You are on page 1of 73

TRƯỜNG THPT HIỆP HÒA SỐ 1

CHUYÊN ĐỀ NGỮ VĂN 12

Người lái đò Sông Đà


(Nguyễn Tuân)

Người thực hiện: Ngô Thị Khánh Linh

Lớp 12D1

Trường THPT Hiệp Hòa số 1

Bắc Giang 8/2021


“NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ”- NGUYỄN TUÂN
“Sau ánh mắt lặng yên
Vui buồn đâu dễ thấy
Sông Đà quen thuộc ấy
Nói hết cùng tôi chưa?”

MỤC LỤC
I. Khái quát thời đại
II. Những nét chung về tác giả
1. Tiểu sử
2. Sự nghiệp sáng tác
3. Phong cách sáng tác
III. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà”
1. Tùy bút “Sông Đà”
2. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà”
IV. Kiến thức trọng tâm
1. Ý nghĩa lời đề từ trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”
2. Hình tượng sông Đà
3. Hình tượng người lái đò sông Đà
V. Tổng kết
1. Giá trị nội dung
2. Giá trị nghệ thuật
VI. Một số lời bình về Nguyễn Tuân và “Người lái đò sông Đà”
VII. Một số dạng đề phổ biến
VIII. Một số đoạn văn, bài văn tham khảo

I. KHÁI QUÁT THỜI ĐẠI

- Xã hội Việt Nam những năm 1960 là những năm đầy biến động. Sau Hiệp định Geneva
năm 1954, nước ta tạm thời bị chia cắt thành 2 miền Bắc - Nam. Từ năm 1955-1958, trong
lúc hàng vạn chiến sĩ và cán bộ kháng chiến tập kết ra miền Bắc, thì tại miền Nam, nhân
dân phải sống dưới sự kìm kẹp khủng bố dã man của Mỹ, Diệm. Miền Bắc xây dựng xã
hội chủ nghĩa, tích cực lao động sản xuất, cung cấp sức người sức của, trở thành hậu
phương vững chắc cho miền Nam, quyết tâm vì một ngày đất nước thống nhất. Văn học
thời kì này là nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc
với vận mệnh chung của đất nước. Đề tài chủ yếu của văn học giai đoạn này là Tổ quốc
(bảo vệ đất nước, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước), CNXH (đề cao
phẩm chất người lao động trên mặt trận sản xuất và xây dựng đất nước). Những tác giả
tiêu biểu viết về đề tài này gồm: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Giang Nam, thanh Hải, Thu Bồn,
Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Đào
Vũ, Chu Văn… Đây còn là nền văn học hướng về đại chúng. Đại chúng vừa là đối tượng
phản ánh, vừa là nguồn cảm hứng sáng tác của các tác giả, hình thành trong họ một quan
niệm mới, đất nước của nhân dân. Quần chúng trở thành hình tượng của văn học như hình
ảnh, thân phận người mẹ, chị phụ nữ, em bé… với ngôn ngữ biểu đạt bình dị, trong sáng,
dễ hiểu. Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Văn học
Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 mang đậm chất sử thi, tập trung phản ánh những vấn
đề cơ bản, những sự kiện có ý nghĩa lịch sử, chủ nghĩa yêu nước và anh hùng. Nhân vật
trong các tác phẩm là đại diện cho lí tưởng của dân tộc, gắn bó số phận cá nhân với số
phận đất nước, thể hiện những phẩm chất cao đẹp của cộng đồng.
- Nguyễn Tuân sinh ra trong thời đại mà đất nước có nhiều biến động, trong đó có
sự kiện Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã chia sự nghiệp sáng tác của Nguyễn
Tuân thành hai mảng rõ rệt
+Trước 1945: Ông là một trí thức có tài năng, khát vọng nhưng “mồ côi về mặt tư
tưởng” nên Nguyễn Tuân tìm đến với thú xê dịch.
+Sau 1945: Nguyễn Tuân tìm thấy ánh sáng của Đảng và Cách mạng nên đã sáng
tác để ca ngợi cuộc sống mới, con người mới.

II.NHỮNG NÉT CHUNG VỀ TÁC GIẢ

Nguyễn Tuân – “Người nghệ sỹ suốt đời đi tìm cái đẹp”

1.Tiểu sử

*Quê hương
- Nguyễn Tuân(1910 – 1987) sinh ra ở làng mộc, tại phố Hàng Bạc, Thanh Xuân,
Hà Nội. Mảnh đất Hà Nội đã đem đến cho con người và văn chương Nguyễn Tuân
nét tinh tế tài hoa. Hà Nội có một con đường mang tên ông nối từ đường Nguyễn
Trãi cắt ngang qua các phố Nguyễn Huy Tưởng, Ngụy Như Kon Tum đến
đường Lê Văn Lương, nối với phố Hoàng Minh Giám.

*Gia đình
- Nguyễn Tuân sinh ra trong một gia đình nhà Nho cuối thời, là con trai của cụ
Nguyễn An Lan(tức ông tú Hải Văn), một nhà Nho bất đắc chí nhưng hết mực tài
hoa. Từ nhỏ đã được tiếp xúc với Nho học. Trong gia đình, Nguyễn Tuân ảnh
hưởng rất mạnh từ người cha của mình. Vợ của Nguyễn Tuân là bà Vũ Thị Tuệ.
Nguyễn Tuân vì thế từ sớm đã mang tính phóng túng, tự do.

*Bản thân

- Đường đời:

+ Cuộc đời Nguyễn Tuân khá dài, có nhiều sóng giá trắc trở. Thời niên thiếu, ông
theo gia đình sống nhiều nơi ở các tỉnh miền Trung, miền Bắc. Ông kể về thời gian
học Thành chung ở Nam Định năm 1929: “Học đến năm thứ hai trung học thì tôi
cưới vợ. Vợ tôi là con gái Hàng Bạc, cũng là chỗ môn đăng hộ đối, do gia đình lựa
chọn cho. Tôi cưới vợ sớm vì hồi đó bố tôi ốm nặng, sợ không qua khỏi, tôi là con
trưởng, hai gia đình quen biết đã lâu nên bà cụ muốn cưới sớm”.
+ Sau khi lấy vợ, Nguyễn Tuân vẫn còn đi học. Vì tham gia bãi khóa phản đối giáo
viên Pháp nói xấu người Việt nên ông bị đuổi học, bị ghi vào hồ sơ là trong 5 năm
không được nhận vào làm ở các cơ quan nhà nước. Ông kể tiếp: “Mẹ tôi lấy cho
một cái bát họ, để tôi mở hiệu sách. Tôi làm đại lý cho các báo Trung Bắc tân văn,
Thanh Nghệ Tĩnh, Tiểu thuyết thứ bảy,… Được vài năm thì tôi phá gần sạch vốn,
đành đưa vợ con về sống bám vào thầy mẹ tôi”.
- Cá tính
+ Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu
nước của ông có màu sắc riêng: gắn liền với những giá trị văn hóa cổ truyền của
dân tộc. Ông yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ, những kiệt tác văn chương của Nguyễn Du,
Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà... những phong cảnh đẹp của quê hương đất
nước, những thú chơi tao nhã như uống trà, nhắm rượu, chơi hoa, chơi chữ đẹp,
đánh thơ, thả thơ... những món ăn truyền thống thể hiện khẩu vị tinh tế của người
Việt.
+ Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết để
khẳng định cá tính độc đáo của mình. Ông ham du lịch, tự gán cho mình một
chứng bệnh gọi là “chủ nghĩa xê dịch”.

- Tài năng
+ Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am
hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh... Đồng
thời Nguyễn Tuân còn là một diễn viên kịch nói có tài và là một diễn viên điện ảnh
đầu tiên ở nước ta. Ông thường vận dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác
nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương.

+ Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Ngay
từ trước Cách mạng tháng Tám, ông đã quan niệm nghề văn là một cái gì đối lập
với tính vụ lợi kiểu con buôn, và ở đâu có đồng tiền phàm tục thì ở đấy không thể
có cái đẹp. Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí
“khổ hạnh” và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỉ của mình để
chứng minh cho quan niệm ấy.
+ Năm 1996, ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
nghệ thuật.

2. Sự nghiệp sáng tác


- Bút danh của Nguyễn Tuân: Nguyễn Tuân, Nhất Lang, Thanh Thuỷ, Thanh Hà,
Ngột Lôi Nhật, Ngột Lôi Quật, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc.
- Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu
tay. Ông viết văn từ năm 1930 nhưng thực sự nổi tiếng ở năm 1939. Ông đã thử
bút qua nhiều thể loại: thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực trào phúng. Nhưng mãi
đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của mình và thành công xuất sắc
với các tác phẩm: “Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư
đồng mắt cua...” Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu
xoay quanh ba đề tài: chủ nghĩa xê dịch, vẻ đẹp vang bóng một thời, và đời sống
trụy lạc.

- Sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân chia làm 2 giai đoạn:
+ Trước năm 1945: Tác phẩm của ông chủ yếu xoay quanh 3 đề tài:
• Mảng đề tài “Chủ nghĩa xê dịch”: Chủ nghĩa xê dịch vốn là một lí thuyết
vay mượn của phương Tây, chủ trương đi không mục đích, chỉ luôn luôn
thay đổi chỗ để tìm cảm giác mới lạ và thoát li mọi trách nhiệm với gia đình
và xã hội. Nguyễn Tuân đã tìm đến lí thuyết này trong tâm trạng bất mãn
và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân
lại có dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối với cảnh sắc và
phong vị của đất nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi bút đầy trìu
mến và tài hoa (Một chuyến đi).Ông quan niệm một cách độc đáo là phải xê
dịch để “thay đổi thực đơn cho các giác quan”
• Mảng đề tài “Vang bóng một thời”: Không tin tưởng ở hiện tại và tương
lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của quá khứ còn vang bóng một thời. Ấy là
thời phong kiến đã qua nhưng dư âm còn vang vọng lại. Ông không viết về
trật tự xã hội, về tư tưởng đạo đức cũ, mà phục sinh lại vẻ đẹp riêng của thời
xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và
tao nhã, những cách ứng xử giữa người với người đầy nghi lễ nhịp nhàng...
Ông đã âm thầm làm công việc khơi lại đống tro tàn để lưu giữ những vẻ
đẹp chỉ còn vang bóng. Đặt trong hoàn cảnh đất nước đang bị thực dân Pháp
cai trị, mảng đề tài này thể hiện sự quay lưng với thực tại. Tất cả được thể
hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà nho tài hoa bất đắc
chí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân (trong
số này cũng có những người có khí phách ngang tàng như Huấn Cao (Chữ
người tử tù) chẳng hạn).
• Mảng đề tài về đời sống trụy lạc: Do mồ côi về mặt tư tưởng, có những
lúc Nguyễn Tuân rơi vào chán nản, bế tắc. Ở những tác phẩm này, người ta
thường thấy có một nhân vật “tôi” hoang mang bế tắc, tìm cách thoát li
trong đàn hát, trong rượu và thuốc phiện. Trong tình trạng khủng hoảng tinh
thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục
niềm khao khát một thế giới tinh khiết, thanh cao, được nâng đỡ trên đôi
cánh của nghệ thuật (Chiếc lư đồng mắt cua, Ngọn đèn dầu lạc,…).

+Sau năm 1945:


• Nguyễn Tuân đã được giác ngộ Cách mạng, ông không còn quay lưng với
cuộc đời mà ông tìm thấy sự hòa hợp với cuộc sống mới và con người mới.
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông chân thành đem ngòi bút phục vụ
cuộc chiến đấu của dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước.
Nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ trên cương vị của một nhà
văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình.
Ông đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo và đầy nghệ
thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân lao động trong chiến
đấu và sản xuất. ( Tùy bút sông Đà, Hà Nội ta đánh giặc Mỹ giỏi,…

*Những tác phẩm của Nguyễn Tuân

• Một chuyến đi (1938), tùy bút - du kí


• Ngọn đèn dầu lạc (1939), phóng sự
• Vang bóng một thời (1940), tập truyện ngắn
• Thiếu quê hương (1940), tập tùy bút
• Chiếc lư đồng mắt cua (1941), tập tùy bút
• Tàn đèn dầu lạc (1941), tập tùy bút
• Tùy bút (1941), tập tùy bút
• Tóc chị Hoài (1943), tập tùy bút
• Tùy bút II (1943), tập tùy bút
• Nguyễn (1945), tập truyện ngắn
• Chùa Đàn (1946), tiểu thuyết
• Đường vui (1949), tập tùy bút
• Tình chiến dịch (1950), tập bút kí
• Thắng càn (1953), tiểu thuyết
• Chú Giao làng Seo (1953), truyện thiếu nhi
• Đi thăm Trung Hoa (1955), tập bút kí
• Tùy bút kháng chiến (1955), tập tùy bút
• Tùy bút kháng chiến và hòa bình (1956), tập tùy bút
• Truyện một cái thuyền đất (1958), truyện thiếu nhi
• Sông Đà (1960), tập tùy bút
• Cô Tô (1965), ký
• Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), tập tùy bút
• Ký (1976)
• Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập I: 1981)
• Cảnh sắc và hương vị đất nước (1988), tập tùy bút
• Yêu ngôn (2000, sau khi mất) , tập tiểu luận

3. Phong cách sáng tác

3.1. Trước Cách mạng tháng Tám

- Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”.
“Ngông” là thái độ khinh đời, ngạo đời, dựa trên tài hoa, sự uyên bác và nhân cách
hơn đời của mình. “Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như để “chơi ngông” với
thiên hạ”. Nhu cầu “chơi ngông” buộc Nguyễn Tuân phải đẩy mọi cái thông
thường tới cực đoan, thậm chí tới kì thuyết, nghịch thuyết. Chủ nghĩa độc đáo
trong sinh hoạt tất dẫn đến lối sống lập dị, trong sáng tác tất dẫn đến bất chấp nội
dung ý nghĩa nghiêm túc, tha hồ phóng bút để ném ra những gì kì lạ, oái oăm, cầu
kì, rắc rối. Cái “ngông” đó không phải do chủ nghĩa cá nhân bế tắc mà do “thiên
lương” của một trí thức yêu nước, biết coi trọng nhân cách, muốn tách mình ra và
“đặt mình lên trên những cái tầm thường của những kẻ thỏa mãn với thân phận nô
lệ” (Nguyễn Đăng Mạnh). Ngày xưa, Nguyễn Công Trứ có câu thơ rất ngông:

“Trời đất cho ta một cái tài


Giắt lưng dành để tháng ngày chơi”.
( Cầm kì thi tửu bài 1)
- Nguyễn Tuân là một người tài hoa uyên bác. Sự thật đó được chứng minh ở các
điểm sau:

+ Sự tài hoa

• Nhân vật: Các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân không được đánh
giá các tiêu chuẩn tốt xấu, đúng sai, thiện ác mà ông chỉ chú ý đến vẻ đẹp
trong mỗi nhân vật. Nhìn người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, tạo nên
những nhân vật tài hoa để... đem đối lập với những con người bình thường,
phàm tục. Con người trong văn Nguyễn Tuân bao giờ cũng đẹp với vẻ tài
hoa nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Với Nguyễn Tuân những người
bình thường khi thực hiện những công việc bình thường trong phạm vi nghề
nghiệp mà họ đang làm nếu đạt tới một trình độ tinh xảo, nhuần nhuyễn,
khéo léo mà người khác khó lòng theo kịp thì được coi là một kẻ tài hoa:
“mĩ thuật vốn không có bà con luận lí với thời đại, một thằng ăn cắp cũng
trở lên đẹp đẽ khi nó cắt túi người ta rất gọn, rất nhanh”. Nguyễn Tuân tiếp
cận mọi sự vật ở mặt văn hóa thẩm mĩ để khám phá và... khen chê. Nguyễn
Tuân luôn say mê truy tìm vẻ đẹp độc đáo của con người và cuộc sống.Ông
tô đậm cái phi thường, gây cảm giác mãnh liệt dữ dội. Nguyễn Tuân thường
miêu tả những cảnh đẹp tuyệt mĩ, tuyệt đích; cái đẹp ấy là sự hội tụ của cái
đẹp thi vị trữ tình và vẻ đẹp hoành tráng dữ dội đến dữ dằn.

