You are on page 1of 193

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (NGUYỄN TUÂN)

A.KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Tác gia Nguyễn Tuân (1910-1987)

a. Cuộc đời:

- Thời đại: Nguyễn Tuân sinh ra và lớn lên trong thời đại mà đất nước có rất
nhiều biến động, trong đó sự kiện Cách mạng tháng Tám 1945 đã chia cuộc đời và
sự nghiệp của ông làm hai giai đoạn rõ rệt. Trước năm 1945, ông là một trí thức có
tài năng, có khát vọng nhưng mồ côi về mặt tư tưởng nên Nguyễn Tuân tìm đến với
thú xê dịch. Sau năm 1945, Nguyễn Tuân tìm thấy ánh sáng của Đảng và cách mạng
nên các tác phẩm đều ca ngợi cuộc sống mới, con người mới.

- Quê hương: làng Mọc (Nhân Mục), nay thuộc Thanh Xuân, Hà Nội. Mảnh
đất Hà Nội đã phú cho con người và văn chương của Nguyễn Tuân nét tinh tế, tài
hoa. Ngoài mảnh đất Hà Nội, do thú xê dịch giang hồ của mình nên Nguyễn Tuân
đã đi đến rất nhiều nơi - mang đến cho ông vốn văn học và sự trải nghiệm phong
phú.

- Gia đình: Nguyễn Tuân sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học
nên từ nhỏ ông đã được tiếp xúc với nền văn hóa văn học. Trong gia đình, Nguyễn
Tuân ảnh hưởng mạnh nhất từ cha – một nhà nho bất đắc chí, có có tư tưởng và lối
sống tài tử, phóng túng. Hình ảnh người cha đã được Nguyễn Tuân chọn làm hình
mẫu để xây dựng nhiều nhân vật trong Vang bóng một thời.

- Bản thân:

+ Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng
yêu nước của ông có màu sắc riêng: gắn liền với những giá trị văn hóa cổ truyền của
dân tộc. Ông yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ, những kiệt tác văn chương của Nguyễn Du,
Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà... những phong cảnh đẹp của quê hương đất
1
nước, những thú chơi tao nhã như uống trà, nhắm rượu, chơi hoa, chơi chữ đẹp,
đánh thơ, thả thơ... những món ăn truyền thống thể hiện khẩu vị tinh tế của người
Việt.

+ Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết
để khẳng định cá tính độc đáo của mình. Ông ham du lịch, tự gán cho mình một
chứng bệnh gọi là “chủ nghĩa xê dịch”.

+ Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông
còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh...
Đồng thời Nguyễn Tuân còn là một diễn viên kịch nói có tài và là một diễn viên
điện ảnh đầu tiên ở nước ta. Ông thường vận dụng con mắt của nhiều ngành nghệ
thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn
chương.

+ Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình.
Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám, ông đã quan niệm nghề văn là một cái gì đối
lập với tính vụ lợi kiểu con buôn, và ở đâu có đồng tiền phàm tục thì ở đấy không
thể có cái đẹp. Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm
chí “khổ hạnh” và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỉ của mình để
chứng minh cho quan niệm ấy.

b. Sự nghiệp:

- Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm
đầu tay. Ông đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực trào
phúng. Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của mình và thành
công xuất sắc với các tác phẩm: Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê
hương, Chiếc lư đồng mắt cua... Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng
Tám chủ yếu xoay quanh ba đề tài: chủ nghĩa xê dịch, vẻ đẹp vang bóng một thời,
và đời sống trụy lạc.
2
- Chủ nghĩa xê dịch vốn là một lí thuyết vay mượn của phương Tây, chủ
trương đi không mục đích, chỉ luôn luôn thay đổi chỗ để tìm cảm giác mới lạ và
thoát li mọi trách nhiệm với gia đình và xã hội. Nguyễn Tuân đã tìm đến lí thuyết
này trong tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về chủ nghĩa xê
dịch, Nguyễn Tuân lại có dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối với cảnh
sắc và phong vị của đất nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi bút đầy trìu
mến và tài hoa (Một chuyến đi).

- Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của
quá khứ còn vang bóng một thời. Ấy là thời phong kiến đã qua nhưng dư âm còn
vang vọng lại. Ông không viết về trật tự xã hội, về tư tưởng đạo đức cũ, mà mô tả vẻ
đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành
mạnh và tao nhã, những cách ứng xử giữa người với người đầy nghi lễ nhịp nhàng...
Tất cả được thể hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà nho tài hoa
bất đắc chí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân (trong
số này cũng có những người có khí phách ngang tàng như Huấn Cao (Chữ người tử
tù) chẳng hạn).

- Nguyễn Tuân cũng hay viết về đề tài đời sống trụy lạc. Ở những tác phẩm
này, người ta thường thấy có một nhân vật “tôi” hoang mang bế tắc, tìm cách thoát
li trong đàn hát, trong rượu và thuốc phiện. Trong tình trạng khủng hoảng tinh thần
ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục niềm khao khát
một thế giới tinh khiết, thanh cao, được nâng đỡ trên đôi cánh của nghệ thuật (Chiếc
lư đồng mắt cua).

- Lòng yêu nước và thái độ bất mãn với xã hội thực dân đã đưa Nguyễn
Tuân đến với cách mạng và kháng chiến. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông
chân thành đem ngòi bút phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, theo sát từng nhiệm
vụ chính trị của đất nước. Nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ trên

3
cương vị của một nhà văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc
đáo của mình. Ông đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo và
đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân lao động trong chiến
đấu và sản xuất.

c. Phong cách nghệ thuật:

• Trước Cách mạng tháng Tám:

Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ
“ngông”. Ngông là thái độ khinh đời, ngạo đời, dựa trên tài hoa, sự uyên bác và
nhân cách hơn đời của mình. Ngày xưa, Nguyễn Công Trứ có câu thơ rất ngông:

Trời đất cho ta một cái tài

Giắt lưng dành để tháng ngày chơi.

(Cầm kì thi tửu, bài 1)

- Nguyễn Tuân là một người tài hoa uyên bác. Sự thật đó được chứng minh
ở các điểm sau:

+ Tiếp cận mọi sự vật ở mặt văn hóa thẩm mĩ để khám phá và...
khen chê. Nguyễn Tuân luôn say mê truy tìm vẻ đẹp độc đáo của con người và cuộc
sống.

+ Vận dụng trí thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật để quan
sát hiện thực, sáng tạo hình tượng.

+ Nhìn người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, tạo nên những nhân
vật tài hoa để... đem đối lập với những con người bình thường, phàm tục. Con người
trong văn Nguyễn Tuân bao giờ cũng đẹp với vẻ tài hoa nghệ sĩ trong nghề nghiệp
của mình. Với Nguyễn Tuân những người bình thường khi thực hiện những công
việc bình thường trong phạm vi nghề nghiệp mà họ đang làm nếu đạt tới một trình
4
độ tinh xảo, nhuần nhuyễn, khéo léo mà người khác khó lòng theo kịp thì được coi
là một kẻ tài hoa: “mĩ thuật vốn không có bà con luận lí với thời đại, một thằng ăn
cắp cũng trở lên đẹp đẽ khi nó cắt túi người ta rất gọn, rất nhanh”.

+ Tô đậm cái phi thường, gây cảm giác mãnh liệt dữ dội. Nguyễn
Tuân thường miêu tả những cảnh đẹp tuyệt mĩ, tuyệt đích; cái đẹp ấy là sự hội tụ
của cái đẹp thi vị trữ tình và vẻ đẹp hoành tráng dữ dội đến dữ dằn.

- Nguyễn Tuân là một con người có nhân cách đạo đức hơn đời: chỗ dựa ở
thái độ “ngông” của ông không chỉ ở sự tài hoa uyên bác mà còn ở tính cách
“ngông” của ông. Cái gốc của nhân cách đạo đức của Nguyễn Tuân là lòng yêu
nước, tinh thần dân tộc, niềm tha thiết với cái đẹp của văn nghệ, của phong tục tập
quán, của thiên nhiên và những thú chơi tao nhã.

• Sau Cách mạng tháng Tám

- Sự vận động, đổi mới trong phong cách nghệ thuật tồn tại song song với
tính thống nhất, ổn định của phong cách nghệ thuật. Quy luật sáng tạo đòi hỏi người
nghệ sĩ phải biết vượt lên chính mình và không được giẫm lên dấu chân người khác.
Phong cách Nguyễn Tuân cũng có sự vận động theo chiều hướng tích cực ấy. Trước
và sau Cách mạng là cả một sự thay đổi kì diệu trong văn ông. Cách mạng đã giải
thoát cho tâm hồn và nghệ thuật Nguyễn Tuân, hướng nhà văn tới cuộc sống và
nhân dân.

- Sau Cách mạng, Nguyễn Tuân không còn nhấm nháp, say sưa chắt chiu cái
đẹp trong những tiểu thế giới tù túng, chật hẹp nữa. Nhà văn cảm nhận được cái
khỏe đẹp, rộng rãi, bao la của đất trời đổi mới. Cái nhìn của nhà văn với cuộc sống,
con người trở nên đôn hậu hơn. Quan niệm của ông về cái đẹp vì thế mà bớt đi sự
phù phiếm, phiến diện, từng bước tiếp cận với cái đẹp chân chính và tiến bộ. Ông đi
tìm cái đẹp trong con người lao động bình thường. Ông lái đò sông Đà trong tuỳ bút
Người lái đò Sông Đà cũng là một con người như thế. Miêu tả tư thế vượt thác hiên
5
ngang, anh dũng của ông lái đò, Nguyễn Tuân ca ngợi phẩm chất của người lao
động thời đại mới, chủ động trước thiên nhiên, dám tấn công vào những thế lực dữ
dội nhất của thiên nhiên. Đây là khám phá mới mẻ, độc đáo của Nguyễn về hình ảnh
con người mới.

- Nếu như trước Cách mạng, Nguyễn Tuân có cái “ngông”, “khinh bạt”,
“ngạo đời” với xung quanh thì nay ông dùng cái nhìn ấy để đả kích, tấn công kẻ thù.
Nhà văn để dành lối khinh bạt ấy cho thực dân Pháp nhằm đả kích, mỉa mai chưa hề
bao giờ tôi thấy dòng sông Đà đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ
mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây lếu láo mà cứ như thế mà phết vào bản
đồ lai chữ (Người lái đò sông Đà). Sự thay đổi sắc sảo trong ngòi bút Nguyễn Tuân
cũng là kết quả của quá trình “lột xác” đầy đau đớn của ông.

