ứng, không
chỉ có ý nghĩa hoàn tạo ấn tượng cho kết cấu tác phẩm mà còn nhấn mạnh
ý nghĩa biểu tượng của cây xà nu.
+ Rừng xà nu còn có mặt trong suốt tác phẩm với những biến thể khác nhau
như củi xà nu, khói xà nu, nhựa xà nu, lá xà nu. lửa xà nu...
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

=> Xà nu trở thành một hình tượng nghệ thuật độc đáo, chứa đựng ý nghĩa tư tưởng sâu
xa của tác phẩm.
b. Phân tích
● Ý nghĩa thực
- Xà nu là loại cây đặc thù, tiêu biểu cho vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng
Tây Nguyên.
- Hình ảnh xà nu trong tác phẩm còn tạo nên một không gian nghệ thuật mang
đậm hương vị sử thi của câu chuyện.
● Ý nghĩa biểu tượng: xà nu được miêu tả trong sự ứng chiếu với con người.
- Xà nu trở thành một nhân vật gắn bó mật thiết với cuộc sống chiến đấu của con
người Tây Nguyên.
+ Có mặt trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người dân làng Xô Man,
lửa xà nu cháy giần giật trong bếp, khói xà nu dùng để xông bảng cho Tnú
và Mai học chữ.
+ Tham dự vào những sự kiện trọng đại, chứng kiến bao thăng trầm biến cố
và cũng như bước đường trưởng thành của dân làng Xô Man, Tnú đọc thư
anh Quyết gửi trước khi hi sinh dưới ánh lửa xà nu, cụ Mết kể lại với dân
làng trang sử bi hùng của làng Xô Man gắn với một quãng đời của Tnú
trong nhà ưng, bên bếp nửa xà nu cháy sáng; khi Tnú bị bắt, giặc đã đốt
tay anh bằng giẻ tẩm nhựa xà nu.
- Cây xà nu trở thành biểu tượng cho số phận và phẩm chất của con người Tây
Nguyên, được đặc tả ở phần mở đầu và phần cuối của tác phẩm.
+ Mở đầu tác phẩm là hình ảnh ngọn đồi xà nu bị tàn phá bởi đại bác của
kẻ thù: “hàng vạn cây, không có cây nào không bị thương… chỗ vết
thương nhựa ứa ra tràn trề… rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành
từng cục máu lớn” => những thương tích ấy thượng trung cho những mất
mát, đau thương vô bờ mà dân làng Xô Man nói riêng và đồng bào Tây
Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc kháng chiến: anh Xút, bà
Nhan bị chặt đầu treo trên cây vả, mẹ con Mai bị sát hại, đôi bàn tay Tnú
bị tra tấn…
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

+ Hình ảnh những cây xà nu non, mới mọc, thay thế những cây đã ngã “ngọn
xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời gợi nhắc đến thế hệ trẻ
của dân làng Xô Man với sức sống mãnh liệt, mạnh mẽ, ham mê lí tưởng,
tiếp nối thế hệ đi trước trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Đó là Tnú, Mai
mưu trí dũng cảm. Đó là Dít gan góc, mạnh mẽ. Đó là bé Heng thông
minh nhanh nhẹn.
+ Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy
ánh nắng…” tượng trưng cho niềm khát khát khao tự do, hướng tới ánh
sáng của Đảng, lí tưởng cách mạng của nhân dân Tây Nguyên: Tnú và
Mai từ nhỏ đã tham gia nuôi giấu cán bộ, Tnú vượt ngục đi giải phóng
quê hương, Dít thay Mai làm cách mạng.
+ Sự tồn tại kì diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ
thù: “Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng
chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh,
thay thế những cây đã ngã…” => tượng trưng cho sức sống mãnh liệt, bất
khuất kiên cường mà sự vươn lên mạnh mẽ của người dân Tây Nguyên
trong cuộc chiến mất còn với kẻ thù: Tnú bị tra tấn dã man, bị đốt mười
ngón tay nhưng vẫn kiên cường tiếp tục cầm súng chiến đấu.
+ Hình ảnh cây xà nu đại thụ ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng:
Mang bóng dáng của cụ Mết - người già làng nuôi dưỡng ngọn lửa khát
vọng, tự do, là chỗ dựa tinh thần cho các thế hệ con cháu. Cụ Mết được
hình dung như một cây xà nu lớn vững chãi, hiện thân cho truyền thống
thiêng liêng của bao thế hệ dân làng Xô Man.
Mang ý nghĩa ẩn dụ về những con người đang chiến đấu để bảo vệ quê
hương đất nước trong những năm chống Mĩ.
+ Những ngọn đồi xà nu, những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy hút tầm
mắt đến tận chân trời cho thấy rừng xà nu không chỉ tượng trưng cho một
làng Xô Man bé nhỏ hay một vùng núi rừng Tây Nguyên. Đó còn là biểu
tượng cho cả miền Nam, cả dân tộc Việt Nam trong những năm kháng
chiến chống Mĩ.
c. Đánh giá
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

- Nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, biểu tượng, từ ngữ giàu hình ảnh, giàu sức biểu cảm.
- Có thể nói hình tượng xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn
Trung Thành, nó được dùng như một ẩn dụ chỉ những con người Tây Nguyên:
yêu tự do, giàu sức sống, bất khuất, kiên trung, thủy chung với cách mạng. Như
vậy hình tượng xà nu đã được tác giả đưa lại cho bao ý nghĩa mới mẻ, giàu tính
thẩm mĩ và ý nghĩa nhân sinh.
2. Hình tượng nhân vật Tnú
a. Giới thiệu khái quát về Tnú
- Nhà văn là nhà văn gắn bó mật thiết và có duyên với đất và người Tây Nguyên,
ngòi bút của Nguyễn Trung Thành luôn bám sát với những vấn đề cấp thiết và
trọng đại của dân tộc. Trang văn của ông mang đậm tính sử thi và ngợi ca chủ
nghĩa anh hùng cách mạng.
- “Rừng xà nu” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Trung Thành.
Truyện ngợi ca lòng yêu nước, sức sống quật cường của con người Tây Nguyên
bên những rừng xà nu bạt ngàn, từ đó khẳng định một chân lí khách quan “Chúng
nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, chỉ có đấu tranh bạo lực cách mạng để
chống lại bạo lực phản cách mạng mới mang đến chiến thắng trước bè lũ Mỹ -
Ngụy
- Qua nhân vật Tnú, tác giả không chỉ muốn khắc họa một tượng đài anh hùng mà
còn thể hiện niềm tự hào đối với thế cha anh trong cuộc kháng chiến vĩ đại của
dân tộc.
b. Phân tích
● Từ nguyên mẫu ngoài đời đến ý đồ nghệ thuật
- Nguyên mẫu của nhân vật là anh Đề, người Xê Đăng. Để làm nổi bật không khí
Tây Nguyên, nhà văn đã thay anh Đề bằng Tnú, thay Xê Đăng bằng Strá, làng
Xô Man.
● Khi Tnú còn nhỏ
- Xuất thân: là một đứa trẻ mồ côi lớn lên bằng sự đùm bọc và che chở của người
dân làng Xô Man, Tnú là người anh hùng được hun đúc từ tinh thần Xô Man, từ
dòng máu thuần khiết của con người Tây Nguyên bất khuất được truyền từ đời
Đăm Săn, Xinh Nhã.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