• Ngôn từ: Nguyễn Tuân được mệnh danh là bậc phù thủy ngôn từ trong văn
học Việt Nam. Các nhà phê bình đã từng ca ngợi: “Ngôn ngữ của Nguyễn
Tuân như những khớp xương, có sự co duỗi nhịp nhàng”. Còn nhà văn Anh
Đức so sánh: “Mỗi chữ Nguyễn Tuân giống như một cái triện ngọc”.
+ Sự uyên bác: Ngòi bút uyên bác của Nguyễn Tuân được tạo nên bởi kho tri
thức vô cùng đồ sộ về các ngành, khoa học và các bộ môn nghệ thuật. Vận dụng trí
thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật để quan sát hiện thực, sáng tạo hình
tượng.

+ Sự phóng túng: Khi viết văn, Nguyễn Tuân đặt cá tính lên hàng đầu, không
chịu khuôn mình theo bất kì một công thức, lối mòn nào. Chính vì thế mà Nguyễn
Tuân sinh ra để dành cho thể loại tùy bút - thể loại phóng túng nhất trong văn học
Việt Nam.

- Nguyễn Tuân là một con người có nhân cách đạo đức hơn đời: chỗ dựa ở thái độ
“ngông” của ông không chỉ ở sự tài hoa uyên bác mà còn ở tính cách “ngông” của
ông. Cái gốc của nhân cách đạo đức của Nguyễn Tuân là lòng yêu nước, tinh thần
dân tộc, niềm tha thiết với cái đẹp của văn nghệ, của phong tục tập quán, của thiên
nhiên và những thú chơi tao nhã.

- Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân quan niệm cái đẹp chỉ có ở trong quá khứ gọi
là “Vang bóng một thời” và tài hoa người nghệ sỹ chỉ có ở những con người xuất
chúng, thuộc thời trước còn vương sót lại như Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”,
Bát Lê trong “Bữa rượu máu”.

=>Nguyễn Tuân là một cái tôi “ngông” vừa rất lạ, rất đặc biệt, vừa lấp lánh
không gì sánh nổi trên bầu trời văn học Việt Nam. Ông là một con tằm rong
chơi qua ngàn dâu thắm, hóa kén mọng, nhả tơ vàng, dệt nên nhiều lụa óng,
lắm “trang hoa”, góp phần làm vẻ vang thêm cho nền văn học sớm đã rộn
ràng của nước nhà.
3.2. Sau Cách mạng tháng Tám
- Sự vận động, đổi mới trong phong cách nghệ thuật tồn tại song song với tính
thống nhất, ổn định của phong cách nghệ thuật. Quy luật sáng tạo đòi hỏi người
nghệ sĩ phải biết vượt lên chính mình và không được giẫm lên dấu chân người
khác. Phong cách Nguyễn Tuân cũng có sự vận động theo chiều hướng tích cực ấy.
Trước và sau Cách mạng là cả một sự thay đổi kì diệu trong văn ông. Cách mạng
đã giải thoát cho tâm hồn và nghệ thuật Nguyễn Tuân, hướng nhà văn tới cuộc
sống và nhân dân.
- Sau Cách mạng, Nguyễn Tuân đi đầu trong cuộc “lột xác văn chương”, ông hòa
cái tôi nghệ thuật của mình vào cái ta chung của cộng đồng, không còn nhấm nháp,
say sưa chắt chiu cái đẹp trong những tiểu thế giới tù túng, chật hẹp nữa. Nhà văn
cảm nhận được cái khỏe đẹp, rộng rãi, bao la của đất trời đổi mới. Cái nhìn của nhà
văn với cuộc sống, con người trở nên đôn hậu hơn. Quan niệm của ông về cái đẹp
vì thế mà bớt đi sự phù phiếm, phiến diện, từng bước tiếp cận với cái đẹp chân
chính và tiến bộ. Ông đi tìm cái đẹp của chủ nghĩa anh hùng trong đời sống của
những con người lao động bình thường mà rất phi thường ở công cuộc xây dựng xã
hội chủ nghĩa miền Bắc lúc bấy giờ như “thứ vàng mười” đã qua thử lửa mà ta bắt
gặp đâu đó qua nhân vật Nhẫn (“Cỏ non” - Hồ Phương), anh thanh niên Long
(“Lặng lẽ Sa Pa” - Nguyễn Thành Long), chị Đào(“Mùa lạc” - Nguyễn Khải).
Ông lái đò sông Đà trong tuỳ bút Người lái đò sông Đà cũng là một con người như
thế. Miêu tả tư thế vượt thác hiên ngang, anh dũng của ông lái đò, Nguyễn Tuân
ca ngợi phẩm chất của người lao động thời đại mới, chủ động trước thiên nhiên,
dám tấn công vào những thế lực dữ dội nhất của thiên nhiên. Đây là khám phá mới
mẻ, độc đáo của Nguyễn về hình ảnh con người mới.
- Nếu như trước Cách mạng, Nguyễn Tuân có cái “ngông”, “khinh bạt”, “ngạo
đời” với xung quanh thì nay ông dùng cái nhìn ấy để đả kích, tấn công kẻ thù. Nhà
văn để dành lối khinh bạt ấy cho thực dân Pháp nhằm đả kích, mỉa mai chưa hề
bao giờ tôi thấy dòng sông Đà đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ
mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây lếu láo mà cứ như thế mà phết vào bản
đồ lai chữ (Người lái đò sông Đà). Sự thay đổi sắc sảo trong ngòi bút Nguyễn
Tuân cũng là kết quả của quá trình “lột xác” đầy đau đớn của ông.

- Trước và sau Cách mạng có sự thay đổi lớn trong thể loại văn Nguyễn Tuân. Nếu
như trước Cách mạng, ở các tập truyện ngắn Nguyễn Tuân được coi là bậc thầy với
những nét độc đáo, riêng biệt thì nét phong cách này được thể hiện rõ trong Chữ
người tử tù – “một truyện ngắn gần đạt tới sự toàn mĩ” (Vũ Ngọc Phan). Sau
Cách mạng, thể loại tuỳ bút phát triển mạnh mẽ hơn, Người lái đò sông Đà là một
trong những thành công xuất sắc của tuỳ bút Nguyễn Tuân. Có thể nói trong thể
loại tuỳ bút trong làng văn Việt Nam đã xuất hiện Thạch Lam, Vũ Bằng… nhưng
chưa ai theo kịp được “thể phách Nguyễn Tuân”.

- Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn
học Việt Nam. Ông có một kho từ vựng phong phú và một khả năng tổ chức câu
văn xuôi đầy giá trị tạo hình, lại có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng.
Nhận xét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Anh Đức viết: “Không biết
chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc
thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo, vô song mà
mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”.

=>Với gần 50 năm hoạt động văn học liên tục, bằng ngòi bút đầy tài năng của
mình, Nguyễn Tuân đã có những đóng góp tto lớn, một vị trí quan trọng trong
lịch sử văn học Việt Nam: Thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt đến đỉnh
cao, làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc, đem đến cho nền văn xuôi hiện
đại Việt Nam một phong cách tài hoa và độc đáo.Nguyễn Tuân đã thực sự
“vang bóng một thời” và những trang văn tài hoa, độc đáo của ông cũng sẽ bất
tử mãi tử mãi trong lòng bạn đọc.

3.3. Tiểu kết


- Gần 50 năm hoạt động văn học liên tục, Nguyễn Tuân còn có đóng góp không
nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam. Sách giáo khoa hiện hành
xếp ông vào một trong 9 tác gia tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại.
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân thật xứng đáng ở tầm cỡ nhà
văn lớn. Nói đến ông, người ta nghĩ ngay đến một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, rất
mực tài hoa và độc đáo. Không thể tưởng tượng nổi sẽ lạnh lẽo và tiêu điều tới
mức nào nếu đại ngàn văn chương dân tộc thiếu vắng những nghệ sĩ ngôn từ bậc
thầy như nhà văn Nguyễn Tuân.

- Ðặc biệt, Nguyễn Tuân “lớn” ở cả hai thời kỳ, từ cuộc đời cũ đến cuộc đời mới ;
vừa là cây bút nổi bật của xu hướng văn học lãng mạn trước năm 1945 với đủ thứ
“tật bệnh điển hình”, vừa ở trong hàng ngũ những nhà văn thành tâm chào đón và
chân thành đi theo Cách mạng đến cùng. Trong hành trình gian khổ hơn nửa thế kỷ
ấy có lúc va vấp, có lúc chênh vênh, cũng có lúc phải tự “lột xác” đớn đau, nhưng
nhà văn vẫn luôn giữ vẹn được nhân cách, bản ngã của mình. Cái ngông, suy đến
cùng, lại như một giá trị, được đảm bảo bởi sức bền vững của tài hoa và tầm cao tư
tưởng nghệ thuật. Trên đỉnh cao sáng tạo vừa chói lòa vinh quang vừa cực kỳ cheo
leo hiểm trở, nhà văn phải dốc đến kỳ cùng sức lực để không trở nên nhạt nhẽo,
vẫn luôn giữ được nét độc đáo của phong cách nghệ thuật.
- Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì cái Ðẹp là biểu hiện sinh động
của một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân “đặc Việt Nam” (chữ dùng
của Vũ Ngọc Phan) từ quan niệm cho tới thực tế sáng tác. Chất văn hóa như sợi chỉ
đỏ xuyên suốt, là cái phần cơ bản nhất làm nên giá trị vĩnh hằng cho văn nghiệp
của ông.

- Do đó, vẻ đẹp của trang viết Nguyễn Tuân là kết quả tất yếu từ một cách viết
mang chiều sâu, bề rộng và tầm cao văn hóa. Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc,
đặc biệt biểu hiện ở thái độ thành kính trân trọng tiếng mẹ đẻ và các giá trị truyền
thống chính là động lực bên trong, thôi thúc nhà văn không ngừng tìm tòi, khơi
nguồn vốn cũ và sáng tạo nên giá trị mới. Ông xứng đáng được mệnh danh là
“chuyên viên cao cấp tiếng Việt”, là “người thợ kim hoàn của chữ” (Ý của Tố
Hữu). Trong lâu đài văn chương nghệ thuật dân tộc Việt Nam ở thế kỷ 20, rất dễ
nhận ra phần chạm trổ tinh xảo của người nghệ sĩ ngôn từ Nguyễn Tuân .

III. TÁC PHẨM “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ”

1. Tùy bút “Sông Đà”


- Tập Tùy bút Sông Đà gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ phác thảo; trong
đó, đặc sắc hơn cả là tùy bút “Người lái đò sông Đà”.
- Tác phẩm là kết quả chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân những
năm 1958 - 1960. Trở lại vùng đất đã từng gắn bó với ông những năm kháng
chiến chống Pháp gian khổ, Nguyễn Tuân như được sống lại với những kỉ
niệm thân thuộc và cảm xúc nghệ sĩ lại dâng trào trong tâm hồn ông.
- Cảnh vật và con người Tây Bắc đã có một sức hấp dẫn cuốn hút đặc biệt đối
với Nguyễn Tuân. Ông say mê trước vẻ đẹp thơ mộng trữ tình và cả cái
hoang sơ dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Nhưng đề cập đến vẻ đẹp của
lòng người, tình người. Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn
Tuân đã tự nhận mình là người “đi tìm thứ vàng của màu sắc sông núi Tây
Bắc”. Nhất là thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí mỗi con người ngày
nay đang nhiệt tình gắn bó với Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và thêm bền
vững
- “Sông Đà” nói chung và “Người lái đò sông Đà” nói riêng tiêu biểu cho
phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng
Tám: uyên bác, tài hoa, tìm cái đẹp từ trong cuộc sống hiện tại của nhân dân
lao động, câu chữ gọt giũa tinh xảo, câu văn giàu hình ảnh.

2. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà”

2.1. Xuất xứ
- In trong Tùy bút “Sông Đà”,in lần đầu năm 1960 . Tập tùy bút này gồm 15 bài
tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Người lái đò Sông Đà là một trong
những áng văn tiêu biểu nhất của tập Sông Đà, thể hiện những nét đặc sắc trong
nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân
2.2. Hoàn cảnh sáng tác
- Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của
chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt
là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau,
sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống
mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

2.3. Thể loại

- Tuỳ bút là một thể thuộc loại hình kí, rất gần với bút kí, kí sự mà đôi khi
trong tiếng Việt vẫn thường gọi là tạp văn.

- Nét nổi bật của tuỳ bút là qua việc ghi chép những con người và sự kiện cụ thể có
thực, tác giả đặc biệt chú trọng đến việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh
giá của mình về con người và cuộc sống hiện tại.

- So với các tiểu loại khác nhau của kí, tuỳ bút vẫn có không ít những yếu tố chính
luận và chất suy tưởng triết lí trong một số trường hợp nhằm bộc lộ quan điểm, lý
tưởng, cảm xúc của một người hoặc một lớp người trong xã hội

- Cấu trúc của tuỳ bút, nói chung, không bị ràng buộc, câu thúc bởi một cốt truyện
cụ thể, song nội dung của nó vẫn được triển khai theo một cảm hứng chủ đạo, một
tư tưởng chủ đề nhất định xuyên suốt tác phẩm. Ngôn ngữ tuỳ bút giàu hình ảnh và
chất thơ nhằm bộc lộ rõ những đặc điểm của sự vật sự việc được nói đến trong bài.
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân là nhà văn viết tuỳ bút nổi
tiếng với tùy bút “Cô Tô”, “Sông Đà”,…

2.4. Chủ đề
- Qua hình tượng sông Đà và người lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm yêu
mến thiết tha với thiên nhiên đất nước và ngợi ca những con người lao động - chất
“vàng mười” của cuộc sống.

2.5.Ý nghĩa nhan đề


- Nhan đề “Người lái đò sông Đà” trước hết gợi cho người đọc về nhân vật trung
tâm của tác phẩm đó là ông lái đò – một người lao động tại vùng sông nước Tây
Bắc. Ông lái đò vừa có những vẻ đẹp của một người lao động bình thường, vừa có
phẩm chất của một người nghệ sĩ tài hoa. Đồng thời, nhan đề cũng nhấn mạnh đến
một hình tượng không kém phần quan trọng của tác phẩm là con sông Đà. Vẻ đẹp
thiên nhiên của sông Đà hiện lên đầy hùng vĩ, hung bạo nhưng cũng không kém
phần thơ mộng, trữ tình.
- Qua nhan đề trên, Nguyễn Tuân muốn khẳng định vẻ đẹp của con người lao động
ở vùng núi Tây Bắc trong công cuộc chinh phục thiên nhiên để kiến thiết quê
hương đất nước.