- Trước và sau Cách mạng có sự thay đổi lớn trong thể loại văn Nguyễn
Tuân. Nếu như trước Cách mạng, ở các tập truyện ngắn Nguyễn Tuân được coi là
bậc thầy với những nét độc đáo, riêng biệt thì nét phong cách này được thể hiện rõ
trong Chữ người tử tù – một truyện ngắn gần đạt tới sự toàn mĩ (Vũ Ngọc Phan).
Sau Cách mạng, thể loại tuỳ bút phát triển mạnh mẽ hơn, Người lái đò sông Đà là
một trong những thành công xuất sắc của tuỳ bút Nguyễn Tuân. Có thể nói trong thể
loại tuỳ bút trong làng văn Việt Nam đã xuất hiện Thạch Lam, Vũ Bằng… nhưng
chưa ai theo kịp được “thể phách Nguyễn Tuân”.

Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ
văn học Việt Nam. Ông có một kho từ vựng phong phú và một khả năng tổ chức câu
văn xuôi đầy giá trị tạo hình, lại có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng.
Nhận xét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Anh Đức viết: Không biết chừng
nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của
ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo, vô song mà mỗi dòng,
mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng.

6
2. Tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tuỳ bút Sông Đà (xuất bản
lần thứ nhất năm 1960) - gồm mười lăm bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác
thảo.

- Tác phẩm Sông Đà được viết trong thời kì xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế đầy hào hứng và gian khổ khi lên
mảnh đất Tây Bắc rộng lớn và xa xôi, không chỉ để thỏa mãn cơn đói của thú xê
dịch mà chủ yếu là tìm “chất vàng” của thiên nhiên và “chất vàng mười” đã qua thử
lửa của con người lao động và chiến đấu của miền đất Tây Bắc của nhà văn. Nguyễn
Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các
dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn
nguồn cảm hứng sáng tạo.

Người lái đò Sông Đà là một trong những áng văn tiêu biểu nhất của tập
Sông Đà.

b. Chủ đề

- Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vĩ và tuyệt vời thơ mộng,
Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông
gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc”.

- Qua Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã
khắc họa những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước
qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện
và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới: chất vàng
mười của đất nước trong xây dựng Chủ nghĩa xã hội qua hình ảnh người lái đò sông

7
Đà. Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng,
đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.

c. Lí do Nguyễn Tuân chọn sông Đà làm đối tượng miêu tả

- Sông Đà là con sông có nét riêng độc đáo mà các sông khác không có:

Chúng thuỷ giai đông tẩu

Đà giang độc bắc lưu.

(Mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông

Chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc).

- Và để làm nổi bật các ngôn từ nóng bỏng sự sống trong văn Nguyễn Tuân,
để rồi khai sinh dòng sông nghệ thuật của mình bằng một cái tên đầy đủ với sự đối
chọi giữa hai tính cách “hung bạo và trữ tình” của sông Đà.

 Con sông độc lạ thích hợp với ngòi bút độc lạ.

3.. Nội dung

Người lái đò Sông Đà là một áng văn đẹp thể hiện những nét đặc sắc nhất
trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, một nhà văn tài hoa uyên bác luôn
quan sát, khám phá, diễn tả thế giới ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ; miêu tả con
người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Với việc thể hiện nhuần nhuyễn những nét
phong cách ấy, tác phẩm đã thực sự thành công khi phát hiện và miêu tả chất vàng
trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc cùng chất vàng mười
quý giá trong tâm hồn, tính cách những người lao động bình dị miền Tây Bắc.

Tùy bút Người lái đò Sông Đà đã trở thành một thiên anh hùng ca ca ngợi vẻ
đẹp hào tráng của con người trong cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên.

4. Nghệ thuật đoạn trích

8
- Nguyễn Tuân sử dụng những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất
ngờ và thú vị.

- Nguyễn Tuân sử dụng vốn từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức
gợi cao. Câu văn đa dạng, giàu nhịp điệu, co duỗi nhịp nhàng, có lúc hối hả, gân
guốc, có lúc chậm rãi trữ tình

- Nguyễn Tuân đã tạo được tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ rõ phẩm
chất của mình.

- Vốn kiến thức uyên bác của tác giả thuộc nhiều ngành: lịch sử, thơ ca, hội hoạ,
quân sự, thể thao... đã đem đến cho người đọc những trang viết hấp dẫn, lý thú.

5. Một số nhận định

-Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân
không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức.

(Vũ Ngọc Phan)

-Ðây là một nhà văn “suốt đời đi tìm cái Ðẹp, cái Thật” (Nguyễn Ðình Thi), tự nhận
mình là người “sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa”.

- “Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm
bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh
bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa”

- Giáo sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận định : “Hạt nhân của phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông vừa có màu sắc cổ
điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những Nguyễn Khuyến, Tú
Xương, Tản Ðà,… và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn ; vừa mang dáng
vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội tư sản phương

9
Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyết hiện ..”

- Ông xứng đáng được mệnh danh là “chuyên viên cao cấp tiếng Việt”, là “người
thợ kim hoàn của chữ” (Ý của Tố Hữu), Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở
thành trì cái Ðẹp là biểu hiện sinh động của một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn
Nguyễn Tuân “đặc Việt Nam” (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan) từ quan niệm cho tới
thực tế sáng tác.

- Đọc Người lái đò Sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của
một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ… Khi gân guốc, khi mềm mại,
khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, những
trang viết, những câu văn của Nguyễn Tuân mang hơi thở ấm nóng của cuộc đời
phức tạp, phong phú, đa dạng. Sự tự ý thức sâu sắc về tài năng của mình không phải
là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự giải phóng năng lượng rất cần thiết
để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác phẩm kì vĩ…”. (Phan Huy Đông, in trong
Vẻ đẹp văn học cách mạng).

- “… Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri,
vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi
và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau như tác giả nói – “hung
bạo và trữ tình…” .

(Nguyễn Đăng Mạnh)

-“… Nguyễn Tuân – một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới
lạ, nồng nàn, say đắm…”.

(Nguyễn Đăng Mạnh)

B. LỆNH PHỤ

10
1. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn
Tuân.
- Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện về người
lao động mới. Ông đò tiêu biểu là người anh hùng, cũng là nghệ sĩ trong môi trường
làm việc và trong công việc của mình khi dám đương đầu với thử thách và đạt tới
trình độ điêu luyện trong công việc. Nhà văn đã phát hiện ra “chất vàng mười đã qua
thử lửa” của ông đò bằng phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác với thể tuỳ bút
vừa giàu tính hiện thực, vừa tràn ngập cái tôi phóng túng đầy cảm hứng, say mê…
- Qua cách nhìn nhân vật ông đò, nhà văn bày tỏ tình cảm yêu mến, trân trọng, tự
hàovề con người lao độngViệt Nam. Nếu trước đây, ông thường khắc họa người anh
hùng trong chiến đấu, người nghệ sĩ trong nghệ thuật và thuộc về quá khứ “vang
bóng một thời” thì đến tác phẩm này, ông tìm thấy anh hùng và nghệ sĩ ngay trong
con người lao động thường ngày, trong công việc bình thường và trong nghề nghiệp
cũng bình thường. Nguyễn Tuân còn khẳng định với chúng ta rằng chủ nghĩa anh
hùng cách mạng đâu phải chỉ dành riêng cho cuộc chiến đấu chống ngoại xâm mà
còn thể hiện sâu sắc trong việc xây dựng đất nướcvà chinh phục thiên nhiên.
2. Nhậnxétchất thơ thểhiện trong đoạntrích Sông Đà
- Biểuhiện: chất thơ trong đoạn trích thể hiện:
+Cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông: Sông Đà như một
người gái đẹp của núi rừng Tây Bắc với mái tóc dài, thật dài, mượt mà, tha thướt,
gài buông lơi những bông hoa ban trắng ngần hay những bông gạo đỏ rực, thấp
thoáng ẩn hiện giữa núi rừng mùa xuân mù sương khói.
+Vẻ tinh khôi, non tơ của nương ngô nhú lá non đầu mùa, của những vạt đồi cỏ
gianh đang ra nõn búp; vẻ lặng tờ, tịnh không một bóng người, hoang dại, hồn nhiên
của đôi bờ biền bãi.
+Ở xúc cảm tinh tế của tác giả trước dòng sông thơ mộng, trữtình: cảm giác
đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân sau chuỗi ngày chia biệt; cảm giác thấy thèm

11
được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đườngsắt Phú
Thọ - Yên Bái - Lai Châu...
+Ở những so sánh, liên tưởng thú vị độc đáo của Nguyễn Tuân: Sông Đà như
một người con gái đẹp, như một cố nhân, nước Sông Đà đổi màu liên tục qua mỗi
mùa trong năm.
- Ý nghĩa: Chất thơ trong tuỳ bút của Nguyễn Tuân là một phần trong nội dung
phong cách tài hoa, uyên bác của ông. Ông để lại ấn tượng đặc biệt về một con sông
đầy cá tính, mang tính cách của con ngườivới hai nét độc đáo, đối lập mà thống
nhất: hung bạo và trữ tình.Qua đó, ta thấy nhà văn có công đi tìm cái đẹp- chấtvàng
thiên nhiên Tây Bắc để ca ngợi. Thiên nhiên là sản phẩm nghệ thuật vô giá, là công
trình mĩ thuật của tạo hoá đã ban tặng cho con người.Đócũngchính là tình yêu Tổ
quốc mà nhà văn cách mạng Nguyễn Tuân đã gửi gắm qua trang tuỳ bút của mình.
3. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn
Tuân
- Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện về người
lao động mới. Ông đò tiêu biểu là người anh hùng, cũng là nghệ sĩ trong môi trường
làm việc và trong công việc của mình khi dám đương đầuvới thử thách và đạt tới
trình độ điêu luyện trong công việc. Nhà văn đã phát hiện ra “chất vàng mười đã qua
thử lửa” của ông đò bằng phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác với thể tuỳ bút
vừa giàu tính hiện thực, vừa tràn ngập cái tôi phóng túng đầy cảm hứng, say mê…
- Qua cách nhìn nhân vật ông đò, nhà văn bày tỏ tình cảm yêu mến, trân trọng, tự
hàovề con người lao độngViệt Nam. Nếu trước đây, ông thường khắc họa người anh
hùng trong chiến đấu, người nghệ sĩ trong nghệ thuật và thuộc về quá khứ “vang
bóng một thời” thì đến tác phẩm này, ông tìm thấy anh hùng và nghệ sĩ ngay trong
con người lao động thường ngày, trong công việc bình thường và trong nghề nghiệp
cũng bình thường. Nguyễn Tuân còn khẳng định với chúng ta rằng chủ nghĩa anh