- Phẩm chất: Ngay từ nhỏ, Tnú đã gan góc, dũng cảm, kiên cường, tuổi thơ đầy ắp
truyện chiến đấu, chiến công:
+ Tnú đã sớm giác ngộ CM, từ bé anh đã luôn ghi nhớ lời dạy của cụ Mết:
“Cán bộ là Đảng, Đảng còn thì núi nước này còn”
+ Bất chấp sự lùng vây, khủng bố dã man của kẻ thù, Tnú và Mai vẫn xung
phong vào rừng nuôi giấu cán bộ.
+ Sự gan góc, trung thực biểu hiện rõ nhất qua chi tiết Tnú học chữ. Học
chữ thua Mai, để trị tội hay quên mặt chữ, Tnú đã lấy đá đập vào đầu đến
chảy máu.
+ Đi liên lạc, phải đi đường rừng, Tnú rất sáng ý: giặc phục kích, Tnú trèo
lên cây cao nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi, qua sông không lội
chỗ nước êm mà cưỡi lên những con thác, băng băng như cá kình, bằng
lòng quả cảm, gan góc, phi thường.
+ Một lần vượt sông Đắk Năng, Tnú bị giặc phục kích và bị bắt, cậu chì kịp
nuốt lá thư vào bụng, giặc tra tấn, tấm lưng nhỏ ngang dọc những vết dao
chém, máu ứa ra, Tnú vẫn không thốt lên một lời khai, thậm chí dám chỉ
vào bụng mình mà trả lời bọn giặc: " Cộng sản ở đây."
● Khi trưởng thành
- Sau ba năm bị bắt giam, Tnú vượt ngục về làng. Anh Quyết đã hi sinh, Tnú
cùng cụ Mết lãnh đạo dân làng Xô Man mài giáo mác đứng lên kháng chiến.
Anh trở thành chỉ huy trưởng đội du kích Xô Man.
- Mối tình đậm màu sắc bi tráng với Mai:
+ Tnú có mối tình đẹp với Mai - một cô gái S trá xinh đẹp, dịu dàng, dũng
cảm. Họ đã có một gia đình hạnh phúc khi một bé trai kháu khỉnh ra đời.
+ Nhung tổ ấm hạnh phúc ấy đã bị kẻ thù phá hoại một cách tàn bạo: thằng
Dục ở đồn Đắc Hà đã dẫn một tiểu đội về đàn áp CM Xô Man. Tnú, cụ
Mết và thanh niên trốn vào rừng hoạt động bí mật. Bọn giặc dùng gậy sắt
tra tấn mẹ con Mai đến chết nhằm uy hiếp tinh thần Tnú và dân làng.
Chứng kiến cảnh vợ con bị tra tấn dã man, Tnú đã bứt đứt hàng chục quả
vả mà không hay. Anh chồm dậy. Cụ Mết định can ngăn nhưng nhìn thấy
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

ở hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn, căm thù sôi sục, anh xông ra
cứu vợ con.
+ Tnú không thể cứu được vợ con, anh bị giặc bắt. Chúng cuộn giẻ tẩm
nhựa xà nu vào mười đầu ngón tay anh, đốt thành mười ngọn đuốc.
Hình ảnh bàn tay Tnú bốc cháy đã tố cáo tội ác dã man của quân giặc.
Chúng thâm hiểm, độc ác, dùng vật thân thiết nhất của dân làng Xô Man
là nhựa xà nu để tra tấn anh.
Hình ảnh này còn cho thấy sự dũng cảm, can trường, khí phách bất khuất
của người anh hùng, dù đau đớn nhưng Tnú không thèm kêu van.
+ Khi nghe tiếng bước chân bên nhà ưng, Tnú thét lên một tiếng. Ngay lập
tức tiếng thét ấy chuyển thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn: "Giết". Dưới
sự chỉ huy của cụ Mết, dân làng Xô Man đã tấn công, tiêu diệt kẻ thù.
- Tnú trở thành chiến sĩ giải phóng có tinh thần kỉ luật cao với trái tim sôi sục căm
giận và lòng yêu thương sâu sắc.
+ Bị kẻ thù cướp mất gia đình và đôi bàn tay nhưng Tnú không đầu hàng số
phận, anh vượt lên, tình nguyện đi bộ đội, trả thù cho gia đình và bảo vệ
quê hương.
+ Tnú còn là người giàu tình yêu thương, yêu quê hương gia đình. Trên
đường đi chiến đấu, Tnú luôn nhớ về hình ảnh quê nhà, về phép một
đêm, sáng hôm sau đã lên đường trở về đơn vị theo đúng quy định.
=> Tnú hiện lên như một người anh hùng với phẩm chất phi thường lại vừa nhân hậu,
đời thường.
● Hình ảnh đôi bàn tay Tnú: Đây là hình tượng nghệ thuật đầy ám ảnh, nó là hiện
thân của số phận cùng những phẩm chất tâm hồn của Tnú.
- Khi còn lành lặn:
+ Là đôi bàn tay của yêu thương, tình nghĩa: đôi bàn tay đã xách xà lét giấu
vài lon gạo đi nuôi cán bộ, đôi bàn tay đi lấy đá trắng từ núi Ngọc Linh
về học chữ, đôi bàn tay từng đập đá vào đầu mình đến chảy máu, đôi bàn
tay đưa công văn đi liên lạc, đôi bàn tay đã nắm tay Mai xúc động và
chính đôi bàn tay ấy đã bảo vệ mẹ con Mai khi bị giặc tra tấn.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