2.6. Bố cục tác phẩm


- Phần 1 (từ đầu đến “cái gậy đánh phèn”): Vẻ hung dữ của con sông Đà

- Phần 2 (tiếp đó đến “dòng nước sông Đà”): Cuộc sống của con người trên sông
Đà và hình ảnh người lái đò sông Đà

- Phần 3 (còn lại): vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà

2.7.Tóm tắt
Câu chuyện vượt sông Đà đã được nhà văn kể lại bằng tất cả niềm hứng
khởi về sức mạnh con người chiến thắng thiên nhiên, với tất cả kịch tính, cao trào
để tôn vinh nghệ thuật chinh phục thác đá sông Đà. Thiên nhiên Tây Bắc được tô
điểm bởi con sông đà vừa hung bạo vừa trữ tình. Sông Đà có lúc dịu dàng như
người phụ nữ kiều diễm. Nước sông Đà thay đổi theo mùa phản chiếu trời xuân
nắng thu “Mùa xuân dòn xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người
bầm đi vì rượu bữa”. Dọc theo sông Đà, có lắm thác nhiều ghềnh, có đá dựng vách
thành, có đá tảng, đá hòn bày thế thạch trận, tạo nên cửa sinh cửa tử. Nổi bật trên
bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, đầy sức sống đó là hình ảnh ông lái đò sông Đà. Đó
là một người mang vẻ đẹp khỏe khoắn của người dân lao động vùng sông nước với
thân hình cao to, nước da rám nắng. Ông làm nghề lái đò đã nhiều năm, từng gắn
bó với dòng sông Đà, hiểu được tính khí của nó. Ông thuộc nằm lòng từng con
thác lớn, thác nhỏ, từng vách đá, luồng nước, từng cửa sinh, cửa tử do thế thạch
trận tạo nên. Ông đã dùng kinh nghiệm nghề nghiệp cộng với sự cần cù gan dạ đưa
con thuyền vượt thác nước sông Đà đầy nguy hiểm. Ông đã đưa nhiều chuyến hàng
về xuôi an toàn để góp phần vào cuộc sống. Sau khi vượt sông Đà, ông lái đò trở
về cuộc sống đời thường thanh thản của mình, ông neo thuyền chổ khúc sông bình
lặng và nấu ống cơm lam, bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh.

IV. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

1. Ý nghĩa lời đề từ trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”

Đề từ không phải thứ trang sức tô điểm cho tác phẩm văn học mà nó có vai
trò như chìa khóa để người đọc mở cánh cửa thâm nhập vào thế giới nghệ thuật tác
phẩm.Tiếp nhận tùy bút “Người lái đò sông Đà” bằng lời đề từ có thể giúp đọc giả
phần nào nhận thấy những gợi ý về “tháp ngà nghệ thuật” mà Nguyễn Tuân dày
công xây dựng.
1.1. Lời đề từ
Lời đề từ có thể do tác giả sáng tạo ra, cũng có thể do tác giả vay mượn từ
câu nói, lời thơ của một tác giả khác. Chẳng hạn, trong thi phẩm nổi tiếng “Tràng
giang”, Huy Cận có lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” . Hay câu nói
nổi tiếng của Hồ Chí Minh: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn
phải tiếp tục chiến đấu để quét sạch nó đi” được nhà văn Nguyễn Minh Châu làm
lời đề từ cho tác phẩm “Dâu chân người lính”.Trong bài thơ “Ngày gặp gỡ”, Hồ
Dzếnh đã mượn hai câu thơ của Tú Xương làm lời đề từ :
“Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình cứ tưởng tiếng ai gọi đò”
Hay lời đề từ cho tập “Nhật kí trong tù” in ở bìa sách:
“Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao”
Chức năng cơ bản của lời đề từ là bổ sung và làm rõ tác phẩm, đề dẫn và
dự báo nội dung tư tưởng tác phẩm, chứa đựng cái hồn, cái thần thái của tác phẩm
văn học. Đối với chủ thể sáng tạo, lời đề từ không những khơi nguồn cảm hứng mà
còn thể hiện cảm xúc, phong cách nghệ thuật và chuyển tải ý đồ đến độc giả.Với
người đọc, đề từ là điểm nhấn, tín hiệu nghệ thuật mang ý nghĩa định hướng trong
quá trình tiếp cận thế giới nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ. Đề từ không phải là thứ
đồ trang sức tô điểm cho tác phẩm văn học mà nó có tác dụng như chìa khóa để
người đọc mở cánh cửa thâm nhập vào thế giới nghệ thuật. Có thể nói, tiếp cận lời
đề từ độc giả có thể phần nào nhận thấy những gợi ý về “tháp ngà nghệ thuật” mà
nhà văn xây dựng. Vì vậy, bỏ sót hoặc khai thác sơ sài lời đề từ chúng ta sẽ làm rơi
rụng không ít vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật.
1.2. Nhà văn Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo bậc nhất, là tác giả lớn của
văn học Việt Nam hiện đại với những thành tựu xuất sắc của cả hai giai đoạn trước
và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Cả cuộc đời Nguyễn Tuân là một cuộc hành
trình bền bỉ, không mệt mỏi kiếm tìm những cái đẹp của quá khứ mà hiện tại chỉ
còn vang bóng. Sau Cách mạng, ông kiếm tìm, khám phá cái đẹp trong hiện thực
cuộc sống đương thời.

Lời đề từ đầu tiên: Nguyễn Tuân đã lấy câu thơ của nhà cách mạng Ba
Lan Wladyslaw Broniewski: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”. Tiếng hát
trên dòng sông phải chăng là tiếng của những người chèo đò, vượt thác, kéo
thuyền, tiếng hát cất lên từ những tâm hồn con người Tây Bác tha thiết với thiên
nhiên, đất nước, lạc quan, yêu đời. Người lái đò sông Đà là một trong hai hình
tượng trung tâm của thiên tùy bút.

Tiếng hát trên dòng sông là tiếng ca của những người lái đò trên sông nước
Đà giang - những người anh hùng lao động sông nước, nghệ sĩ ba lê giữa muôn
trùng thác đá. Cuộc đời người lái đò vô danh nơi ngọn thác khuất nẻo hoan vu là
thiên anh hùng ca, là pho nghệ thuật tuyệt vời. Sáng tạo nên nhân vật trung tâm của
bản tráng ca ấy, Nguyễn đã cất lên tiếng hát say mê, phấn khích và đầy ngưỡng
mộ, thể hiện một quan niệm mới của Nguyễn về con người: Con người bất kể nơi
đâu, bất kể địa vị và nghề nghiệp, sống trọn với bản tính tự nhiên của mình là đều
đáng được ngưỡng mộ và tôn vinh.

Lời đề từ thứ hai: Nguyễn Tuân mượn hai câu thơ của Nguyễn Quang
Bích để nói về sông Đà:
“Chúng thủy giai Đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu”
(Mọi dòng sông đều chảy về Đông
Chỉ có một dòng sông Đà theo hướng Bắc)

Lời đề từ ngắn gọn nhưng hàm ẩn nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, việc sử
dụng những câu thơ chữ Hán làm tăng thêm tính trang trọng, đồng thời nhấn mạnh
đến ý nghĩa khác biệt, độc đáo, những tương quan đối cực của một hiện tượng địa
lý của miền Tây Bắc Tổ quốc - Sông Đà như một sinh thể đa dạng, phức tạp. Mọi
con sông đều chảy về phía Đông như quy luật của tự nhiên, duy chỉ có sông Đà
chảy về phương Bắc. Từ “độc” được sử dụng vô cùng hiệu quả để thể hiện sự độc
nhất, cá tính khác biệt của con sông. Lời đề từ làm toát lên vẻ đệp hoang sơ nhưng
không kém phần độc đáo của sông Đà, đồng thời thể hiện sự mạnh mẽ của con
sông khi chảy qua một vùng núi non hiểm trở. Lời đề từ không phải của Nguyễn
Tuân nhưng lại được sử dụng rất đắt giá trong vị trí lời đề từ của tùy bút. Câu thơ
ấy không chỉ bộc lộ vẻ đẹp độc đáo, dữ dội của sông Đà mà còn khẳng định phong
cách “ngông” của Nguyễn Tuân, một con người luôn tìm tòi cái mới, sáng tạo
những gì chưa có bằng tài năng uyên bác, cá tính con người của mình.

Lời đề từ của thiên bút kí đặc sắc còn hé lộ khát vọng mãnh liệt của
Nguyễn Tuân trên hành trình khám phá hiện tượng thiên nhiên kì thú, đó là thể
hiện một dòng sông chữ, nghĩa là muốn thể hiện một phong cách nghệ thuật độc
đáo để khẳng định cái tôi tài hoa, uyên bác, không lặp lại cũng như dòng chảy
ngược hướng sông Đà khác với tất ca dòng sông khác. Những trang văn “Người
lái đò sông Đà” chính là những trang hoa, những tờ hoa kết tinh bao cái đẹp: cái
đẹp của thơ cơ, của hội họa và của những tác phẩm điêu khắc.
2.Hình tượng sông Đà
“ Đẹp ngàn đời biển trời sông bát ngát
Cá dầm xanh, anh vũ nhảy theo mùa
Khi mùa lũ thác reo gầm dữ dội
Thu chớm lạnh sóng nước lập lờ trôi”

(“Nhớ sông Đà”, Quang Lâm)


2.1.Lai lịch con sông Đà

Sông Đà (còn gọi là sông Bờ hay Đà Giang) là phụ lưu lớn nhất của sông
Hồng. Sông dài 910 km. Sông bắt nguồn từ núi Vô Lượng, tỉnh Vân Nam, Trung
Quốc chảy theo hướng tây bắc - đông nam để rồi nhập với sông Hồng ở Phú Thọ.
Đoạn Việt Nam dài 527 km. Điểm đầu là biên giới Việt Nam - Trung Quốc tại
huyện Mường Tè (Lai Châu). Sông chảy qua các tỉnh Tây Bắc Việt Nam là Lai
Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ (phân chia huyện Thanh Thủy, Phú
Thọ với Ba Vì, Hà Nội). Điểm cuối là ngã ba Hồng Đà, huyện Tam Nông, tỉnh
Phú Thọ.
Thông tin về sông Đà trong tùy bút: "Sông Đà khai sinh ở huyện Cảnh
Đông tỉnh Vân Nam, lấy tên là Ly Tiên (theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì tên
Trung Quốc của sông Đà lại là Bả Biên Giang) mà đi qua một vùng núi ác, rồi đến
gần nửa đường thì xin nhập quốc tịch Việt nam, trưởng thành mãi lên và đến ngã
ba Trung Hà thì chan hòa vào sông Hồng. Từ biên giới Trung Việt tới ngã ba
Trung Hà là 500 cây số lượn rồng rắn, là tính toàn thân Sông Đà thì chiều dài là
883 nghìn thước mét chảy qua hai nước Việt Nam Trung Quốc xóm giềng".
(Trích tùy bút Người Lái Đò Sông Đà).

Chia sẻ của một lão ngư lão luyện ở sông Đà: “Ngày trước, khi con sông
Đà chưa bị ngăn dòng làm thủy điện, nó như con ngựa bất kham, nước chảy sôi
ùng ục qua trùng lớp ghềnh thác.... Vào đầu những năm 70 thế kỷ trước, mùa lũ
nào cũng vậy, dòng sông Đà cuồn cuộn sóng nước, cơ man cũng xoáy nên nuốt
chửng đến bài chục mạng người xấu số. Có xác mắc kẹt ở chỗ nông thì người ta
còn tìm bớt được, nếu mắc kẹt ở cách đá, hang hốc dưới lòng sông thì chịu...”
(Ông Ngô Văn Tám, làng chài Tân Thịnh, TP. Hòa Bình - một lão ngư có hơn
40 năm kinh nghiệm chài lưới trên dòng sông vùng Tây Bắc kể lại)

2.2.NÉT TÍNH CÁCH [HUNG BẠO] CỦA SÔNG ĐÀ

Tùy bút “Người lái đò sông Đà” nổi bật lên với hai hình tượng chính:
hình tượng Sông Đà và hình tượng ông lái đò. Trong đó, dọc thiên tùy bút này, vẻ
dữ dội, hiểm trở và táo tợn của con Sông Đà đã làm không ít người phải khiếp đảm
mà hình dung rằng: “Đi tới sông Đà là nguy hiểm trùng trùng”. Nhưng ẩn sau
những hung bạo đó vẫn có sự hiền hào, trữ tình nên thơ. Hai tính cách đối lập như
một “cố nhân” khó chiều, và lại lịch của loài thủy quái ấy cũng không kém phần
đặc biệt: "Sông Đà khai sinh ở huyện Cảnh Đông tỉnh Vân Nam, lấy tên là Ly Tiên
(theo Dư địa chỉ của Nguyễn Trãi thì tên Trung Quốc của sông Đà lại là Bả Biên
Giang) mà đi qua một vùng núi ác, rồi đến gần nửa đường thì xin nhập quốc tịch
Việt Nam, trưởng thành mãi lên và đến ngã ba Trung Hà thi cham hoa vào sông
Hồng. Từ biên giới Trung Việt tới ngã ba Trung Hoa là 500 cây số lượn rồng rắn,
và tinh toàn thân Sông Đà thi chiều dài là 883 nghìn thước mét chảy qua hai nước
Việt Nam Trung Quốc xóm giềng" (Trích tùy bút Người Lái Đò Sông Đà). Sông
Đà đã hiện lên như thế, như một đứa con mang hai dòng máu, mà lại thích gắn bó
về một phía nên “nhập quốc tịch” về Việt Nam. Dưới ngòi bút của “nhà ngôn ngữ
học” Nguyễn Tuân, Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri vô giác, mà là một
sinh thể sống động, có tính cách và cảm xúc như một con người. Bởi vì thế, “Sông
Đà” cũng được viết hoa cả hai chữ cái đầu tiên như một danh từ tên riêng. Chính
lời đề từ của tác phẩm đã thể hiện sự độc đáo và khác biệt của Sông Đà ấy: "Chúng
thủy giai Đông tẩu, Đà giang độc Bắc lưu" - Mọi dòng sông đều chảy về hướng
đông, chỉ có Sông Đà chạy theo hướng bắc. Và nhà văn đã mượn câu của nhà thơ
cách mạng Ba Lan Wladyslaw Broniewski: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng
sông", đưa Nguyễn Tuân đến với lời khẳng định: nhà văn có một trong những lời
đề từ hay nhất của làng văn chương Việt Nam” (Trần Quỳnh Trang). Hai lời đề từ
đặc biệt ấy đã đưa người đọc vừa tò mò xen lẫn những hồ nghi về một con sông
được giới thiệu quá đỗi khác biệt- khiến độc giả muốn đi tiếp để tìm ngay lời giải
đáp thật thuyết phục.
- Viết về sông Đà, nghĩa là Nguyễn Tuân đã chấp nhận một thử thách bởi lẽ: Với
người Việt Nam thì vốn dĩ dòng sông ấy đã là một huyền thoại. Đó là huyền thoại
về chàng Thủy Tinh với nỗi oán hờn không lấy được người mình yêu nên cứ năm
năm báo oán đời đời đánh ghen. Điều đó chứng tỏ trí tưởng tưởng của người Việt
Nam hẳn là phải rất bay bổng còn tâm hồn người Việt Nam thì hẳn là rất lãng mạn
thì mới có thể gắm cho dòng sông thác lũ ấy hình ảnh người tình si và vì thế, khi
mà viết về sông Đà, bản thân Nguyễn Tuân đã chấp nhận tìm đến môt huyền thoại
mới cho dòng sông này.
Mặt khác, một thử thách nữa của Nguyễn Tuân là: Xưa nay, thơ văn viết
về sông nước là không hiếm. Thậm chí có cả kiệt tác để đời. Ví dụ không thể quên
được hai câu thơ của Lý Bạch:
“Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Ngỡ dải ngân hà tuột khỏi mây”
Còn trong “Bạch Đằng giang phú”, Trương Hán Siêu đã viết:
“Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một màu”.
Nhưng dẫu sao, vẻ đẹp sông nước trong thơ xưa cũng chỉ là vẻ đẹp như
của một bức tranh và sự dữ dội cũng là sự dữ dội ở thế tĩnh. Còn với Nguyễn Tuân,
ông bắt sự dữ dội lia phải nổi lên thành hình khối và phải gào thét trong muôn vạn
âm thanh, phải náo động và sống động như một sinh thể. Nguyễn Tuân đã khiến
cho người ta khi đứng trước thiên nhiên ấy không hỉ chiêm ngưỡng mà còn khát
khao chế ngự nó.
* Sự dữ dội của sông Đà được thể hiện qua vách đá sông Đà
- Vách đá trên sông Đà: “đá bờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách
đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách:
+ “Vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu”.
+ “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”.
+ Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn
đá từ bờ bên này qua bên kia vách…
+ “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy
mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên
cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
=>Cách so sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như
Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng đầy ăm ắp để tìm cho
được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.

