You are on page 1of 28

CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ

I/ Kiến thức cơ bản về tác giả, tác phẩm:


1. Nguyễn Tuân:
Nhà văn lớn của văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX. Một tấm gương về tinh thần làm việc
nghiêm túc và say mê, một định nghĩa về người nghệ sĩ chân chính.
Ông có hai giai đoạn sáng tác: Trước và sau CM tháng 8. Trước Cách mạng tháng Tám,
ông đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại và ông gọi là “Vang bóng một thời”. Ông mô
tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh
và tao nhã. Tất cả được thể hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà Nho tài hoa
bất đắc chí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân.
Nguyễn Tuân là một nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo:
Thứ nhất, văn Nguyễn Tuân thể hiện một sự tài hoa, uyên bác trong sự vận dụng những
am hiểu từ các lĩnh vực khác nhau. Nguyễn Tuân luôn nhìn sự vật ở phương diện nghệ thuật và
nhìn con người ở phương diện nghệ sĩ. Nhân vật dù là loại người nào cũng đều có vẻ đẹp -
phẩm cách của người nghệ sĩ; chứa đựng cái “ngông” của tác giả từ những bậc tao nhân mặc
khách, những trang anh hùng nghĩa liệt trong Vang bóng một thời đến những người lao động
như người lái đò...
Thứ hai, văn phong Nguyễn Tuân vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại.
Thứ ba, ngôn ngữ của Nguyễn Tuân sáng tạo, độc đáo, câu văn đầy giá trị tạo hình, đã
góp phần làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc.

Một số nhận xét về Nguyễn Tuân:


- Là một trong những cây đại thụ của rừng đầu nguồn văn chương Việt Nam thế kỉ 20.
- Là người tôn thờ cái đẹp, coi cái đẹp như một tôn giáo.
- Là bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam.
- Là người biết “đẻ ra” những nhân vật có khả năng vượt qua cái mỏng manh của trang giấy để
trà trộn vào đám người đang sống.
- Là nhà thơ bị đóng đinh trên cây thập giá của văn xuôi.
- Thạch Lam đã đánh giá cao về Nguyễn Tuân: “Một nhà văn có tài năng đặc biệt, một nghệ sĩ
có lương tâm, ở người đó chúng ta đặt những hi vọng tốt đẹp nhất về sự nghiệp”
- Là người đã yêu thì yêu mê đắm, đã ghét thì tới mức căm thù, đã uống rượu thì phải uống cả
cấn “dĩ tận vi độ”, đã đi thì phải đi tới đầu sông ngọn nguồn, tới những nơi tột cùng của tổ
quốc, đã tìm hiểu bàn bạc thì phải tìm cho đến ngọn ngành gốc rễ. Ông là ca sĩ của những vẻ
đẹp tinh khôi tuyệt đỉnh của tạo hóa, của sắc ngọc trai đáy biển, của bầu trời trên đỉnh núi
Mèo, của bông tuyết đầu mùa, của hoa lan “vương giả”, của bông thủy tiên nở đúng đêm giao
thừa…
“Nói đến Nguyễn Tuân là nói một giá trị hồn nhiên, là khơi sáng lại dòng sông thời gian chìm
khuất, là nhắc nhở đến một vùng trời xôn xao của thanh âm ngôn ngữ. Nguyễn Tuân đứng
sững trước mặt chúng ta với vóc dáng kiêu kỳ, với từng ngón tài hoa, với đôi cánh chập chờn
bay lượn trên đỉnh cao nghệ thuật. Hành trình vào tác phẩm Nguyễn Tuân như hành trình đi
vào một cung điện tráng lệ đầy màu sắc diễm ảo. Từng nguồn ánh sáng lung linh chiếu rọi vào
mỗi dòng, mỗi chữ, thứ ánh sáng lạ kỳ làm mê hoặc cả gỗ đá vô tri làm nhũn từng ý nghĩ bứt
đi tự niềm cô đơn nhất. Nghệ thuật khi đã vươn tới đỉnh cao có thể toả ra xung quanh những
tia lửa làm cháy cả rừng cây, làm khô dòng suối, nếu rừng cây dòng suối chỉ mang trong bản
chất những ước lệ tầm thường, nhàm chán” (Tạ Ty)
- Nguyễn Tuân viết mà giống như nhà điêu khắc cần cù chạm trổ vào mặt đá quí những nét
trác tuyệt. (Tạ Ty)

1
- Nguyễn Tuân từng tâm sự: “Tôi muốn mỗi ngày trong cuộc sống của tôi phải cho tôi cái say
sưa của rượu tối tân hôn. Mỗi một ngày tới lại đem cho tôi một ngạc nhiên bắt trí tò mò phải
làm việc. Khi nào người ta không biết sửng sốt nữa thì chỉ còn có cách trở lại nguyên bản của
mình là bụi bặm”.
2. Tập truyện Vang bóng một thời:
- Số lượng: 11 truyện ngắn
- Nội dung: Viết về một thời đã xa, nay chỉ còn vang bóng – thời nhà Nguyễn suy tàn, thực dân
Pháp đô hộ, những nho sĩ cuối mùa trở thành lớp người lạc lõng. Trong hoàn cảnh Tây Tàu lẫn
lộn nhố nhăng, những con người tài hoa bất đắc chí ấy muốn giữ lại vẻ đẹp truyền thống xưa
qua những thú vui tao nhã: thưởng hoa, uống rượu, ngắm trăng, nhấm nháp chén trà buổi sớm
với tất cả những nghi lễ thiêng liêng. Họ, cũng cố giữ thiên lương cho trong sạch.
=> Tập truyện là sự hoài niệm về những nét đẹp văn hoá cổ truyền đã mất đi.
=> Trên trang viết Nguyễn Tuân, những "vẻ đẹp xưa" chợt sống dậy trong niềm xót xa tiếc
nuối khôn nguôi. Cho nên tập truyện cũng là một ước mơ trong sạch, một “tiếng thở dài chống
chế độ thuộc địa”.
- Những truyện ngắn trong Vang bóng một thời là nhũng nén tâm hương thành kính Nguyễn
Tuân dành cho vẻ đẹp cổ truyền.
3. Truyện ngắn Chữ người tử tù:
a. Xuất xứ:
- Chữ người tử tù ( lúc đầu có tên là dòng chữ cuối cùng, in lần đầu trên tạo chí Tao Đàn xuất
bản 1939, sau đó được tuyển in trong tập “ Vang bãng mét thêi” (1940), tập truyện ngắn xuất
sắc của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng 8.
- Chữ người tử tù là một áng văn gần đạt tới sự hoàn thiện, tác phẩm hội tụ những nét tài hoa
của ngòi bút Nguyễn Tuân.
b. Về Cao Bá Quát – người được coi là nguyên mẫu để nhà văn xây dựng nhân vật Huấn Cao:
- Là nhà thơ tài hoa, phóng khoáng thế kỉ XIX (Văn như Siêu, Quát)
- Đã từng lám Hành tẩu ở bộ Lễ rồi bị giáng chức.
- Từng làm Giáo thụ phủ Quốc Oai (Sơn Tây).
- Tham gia khởi nghĩa nông dân Sơn Tây chống lại triều đình nhà Nguyễn (1854), rồi sau đó bị
giết, bị triều đình Tự Đức ra lệnh tru di tam tộc.
=> Một nhà nho yêu nước, con người vì nghĩa lớn dám đứng về phía nhân dân.
- Là người có nhân cách cứng cỏi, cả cuộc đời chỉ cúi đầu vái lạy hoa mai (Nhất sinh đê thủ bái
hoa mai).
II/ Đề luyện tập:
Đề bài: Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo trong Chữ
người tử tù của Nguyễn Tuân.
Gợi ý:
Mở bài:
Bước vào văn đàn Việt Nam, ta không khỏi ngỡ ngàng bởi cái đẹp hiện hữu khắp mọi
nơi, man mác khắp các trang văn: “man mác khắp vũ trụ” (Thạch Lam). Và kể tới những trang
văn đẹp của văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX, không thể không nhắc tới Nguyễn Tuân. Trong
những trang văn của “một người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật” ấy, Chữ người tử tù được
xếp vào hàng xuất sắc. Truyện ngắn được xây dựng từ một tình huống gặp gỡ đặc biệt của
những nhân cách đẹp, những con người biết tạo ra và trân trọng cái đẹp trong cuộc đời.
Thân bài:
Luận điểm 1: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả và tác phẩm (Dùng cho mọi dạng đề):
Nguyễn Tuân (1910-1987) tại Hà Nội trong một gia đình nhà nho vào thời buổi Hán
học đã lụi tàn, Nguyễn Tuân chịu ảnh hưởng sâu sắc từ người cha là một nhà nho tài hoa bất
2
đắc chí. Là người tôn thờ cái đẹp, coi cái đẹp như một tôn giáo, suốt cuộc đời mình Nguyễn
Tuân đã dùng ngòi bút để khám phá, phát hiện và tôn vinh cái đẹp. Với lối viết đặc biệt tài hoa,
độc đáo, Nguyễn Tuân đã để lại những “tờ hoa” cho văn học Việt Nam và thực sự xứng đáng
với danh hiệu cây đại thụ của rừng đầu nguồn văn chương Việt Nam thế kỉ XX.
Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là tác phẩm kết tinh tài hoa của Nguyễn Tuân trước
Cách Mạng, từng được nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đánh giá là “một văn phẩm đạt gần tới sự
hoàn thiện, toàn mĩ”. Tác phẩm ban đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng khi in lần đầu trên tạo
chí Tao Đàn xuất bản 1939, sau đó chính nhà văn đổi tên thành “CNTT” và tuyển in trong tập
Vang bóng một thời – Xuất bản năm 1940 (Tập sách gồm 11 truyện ngắn tôn vinh những nét
đẹp văn hóa cổ truyền của dân tộc).
Luận điểm 2: Giới thuyết về tình huống truyện:
Thành công của truyện ngắn là hội tụ của nhiều yếu tố: nghệ thuật dựng cảnh, nghệ
thuật khắc họa nhân vật, ngôn ngữ điêu luyện và không thể không nói tới nghệ thuật lựa chọn
và xây dựng tình huống truyện độc đáo. Với những giới hạn về dung lượng, bất cứ nhà văn nào
khi bắt tay viết truyện ngắn đều phải quan tâm tới việc lựa chọn tình huống.
Khái niệm tình huống: có nhiều cách định nghĩa khác nhau về tình huống, có thể hiểu
đơn giản nhất, tình huống chính là lát cắt của đời sống trong "một khoảnh khắc mà trong đó sự
sống hiện ra rất đậm đặc", là cái "khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người" (Nguyễn Minh
Châu). Tình huống truyện còn được hiểu là hoàn cảnh đặc biệt diễn ra câu chuyện, qua đó,
nhân vật bộc lộ tâm trạng, tính cách, hay thân phận của nó góp phần thể hiện sâu sắc tư tưởng
của tác phẩm.
Luận điểm 3: Phân tích tình huống truyện Chữ người tử tù:
* Chữ người tử tù được dựng trên một tình huống giàu kịch tính Cuộc tương ngộ của
những tấm lòng trong thiên hạ
Đó là cuộc chạm trán kì lạ và ép le của Huấn Cao và Quản Ngục
- Trên phương diện xã hội: họ hoàn toàn đối lập nhau.
+ Một người là tên "đại nghịch", cầm đầu cuộc nổi loạn nay bị bắt giam, đang chờ ngày ra
pháp trường để thụ hình.
+ Còn một người là quản ngục, kẻ đại diện cho cái trật tự xã hội đương thời.
- Nhưng trên phương diện nghệ thuật họ là tri âm, tri kỉ với nhau:
+ Một người có tài viết thư pháp tuyệt vời
+ Người kia lại suốt đời ngưỡng mộ cái tài hoa ấy
=> Tạo dựng tình thế như vậy, đồng thời cho họ gặp nhau giữa chốn ngục tù, tối tăm nhơ bẩn,
tạo nên một cuộc tương ngộ kì lạ và đáng nhớ.
* Diễn biến tình huống:
- Tình huống oái oăm dẫn đến xung đột trong việc lựa chọn của nhân vật Quản Ngục:
+ Quản Ngục hoặc làm tròn phận sự công việc thì phải chà đạp lên một tấc lòng tri kỉ
=> Lựa chọn theo cách thứ nhất này, chiến thắng sẽ thuộc về sự tầm thường.
Hoặc muốn trọn lòng tri kỉ thì phải vượt lên phép tắc triều đình
=> Lụa chọn theo cách này, chiến thắng sẽ thuộc về cái đẹp.
+ Quản ngục có thủy chung với tấc lòng tri kỉ hay không? Có dám coi thường bổng lộc
và sự an toàn tính mạng của mình hay không? Có thể thoát khỏi cái nhà tù vô hình vẫn giam
cầm nhân cách cả mình không? Có dám sống đẹp không? Với tính huống như thế có thể đặt
thêm cho câu chuyện một phụ đề: Số phận của cái đẹp. Cuối cùng QN đã lựa chọn đứng về
phía nghệ thuật.
- Tình huống ấy cũng quyết định đến thái độ của HC với QN:
+ Thái độ lúc đầu của Huấn Cao: Tỏ ra coi thường, khinh bạc ngay cả khi nhận được sự
chăm sóc lặng lẽ, chu tất của viên quản ngục (Huấn Cao: “Ta chỉ muốn có một điều. Là
3
nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.”).
+ Sự thay đổi thái độ của Huấn Cao: Khi hiểu ra tấm lòng chân thành và sở thích cao
quý của viên quản ngục, Huấn Cao hết mực trân trọng và đồng ý “cho chữ” (Huấn Cao: “Thiếu
chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”).
- Kết thúc tình huống là cảnh cho chữ trong nhà ngục: Cảnh cho chữ chính là kết cục tất yếu từ
sự lựa chọn của Huấn Cao và Quản Ngục. Diễn ra như “một cảnh tượng xưa nay chưa từng
có”. Không gian và thời gian rất đặc biệt (nơi ngục tù, lúc đêm khuya); vị thế các nhân vật bị
đảo ngược (tử tù thành thần tượng, ân nhân của cai ngục; cai ngục thành người ngưỡng mộ,
chịu ơn tử tù).
* Tác dụng của tình huống:
Chính tình huống độc đáo này đã giúp làm nổi bật trọn vẹn vẻ đẹp của hình tượng Huấn
Cao, đồng thời cũng làm sáng tỏ tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục qua lựa chọn
của mình. Từ đó mà chủ đề của tác phẩm cũng được thể hiện sâu sắc.
Trong tình huống đầy éo le, Quản Ngục đã lựa chọn cái Đẹp và truyện ngắn là quá trình
săn tìm cái đẹp của người coi ngục có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”.
Trong tình huống gặp gỡ ấy, Huấn Cao cũng có cơ hội hiểu một tấm lòng trong thiên hạ
và lấy tấm lòng người tri kỉ để đền đáp tấm lòng kẻ tri âm. Và cái đẹp của Huấn Cao trở nên
toàn vẹn khi gặp được tấm lòng Quản Ngục. Huấn Cao có cơ hội sáng tạo cái đẹp trong những
giờ phút cuối của cuộc đời mình.
Kết thúc tác phẩm – cảnh cho chữ- chính là lúc những tấm lòng trong thiên hạ gặp
được nhau, là khi nghệ thuật đã chiến thắng rào cản của luật pháp, là khi cái Đẹp được thăng
hoa, cũng là lúc chủ đề tư tưởng của tác phẩm được lộ rõ: sự chiến thắng của cái Đẹp, cái
Thiện với cái xấu xa, nhơ bẩn, cái Đẹp có thể phá vỡ mọi rào cản, ranh giới.
Trong tiểu thuyết hiện thực của Đốtxtôiépxki (Nhà văn Nga, Thần tượng của Nguyễn
Tuân), đôi lúc cũng có những tình huống đối lập kì lạ giữa lí tưởng và hiện thực, giữa tính cách
và hoàn cảnh. Một cô gái điếm, một kẻ sát nhân tụ tập trong một căn phòng hẹp, với ngọn nến
bập bùng, trước pho sách vĩnh hằng của Kinh Thánh (Tội ác và trừng phạt).
Kết: Tham khảo ý tưởng để kết bài
Ý tưởng 1: Ai đó đã cho rằng: “suy tưởng về cái đẹp là nét nổi bật trong sáng tác của
Nguyễn Tuân”. Thật vậy, cái đẹp như một chất xúc tác kì diệu và đến khi bước vào trang viết
của Nguyễn Tuân thì được phát lộ, tỏa sáng lạ thường. “Chữ người tử tù” chính là cuộc gặp gỡ
của cái đẹp của Huấn Cao và viên quản ngục, cuộc gặp gỡ khác thường của hai con người khác
thường giữa chốn lao tù. 
Ý tưởng 2: Thế giới không chỉ được tạo lập một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ chân
chính xuất hiện là mỗi lần thế giới được tạo lập. (Mác-xen Prust). Mỗi tác phẩm là mỗi sự
dâng hiến, một cuộc đời, một cảm xúc, một chân lý, một ý vị, không một tác phẩm nào viết ra
mà không mang đến cho người, cho đời một chân lý, một thông điệp mới .Nhà phê bình người
Nga bêlinxki từng viết “tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả.
Nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan. Nếu nó không đặt ra những
câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi”. Điều này được thể hiện rất rõ qua tác phẩm  “ Chữ người
tử tù” của Nguyễn Tuân.