+ Là đôi bàn tay của trung thành, tín nghĩa, không bao giờ phản bội cách
mạng.
- Khi kẻ thù bắt, tẩm nhựa xà nu và đốt:
+ Là hiện thân của căm thù, đau đớn: mười ngón tay đã trở thành mười ngọn
đuốc nhưng Tnú không thấy lửa ở mười ngón tay mà anh chỉ thấy lửa
cháy trong ngực, trong bụng mình.
+ Là hiện thân của tinh thần hiên ngang, bất khuất, bất diệt trước kẻ thù dù
đau đớn, anh không thèm kêu van.
+ Là ngọn lửa khơi nguồn chiến đấu, là hiệu lệnh tiến công.
- Khi tật nguyền: bàn tay Tnú trở thành bàn tay trừng phạt. Mỗi ngón tay chỉ còn
hai đốt nhưng nó mang sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc.
● Ý nghĩa điển hình
- Hình tượng Tnú điển hình cho tinh thần đấu tranh đến với cách mạng của người
dân Tây Nguyên, đồng thời làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ: "Chúng nó
đã cầm súng mình phải cầm giáo."
- Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân Strá khi chưa giác
ngộ lí tưởng. Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng với bàn tay không
có vũ khí trước kẻ thù hung bạo, anh đã không thể bảo vệ được vợ con và bản
thân.
- Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xô Man cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng
của Tnú là sự chứng minh cho chân lí: phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt
bạo lực phản cách mạng.
- Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh
đến với cách mạng của làng Xô Man nói riêng và người dân Tây Nguyên nói
chung.
c. Đánh giá chung
- Nhìn chung Tnú mang vẻ đẹp kết tinh tâm hồn, phẩm chất cũng như số phận
người Xô Man, Tây Nguyên dũng cảm, kiên cường, bất khuất, giàu tình yêu
thương với gia đình, quê hương, cách mạng, mang sức sống bất diệt của núi rừng
Tây Nguyên.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

- Với một cốt truyện hấp dẫn, lời văn trau chuốt, giàu hình ảnh, thấm đẫm màu sắc
núi rừng, nghệ thuật thấm đượm tính sử thi độc đáo, Nguyễn Trung Thành đã
khắc họa thành công vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh của vẻ đẹp, sức
mạnh con người Tây Nguyên nói riêng và con người VN nói chung trong thời
đại đấu tranh cách mạng.
3. Hình tượng nhân vật cụ Mết
a. Giới thiệu khái quát về nhân vật cụ Mết
- Hình tượng cụ Mết mang bóng dáng của người anh hùng Núp - người con ưu tú
của cuộc kháng chiến chống Pháp được nhà văn khắc họa trong “Đất nước đứng
lên”. Nguyễn Trung Thành đã từng viết trong một bài hồi ức về nhân vật cụ Mết:
“Ông là cội nguồn, là Tây Nguyên của một thời “Đất nước đứng lên” còn trường
tồn đến hôm nay.”
- Cụ Mết cũng như Tnú là biểu tượng cho vẻ đẹp anh hùng của dân làng Xô Man,
được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng bút pháp sử thi. Ông xuất hiện trong
tác phẩm với tư cách là người kể chuyện cho con cháu nghe về cuộc đời Tnú.
b. Ngoại hình
- Cụ Mết là người đại diện cho thế hệ đầu tiên của làng Xô Man những năm chống
Mỹ, biểu tượng cho sức mạnh truyền thống, tinh thần kiên cường, bất khuất của
nhân dân Tây Nguyên. Cụ được miêu tả trong dáng dấp của một người anh hùng,
thân hình “quắc thước”, “mắt sáng và xếch ngược”, “vết sẹo ở má phải bóng
loáng”, “râu dài đến ngực và đen bóng”, ngực căng như một cây xà nu lớn, bàn
tay chắc nịch, nặng như kìm sắt và sần sùi như vỏ cây xà nu.
=> Đây là hình ảnh một già làng kiên nghị, vững chắc, tiềm tàng sức mạnh thể chất và
uy lực tinh thần.
c. Vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất
- Là một già làng trầm tính, kín đáo và uy nghi: là người đứng đầu, là linh hồn của
Xô Man, cụ Mết được người dân Xô Man kính trọng và yêu mến.
+ Tiếng nói của cụ dội vang lồng ngực như âm âm vọng của núi rừng, như
lời phán truyền của lịch sử, quá khứ.
+ Cách nói như ra lệnh, ngôn ngữ giản dị mà dứt khoát, thể hiện sự quyết
đoán của người đứng đầu.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

+ Không bao giờ khen “Tốt! Giỏi!” khi vừa ý nhất chỉ nói “Được!”. Đó là
tính cách của một con người luôn yêu cầu người khác cũng như bản thân
phải hoàn thành nhiệm vụ, sống có trách nhiệm và phải biết vươn lên.
- Là người giàu tình yêu thương dân làng và quê hương.
+ Là già làng, cụ yêu thương trân trọng tất cả mọi người bằng tấm lòng
nhường nhịn và chia sẻ.
+ Luôn tự hào về vẻ đẹp và truyền thống của dân làng Xô Man. Theo cụ,
“Gạo của người Strá mình ngon nhất”, “núi rừng không có cây nào mạnh
bằng cây xà nu đất ta”.
+ Cụ ca ngợi tính cách trung thực của Tnú: “Đời nó khổ nhưng bụng nó
sạch như nước suối làng ta”.
=> Cụ trở thành nhịp cầu nối kết giữa quá khứ và hiện tại, mang trong
mình sức mạnh truyền thống cộng đồng.
- Là người có lòng tin tưởng tuyệt đối vào Cách mạng.
+ Dưới thời Mĩ - Diệm, cụ Mết tổ chức dân làng nuôi giấu cán bộ.
+ Cụ dạy người dân Xô Man từ già đến trẻ phải biết gắn bó với Cách mạng
bằng niềm tin tuyệt đối.
+ Lãnh đạo nhân dân nổi dậy, cụ đã chọn cho Xô Man con đường đấu tranh
mang chân lí thời đại chống Mĩ, con đường đấu tranh vũ trang chiến tranh
nhân dân, “chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”.
=> Hình ảnh cụ Mết giúp người đọc nhận thức được nhiều điều: biết sống hướng về cội
nguồn, tự hào về các thế hệ cha anh, trân trọng những hi sinh mất mát của họ để thấy
giá trị của tự do, độc lập trong cuộc sống hiện tại, biết sống có lí tưởng để vươn tới một
cuộc sống tốt đẹp.
4. Các nhân vật khác
- Nhân vật Dít:
+ Tiêu biểu cho lực lượng chiến đấu hôm nay, là sự tiếp nối tự nhiên truyền
thống anh hùng, bất khuất của cụ Mết, Tnú và Mai.
+ Cô bé Dít trưởng thành một cách nhanh chóng từ đau thương. Ở cô bộc
lộ sự gan góc sức chịu đựng hiếm có. Khi T nú lên đường đi bộ đội, Dít
đã thay Tnú lãnh đạo cuộc chiến đấu của cả dân làng.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