12
hùng cách mạng đâu phải chỉ dành riêng cho cuộc chiến đấu chống ngoại xâm mà
còn thể hiện sâu sắc trong việc xây dựng đất nướcvà chinh phục thiên nhiên.
4 Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của hình tượng sông Đà
- Sông Đà như một áng tóc trữ tình hình mềm mại, hiền hòa; mượt mà, duyên dáng,
yêu kiều như áng tóc của người con gái. Trên nền thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, SĐ
toát lên nét ẩn hiện, hư ảo, nên thơ.
- Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc
nước: khi thanh khiết thơ mộng, khi đậm nét hư ảo, mơ màng cổ xưa; khi giận dữ
nỗi niềm bực bội.
- Sông Đà như một cố nhân gần gũi đầm ấm, một cá tính mãnh liệt, hấp dẫn, đi xa
thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết.
- Nghệ thuật: Quan sát công phu; câu văn dài phóng túng, giọng điệu nhẹ nhàng,
giàu chất thơ; nghệ thuật so sánh, liên tưởng, nhân hóa tài hoa độc đáo; ngôn ngữ
giàu hình ảnh…
5. Cái tôi trữ tình thể hiện trong đoạn trích
- Đam mê cái đẹp thiên nhiên; ngợi ca, tự hào trước vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của
Tây Bắc; cái tôi yêu nước, hòa nhập với cuộc sống mới, con người mới.
- Cái tôi uyên bác, tài hoa với thể tùy bút phóng túng
Từ đó làm nổi bật nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
Qua việc ngợi ca vẻ đẹp độc đáo của dòng Sông Đà, tác giả đã thể hiện tình yêu
thiên nhiên,yêu đất nước,thiết tha của mình.
Qua đó làm nổi bật lên phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân: sự độc
đáo, tài hoa,uyên bác của một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân luôn
nhìn nhận mọi sự vật,sự việc dưới phương diện thẩm mỹ, luôn đi tìm cảm hứng
trong sáng tạo nghệ thuật,tô đậm những cái phi thường để tạo cảm giác mãnh liệt
gây ấn tượng.
6. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:

13
- Nguyễn Tuân là người tài hoa, luôn nhìn nhận, đánh giá cảnh vật và con người ở
phương diện cái đẹp và góc độ mĩ thuật và tài hoa. Sông Đà hiện lên với vẻ đẹp kì vĩ
và là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá, còn người lái đò như một
nghệ sĩ trong việc vượt thác ghềnh.
- Nhà văn đã vận dụng những tri thức ở nhiều lĩnh vực như lịch sử, địa lí, quân sự…
để viết về con Sông Đà hung dữ mà thơ mộng.
- Văn phong Nguyễn Tuân phóng túng, ngôn ngữ điêu luyện và phong phú, hình ảnh
giàu liên tưởng bất ngờ, độc đáo. “Người lái đò Sông Đà” thể hiện sở trường ở thể
loại tuỳ bút của ngòi bút Nguyễn Tuân.
7. Nhận xét nhận xét phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân
- Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: Ông không
chấp nhận sự sáo mòn. Ông luôn tìm kiếm những cách thức thể hiện, những đối
tượng mới mẻ. Nhà văn luôn tiếp cận sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, có ấn
tượng với những sự vật gây cảm giác mạnh (Sông Đà là một sinh thể như vậy). Tác
giả bộc lộ sự tinh vi trong mĩ cảm với trường liên tưởng phong phú, ngôn ngữ vừa
phong phú vừa tinh tế.Một cái tôi uyên bác khi huy động mọi kiến thức thuộc nhiều
lĩnhvực khác nhau để khắc họa hình tượng sông Đà.
- Ý nghĩa: Qua phong cách tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân là là nhà văn có ý
thức tự khẳng định cá tính độc đáo của mình. Chứng tỏ ông là người có một lòng
yêu quê hương đất nước tha thiết, một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh, một
trí thức tâm huyết với nghề. Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn phẩm chất, cốt cách
của con người đáng quý này.
8. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn
Nguyễn Tuân
- Biểu hiện: Nhà văn nhìn Sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà là con
sông có linh hồn, có cá tính như con người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ; khám phá vẻ

14
đẹp của dòng sông ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn chương, kết hợp với nhiều
ngành nghệ thuật khác như âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh, đầy ấn tượng.
- Ý nghĩa: Qua hìnhtượng Sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết
đối với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật
vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả Sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự
tài hoa, uyên bác và lịch lãm. Hình tượng Sông Đà là phông nền cho sự xuất hiện và
tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới.
9. Nhận xét “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của người lao động miền Tây Bắc
mà Nguyễn Tuân đang tìm kiếm
- Qua cuộc chiến đấu giữa ông đò với sóng nước sông Đà, tác giả ca ngợi vẻ đẹp của
người lao động miền Tây Bắc. Đó là vẻ đẹp của sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý
chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống và vẻ đẹp của sự tài
trí, tài hoa, giàu kinh nghiệm. Đây chính là “thứ vàng mười đã qua thử lửa”của
người lao động miền Tây Bắc mà Nguyễn Tuân đang tìm kiếm.
- Qua nhân vật ông đò cho thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận con người của
Nguyễn Tuân sau cách mạng: Trước cách mạng, con người Nguyễn Tuân hướng tới
ca ngợi là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau cách
mạng, nhân vật tài hoa của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong công cuộc
chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân.
- Cái tôi tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân
+ Thể hiện những rung động, say mê của nhà văn trước sự hùng vĩ của thiên nhiên.
+ Ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở sự vận dụng kiến thức sách
vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú; ở sự giàu có về chữ
nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành điện ảnh, thể thao...được huy động
một cách linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và ấn tượng những cảm giác về
đối tượng.

15
+ Đây cũng chính là một cách thể hiện tình yêu quê hương đất nước, lòng yêu cái
đẹp của người nghệ sĩ chân chính; đồng thời cũng cho thấy quan niệm của Nguyễn
Tuân: viết văn là để khẳng định sự đọc đáo của chính người cầm bút.
10. Nhận xét chất thơ thể hiện trong đoạn trích sông Đà trữ tình
- Biểu hiện: chất thơ trong đoạn trích thể hiện:
+Cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông: Sông Đà như một
người gái đẹp của núi rừng Tây Bắc với mái tóc dài, thật dài, mượt mà, tha thướt,
gài buông lơi những bông hoa ban trắng ngần hay những bông gạo đỏ rực, thấp
thoáng ẩn hiện giữa núi rừng mùa xuân mù sương khói.
+Vẻ tinh khôi, non tơ của nương ngô nhú lá non đầu mùa, của những vạt đồi cỏ
gianh đang ra nõn búp; vẻ lặng tờ, tịnh không một bóng người, hoang dại, hồn nhiên
của đôi bờ biền bãi.
+Ở xúc cảm tinh tế của tác giả trước dòng sông thơ mộng, trữtình: cảm giác đằm
đằm ấm ấm như gặp lạicố nhân sau chuỗi ngày chia biệt; cảm giác thấy thèm được
giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt PhúThọ
- Yên Bái - Lai Châu...
+Ở những so sánh, liên tưởng thúvị độc đáo của Nguyễn Tuân: Sông Đà như
một người con gái đẹp, như một cố nhân, nước Sông Đà đổi màu liên tục qua mỗi
mùa trong năm.
- Ý nghĩa: Chất thơ trong tuỳ bút của Nguyễn Tuân là một phần trong nội dung
phong cách tài hoa, uyên bác của ông. Ông để lại ấn tượng đặc biệt về một con sông
đầy cá tính, mang tính cách của con người với hai nét độc đáo, đối lập mà thống
nhất: hung bạo và trữ tình. Qua đó, ta thấy nhà văn có công đi tìm cái đẹp- chấtvàng
thiên nhiên Tây Bắc để ca ngợi. Thiên nhiên là sản phẩm nghệ thuật vô giá, là công
trình mĩ thuật của tạo hoá đã ban tặng cho con người.Đó cũng chính là tình yêu Tổ
quốc mà nhà văn cách mạng Nguyễn Tuân đã gửi gắm qua trang tuỳ bút của mình.
11.Cái Tôi của nhà văn Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạn trích:

16
- “Cái tôi” tài hoa thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ đẹp
hùng vĩ của thiên nhiên đất nước; Tất cả đã cho ta thấy ở Nguyễn Tuân một “cái tôi”
tài hoa, tinh tế.
- “Cái tôi” uyên bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở
sự vận dụng kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong
phú; ở sự giàu có về chữ nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành quân sự,
điện ảnh, thể thao,… được huy động một cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một
cách chính xác và ấn tượng những cảm giác về đối tượng.
- “Cái tôi” tài hoa và uyên bác chính là một cách thể hiện tình yêu quê hương đất
nước, lòng yêu cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính.
12. Nhận xét nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
- Qua đoạn văn, ta thấy được nét độc đáo trong nghệ thuật miêu tả của Nguyễn
Tuân.
+ Hình ảnh sông Đà hung dữ ở một mức độ ghê gớm, hơn tất cả mọi con sông đã
được tái hiện trong văn học, là bởi vì cảm quan sáng tác của Nguyễn Tuân chỉ hứng
thú với những vẻ đẹp vượt lên mức bình thường, gây ấn tượng mãnh liệt.
+ Ngòi bút miêu tả của Nguyễn Tuân khi miêu tả sông Đà càng trở nên độc đáo bởi
cách dùng từ chính xác, với câu văn có kết cấu trùng điệp, đặc biệt với nghệ thuật so
sánh, nhân hóa, liên tưởng bất ngờ và ấn tượng.
+ Kết hợp với đó là vốn kiến thức phong phú ở nhiều lĩnh vực khác nhau, chính sự
uyên bác của Nguyễn Tuân khiến cho văn phong của ông càng trở nên độc đáo.
- Chính nét độc đáo kết hợp với sự tài hoa và uyên bác trong ngòi bút Nguyễn Tuân
khiến cho hình tượng sông Đà trở nên đặc sắc và đáng nhớ.
13. Nhận xét nét độc đáo trong tùy bút của Nguyễn Tuân.
- Đoạn trích cũng như tùy bút “Người lái đò Sông Đà” thể hiện sâu sắc nghệ thuật
viết tùy bút độc đáo, tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm
cái đẹp, đó là:

17
+ Luôn nhìn sự vật ở phương diện thẩm mỹ
+ Thể hiện rõ nét tài hoa, uyên bác qua ngôn ngữ phong phú, giàu chất hội họa: diễn
tả được mọi sắc thái, mọi cung bậc, hình thù, màu sắc của Sông Đà.
+ Sức liên tưởng phong phú, vận dụng kiến thức nhiều nghành, nhiều lĩnh vực …
 Nét độc đáo của tùy bút Nguyện Tuân tạo nên những trang viết độc đáo giàu giá
trị nghệ thuật cao.
14. Bình luận ngắn gọn nét độc đáo trong cách miêu tả sông Đà nói riêng, thiên
nhiên Tây Bắc nói chung của nhà văn Nguyễn Tuân.
- Nhà văn nhìn Sông Đà không chỉ là một dòng sông tự nhiên, vô tri vô giác mà còn
là một sinh thể có sự sống, có tâm hồn, tình cảm. Với Nguyễn Tuân, sông Đà nói
riêng, thiên nhiên Tây Bắc nói chung cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của
tạo hóa. Vẻ đẹp của Sông Đà hòa quyện vào vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc nên càng
trở nên đặc biệt. …
- Cách miêu tả độc đáo này cho thấy Nguyễn Tuân có sự gắn bó sâu nặng, tình yêu
mến tha thiết đối với thiên nhiên Tây Bắc, với quê hương đất nước, đồng thời cho
thấy được ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm của ông.
15. Nhận xét những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả của nhà văn Nguyễn
Tuân
- Đoạn trích đã cho thấy công phu lao động nghệ thuật nghiêm túc, khó nhọc
của nhà văn. Nguyễn Tuân đã phải dành nhiều tâm huyết và công sức để làm hiện
lên những vẻ đẹp và sắc thái khác nhau của thiên nhiên Tây Bắc.
- Nhà văn đã huy động tối đa các giác quan thị giác, xúc giác, thính giác và vận
dụng tri thức của nhiều lĩnh vực để tái hiện hình ảnh sông Đà gây ấn tượng mạnh
mẽ với người đọc
- Nhà văn cũng đã thể hiện tài năng điêu luyện của một người nghệ sĩ ngôn từ
trong việc tái tạo những kì công của tạo hóa.

18
16. Bình luận về cách nhìn, cách miêu tả thiên nhiên của nhà văn Nguyễn Tuân
qua việc “tìm kiếm chất vàng” của thiên nhiên Tây Bắc
- Nguyễn Tuân đến Sông Đà với mục đích trước tiên là tìm chất vàng của
thiên nhiên. Đằng sau những biểu hiện hung bạo của Đà giang, nhà văn phát hiện
ra vẻ đẹp hoang dại, hùng vĩ và tiềm năng thủy điện to lớn của Sông Đà. Khi
nghĩ đến những tuyếc-bin thủy điện, có lẽ nhà văn đã dự cảm được vị trí, vai trò
của Đà giang trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
- Dưới cái nhìn của Nguyễn Tuân, thiên nhiên không thuần túy là thiên nhiên, mà
thiên nhiên cũng là một sản phẩm nghệ thuật vô giá của tạo hóa. Vì thiên nhiên
chính là phông, nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp con người - người lái đò
trên dòng sông hung bạo.
- Chất thơ hay còn gọi là “thi vị” tức là có tính chất gợi cảm và gây hứng thú trong
thơ. “Chất thơ” có thể hiểu là một khía cạnh của cảm hứng thẩm mĩ nhân văn, phải
gắn với cái đẹp. Cái đẹp có thể là do tự nhiên mang lại như cảnh mây trắng nhởn
nhơ bay trên bầu trời xanh thẳm, tạo ra cảm giác dễ chịu cho người ngắm nhìn.
Hoặc, “chất thơ” cũng có thể tạo ra từ những tình cảm, hành động của con người
như: Sự nhớ nhung, sự uyển chuyển của các điệu múa...”(Đỗ Lai Thúy)
- Nói một tác phẩm văn xuôi có chất thơ tức là những ý văn, câu văn, đoạn văn tạo
nên sự rung cảm trước cái đẹp của thiên nhiên, cuộc sống con người và nó có khả
năng truyền những rung cảm ấy đến với người đọc. Ở văn xuôi chất thơ có ở trong
nhiều cấp độ: từ ngữ; bức tranh thiên nhiên; hình tượng nhân vật vượt lên trên thực
tại của đời sống, của hoàn cảnh để hướng đến vẻ đẹp của nhân cách, tâm hồn.
- Với tài năng nghệ thuật của một nhà văn, đôi mắt của một họa sĩ và sự nhạy cảm,
tinh tế của một tâm hồn yêu cái đẹp, ưa “xê dịch” kết hợp sự liên tưởng phong phú,
độc đáo, Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà như một công trình nghệ thuật của tạo hóa.
- Qua đó tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên đất nước, niềm tự hào về cảnh sắc quê
hương tươi đẹp, một biểu hiện của tình yêu nước.

19
- Xây dựng hình tượng Sông Đà Nguyễn Tuân thể hiện phong cách nghệ thuật tài
hoa, uyên bác:
+ Nhìn sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mỹ, tô đậm cái phi thường, tuyệt vời
của cảnhvật.
+ Vận dụng kiến thức của nhiều ngành khác nhau để xây dựng hình tượng con
sông.
17.Nhận xét “cái tôi” của Nguyễn Tuân
- Giải thích khái niệm “cái tôi”
+ “Cái tôi” ở đây chính là phong cách nghệ thuật.
+Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối
ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên
cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào
lưu văn học hay văn học dân tộc. Chỉ những nhà văn tài năng, có bản lĩnh mới có
được phong cách riêng độc đáo. Cái nét riêng ấy thể hiện ở các tác phẩm và được
lặp đi lặp lại trong nhiều tác phẩm của nhà văn làm cho ta có thể nhận ra sự khác
nhau giữa nhà văn này với nhà văn khác. Trong các sáng tác của một nhà văn, cái
riêng tạo nên sự thống nhất lặp lại ấy biểu hiện tập trung ở cách cảm nhận độc đáo
về thế giới và ở hệ thống bút pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy. Phong
cách của nhà văn cũng mang dấu ấn của dân tộc và của thời đại.
- Nhận xét về “cái tôi” của Nguyễn Tuân thể hiện qua đoạn trích:
+Cái tôi tài hoa, uyên bác: vốn sống phong phú và trí tưởng tượng dồi dào tạo
nên những trang viết hết sức độc đáo và có giá trị nghệ thuật cao.
+Cái tôi với tài năng điêu luyện trong việc sử dụng ngôn từ.
+Cái tôi kín đáo thể hiện tình cảm yêu nước tha thiết và niềm say mê, tự hào
với thiên nhiên của quê hương, xứ sở mình.

C. GỢI Ý GIẢI ĐỀ:


20
Đề 1: Phân tích hình ảnh con sông Đà trong bài ký Người lái đò Sông Đà để
làm sáng tỏ phong cách nghệ thuật dặc sắc của Nguyễn Tuân.

Gợi ý.

A. Đặt vấn đề.

- Nguyễn Tuân - một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác say mê những vẻ đẹp lạ thường.

- Bài ký tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân được rút từ tập Sông
Đà - kết quả của chuyến lên Tây Bắc vào năm 1958 của nhà văn này.

- Con sông Đà một hình ảnh nổi bật trong bài ký. Qua khám phá miêu tả của nghệ sĩ
tài hoa uyên bác Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như một nhân vật có lai lịch, có
tính cách, tâm trạng. Dòng sông hung bạo dữ dằn lạ thường mà cũng thơ mộng, trữ
tình lạ thường.

B. Giải quyết vấn đề.

I. Tính cách hung bạo, hùng vĩ.

- Lai lịch: “ Nó khai sinh ở huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam bên Trung Quốc lấy
tên là Li Tiên, đi qua một vùng núi ác, rồi đến gần nửa đường thì xin nhập quốc tịch
Việt Nam, trưởng thành mãi lên và đến ngã ba Trung Hà thì chan hòa vào sông
Hồng”.

- Sông Đà lôi cuốn Nguyễn Tuân bằng vẻ đẹp của khí phách, ngang tàng , phóng
túng, khác thường “ Chúng thủy giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu”. nghĩa là : mọi
dòng sông đều chảy về đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng bác. Sông Đà không
chịu khuôn mình vào hướng chảy thông thường mà vượt lên, bứt phá để bộc lộ cá
tính hung bạo, dữ dội của mình.

1. Hung bạo ở chỗ đôi bờ xích gần nhau, làm cho lòng sông hẹp lại như cái yết
hầu thắt lại giữa hai vách đá dựng đứng, hiểm trở: “ Ở đây con nai, con hổ đã
21
có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang
mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng
vọng lên một khung cửa sổ nhà nào, trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt
phụt đèn điện”.

 Chỉ là cảnh đá bờ sông dựng vách thành mà Nguyễn Tuân đã so sánh, miêu tả nó
thật tỉ mỉ, phong phú, chính xác đến bất ngờ, lạ lùng và ấn tượng.

2. Cảnh ghềnh đá và sóng gió mênh mang.

- Hùng bạo ở cái dữ dằn của gió: “ Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng
cây số”, gió phối hợp với nước, với đá, với sóng tạo nên những cơn xoáy thật kinh
hãi: “ Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghê suốt năm
như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đây”.