Đề số 2: Phân tích làm sáng tỏ vẻ đẹp nhân vật Huấn Cao


Gợi ý:
I. Mở bài:
Nhân vật chính là linh hồn của tác phẩm. Là một người suốt đời kiếm tìm cái đẹp đích
thực, tất cả các nhân vật của Nguyễn Tuân luôn là những đại sứ của cái đẹp. Trong tập truyện
ngắn xuất sắc trước cách mạng “Vang bóng một thời”, nhà văn Nguyễn Tuân đã chắt lọc và
4
trạm khắc tỉ mỉ biết bao những chân dung quý giá của một thời vang bóng. Trong số đó, Huấn
Cao là bức chân dung toàn thiện toàn mĩ nhất mà NT xây dựng lên và có thể lấy làm hãnh diện
trong đời văn của mình.
II. Thân bài:
Luận điểm 1: Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, nhân vật
Tham khảo đề 1 + Bổ sung vấn đề có liên quan đến nhân vật:
Nguyễn Tuân luôn nhìn đời bằng con mắt tài hoa nghệ sĩ. Cách nhìn ấy đã chi phối thế
giới nhân vật trong tác phẩm của ông- đó đều là những con người tài hoa, nghệ sĩ .
Trước cách mạng, NT – người nghệ sĩ có tâm hồn yêu cái đẹp, đã đem cái tôi tài hoa,
khinh bạc, kênh kiệu của mình chống lại cái xã hội “ối a ba phèng”, cái xã hội ô trọc của
những kẻ giàu lên một cách hỗn láo, cái xã hội ăn hiếp người của bọn con buôn, chỉ điểm, mật
thám. Lạc lõng giữa cái xã hội sống bằng tàn nhẫn, lừa lọc ấy là một đám nghệ sĩ tài hoa, tài
tử, những kẻ giang hồ phiêu lãng, chỉ đem cái tình cái tài ra mà đối đãi với nhau.
Viên Quản ngục và Huấn Cao thuộc loại người hiếm hoi này.
Giới thuyết những vấn đề có liên quan đến nhân vật Huấn Cao:
Huấn Cao chính là kiểu nhân vật tiêu biểu trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước cách
mạng. Ở Huấn Cao vừa có nét chung, vừa có nét độc đáo so với các nhân vật trong tập truyện
Vang bóng một thời
Nhiều ý kiến cho rằng nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng của Cao Bá
Quát làm nguồn cảm hứng sáng tạo để xây dựng nhân vật HC. CBQ vốn là một danh sĩ thế kỉ
19, với văn chương “vô tiền Hán” mà dân gian vẫn lưu truyền ‘Thần Siêu Thành Quát” còn
nhân cách thì “một đời chỉ cúi đầu trước hoa mai”.
Nhưng không chỉ có thế, con người được lí tưởng hóa này cũng như những kẻ tài hoa,
những giang hồ lãng tử khác trong “Vang bóng một thời” là hình bóng của Nguyễn Tuân, là
ước mơ của Nguyễn Tuân.
Luận điểm 2: Phân tích vẻ đẹp Huấn Cao:
- Trong Chữ người tử tù, ngòi bút Nguyễn Tuân đã tập trung khắc hoạ vẻ đẹp của hình tượng
nhân vật Huấn Cao. Vẻ đẹp của Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, một vẻ đẹp được lí tưởng hoá,
được thể hiện một cách khác thường chừng như không thể xảy ra được. Huấn Cao hiện lên một
cách rực rỡ, chói sáng nhờ được tô đậm bằng những tương phản gay gắt.
Ý 1: Vẻ đẹp tài hoa khác thường- Tài viết chữ- thư pháp:
- Giới thiệu đôi nét về nghệ thuật thư pháp:
Chữ Nho (Hán) vốn là chữ tượng hình, từ đó nảy sinh nghệ thuật viết chữ, còn gọi là
thư pháp. Những nhà nho xưa viết thư pháp không chỉ là khoe tài viết chữ mà quan trọng hơn
là để bộc lộ cái tâm, cái chí của mình. Người ta treo chữ ở những chỗ trang trọng nhất trong
nhà, coi những nét chữ đẹp là một vật quý giá. Đó là một thú chơi tao nhã chỉ dành cho những
người có văn hóa và trình độ thẩm mĩ cao.
- Tài viết chữ của Huấn Cao: Huấn Cao là một người nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp.
+ Nguyễn Tuân đã dành những lời đẹp nhất để ca tụng nét chữ ông Huấn:
Đó là “Người viết chữ nhanh và đẹp nổi tiếng khắp vùng tỉnh Sơn”. Viết được thư pháp
nhanh và đẹp hẳn phải là người đã đạt đến độ điêu luyện của nghệ thuật viết chữ. Chữ Hán vốn
tượng hình, nét chữ ẩn chứa những tư tưởng, ý nghĩ cao sâu của người viết, để viết đẹp đã khó,
viết nhanh và đẹp hẳn phải là người rất tài năng, uyên bác. Người viết thư pháp đẹp còn chứng
tỏ là người có tâm hồn, bàn tay nghệ sĩ.
“Chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm”: lời ngợi khen chứng tỏ một sự khâm phục,
ngưỡng mộ dành cho nét chữ ông Huấn.

5
Còn với câu văn “Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”: Tài hoa
của Huấn Cao đã được đẩy đến mức độ khác thường. Chưa bao giờ nét chữ lại được trân trọng,
đề cao đến như vậy.
+ Nguyễn Tuân còn tô đậm tài năng của Huấn Cao qua thái độ sùng kính của Quản
Ngục như một thủ pháp đòn bẩy:
Ngay từ khi Huấn Cao chưa xuất hiện, qua lời đối thoại giữa Quản Ngục và thầy thơ lại,
Huấn Cao đã được giới thiệu với những lời ngợi khen dành cho tài viết chữ và tài bẻ khóa,
vượt ngục. Qua thái độ trầm trồ pha lẫn tiếc nuối của thầy thơ lại: “Dạ bẩm, thế ra y văn võ
đều có tài cả. Chà chà!” “Dạ bẩm… tiêng tiếc”. Thầy thơ lại vốn ít chữ còn cảm thấy tiếc cho
cái Tài của ông Huấn, chứng tỏ cái tài ấy có khả năng chinh phục lòng người đến nhường nào.
Một người coi ngục mà phải băn khoăn nghĩ ngợi về người tử tù sắp nhận. Ngục quan
băn khoăn điều gì? Nhà văn Nguyễn Tuân không nói rõ nhưng hẳn người đọc đều đoán được
nỗi niềm của ngục quan- đó là nỗi băn khoăn không biết nên cư xử như thế nào với một kẻ tử
tù nhưng lại là người bấy lâu nay mình vẫn ngưỡng mộ, vẫn thầm ao ước xin được chữ để treo
trong nhà. Nỗi niềm ấy của Quản Ngục là gì nếu không phải là sự ngưỡng mộ trước tài năng
của Huấn Cao.
Thái độ sùng kính của Quản Ngục còn thể hiện trong buổi sớm nhận tù nhân: cặp mắt
hiền lành thể hiện rõ sự kiêng nể, tuy cố giữ kín đá mà cũng đã rõ quá rồi.
+ Quá trình kì công, nhẫn nại của Quản Ngục để xin được chữ của ông Huấn chính là
biểu hiện rõ ràng nhất tài năng của HC:
Quản Ngục đã dành cho HC sự đối đãi đặc biệt, bất chấp chức phận của mình. … Khi bị
HC xua đuổi vẫn cam lòng….
Q Ngục đã dám đảo lộn quy tắc trật tự nhà tù, sẵn sàng đánh đổi cả sự yên ổn để có
được chữ của Huấn Cao.
Thái độ của Quản Ngục chỉ có thể lí giải bởi hai nguyên nhân:
Thứ nhất: tài năng của HC đạt tới độ siêu phàm khiến người khác phải tôn thờ
Thứ hai; Niềm đam mê cái đẹp của QN cũng đạt đến độ khác thường.
Hai cái khác thường ấy đã tôn nhau lên, làm nổi bật vẻ đẹp các nhân vật.
Ý 2: * Vẻ đẹp khí phách hiên ngang:
Với cảm hứng lãng mạn, NT đã tô đậm khí phách hiên ngang khác thường của HC. Khí
phách ấy được thể hiện:
- Ở chí khí, lí tưởng: Huấn Cao là người có tài nhưng dám từ bỏ công danh để đứng về
phía nhân dân chủ xướng cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình thối nát, như vậy tức là dám
chống lại một nền móng xã hội có sức mạnh của cả ngàn năm, nó đi ngược lại với luân lí lễ
giáo mà Nho giáo áp đặt cho những nho sĩ trí thức như Huấn Cao, và khi làm như vậy cũng là
đặt bản thân, dòng tộc vào vòng hiểm nguy. Đó là chí khí của một người anh hùng sẵn sàng hi
sinh bản thân để xả thân vì nghĩa lớn.
Khí phách khác người của HC được giới thiệu ngay từ đầu truyện, là người có nghĩa khí
chọc trời khuấy nước, lại có tài bẻ khóa vượt ngục=> dũng khí phá bỏ gông xiềng của HC
cũng lan truyền vang dội xa như huyền thoại khiến  những con người đang nắm giữ gông xiềng
cũng phải nể sợ.
- Ở tư thế, thái độ: Chí lớn không thành, bị bắt giam nơi tử ngục chờ ngày lãnh án chém
mà vẫn thản nhiên coi thường, vẫn là một anh hùng hiên ngang, ung dung đến kiêu bạc.
+ Đó là việc dỗ gông một cách lạnh lùng trước mặt tên lính áp giải, giữ nghiêm cái oai phong
lẫm liệt của một người lãnh đạo, chứ không hề có sự sợ hãi, buông xuôi của một tử tù đang chờ
án chém. Hành động dỗ gông cũng chứng tỏ ý chí tự do thích gì làm nấy của HC.
+ Khi được QN biệt đãi, thản nhiên nhận rượu thịt mà chẳng hề sợ hãi hay lo nghĩ gì, coi đó
như “việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình”. Nhà tù không thể khiến HC sợ hãi mà mất đi
6
những thói quen thường có của mình, cs chốn lao từ chỉ như một chốn tạm nghỉ chân của HC
mà thôi.
+ Mặc dù đang trong tay QN nhưng HC luôn giữ thái độ khinh bạc , coi thường kẻ đại diện cho
luật pháp đang nắm quyền sinh quyền sát nơi đây: Khi viên quản ngục hỏi ông có cần thêm gì
nữa không với thiện ý chân thành, HC đã kiêu ngạo trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ
muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Lời nói cố làm ra khinh bạc cho thấy
một ý thức mạnh mẽ luôn giữ gìn khí tiết, quyết không chịu lụy kẻ có quyền của HC.
+ Lời đối đáp của QN với ông Huấn chứng tỏ ông Huấn luôn được đặt ở một vị thế rất cao: :
“Xin lĩnh ý”.
+ Tâm sự của HC trong những ngày bị giam cầm chứng tỏ khí phách người anh hùng: Không
sợ những trì tiểu nhân thị oai trong nhà ngục, coi cái chết chỉ là chuyện nhỏ: “Đến cái
cảnh….”. Con người này quả là phi thường
So sánh với các nhân vật trong “Vang bóng một thời”:
Trong Vang bóng một thời, NT thường xây dựng nhân vật tài hoa nghệ sĩ sống cuộc
sống nhàn tản, ẩn dật. Với vẻ đẹp khí phách khác thường của một con người nhập thế, HC có
điểm khác với các nhân vật trong tập truyện.
So sánh với các nhân vật anh hùng trong văn học: Trước đó, trong văn học trung đại,
những chân dung anh hùng thường được tô đậm ở tướng mạo kì dị to lớn khác thường, thường
được miêu tả trong tư thế vẫy vùng bốn bể, những hành động phi thường. HC: anh hùng sa cơ,
thất thế nhưng vẫn nguyên vẹn khí phách hiên ngang lẫm liệt của người anh hùng chỉ qua vài
câu nói.
Ý 3- * Vẻ đẹp thiên lương trong sáng:
Thiên lương- bản tính trời cho- những gì tốt đẹp và quí giá nhất thuộc về con người.
- Huấn Cao có cái tâm của một người nghệ sĩ đích thực biết trân trọng cái đẹp, có ý
thức sâu sắc về nghệ thuật và sáng tạo:

+ HC đặt cái đẹp lên trên vàng ngọc và quyền thế- đó là sự trân trọng cao nhất ông dành
cho cái đẹp. Nó cũng thể hiện cái tâm trong sáng của HC.

+ Tính HC vốn “khoảnh”, đời ông mới chỉ viết cho ba người bạn thân…cái khoảnh ấy
không phải sự kiêu ngạo, thấy mình hơn người mà coi thường kẻ khác mà là một quan niệm
nghiêm túc, sâu sắc về sáng tạo nghệ thuật.
Nghệ thuật không phải thứ hàng hóa cho thể đem bán, đem cho bất cứ ai, nghệ thuật
phải xuất phát từ cái Tâm của người nghệ sĩ và chỉ dành cho những người tri âm hiểu được cái
đẹp ấy.
Đó là phẩm chất của người nghệ sĩ đích thực. HC luôn biết đặt cái Đẹp vào đúng chỗ
của nó. Hai thái độ tưởng như trái ngược dành cho QN cũng chính bắt nguồn từ điều này.
- HC biết trân trọng tấm lòng biệt nhỡn liên tài của QN:

+ Ban đầu coi thường QN vì tưởng QN là kẻ tiểu nhân giống như bao kẻ đang đứng ra
giữ gìn trật tự cho xã hội thối nát đương thời.
+ Sau khi nhận ra tấm lòng của QN- biết QN có sở thích cao quý- chơi chữ, biết QN là
người có tâm hồn cao quý, biết trân trọng cái đẹp, cái tài, HC đã bày tỏ thái độ ân hận rất chân
thành qua lời nói với thầy thơ lại: “suýt nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. HC
không sợ chết, không sợ uy quyền vàng ngọc vậy mà “sợ phụ mất một tấm lòng”, đó quả là
một điều vô cùng đáng quý .