- Nhân vật bé Heng:


+ Cậu bé có những nét hồn nhiên, sống động, tiêu biểu cho thế hệ măng non
của làng Xô Man, Heng sẽ nối tiếp xứng đáng con đường đã chọn của
Tnú, Mai và cụ Mết.
+ Heng là hình ảnh của một cây xà nu non còn mang trong mình bao sinh
lực tràn trề hứa hẹn sẽ trở thành cây xà nu mạnh mẽ và bất tử. Đó là đại
diện của thế hệ tương lai nối tiếp truyền thống và hứa hẹn sẽ đi xa hơn thế
hệ cha anh.
5. Đặc sắc nghệ thuật: kết hợp nhuần nhuyễn giữa khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn.
- Khuynh hướng sử thi thể hiện đậm nét ở các phương diện:
+ Đề tài: truyện bàn đến vấn đề sinh tử hết sức hệ trọng không chỉ của cả
cộng đồng Xô Man mà của cả dân tộc Việt Nam.
+ Chủ đề: trước sự tàn ác của kẻ thù, nhân dân miền Nam chỉ có con đường
duy nhất là cầm vũ khí, vùng lên chiến đấu, giải phóng quê hương.
+ Nhân vật: hệ thống nhân vật trong tác phẩm là những con người kết tinh
cao độ nhiều phẩm chất tiêu biểu của cả cộng đồng: gắn bó với dân làng,
trung thành với Cách mạng, căm thù giặc sâu sắc, kiên cường, bất khuất.
dũng cảm. Lý tưởng các nhân vật luôn gắn bó với vận mệnh của cả dân
tộc. Các nhân vật được xây dựng thể hiện sự nối tiếp của các thế hệ cách
mạng làng Xô Man.
+ Nghệ thuật trần thuật: câu chuyện mới diễn ra nhưng được kể như một
câu chuyện lịch sử bằng ngôn ngữ, giọng điệu của sử thi trong không khí
trang trọng và thái độ trang nghiêm của người kể và người nghe. Giọng
kể trầm hùng khiến cho câu chuyện mang màu sắc thiêng liêng như một
trang sử cộng đồng.
+ Giọng văn trang trọng, hùng tráng.
- Cảm hứng lãng mạn cách mạng thể hiện qua các phương diện:
+ Đề cao vẻ đẹp của thiên nhiên và con người trong sự đối lập với sự tàn
bạo của kẻ thù.
+ Lời văn giàu sức tạo hình, giọng văn giàu cảm xúc tha thiết.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

III. TÀI LIỆU MỞ RỘNG


1. Mở bài
MB1:
"Yêu biết mấy những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đó những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loại sên!"
Hình ảnh những con người Việt Nam ấy đã đi vào thơ ca như một niềm thơ lớn và trở
thành phần hồn của mỗi người con đất Việt. Yêu biết mấy hình ảnh người dân quê tôi:
cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu. Văn thơ thời kỳ kháng chiến chống
Mĩ đã dựng lại cả một thời kỳ máu lửa, đi sâu tìm tòi khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của con
người. Tôi nhớ mãi mãi một Tnú, cụ Mết trong "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành.
Họ là hiện thân của vẻ đẹp con người Việt Nam, của sức sống dân tộc. Năm tháng trôi
đi và lịch sử đã bước sang trang mới nhưng những con người ấy vẫn sáng ngời lên nhắc
nhở ta về một quãng đường đầy gian khổ, đau thương, lại rất đỗi anh hùng mà đất nước
mình đã đi qua. Để rồi mỗi lần đọc lại tôi không khỏi ngỡ ngàng vì người dân mình đẹp
quá, dũng cảm; và lòng tôi được như sống lại những ngày còn chiến tranh bom đạn ấy.
MB2:
Có lẽ bởi giới văn nhân nhạy cảm quá, họ dễ nặng lòng bởi nhịp thở của những
mảnh đất, con người ở bất kì đâu mà đất ấy, người ấy cứ trở đi trở lại trong những tác
phẩm của họ. Nếu Kim Lân nặng nghĩa nặng tình với dân tình làng cảnh Việt Nam chốn
đồng bằng Bắc Bộ, nếu Nguyễn Tuân tả vùng Tây Bắc bằng ngòi bút tha thiết tình yêu
thì Nguyễn Trung Thành lại như mắc duyên mắc nợ với Tây Nguyên hùng vĩ. Thiên
nhiên và con người Tây Nguyên đã kết tinh vẻ đẹp lại nơi tác phẩm “Rừng xà nu” của
chính ông và lôi cuốn tâm hồn bạn đọc vào những ý văn nhẹ nhàng mà sâu lắng.
MB3:
“Rừng xà nu” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Trung Thành (tức Nguyễn
Ngọc) cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam chống
Mỹ, cứu nước. Bên cạnh những anh hùng và tập thể anh hùng, ở Rừng xà nu, Nguyễn
Trung Thành còn sáng tạo nên một hình tượng nghệ thuật mang tính biểu trưng cho sức
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

mạnh của dân tộc và nhân dân ta trong cuộc kháng chiến vĩ đại. Đó chính là hình tượng
cây xà nu.
MB4:
Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên.
Qua hai cuộc kháng chiến cùng vào sinh ra tử với những người dân nơi đây đã cung cấp
cho Nguyễn Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về mảnh đất âm vang rộn
tiếng cồng chiêng trong mùa lễ hội, nơi có những người con trung dũng, kiên cường.
Nếu trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành - bút danh Nguyên Ngọc nổi
tiếng cùng “Đất nước đứng lên”; thì trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt
là những năm 1965 khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam đang diễn ra gay go
ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho ra mắt người đọc truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác
phẩm này đã là một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con người Tây Nguyên trong
cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật hơn cả trong tác phẩm chính là hình tượng cây xà
nu.