* Sự dữ dội của Sông Đà ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng:


- Nếu như ở vách đá sông Đà, Nguyễn Tuân thiên về miêu tả hình ảnh thì ở quãng
măt ghềnh Hát Loóng, Nguyễn Tuân lại tạo nên một bản hòa tấu, một bản giao
hưởng tử thần với hàng cây số: “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn
luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào
tóm được qua đấy”. Bản giao hưởng này khiến cho ta nhớ tới sử thi “Ô – đi – xê”
của Hermero. Trong bản sử thi đó, tiếng hát mê hồn của những nàng tiên cá Si –
men cũng là tiếng hát của thần chết. Bởi lẽ tất cả các thủy thủ khi nghe tiếng hát
này đều nhảy xuống biển.

*Sự dữ dội được thể hiện ở quãng Tà Mường Vát:


- Để miêu tả cái hút nước, Nguyễn Tuân đã dường như huy động mọi kiến thức từ
kiến thức thủy lợi, cầu đường khi miêu tả cái hút nước nó giống như cái giếng bê
tông được thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu cho đến kiến thức giao thông
khi miêu tả cảnh “không thuyền nào dám men gần cái hút nước ấy, thuyền nào
cũng chèo nhanh để lướt qua quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh
để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực” . Lại có cả kiến thức của
ngành khai thác dầu khoan với so sánh: “Chèo cho nhanh và tay lái cho vững để
phóng qua một cái giếng sâu”, những cái giếng sâu mà “nước ặc ặc lên như rót
dầu sôi vào”. Nhưng có lẽ, thú vị nhất là cách mà Nguyễn Tuân đã sử dụng kiến
thức về điện ảnh để làm nổi bật lên cái hút nước đáng sợ kia và Nguyễn Tuân cũng
đã rất giỏi để chọn góc quay khác nhau. Có những góc quay mang tính biểu tượng
khi quay trên cái mặt xoáy hút nước ấy những “cánh quạ bay lừ lừ”. Cái ngôn ngữ
ấy đủ để chúng ta hiểu là dưới những cái hút đáy chẳng khác nào một cái cối xay
thịt. Lại có góc quay khác ấn tượng và táo bạo hơn khi quay được cảnh “nhiều bè
gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là bị cái hút ấy hút xuống, thuyền trồng ngay cây
chuối ngược rồi vụt biến, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới
thấy tan xác ở dưới khuỷu sông dưới”. Bè gỗ còn là thế, huống chi là con người
nhỏ bé. Hình như ở cái quãng sông ấy, nếu ai phải lao động trên nó thì không khác
gì phải lao vào một trận tử chiến. Nhưng Nguyễn Tuân có vẻ không bằng lòng ở
cảm giác ấy, nhà văn còn tưởng tượng đến một cảnh quay mạo hiểm hơn, đáng sợ
hơn khi nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho
khan giả đã dám dung cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả
thuyền, cả mình, cả máy quay xuống tận cái đáy của hút sông Đà để thu máy trong
điều kiện: “cái thuyền xoay tít, những thước phim cũng quay tít. Cái máy đã lia
ngược lên trên mặt giếng mà thành giếng đã xây toàn bằng nước sông xanh ve,
một áng thủy tinh khối đúc dày và khối pha lê xanh ấy như là sắp vỡ tan để ụp cả
máy vào người quay và người xem”. Và để kì công hơn, Nguyễn Tuân lại phải
thêm một so sánh nữa: “như thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt lấy ghế như ghì
lấy mép của một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút
lên cái gậy đánh phèn”. Dày công như Nguyễn Tuân, kĩ lưỡng như Nguyễn Tuân
để đạt được vẻ đẹp sinh động và sống động như Nguyễn Tuân cũng thực là hiếm
hoi.

* Sự hung bạo ở Thạch trận sông Đà


- Âm thanh thác nước sông Đà:
+ Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu
khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ,
các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm
của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: “nó rống lên như tiếng một ngàn
con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa...rừng lửa cùng
gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng...”.
+ Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được
Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất
hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, Nguyễn Tuân
quả là đã chơi “ngông” lắm trong nghệ thuật.
- Diện mạo của thạch trận:
Sau khi miêu tả âm thanh của thác đá, Nguyễn Tuân đã đặc tả diện mạo
của đá sông Đà. Điều này cũng là một thử thách bởi đá bao giờ cũng là biểu tượng
của sự câm lặng đến trơ lì. Vậy mà Nguyễn Tuân nhận ra: Đá sông Đà thằng nào
cũng nhăn nhúm, ngỗ ngược. Cái sự ngỗ ngược ẩn chứa trong vẻ bề ngoài im lặng
bao giờ cũng rất đáng sợ.

- Tâm địa của thạch trận:


Nhưng đá sông Đà im lặng mà nham hiểm. Nó không nằm ngồi tùy ý
mà đang cố tình bày thạch trận trên sông. Sơ đồ chiến thuật của sông Đà vừa gợi
người đọc nhớ tới trận “Đồ Bát Quái” của Khổng Minh, vừa gợi đến sơ đồ chiến
thuật rất hiện đại của quân sự. Sơ đồ chia thạch trận sông Đà làm ba tuyến (3 vòng
trùng.
+ Tuyến 1( Trùng vi 1): Mở đầu là hàng tiền vệ, gồm hai hòn đá canh
một cửa có nhiệm vụ dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa. Sông Đà bước vào
trận với tư thế chủ động, hống hách và tự tin. Mở đầu trận đánh hai tảng đá của
hàng tiền vệ vừa có nhiệm vụ dụ dỗ người lái đò lao vào trận địa của mình, vừa
khiêu khích, thách thức với tất cả thái độ của kẻ chắc thắng. Rồi ngay khi ông đò
xuất hiện, sông Đà sử dụng một sức mạnh tổng lực để ra những đòn phủ đầu quyết
đánh dập con thuyền. Sông Đà không từ một món đòn hiểm nào, từ việc ùa vào bẻ
gãy cán chèo đến việc đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền, cho đến việc đội
cả thuyền lên, túm lấy thắt lưng ông đò, đòi lật ngửa ra. Thêm vào đó, là sự tiếp
sức của sóng nước sông Đà. Tiếng reo vang của chúng tạo nên cả một trận nước
vang trời thanh la não bạt. Sông Đà càng đánh càng hung, càng đánh càng bạo.
Thậm chí, chúng không từ một món đòn “vô sở bất chí”. Không từ cả trò tiểu
nhân, bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò, miễn là phải buộc ông đò rời tay lái nhưng
dẫu thế, sông Đà vẫn phải chịu thất bại trước người lái đò kiên cường.

+ Tuyến 2 (Trùng vi 2): Dù vừa chịu thất bại, sông Đà không hề nao
núng, lập tức nó tỉnh táo để thay đổi chiến thuật. Điều đó cho thấy, sông Đà không
phải là kẻ hữu dung vô mưu, dòng sông ấy như đã quá rõ về trận mạc, không điều
gì là nó không tính được. Vòng đầu, sông Đà đánh phủ đầu để dọa đối thủ non tay
nhưng ngay sau đó, sông Đà nhận ra ông lái đò là một đối thủ nặng kí, không chỉ
dung sức mà còn phải dung mưu. Lần này, nó bố trí lệch cửa sinh, từ tả ngạn sang
hữu ngạn. Chưa hết, nó còn bày thêm nhiều cửa tử để đánh lừa ông lái đò. Mưu ấy
quả xứng là mưu sâu kế hiểm, không phải thứ mưu mẹo tẹp nhẹp tầm thường. Đó
thật sự là thứ binh pháp của thần sông thần đá được tôi rèn mấy nghìn năm nay.
Hơn nữa, ở vòng này, sông Đà cũng không còn khinh xuất, coi thường đối thủ. Nó
thận trọng, tập trung toàn bộ sức lực để thể hiện cho kì được âm mưu ấy. Dòng
thác được miêu tả là: “Dòng thác hùm beo đang hùng hục tế mạnh. Bốn, năm bọn
thủy quân cửa ải nước bên bờ trái xô hết vào ông đò lôi ông vào bẫy cho dù đã
chắc thua, chúng vẫn không ngớt khiêu khích”. Vậy mà, thua vẫn hoàn thua.

+ Tuyến 3 (Trùng vi 3): Thế thua của sông Đà đã xuất hiện ở cuối vòng
hai nhưng Sông Đà thật sự là đối thủ cao thượn, hiệp võ, thua mà vẫn không bỏ
cuộc, thua mà vẫn chiến đấu đến tận giây phút cuối cùng, vẫn mong sự ngoan cố
có thể gowc gạc lại đôi phần. Quả thật, Nguyễn Tuân vừa miêu tả sông Đà như kẻ
thù số 1 của con người lại vừa khẳng định, đó là một kẻ thù xứng tầm và xứng
đáng để tôn vinh vẻ đẹp của người lao động.
Trí tưởng tượng phong phú của Nguyễn Tuân đã khiến sông Đà hiện lên
như một thiên anh hùng ca. Thần thoại Hy Lạp xưa tưởng tượng về biển ca trong
hình hài của một vị thần. Thần biển Poxedong, chính vị thần tính khí thất thường
ấy đã khiến người anh hùng Uylitxo mười năm trời lênh đênh trên biển cả mới trở
về quê hương I-tắc nhưng cũng vì thế mà chính Poxedong đã làm nổi bật lên vẻ
đẹp của Uylitxo. Xét ra, Nguyễn Tuân vẫn giữ trọn sự phong phú trong lối tư duy
của con người thời ấu thơ. Bởi dòng Sông Đà của Nguyễn Tuân quả thật đã là một
huyền thoại bên cạnh huyền thoại về chàng Thủy Tinh đa tình.
=>Nguyễn Tuân là một nhà văn tài ba, uyên bác, lịch lãm. Ông thường vận dụng
cách nhìn, cách tiếp cận của nhiều nghành nghệ thuật để phát hiện, miêu tả đối
tượng, để làm cho nó hiện lên dưới nhiều góc nhìn phong phú, mới lạ.Nguyễn
Tuân miêu tả sông Đà như một con quái vật có linh hồn, có tính cách, rất hung nộ
và cọc cằn, ngày đêm làm mình làm mẩy với núi rừng Tây Bắc hùng vĩ.
2.2.NÉT TÍNH CÁCH [ TRỮ TÌNH ] CỦA ĐÀ GIANG
Sinh thời Nguyễn Tuân rất tâm đắc với ý tưởng nghệ thuật của M.Groki:
“Cái bình thường là cái chết của nghệ thuật”. Một người như ông không có cái
khuôn khổ vô hình nào câu thúc nỗi khát vọng thiện lương, khát vọng dùng văn
chương để thưởng ngoạn thì con sông Đà kia không chỉ hung bạo mà rất đỗi trữ
tình, thơ mộng.
Nếu như trên thượng nguồn, con sông Đà hung bạo, cuồng nộ bao nhiêu
thì đến khúc sông hạ lưu sông Đà lại trở nên dịu dàng, thơ mộng bấy nhiêu. Sinh
thể Đà giang giờ chợt rùng mình thoát xác, trở thành một dòng sông – thiếu nữ,
dòng sông trữ tình. Đó là 1 khoảng vọng mĩ nhân muôn kiếp đa tình trong đôi mắt
và tâm hồn thi nhân muốn thuở.

* Vẻ đẹp trẻ trung, tình tứ của sông Đà:

- Nguyễn Tuân đã khám phá ra một góc nhìn đầy mới lạ về sông Đà, đó là từ trên
cao nhìn xuống.
+Dòng sông chảy trong một không gian, tự nó như muốn khoe dáng hình kiều
diễm. Vẻ đẹp của dòng sông thiếu nữ làm xiêu lòng người nghệ sĩ. Dòng sông như
một bức tranh thủy mạc, đoạn văn như một bản nhạc,
+ Những câu văn của Nguyễn Tuân co duỗi nhịp nhàng, âm điệu uyển chuyển,
hình ảnh mơ màng. Nguyễn Tuân lồng cảnh vào cành, tình vào tình để thú nhận
với chính mình về nỗi say đắm “phải lòng” trước vẻ duyên dáng, tuyệt mỹ của
sông nước Đà giang và mây trời Tây Bắc như một dải lụa mềm khoác trên bờ vai,
vương vấn trên “áng mun dài ngàn ngàn vạn sải”.
- Vẻ trẻ trung của Sông Đà còn được thể hiện ở sắc nước Sông Đà.
+ Mùa xuân: “Dòng xanh màu ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh
canh hến của sông Gâm, sông Lô”.
+ Mùa thu: Nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu
bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về”.
Nguyễn Tuân chắc phải rất kì công quan sát để rồi miêu tả màu sắc biến ảo của
sông Đà đẹp và tinh tế đến như vậy. Với Nguyễn Tuân thì sông Đà mỗi mùa mang
một vẻ đẹp riêng, một vẻ quyến rũ và tình tứ mà không một dòng sông nào có
được.