+ HC sẵn sàng cho chữ QN khi nhận ra đó là một tấm lòng tri âm với mình.
7
+ Vẻ đẹp của cái Tâm, cái thiện ấy đã hoàn thiện bức chân dung HC.
Ý 4: * Vẻ đẹp HC kết tinh rực rỡ trong cảnh cho chữ:

Hành động cho chữ không phải sự trả ơn của HC với QN mà là hành động dành cho
người tri kỉ và hành động đối đãi với cái đẹp, đặt cái đẹp đúng chỗ. Cảnh cho chữ đã làm hiện
rõ trực tiếp trước mắt người đọc toàn bộ vẻ đẹp của HC.

Tài năng:

Trong tư thế người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng … , HC vẫn tạo nên những nét
chữ thần tình.
Sự nâng niu, trân trọng của những người trong phòng giam trước những con chữ vuông
vức thơm phức mùi mực đã thay cho những lời ca tụng về nét tài hoa của một Huấn Cao nhà
nho nghệ sĩ chân chính.
Trong cảnh tượng ấy, tài hoa của Huấn Cao đã được ngòi bút Nguyễn Tuân trực tiếp
miêu tả “nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của cả đời con
người” (quả đúng là: nét chữ nết người). Chữ Huấn Cao quý vì nó chứa đựng những hoài bão
tung hoành, chứa đựng sự tinh hoa, tinh huyết của cả đời người. Nét chữ ấy không chỉ được
khen ngợi, được ngưỡng mộ mà còn được tôn thờ, nó không chỉ đẹp mà còn quý, gần như là
một điều gì đó rất thiêng liêng.

=> Miêu tả cái tài hoa tuyệt đích của HC cũng chính là cách để Nguyễn Tuân thể hiện quan
niệm liên tài của mình. Cái tài là thứ quý hiếm đáng được tôn thờ và ngưỡng mộ; phải là cái
phát lộ đến tuyệt đích; phải có giá trị thanh lọc tâm hồn con người.
 Khí phách:

+ Trong cảnh cho chữ con người ngang tàng ấy cổ đeo gông, chân vướng xiềng vẫn say xưa
sáng tạo, không thèm nghĩ đến cái chết đang kề cổ.

=> Tư thế hiên ngang lồng lộng giữa cái nền xám xịt của ngục tù.

+ Cái uy nghi của người tù càng được tô đậm trước thái độ kính cẩn của viên quan coi ngục và
thầy thơ lại: “…”- đó là tư thế của giáo chủ với các tín đồ- giáo chủ của cái đẹp và những tín
đồ trung thành với cái đẹp.
Thiên lương:
Lời khuyên chân thành dành cho QN
+ Không chấp nhận cái đẹp tồn tại cùng cái xấu cái nhơ bẩn.
+ Hướng QN từ bỏ môi trường sống xấu xa chốn ngục tù để giữ vững thiên lương.
Cái vái lạy của người coi ngục chứng tỏ cái đẹp có sức cảm hóa ghê gớm

Bằng ngôn ngữ, NT đã chạm khắc tỉ mỉ và thành công nhân vật HC khiến vẻ đẹp của
HC trở thành bất tử.
Luận điểm 3- Đánh giá:
Tư tưởng của NT gửi qua nhân vật:
* Quan niệm thẩm mĩ mới mẻ, tiến bộ:

8
Nguyễn Đăng Mạnh: “Nếu cái đẹp là một tôn giáo thì NT là tín đồ trung thành nhất của
tôn giáo ấy”. Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã bày tỏ những quan niệm
của mình về cái đẹp:
+ Cái đẹp có thể sản sinh mọi nơi
+ Cái đẹp không thể chung sống với cái xấu, cái ác
+ Cái đẹp có sức mạnh cứu dỗi tâm hồn con người.
+ Cái đẹp có sức sống bất tử không thế lực nào tiêu diệt được.
+ Sự hoàn thiện trong vẻ đẹp của Huấn Cao: cái tài phải đi đôi với cái tâm. Cái đẹp và cái thiện
không thể tách rời nhau.

Đó là một quan niệm mang giá trị nhân văn sâu sắc trong hoàn cảnh xã hội đen tối bấy
giờ.
* Tấm lòng yêu nước thầm kín sâu sắc:
- Trân trọng giá trị văn hóa cổ truyền qua nghệ thuật thư pháp
- Ngưỡng vọng với các anh hùng, với những nhân cách đẹp của dân tộc.
- Ngợi ca sự bất tử của tài hoa, khí phách, thiên lương, đồng thời tố cáo xã hội phong kiến.

Nghệ thuật:
Một số thủ pháp nghệ thuật xây dựng hình tượng:
- Đặt nv vào tình huống truyện độc đáo
- Thủ pháp tương phản, đối lập: ánh sáng- bóng tối, cái tốt đẹp- cái xấu…
- Ngôn ngữ miêu tả nhân vật giàu chất tạo hình
- Ngôn ngữ nhân vật mang khẩu khí của người xưa, dùng nhiều từ H- V tăng thêm vẻ đẹp cổ
kính
- Bút pháp lí tưởng hóa
-
Kết bài:
Huấn Cao là nhân vật đẹp nhất, lí tưởng nhất của đời văn Nguyễn Tuân, là sự kết tinh
của một ngòi bút tài hoa lãng mạn, là sự kết hợp lí tưởng tuyệt vời với một đấng anh hùng hào
kiệt và một bậc tài hoa nghệ sĩ. Nhân vật này là nét son đỏ chói lọi trên cái nền vàng úa, ảm
đạm của “Vang bóng một thời”. HC là nhân vật có khả năng vượt qua cái mong manh của
trang giấy để in sâu vào tâm trí người đọc.

Đề số 3: Phân tích hình tượng nhân vật quản ngục


Mở bài:
Ý tưởng: Đọc CNTT, người đọc không chỉ bị ấn tượng với một HC tài tâm vẹn toàn mà
còn thực sự bị cuốn hút với một nhân vật khác, bởi giữa chốn đề lao đầy rẫy lừa lọc và tàn
nhẫn, vẫn tồn tại một “thanh âm trong trẻo”, một tấm lòng trong thiên hạ đáng quý, đáng
trọng- nhân vật viên quản ngục….
Thân bài:
Luận điểm 1: Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Luận điểm 2: Phân tích nhân vật:
Viên quản ngục không phải là nhân vật lí tưởng, nhưng là sáng tạo độc đáo của NT:
một con người xuất thân chốn tăm tối nhưng lại có một thiên lương bừng sáng. Diễn biến
nội tâm, hành động và cách ứng xử của viên quản ngục cho thấy đây cũng là một nhân cách
đẹp, một "tấm lòng trong thiên hạ" tri âm, tri kỉ với Huấn Cao. Đó là "một thanh âm
trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ":

9
1/ Sự xuất hiện của nhân vật:
Quản ngục là nhân vật xuất hiện ngay từ những dòng đầu tiên của tác phẩm trong hoàn
cảnh nhận được phiến trát về việc sắp tiếp nhận sáu tên tù án chém, mà người cầm đầu có tên
là Huấn Cao. Ấn tượng của người đọc về nhân vật này có lẽ cũng đã được tạo dựng ngay từ
phần mở đầu của tác phẩm:
-Ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ:
Tuy làm nghề coi ngục, quản ngục lại có dáng vóc thư sinh, ngôn ngữ của chỉ nhã nhặn,
rõ ràng là cử chỉ của người hiểu lễ nghĩa, vì thế dễ tạo thiện cảm và sự tin tưởng với người
khác. Trong những lời thoại đầu tiên với thầy thơ lại, mặc dù đã thận trọng, kín đáo, nhưng
quản ngục vẫn không giấu được thái độ kính nể, ngưỡng mộ dành cho Huấn Cao, đặc biệt là
dành cho tài viết chữ của ông Huấn: Người có tài viết chữ rất nhanh và đẹp… Sự quan tâm
đặc biệt này đã hé mở phần nào về quản ngục với sự quan tâm đặc biệt dành cho nghệ thuật
viết chữ.
- Tâm tư, dáng vẻ:
Quản ngục tiếp tục được khắc họa qua những suy tư vào đêm hôm đó, trước đêm nhận
tù. Trong bóng đêm thăm thẳm và quạnh quẽ của nhà giam, quản ngục hiện ra trong tâm thế
đầy tư lự: “Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu, những đừơng nhăn
nheo của bộ mặt tư lự”. Hình ảnh chiếc án thư vàng đã nhợt, son đã mờ, đĩa dầu sở trên cây
đèn nến vơi lần mực dầu được cùng hình ảnh người ngồi đó, đầu điềm hoa dâm, dâu đã ngả
màu gợi lên trong người đọc cảm giác xót xa: cảm giác về một con người cô độc và cảm giác
về sự tàn lụi- quản ngục đã rất cô độc bởi nơi đây đầy rẫy những xấu xa, tàn ác.
Đêm nay, quản ngục trăn trở về điều gì, tại sao quản ngục lại băn khắn sau khi nhận
được đến phiến trát về sáu tên tù án chém, trong đó có Huấn Cao? Sau những suy tư, gương
mặt ấy trở về với dáng vẻ bình thản lạ thường chỉ có ở những tâm hồn thuần khiết: “Ở đấy giờ
chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng kín đáo và êm nhẹ”. Ta có cảm giác, quản ngục đã
luôn phải sống hai vai trong hai cuộc đời. Ban ngày là một viên quan coi ngục mẫn cán, là
công cụ cho một chế độ tàn bạo bất công, ban đêm, ông lại trở về với cõi riêng đầy trăn trở,
suy tư.
(quản ngục là con người cô độc giữa chốn thị phi/Quản ngục có một tâm hồn thuần khiết qua
dáng vẻ bình thản lạ thưởng- quản ngục đã luôn luôn phải sống hai vai trong suốt cuộc đời
mình. )
Chốt:
Sự mâu thuẫn giữa ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ với hoàn cảnh sống và công việc của
quản ngục đã hé lộ một phần số phận và bi kịch của nhân vật này, còn gì đau khổ hơn phải
sống ở một nơi không thuộc về mình, phải làm một công việc mà bản thân mình không muốn.
2. Vẻ đẹp của nhân vật qua quá trình gặp gỡ với Huấn Cao:

Nhân cách của quản ngục mỗi lúc càng lộ rõ qua quá trình quản ngục gặp gỡ và tiếp xúc
với Huấn Cao:
- Đó là người mang tâm hồn nghệ sĩ, yêu cái đẹp:

+ Sở thích đặc biệt và tình yêu với cái đẹp của quản ngục được thể hiện gián tiếp ngay trong
thái độ của quản ngục khi nhận được tin HC sắp được áp giaỉ đến nhà lao, sự quan tâm
đặc biệt, mối suy tư trăn trở làm sao để đối đãi với HC- người có tài viết chữ rất nhanh và rất
đẹp.

+ Tâm hồn nghệ sĩ, yêu cái đẹp của quản ngục bộc lộ rõ hơn qua những dòng độc thoại nội
tâm: “Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện đặc biệt của viên

10
quan coi ngục này là có một ngày được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông
Huấn Cao viết.”. Niềm ao ước thầm kín bấy lâu của quản ngục, cái sở nguyện suốt đời của
quản ngục không phải là quyền thế hay tiền bạc mà là có được chữ ông Huấn để treo trong
nhà, niềm yêu thích ấy chỉ có được ở những con người có tâm hồn nghệ sĩ, biết yêu quý và
trân trọng cái đẹp.

+ Quá trình kì công xin chữ của quản ngục, bất chấp chức phận, bất chấp nguy hiểm đã thể
hiện tình yêu của quản ngục dành cho cái đẹp và nghệ thuật lớn đến nhường nào.

- Đó là người biết nâng niu trân trọng người có tài, kính mến người có khí phách:

+ Sự “liên tài” của quản ngục được bộc lộ qua diễn biến nội tâm khi nghĩ về thầy thơ lại: “Có
lẽ lão bát này cũng là một kẻ khá đây, một người biết trọng khí phách, biết quý mến cái tài hẳn
không phải kẻ xấu hay vô tình”. Cũng trong những dòng độc thoại ấy, ta thấy được mối băn
khoăn của quản ngục và sự trân trọng của quản ngục dành cho Huấn Cao – một người hội tụ cả
khí phách và tài năng: “Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao, ta muốn ông đỡ cực trong những
ngày cuối cùng còn lại”.

+ Sự biệt nhỡn, liên tài được thể hiện rõ rệt qua hành động, thái độ dành cho Huấn Cao trong
thời gian Huấn Cao ở trong ngục:
Trong buổi sáng nhận tù, mặc dù đã cố giấu nhưng ánh mắt kiêng nể, thái độ khác hẳn
ngày thường của quản ngục không thể che giấu được, khi kiểm điểm phạm nhân, ngục quan lại
còn có biệt nhỡn đối riêng với Huấn Cao khiến bọn lính lấy làm lạ, đến cả sáu tên tử tù cũng
lấy làm ngạc nhiên về thái độ của quản ngục.
Suốt nửa tháng sau đó, ở trong buồng tối, ông Huấn được đối đãi đặc biệt, trước mỗi
bữa cơm tù, đều có một người thơ lại gầy gò đem rượu đến cho mình với sự cung kính lễ phép.
Một lần, quản ngục lấy dũng khí đối mặt với ông Huấn, và mặc dù nhận được thái độ
khinh bạc từ Huấn Cao: “- Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi
đừng đặt chân vào đây”, quản ngục vẫn cung kính lễ phép: “Xin lĩnh ý” chứng tỏ một sự tôn
trọng tuyệt đối dành cho Huấn Cao.
Thậm chí, trước thái độ ấy của Huấn Cao, quản ngục không lấy làm oán thù mà càng
thêm tôn sùng Huấn Cao hơn nữa: “Y thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước, đến trên
đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một lẻ tiểu
lại giữ tù”. Rõ ràng, quản ngục luôn đặt Huấn Cao ở một thứ hạng cao hơn mình mặc dù giờ
đây HC chỉ là một kẻ tử tù, quản ngục đánh giá giá trị con người không phải bằng địa vị
quyền thế mà bằng chính khí phách, tài hoa của con người đó.
Quả thật, quản ngục là một “tấm lòng trong thiên hạ” thật hiếm hoi và đáng quý trong
hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ.