2. Kết bài
KB1: Trong tác phẩm “Đất nước”, Nguyễn Đình Thi đã viết:
“Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh”
Không khí ấy, tâm thế ấy có lẽ đã được diễn tả sâu sắc nhất trong truyện ngắn “Rừng
xà nu”. Những trang văn của Nguyễn Trung Thành khép lại nhưng đã mở ra trước mắt
ta tượng đài những người anh hùng bất khuất, không bao giờ chịu khuất phục trước dã
tâm của kẻ thù. m hưởng sử thi của thiên truyện vẫn còn âm vang trong lòng bạn đọc
như tiếng gọi của đại ngàn Tây Nguyên, như lời khẳng định chắc chắn một sự thật lịch
sử, rằng: để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi trường tồn, không có cách nào
khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác. “Rừng xà nu”
của Nguyễn Trung Thành sẽ mãi sáng ngời những vẻ đẹp tráng lệ và hào hùng ấy.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

KB2: Bấy nhiêu hi sinh là bấy nhiêu tự hào. Biết bao gian khổ là biết bao những kiên
trì, quyết tâm cho một ngày mai “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Những người con của núi
rừng Tây Nguyên như cụ Mết, Tnú, Mai... là kết tinh của bao gian lao và cả tinh thần
anh dũng, kiên cường của tình yêu nước nồng nàn luôn rực cháy trong tim. Xây dựng
thành công hình tượng người anh hùng, tập thể anh hùng mang âm hưởng sử thi, với lời
văn chau chuốt, sinh động, Nguyễn Trung Thành cùng thiên truyện “Rừng xà nu” đã để
lại ấn tượng mạnh mẽ nơi người đọc, khiến ta vẫn còn nhớ mãi, thương mãi và tự hào
mãi về những năm tháng gian lao mà huy hoàng của dân tộc:
“Yêu biết mấy, những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài sên!”

3. Nhận định liên hệ

1. Tôi yêu say mê cây rừng xà nu từ ngày đó. Ấy là một cây hùng vĩ và cao thượng,
man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn
rỏi mênh mông, tưởng như đã sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng cây,
hàng vạn, hàng triệu cây vô tận. Không khí ở đây thơm lừng. Nệm lá dưới mặt đất ngả
lưng êm ru… (Nguyên Ngọc, ‘Về truyện ngắn Rừng xà nu', Nhà văn nói về tác phẩm,
Hà Minh Đức biên soạn, Nxb Giáo dục, 2000)

2. Rừng xà nu là truyện của một đời, và được kể trong một đêm. Đó là cái đêm dài như
cả một đời. Nhưng nó cũng ngắn, cũng chỉ là một đêm trong sự sống vất vả, đau khổ và
hạnh phúc trường tồn ở đây, bởi "nhà ra xa, đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác
ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời...". (Nguyên Ngọc, ‘Về truyện ngắn
Rừng xà nu', Nhà văn nói về tác phẩm, Hà Minh Đức biên soạn, Nxb Giáo dục, 2000)

3. Và ông cụ Mết của tôi cũng tất yếu phải đến. Ông là cội nguồn. Là Tây Nguyên của
thời Đất nước đứng lên trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử bao trùm, nhưng
không che lấp sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn, sành sỏi và tự
giác hơn của các thế hệ sau. (Nguyên Ngọc, ‘Về truyện ngắn Rừng xà nu', Nhà văn nói
về tác phẩm, Hà Minh Đức biên soạn, Nxb Giáo dục, 2000)
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

4. Nếu nói Nguyễn Tuân suốt đời săn tìm cái đẹp, thì cũng có thể nói, Nguyên Ngọc
suốt đời săn tìm những tính cách anh hùng, những sự tích anh hùng. (Giáo sư Nguyễn
Đăng Mạnh)

5. Gần nửa thế kỉ qua, truyện ngắn “Rừng xà nu” như một nỗi ám ảnh đẹp từ cảnh sắc
đến con người giữa chốn ngàn xanh (Trích bài viết “Về lại “Rừng xà nu”, Báo Kon Tum
Online, Tạ Văn Sỹ)

6. Văn Nguyên Ngọc là một dạng văn có ma lực. Giản dị, chắt lọc và trong veo. (Nhà
thơ Trần Đăng Khoa)

7. Văn Nguyên Ngọc là thứ văn văn trong, sáng như mật ong, lại đượm ướp một làn
hương rất đặc biệt. Đọc cứ bàng hoàng, váng vất mãi. Nguyên Ngọc hơn người ở tài
văn. Không có thực tài, không thể viết được thế. (Nhà thơ Trần Đăng Khoa)

8. Dưới góc nhìn văn hóa, ta thấy “Rừng xà nu” có nội dung rất quan trọng: văn hóa
làng và những tình cảm thâm trầm, cao đẹp. Và đó là cơ sở của nội dung thứ hai: Tinh
thần bất khuất của người dân Tây Nguyên. Tinh thần ấy lớn mạnh được là nhờ nó bám
rễ sâu chặt vào “đất làng”. (Đặng Văn Vũ)

9. Nguyên Ngọc đích thực là một trí thức của núi rừng, là nhà văn hóa của Tây Nguyên,
là nghệ sĩ thực thụ của những miền “Rẻo cao” đất nước. Văn Nguyên Ngọc cuốn hút
người ta, không phải chỉ bởi cách trần thuật bằng chính giọng điệu của nhân vật của
anh, với thứ ngôn ngữ hết sức hồn nhiên, ngây thơ, đầy những hình ảnh ví von ngộ
nghĩnh, mà còn bằng cả tâm hồn rất Tây Nguyên, cũng rất Hà Giang - Mèo Vạc. (Giáo
sư Nguyễn Đăng Mạnh)

HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT


(Lưu Quang Vũ)
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả Lưu Quang Vũ
- Là một nghệ sĩ đa tài, sáng tác ở nhiều thể loại: làm thơ, viết truyện ngắn, vẽ
tranh, viết kịch, viết báo… Ở lĩnh vực nào cũng có được những thành tựu đáng
kể.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