- Cách tả, cách nhân hóa sự vật sinh động, hấp dẫn đến kì thú.

3. Cảnh hút nước ( xoáy nước ) sông Đà.

- “ Hút nước xoáy tít đáy lừ lừ như cánh quạ đàn... sâu như giếng bê tông thả xuống
sông để chuẩn bị làm móng cầu”.

Nước ở đó cứ “ ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”.

 Đúng là con sông Đà không khác gì một loài hung thú, đi đến đâu là gieo giắc tử
khí đến đó.

- “ Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy... Nhiều bè gỗ rừng đi
nghênh ngang vô ý là những cái giếng ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị
cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và
ngâm xuống lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới”.

 Cách so sánh, ví von, mô tả của tác giả gây cảm giác rất mạnh làm cho người đọc
như nghe thấy được, nhìn thấy được cái hung dữ của sông Đà mà thót tim lại.
22
- Nhà văn còn tạo cảm giác vừa lạ, vừa rùng rợn, sợ hãi qua tưởng tượng, một
anh bạn quay phim ngồi vào chiếc thuyền thúng để hút nước, hút cả người cả
máy xuống tận đáy, từ đó anh ta “ lia máy quay ngược lên vách thành hút nước
mà thu cảnh. Cảnh nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc đáy, khối
pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người”. Rồi cảm giác rùng rợn ấy
truyền sang cả người xem, khiến người xem phải “ ghì chặt lấy ghế ngồi như
ghì lấy chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê khổng lồ”.

4. Cảnh thác nước.

- Con sông Đà đã trở thành một loài thủy quái vừa hung ác, vừa nham hiểm. Khi
còn ở xa đã lắng nghe được tiếng nước thác “ như oán trách”, “ như van xin”, rồi lại
như là “khiêu khích”, “ chế nhạo”.

- Nó “ Rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng
vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với
đàn trâu da cháy bùng bùng...”

- Nhận xét:

+ Tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa để phô diễn vẻ đẹp của những âm thanh
phong phú của thác nước. Nó như một linh hồn người chứa chất tâm trạng.

+ Nghệ thuật so sánh tiếng thác nước với “ tiếng một ngàn con trâu mộng” đã lột tả
đến tận cùng cái dữ dội, man dại của dòng thác. Sự hào hứng đã khiến tác giả lấy
lửa để tả nước, lấy ác thú để tả dòng sông. Đó cũng là một cách chơi ngông trong
nghệ thuật của nhà văn.

5. Đá sông Đà: “ kẻ thù số một” của con người.

- Đá mai phục từ ngàn năm, dưới con mắt của Nguyễn Tuân, đá sông Đà không còn
là vật vô tri vô giác mà sống động như một nhân vật.

23
- Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó, đứng ngồi tùy thích.

- Đá kết hợp với nước dữ bày “Thạch trận” như Binh pháp Tôn Tử. Trên sông có
phòng tuyến trước, sau, vòng trong, vòng ngoài, “boong ke chìm và đài nổi”, cửa
sinh thì ít mà cửa tử lại nhiều. Bọn chúng đã “ từ ngàn năm vẫn mai phục”, chỉ chờ
chiếc thuyền nào xuất hiện là “nhổm cả dậy để vồ lấy”; Những tên tướng đá “bệ vệ
oai phong lẫm liệt”, “trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền...”,
“Một hòn đá khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần
vào...”. Nhưng đến khi thua ông lái đò thì “tiu nghỉu”, “ cái mặt xanh le thất vọng...”

 Cả đoạn văn dài mà đặc sắc, với trí tưởng tượng phong phú, với tài năng
uyên bác, Nguyễn Tuân đã vận dụng ngôn ngữ của nhiều ngành khác nhau như
võ thuật, thể thao, quân sự ... để biến đá thành bầy thạch tinh hung hãn, ma
quái trước con người. Ngôn ngữ sống động giàu giá trị tạo hình, phóng túng mà
không tùy tiện. Tất cả được hình thành từ những quan sát cụ thể, tinh tế và độc
đáo của tay bút bậc thầy.

II. Chất trữ tình, thơ mộng.

1. Nhà văn chọn góc độ của người ngồi trên máy bay tạt ngang bầu trời Tây
Bắc mà nhìn xuống.

+ “Cái dây thừng ngoằn ngoèo... Từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng
mây”...

+ “Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuộn cuộn mù khói
núi Mèo đốt nương xuân.

 Cảm nhận thật thơ mộng, tinh tế về con sông.

2. Quan sát cận cảnh, vẻ đẹp đa dạng của sông Đà qua sự thay đổi màu nước
từng mùa trong năm.
24
+ Mùa xuân dòng xanh màu xanh ngọc bích.

+ Mùa thu ... lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu
đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về.

3. Dòng sông Đà mang vẻ đẹp cổ thi.

- Sông Đà được nhà văn nhìn như một “cố nhân”, lắm chứng nhiều tật, lúc dịu dàng,
lúc bẳn gắt thác lũ ngay đấy nhưng khi gặp lại “nó đằm đằm ấm áp, nó đẹp mê hồn
như “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” (xuôi về Dương Châu giữa tháng ba,
mùa hoa khói).

- Niềm vui của tác giả khi gặp lại sông Đà ùa tràn thành nhịp điệu: “Bờ Sông Đà,
bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông vui
như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng... Nó
đầm ấm như gặp lại cố nhân”. Niềm vui trào lên ngọn bút, vẽ lên bức tranh thơ
mộng, sông Đà càng thêm trữ tình, kì thú.

4. Ven sông êm ả, lặng tờ, một vẻ đẹp thấm đẫm chất thơ: “ thuyền tôi trôi trên
sông Đà. Cảnh ven sông Đà qua đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê,
quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Sự yên lặng đến tột cùng, đó là đặc
tính của sông Đà ở quãng trung lưu này. Con sông mang trong mình cả nét cổ kính
thiêng liêng của hồn thiêng sông núi từa ngàn xưa.

5. Cảnh đôi bờ cũng thật kì thú, thiên nhiên trong trẻo nguyên sơ. “ Một nương
ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa... Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp.
Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Con hươu thơ ngộ ngẩng
đầu nhung khỏi áng cỏ sương...”. Dưới sông “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt
sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt
biến”.

25
 Nguyễn Tuân đã mang đến cho người đọc những trang văn tuyệt vời, chưa đến
nhưng ta có thể cảm nhận mọi sự sống đang cựa mình trong hơi thở của vũ trụ bao
la... Tất cả đều thấm đẫm một vẻ tinh khôi mơn mởn, căng tràn nhựa sống. Dòng
sông khi hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích, khi lai láng chất trữ tình của Tản Đà gửi
người tình chưa quen biết... Vẻ đẹp ngôn ngữ của Nguyễn Tuân như thôi miên
người đọc vào mê cung cảnh vật sông Đà đẹp đến say người, gợi bao khao khát về :
“Dải sông Đà bọt nước lênh đênh, bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”.

III. Nghệ thuật.

- Sự khám phá kỹ lưỡng, miêu tả tường tận sông Đà cả về mặt địa lý lịch sử chứng
tỏ vốn tri thức uyên bác, cách sử dụng ngôn ngữ độc đáo của Nguyễn Tuân.

C. Kết thúc vấn đề.

- Tình yêu thiên nhiên, đất nước  “Chất vàng mười thiên nhiên Tây Bắc”.

- Tây Bắc - sông Đà là vùng đất tiềm năng,vùng đất hứa.

- Sông Đà mang vẻ đẹp vừa hùng vĩ, dữ dội như một loài thủy quái; vừa thơ mộng
trữ tình như một nỗi niềm cổ tích thuở xưa.

- Miêu tả hình tượng con sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện được những nét đặc sắc
nhât trong tùy bút của mình. Đó là cách tiếp cận đối tượng từ góc độ thẩm mĩ. miêu
tả đối twongj bằng kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau; đó còn là một cái “tôi”
tài hoa, uyên bác, một lối viết độc đáo không lặp lại.

Đề 2: Phân tích hình tượng ông lái đò trong tác phẩm “ Người lái đò Sông Đà”
để làm rõ những nét độc đáo trong cách miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân.

Gợi ý.

A. Đặt vấn đề.


26
- Nguyễn Tuân không chỉ say sưa với vẻ đẹp “ trữ tình thơ mộng và rất gợi cảm”
của con sông Đà, mà ông còn hết lời ca ngợi nhân vật người lái đò. Bằng ngôn ngữ
giàu có, yinh tế, như khắc, như chạm, với lối cảm nghĩ độc đáo, thích nhìn sự vật và
con người trên quan điểm thẩm mĩ văn hóa, với sự lịch lãm, vốn hiểu biết uyên bác
về nhiều lĩnh vực khoa học, Nguyễn Tuân qua tùy bút đặc sắc “Người lái đò Sông
Đà” ( In trong tập “Sông Đà - 1960), đã xây dựng một hình tượng rất hấp dẫn mang
đậm phong cách Nguyễn Tuân.

- Đến với Tây Bắc không phải để thỏa mãn những “cơ hội giang hồ”, mà Nguyễn
Tuân đi tìm cái đẹp, “cái thứ vàng của màu sắc sông núi Tây Bắc và nhất là cái thứ
vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình
gắn bó với công việc, xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và vững bền” (
Nguyễn Tuân ). Vì vậy cảm hứng chủ đạo trong tùy bút Người lái đò Sông Đà là ca
ngợi Tổ quốc, ca ngợi nhân dân, những người lao động thầm lặng, vô danh mà vĩ
đại. Cảm hứng ấy được thể hiện thật tài hoa, độc đáo qua vẻ đẹp hình tượng người
lái đó sông Đà.

B. Giải quyết vấn đề.

I. Lai lịch, chân dung ngoại hình.

- Ngoại hình: “Tay lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh
gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng mặt ghềnh
sông. Nhãn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào trong sương
mù”.