- Đó là người có thiên lương:


Và càng về sau, qua quá trình gặp gỡ, thái độ kính nể và khát khao mãnh liệt muốn có
được chữ của Huấn Cao, ta càng nhận ra, không chỉ Huấn Cao mà trong viên quan coi ngục
chốn đề lao này cũng có một thiên lương thật trong sáng:
Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng lừa lọc và tàn nhẫn, tính cách dịu dàng và
lòng biết giá người biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một “thanh âm trong
trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”.
Là người biết đọc vỡ sách thánh hiền, biết điều hay lẽ phải nên quản ngục luôn băn
khoăn day dứt: mình chọn nhầm nghề mất rồi. Suy nghĩ chọn nhầm nghề cho thấy, tuy sống
11
giữa chốn đề lao nhưng quản ngục không hề hòa nhập với cuộc sống nơi đó, quản ngục cô đơn,
lạc lõng, chính bản thân Nguyễn Tuân cũng phải đau đớn thay cho nhân vật này: “Ông trời
nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những
người có tâm điền tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt.
Thiên lương của quản ngục còn được bộc lộ qua thái độ của quản ngục với HC. Dù rất
tha thiết muốn có được chữ của HC, dù tình thế ngày càng gấp rút khi ngày HC vào kinh chịu
án không còn xa nhưng không vì thế mà quản ngục ép buộc HC, dùng quyền lực và tiền bạc
để mua chuộc HC. QN chỉ đem hết cái tâm của mình ra đối đãi với ông Huấn và thậm chí
không dám đối diện với HC để bộc bạch nỗi lòng mình mà phải nhờ đến thầy thơ lại.
3/ Vẻ đẹp của QN được tỏa sáng trong cảnh cho chữ xin chữ:
Cảnh cho chữ không chỉ tỏa sáng vẻ đẹp của Huấn Cao mà còn soi tỏ vẻ đẹp của QN:
Khi được tin ông Huấn phải vào kinh chịu án tử hình, viên quản ngục đã tái nhợt người
đi. Đó là nét mặt của một con người đang sợ hãi và xúc động đến cực điểm. Trong đó có sự
thương tiếc dành cho con người tài hoa, khí phách như Huấn Cao, có cả nỗi đau khi án tử ấy sẽ
mang theo cả báu vật mà quản ngục khao khát suốt cả cuộc đời mình, nỗi đau khi cái đẹp có
nguy cơ bị hủy diệt và biến mất.
Tình thế ấy đã đẩy quản ngục đến chỗ phải bỏ qua tất cả sự thận trọng, đã bộc lộ cái sở
nguyện lớn lao và cao quý với thầy thơ lại, chỉ mong ông Huấn có thể hiểu được nỗi lòng
mình. Và với một tấc lòng tri kỉ hiếm hoi, một tấm lòng trong thiên hạ như quản ngục, tất yếu
sẽ nhận được sự đồng cảm của Huấn Cao. Huấn Cao không chỉ nhận lời cho chữ mà còn coi
quản ngục như người tri âm tri kỉ với mình: “Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây
mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong
thiên hạ”.
Trong cảnh cho chữ diễn ra chưa từng có, khi HC trong tư thế uy nghi lồng lộng đang
dậm tô nét chữ trên phiến lụa trắng, hình ảnh quản ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm
đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng vừa cho thấy sự tôn trọng dành cho HC, vừa thể hiện sự
sùng bái tuyệt đối dành cho cái đẹp, cái tài chỉ có ở những tâm hồn nghệ sĩ. => Viên quản ngục
lặng thầm cúi mình trước một nhân cách cao quý, trước cái đẹp đích thực của nghệ thuật.
Giây phút quản ngục cúi đầu nhận lời di huấn của HC thật thiêng liêng và cảm động:
“Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ
miệng làm cho nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Cái cúi lạy ấy là kết quả của sự
thức tỉnh thiên lương, của sự phục thiện, khi cái đẹp cái thiện đã thắng thế hoàn toàn trước
quyền lực, tiền bạc và cả sự yếu đuối của lòng người.
Và người đọc càng thấy rõ hơn vẻ đẹp của nhân vật này qua giây phút ấy, nhận được
chữ của ông Huấn, cũng chính là thỏa nỗi niềm khát khao cả cuộc đời mình, nhưng quản ngục
không hề có cảm giác mãn nguyện, sung sướng mà ta chỉ thấy cái tiếc thương cho một nhân
cách sắp vĩnh biệt cuộc đời, và sự xúc động trước cái đẹp bất tử vĩnh hằng mà không một sức
mạnh tàn ác nào có thể hủy diệt được. Quản ngục đã sống gần trọn cuộc đời trong những dằn
vặt vì lựa chọn sai lầm và những đắn đo muốn thay đổi, vậy mà chỉ một khoảnh khắc thôi,
quản ngục đã thấu tỏ mọi điều, đã đưa ra được lựa chọn đúng đắn và sáng suốt nhất trong cuộc
đời mình. Sức mạnh của cái đẹp lớn lao như vậy đó.

4/ Đánh giá:
a. Nghệ thuật:
Cũng giống như HC, QN được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn lí tưởng hóa mang vẻ
đẹp khác thường, vượt lên trên hoàn cảnh. Đây là kiểu nhân vật đặc trưng của NT trước cách
mạng. Hình ảnh quản ngục là một trong những thành công của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật
miêu tả và xây dựng nhân vật ở phương diện tài hoa độc đáo của nghệ sĩ bậc thầy. Từ ngoại
12
hình, ngôn ngữ, tâm tư tình cảm đến cử chỉ, hành động của ngục quan đã được Nguyễn Tuân
miêu tả với tất cả sự chắt lọc của một ngòi bút tài hoa, đã làm hiện lên một con người có cốt
cách rất đẹp.
b. Tư tưởng NT gửi gắm qua nhân vật:
Tuy không phải nhân vật trung tâm nhưng QN có vị trí rất quan trọng trong tác phẩm.
Nếu HC là người sở hữu, sáng tạo cái đẹp thì QN là người bảo vệ, giữ gìn lưu truyền cái đẹp.
Cả hai kiểu người ấy đều rất cần cho nghệ thuật. Quá trình kì công xin chữ, sự hướng thiện của
Qn một lần nữa cho thấy sức mạnh to lớn của cái đẹp. Cái đẹp có thể hướng thiện, thanh lọc,
cứu rỗi con người. Đó là thông điệp sâu sắc mà nhà văn gửi qua nhân vật này.
Đề 4: Phân tích cảnh cho chữ - Cảnh tượng xưa nay chưa từng có
I/ Mở bài:
Nếu nói như GS Nguyễn Đăng Mạnh: “Nguyễn Tuân là nhà văn của những tính cách
phi thường, những tình cảm, cảm giác mãnh liệt”, thì có thể nhanh chóng nhận ra rằng cảnh
cho chữ đã hội tụ tất cả những nét vượt trội ấy. Đây là một khung cảnh đặc biệt, và chính
người khắc hoạ cũng khẳng định rằng đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
II/ Thân bài:
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và tóm tắt hoàn cảnh dẫn tới cảnh cho chữ:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
- Hoàn cảnh dẫn tới cảnh cho chữ:
+ Tình huống: Chữ người tử tù được xây dựng trên một tình huống đặc biệt, những
ngày cuối cùng của kẻ tử tù đợi ngày ra pháp trường và cuộc gặp gỡ kì lạ giữa kẻ coi ngục với
người tử tù mà hắn vô cùng trân quý và ngưỡng mộ.
+ Đoạn trước: … Ở phần trước của tác phẩm, dù rất khát khao có được nét chữ của HC,
dù quản ngục đã bất chấp cả nguy hiểm để biệt đãi Huấn Cao, nhưng bởi khoảng cách quá xa
về vị thế xã hội, quản ngục không có cách nào đến gần HC để bày tỏ nỗi niềm và sở nguyện
riêng.
+ Vị trí cảnh cho chữ:
Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác phẩm, khi tình huống truyện được đẩy lên đến đỉnh
điểm vì viên quản ngục bỗng nhận được công văn về việc xử tử những tên phản loạn, trong đó
có Huấn Cao…. Bị đẩy vào tình thế không có lựa chọn, quản ngục đã bỏ qua sự cẩn trọng, e
dè mà bày tỏ nỗi niềm với thầy thơ lại. Thầy thơ lại trở thành sứ giả hóa giải những mối hiểu
lầm của HC về quản ngục, nối kết những tấm lòng tri kỉ. Khi hiểu ra nỗi lòng và sở thích cao
quý của viên quản ngục, biết ông đã bất chấp cả tính mạng của mình vì thú vui cao quý, Huấn
Cao đã thay đổi định kiến về một kẻ tiểu lại giữ tù như ông, ân hận vì thiếu chút nữa “đã phụ
mất một tấm lòng trong thiên hạ” và quyết định tặng chữ cho quản ngục. Cảnh cho chữ có ý
nghĩa cởi nút, giải tỏa những băn khoăn, chờ đợi nơi người đọc, từ đó toát lên những giá trị lớn
lao của tác phẩm.
2. Phân tích cảnh cho chữ:
Từ xưa đến nay, chơi chữ được coi là một thú chơi tao nhã của những kẻ có học thức.
Thú chơi chữ thể hiện được toàn bộ cái đẹp, cái tài năng và cả trí tuệ của người viết cũng như
người thưởng thức. Cảnh cho chữ thường được diễn ra tại những nơi trang trọng, có đủ trăng
hoa, gió mây để khơi nguồn cảm xúc. Vậy mà, Nguyễn Tuân lại cho nó sinh ra trong một hoàn
cảnh khác lạ, “một cảnh xưa nay chưa từng có”. Sự đặc biệt này hiện ra ở mọi góc độ: Nhân
vật, thời gian, không gian:
a. Thời gian đặc biệt:
- Đó là thơi khắc của đêm khuya, khi lính canh đã đi ngủ hết. Cái thời khắc khắc nghiệt
ấy không phải là thời điểm thích hợp của thú chơi chữ.

13
- Và thời gian lại càng đặc biệt hơn nữa khi đây là đêm cuối cùng của HC trước ngày
ông bị áp giải ra pháp trường, cái tài hoa, khí phách của ông còn tồn tại trên đời có lẽ chỉ trong
đêm nay nữa mà thôi.
b. Không gian đặc biệt:
- Điều thứ hai khiến cho cảnh cho chữ trở nên đặc biệt, đó chính là không gian mà nó
diễn ra.
- Chơi chữ là thú vui tao nhã, cao quý, nó thường diễn ra trong chốn thư phòng thanh
sạch.
- Vậy mà những nét chữ cuối cùng của cả đời người HC lại được viết ra trong khung
cảnh của một phòng giam tối tăm: tường đầy mạng nhện, đất đầy phân chuột, phân gián, chật
hẹp và ẩm ướt, hoàn toàn không phải là điều kiện để ươm mầm và thưởng thức cái đẹp.
Nguyễn Tuân chọn nơi đây để cho cái đẹp chào đời quả là khó tin.
c. Người cho chữ và nhận chữ:
- Trong thời gian, không gian, ánh sáng xưa nay chưa từng có ấy, tư thế của những
con người cho chữ và nhận chữ cũng “xưa nay chưa từng có”.
Người cho chữ “cổ” vẫn “đeo ngông, “chân” vẫn “vướng xiềng” nhưng tư thế thì hiên
ngang, phong thái đĩnh đạc, đang phóng bút, tung hoành những nét chữ chứa đựng đầy hoài
bão, đầy tinh huyết của một đời người.
Tương phản với tư thế, hành động của người tử tù, viên quản ngục – kẻ đầy uy quyền ở
cái nhà lao ấy – lại đang “khúm núm” cất những đồng tiền kẽm còn thầy thơ lại – kẻ có lẽ chỉ
dưới một người, trên nhiều người ở cái nhà ngục ấy – thì “run run bưng chậu mực”. Cả hai
người này đang xúc động, trân trọng và đầy ngưỡng mộ trước hành động cao cả của Huấn
Cao.
Hoàn cảnh cho chữ, tư thế của những con người cho chữ và nhận chữ “xưa nay chưa
từng có” đã làm nổi bật tính chất “chưa từng có” của cuộc gặp gỡ này. Trước đó, họ gặp
nhau mà đâu đã thực hiểu lòng nhau, họ ở vị thế của tử tù và cai ngục. Giờ đây, Huấn Cao ở
cương vị người cho chữ, người truyền dạy, quản ngục được ở vị trí người nhận chữ, được thỏa
mãn ước nguyện của mình bấy lâu nay. Đâu còn kẻ tử tù, đâu còn quan cai ngục. Vị thế xã hội
đã hoàn toàn bị xóa bỏ. Lúc này chỉ có những tấm lòng biệt nhỡn liên tài đang rung cảm với
những nét chữ vuông vắn trên tấm lụa trắng tinh còn nguyên vẹn lần hồ, chỉ còn những tri âm
tri kỉ của nhau.
Bình thêm: Phân tích đoạn văn này, có người cho rằng ở đây đã diễn ra một sự thay
bậc, đổi ngôi. Thật ra, đó chỉ là nhìn trên bề mặt hình thức. Suốt từ đầu truyện tới lúc này, tuy
là một kẻ tử tù đấy nhưng Huấn Cao có bao giờ chịu ở “bậc dưới” và quản ngục cũng đâu đặt
mình ở “ngôi trên”. Kì thực, đây là bước hội ngộ tất yếu và đẹp đẽ nhất giữa những kẻ biệt
nhỡn liên tài, của những tấm lòng trong thiên hạ mà thôi.
Nét chữ viết xong, những cử chỉ mà người cho chữ, người nhận chữ dành cho nhau
càng khiến ta cảm động:
Hãy chú ý tới cái điệu bộ, cử chỉ của ông Huấn trước khi cất lời khuyên quản ngục:
Huấn Cao “đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy” rồi mới “đĩnh đạc bảo”. Rõ ràng, ông
Huấn không muốn hạ thấp quản ngục và tôn lên vị thế của bản thân. Trái lại, đỡ viên quản
ngục dậy, Huấn Cao muốn tạo ra cái thế bình đẳng trong quan hệ của những tấm lòng yêu cái
đẹp. Đấy là thái độ tôn trọng, yêu mến những người biết yêu cái tài, mến cái đẹp như quản
ngục.
Và hãy chú ý giọng điệu của Huấn Cao nữa khi ông cất lời dặn dò viên quản ngục : “Ta
khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi… Tôi bảo thực đấy…”. Đó đâu giống cái giọng kẻ cả một
đấng bề trên đang dạy bảo mà đúng hơn là cử chỉ, lời lẽ của một tấm lòng bè bạn, của những
tri âm, tri kỉ, hiểu rõ tấm chân tình và bản chất con người của nhau.
14
Còn quản ngục, trước lời khuyên của Huấn Cao đã bái lĩnh với một niềm thành kính sâu
sắc: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Toàn bộ đoạn văn tả cảnh ông Huấn Cao cho chữ toát lên vẻ đẹp của những tấm lòng
“biệt nhỡn liên tài”, của cách hành xử cao thượng, đầy tinh thần văn hóa.
d. Lời di huấn cuối cùng và thông điệp về cái đẹp:
Khép lại cảnh cho chữ là những lời di huấn cuối cùng của Huấn Cao dành cho quản
ngục cũng chính là dành cho người đời: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở
đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét vuông tươi tắn […] Tôi
bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi
hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem
nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.
- Muốn chơi chữ, phải giữ lấy thiên lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó thể
tồn tại vững bền. Và hơn thế con người với cái sở nguyện cao quý cũng không thể sống
mãi trong cảnh tăm tối ấy được. (Thông điệp về cái đẹp – cái thiện – cái đẹp phải đi
cùng cái thiện).
- Cái gốc của chữ nghĩa chính là thiên lương đó thôi: Chữ nghĩa và thiên lương không thể
chung sống với lũ người quay quắt nơi chốn ngục tù đen tối tàn bạo. “Thoi mực, kiếm
được ở đâu tốt và thơm lắm. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?…”.
Lời nói này của Huấn Cao đầy ngụ ý, đầy sức gợi. Mấy người thưởng thức được mùi
thơm của mực ? Hãy biết tìm trong mực, trong chữ hương vị của thiên lương
Huấn Cao chết nhưng chữ Huấn Cao còn. Hành động và lời dạy của Huấn Cao đã cảm
hóa được viên quản ngục. Chi tiết kết thúc cảnh cho chữ càng gợi không khí lắng đọng, thiêng
liêng làm sao: “Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau. Ngục quan cảm động, vái người tù
một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê
muội này xin bái lĩnh”.
Đã một lần trước, viên quản ngục nhã nhặn “xin lĩnh ý” khi bị Huấn Cao lạnh lung đuổi
khỏi buồng giam. Nhưng đó là lần cúi đầu ngưỡng mộ trước bản lĩnh, khí phách của HC. Lần
bái lĩnh này là kết quả của sự bừng tỉnh, sự giác ngộ. Có những cái cúi đầu làm cho con người
ta trở nên hèn hạ, có những cái vái lạy làm cho con người ta trở nên đê tiện. Nhưng cũng có
những cái cúi đầu làm con người ta bỗng trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt hơn, sang
trọng hơn. Đấy là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương. Cái cúi đầu vái lạy của thầy
quản trước HC cũng như cái cúi đầu đáng trọng của Cao Bá Quát trước hoa mai vậy “Nhất
sinh đê thủ bái hoa mai”.