- Những năm 80 của thế kỉ XX, Lưu Quang Vũ chuyển sang sáng tác kịch và trở
thành tác giả lớn nhất của nền sân khấu Việt Nam thế kỉ XX. Ông trở thành hiện
tượng của sân khấu kịch trường, được đánh giá là nhà soạn kịch tài năng nhất
của nền văn học hiện đại.
2. Vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt”
a. Hoàn cảnh sáng tác
- Khơi nguồn cảm hứng:
+ Tình hình xã hội VN những năm 80 của thế kỉ XX và công cuộc đổi mới
toàn diện bắt đầu diễn ra trên đất nước ta.
+ Cảm hứng phê phán những tiêu cực trong xã hội, cuộc sống, con người
của nhiều tác giả.
+ Mượn và viết tiếp truyện dân gian “Hồn Trương Ba da hàng thịt” với
nhiều sáng tạo mới mẻ, hiện đại, sâu sắc.
- Thời gian ra đời
+ Vở kịch được viết từ 1981 nhưng mãi đến năm 1984 trong không khí đổi
mới của xã hội và văn học nghệ thuật nó mới được công diễn.
+ Vở kịch nhanh chóng tạo được nhiều thiện cảm cho người xem, được công
diễn nhiều lần trên các sân khấu trong và ngoài nước.
b. Đoạn trích được học
- Vị trí: Nằm ở cảnh 7 + đoạn kết của vở kịch
- Quá trình vận động của 1 vở kịch: thắt nút => phát triển => cao trào => mở nút
II. PHÂN TÍCH VĂN BẢN
1. Màn đối thoại giữa hồn TB và xác HT
TB đã chết một cách vô lí do sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào nhưng sự “sửa sai”
của Nam Tào và Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho
Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn: linh hồn phải trú nhờ
trong một thể xác khác. Do phải sống nhờ thể xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành
phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch,
bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia nay vì phải sống mượn, gá, lắp, tạm bợ và
lệ thuộc nên chẳng những không sai khiến được xác thịt thô phàm của anh hàng thịt mà
trái lại còn bị xác hàng thịt sai khiến. Đáng sợ hơn, linh hồn TB dần dần bị nhiễm độc
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

bởi cái tầm thường xác thịt anh đồ tể. Ý thức được điều đó linh hồn TB dằn vặt đau khổ
và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập.
* Diễn biến cuộc đối thoại
- Hồn TB cho rằng: “ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng
thắn”, xác “không có tiếng nói”, “không có tư tưởng”, “không có cảm xúc”, “chỉ
là xác thịt âm u đui mù”, nếu có tiếng nói thì đó chỉ là tiếng nói của con thú, tiếng
nói của bản năng.
- Xác hàng thịt khẳng định: “ông không tách khỏi tôi được đâu dù tôi chỉ là thân
xác”. Lí lẽ mà xác đưa ra là “hai ta đã hòa với nhau làm một rồi” “ông phải tồn
tại nhờ tôi mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Hồn chẳng có
cách nào chối bỏ được xác vì xác là hoàn cảnh mà hồn buộc phải quy phục, là
“cái bình để chứa đựng linh hồn”. Xác chứng minh ảnh hưởng ghê gớm của
mình, đôi khi át cả cái linh hồn cao khiết bằng những dẫn chứng cụ thể: “khi ông
ở bên nhà tôi, khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng nực, cổ
nghẹn lại”, “món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi và đủ thứ thú vị khác”, “cơn giận
của ông lại có thêm sức mạnh của tôi đã làm cho ông tát thằng con trai tóe máu
mồm máu mũi.
- Hồn phủ nhận những dẫn chứng xác nêu ra không phải là hành động xuất phát
từ ý thức của mình: “Đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi thở mày.”
- Xác tìm kiếm giải pháp cho sự tồn tại hòa bình mang tên “hồn TB da hàng thịt”
bằng “trò chơi tâm hồn”. Luật chơi là: hồn cứ nghĩ là mình cao khiết thánh thiện,
làm điều gì xấu cứ đổ tội cho xác để được thanh thản, bù lại hồn sẽ làm đủ mọi
việc để thỏa mãn những khát thèm của xác.
- Hồn cho rằng đó là những lí lẽ ti tiện, không thể chấp nhận được.
* Nhận xét:
- Trong cuộc đối thoại, xác thịt mỗi lúc một lấn lướt, dồn đuổi hồn Trương Ba:
+ Chủ động tuyên chiến khi hồn khao khát được tồn tại riêng mình, độc lập.
+ Thách thức, giễu cợt, mỉa mai hồn “có đấy, xác thịt có tiếng nói đấy”, “có
thật thế không?”
+ Cao giọng, khoái trí đòi hồn phải trả lời thành thật, xác biết rõ người ta
nghĩ gì về mình. Đồng thời cũng tỏ ra thấu hiểu từ điệu bộ lúng túng bên
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