* Vẻ đẹp của một dòng sông Đà gợi cảm:

- Đối với sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm sung sướng và yêu mến như với
một người bạn cố nhân. Nói đến cố nhân là nói đến người bạn quen biết từ lâu rồi,
tưởng như mình đã thân thuộc với người ấy lắm rồi, tưởng chẳng còn gì để mà xa
lạ nữa. Thế mà lần nào gặp lại người cố nhân ấy, ta cũng có một niềm xúc động
thật sâu sắc, một sự ngỡ ngàng khi ta như vừa nhận ra một điều gì đó vô cùng mới
mẻ. Sông Đà với Nguyễn Tuân là một điều như thế! Đã bao lần Nguyễn Tuân đến
với Sông Đà cũng là bấy nhiêu lần Nguyễn Tuân được trải nghiệm niềm vui sướng.
Đặc biệt là những niềm vui sướng vô cùng đột ngột. Sông Đà đem lại cho ta một
cảm giác yêu thích. Cảm giác như ta được sống lại thế giới tuổi thơ để thấy lòng
bừng sáng náo nức đến rộn ràng. Sông Đà khiến cho mỗi người khi đứng trước nó
không thể lặng yên mà lúc nào cũng thấy òa vỡ một niềm vui. Nguyễn Tuân khi
viết tùy bút Sông Đà đã ở vào cái độ tuổi 50 – cái độ tuổi mà người ta không còn
quá sôi nổi. Vậy mà, nhà văn Nguyễn Tuân vẫn tìm được những so sánh rất đỗi trẻ
trung. Sông Đà hiện ra trước mắt trông “loang loáng như đứa trẻ con nghịch chiếu
gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Và Nguyễn Tuân ngỡ ngàng nhận ra cái miếng
sáng loang loáng, lung linh, kì diệu kia chính là màu nắng của Sông Đà. Vốn dĩ,
Nguyễn Tuân không phải là nhà văn có sở trường tả nắng những thứ nắng sông Đà
trong trang văn của Nguyễn Tuân thì vẫn cứ hiện lên rất đỗi Nguyễn Tuân. Đó là
một thứ nắng tháng ba Đường thi vừa tươi tắn, tinh khôi; vừa rực rỡ, diễm lệ; vừa
kì ảo, huyền thoại. Và khi được tràn ngập trong thứ ánh sáng kì diệu, nhiệm màu
ấy thì một con người ưa sự độc đáo như Nguyễn Tuân cũng phải thốt lên đầy xúc
động. Bởi lẽ, Sông Đà mà mình vẫn coi là tri kỉ nhưng sao lần nào gặp lại vẫn thấy
là mới lạ, vẫn thấy ngây ngất, vẫn cứ thấy đắm say như lần đầu tiên gặp mặt, vẫn
chỉ là bờ ấy, bãi ấy; vẫn chỉ là chuồn chuồn, bươm bướm ấy; vậy mà phải xúc động
thốt lên: “Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui
như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Những câu văn thực ra là phép liệt kê đơn giản
nhưng theo cách của Nguyễn Tuân, nó vẫn có độ ngân vang tha thiết bởi mỗi lần
gặp lại Sông Đà là một lần thấy vui, một niềm vui thật khó bút nào tả xiết và
Nguyễn Tuân đã diễn tả niềm vui ấy một cách thành công bằng hai so sánh:

+ Ở so sánh 1: Đó là niềm vui hân hoan, rạo rực; niềm vui của sau biết bao nhiêu
mong ngóng cuối cùng cũng đã được thỏa nguyện. Đây là so sánh rất hay, rất đậm
chất văn chương nhưng so sánh sau mới thật đậm chất Nguyễn Tuân.

+ Ở so sánh 2: Đó là niềm “vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Đây thực sự là
niềm vui kì diệu, hiếm có ở trên đời, là niềm may mắn không phải ai cũng được
hưởng. Bởi thế, Nguyễn Tuân mới coi Sông Đà là cố nhân, mới đắm say dòng sông
ấy! Dẫu biết rằng dòng sông ấy cũng lắm chứng, nhiều tật nhưng có lẽ chính điều
này lại tạo nên sức hấp dẫn riêng cho dòng sông này! Và đã chót say dòng sông Đà
rồi thì càng biết nó lắm chứng, nhiều tật, lại chỉ càng thấy nó hấp dẫn thôi! Ở trên
đời này, mang được một vẻ đẹp gợi cảm như sông Đà quả là hiếm có.

c. Vẻ đẹp Sông Đà như một dòng chảy được kết bằng thơ:
- Nếu như trong cảnh vượt thác, Nguyễn Tuân đã tìm ra một vốn từ ngữ phong
phú, chính xác, mới lạ để diễn tả trận chiến giữa ông đò và thần sông thần đá, có
đủ quân tướng bằng một giọng văn mạnh mẽ, bằng một nhịp văn như sóng gầm,
thác réo thì đến đoạn văn này, giọng văn và nhịp điệu có sự thay đổi hẳn, đầy lâng
lâng, mơ màng. Vẻ đẹp mơ mộng êm đềm của sông Đà ở quãng trung lưu này đã
được diễn tả đậm chất thơ .Trên thực tế, đó là quãng từ thác tiếu đổ xuống như một
câu tục ngữ mà người Thái đã nói: “Qua Thác Tiếu trải chiếu mà nằm”. Câu văn
của Nguyễn Tuân toàn thanh bằng, như diễn tả một con thuyền nhẹ trôi, êm ái:
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà ...”. Đó là một không gian nghệ thuật lặng tờ như ru
người khách sông Đà vào giấc mộng phiêu du. Đó là một không gian, như ướp
hương rừng, gió núi vào lòng người mà lắng nghe, mà cảm nhận, mà thưởng họa.
Hai chữ “lặng tờ” khiến người đọc liên tưởng đến “Mấy trăm năm thấp thoáng
mộng bình yên”. Và Nguyễn Tuân đã rất ngông khi lại cảnh bình yên ở một dòng
sông tưởng như thác lũ gập ghềnh. Và khi mơ màng nhìn dòng sông, khi lắng nghe
tiếng nước êm trôi, lặng lờ. Ông khách sông Đà đã bâng khuâng nhìn xa, nhìn gần
khung cảnh ven sông, bao trùm lên cảnh vật là một màu xanh hoang sơ hồn nhiên.
Hình ảnh nương ngô có nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa, rõ ràng cho ta thấy dấu
ấn con người trên cái nền xanh ấy. Nhưng một điều kỳ lạ là nhìn mãi không thấy
bóng người đâu. Chỉ thấy đôi gianh nối tiếp đôi gianh, chập chùng với những nõn
búp. Và nhất là xuất hiện hình ảnh của một đàn hươu xuất hiện trên cái nền xanh
bát ngát của đồi gianh. Đó là nét vẽ tài hoa, làm cho bức tranh thiên nhiên càng
thêm đượm màu hoang dã, cổ tích. Cảnh tượng thật rất đỗi thanh bình. Và có lẽ chỉ
có Nguyễn Tuân cũng mới có được cái nhìn xanh non ấy, cũng có được cách tả độc
đáo ấy. Ông thực sự đã thả hồn mình vào cảnh vật để mà yêu mến, nâng niu. Và
câu văn của ông đã đẹp, như hai vế của một câu song quan trong bài “Phú Lưu
Thủy” xưa:
“Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi
niềm cổ tích tuổi xưa”

Có cảm giác Nguyễn Tuân đã so sánh không phải để làm cụ thể hóa sự
vật mà để trừu tượng hóa và thơ mộng hóa cảnh vật mà thôi. Ông không dựa vào
trực giác để so sánh, ông dựa vào liên tưởng và tưởng tượng để tạo nên những so
sánh đầy chất thơ mà cũng kỳ thú để mà gieo vào lòng người bao nhiêu cảm xúc,
để cùng ông tận hưởng cái vẻ đẹp hồn nhiên hoang dã của Đà giang. Rồi từ trong
cái không gian hoang dã ấy của sông Đà, Nguyễn Tuân đã khao khát một âm thanh
của thời đại. Từ giấc mơ của bờ tiền sử đã chỉ sang giấc mơ của tương lai huy
hoàng qua tiếng còi tàu trong mộng tưởng:

“Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một
chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ -Yên Bái -Lai Châu.”

Nguyễn Tuân yêu sông Đà, yêu vẻ đẹp thơ dại của nó, nhưng ông cũng
thèm được thấy ánh sáng của thời đại được rọi chiếu vào đôi bờ của Đà giang.
Cuộc đối thoại giữa ông khách sông Đà và con hươu thơ ngộ đích thực là bài thơ
trữ tình kỳ diệu. Một giấc mơ chờn vờn chơi vơi trong cái lặng tờ của ven sông.
Trong sự tĩnh lặng, cái không khí giao cảm của sông Đà và con hươu thơ ngộ như
đã lên tới đỉnh điểm. Trên cái nền xanh của cỏ xương, hươu nhìn người mà ngơ
ngác, người nhìn theo mà lòng lâng lâng, mà như chìm vào mộng tưởng. Không
một tiếng động nhỏ nào, cả một không gian như thế trở nên tĩnh lặng, thiêng liêng,
nhiệm màu. Và cũng chẳng biết là hươu hỏi người hay người tự hỏi mình. Một giả
định vừa thực nhưng cũng vừa rất mộng ảo. Có thể nói, những nét vẽ của Nguyễn
Tuân về đàn hươu núi là những nét vẽ thật tài hoa và độc đáo, để gợi tả được cái
hồn nhiên, hoang dã của đôi bờ Đà giang, để tạo nên được chất thơ và chất mộng
ảo dạt dào trong lòng người và thiên nhiên. Nguyễn Tuân quả đã nhìn thiên nhiên
với cái nhìn phát hiện để khiến thiên nhiên cũng mang linh hồn con người.

Thèm nghe một tiếng còi tàu nhưng chẳng thấy còi đâu, chỉ thấy một
đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông, bung trắng như bạc rơi thoi là đã khiến
cho ông khách Sông Đà phải tỉnh mộng. Có lẽ chỉ có Sông Đà mới kì thú như thế
để thoát ra khỏi cảm giác mộng ảo này phải là một không gian mộng ảo khác.
Hương núi vụt biến, cá bụng trắng vọt lên rồi rơi xuống trước mặt du khách chỉ là
một màu xanh của nước. Màu xanh của cỏ gianh và con người vừa thoát khỏi giấc
mộng này đã rơi ngay vào giấc mộng kia.

Vốn là một nhà văn tài hoa và uyên bác, những câu văn cổ kim, đông –
tây, Nguyễn Tuân rắc đầy mình. Vui thì ông đưa duyên, buồn thì ông ngẫm ngợi
và dường như đó cũng là nhã thú để mà thể hiện cái tình tri âm với người xưa. Với
Nguyễn Tuân, Tản Đà là người bạn vong niên, chưa có một thi sĩ nào viết nhiều về
núi tẳng Sông Đà như Nguyễn Khắc Hiếu: “Có trăng thì phải có rượu. Cũng như
có cảnh đẹp thì phải ngâm thơ”. Nguyễn Tuân vốn coi Sông Đà là cố nhân nên
việc lấy thơ của thi sĩ Tản Đà để ngâm vịnh, để ngắm cảnh đẹp thì không còn gì
tinh tế bằng. Tản Đà từng có ba bài thơ cùng chung một giọng điệu: “Thư đưa
người tình nhân không quen biết”, “Thư trách người tình nhân không quen biết”,
“Thư lại trách người tình nhân không quen biết”. Ở đây, Nguyễn Tuân chỉ trích có
hai câu thơ trong bài thơ thứ hai nhưng đồng thời lại là hai câu thơ đích đáng nhất.
Bởi vì, nó hợp cảnh, hợp tình nhất:
“Dải sông Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.”
(“Thư trách người tình nhân không quen biết”)
Việc trích dẫn thơ Tản Đà đã thể hiện sự tri âm bởi rượu ngon không có
bạn hiền thì không còn là rượu ngon. Cũng như cảnh đẹp mà không có người tri kỉ
thì cái tình yêu hoa, thưởng nguyệt cũng giảm đi ít nhiều. Đọc thơ bạn, ngâm thơ
bạn, Nguyễn Tuân như đang cùng bạn ngồi trên con thuyền và cùng mình hưởng
ngoạn, tâm tình. Đó là cái nét tài hoa, tài tử và cũng là cái tình tri kỉ, tri âm.

=>Nguyễn Tuân đã dành nhiều câu chữ đầy ắp cảm xúc để tái hiện lên dòng sông
tình, thơ mộng bằng ngôn ngữ đầy chất thơ vận dụng vốn hiểu biết và thi ca, hội
họa, điện ảnh để vẽ lên hình hài, tính cách dòng sông ấy. Có một nhà phê bình đã
viết: “Nguyễn Tuân đã đề thơ trên sóng nước mới có 1 cô gái mĩ miều, duyên dáng
trong ý nghĩ của mọi người như thế”

=>Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của một tình yêu
thiết tha thiên nhiên đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một
dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có.
Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học Việt
Nam.

*Nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Đà


- Tác giả đã miêu tả Sông Đà bằng những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng
độc đáo, bất ngờ và rất thú vị. Từ ngữ trong bài tùy bút thật phong phú, sống động,
giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
- Câu văn của tác giả rất đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân
guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình. Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã
trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng.
=>Hình tượng Sông Đà được tác giả khắc họa độc đáo, nổi bật với hai đặc điểm:
vừa hung vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình. Qua hình tượng con Sông Đà, nhà
văn ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, thể hiện tình cảm tha thiết của mình
với đất nước. Hình tượng con Sông Đà trong bài tùy bút gợi lên ở người đọc suy
nghĩ về trách nhiệm bảo vệ môi trường cho những dòng sông, bởi đó là quà tặng vô
giá của thiên nhiên giành cho con người.

3. Hình tượng người lái đò sông Đà

Nếu như tài năng và tình yêu của Nguyễn Tuân đã tạo nên một dòng Đà
giang như một sinh thể có hồn, tài hoa, tiềm ẩn thì dưới con mắt của người nghệ sĩ
Nguyễn Tuân, người lái đò đã trở thành một người nghệ sĩ trên sông nước mà “tay
lái ra hoa”. Qua hình tượng ông lái đò thể hiện 1 cái nhìn, một sự khám phá mới
của Nguyễn Tuân về những con người lao động bình thường nhưng rất tài hoa
nghệ sĩ. Đó cũng chính là phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân-người được
mệnh danh “một định nghĩa về người nghệ sĩ”. (Nguyễn Minh Châu).

3.1. Lai lịch và vẻ đẹp ngoại hình ông lái đò sông Đà.
- Lai lịch: Ông không có tên, chỉ biết là người Lai Châu, đã ngoài 70 tuổi, đã dành
1 phần lớn đời mình làm nghề lái đò dọc trên sông Đà. Trên sông Đà, ông xuôi
ngược hơn 100 lần, chín tay giữ lái độ 60 lần.

- Ngoại hình: Bằng hệ thống ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình,
bằng lối so sánh độc đáo gợi cảm, trước hết Nguyễn Tuân đã làm sống dậy trước
mắt người đọc hình ảnh một ông lái đò có ngoại hình đặc biệt ấn tượng
+ Người ta nói rằng làm cái nghề lái đò trên sông hiểm ác lắm thác nhiều ghềnh
này tổn thọ lắm. Nhưng ông lái đò của Nguyễn Tuân đã cải chính một cách hùng
hồn cái điều ấy bằng hình ảnh một con người đã gần bảy mươi tuổi, cái đầu bạc
nhưng còn “quắc thước” lắm “đặt trên một thân hình cao to, gọn quánh như chất
sừng, chất mun”, “ông giơ đôi tay còn trẻ tráng quá” làm cho nhiều người lầm
tưởng là “mình đang đứng trước một chàng trai”...

+ “Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp
lấy một cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh
sông”.

- Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một
con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính người đó. Nguyễn
Tuân là nhà văn luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói “hàm lượng
thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn.

3.2. Vẻ đẹp tính cách, phẩm chất của ông lái đò.

* Ông lái đò là người tinh thạo, từng trải, giàu kinh nghiệm, hiểu biết sâu sắc
về luồng lạch, từng ngõ ngách trên sông Đà.

Trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, hình tượng Sông Đà và hình
tượng người lái đò nổi bật lên và cũng là hai hình tượng chính, được nhà văn miêu
tả và tái hiện bằng tất cả bút lực, với kiến thức sâu sát về nhiều lĩnh vực, từ tri thức
về âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử, địa lý, điện ảnh, văn học. Hình
tượng người lái đò hiện lên với hình ảnh ông lái đò tinh thạo, từng trải, giàu kinh
nghiệm, hiểu biết sâu sắc về luồng lạch, từng ngõ ngách trên sông Đà. “Ông lái đò
nắm chắc quy luật của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ
đá”, ông thạo nghề, thuộc lòng từng đặc điểm nhỏ nhất của sông Đà: “nhớ tỉ mỉ
như đóng đanh vào tất cả các luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”,
sông Đà “như một thiên anh hùng ca mà ông đò thuộc đến cả những cái chấm
than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Đó chính là chân dung một người lao
động tuyệt vời, khi họ dày dặn kinh nghiệm và gắn bó với vùng sông nước như gắn
cả cuộc đời của mình vào đó.

* Ông lái đò là người trí dũng song toàn như một viên tướng tài ba, thông
minh linh hoạt và khéo léo như một nghệ trong nghệ thuật vượt thác sông Đà.

+ Ở trùng vi thứ nhất:


• Thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm
sát bờ trái và huy động hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền.
• Luồng sóng hung tợn “liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào
bụng và hông thuyền”. Thậm chí còn đánh đòn tỉa, đánh đòn âm, nhưng
người lái đò bình tĩnh giữ chắc mái chèo giúp con thuyền “khỏi bị hất khỏi
bờm sóng trận địa phóng thẳng vào mình”.
• Ngay cả lúc bị trúng đòn hiểm, mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn tỉnh táo chỉ
huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh.

+ Ở trùng vi thứ hai:


▪ Dòng sông đã thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật. Vòng vây thứ hai
này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố trí
lệch qua phía bờ hữu ngạn. Nhưng ông đò đã “nắm chắc quy luật của thần
sông thần đá” nên lập tức cũng thay đổi chiến thuật theo, nhận ra cạm bẫy
của bọn thuỷ quân nơi cửa ải nước này.
▪ Các luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Ông không né
tránh mà đưa con thuyền cưỡi lên sóng thác “cưỡi lên thác Sông Đà, phải
cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. “Nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng
rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh
vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo vào cửa đá ấy”.
▪ Ông kiên cường chịu đựng nỗi đau thể xác do cuộc vật lộn với sóng thác gây
nên: “Ông đó hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng, ông cố nén vết
thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy buồng lái, mặt méo bệch đi”.

+ Ở trùng vi thứ ba: trên sông Đà.


✓ Thạch trận ít cửa tử hơn những bên phải bên trái đều là luồng chết cả, của
sinh lại nằm giữa lòng sông và bọn đá hậu vệ canh giữ. Nhưng ông đó không
hề bất ngờ trước mưu mô hiểm độc của bọn chúng, tiếp tục chỉ huy con
thuyền vượt qua trùng vây thứ ba.
✓ Ông nhớ mặt bọn giặc đá, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo, đứa thì ông đè
sắn lên chặt đôi ra để mở đường tiến. Ông lái đò giống đôi khi giống như 1
đô vật lão luyện, 1 chiến binh quả cảm cứ tả xung hữu đột, vượt qua các tập
đoàn của tử, cửa sinh của thạch trận đá
=>Cuộc vượt thác của ông lái đò là như một cuộc thủy chiến không cân sức giữa
thiên nhiên với con người. Sự dũng cảm, tài trí của ông lái đò thể hiện qua cuộc
vượt thác như những trận quyết chiến, những trận đánh sinh tử chia làm nhiều hồi,
nhiều đợt.
=>Ông lái đò giống như một vị chỉ huy tài giỏi, một kị sĩ đã thuần thục được con
tuấn mã bất kham . Ông lái đò vượt thác sông Đà cũng giống như hành trình vượt
biển trở về quê hương của Uy-lít-xơ trong trường ca “Ô-đi-xê” của Hô-me-rơ
trong 10 năm trời ròng rã đầy gian nan và thử thách.

* Ông lái đò là người tài hoa nghệ sĩ, mang cốt cách của người chỉ huy nhưng
rất bình dị, là người anh hùng cuộc sống đời thường.
Nếu người xưa vẫn thường coi “cưỡi con gió mạnh, đạp đầu sóng dữ” là
biểu tượng cho một lí tưởng sống anh hùng thì ông lái đò trong tùy bút của Nguyễn
Tuân cũng cưỡi gió, đạp sóng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
- Ông nắm chắc quy luật của dòng sông, nắm chắc binh pháp của thần sống thần
đá, biết rõ từng cửa tử, cửa sinh trên thạch trận và quy luật phục kích của lũ đá nơi
ải nước sông Đà
- Là người từng trải, hiểu biết, thành thạo trong nghề lái đò đã đạt đến trình độ:
“Nhớ tỉ mi nhưđóng đanh vào lòng tất cả các luồng nước của tất cả các con thác
hiểm trở”, hơn thế nữa, sông Đà đối với ông “Như một trường thiên anh hùng ca
mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chầm câu và những đoạn xuống
dòng”
- Ông đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung nghệ sĩ. Tay lái
linh hoạt , khéo léo, tài hoa như một nghệ sĩ trên sông nước. Ông lái đò như một
nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh thực thụ: “Vút, vú, cửa ngoài , cửa
trong, lại cửa trong cùng, thuyền như 1 mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được, lượn được”. Sông Đà giống như một bản anh hùng ca
sông nước thì ông lái đò giống như một người nhạc trưởng và người nhạc trường
này nắm vững bản nhạc của mình đến từng câu, từng chữ, đến dấu chấm, xuống
dòng.
- Dưới bàn tay chèo lái điêu luyện của ông con thuyền đã hoá thành con tuấn mã
hiểu ý chủ, khi thì khéo léo né tránh luồng sóng dữ, khi thì phóng thẳng vào cửa đá
có 3 tầng cổng “cánh mở, cánh khép”. Con thuyền như bay trong không gian, ông
đó luôn nhìn thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn.
- Sau cuộc vượt thác gian nan, ông đó lại có phong thái ung dung của một nghệ sĩ
“Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nước ống cơm lam và toàn bàn tán về cá
anh vũ, cá dầm xanh...”.
- Đây là hình ảnh về một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Người lái
đò hiện lên như là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí và luôn có phong thái ung
dung pha chút nghệ sĩ. Ông chỉ huy cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan
và biết nhìn thử thách đó qua bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn.
- Đoạn văn tả trận thủy chiến, tập trung khắc họa hình tượng ông lái đò một lần
nữa cho thấy sự uyên bác, lịch lãm của Nguyễn Tuân. Ở đây có tri thức, có ngôn
ngữ sống động của quân sự, thể thao, võ thuật, điện ảnh...
=>Ông lái đò là một hình tượng đẹp đẽ về người lao động mới, người anh hùng
không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động hằng
ngày đó chính là thứ “vàng mười” đã qua thử lửa. Ông lái đò thực sự đã trở thành
một người nghệ sĩ tài hoa trên sông nước, đây cũng là một quan niệm mới của ông
về chủ nghĩa anh hùng , đó là chủ nghĩa anh hùng có trong những con người bình
thường, giản dị của cuộc sống lao động hàng ngày. Điều đó chứng tỏ trong cảm
xúc thẩm mỹ của Nguyễn Tuân, người lao động đẹp và quý hơn tất cả.
* Nghệ thuật miêu tả người lái đò
- Sử dụng vốn kiến thức uyên bác sâu rộng trong lĩnh vực, nhiều kiến thức: Quân
sự, điện ảnh, võ thuật,...
- Tạo tình huống đầy thử thách
- Sử dụng từ ngữ góc cạnh, giàu chất tạo hình, gợi liên tưởng, so sánh, nhân hoá
bất ngờ mà vô cùng chính xác.
- Tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ ở nhân vật ông lái đò, cách viết phù hợp với quan
niệm nghệ thuật về con người, phù hợp với phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân.
=>Bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công
hình ảnh người lái đò Sông Đà dũng cảm, tài năng, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm.
Qua hình tượng người lái đò, tác giả ngợi ca người lao động Tây Bắc với những
phẩm chất cao quí. Hình tượng người lái đò, cũng thể hiện quan niệm của nhà văn:
người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động
thường ngày. Hình tượng người lái đò trong bài tùy bút của Nguyễn Tuân gợi ra ở
mỗi chúng ta suy nghĩ về nhiệm vụ của mình trong công cuộc xây dựng Tổ quốc
Việt Nam yêu quý.

V. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say
đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì
vĩ, hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao
động bình dị ở miền Tây Bắc.

- Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc cùng sự tài hoa,
uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo
những kì công của tạo hóa (Sông Đà) và những kì tích lao động của con người
(người lái đò).

2. Giá trị nghệ thuật


- Tùy bút pha bút kí, kết cấu linh hoạt, vận dụng được nhiều tri thức văn hóa và
nghệ thuật vào trong tác phẩm.

- Nhân vật mang phong thái đời thường, giản dị.

- Bút pháp: kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn.
- Sáng tạo: ngôn từ, các biện pháp tu từ độc đáo.

VI. MỘT SỐ LỜI BÌNH VỀ NGUYỄN TUÂN VÀ TÁC PHẨM


“Người lái đò sông Đà”

1. “Trong cái vội vàng, cái cẩu thả của những tác phẩm xuất bản gần đây, những
sản phẩm đã hạ thấp văn chương xuống mực giá trị của một sự đua đòi, người ta
lấy làm sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp, coi công
việc sáng tạo là công việc quý báu và thiêng liêng”.
(Thạch Lam)

2. “Nguyễn Tuân là một nhà văn cả đời đi tìm kiếm cái thực và cái đẹp. Thực ra,
sự thực và cái đẹp của cuộc sống là hai cái đích mà dường như bất kì ngòi bút
chân chính nào cũng hướng tới nhưng không dễ chiếm lĩnh và chạm vào được.
Nguyễn Tuân cũng trên hành trình tìm kiếm nhưng tác phẩm của ông đã chạm
được đến cái đẹp, nhất là cái đẹp truyền thống và cái thực phồn hoa chốn thành
thị. Nguyễn Tuân là người thưởng thức cái đẹp với tư cách người có văn hóa, có
vốn tri thức, biết giá trị của đối tượng mình chiêm ngưỡng”.
(Nguyễn Đình Thi)

3. “Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân
không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức. Một ngày không xa, khi mà
văn chương Việt Nam được người Việt Nam ham chuộng hơn bây giờ, tôi dám
chắc những văn phẩm của Nguyễn Tuân sẽ còn có một địa vị xứng đáng hơn nữa”.

(Vũ Ngọc Phan)


4. “Đây là một nhà văn “suốt đời đi tìm cái Đẹp, cái Thật”, tự nhận mình là người
sinh ra để thờ NGHỆ THUẬT” với hai chữ viết hoa”.

5. “Khi thì nghiêm trang cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót
trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng,
khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa”.

(Nguyễn Đăng Mạnh)

6. “Tác phẩm gần đạt đến độ “toàn thiện hoàn mỹ” ấy góp phần đưa nghệ thuật
văn xuôi Việt Nam phát triển thêm một bước mới trên con đường hiện đại hóa.
“Vang bóng một thời” vẽ lại những cái “đẹp xưa” của thời phong kiến suy tàn,
thời có những ông Nghè, ông Cống, ông Tú thích chơi lan, chơi cúc, thích đánh
bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp trong sương sớm với tất cả lễ nghi thành kính đến
thiêng liêng. “Vang bóng một thời” vì thế có thể được xem như một bảo tàng lưu
giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.

7. “Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một
chữ ngông.Cái ngông vừa có màu sắc cổ điển, vừa kế thừa truyền thống tài hoa
bất đắc chí của Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà, … và trực tiếp hơn là cụ Tú
Lan, thân sinh nhà văn ; vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống
triết lý nổi loạn của xã hội phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con
người cao đẳng, thuyết hiện sinh…”
(Nguyễn Đăng Mạnh)
8. Ông xứng đáng được mệnh danh là “chuyên viên cao cấp Tiếng Việt”, là
“người thợ kim hoàn của chữ” (Ý của Tố Hữu).Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám
trụ ở thành trì cái Đẹp là biểu hiện sinh động của một nhân cách văn hóa lớn.Nhà
văn Nguyễn Tuân “đặc Việt Nam” (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan)từ quan niệm cho
tới thực tế sáng tác.

9. “Nguyễn Tuân – một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới
lạ, nồng nàn, say đắm…”
(Nguyễn Đăng Mạnh)

10. “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta
gọi là bậc thầy của ngôn từ mà ta không hề thấy ngại miệng ; một nhà văn độc đáo
vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu
triện riêng…”
(Anh Đức)

11. “Nhà văn lớn Nguyễn Tuân được mệnh danh là “người săn tìm cái Đẹp”
(Nguyễn Thành), hoặc “người đi tìm cái Đẹp, cái Thật”
(Nguyễn Đình Thi)

12. “Nguyễn Tuân như người họa sĩ tài năng với nhiều bút pháp linh hoạt, đã tạo
nên những tuyệt tác mĩ thuật đầy màu sắc mà lung linh, huyền ảo.Có những trang
viết lại giàu chất tạo hình, bài trí, bối cảnh như của nhà điêu khắc và đạo diễn
điện ảnh”.
(Đoàn Trọng Huy)
13. “Chúng ta vẫn đắm đuối với nghề văn, ngày càng chau chuốt thêm văn tự,
ngày càng làm óng tốt dẻo bền hơn lên nữa cái tiếng nói Việt cổ truyền của mình”.

(Nguyễn Tuân)

14. “Đứng trước một cái chân tài thì người khinh bạc đến đâu cũng trở nên trung
hậu”.

15. “Một ngày không xa, khi mà văn chương Việt Nam được người Việt Nam ham
chuộng hơn bây giờ, tôi dám tin những văn phẩm của Nguyễn Tuân còn có giá trị
hơn nữa.Chính vì thế, đọc văn Nguyễn Tuân, độc giả bao giờ cũng có những cảm
xúc, hứng thú kì lạ.Đó là “sự thâm trầm trong ý nghĩa, sự lọc lõi trong quan sát,
sự hành văn một cách hoàn toàn Việt Nam.”
(Vũ Ngọc Phan)

16. “Nguyễn Tuân là người nghệ sỹ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa đến một độ
cao hiếm thấy trong văn học Việt Nam”

17. “Tôi có cảm tưởng như là đọc một tập du kí của một nhà thơ tìm lòng người ở
giữa một khu vực nhỏ trên non sông Tổ quốc của chúng ta đang được cải tạo tiến
lên xã hội chủ nghĩa.”
(Trương Chính)

18. “Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa rất chuẩn về người nghệ sỹ chân chính”

(Nguyễn Minh Châu)


19. “Và chính Nguyễn Tuân đã sáng lên như một tông màu độc đáo trong bức
tranh của văn đàn Việt Nam.Tông màu đó có lẽ chỉ mình ông mới định danh
được.Còn người đời chỉ biết trân trọng gọi ông là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp.”