3. Đánh giá:
a. Nội dung, tư tưởng:
- Cảnh tượng cho chữ cuối thiên truyện “Chữ người tử tù” là một kết thúc có hậu. Nó
giúp người đọc thêm yêu mến một nét đẹp trong truyền thống văn hóa của dân tộc –
nghệ thuật thư pháp. Nó giáo dục cách ứng xử văn hóa, thái độ tôn trọng tài năng. Nó
gieo vào lòng ta một niềm tin vào sự bất diệt của thiên lương.
- Qua cảnh cho chữ Nguyễn Tuân thể hiện niềm tin vững chắc vào con người, vào cái
đẹp, cái cao thượng. Nhà văn khẳng định: thiên lương là bản tính tự nhiên của con
người, dù trong hoàn cảnh nào, con người vẫn hướng tới CHÂN THIỆN MĨ. Ngay giữa
nơi tưởng chỉ có thể tồn tại cái xấu, cái ác, cái tài năng và nhân cách cao cả của con
người vẫn có thể tìm thấy không gian, thời gian để tồn tại và chiến thắng.
- Nhà văn cũng truyền tới chúng ta thông điệp về sức mạnh của nghệ thuật và cái đẹp:
Nghệ thuật đích thực nối kết tâm hồn, cái đẹp không lụi tàn mà mãi mãi được lưu giữ.

15
Cái thiện, cái đẹp có thể cảm hóa con người. Đúng như Dotxtoiepxki (nhà văn vĩ đại
nước Nga) đã từng phát biểu: Cái đẹp cứu rỗi thế giới.
b. Nghệ thuật:
Đoạn văn là sáng tạo xuất sắc của Nguyễn Tuân ở Chữ người tử tù, khiến ta “bái lĩnh”
vẻ đẹp của một tư tưởng và sự tài hoa của một nghệ sĩ. Cảm hứng mãnh liệt trước một "cảnh
tượng xưa nay chưa từng có" đã khiến Nguyễn Tuân thoả sức thể hiện khả năng sử dụng vốn
ngôn từ phong phú, sắc sảo của ông:
- Những lớp ngôn từ vừa trang trọng cổ kính, vừa sống động như có hồn, có nhịp điệu
riêng, giàu sức truyền cảm. Hai câu văn: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên
hạ”, và: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” - đẹp như những bức châm trong các thư họa nghìn
xưa lưu lại trong các viện bảo tàng mĩ thuật.
- Bút pháp dựng người, dựng cảnh của nhà văn đạt đến mức điêu luyện. Đánh giá về
đoạn văn tả cảnh ông Huấn Cao cho chữ, nhiều nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng đó là
một đoạn văn rất giàu “chất điện ảnh”. Đoạn văn giống như một thước phim ngắn, chậm rãi.
Cứ sau mỗi câu văn, từng hình ảnh của sự vật, từng động tác của con người lại hiện ra một
cách rõ ràng và sống động,
- Thủ pháp tương phản được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả đã làm nổi bật hơn bao giờ
hết vẻ đẹp trang trọng, uy nghi, rực rỡ hào quang bất tử của hình tượng nhân vật Huấn Cao.

16
Nguyễn Tuân và ‘’Chữ Người Tử Tù’’
1. Những nét chính trong sự nghiệp văn học Nguyễn Tuân:
Nguyễn Tuân là một tác giả lớn của văn học Việt Nam. Ông sinh năm 1910 ở làng
Mọc, nay là thôn Thượng Đình, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân và mất năm 1987 tại
Hà Nội. Nguyễn Tuân viết cả truyện ngắn, bút ký, tùy bút, phê bình văn học. Ông được người
đương thời suy tôn là ‘’ông vua tùy bút’’. Nguyễn Tuân hoạt động văn hơn nửa thế kỷ và đã để
lại một sự sự nghiệp văn học lớn. Sự nghiệp của ông trải ra trên hai chặng đường trước và sau
1945. Trước 1945 là do là nhà văn lãng mạn, sau 1945 là nhà văn cách mạng.
 Trước Cách mạng
Sáng tác của Nguyễn Tuân thời kỳ này chủ yếu xoay quanh ba đề tài ‘’chủ nghĩa xê
dịch’’, vẻ đẹp ‘’Vang bóng một thời’’ và ‘’Đời sống trụy lạc’’
- Chủ nghĩa xê dịch: Nguyễn Tuân tìm đến lý thuyết này trong tâm trạng bất mãn, bất lực
trước thời cuộc. Ông viết về bước chân của cái tôi qua những miền quê, trong đó
hiện ra cảnh sắc và phong vị quê hương cùng một tấm lòng yêu nước tha thiết bằng một
ngòi bút trìu tượng và tài hoa. Các tác phẩm ‘’Một Chuyến Đi’’ (1938), Thiếu quê
hương (19 ). Nguyễn Tuân cho rằng: ‘’đi là để thay đổi thực đơn cho giác quan’’.
- Vẻ đẹp ‘’Vang bóng một thời’’: chủ yếu viết về ‘’một thời’’ vàng son lộng lẫy đã qua
nhưng vẫn còn ‘’vang bóng’’ đến bây giờ với tác phẩm xoay quanh việc ca ngợi những
con người thuộc lớp nhà nho cuối mùa, tài hoa bất đắc chi, tuy đã thua cuộc ‘’không
chịu làm lành’’ với xhtđ (trong số này cũng có người có khí phách ngang tàn như Huấn
Cao trong Chữ Người Tử Tù). Họ không can tâm làm nô lệ quay lưng lại chế độ đương
thời, tìm về ‘’cái đạo sống của người tài tử’’, tức là sống trong nhàn tản với những thứ
chơi thanh cao, tao nhã như ‘’đánh cờ’’, ‘’trồng hoa’’, ‘’làm đèn kén quân vào dịp trung
thu’’. Tác phẩm ‘’vang bóng một thời’’ (1940)
- Đời sống trụy lạc: ghi lại quãng đời do hoang mang, bế tắc, cái tôi lãng tử để trốn vào
rượu, thuốc phiện và hát cô đầu, qua đó thấy hiện lên tâm trạng khủng hoảng của lớp
thanh niên đương thời. Tác phẩm chính ‘’Chiếc Lư đồng mắt cua’’ (1941), “Ngọn đèn
dầu lạc”.
 Sau cách mạng tháng Tám: Lòng yêu nước và thái độ bất mãn với xã hội thực dân đã
đưa Nguyễn Tuân đến với kháng chiến và cách mạng. Ông chân thành đem ngòi bút của
mình phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất
nước. Nguyễn Tấn lao đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo đầy nghệ
thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân trong chiến đấu và sản xuất. Qua
đó, ông đem đến cho người đọc niềm tự hào về nhân dân, dân tộc Việt Nam, một dân
tộc ko chỉ có chính nghĩa, khí phách anh hung, cần cù, sáng tạo à còn có tư thế sang
trọng và tài hoa của những con người sinh ra trên mặt đất nước có hàng nghìn năm văn
hiến. Tác phẩm chính: ‘’Sông Đà’’, ‘’Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi’’, ‘’Ký Nguyễn Tuân’’…
NT là một nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo và sâu sắc. Ông là nhà văn suốt đời đi
tìm kiếm và khẳng định những giá trị nhân văn cao quý, bằng những trang viết tài hoa, uyên
bác vừa cổ kính, vừa hiện đại. Ông có nhiều những nhiều đóng góp cho sự phát triển của thể
loại tùy bút và tiếng vệt. Nguyễn Tuân xứng đáng là một nghệ sĩ lớn và đã được tặng giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học đợt 1 năm 1996.
Ngay sau khi mới cầm bút, Nguyễn Tuân đã có ý thức rõ rệt muốn thể hiện một cá
tính khác thường, một phong cách độc đáo. Phong cách này có thể gói gọn trong một chữ
‘’ngông’’. Đây là một thái độ phản ứng tiêu cực nhưng kiêu ngạo đối với môi trường xã hội
tầm thường, phàm tục, tù túng của một trí thức tài hoa trọng nhân cách, giàu sức sống nhưng
bế tắc. ‘’Ngông’’ thể hiện ở chỗ cố tình hoạt động, nói năng, viết lách một cách khác người,
thậm chí là ngược đời. Nhưng ngược đời mà đầy tài hoa. Kẻ ngông muốn đứng trên đỉnh cao
17
của sự tài hoa uyên bác để trêu ghẹo thiên hạ và để tỏ thái độ khinh đời. Cho nên kẻ chơi
ngông xưa nay đều là những bậc tài hoa, uyên bác và có nhân cách như NC Trứ, Tú Xương,
Tản Đà… Cái ngông của Nguyễn Tuân vừa có truyền thống cổ điển, của những bậc tài hoa từ
ngày trước, vừa có sự kết hợp với chủ nghĩa cá nhân được tiếp nhận từ văn hóa phương Tây
hiện đại:
1. Quan sát, khám phá và diễn tả thế giới nghiêng về phương diện văn hóa, thẩm
mĩ.
2. Quan sát, khám phá, diễn tả con người nhiêng về phía về phương diện tài hoa,
nghệ sĩ. Khái niệm “ tài hoa nghệ sĩ ’’ ở Nguyễn Tuân vừa có nghĩa rộng vừa có nghĩa hẹp.
Nghĩa hẹp là người làm nghệ thuật, say mê nghệ thuật, còn nghĩa rộng là dù làm bất cứ nghề
gì, việc gì cũng đẩy lên tới mức xuất chúng, siêu việt, trở thành một thứ nghệ thuật như uống
trà một cách tinh tế, chơi lan chơi cúc một cách sành sỏi, hay đánh bạc bằng thơ Đường thơ
Tống ( VBMT ), người lái đò trong “ Người lái đò sông Đà ‘’ cũng là một kiểu người tài hoa
nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác sông Đà.
3. Quan niệm cái đẹp là những hiện tượng gây ấn tượng sâu sâu đậm, đập mạnh vào
giác quan nghệ sĩ ( nhân vật có cá tính khác thường, cảnh thiên nhiên hoặc đẹp tuyệt vời hoặc
gây ấn tượng mãnh liệt, dữ dội…) như gió, bão, núi cao, rừng thiêng, thác ghềnh hiểm trở.
4. Sử dụng thể văn tùy bút hết sức phóng túng với nhân vật cho là cái tôi chủ quan
của tác giả ( Nguyễn Tuân gọi là ‘’ chơi lồi độc tẩu “. Đó là một cái tôi rất mực tài hoa, uyên
bác. Đây là lét bao trùm nhất trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Tài hoa trong việc
dựng người, dựng cảnh, trong những so sánh, liên tưởng táo bạo, bất ngờ… Uyên bác trong
việc vận dụng sự hiểu nhiều ngành khác nhau để quan sát hiện thực, sáng tạo hình tượng, mang
đến cho người đọc một khối lượng tri thức đa dạng, phong phú.
5. Văn của Nguyễn Tuân vừa đĩnh đạc, cổ kính vừa trẻ trung, hiện đại, rất giàu hình
ảnh, nhạc điệu với một kho từ vựng phong phú, chính xác với nhiều tìm tòi sáng tạo mới lạ,
độc đáo trong cách trong cách đặt câu, dùng từ.
6. Sự chuyển biến trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: Nguyễn Tuân có một
phong cách nghệ thuật thống nhất nhưng lại có sự chuyển biến qua hai giai đoạn trước và sau
cách mạng tháng tám 1945:

Trước cách mạng tháng 8 Sau cách mạng tháng Tám


1.Quan niệm cái đẹp chỉ có trong quá khứ 1.Không đối lập quá khứ với hiện tại.
gọi là ‘’ Vang bóng một thời ‘’ và tài hoa Cái đẹp có cả ở quá khứ, hiện tại và
nghệ sĩ chỉ có ở những con người xuất tương lai, và tài hoa có thể ở cả nhân
chúng, thuộc những thời trước còn vương sót dân đại chúng.
lại (Nguyễn Tuân gọi họ là những người sinh
lầm thế kỷ bơ vơ lạc lõng trong thời đại).
2.Tìm cảm giác mạnh ở quá khứ “ VBMT ‘’ 2.Tìm những hiện tượng gây cảm giác
ở chủ nghĩa xê dịch ( luôn luôn chuyển chỗ mạnh ở những phong cảnh đẹp hùng
để ‘’ thay đổi thực đơn cho giác quan ‘’, ở vĩ của thiên nhiên đất nước và ở
đời sống trụy lạc ( rượu, thuốc phiện ) ở thế những thành tích của nhân dân trong
giới ma quỷ thể hiện trong những truyện gọi chiến đấu và xây dựng.
là ‘’ yêu ngôn ‘’.
3.Sử dụng thể văn tùy bút thiên về diễn tả nội 3.Vẫn dùng thể văn tùy bút nhưng có
tâm của cái tôi chủ quan. pha chất kí với bút pháp hướng ngoại
để phản ánh hiện thực, ghi chép thành
tích chiến đấu xây dựng của nhân dân.
2. Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao
18
Nguyễn Tuân là cây bút có lý tưởng thẩm mỹ và phong cách nghệ thuật độc đáo
đến mức hiến hiếm có trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 30 – 45. Sống trong hoàn cảnh
đất nước mất chủ quyền, môi trường xã hội thực dân ngột ngạt, tù túng , người nghệ sĩ suốt
đời đi lên với cái đẹp ấy đã đi tìm niềm vui sống nơi những vẻ đẹp một thời còn vang bóng .
Chữ Người Tử Tù là một truyện ngắn lãng mạn được xếp vào hàng kiệt tác của đời văn NT.
Bởi nó kết tinh được lý tưởng thẩm mĩ và phong cách nghệ thuật riêng của con người và sáng
tác NT .Đối với tác phẩm, người đọc sẽ say sưa ngắm nhìn một bức chân dung mang vẻ đẹp
mang vẻ đẹp lãng mạn, lý tưởng đẹp nhất trong đời văn Nguyễn Tuân - đó là một chân dung
hình tượng nhân vật Huấn Cao một con người tài hoa khí phách, có tấm lòng cao quý.
Hình tượng nhân vật Huấn Cao được NT xây dựng trên một nguyên mẫu cuộc đời
thực: nhân vật Cao Bá Quát. Đó là một nhà Nho tài hoa viết chữ đẹp, giỏi thơ phú . Đó còn là
một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân chống nhà Nguyễn năm 1854 có bản lĩnh kiên
cường, khí phách phi thường. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, anh hung, ‘’hào kiệt’’ đời nào
cũng có, nhưng kiểu anh hùng nghệ sĩ tài hoa tài tử như Cao Bá Quát quả thực không nhiều
lắm . Ở nguyên mẫu này, Nguyễn Tuân đã tìm gặp được những vẻ đẹp cao quý phù hợp với lý
tưởng thẩm mĩ riêng của mình . Hình tượng Huấn Cao vì thế qua cái nhìn lãng mạn của
Nguyễn Tuân là một con người tài năng đến độ tài hoa… có khí phách anh hùng dũng liệt lại
cũng là người có nhân cách tấm lòng cao quý đã trở thành một trong số ít nhân vật mang vẻ
đẹp rực rỡ lý tưởng nhất của sáng tác NT trước cách mạng. Vẻ đẹp hình tượng này được
Nguyễn Tuân tập trung khắc sâu ,tô đậm trong tình huống cuộc gặp gỡ éo le đầy kịch tính với
viên quan coi ngục. Trong thực tế lịch sử, Cao Bá Quát đã chết trong đám loạn quân trong
cuộc khởi nghĩa nông dân năm 1854. Nhưng với tấm lòng ngưỡng mộ thành kính và tài năng
nghệ thuật của mình, Nguyễn Tuân đã có đã ‘’kéo dài cuộc sống’’ của Cao Bá Quát qua hình
tượng Huấn Cao trong những ngày cuối cùng sống trong nhà giam tử tù. Ở đó, vẻ đẹp của
Huấn Cao - cũng là của Cao Bá Quát - lung linh tỏa sáng giữa chốn ngục tù đặc quánh bùn
đen.
Trước hết, Huấn Cao hấp dẫn người đọc bởi vẻ đẹp của một người nghệ sĩ rất mực
tài hoa. Đọc văn Nguyễn Tuân, ta sẽ gặp ở đó một thế giới nhân vật gồm những con người
nghệ sĩ. Họ làm những công việc rất khác nhau, thậm chí chẳng liên quan gì đến nghệ thuật
nhưng nếu làm công việc đó đạt tới trình độ nghệ thuật siêu phàm, phi thường thì đều có thể
trở thành nghệ sĩ. Đó là do quan niệm thẩm mỹ riêng của Nguyễn Tuân - một người nghệ sĩ
luôn coi cái đẹp là tôn giáo riêng của mình. Huấn Cao là nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật nghệ
thuật thư pháp.
Nghệ thuật thư pháp là một chuyên ngành của nghệ thuật hội họa . Đó là một lĩnh
vực nghệ thuật rất cổ xưa, cao siêu. Tài năng hội họa có rất nhiều nhưng trong số họ những
người có tài thư pháp vô cùng hiếm hoi. Chữ trong thư pháp tuyệt nhiên không thể là sản phẩm
của một sự khéo tay tạo nghề của một người thợ, mỗi nét chữ của của một tác phẩm thư pháp
đều chứa đựng tài hoa tâm huyết của người viết. Nó là sự hiện hữu của những khao khác, thầm
kín, chất chứa trong tâm khảm nhân cách người viết. Vẻ đẹp này của Huấn Cao được khắc họa
ngay từ đầu tác phẩm khi HC chưa xuất hiện qua cuộc đối thoại giữa QN và thơ lại. Nguyễn
Tuân đã giới thiệu nhân vật gián tiếp: ‘’cái người mà cả vùng tỉnh Sơn vẫn khen có tài viết chữ
rất nhanh và đẹp’’. Để tả đối nghịch với Huấn Cao nói lên lời ca ngợi ngưỡng mộ kín đáo, tác
giả đã giúp người đọc hiểu được phần nào phẩm chất, tài năng của nhân vật - tài năng viết chữ
của Huấn Cao được lưu truyền như một huyền thoại trong dân gian. Qua sở nguyện (suy nghĩ
thấu đáo) của quản ngục từ ngày biết ‘’đọc vỡ sách thánh hiền’’, ta hiểu thêm giá trị con chữ
của Huấn Cao, không chỉ ‘’đẹp lắm, vuông lắm’’ mà còn là vật bán vật bán trên đời. Bởi vậy
quản ngục mới có sợ nguyện các các quý là ‘’Một ngày kia được treo ở nhà riêng của mình
một câu đối do chính tay Huấn Cao viết’’. Đó cũng là mơ ước suốt đời của quản ngục. Để đạt
19
được sở nguyện ấy, quản ngục đã dám coi thường quyền lợi của một viên quan đánh đổi cả
tính mệnh để biệt đãi kẻ tử tù. Có thể nói quản ngục không chỉ kiên trì đối xử nhún nhường,
nhẫn nhịn mà còn phải dũng cảm để mong được Huấn Cao cho chữ bởi biển đãi tử tù rõ ràng là
sẽ bị khép vào tội khi quân, bị chém đầu nếu sự việc bại lộ.
Tài năng viết chữ đẹp của Huấn Cao còn bộc lộ trực tiếp qua lời đối thoại của Huấn
Cao và thơ lại: ‘’Chữ thì quý thực, ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình
viết câu đối bao giờ’’. Có thể thấy, xoay quanh lời đối thoại, suy nghĩ thầm kín, hành động của
quản ngục không như lời đối thoại để kiêu bạc của Huấn Cao, Nguyễn Tuân cho ta thấy vẻ đẹp
tài năng của Huấn Cao trong nghệ thuật thư pháp.
Không chỉ mang trong mình cốt cách tâm hồn nghệ sĩ, Huấn Cao và có cốt cách của một anh
hùng khí phách, dũng liệt. Trong sáng tác nghệ thuật có một quy luật đầy nghịch lý nhiều khi
nhiều ‘’chi tiết nhỏ lại có khả năng làm nên tài năng lớn’’ ( lép tôn-xtôi ). Với nghệ thuật miêu
tả chân dung nhân vật văn học, nhà văn chỉ còn chộp được những chi tiết nghệ thuật đặc sắc
mang hồn cốt, thần thái của nhân vật. Ở lĩnh vực này, Nguyễn Tuân là bậc thầy. Là người từng
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình phong kiến thối nát để rồi lĩnh án tử
hình, là kẻ ‘’cầm đầu bọn phản nghịch’’, Huấn Cao vẫn nêu cao vẻ đẹp của một khí phách anh
hung, tinh thần dũng cảm, thái độ coi thường cái chết. Vẻ đẹp khí phách anh hùng của Huấn
Cao được Nguyễn Tuân khắc họa bằng nhiều chi tiết có ý nghĩa: Trước hết, vẻ đẹp ấy thể hiện
ở chi tiết ‘’thúc mạnh không đánh thuỳnh một cái’’ trong ngày đầu vào trại giam tỉnh Sơn, thái
độ dửng dưng ‘’không thèm chấp’’ trước những lời doạ dẫm của bọn lính canh. Là một người
chọc trời khuấy nước, đợi ngày lĩnh án mà không một chút nao núng vẫn thản nhiên nhận rượu
thịt, lại có ý khinh bạc đến điều với người đã hậu đãi mình một cách lễ phép. Con người ấy đến
cái chết chém cũng chẳng sợ, ngày nhận tin sẽ bị giải về kinh chịu án tử hình. HC chỉ mỉm
cười và lặng nghĩ, nhưng ko phải nghĩ về cái cái án chém đang lơ lửng trên đầu mà nghĩ về
tấm lòng quản ngục. Quên đi ‘’cái chết kề cổ’’, đêm trước ngày ra pháp trường Huấn Cao ung
dung sáng tạo cái đẹp không có cốt cách của một người anh hùng chắc hẳn Huấn Cao đã không
có được sự bình thản ung dung ấy. Sự xuất hiện của Huấn Cao ở chốn ngục tù này đã làm rung
chuyển cả thế nhà tù. Những cử chỉ, lời nói của Huấn Cao đã tạo nên chân dung một con người
với vẻ đẹp lí tưởng của nho sĩ: ‘’Phú quý bất năng di, bần tiện bất năng dâm, uy vũ bất năng
khuất’’.
Nếu chỉ có khí phách, tài hoa không thôi, Huấn Cao sẽ khó lòng có thể tỏa sáng
trong tác phẩm, trong lòng người đọc. Sở dĩ hình tượng này trở thành hình tượng lãng mạn, lý
tưởng bởi người viết đã tô đậm vẻ đẹp tấm lòng nhân vật - đó là vẻ đẹp của thiên lương trong
sáng, cao đẹp. Đại thi hào Nguyễn Du đã từng khẳng định: "chữ Tâm kia mới bằng ba chữ
Tài", vẻ đẹp của tài năng chỉ khiến người ta ngưỡng mộ, vẻ đẹp của nhân cách mới khiến
người đời nể phục. Trong "Chữ người tử tù", Nguyễn Tuân đã xây dựng một Huấn Cao đẹp
toàn diện từ tài năng đến nhân cách. Chính nhân cách ấy đã khiến khiến cho quản ngục cảm
thấy "khổ tâm nhất, có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm
thế nào xin được chữ". Bởi là người có tài nhưng Huấn Cao không phung phí tài năng, ông rất
có ý thức trong việc sử dụng cái tài của mình. Chữ HC vàng ngọc không mua được, quyền thế
không ép buộc được, nó là vật báo chỉ dành cho những tri kỷ. Tấm lòng nhân cách Huấn Cao
thể hiện ở lòng tự trọng, ở ý thức biết giữ gìn, biết tiếc cho cái tài của mình, biết dành cái tài ấy
cho đúng người, đúng lúc. Không những vậy, Huấn Cao còn là người có ý thức giữ trọn thiên
lương trong mọi hoàn cảnh. Khi QN ngỏ ý muốn biệt đãi để tử tù đỡ khổ cực trong những ngày
còn lại, do chưa hiểu tấm lòng QN, không tin được giữa đề lao đầy lọc lừa tàn nhẫn này vẫn có
người giữ được thiên lương, càng không muốn hưởng ân huệ của một kẻ tiểu nhân nên Huấn
Cao một mực tỏ thái độ khinh thườn. Thế nhưng Huấn Cao khi bạc, lạnh lùng nhưng quyết
không phải người vô tình. Bởi khi ông quan sát QN bị sỉ nhục, không trả thù lại còn hậu đãi
20
chu đáo hơn, trong lòng cũng "bận tâm nghĩ ngợi". Biết giữ thiên lương của mình, Huấn Cao
cũng biết trân trọng nhân cách của "người trong thiên hạ" nữa. Thấu hiểu sở nguyện cao quý
của quản ngục, Huấn Cao vô cùng xúc động, ân hận. "Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm
lòng trong thiên hạ". Câu nói của Huấn Cao giúp người đọc hiểu được lẽ sống cao đẹp của
nhân vật: Sống là phải xứng đáng với những tấm lòng", và Huấn Cao đã đồng ý cho chữ quản
ngục. Con người ngoài đời chỉ biết cúi đầu trước hoa mai giờ đây cũng chỉ cúi đầu trân trọng
vẻ đẹp của một thứ mai hoa nơi lòng người quản ngục.
Từ bước ngoặt trong cốt truyện để đi đến cảnh cho chữ cuối tác phẩm, HC kết húc
sự hiện lên với sự hòa hợp kì diệu của cái tâm và cái tài. Trong "cảnh tượng xưa nay chưa từng
có" ấy, Nguyễn Tuân để vẻ đẹp của cái tâm, của thiên lương chiếu rọi làm cho vẻ đẹp của cái
tài, của khí phách anh hùng bừng sáng, tạo nên nhân cách chói lọi của Huấn Cao. Sự thống
nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng là lý tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, là chuẩn
mực để ông đánh giá nhân cách con người. Nguyễn Tuân đặt nhân vật dưới ánh sáng của lí
tưởng ấy để các hình tượng bộc lộ vẻ đẹp với các mức độ khác nhau. Trên cái nền đen tối của
nhà từ nhà tù, QN, thơ lại là hai điểm sáng, bên cạnh cái vầng sáng rực rỡ Huấn Cao. Cũng
chính lý tưởng thẩm mỹ ấy đã chi phối mạch vận động của truyện, tạo thành cuộc đổi ngôi kỳ
diệu. Kẻ tử tù trở thành người làm chủ tình huống, ban phát cái đẹp, dạy dỗ phép sống, quan
coi ngục thì khúm núm, sợ hãi. Trong đêm cuối của cuộc đời của đời mình, Huấn Cao cho chữ
trong tư thế "cổ đeo gông chân vừa xiềng" nhưng vẫn ung dung tự tại đầy hứng khởi. khi "đậm
tô nét chữ" trên tấm nhựa trắng tinh, vẫn say sưa thưởng thức mùi thơm của thoi mực, vẫn say
sưa, sáng suốt trao lại cho quản ngục không chỉ nét chữ tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành
mà còn cả lời là di huấn thiêng liêng "nên tìm về quê mà ở" để "giữ thiên lương cho lành
vững", để "khói lem nhuốc mất cả đời lương thiện". có thể thấy, hiện lên trong cảnh cho chữ là
một HC nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp để phụng sự cái tâm trước sự chứng kiến đầy
ngưỡng mộ của kẻ liên tài: QN, thơ lại,... Không còn kẻ phạm tội, không còn chủ nhà ngục, chỉ
còn lại "ba cái đầu chụm vào nhau trên vuông lụa bạch", được Nguyễn Tuân miêu tả khái quát
như một biểu tượng nghệ thuật đẹp, giàu ý nghĩa và sự hòa hợp giữa những vẻ đẹp lí tưởng nơi
con người Huấn Cao và những con người trong tác phẩm. Với cảnh cho chữ, Huấn Cao đã đi
vào cõi bất bất tử. Sự bất tử kỳ diệu bởi những con chữ do Huấn Cao sáng tạo kết tinh vẻ đẹp
tài năng, tấm lòng, khí phách nhân vật rồi sẽ được quản ngục lưu giữ, bảo tồn, trân trọng.
Chính con chữ ấy đã nối dài sự sống cho người đã sáng tạo ra nó.
Với đẹp đạt tới mức lý tưởng của tài năng, khí phách, tấm lòng, Huấn Cao thực sự
trở thành hình tượng lãng mạn đẹp nhất trong văn nghiệp Nguyễn Tuân. Từ nhân vật, người
đọc nhận ra khúc ca lãng mạn kết tinh giá trị nhân văn cao quý của tác phẩm. Đó là niềm tin
mê lãng mạn của tác giả vào sự bất tử và sức mạnh cảm hóa kỳ diệu của cái đẹp. Cũng từ hình
tượng, người đọc hiểu tấm lòng yêu nước, tinh thần dân tộc mang sắc thái riêng của con người
Nguyễn Tuân bộc lộ ở thái độ trân trọng, ý thức giữ gìn những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân
tộc. Qua nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân bộc lộ quan niệm nghệ thuật đầy chất nhân văn về
con người: Con người đáng quý đáng trọng không chỉ bởi có tài năng, khí phách mà cái chính
là giữ được thiên lương trong mọi hoàn cảnh và biết giữ, biết quý thiên lương nơi con người,
thể hiện tài năng nghệ thuật của ông. Đó là biểu tượng cho sự chiến thắng của cái tài, cái tâm
trước cái phàm tục, dơ bẩn của cái khí phách ngang tàng đối với thói quen nô lệ. Huấn Cao
được xây dựng từ nguyên mẫu đời thực nhưng Huấn Cao còn là tâm hồn, tính cách Nguyễn
Tuân.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào một tình
huống truyện độc đáo. Cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao, QN và thư lại. Đó là cuộc gặp gỡ giữa tử
tù với quan coi ngục, nhưng cũng là cuộc hội ngộ giữa những kể liên tài tri kỷ. Miêu tả Huấn
Cao để làm nổi bật sự chiến thắng của cái tải, cái đẹp, cái tâm và khí phách ngang tàng,
21
Nguyễn Tuân triệt để sử dụng sức mạnh của nguyên tắc đối lập tương phản của bút pháp lãng
mạn: đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái cao cả với cái phàm tục, dơ bẩn. Có sự tương
phản ở những chi tiết tạo hình được sử dụng để miêu tả không khí (cảnh cho chữ, bóng tối
phòng giam, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ...). Có sự đối
lập lập tương phản giữa việc cho chữ (công việc của cái đẹp nói lên hoài hoài bão tung hoành
cả đời người) với hoàn cảnh cho chữ (nơi hôi hám, bẩn thỉu, nơi giam cầm, cầm trói tự do). Có
sự đối lập ở phong thái người cho chữ (đường hoàng) với tư thế kẻ nhận chữ (khúm núm). Bên
cạnh đó, ngôn ngữ miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân giàu chất tạo hình. Ông sử dụng nhiều
từ Hán Việt, lời ăn tiếng nói mang khẩu khí của người xưa làm tăng thêm vẻ đẹp của "một thời
vang bóng" ở hình tượng Huấn Cao.
Huấn Cao trở thành hình tượng nghệ thuật có sức sống, sức hấp dẫn mãnh liệt với
người đọc. Hình tượng này giúp người đọc thấm thía hơn chân lý nghệ thuật mà Paultốpxki đã
khẳng định: "Tác giả chân chính là người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp’’