ngoài đến những biện luận bên trong tìm kiếm sự thanh thản và vô tội của
hồn.
+ Xác lợi khẩu khi đưa ra lí lẽ mềm dẻo trong thuyết phục, tranh luận: khi
thì sử dụng lí lẽ, lúc đưa ra bằng chứng, khi thò cao giọng, thách thức, lúc
buồn rầu thanh minh, khi thì đắc ý tinh quái, lúc lại vuốt ve xoa dịu, an
ủi, vừa dụ dỗ, mua chuộc, vừa trắng trọn, phỉ bám.
=> Xác đã chứng tỏ được ưu thế của nó, uy quyền của nó, sự chi phối khủng khiếp của
nó bằng kết cục màn đối thoại là “cái hồn ương bướng” lại tìm về chỗ trú thân là xác
anh hàng thịt.
- Hồn Trương Ba dần trở thành người đuối lí trong cuộc đối thoại.
+ Từ chỗ cao giọng phủ nhận: vô lí mày không thể biết nói, mày không có
tiếng nói đến chỗ chấp nhận xác có tiếng nói nhưng đó là tiếng nói của
bản năng thấp kém, tầm thường.
+ Từ chỗ phủ định quyết liệt, lớn giọng khi xác đưa ra những bằng chứng
về sức mạnh sai khiến của nó đến chỗ không dám trả lời, lúng túng trong
những câu nói đứt quãng: “ta...ta đã bảo mày im đi”, “nhưng… nhưng”
+ Từ chỗ hăng hái đấu lí đáp lại tất cả những lí lẽ xác đưa ra đến chôc bịt
tai lại “ta không muốn nghe mày nữa”
+ Từ cách xưng hô “mày - ta” vào đầu cuộc đối thoại, xác đã tinh ý nhận ra
khi cuộc đối thoại ở vào hồi kết: “ấy đấy ông bắt đầu gọi tôi là anh rồi
đấy.”
+ Từ mạnh mẽ đầy khí thế đấu tranh đến tiếng kêu “trời” tuyệt vọng và dáng
dấp bần thần, tội nghiệp nhập lại thân xác anh hàng thịt cho người đọc
cảm giác dường như hồn đã bị dồn vào con đường cụt, không lối thoát,
đành phải chấp nhận sự an bài, hòa thuận “hồn TB da hàng thịt”.
=> Cuộc đối thoại này cũng cho thấy sự ngộ nhận của hồn về chính mình sau bấy nhiêu
chuyện đã xảy ra đối với gia đình và bản thân. Hồn vẫn cho rằng mình nguyên vẹn,
trong sạch, thẳng thắn, mọi tội lỗi đều do thân xác gây ra.
* Ý nghĩa của màn đối thoại:
- Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống
chung với sự dung tục đồng hóa, từ đó tác giả đưa ra lời cảnh báo: khi con người
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ thắng thế, sẽ lấn
át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.
- Linh hồn và thể xác không thể tách rời nhau, nó là một thể thống nhất, là hai
phương diện tồn tại trong mỗi con người. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể
xác chính là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữ khát vọng và dục vọng,
giữa phần “người” và phần “con” trong mỗi con người trong quá trình tự hoàn
thiện mình.
2. Màn đối thoại giữa TB và những người thân
* Sự kiện TB sống lại trong thân xác anh hàng thịt được những người thân của ông tiếp
nhận theo nhiều cách khác nhau
- Người vợ: yêu thương chồng, có thể quên dần với cái hình hài xa lạ kia nhưng
không thể chấp nhận sự đổi thay của linh hồn Trương Ba. Bà đã âm thầm đau
khổ và quyết định sẽ “đi biệt” bởi “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông TB làm
vườn ngày xưa”.
- Cái Gái - đứa cháu nội mà ông vô cùng yêu quý, với tâm hồn trẻ thơ, trong sáng
thì phản ứng quyết liệt và dữ dội: “tôi không phải cháu của ông”, “ông nội tôi
chết rồi”, “bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như
cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm! Ông nội đời nào thô lỗ, phũ
phàng như vậy!” Tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm
thường, dung tục nên không chấp nhận người ông trong thể xác người hàng thịt
thô lỗ. Chính những lời nói thành thực, ngây thơ của con trẻ đã giúp hồn TB
nhận thức rõ ràng hơn bao giờ hết sự thay đổi của chính mình.
- Người con dâu luôn quý trọng TB cũng đau khổ, bất lực: “con cảm thấy đau
đớn...mỗi ngày một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ
dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra nữa...làm sao giữ được thầy
ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia?”
=> Rõ ràng trong thân thể anh hàng thịt, TB đã không còn là mình, tất cả những người
thân đã nhận thấy và đau đớn, lo lắng, bàng hoàng, bế tắc khi nói ra điều đó. Thể xác
đang xâm chiếm, lấn át, tha hóa linh hồn ấy.
* Tâm trạng, cảm xúc của TB
- Biết mình như vậy trong mắt người thân, hồn TB đau đớn tột cùng:
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

+ Vì ông mà những người thân phải khóc: người vợ dưng dưng trong dòng
nước mắt tủi thân tủi phận, chua chát, dằn dỗi, đứa cháu gái òa khóc tức
tưởi không hiểu sao ông nội thân yêu gần gũi lại trở thành một người “xấu
lắm, ác lắm”, chị con dâu bàng hoàng dòng nước mắt sẻ chia và bế tắc,
muốn thương, muốn níu giữ hình ảnh của thầy mà không biết phải làm
thế nào.
+ Vì ông mà nhà cửa tan hoang, con trai định bán khu vườn để mở cửa hàng
thịt, vợ định bỏ đi thật xa để ông thảnh thơi với cô vợ hàng thịt.
=> Ông thẫn thờ, ôm đầu bế tắc cầu cứu đứa cháu gái, ông run rẩy trong nỗi đau, ông
lặng ngắt như tảng đá để rồi nhận thấy: “mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác của ta
ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta”. Một sự vỡ lẽ vừa bàng hoàng, vừa chua
chát đã dẫn đến quyết định dứt khoát, đẩy tình huống vào độ căng quyết liệt hơn. Những
câu độc thoại nội tâm đã phơi trải cơn bão tố dữ dội và đau đớn trong cuộc đấu tranh
giành giật lại bản thân mình từ bàn tay thô bạo của con quỷ dữ bản năng.
=> Tất cả đã dẫn tới hành động đứng dậy, lập cập nhưng quả quyết châm lửa, thắp
hương để gọi Đế Thích.
3. Màn đối thoại giữa TB và Đế Thích
- Gặp lại Đế Thích, TB thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp nhận cảnh
phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo nữa và muốn mình là mình
một cách toàn vẹn. Những lời đối thoại đã thể hiện rõ quyết tâm đó:
+ “Không thể bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo được, tôi muốn là tôi
toàn vẹn.”
+ “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác đã là chuyện không nên,
đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ
đơn giản là cho tôi sống, còn tôi sống như thế nào thì ông chẳng cần biết.”
+ Không thể sống với bất cứ giá nào được. Có những cái giá đắt quá, không
thể trả được.
- Ý nghĩa của các lời thoại:
+ Từ chỗ ngộ nhận “ta vẫn có một đời sống riêng trong sạch, nguyên vẹn,
thẳng thắn” đến chỗ dứt khoát “không thể bên trong một đằng, bên ngoài
một nẻo được”; từ lời nói “cái bên ngoài không đáng kể, chỉ có cái bên
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