(Bảo Trang, Bài đăng trên báo giấy Đời sống và Pháp luật số 17)

20. “Câu văn của Nguyễn Tuân cũng có nhiều kiểu kiến trúc đa dạng.Ông là một
nghệ sỹ ngôn từ biết chú trọng tới âm điệu, nhịp điệu của văn xuôi.Ông thường nói
người làm nghệ viết phải tạo ra những câu văn có khớp cương biết co duỗi nhịp
nhàng, chứ đừng bắt chước người ta phải đọc của mình những câu văn tê
thấp.Câu văn của Nguyễn Tuân giàu màu sắc, giàu âm thanh, nhịp điệu trầm bổng
hài hòa, khó có nội dung cảm xúc tương ứng sẽ trở thành những dòng thơ trữ tình
ngân vang trong lòng người đọc”.
(Nguyễn Đăng Mạnh)

21. “Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng,
của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ…Khi gân guốc, khi mềm
mại, khi hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi
hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, những trang viết, câu văn của Nguyễn Tuân mang
hơi thở ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dang.Sự tự ý thức sâu sắc
về tài năng của mình không phải là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự
giải phóng năng lương rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác
phẩm kì vĩ…”
(Phan Huy Đông, in trong Vẻ đẹp Cách mạng)

22. “Nguyễn Tuân từng mỗi ngày đều muốn mượn cái say của rượu tân hôn, kỳ
vọng mỗi trang đời là một trang nghệ thuật.Mỹ cảm với cảm xúc thẩm mỹ của nhà
văn như là vô tận.Luôn luôn đổi mới cảm giác, nhận thức như phương châm cảm
thụ cái đẹp của Nguyễn Tuân.Đời là những “Trang hoa” luôn mở dưới ánh sáng
nghệ thuật mới”
(Đoàn Trọng Huy)

VII. CÁC DẠNG ĐỀ VẬN DỤNG.

Đề 1 : Về nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn
Tuân, có ý kiến cho rằng: “Ông lái đò là một nghệ sĩ tài hoa”. Ý kiến khác thì
nhấn mạnh: “Ông lái đò là một người lao động bình thường”.
Từ cảm nhận về nhân vật ông lái đò, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên ?
HƯỚNG DẪN LÀM:

1. Mở bài:

*Vài nét về tác giả, tác phẩm:

“Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa” (Nguyễn Minh Châu).
Toàn bộ cuộc đời cũng như gần 5000 trang viết của ông đã tạo nên một “huyền
sử” - huyền sử của một người ưu lối chơi “độc tấu”.

+ “Người lái đò sông Đà” được coi là một trong những tác phẩm thành công xuất
sắc nhất trong “Tùy bút Sông Đà”. Với khao khát truy tìm “chất vàng mười của
tâm hồn vùng Tây Bắc” - “thứ vàng mười đã được thử lửa” (Đi mở đường),
Nguyễn Tuân đã viết lên bài ca cuộc sống của con người và thiên nhiên Tây Bắc
với nhiều nét độc sáng mới lạ.

+ Nhận xét về người lái đò sông Đà có hai ý kến như sau : ( trích dẫn hai ý kiến)

2. Giải thích ý kiến:


Ý kiến “Ông lái đò là một nghệ sĩ tài hoa” và “Ông lái đò là một người lao động
bình thường”.

+ Người nghệ sĩ tài hoa là những người có rung động tâm hồn mãnh liệt trước mọi
vui buồn của đời sống và có khả năng thể hiện những rung động ấy bằng những
phương tiện nghệ thuật đặc thù. Ở ý kiến trên, người nghệ sĩ tài hoa được hiểu là
người đạt tới trình độ điêu luyện trong nghề nghiệp và có đời sống tâm hồn đậm
chất nghệ sĩ.

+ Người lao động bình thường là người lao động thầm lặng, vô danh, không tên
tuổi giống như bao người lao động khác trong công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước. Khẳng định 2 ý kiến trên bổ sung cho nhau, làm hoàn thiện chân dung, tính
cách người lái đò sông Đà.

3. Chứng minh - bình luận ý kiến:

* Ông lái đò - một nghệ sĩ tài hoa:

- Ông lái đò có tính cách phóng khoáng, thích đối mặt với thử thách, mạo hiểm,
gian nguy.

- Ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá như một nghệ sĩ điêu luyện, cao
cường.

- Cuộc băng ghềnh, vượt thác ngoạn mục đã khẳng định vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của
một “tay lái ra hoa”:

+ Vòng vây thứ nhất, sông Đà bày ra nhiều cạm bẫy. Ông lái đò bị sóng thác đánh
miếng đòn độc hiểm. Nhưng bằng tinh thần dũng cảm, ông đã tỉnh táo chỉ huy sáu
mái chèo, chiến thắng trùng vi thạch trận đầy nguy hiểm.
+ Vòng vây thứ hai, sông Đà đã thay đổi chiến thuật. Ông lái đò đã nắm chắc binh
pháp của thần sông, thần đá, xác định đúng cửa sinh và chiến thắng thằng đá tướng
đứng chiến ở cửa giữa.

+ Vòng vây thứ ba, sông Đà tiếp tục thay đổi chiến thuật, bên phải bên trái đều là
cửa tử. Ông lái đò phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa. Thuyền như một mũi
tên tre xuyên nhanh qua hoi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế
là hết thác.

* Ông cũng là một người lao động bình thường:

- Ông lái đò sinh ra bên bờ sông Đà và gắn bó với nghề sông nước như bao người
lái đò khác nơi thượng nguồn sông Đà khuất nẻo.

- Đời sống tâm hồn giản dị: không nói nhiều về chiến công; dù đi đâu cũng luôn
nhớ về nương ruộng, bản mường.

* Nghệ thuật thể hiện:

- Ngôn ngữ phong phú, sáng tạo, hài hoa, kết hợp kể với tả nhuần nhuyễn và đặc
sắc, nghệ thuật khắc họa nhân vật độc đáo, sáng tạo.

- Bút pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng độc đáo, thú vị; vận dụng tri
thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật góp phần miêu tả cuộc chiến hào hùng
và khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật.

4. Đánh giá:

- Qua cảm nhận hình tượng ông lái đò, có thể thấy, ông lái đò là một nghệ sĩ tài
hoa trên sông nước, đồng thời, cũng là một người lao động giản dị bình thường. Vẻ
đẹp của ông lái đò tiêu biểu cho vẻ đẹp của người dân lao động vùng Tây Bắc tổ
quốc.

- Hai ý kiến trên không đối lập mà bổ sung cho nhau đem đến một cái nhìn đầy đủ,
toàn diện về nhân vật.

Đề 2 :So sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù) để
thấy chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân
trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI:

1. Phân tích nhân vật người lái đò sông Đà:

+ Vài nét về hình ảnh con sông Đà: Sông Đà hiện lên thật hung dữ nhưng cũng
không kém phần thơ mộng, trữ tình là cái nền để người lái đò xuất hiện..
+ Nhân vật người lái đò sông Đà
- Ông lái đò có ngoại hình và những tố chất khá đặc biệt: tay “lêu nghêu”, chân
“khuỳnh khuỳnh”, “giọng ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh”, “nhỡn giới vòi
vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó”… Đặc điểm ngoại hình và
những tố chất này được tạo nên bởi nét đặc thù của môi trường lao động trên sông
nước.
- Ông lái đò là người tài trí, luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ: ông
hiểu biết tường tận về “tính nết” của dòng sông, “nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào
lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, “nắm chắc
binh pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải
nước hiểm trở”, biết rõ từng cửa tử, cửa sinh trên “thạch trận” sông Đà. Đặc biệt,
ông chỉ huy các cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn những
thử thách đã qua bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn…
- Ông lái đò rất mực dũng cảm trong những chuyến vượt thác đầy nguy hiểm: tả
xung hữu đột trước “trùng vi thạch trận” của sông Đà, kiên cường nén chịu cái
đau thể xác do cuộc vật lộn với sóng thác gây nên, chiến thắng thác dữ bằng những
động tác táo bạo mà vô cùng chuẩn xác, mạch lạc (tránh, đè sấn, lái miết một
đường chéo, phóng thẳng…).
- Ông lái đò là một hình tượng đẹp về người lao động mới. Qua hình tượng này,
Nguyễn Tuân muốn phát biểu quan niệm: người anh hùng không phải chỉ có trong
chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động thường ngày. Ông lái đò chính là
một người anh hùng như thế.
2. So sánh với nhân vật Huấn Cao:
a. Nhân vật Huấn Cao:
- Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con
người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong sáng.
- Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa
mãnh liệt đối với những con người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”.
Hình tượng ông Huấn Cao là hình tượng điển hình cho vẻ đẹp ‘vang bóng một
thời” nay đã lùi vào quá khứ chỉ còn dư âm trong tâm trạng của những tấm lòng
tích cổ thương kim ( “Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ”- Vũ Đình
Liên)
b. Từ việc tìm hiểu vài nét về vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao,
chúng ta sẽ dễ thấy được chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con
người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám.
- Nét chung (tính thống nhất):
+ Nguyễn Tuân vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
+ Vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều
ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu hiện.
+ Vẫn sử dụng vốn ngôn từ hết sức tinh lọc, phong phú, độc đáo. Khả năng tổ chức
câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng.
Các phép tu từ được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện.
- Nét riêng (tính khác biệt):
+ Trước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca ngợi là
những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau Cách mạng tháng
Tám, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong cuộc
chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân.
+ Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích chơi
“ngông”, mắc cái bệnh ham mê thanh sắc, thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái Đẹp
và nhấm nháp những cảm giác mới lạ. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn nhạy
cảm với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ của nó. Nhưng không
còn là một Nguyễn Tuân “nghệ thuật vị nghệ thuật” nữa. Ông đã nhìn cái đẹp của
con người là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nẩy nở sinh
sôi, đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ
mới.
*Đánh giá chung.
Đề 3 :Tuỳ bút Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu
hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa
xôi của Tổ quốc, nơi ông đã khám phá ra chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ
vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những người lao động.
Anh (chị) hãy làm rõ “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở nhân vật người lái đò
trong tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân

Hướng dẫn cách làm

a. Mở bài
– Giới thiệu được hoàn cảnh ra đời, mục đích sáng tác tùy bút Sông Đà của
Nguyễn Tuân
– Giới thiệu vấn đề nghị luận :“thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở nhân vật người lái
đò
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn
Tuân được in trong tập Sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này Nguyễn Tuân tự coi
mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là
cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang
nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa được vui và
vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Dưới
ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người
nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình.
b. Thân bài:
*Giải thích
- “thứ vàng mười đã qua thử lửa” - từ dùng của Nguyễn Tuân để chỉ vẻ đẹp tâm
hồn của những con người lao động và chiến đấu trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ
mộng.
*Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của ông lái đò sông Đà
+ Ông lái đò được xây như một đại diện, một biểu tượng của nhân dân (không tên,
tuổi, quê quán)
Đó là một người lao động rất đỗi bình thường hoạt động trong một môi trường lao
động khắc nghiệt, dữ dội.
+ Ông am hiểu đối tượng mà mình đang chinh phục.
Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là
người từng trải, thành thạo nghề. Chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết : người lái
đò còn là một linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười
năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông
giữ lái độ sáu chục lần… Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà
với bảy mười ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào
lòng tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông
Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến
cả những cái chấm than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Không phải bỗng
dưng mà nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn
thác, thời gian ông lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng
trải, gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là cách nhà văn
bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con người như được sinh ra từ những
con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà
+ Ông mưu trí và dũng cảm để vượt qua những thử thách khắc nghiệt trong cuộc
sống lao động hàng ngày:

Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả
những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống
của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến
trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc
vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận
đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một :
“… Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời. Đá ở đây
ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền
nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào
đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá
nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước
chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch
trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết
cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc
giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn…”
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi
sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc
nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa
trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy
mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị
thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái,
mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào
chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn
vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến
vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã
chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền
vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng,
thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái
được lượn được. Thế là kết thúc.

+Nghệ sĩ tài hoa :


Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một
nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có
nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm
nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm
của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn
Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là
tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì
làm chủ được nó nên có tự do.
Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút
thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng
sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn
ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo.
Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc
quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông
thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm
quân tài ba
+ Ông lái đò mang những phẩm chất cao đẹp của người lao động thời hiện đại mới:
giản dị mà không kém phần hùng tráng, khỏe khoắn, cũng đầy mưu trí.Đó là những
con người tự do, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
c. Kết bài:
- Khái quát lại vấn đề : Nhận xét chung về vẻ đẹp của ông lái đò, đánh giá nghệ
thuật miêu tả của Nguyễn Tuân: đặt nhân vật vào tình huống đầy cam go, thử thách
để nhân vật bộc lộ tính cách phẩm chất; phối hợp những thủ pháp tiêu biểu của các
ngành nghệ thuật khác để miêu tả và kể chuyện…
- Rút ra bài học cho bản thân

Đề 4 : Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hình tượng sông Đà trong tác phẩm
“Người lái đò sông Đà” - Nguyễn Tuân và hình tượng sông Hương trong tác
phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” - Hoàng Phủ Ngọc Tường. Từ đó, trình bày
suy nghĩ của mình về việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê hương, đất nước.