3. Quản ngục – ‘’một thanh âm trong trong trẻo vào giữa một bản đàn mà nhạc mà nhạc
luật đều hỗn loạn, xô bồ’’
‘’Vang bóng một thời’’ (1940) của Nguyễn Tuân là tập truyện ngắn được Vũ Ngọc
Phan đánh giá là ‘’một văn phẩm gần đạt tới sự toàn thiện toàn mỹ. Trong đó Chữ Người Tử
Tù được khẳng định là một kiệt tác. Ở đó, Huấn Cao không phải là hình tượng nhân vật duy
nhất chiếm được toàn bộ tình yêu mến của Nguyễn Tuân cũng như người đọc, tác giả còn cho
ta gặp, truyền cho ta làm yêu mến, ngưỡng mộ của một con người khác nữa. Đó là hình tượng
quản ngục. Đây là nhân vật mang vẻ đẹp lãng mạn, lý tưởng gắn với quan niệm thẩm mỹ riêng
của người nghệ sĩ ‘’suốt đời đi tìm cái đẹp’’. Cùng với Huấn Cao, QN trở thành một trong
những hình tượng nghệ thuật lưu danh tên tuổi của nhà văn Nguyễn Tuân. Tài năng sáng tạo
tấm lòng đối với con người như một của một nghệ sĩ tài hoa đến mức hiếm có không chỉ gắn
với Huấn Cao mà còn gắn chặt với hình tượng quản ngục – ‘’một thanh âm trong trẻo chen vào
giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ’’.
Nếu như Huấn Cao là biểu tượng về cái đẹp với sức mạnh sức mạnh hướng thiện
của nó thì nhân vật viên quản ngục được sáng tác ra để hiện thực hóa sức mạnh ấy. Có viên
quản ngục thì ý đồ nghệ thuật của nhà văn mới thực hiện được. Nhưng vai trò cực kỳ quan
trọng ấy của nhân vật quản ngục không dễ nhận ra, bởi vì nhân vật này dường như được
Nguyễn Tuân ‘’giấu’’ đi. ẩn xuống hàng thứ hai đằng sau nhân vật Huấn Cao. Cảm giác ban
đầu khi đọc Chữ Người Tử Tù, người đọc choáng váng, ngập trong ánh sáng tỏa ra từ hình
tượng Huấn Cao uy nghi, rực rỡ. Từng dòng chữ, từng trang sách cứ lấp lánh hình ảnh Huấn
Cao, QN dường như bị mờ đi, át đi, chỉ như một chấm sáng trước một quầng hào chói lọi.
Nhưng đọc thêm vài lần nữa, gấp trang sách lại, ngẫm nghĩ kĩ, thấy nhân vật quản ngục từ từ
hiện lên, ngày một rõ nét và cuấn hút ta bằng một vẻ đẹp kỳ lạ. Chính quản ngục sẽ đem đến
cho ta nhiều khoái cảm thẩm mĩ mới mẻ, thú vị.
Quản ngục được Nguyễn Tuân đánh giá: ‘’trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống
bằng tàn nhẫn, lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết trọng người ngay của viên quản ngục
này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ’’.
Tính cách HC có phần một chiều, bất biến và đơn giản, ít những bất ngờ. Trái lại,
nhân vật viên quản ngục có sự vận động về tính cách. Trước khi làm nghề coi ngục, ông ta
cũng là người đèn sách biết ‘’đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền’’. Là người lương thiện tử tế, lại có
chữ thánh hiền bồi đắp cho thiên lương nảy nở tốt đẹp, ông ta yêu đến say mê cái đẹp – ‘’cái
sở nguyện… là một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao
viết’’. Nhưng sự đời xui rủi ‘’đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và
những người có tâm điền tốt, thẳng thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt’’, quản ngục sa
22
vào chỗ tối tăm, phẩm chất từ đó đã hoan ố đi ít nhiều. Giữa chốn ngục tù tăm tối ấy mà
Nguyễn Tuân gọi là ‘’bản đàn mọi nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ’’ ấy, chỉ tồn tại hai thứ: cái ác,
cái xấu, sự tàn nhẫn lọc lừa và những nỗi khổ đau tuyệt vọng. Để thổi bùng lên ngọn lửa lương
tri đang âm ỉ cháy trong lòng quản ngục bị vùi lấp giữa đống tro tàn của những bon chen, lọc
lừa. Nguyễn Tuân đã đạt quản ngục vào một tình huống thật đặc biệt. Đó là cuộc gặp gỡ với
Huấn Cao - một cuộc gặp gỡ đầy éo le. Thần tượng của ông giờ là tử tù mà ông là người cai
ngục. Một tình huống đầy kịch tính được mở ra, ở bình diện xã hội, họ là những kẻ đối nghịch
nhau, nhưng trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm, tri kỷ của nhau. Kẻ phản nghịch cầm đầu
cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình lại là một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật thư pháp và kẻ
đại diện cho pháp luật của triều đình lại là người ngưỡng mộ cái tài ấy. Cuộc kì ngộ này chính
là có duyên để cho lòng yêu cái đẹp của quản ngục sống dậy mãnh liệt, để ‘’thanh âm trong
trẻo’’ ấy vút lên trên hoàn cảnh sống, Nguyễn Tuân đã rất tinh tế khi đánh giá quản ngục là
‘’một thanh…’’. Đây là một cách so sánh đầy hình ảnh làm nổi bật vẻ đẹp quản ngục: con
người có thiện lương trong sáng bất chấp hoàn cảnh sống éo le. Đây cũng làm cách viết thể
hiện sự đề cao, trân trọng của Nguyễn Tuân với nhân vật đặc biệt này.
Dõi theo diễn viên diễn biến cuộc gặp gỡ giữa quản ngục và Huấn Cao, Nguyễn
Tuân đã làm hiện rõ chân dung quản ngục. Đó là con người có tấm lòng biệt nhỡn liên tài. QN
chiếm được cảm tình yêu mến của người đọc bởi trước hết là vẻ đẹp tấm lòng của con người
có đôi mắt ‘biệt nhỡn lien tài’’. Người có ‘’con mắt biệt nhỡn liên tài’’ là người có con mắt
biết nhìn nhận, đánh giá, đối xử đúng với thái độ trân trọng những kẻ có tài trong cuộc đời. Vẻ
đẹp này của hình tượng được ngòi bút NT khác khắc họa ngay từ dòng đầu tiên của tác phẩm
với cách giới thiệu trực tiếp, ngắn gọn. QN đã xuất hiện khi nhận cái phiến trát về 6 tử tù từ
quan trên. Là một viên quan coi ngục, việc ấy vốn là việc thường ngày, nhưng lần này, thái độ
của quản ngục có gì đó khác thường. Cái phiến trát của quan trên đã khiến con người này phải
nghĩ ngợi, băn khoan. Thái độ ấy của ngục quan được tác giả thể hiện kín đáo qua lời đối thoại
với thơ lại ‘’ Tôi nghe mà thấy ngờ ngợ… Huấn Cao hay là cái người…’’. Qua cuộc trò
chuyện với thơ lại, tính cách nhân vật dần dần được bộc lộ. Là một kẻ đối nghịch mà quản
ngục nói về HC, tuy là một lời ‘’người ta đồn’’, vẫn không che giấu được thái độ khâm phục,
ngưỡng mộ. Giữa chốn ngục tù, công việc chính của quản ngục là cai quản, đầy đoạ tù nhân.
Vậy mà hôm nay, cả quản ngục và thơ lại cùng ca ngợi tử tù.
Lần theo những trang văn đầy biến tấu của Nguyễn Tuân, những cảm nhận ban đầu
về nhân vật ngày càng sáng rõ. Quản ngục được tác giả xây dựng với bút pháp hiện thực, gần
với cuộc đời hơn, thật hơn. Con người ấy không chỉ là kẻ biết thi hành phận sự cần mẫn, tận
tụy mà còn là nhân vật có đời sống nội tâm sâu sắc. Trong cái đêm đầu tiên khi nhận phiến trát
có tên Huấn Cao, quản ngục đã băn khoăn, ngồi bóp thái dương, ‘’người ngồi đấy, đầu đã điểm
hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của một bộ mặt tư lự bây giờ đã biến mất
hẳn. Ở đấy giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân bằng lặng, kín đáo, êm nhẹ’’. Bằng vài nét bút tài
hoa, Nguyễn Tuân đã thể hiện một đời sống nội tâm sâu sắc. Chính những băn khoăn thầm kín
ấy trong lòng nhân vật đã tỏa ra một thứ ánh sáng đầy lương tri.
Tấm lòng quản ngục cứ dần dần xuất hiện lên trên trang sách mà không cần thêm
bất kỳ lời bình luận ngoại đề nào của người viết. Tấm lòng ấy hiện lên qua ánh mắt, qua những
việc làm cụ thể. Ngày đầu nhận ‘’ 6 tên tử tù ‘’, quản ngục nhìn HC với ánh mắt kiêng lể, sự
ngưỡng mộ dù đã cố tình che dấu nhưng vẫn cứ hiển hiện. Bỏ qua những lời khích bác của lũ
lính áp giải, muốn hành hạ Huấn Cao để làm đòn phủ đầu, QN nghiêm nét mặt nói rằng đã có
phép nước. Và trong những ngày với trong cuộc đời Huấn Cao, QN đã biệt đãi ông một cách
chu đáo để người tử tù bớt cực . Bất chấp thái độ khinh bạc đến điều của Huấn Cao, QN vẫn
nhịn nhường ‘’xin lính ý’’. Khi bị ông Huấn đuổi ra khỏi phòng giam. Và ông vẫn tiếp tục
cung phụng Huấn Cao, không một chút tức giận. Chính cách cư xử ấy của quản ngục đã từng
23
khiến Huấn Cao - một con người chọc trời khuấy nước ‘’nào biết trên đầu có ai’’ - phải ‘’nghĩ
ngợi’’. Chưa xin được chữ HC, nên tâm trạng quản ngục đầy bi kịch. Quản ngục khổ tâm vì có
một ông Huấn trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào để xin được chữ.
Chỉ lo mai mốt, ông Huấn Cao bị hành hình mà không xin được chữ thì ‘’ân hận suốt đời’’.
Hành động, tâm trạng của Quan Ngục không chỉ cho thấy quản ngục có tấm lòng
biệt nhãn liên tài mà ông còn là người không sợ cường quyền. Con người ấy đã bất chấp cả thể
chế xã hội, dám chơi chữ của một kẻ đại nghịch là Huấn Cao, dám đảo lộn trật tự lao tù để biệt
nhỡn, tôn trọng cái tài, cái đẹp, dám xin chữ tử tù ngay trong nhà ngục. Quả thật, để xin được
chữ HC, thỏa mãn cái sở nguyện cao quí từ thuở biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, quản ngục
phải rất dũng cảm coi thường cái chết bởi trong xã hội ấy, hành động của quản ngục là khi
quân, sẽ bị chém đầu nếu việc bị bại lộ. Thế nên ông mới phải băn khoăn dò ý thơ lại xem thế
thế nào ‘’rồi sẽ liệu’’.
QN để lại ấn tượng sâu sắc khó quên còn bởi đó là con người hiện thân cho những
vẻ đẹp cao quý của tâm hồn, có một thiên lương trong sang, lành vững. Đó đúng là một khách
tài tử chọn nhầm nghề, giữa bọn người tàn nhẫn, lọc lừa thì ngục quan có tính cách dịu dàng,
biết trọng người ngay, có lòng biết giá trị con người. Là quản ngục, nhưng ông cũng là tù nhân
chung thân trong chính cái nhà tù mà ông cai quản. Cái danh cái lợi, trách nhiệm, bổn phận của
một ngục quan là thứ gông cùm, xiềng xích vô hình xiết chặt tâm hồn quản ngục suốt đời. ‘’Lũ
người quá quắt’’ cái ‘’đống cặn bã’’ bao quanh ông chẳng khác gì nơi buồng tối giam tử tù,
‘’một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián’’.
Đã có lúc, ngục quan thấm thía thân phận lạc loài cô đơn rất trốn tù ngục của chính mình, y
than thở ‘’có lẽ nào bắt này cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình chọn lầm
nghề mất rồi’’. Nếu như bi kịch của ông Huấn là bi kịch của người anh hùng thất thế, nhưng
vẫn hiên ngang thì bi kịch của ngục quan là bi kịch lầm đường. Kẻ lầm đường lạc lối này may
thay vẫn còn lương tri, lương năng, vẫn biết thờ cái đẹp, yêu say đắm cái đẹp để hi vọng tự giải
thoát. Con người ấy rất biết người biết ta tự thấy mình chỉ là một ‘’kẻ tiểu lại giữ tù’’ khi đứng
trước một nhân cách ‘’chọc trời khuấy nước’’ như Huấn Cao, nhưng cũng có thể nhìn thấu
nhân cách của một thơ lại dưới quyền mình. Tâm hồn QN được HC đánh giá là ‘’một tấm lòng
trong thiên hạ’’.
Vẻ đẹp nhân cách của QN thực sự thăng haa trong cảnh cho chữ. Giữa không gian
đêm nhà ngục, quản ngục lẽ ra là người đầy uy quyền có sứ mệnh giáo dụ,c cảm hóa tử tù,
những thật kì lạ, chính con người ấy trong ánh sáng của một bó đuốc tẩm dầu và vuông lụa
trắng tinh lại đang ‘’khúm múm’’ cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu những ô chữ trên phiến lụa
óng’’. Cũng chính con người ấy được tử tù đỡ thắng dậy, đang đón nhận lời chỉ huấn thiêng
liêng của tử tù với thái độ: ‘’ngục quan với người tử tù… xin bái lĩnh’’. Lời nói, lối hành xử
đầy nghi lễ của quản ngục chứng tỏ ông là người có vẻ đẹp thiên lương trong trẻo, thuần khiết
luôn hướng tới cái thiện, cái đẹp. Cái cúi lạy Huấn Cao của quản ngục là một hành động đẹp.
Đó kỳ sự cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, thể hiện thái độ biết kính pục, ngưỡng mộ trước một
nhân cách cao cả, bày tỏ lòng biết ơn chân thành với ân nhân khai sáng tâm hồn mình, đồng
thời tôn cao nhân cách quản ngục - một người không chỉ có tấm lòng biệt nhỡn liên tài mà còn
biết phục thiện.
Với tình huống truyện độc đáo, kịch tính kết hợp với bút pháp lãng mạn, thủ pháp
tương phản đối lập, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật quản ngục
mang vẻ đẹp lí tưởng. Đây là kiểu nhân vật quen thuộc của Nguyễn Tuân. Nhân cách quản
ngục là thứ vàng mươi đã được thử lửa. Qua nhân vật quản ngục, Nguyễn Tuân gửi gắm quan
niệm thẩm mĩ sâu sắc, tiến bộ: Cái đẹp có thể sinh ra ở mọi nơi mọi lúc, cái đẹp phải gắn với
cái thiện không thể ở chung với cái xấu cái ác, cái đẹp nâng đỡ con người cứu vớt con người.
Đó là niềm tin lãng mạn của Nguyễn Tuân vào xứ mệnh của nghệ thuật. Cũng qua nhân vật
24
quản ngục, Nguyễn Tuân gửi gắm lòng yêu quê hương đất nước thầm kín, niềm trân trọng vẻ
đẹp con người và văn hóa dân tộc.
Nếu Huấn Cao là người sở hữu cái đẹp, sáng tạo ra cái đẹp thì quản ngục là người
trân trọng, tôn thờ cái đẹp, người bảo vệ, giữ gìn và lưu truyền cái đẹp, ông mang tâm hồn của
người nghệ sỹ. Quản ngục là đóa sen hồng mọc lên giữa bùn đen của một xã hội ‘’ối a ba
phèng’’, nhưng vẫn tỏa ngát mùi hương, ‘’Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn’’. Cùng với
Huấn Cao, nhân vật quản ngục góp phần làm nên sức hấp dẫn của Chữ Người Tử Tù – một tác
phẩm gần đạt đến sự ‘’ toàn thiện, toàn mĩ ‘’, ‘’Đó không phải là người viết mà là thần viết!’’ (
QN là người vượt lên hoàn cảnh và đứng cao hơn hoàn cảnh ).