- Cái nghề tưởng chừng tổn thọ nhưng Nguyễn Tuân đã cải chính một cách hùng
hồn bằng hình ảnh một con người đã gần bảy mươi tuổi, cái đầu đã bạc nhưng còn “
quắc thước “ lắm “ đặt trên một thân hình cao to gọn quánh như chất sừng, chất
mun”, “ ông giơ đôi tay còn trẻ tráng quá” làm cho nhiều người lầm tưởng là “ mình
đang đứng trước một chàng trai”.
27
- Lai lịch: Con người ấy như được sinh ra từ sóng, thác hung dữ của sông Đà. Ông
lái đò tâm sự “Chạy thuyền trên khúc sông không có thác nó dễ dại chân tay và
buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo”.

- Là nhân vật không tên  Đại diện cho con người Việt Nam âm thầm, cần mẫn
trong lao động, không ngừng phải đối mặt với thiên nhiên nghiệt ngã để trở thành
lớn lao, kì vĩ.

II. Vẻ đẹp của hình tượng người lái đò.

1. Vẻ đẹp trí dũng.

a. Cuộc vượt thác lần 1.

- Sông Đà hiện lên như kẻ thù nham hiểm, xảo quyệt, đó là chân trời đá. Đá ở con
thác này mai phục hàng ngàn năm, biết bày binh bố trận như Binh pháp Tôn Tử,
gồm năm cửa trận, trong đó có bốn cửa tử, một của sinh, chia làm ba tuyến: tiền,
trung, hậu vệ ... đòi ăn chết con thuyền đươn độc nhưng ông lái vẫn nhớ mặt từng
đứa.

- Khi thạch trận bày xong, đá phối hợp với thác nước. Thác nước hò la vang dậy làm
thanh viện cho đá. Đá oai phong lẫm liệt, tiến lùi, thách thức. Nước thì như quân
liều mạng đá trái, thúc gối vào bụng, vào hông thuyền, lại như đòi túm lấy thắt lưng
ông đò mà lật ngửa đánh những đòn hiểm độc.

- Hình ảnh ông đò vẫn giữ chặt mái chèo để khỏi bị hất tung ra khỏi trận địa sóng.
Ông cố nén vết thương, mặt méo bệch nhưng vẫn kiên cường vượt qua cơn hỗn
chiến.

 Miêu tả thiên nhiên dữ dội, nguy hiểm chẳng qua là để tôn vinh sức mạnh, lòng
quả cảm của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên.

b. Cuộc vượt thác lần 2.

28
- Khúc sông này nhiều cửa tử chỉ có một cửa sinh. Cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu
ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá.

- Ông đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên con sông như cưỡi lên lưng hổ, ông nắm chắc
bờm sóng, ghì cương bám chắc vào dòng nước, phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết.

- Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước ... liền xô ra định níu thuyền vào cửa tử. Dòng
sông như con thú hoang đang lồng lộn đòi ăn chết con thuyền. Nó là hiện thân của
sức mạnh thiên nhiên khó chế ngự.

- Ông đò dằn mặt từng đứa, nắm chắc quy luật của thần sông thần đá, không hề nao
núng, luôn tỉnh táo, sáng tạo, thay đổi chiến thuật, ứng phó kịp thời. Mặc cho sông
Đà giang hung dữ, ác hiểm, ông vẫn bám chặt dòng sông, bờm sóng, ghì cương lái
như bám chặt vào sự sống.

 Để chiến thắng, ông đò không chỉ dũng cảm mà còn mưu trí. Ông như người anh
hùng trong cuộc vật lộn với thiên nhiên.

c. Cuộc vượt thác lần 3.

- Như đã bị thua ông đò ở hai lần giao tranh trước, trùng vi thứ ba này, dòng thác
càng trở nên điên cuồng, dữ dội hơn. Ít cửa ra vào, bên phải bên trái đều là cửa
tử.Cái luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu vệ sự sống của ông đò càng hết sức mong
manh.

- Chính giữa ranh giới của sự sống và cái chết, người đọc càng thấy tài nghệ chèo đò
vượt thác của ông lái thật tuyệt, ông cứ phóng thẳng, chọc thủng, vút qua cổng đá ...
để rồi chiến thắng vinh quang.

- Ngôn ngữ miêu tả nhanh, gọn mà nhẹ nhàng như ông đò đang lướt trên băng,
khiến người đọc vô cùng cảm phục những con người lao động bình thường, giản dị
mà rất đỗi phi thường.

29
Kết quả:

- Bác lái đò yêu lao động đã chiến thắng thiên nhiên bằng tài trí, dũng cảm, thạo
nghề.

- Khi miêu tả cuộc giao tranh giữa người lái đò và dòng sông hung bạo, nhà văn đã
vận dụng sự hiểu biết về các lĩnh vực thể thao, võ thuật, quân sự, văn hóa, điện ảnh,
cùng với các thủ pháp nhân hóa, so sánh, liên tưởng để cống hiến cho người đọc
những thước phim, cảnh quay bằng nghệ thuật ngôn từ hấp dẫn, thú vị,...

2. Vẻ đẹp tài hoa.

- Ông lái đò là người tài hoa, có phong thái ung dung, pha chút nghệ sĩ. Sóng thác
sông Đà rất khắc nghiệt. Chỉ cần người lái đò một chút thiếu chính xác, một tích tắc
thiếu bình tĩnh, nhỡ tay, hoa mắt là có thể phải tră giá bằng sinh mệnh của mình.
Nhưng sóng thác sông Đà dù có hung dữ đến đâu cũng bị khuất phục trước người lái
đò thời nay. Bởi người lái đò là một nghệ sĩ có nghệ thuật chở đò rất kì diệu.

- Nghệ thuật ấy được bộc lộ ở khả năng hiểu biết tường tận về “ tính nết” của dòng
sông, “ nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả
những con thác hiểm trở”, “ nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, “ thuộc
quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở”, biết rõ từng cửa tử, cửa sinh trên
“ thạch trận” sông Đà. Đặc biệt, ông chỉ huy các cuộc vượt thác một cách tài tình,
khôn ngoan và biết nhìn những thử thách đã qua bằng cái nhìn giản dị mà không
thiếu vẻ lãng mạn...

- Con sông Đà hung dữ là vậy mà ông chỉ coi nó như là một chiếc lá thu, ông đến
với nó như đến với một người bạn lắm chứng nhiều tật, ông hiểu nó, lắng nghe âm
vang của nó, thủy chung với nó. Qua mỗi lần chinh phục, mọi nguy hiểm lại tan
biến: “ Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Họ lại đốt lửa nướng cơm lam, bàn

30
chuyện về cá anh vũ, cá dầm xanh, như không hề có chuyện gì xảy ra, mặc dù ngày
nào họ cũng phải vật lộn, đối mặt. Đó là vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ.

III. Đánh giá về nghệ thuật miêu tả nhân vật.

- Không phân biệt sang - hèn, người lao động trong bất cứ nghề nào cũng đáng kính,
dáng trọng, đáng được tôn vinh - miễn là giỏi giang.

- Nguyễn Tuân chú ý tô đậm nét tài hoa, nghệ sĩ ở người lái đò. Ông đã mở rộng cái
nhìn của mình về con người: ông phát hiện ra nét tài hoa nghệ sĩ của con người lao
động không chỉ thể hiện trong lao động sáng tạo nghệ thuật mà còn cả trong những
hoạt động khác. Nếu như công việc của họ đạt tới trình độ điêu luyện: ví như người
lái đò. Nguyễn Tuân gọi đó là “ Cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí con
người Tây Bắc”.

- Ông lái đò là một hình tượng đẹp về người lao động mới. Qua hình tượng này,
Nguyễn Tuân muốn phát biểu quan niệm: người anh hùng không phải chỉ có trong
chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động thường ngày. Ông lái đò chính là
một người anh hùng như thế.

- Nguyễn Tuân có ý thức tạo nên tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ rõ
phẩm chất của mình. Nhà văn đã miêu tả cuộc vượt thác như một trận “ thủy chiến”.
Càng nhấn mạnh thách thức ghê gớm của “ thạch trận” sông Đà, tác giả càng khắc
họa được sinh động sự từng trải, mưu mẹo và gan dạ của ông lái đò.

- Nguyễn Tuân đã sử dụng một ngôn ngữ đầy cá tính, giàu chất tạo hình, hoàn toàn
phù hợp với đối tượng. tác phẩm có rất nhiều từ dùng mới mẻ cùng lối nhân hóa độc
đáo và những ví von bất ngờ mà vô cùng chính xác: nắm chặt được cái bờm sóng,
ông đò ghì cương lái, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước...

C. Kết thúc vấn đề.

31
- Nguyễn Tuân mang đến cho người đọc một cảm nhận về vẻ đẹp của con người lao
động, CN anh hùng đâu chỉ có ở chiến trường. Nó ở ngay trong cuộc sống của nhân
dân ta hàng ngày phải lao động, vật lộn với thiên nhiên vì bát cơm manh áo và cả
những điều lớn lao hơn thế. Trí dũng, tài hoa, không phải tìm đâu xa, mà ở ngay
trong những con người bình thường, giản dị nhưng luôn ánh lên chất “ vàng mười”
vô cùng quý giá.

ĐỀ 3: CON SÔNG ĐÀ HUNG BẠO

1. Khái quát:

Con Sông Đà là một dòng sông đặc biệt, điều đó được thể hiện qua câu thơ
của Nguyễn Quang Bích “Chúng thủy giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu”, nghĩa là
mọi con sông đều chảy hướng đông, riêng sông Đà thì chảy ngược theo hướng
bắc.Một con sông độc đáo, gặp một nhà văn tài hoa, uyên bác, độc đáo đã công
hưởng để tạo nên một hình tượng nghệ thuật đặc sắc.

Con Sông Đà tập trung những nét đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc. Đó là
hình ảnh nổi bật như là một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của
thiên nhiên đất nước. Nguyễn Tuân là bậc thầy của trong lĩnh vực ngôn từ, ông đã
huy động vốn từ vô cùng phong phú, đội quân từ ngữ vô cùng hùng hậu để buộc sự
hung tợn kì vĩ của con sông Đà phải hiện nguyên hình. Sự hung bạo đó được thể
hiện ở những dáng vẻ khác nhau.