Hướng dẫn làm bài


I. Mở bài:
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần bàn luận.
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và Người lái đò sông Đà
- Giới thiệu tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và Ai đã đặt tên cho dòng sông
- Giới thiệu vấn đề nghị luận : vẻ đẹp của sông Hương, sông Đà, và về việc bảo
vệ cảnh quan thiên nhiên của quê hương, đất nước.
II. Thân bài:
1. Nét tương đồng của 2 dòng sông:
a. Sông Đà và sông Hương đều được các tác giả miêu tả như một nhân vật
trữ tình có tính cách với những vẻ đẹp đặc trưng riêng biệt, thể hiện tình
yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương, đất nước.
b. Sông Đà và sông Hương đều mang nét đẹp của sự hùng vĩ, dữ dội.
- Vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà được thể hiện qua sự hung bạo và dữ dội của nó
trên nhiều phương diện khác nhau cảnh trí dữ dội, âm thanh ghê rợn, đá sông
Đà như đang bày trùng vi thạch trận.
- Khi chảy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy dữ dội tựa 1 bản trường ca
của rừng già, tựa cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại….
c. Sông Đà và sông Hương đều có vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình:
- Sông Đà: dáng sông mềm mại tựa mái tóc tuôn dài tuôn dài, màu nước thay
đổi qua từng mùa, vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính…
- Sông Hương: với dòng chảy dịu dàng và đắm say giữa những dặm dài chói lọi
màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Sông Hương còn mang vẻ đẹp của người con
gái ngủ mơ màng chờ người tình mong đợi đánh thức. Nó còn được ví như điệu
slow tình cảm dành riêng cho Huế…
d. Cả 2 đều được miêu tả qua ngòi bút tài hoa, uyên bác:
- Tài hoa:
2 dòng sông đều được miêu tả trên phương diện văn hóa, thẩm mĩ:
+ Sông Đà là nơi hội tụ 2 nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc vừa
hùng vĩ, uy nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng.
+ Sông Hương là dòng sông của âm nhạc, dòng sông của thơ ca, của lịch sử gắn
liền với những nét đặc sắc về văn hóa, với vẻ đẹp của người dân xứ Huế.
- Uyên bác:
cả 2 tác giả đều vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng kiến thức trên nhiều lĩnh
vực nghệ thuật để khắc họa hình tượng 2 dòng sông.
2. Nét độc đáo riêng trong từng hình tượng dòng sông:
* Sông Đà:
- Trong đoạn trích, nhà văn tập trung tô đạm nét hung bạo, dữ dội của sông Đà
giống như 1 kẻ thù hiểm độc và hung ác
=> Thể hiện rõ nhất qua hình ảnh nước dữ, gió dữ, đá dữ đặc biệt đá bày trùng
vi thạch trận chực lấy đi mạng sống của con người.
- Sông Đà được cảm nhận ở chính nét dữ dội, phi thường, khác lạ: tiếng thét
của sông Đà như tiếng thét của ngàn con trâu mộng, đá trên sông đà mỗi viên
đều mang 1 khuôn mặt hung bạo, hiếu chiến…
- Đặc biệt, tác giả miêu tả sự hung bạo của sông Đà để làm nổi bật sự tài hoa,
tài trí của người lái đò. Lúc này đây, sông Đà như 1 chiến địa dữ dội. Và mỗi
lần vượt thác của người lái đò là mỗi lần ông phải chiến đấu với thần sông, thần
đá…
* Sông Hương:
- Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng, gợi cảm và nữ tính,
luôn mang dáng vẻ của 1 người con gái xinh đẹp, mong manh có tình yêu say
đắm. Khi ở thượng nguồn, nó là cô gái Digan phóng khoáng, man dại; khi ở
cánh đồng Châu Hóa, nó là cô thiếu nữ ngủ mơ màng; khi lại như người tài nữ
đánh đàn giữa đem khuya, hay là nàng Kiều tài hoa, đa tình mà lại chung tình,
là người con gái dịu dàng của đất nước.
- Sông Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như người mẹ
phù sa bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa này từ bao đời nay.
- Sông Hương được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu: thủy trình của sông
Hương là thủy trình có ý thức tìm về người tình mong đợi. Khi chảy giữa Huế,
sông Hương mềm hẳn đi như 1 tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Trước
khi đổ ra cửa biển, sông Hương như người con gái dùng dằng chia tay người
yêu, thể hiện 1 nỗi niềm vương vấn với 1 chút lẳng lơ kín đáo.
- Thông qua hình tượng sông Hương mang nét đẹp nữ tính, nhà văn thể hiện nét
đẹp lãng mạn, trữ tình của đất trời xứ Huế
3. Trách nhiệm bản thân trong việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê
hương, đất nước
Học sinh có thể trình bày quan điểm cá nhân dựa trên những gợi ý sau :
Thế hệ trẻ cần có trách nhiệm bảo vệ cảnh quan đất nước qua hành động cụ thể
như: yêu quí, bảo vệ môi trường, quảng bá thắng cảnh…
III. Kết luận:
Đánh giá chung về đóng góp của hai nhà văn
- Qua vẻ đẹp tương đồng của 2 dòng sông, ta bắt gặp sự tương đồng độc đáo
của 2 tâm hồn có tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm tự hào với vẻ đẹp của
non sông đất nước Việt Nam.
- Mỗi nhà văn đều có 1 phong cách nghệ thuật độc đáo trong việc thể hiện hình
tượng các dòng sông, giúp người đọc có những cách nhìn phong phú, đa dạng
về vẻ đẹp của quê hương, đất nước mình.

Đề 5 : Trong Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân đã nhiều lần thay đổi điểm nhìn
để khám phá vẻ đẹp của Sông Đà:
Khi ở trên tàu bay nhìn xuống: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.”
Khi lại là một du khách đi thuyền trên sông: “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô
nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi
đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm.
Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ
tích tuổi xưa.”
Phân tích sự tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân qua hai điểm nhìn
trên.

Hướng dẫn làm bài


a. Giải thích:
- Tài hoa: những sáng tạo độc đáo thể hiện phong cách của người viết, đem đến sự
hấp dẫn cho người đọc.
- Sự tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ thể hiện ở cách sử dụng từ ngữ, cách viết câu,
dùng các biện pháp tu từ sáng tạo, mới mẻ.
b.Phân tích sự tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân qua hai điểm
nhìn:
- Khi thể hiện vẻ đẹp Sông Đà từ trên tàu bay nhìn xuống:
+ Từ ngữ: độc đáo, tinh tế, gợi cảm,… (HS phân tích cụm từ: “áng tóc trữ tình”,
…).
+ Câu văn: Câu văn dài chia làm nhiều vế, uyển chuyển, tầng tầng lớp lớp, co duỗi
nhịp nhàng,…
+ Các biện pháp tu từ: so sánh (“Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc
trữ tình”), điệp ngữ (“tuôn dài tuôn dài”), đảo ngữ (“bung nở hoa ban hoa gạo”,
“cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”), …
Qua đó, nhà văn làm nổi bật vẻ đẹp mềm mại, duyên dáng, gợi cảm, đầy sức sống
của Sông Đà.
- Khi thể hiện vẻ đẹp Sông Đà từ điểm nhìn của một du khách đi thuyền trên sông:
+ Từ ngữ: mới lạ, chính xác,… (HS phân tích những từ ngữ, cụm từ: “lặng
tờ”, “bờ tiền sử”, “nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”,…).
+ Câu văn: Những câu văn chủ yếu là thanh bằng như những giai điệu trữ tình êm
ái,…
+ Các biện pháp tu từ: so sánh, điệp cấu trúc câu (”Bờ sông hoang dại như một bờ
tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niểm cổ tích tuổi xưa”),…
Qua đó, tác giả miêu tả vẻ đẹp vừa tươi mới, tràn đầy nhựa sống vừa tĩnh lặng,
hoang sơ, … của Sông Đà.
c. Đánh giá:
- Sự tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân cho thấy sự công phu trong
lao động nghệ thuật, tài năng và cá tính sáng tạo của nhà văn.
- Sự tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân đã góp phần làm ngôn ngữ
Tiếng Việt giàu có, tinh tế hơn.
- Sự tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân góp phần thể hiện vẻ đẹp
của một cái tôi nhạy cảm, tinh tế, đắm say trước vẻ đẹp của non sông, đất nước.

VIII. MỘT SỐ MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI HAY

Mở bài 1.
Đất nước ta có trăm núi, nghìn sông, trên dải đất cong cong mềm mại hình
chữ S này có biết bao nhiều dòng sông cho tình nhân soi bóng, cho con người
chiêm ngưỡng, yêu thương và suy tưởng về cội nguồn. Đất nước có nhiều dòng
sông nhưng chỉ có 1 dòng sông để thương để nhớ, giống như đời người, có nhiều
cuộc tình nhưng chỉ có 1 củ tình mãi mãi mang theo. Năm xưa Tế Hanh đi xa mà
lòng đau đáu “Nhớ con sông của hương” biếc xanh, có “nước gương trong soi
bóng những hàng tre”; Tản Đà cung kính lấy tên sống đặt cho một nửa tên mình
đời trong đời cầm bút; người lữ khách Hoàng Phủ Ngọc Tường lại ngẩn ngơ, say
đắm với vẻ đẹp mộng mơ, mĩ lệ của con sông Hương huyền thoại thì người nghệ sĩ
Nguyễn Tuân lại ngược gót để khám phá, tận hưởng sự hung bạo, cuồng nộ và vẻ
đẹp trữ tình, thơ mộng của con sông Đà nơi núi rừng Tây Bắc.
Mở bài 2.

Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn đã từng nói: “Có vẻ như nêu trên
đời này, có một ngôi đền dành để phụng thờ cái đẹp, thì Nguyễn Tuân chính là viên tư
tế chuyên lo công việc đèn nhang cho người đến lễ”. Đọc tùy bút “Người lái đò Sông
Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân sáng tác năm 1960, ta say mê trước vẻ đẹp tài hoa của
một ngòi bút sắc nhạy, tinh tế và uyên bác. Đây là khúc tráng ca về thiên nhiên và con
người Tây Bắc, là bức chân dung người lái đò trên sông nước được nâng lên ngang
tầm nghệ sĩ, từ đó, nhà văn ngợi ca tài năng, tình yêu lao động của những con người
bình dị, đời thường với cốt cách thanh cao và đáng quý. Có thể nói, thiên tùy bút đã
đem đến cho người đọc, người nghe một cảm nhận sâu sắc về tâm hồn khao khát hòa
nhập với nhịp vận động phát triển của đất nước, của cuộc đời trong Nguyễn Tuân.

Mở bài 3
Một nhà phê bình đã từng nói: "Người nghệ sĩ phải xâm nhập sâu vào
đời sống nhân dân. Anh phải nhập đến một mức độ nào đó thơ mới hình thành.
Thơ chỉ tràn ra khi trong tim anh cuộc sống đã thật ứ đầy." Cả cuộc đời cần mẫn
như con ong hút nhụy từ những con ong của cuộc sống, Nguyễn Tuân đã để lại trên
thi đàn văn chương Việt Nam một sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Ông khẳng định vị trí
của mình bằng một phong cách rất đặc biệt mà giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã gói
gọn trong chữ "ngông" của một người tài ba uyên bác. Nếu trước cách mạng ông
dùng cái ngông để phê phán xã hội và viết về vẻ đẹp của những con người kì vĩ lớn
lao ở một thời vang bóng thì sau cách mạng tháng Tám, cái "ngông" của Nguyễn
Tuân lại được dùng để ca ngợi tình yêu quê hương đất nước. Đồng thời, ông cũng
đi tìm cho mình một chủ nghĩa anh hùng ở đời sống của nhân dân lao động bình
thường. một trong những tác phẩm thể hiện rất rõ phong cách của Nguyễn Tuân
sau cách mạng tháng Tám đó là tập tùy bút “Sông Đà”. Linh hồn của tập tùy bút là
bài kí "Người lái đò sông Đà". Thành công của Nguyễn Tuân trong tác phẩm này
bên cạnh việc xây dựng được hình tượng con sông Đà chân thực, sống động là ta
phải kể đến tác giả đã thể hiện được hình tượng người lái đò sông Đà tiêu biểu cho
vẻ đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa. Với “Người lái đò sông Đà", ngòi bút
của Nguyễn Tuân cũng nở hoa trên dòng sông văn chương của mình.

Mở bài 4.
Nguyễn Tuân đã từng chọn câu của Paul Morand làm đề từ cho tác
phẩm “Thiếu quê hương” của mình : “Ta muốn sau khi ta chết, có người thuộc da
ta làm chiếc va ly”, Nguyễn Tuân dứt khoát khẳng định: “Đứng về phương diện
một người lấy sự hoàn toàn phát triển giác quan của mình làm lẽ chính cuộc sống”
thì “không gì thiệt thòi bằng trung thành với một chỗ ở”. Trong sự nghiệp sáng tác
nghệ thuật của Nguyễn Tuân, khi tìm hiểu về những tác phẩm của ông, có thể nhận
ra hai nội dung chi phối trong những tác phẩm của ông đó là “ hoài cổ và xê dịch”,
ông ham đi, luôn luôn muốn được trải nghiệm những điều mới mẻ. Cũng chính vì
nguyên cớ này, năm 1958, Nguyễn Tuân đã lên đường, ngược về vùng núi cao Tây
Bắc, để “gặp, làm quen, hiểu và viết” về sông Đà. Chuyến đi thực tế này được ông
ghi lại một cách “tuyệt đẹp” qua tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Để lại nhiều ấn
tượng nhất có lẽ là hình ảnh ông lái đò sông Đà qua thiên tùy bút này.

Kết bài 1.
Viết về Người lái đò Sông Đà, viết về một vùng đất của Tổ quốc,
Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết với người lao động
và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động thì ông lái đò hiện lên
cùng anh dũng, ngoan cường trong lao động, ta lại càng thấy được bản lĩnh, tấm
lòng và tài năng của Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình
dị ấy “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của núi rừng Tây Bắc. Cuộc sống quanh ta
vốn rất cũ kĩ, tầm thường, gió vẫn thổi, mây vẫn trôi, ngày lại qua ngày. Nhà văn
chính là người đã mang lại cho ta một thế giới mới, tinh khối hơn,diệu kì hơn. Và
Nguyễn Tuân đã làm tròn sứ mệnh của một nhà văn, ông đã góp phần mang đến
cho thế giới những sắc màu mới. Bước vào thế giới của Nguyễn Tuân, chúng ta
như bước vào một chân trời với màu sắc huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo.

Kết bài 2.

Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng viết rằng: “ Khi thì trang nghiêm cổ kính,
khi thì đùa cợt bông phòng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như
ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài
hoa” để nói về câu chữ của Nguyễn Tuân. Quả thực, khép lại trang văn “Người lái đò
sông Đà” nói chung và đoạn trích nói riêng, độc giả đã có cơ hội ngắm nhìn phong
cách viết ấy nhiều hơn qua bóng dáng dòng sông Tây Bắc vừa trữ tình vừa hung bạo.
Tròn sáu mươi năm kể từ ngày ra đời, thiên tùy bút đã trở thành dấu ấn đặc biệt trên thi
đàn văn chương Việt Nam và trong lòng người đọc và vẫn vẹn nguyên giá trị, sức sống
như những ngày đầu. Thời gian có thể mài mòn sông núi nhưng những trang viết của
ông sẽ vẫn còn đó, trường tồn, vĩnh cửu cùng với người đọc mến mộ ngòi bút Nguyễn
Tuân.

Kết bài 3.
“Thế giới không chỉ được tạo lập một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc
đáo xuất hiện là thế giới lại được tạo lập”. Cuộc sống quanh ta luôn vận động với
theo vòng quay của đất trời, nhưng suy cho cùng ngày lại qua ngày, mây vẫn bay
và gió vẫn thổi, nhưng chính Nguyễn Tuân đã mang đến cho ta một thế giới mới,
tinh khôi và kì diệu. Song, ông cũng là một nhà văn góp phần sáng tạo lại thế giới.
Văn chương của ông đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí, hấp dẫn và
độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác.

Kết bài 4.
Gấp lại “Người lái đò sông Đà”, ta không chỉ cảm thán và ngưỡng mộ
trước vẻ đẹp đầy kì vĩ, phong phú của thiên nhiên, mà còn trăn trở một nỗi niềm
Nguyễn Tuân đã tinh tế gửi gắm. Đó là mong muốn con sông Đà “chúng thủy giai
Đông tẩu, Đà giang độc Bắc lưu” dù có cá tính quật cường, dù có ương ngạnh,
khó chiều, hung dữ và tàn bạo đến đâu, cũng sẽ có một ngày trở nên dịu hiền, đằm
thắm, giúp ích được cho con người; hay, chính là mong muốn đất nước có thể phát
triển phồn vinh, để nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Những người trẻ của đất
nước chúng ta, gánh trên vai trách nhiệm làm giàu cho Tổ quốc, làm đẹp cho xã
hội, hãy cố gắng hết sức học tập, rèn luyện và lao động, để làm tròn, làm tốt trách
nhiệm ấy, để xây dựng một tương lai “sánh vai với các cường quốc năm châu”,
như cách mà thế hệ đi trước đã thuần phục sông Đà:
“Cả một trời sao sa sẽ vãi tung trên đất
Toả ánh sáng con người ánh thắm thiết dựng xây
Cả một vòm không gian sẽ phả lên hơi mát
Tự hồ chứa mênh mông phơi phới mặt guơng đầy.”
(Mai mốt đến sông Đà – Bằng Việt)

You might also like