4. Cảnh cho chữ - cảnh tượng xưa nay chưa từng có:
Nhà văn Nguyễn Khải từng nhận xét “ Tôi không tin Kim Lân có thể viết lại Vợ
Nhặt, cũng như Nguyễn Tuân có thể viết Chữ Người Tử Tù. Đó là thần viết, thần mượn tay
người viết lên những trang văn bất hủ ‘’. Thật vậy, Nguyễn Tuân đã viết tên một tác phẩm gần
đạt tới sự toàn bích. Trong tác phẩm ấy, có một trang văn có thể xem là tuyệt bút, đó là đoạn
văn tả cảnh Huấn Cao cho chữ quản ngục, cảnh mà chính NT tôn xưng là ‘’cảnh tượng xưa
nay chưa từng có’’.
Lời tôn xưng của Nguyễn Tuân đã cho thấy tính chất đặc biệt khác thường của đoạn
văn. Có thế nói đây là một đoạn văn quan trọng nhất của tác phẩm, hội tụ được giá trị nghệ
thuật và tư tưởng của tác phẩm, đồng thời tô đậm vẻ đẹp liên hoàn của cả tài năng khí phách,
thiên lương của Huấn Cao - nhân vật chính trong tác phẩm và cũng làm sáng lên tính cách độc
đáo của quản ngục. Đoạn văn được viết từ cảm hứng của Nguyễn Tuân về cái đẹp thăng hoa
trong bút pháp lãng mạn với thủ pháp tương phản nhằm lý tưởng hóa cái đẹp: Trong buồng
giam chật hẹp, bẩn thỉu, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián, dưới
ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, một người cổ đeo gong, chân vướng xiềng đang
đậm tô những nét chữ trên nền lụa trắng tinh, đứng bên cạnh là viên QN ‘’khúm múm’’ cất
những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ’’, thấy thơ lại ‘’run run bưng chậu mực’’. Không gian
bên ngoài yên tĩnh chỉ văng vẳng tiếng mõ trên chòi canh. Bằng một vài chi tiết sống động, gợi
cảm và rất tạo hình như thế, Nguyễn Tuân đã khắc họa một bức tranh thật xúc động, cực trang
trọng, vừa thiêng liêng.
Vì sao lại có cảnh độc đáo nói trên? Truyện Chữ Người Tử Tù chỉ có hai nhân vật
chính: một tên phản nghịch bị khép vào tội tử tù, đang chờ ngày ra pháp trường, nhưng rất có
tài, đặc biệt là có tài chữ viết chữ đẹp. Còn người kia là một viên quản ngục say mê chữ đẹp,
kính phục tài năng của người tử tù và hằng khao khát có được chữ của người tử tù ấy. Trên
bình diện quan hệ xã hội, họ là những kẻ thù của nhau nhưng trên bình diện chữ tâm và cái đẹp
thì họ là tri âm tri kỷ của nhau. Sự gặp gỡ của họ tạo nên một tình huống oái oăm đầy kịch
tính, làm nổi bật tính cách của mỗi người. Là người giàu chữ tâm, có lòng tự trọng, có khí
phách khinh thường hết thảy những kể can tâm làm nô lệ và tiền bạc, quyền lực phi nghĩa, lúc
đầu Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều với quản ngục. Nhưng khi biết rõ ngục quan có sở
thích cao quý, yêu cái đẹp, Huấn Cao đã thay đổi thái độ cho chữ quản ngục để tỏ thái độ cảm
kích, trân trọng của một người nghệ sĩ với một tri kỷ.
Cảnh cho chữ cuối thiên truyện, thực sự là cảnh tượng khác thường ‘’Xưa nay chưa
từng có’’. Đầu tiên, sự khác thường thể hiện ở người cho chữ và người xin chữ. Nếu như trước
cảnh cho chữ, ba con người HC – QN - thơ lại là ba đốm sáng cô đơn, họ có sự gặp gỡ mà
không hề có sự thấu hiểu, sẻ chia. Họ ở hai chiến tuyến tưởng như không bao giờ có thể tới
gần nhau. Thì bây giờ, trong cảnh cho chữ này, họ lại là tri âm, tri kỷ. Bởi họ cùng một lòng
tôn thờ cái đẹp. Một Huấn Cao tử tù đang cận kề cái chết, một quản ngục và thầy thơ lại sống
nơi tăm tối, cặn bã, như ba đốm em sáng lẻ loi cô đơn, bỗng gặp gỡ hội tụ thành bức tượng đài
25
rực rỡ, bất tử. Ở cuối cảnh cho chữ, hình ảnh ‘’3 con người nhìn bức trâm rồi cùng nhìn nhau’’
đã chứng tỏ sự thấu hiểu sâu sắc của họ với nhau để cùng tôn vinh cái đẹp. Còn nữa, ta không
thể hình dung nổi người cho chữ lại là một tử tù, ngày mai ra pháp trường, còn người xinh chữ
là viên quản ngục, đại diện cho trật tự phong kiến. Xét trên bình diện xã hội, họ là những kẻ
đối lập, quản ngục đại diện cho triều đình phong kiến còn Huấn Cao là người chống lại triều
đình ấy. Nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại gặp gỡ kết thành tri âm, tri kỷ. Một người có
tài, còn một người thì biết ‘’biệt nhỡn liên tài’’. Một người có khí phách và thiên lương cao
đẹp, một người biết quý trọng và ngưỡng mộ trước khí phách, thiên lương. Ranh giới tâm hồn
đã vượt lên ranh giới xã hội, ranh giới xã hội bị xóa nhòa.
Khung cảnh cho chữ cũng là một sự khác thường. Cho chữ vốn là một thứ vui tao
nhã, một việc làm có tính chất thiêng liêng thường diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật học trong
ánh nến lung linh, nơi lầu son gác tía gió mát trăng thanh, lòng ngát hương hoa. Thì nay cảnh
cho chữ lại diễn ra trong một buồng giam chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, nền đầy
phân chuột phân gián, xa xa là tiếng trống điểm canh và tiếng chó cắn ma. Nhưng Nguyễn
Tuân đã tạo nên một tương phản kép, một không gian đặc biệt cho cái đẹp sinh thành. Trong
không gian chật hẹp, tăm tối của nhà giam là bó đuốc rực cháy, sắc óng trắng của tấm lụa bạch
còn nguyên vẹn lần hồ và mùi mực thơm thanh khiết. Điều đó chứng tỏ sự thắng thế của cái
đẹp, cái cao thượng, sự chiến thắng của cái đẹp đẩy lùi cái xấu xa dơ bẩn. Nguyễn Tuân có
được ý chí để cái đẹp chào đời ngay cả ở nơi hôi hám, bẩn thỉu này, chứng tỏ sức sống mạnh
mẽ của cái đẹp có thể tồn tại trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Quan trọng nhất và cũng có ý nghĩa nhất là sự khác thường trong vị thế, tâm thế và
tư thế của các nhân vật Huấn Cao - Quản Ngục - Thơ Lại. Trong trong toàn bộ câu truyện,
Huấn Cao được khắc họa với một vẻ đẹp tài hoa khác thường, khí phách phi thường và thiên
lương đặc biệt, nhưng trong cảnh cho chữ những nét đẹp ấy mới hội tụ đầy đủ tạo nên sự liên
hoàn của tài năng, khí phách và thiên lương. Huấn Cao cho chữ quản ngục trong tư thế “cổ đeo
gông, chân vướng xiềng đang đạm tô nét chữ trên phiến lụa óng.”. Trong tư thế ấy, ta không
còn thấy hình ảnh một tử tù nơi Huấn Cao mà chỉ thấy phong thái của một người nghệ sĩ đang
tự do, thanh thản sáng tạo cái đẹp. Dưới ngòi bút tài hoa, đã ra đời “những nét chữ vuông tươi
tắn, nó nói lên những...” Nhà nhà tù phong kiến chỉ có thể giam cầm thể xác còn tâm hồn Huấn
Cao thì hoàn toàn tự do. Lời khen mùi mực thơm thể hiện rõ sự thanh thản trong sâu thẳm tâm
hồn Huấn Cao. Trong khoảnh khắc người nghệ sĩ Huấn Cao bộc lộ đầy đủ nhất vẻ đẹp tài hoa
cũng là lúc khí phách phi thường của người anh hùng Huấn Cao hiện lên rõ ràng, đẹp đẽ nhất.
Đặc biệt, trong hoàn cảnh cho cho chữ ta thấy thiên lương Huấn Cao được bộc lộ thật cảm
động. Ông cho chữ quản ngục không chỉ để đền đáp một tấm lòng, chia sẻ cái đẹp với người tri
kỷ mà để nâng đỡ thiên lương, cứu vớt một tâm hồn. Lời khuyên của Huấn Cao với quản ngục
cuối tác phẩm đã thể hiện rõ điều đó ‘’Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về quê mà ở, thầy
hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương
cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi.’’
Trong hoàn cảnh cho chữ, hình ảnh Quản Ngục hiện lên cũng độc đáo không kém
Huấn Cao. Nếu Huấn Cao đường bệ, hiên ngang, thì quản ngục “ khúm núm cất những đồng
tiền kẽm đánh dấu ô chữ”. Theo nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Đăng Mạnh: cái cử chỉ đó
làm sang trọng cả con người. QN nhún nhường khép nép đã làm sụp đổ cả hình ảnh một vị
quan triều đình. Nhưng cái cúi mình của quản ngục là cái cúi mình trước tài năng, khí
phách ,thiên lương, cúi mình trước cái đẹp. Cái cúi mình thể hiện sự trong sáng thanh cao
trong nhân cách QN, khiến QN trở thành “một thanh âm trong trẻo”. Hình ảnh QN chứng tỏ
con người có tâm hồn nghệ sĩ ấy đang xúc động ngần trước cái đẹp.
Ta có thể nhận ra ở đây sự thay đổi ghê gớm về vị thế xã hội giữa các nhân vật. Kẻ
có quyền hành thì không có quyền uy, kẻ không có quyền hành lại tự được tự do, thanh thản.
26
Người QN thì khúm núm, sợ sệt, còn kẻ tử tù thì đường bệ hiên ngang, kẻ có chức năng giáo
dục tội phạm lại được tội phạm giáo dục. Với cảnh cho chữ, có thể nói cái nhà tù tàn bạo, đen
tối đã hoàn toàn sụp đổ, không còn kẻ tử tù cũng không còn QN và thơ lại. Chỉ còn người nghệ
sĩ đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ, kính phục của những kẻ thiên tài.
Cuối cùng là sự khác thường trong dòng chữ để lại. Đây có thể nói là sự khác
thường kỳ diệu nhất. Dòng chữ cuối cùng HC đã để lại cho QN không phải sản phẩm của kẻ
muốn phô diễn tài năng, để lại sự tài hoa trước khi chết. Cũng không phải để thanh toán nợ nần
là mấy bữa cơm rượu thịt của QN đã đái Huấn Cao. Những dòng chữ ấy là những khát khao
hoài bão của vị anh hung, tài hoa khác thường của người nghệ sĩ là thiên lương trong sáng của
con người biết mềm lòng trước một tấm lòng. Đó là nơi hội tụ những những điều đẹp đẽ mà
Huấn Cao muốn gửi gắm cho QN. Những điều HC để lại trong bức trâm chính là lẽ sống, là
bài học làm người mà quản ngục chắc chắn sẽ làm làm theo. Cảnh cho chữ khép lại bằng lời
bái lĩnh như lời thề của quản ngục với Huấn Cao.
Bằng một lối viết tài hoa độc đáo, với bút pháp lãng mạn, ngôn ngữ giàu màu sắc
tạo hình, tạo dựng không khí trang nghiêm có phần bi tráng, sử dụng thủ pháp tương phản đầy
ấn tượng, NT đã tạo nên một ‘’cảnh tượng xưa nay chưa từng có’’. Với cảnh cho chữ cuối
thiên truyện Nguyễn Tuân đã bất tử hóa nhân vật, bất tử hóa cái đẹp. Dù nay mai, HC đầu phải
lìa cổ thì những phẩm chất, tài hoa, khí phách, nhân cách của ông vẫn sẽ đi vào cõi vĩnh hằng.
Màu trắng của vuông lụa, mùi thơm của thoi mực, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, những nét chữ
vuông tươi tắn, cùng hình ảnh Quản ngục hòa lẫn vào nhau cùng đi vào cõi bất tử như cái bất
tử của vẻ đẹp Huấn Cao. Cũng với cảnh cho chữ này, Nguyễn Tuân đã khẳng định sự chiến
thắng của ánh sáng với bóng tối, của cái thiện trước cái ác, cái đẹp trước cái xấu xa, nhơ bẩn,
cái cao cả trước cái cái thấp hèn, của tinh thần bất khuất hiên ngang trước thái độ cam chịu nô
lệ… Giữa chốn ngục tù tăm tối ấy, không phải bóng tối, sự bạo tàn đang thống trị mà chính cái
đẹp, cái tài hoa đang lên ngôi. Đằng sau cảnh cho chữ, ta còn thấy tâm hồn, tính cách, quan
niệm của Nguyễn Tuân về sứ mệnh của cái đẹp: cái đẹp cứu vớt con người, cái đẹp phải đi liền
với cái thiện, và cái đẹp,cái thiện phải tách biệt hoàn toàn với cái xấu xa tàn ác….
Cảnh cho chữ cuối thiên truyện đã khẳng định tài năng nghệ thuật độc đáo của
Nguyễn Tuân. Đó thực sự là những trang tuyệt bút, một bức họa phẩm bằng ngôn từ.
5. Đặc sắc nghệ thuật ( Có thể dung cho mọi đề về Chữ người tử tù)
- Bút pháp điêu luyện sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, những nét như khắc,như chạm,
giàu tính chất tạo hình. Nhân vật nào cũng rõ nét, cảnh nào cũng có thể hình dung rõ
mồm một. Chẳng hạn như cảnh sáu người tù nhân mang chung một chiếc gông dài tám
thước bước tới cửa ngục với động tác ‘’ rũ gông đuổi rệp’’ làm cho ‘’một trận mưa rệp
đã làm nền đá xanh nhạt lấm tấm những điểm nâu đen’’, sau đó ‘’sáu người né mình
tiến vào như một bọn thợ nề thận trọng kiêng cái thang gỗ đặt ngang lên vai’’ và nhất là
cảnh tượng Huấn Cao cho chữ trong phòng giam là những cảnh được khắc họa hết sức
sống động, đầy ấn tượng.
- Ngôn ngữ nghệ thuật vừa giàu có, góc cạnh, đồng thời là thứ văn xuôi nhịp điệu riêng,
giàu sức truyền cảm, nhiều câu văn hàm súc .
- Một không khí trang nghiêm cổ kính, có phần bi tráng bao trùm cả thiên truyện. NT
chẳng những rất am hiểu và nặng lòng yêu dấu, quý trọng những điều ông thuật tả mà
còn có ngòi bút tài hoa già dặn,tinh vi, đầy nghệ thuật để làm sống lại con người và sinh
hoạt thời xưa.
- Xây dựng một tình huống truyện độc đáo giàu ý nghĩa

27
28

You might also like