2. Phân tích:

32
a. Cảnh bờ đá bên sông:

Trước hết, tính cách hung bạo của con sông được thể hiện ở cảnh bờ đá bên
sông “dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, có chỗ vách
đá “chẹt lòng sông như một cái yết hầu”, “có quãng con nai, con hổ vọt từ bờ bên
này sang bờ bên kia”. Ngồi trong khoang đò đang trong mùa hè đi qua quãng sông
ấy mà cũng thấy lạnh. Đi vào chốn ấy không khác gì vào chốn âm ti địa phủ khi
cùng một lúc cả bóng tối và cái lạnh thấy xương đổ ập vào gây cho con người cảm
giác thất thần sợ hãi. Để nhấn mạnh sự hung bao ấy, nhà văn Nguyễn Tuân đã sử
dụng phép liên tưởng, so sánh rất bất ngờ và độc đáo khi tác giả dùng hình ảnh của
phố thiij hiện đại để so sánh với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ. Khi ngồi trong
khoang đò, đi vào quãng sông dựng vách thành này không khác gì đi vào phố cổ mà
ngóng vọng lên một khung cửa sổ trên cái tầng nhà thứ mấy vừa phụt tắt đèn điện.
Cách so sánh và liên tưởng rất Nguyễn Tuân. Chính điều này giúp cho người đọc dễ
hình duung ra sự hung bạo của con Sông Đà.

 Như vậy bằng một đoạn văn ngắn, chỉ có sáu câu văn, nhà văn Nguyễn Tuân
đã người đọc trở về với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Trong 6 câu văn ấy có
đến 3caau kết thúc bằng thanh trắc gợi cảm giác về độ cao của bờ đá, tốc độ của
dòng nước và độ lạnh của hơi nước Sông Đà. Với tài quan sát và trí tưởng tượng
độc đáo, Nguyễn Tuân đã để lại ấn tượng khó phai về cảnh bờ đá bên sông.
b. Mặt ghềnh Hát Loong
- Thứ hai, sự hung bạo của con Sông Đà được miêu tả ở ghềnh Hát Loong “dài hàng
cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm
như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua đấy. Để miêu tả
mặt ghềnh Hát Loong nhà văn đã dùng câu văn dài với nhiều vế câu, nó dài như mặt
ghềnh. Đã vậy, tác giả còn sử dụng thủ pháp nghệ thuật điệp từ nước, đá, sóng cộng
với điệp ngữ và sự hỗ trợ liên tiếp của các thanh trắc (24/46 thanh) dã tạo nên âm
điệu dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy vừa hợp sức của gió,
33
của sóng và đã khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên sùng sục cuồn cuộn chảy dữ
dằn. Chính sự kết hợp ấy đã tạo ra mối nguy hiểm thường trực đối với bất cứ người
lái đò nào đi ngang qua ghềnh sông như thế. Bởi chỉ cần khinh suất tay lái là con
thuyền bị lật ngửa thuyền ra. Đoạn văn miêu tả ghềnh Hát Loong rất ngắn, chỉ có 2
câu tương đương với 4 dòng, Nguyễn Tuân đã làm sống dậy cả một mặt ghềnh dài
nhất, dữ dội nhất. Ở đoạn văn này tác giả còn sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa “đòi
nợ xuýt” để nhấn mạnh tính cách hung hăng, côn đồ của ghềnh Hát Loong. Đòi nợ
xuýt là đòi nợ người không mắc nợ mình một cách vô lí. Có lẽ việc sử dụng phép so
sánh và nhân hóa ấy, nhà văn Nguyễn Tuân đã nhấn mạnh và diễn tả được đấy đủ sự
nguy hiểm của con sông.
 Qua đoạn văn, Chúng ta thấy Nguyễn Tuân xứng đáng là bậc thầy của ngôn
từ. Khi cần ông huy động cả một đội quân ngôn từ hùng hậu nhưng có khi ông chỉ
sử dụng một tiểu đội đặc công tinh nhuệ cũng khiến con Sông Đà hiện nguyên hình
là một thuồng luồng thủy quái, là mối nguy hiểm thường trực đối với ông lái đò. Đó
chính là vẻ đẹp tài hoa, bản lĩnh đáng khâm phục của một nhà văn có phong cách
nghệ thuật độc đáo.
c. Những hút nước:

Sự hung bạo của con Sông Đà còn được thể hiện ở những cái hút nước chết người.
Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống để chuẩn bị làm móng
cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, khi thì ặc ặc lên như vừa rót
dầu sôi vào. Với trí liên tưởng bất ngờ, nhà văn Nguyễn Tuân đã giúp người đọc
cảm nhận dược sự ghê gớm, độc ác của cái hút nước, nó như huyệt mộ được đào sẵn
ở dưới lòng sông để chôn vùi những con thuyền nào đi qua đây. Điều đáng nói, cái
hút nước ở đây có sức mạnh ghê gớm, khi nó xoáy tít đáy, lừ lừ những cánh quạ
đàn. Sức mạnh ấy nó có thể lôi tuột những cái thuyền ghênh ngang đi qua, thuyền
trồng cây chuối ngược ngược rồi vụt biến bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông, mươi
phút sau thì tan xác ở khuỷnh sông dưới. Rõ ràng, hút nước trên Sông Đà giống như
34
một con thuồng luồng, thủy quái lúc thì như một cài vòi rồng trong trận cuồng
phong, khi thì như cái cối xay thịt khổng lồ giữa núi rừng Tây Bắc. Sức mạnh của
nó thật ghê gớm có thể nghiền nát bất cứ con thuyền nào trong khoảng thời gian
sớm nhất. Với việc sử dụng kiến thức của lĩnh vực giao thông vận tải, điện ảnh để tô
đậm mức độ khủng khiếp của cái hút nước, nhà văn Nguyễn Tuân đã tưởng tượng ra
một anh chàng quay phim táo bạo nào đó muốn truyền cho người xem một cảm giác
lạ đã dũng cảm ngồi vào chiếc thuyền thúng tròn vành rồi cả người và cả máy xuống
cái hút nước ấy mà quay ngược lên. Nếu xem những thước phim ấy mọi người phải
phải lên gân để giữ chặt chiếc ghế. Với sự liên tưởng độc đáo, nhà văn Nguyễn
Tuân đa tiên phong xây dựng thước phim 3D rất sống động có một không hai trong
lịch sử văn học.

Nếu như miêu tả cảnh bờ đá bên sông và ghềnh Hát Loong nhà văn Nguyễn
Tuân rất kiệm lời thì khi miêu tả hút nước Sông Đà ông đã huy động vốn hiểu biết
phong phú, vốn kiến thức ở nhiều lĩnh vực cùng đội quân ngôn từ hùng hậu để miêu
tả tận cùng sự dữ dội của hút nước Sông Đà. Với việc sử dụng phép so sánh nhiều
lần: như cái giếng bê tông… như cửa cống cái bị sắc, lừ lừ như những cánh quạ đàn,
như ô tô sang ga nhấn số, như rót dầu sôi vào, như một cốc nước pha lê khổng lồ…
chính sự so sánh ấy giúp cho câu văn thêm gợi hình, gợi cảm để người đọc hình
dung sự dữ dằn của cái hút nước đã trở thành một thử thách không nhỏ đới với ông
lái đò.

d. Tiếng thác nước

Sự hung bạo của con Sông Đà được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả qua tiếng
thác nước. Mặc dù còn xa lắm mới tới cái thác dưới nhưng đã thấy tiếng nó réo gần
và réo to mãi lên. Tiếng thác nước nghe như oand trách rồi lại như van xin, như
khiêu khích cười gằn và chế nhạo. Tiếng thác nước đa thanh đa điệu của một tên lưu
manh tiểu nhân bỉ ổi lúc thế này lúc thế kia không có lập trường của một chính nhân

35
quân tử “không nói hai lời”. Nghe tiếng thác nước như tiếng ma kêu quỷ khóc, tiếng
của những linh hồn oan khuất bị vùi lấp dưới lòng sông. Tiếng thác ấy vang vọng
vào vách đá, thấm sâu vào kẽ lá nó gợi lên sự huyên bí ghê rợn của một chốn rừng
thiêng nước độc. Có lẽ ai nghe tiếng thác ấy đêù thất thần sơ hãi, ám ảnh khôn
nguôi. Cũng giống như người lính Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng ám ảnh mãi
bởi âm thanh tiếng thác nước:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Đặt hai thứ âm thanh ấy cạnh nhau, ta mới thấy tiếng thác nước Sông Đà ám ảnh
biết chừng nào. Tuy nhiên, đối với Nguyễn Tuân, những câu văn vừa phân tích trên
chưa đủ để diễn tả hết sự hung bạo dữ dội của thác nước Sông Đà nên ông đã phải
bồi thêm một hình ảnh liên tưởng so sánh rất độc đáo, bất ngờ khi ông nghe thấy
tiếng thác nước “rống lên như tiếng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng
vầu, rừng tre nứa nổ lửa đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa gầm thét với đàn trâu da
cháy bùng bùng, một cảnh tượng dữ dội có một không hai, một trí tưởng tượng kiệt
xuất! Một câu văn so sánh thật độc đáo! Tất cả những gì tài hoa, độc đáo của nhà
văn Nguyễn Tuân có lẽ đã dồn tụ trong câu văn trên: âm thanh, hình ảnh của một
cảnh hỗn loạn ghê gớm diễn ra trước mắt người đọc tạo nên một cảnh tưởng kinh
hoàng, ám ảnh khó quên. Điều đặc biệt ở đây nhà văn đã lấy lửa để miêu tả nước thì
quả thực là tài tình và vi diệu, điều xưa nay chưa từng có.