trong” đến việc ý thức “sống nhờ vào đồ đạc của người khác...ông chẳng
cần biết.”... Đó là một cuộc cách mạng lớn lao trong nhận thức của hồn
TB mà để đến được nhân vật đã phải trải qua những trải nghiệm bế tắc,
đau đớn nhất.
+ Con người là một thực thể thống nhất, toàn vẹn, hài hòa của cái “bên
trong” (tâm hồn) và cái “bên ngoài” (thể xác), sự khập khiễng của hồn TB
da hàng thịt và cái giá mà nó phải trả khi cố gắng duy trì để tồn tại trong
một cái vỏ giả tạo như vậy đã giúp Trương Ba thấm thía hơn bao giờ hết
khát vọng: “tôi muốn được là tôi toàn vẹn.”
+ “Là tôi toàn vẹn” - dám là mình, dám chịu trách nhiệm về mình cũng có
nghĩa là dám từ bỏ “trò chơi tâm hồn” mà mình đã tự biện minh để tìm
kiếm sự thanh thản giả tạo. Đừng ngộ nhận rằng sẽ có một linh hồn thanh
cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi, cũng đừng “đô vẩy” cho thân
xác khi chạy theo ma lực âm u, đui mù xui khiến của bản năng, thoát li
thân xác tâm hồn chỉ còn là một thứ siêu hình, là một vật trang sức, còn
rời bỏ tâm hồn thân xác chỉ còn là tiếng gọi của hoang dã.
+ Như vậy sống thực cho ra con người thật là không dễ, sống gửi, sống nhờ,
sống chắp vá, không được là mình trọn vẹn, đó là sống với bất cứ giá nào
là kiểu sống vô nghĩa. Cuộc sống là đáng yêu, đáng quý, đáng trân trọng,
ham sống, muốn được sống là ước muốn tự nhiên của mỗi người, nếu chỉ
vì muốn sống mà phải trả giá quá đắt bằng cả tâm hồn thì nhất định không
thể sống như vậy được.
- Chỉ với ba lời thoại, hồn TB đã trở lại là mình nguyên vẹn, trong sạch, thẳng
thắn để rồi dẫn đường cho những quyết định đau đớn, nghiệt ngã nhưng trong
sáng và tất yếu:
+ Khi Đế Thích sửa sai bằng một giải pháp khác ít tệ hại hơn là cho hồn TB
nhập vào xác cu Tị nhưng TB kiên quyết từ chối, không chấp nhận cảnh
sống giả tạo mà theo ông chỉ có lợi cho đám chức sắc, không chấp nhận
kiểu sống mà theo ông còn khổ hơn cái chết. Ông xin ĐT cho cu Tị sống
lại, trả lại xác cho anh hàng thịt, còn mình thì không nhập vào hình thù ai
nữa.
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

+ Lựa chọn của TB là tất yếu, đó là sự lựa chọn dũng cảm, chấp nhận cái
chết, chấp nhận hư vô để “được là tôi toàn vẹn”. Tất yếu bởi TB đã thấm
thía cái bi kịch đau đớn của cảnh không được là mình. Tất yếu bởi TB đã
ngộ ra, nhận thức về lẽ sống. Tất yếu bởi đó là kết quả của cuộc đấu tranh
ở một tâm hồn thanh cao, trong sáng, vượt lên nghịch cảnh.
4. Màn kết
- TB chết nhưng linh hồn của ông vẫn còn đó, hóa thân vào những sự vật thân
thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu.
- Bằng sự lựa chọn dũng cảm của mình, TB đã gìn giữ được những kỉ niệm đẹp,
giữ cho thế hệ sau niềm tin vào con người, cuộc sống.
- Hình ảnh hai đứa trẻ gắn bó yêu thương và hạt na cái Gái vùi vào đất cho cây
xanh nối nhau mà lớn lên mãi mãi như lời ông nội dạy chính là niềm hi vọng,
niềm tin mãnh liệt của tác giả vào những điều không thể mất trên cõi đời này.
=> Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm huowngt thanh thoát cho một bi kịch
lạc quan, đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của cái thiện cái đẹp và của
sự sống đích thực.
5. Đặc sắc nghệ thuật
- Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển
tình huống truyện.
- Ngôn ngữ đối thoại giàu kịch tính, đậm chất triết lí, tạo chiều sâu cho vở kịch.
Những đoạn độc thoại nội tâm góp phần thể hiện rõ tính cách nhân vật và quan
niệm về lẽ sống đúng đắn.
- Tình huống kịch, mâu thuẫn xung đột căng thẳng, hợp lí, kết thúc bất ngờ, tự
nhiên và ấm áp tình người.

III. LIÊN HỆ MỞ RỘNG


Nhận định liên hệ
1. Không ai bằng Vũ trong biệt tài làm nên cái muôn thuở trong cái đời thường, biến cổ
tích, huyền thoại thành truyện thời sự, dùng cái hư để nói cái thực, dùng cái thô lỗ để
khẳng định cái cao quý. (Giáo sư Phan Ngọc)
Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên
Học Văn Chị Hiên

2. Kịch bản Lưu Quang Vũ nồng đượm hơi thở của đời sống với những vấn đề thời sự
được phát hiện tươi rói. (Nhà phê bình Nguyễn Thị Minh Thái)
3. Cảm hứng chủ đạo trong kịch Lưu Quang Vũ là cảm hứng về con người, về cái đẹp,
cái thiện … khát vọng chính của anh là khát vọng hoàn thiện cuộc sống, hoàn thiện con
người. Cho nên vượt qua những đề tài có tính chất thời sự, kịch của anh hướng tới những
giá trị nhân đạo bền vững lâu dài. (Nhà nghiên cứu Phan Trọng Thưởng)
4. Hạt giống gieo vào mảnh đất tốt gặp thời tiết thuận hòa, lại có một nội lực khỏe đã
nhanh chóng phát triển. Và bóng rợp của tài năng Lưu Quang Vũ trùm lên che mát cả
một cùng sân khấu rộng lớn và trải dài đất nước trong một thập niên. (Ngô Thảo)
5. Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng được. Sống vay mượn,
chắp vá, không có sự hài hòa giữa hồn và xác chỉ đem lại bi kịch cho con người. Cuộc
sống chỉ có giá trị khi con người được sống đúng là mình, được sống trong một thể
thống nhất. (PGS.TS Lưu Khánh Thơ - em gái nhà viết kịch Lưu Quang Vũ nhận xét về
triết lí sâu sắc về sự vay mượn thân xác của hồn Trương Ba)

You might also like