 Nói tóm lại, bằng một đoạn văn ngắn, nhà văn Nguyễn Tuân đã làm sống dậy
một không gian Tây Bắc hùng vĩ, dự dội, hiểm trở. Với câu văn giàu chất tạo
hình biểu cảm, giọng văn dồn dập, Nguyễn Tuân đã giúp người đọc cảm nhận
đầy đủ nhất sự dữ dội của tiếng thác nước Sông Đà. Chắc chắn âm thanh ấy
sẽ còn ám ánh bạn đọc, còn vang vọng mãi trong không gian nghệ thuật.

e. Đá và thạch trận:
36
Sự hung bạo của Sông Đà nổi hình, nổi nét và sống động trong hình ảnh đá và
thạch trận trên sông. “Trắng xóa cả một chân trời đá, đá ở đây cả ngàn năm vẫn mai
phục hết trong lòng sông. Mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt quang
sông ấy, một số hòn bèn nhổm dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hồn nào trông cũng nhăn
nhúm, méo mó và ngỗ ngược và hơn mặt nước lúc này. Lúc vào trận đá bệ vệ oai
phong lẫm liệt. Cái thằng tướng đá mặt xanh sưng sưng ngông ngạo. Đá ở đây có
tâm địa, được thần sông thàn đá giao cho mỗi hòn một nhiệm vụ. Chúng đã biết bày
binh bố trận tạo thiên la địa võng trên Sông Đà. Có chỗ có hai hòn canh một cửa đá
trông như sở hở như chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương lùi sâu vào,
có hòn trông nghiêng như hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao
chiến. Một hòn khác lùi lại thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến vào gần. Như vậy
với phép nhân hóa cùng khả năng quan sát và liên tưởng cực tốt, Nguyễn Tuân đã
đem Sông Đà đến với mọi người như chính nó trong tự nhiên. Sông Đà hiện lên rất
hung bạo nham hiểm độc ác, nó như kẻ thù số một của ông lái đò. Chúng rất mưu
mô quỷ quyệtđã biết lập ra trân đồ bất quái trên dòng sông thành những thạch trân.

- Thạch trận 1 có 4 của tử và một cửa sinh. Cửa sinh được bố trí bên phía
tả ngạn.
- Thạch trận 2 tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh được bố trí ở phía hữu
ngạn.
- Thạch trận 3 có 3 thạch trận, cửa sinh được bố trí ở giữa những cánh
cửa đá khép mở.
 Điều đáng lưu ý ở đây, các thạch trận được bố trí rất biến ảo và sát nhau để
ông lái đò không kịp trở tay, phải luôn chân luôn cả tim nữa. Ở những thạch
trận này, Sông Đà đã biết huy động sức mạnh của sóng nước của đá. Chúng
đã biết tung ra những món đòn hiểm độc nhất để đánh phủ đầu đối phương
như phóng thẳng vào mawtjoong lái đò, ùa vào bẻ gãy cán chèo,đá trái, thúc
gối túm thắt lưng ông lái đò và bóp chặt lấy hạ bộ của người lái đò. Ngoài ra
37
chúng còn tung ra các chiêu thức như đánh đòn âm, đòn tỉa, hồi lùng và truy
kích… Với tất cả những gì Nguyễn Tuân đã miêu tả đã cho thấy Sông Đà
thực sự rất hung bạo và là đối thủ đáng gờm, là thách thức không nhỏ đối với
người lái đò. Qua đây, ta thấy được tài năng độc đáo của nhà văn Nguyễn
Tuân. Ngòi bút trong tay Nguyễn Tuân như một chiếc gậy như ý của Tôn Ngộ
Không đã bắt con Sông Đà phải hiện nguyên hình là thuồng luồng thủy quái
là kẻ thù số 1 của con người. Qua tính cách hung bạo, Nguyễn Tuân đã đem
đến cho người đọc những cảm nhận đầy đủ nhất về Sông Đà dữ dội, hiểm trở.
Như vậy, với việc miêu tả tính cách hung bạo của Sông Đà, Nguyễn Tuân đã
sử dụng thành công phép đòn bẩy, đã tạo dựng một bệ đỡ hoành tráng, kì vi
để tạc nên bức tượng đài về hình tường ông lái đò Sông Đà.

Đề 4: Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng con sông Đà ở đoạn trích sau. Từ đó,
nhận xét chất thơ thể hiện trong đoạn trích.
Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù
khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông
Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa
xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của
Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người
bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi
độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà đen như thực dân Pháp đã đè
ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế
mà phiết vào bản đồ lai chữ.
Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng
đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình
sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con
nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên
38
một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ
Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con
sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt
quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như
gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc
chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời
Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi
qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng
người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp
cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một
tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai
Châu.

(Trích Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục,
2020, tr.191-192)

------------------Hết---------------

A. MB:
- Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ chân chính suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có một vị trí
quan trọng và đóng góp không nhỏ cho văn học Việt Nam hiện đại: thúc đẩy thể tùy
bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phú thêm ngôn ngữ
văn học dân tộc; đem đến cho nền văn xuôi hiện đại Việt Nam một phong cách tài
hoa, độc đáo.Điều đó được thể hiện qua tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”.

39
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích ca ngợi vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông
Đà thể hiện chất thơ trong sáng tác của Nguyễn Tuân.
B. TB:
1. Khái quát về tác phẩm, đoạn trích:
- Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960) của nhà văn
Nguyễn Tuân, gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ phác thảo đứng vào hàng kiệt tác
của Văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm mới đầu có tên là Sông Đà, sau đó khi in
vào tập 2 Tuyển tập Nguyễn Tuân thì tác giả đổi lại là Người lái đò Sông Đà.
- Vị trí, nội dung đoạn trích: thuộc phần đầu của tuỳ bút. Sau khi nhà văn thể hiện
vẻ đẹp hung bạo, hùng vĩ của sông Đà, ông tiếp tục hướng đến vẻ đẹp trữ tình của
con sông.
2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp sông Đà trong đoạn trích:
a. Mĩ nhân Sông Đà
- Nguyễn Tuân đã quan sát sông Đà ở nhiều góc độ khác nhau để có một cái nhìn
toàn diện nhất. Từ trên tàu bay nhìn xuống sông Đà như “cái dây thừng ngoằn
ngoèo” uốn quanh núi rừng Tây Bắc. Ở những quãng yên, dòng sông lại giống như
một người thiếu nữ kiều diễm “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc
chân tóc ấn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Điệp ngữ “tuôn
dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt người đọc sự vô tận của dòng sông. Phép so sánh
“như một áng tóc trữ tình” tạo nên vẻ đẹp kiêu sa của Đà giang. Nó như một kiệt tác
của đất trời dành riêng cho vùng đất thiêng liêng này. Hai chữ “ẩn hiện” càng làm
tăng lên sự bí hiểm của dòng sông. Ta như đi lạc giữa chốn bồng lai vừa thực, vừa
mộng. Mái tóc trữ tình ấy, còn được cài thêm hoa ban, hoa gạo đẹp mơ màng trong
khói nương mùa xuân. Bằng con mắt rất tinh tế, Nguyễn Tuân đã phát hiện được
những góc nhìn mà ở đó, dòng sông đã phô ra được tất cả vẻ đẹp trẻ trung, mềm
mại, thướt tha của mình. Đoạn văn còn thể hiện tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ
của Nguyễn Tuân : giữa hai chữ “tuôn dài tuôn dài” thường sẽ có dấu phẩy, nhưng

40
tác giả cố tình phá vỡ cấu trúc ngữ pháp để bản thân câu chữ cũng có khả năng tạo
hình và tô đậm ấn tượng về cái mênh mang, dàn trải, cái mềm mại, duyên dáng của
dòng sông. Ngoài ra trong câu văn này còn có thể nhận thấy tác giả sử dụng rất
nhiều vần bằng tạo nên ấn tượng về một dòng chảy nhẹ nhàng,êm đềm của dòng
sông Đà ở hạ nguồn.Câu văn này của Nguyễn Tuân xứng đáng được xếp vào những
câu văn đẹp được coi là “tờ hoa” trong văn học Việt Nam.
- Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc
nước. Nhà văn không đưa ra nhận xét một cách hồ đồ, mà ông “đã nhìn say sưa làn
mây mùa xuân bay trên sông Đà; đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống”
sau đó mới khẳng định: sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông
Đà “xanh ngọc bích” chứ không“xanh màu xanh canh hến như màu của sông Gâm,
sông Lô. “Xanh ngọc bích” là xanh trong, xanh sáng - một sắc màu gợi cảm giác
trong lành, đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời cùng nhau hòa quyện. Mùa
thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Câu
văn so sánh khiến người đọc phải ngỡ ngàng trước sự đa dạng của sắc nước sông
Đà. Nó không thay đổi dồn dập như màu nước sông Hương “sớm xanh, trưa vàng,
chiều tím ” hay đỏ nặng một màu phù sa như nước sông Hồng. Chưa bao giờ, sông
Đà có màu đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào rồi gọi
bằng một cái tên láo lếu”.
b. Cố nhân Sông Đà
- Quan hệ giữa Nguyễn Tuân với dòng sông Đà không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa
nhà văn và đối tượng miêu tả mà còn là quan hệ giữa những người bạn tri âm tri kỉ .
Bởi vậy, tác giả không chỉ dừng lại trên bề mặt để ghi lại chất thơ của dòng sông mà
còn đi sâu vào tâm hồn để nhận thấy chất trữ tình trong tính cách, trong quan hệ của
dòng sông với con người.
+Tác giả dùng 1 từ ngữ rất thiêng liêng và ý nghĩa để gọi sông Đà, đó chính là “cố
nhân”. Trong văn hóa của người Việt Nam thì “cố nhân” dùng để chỉ những tình bạn

41
thân thiết, gắn bó, những tình bạn đã được tạo nên từ sự đồng điệu tri âm, đã được
thử thách bởi những thăng trầm của thời gian. Hơn nữa từ “cố nhân” còn gợi lên
cảm xúc bâng khuâng, da diết của một nỗi nhớ đậm sâu.
Khác hẳn với con thủy quái hung dữ luôn tìm cách đe dọa, tiêu diệt con người ở
thượng nguồn, về đến hạ nguồn sông Đà bỗng trở nên dịu dàng và đằm thắm, trở
thành đối tượng chia sẻ mọi buồn vui với con người.Bởi vậy khi phải xa cách dòng
sông, Nguyễn Tuân nhớ dòng sông như nhớ 1 người bạn thân thiết .Vì tác giả dành
cho dòng sông nỗi nhớ da diết, mãnh liệt nên khi được gặp lại con sông yêu thương,
niềm vui đã vỡ òa và tràn ra trên bề mặt câu chữ của Nguyễn Tuân :
Trước hết, đó là câu văn: Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên
Sông Đà. Ở đây, Nguyễn Tuân sử dụng những câu văn ngắn, giữa các vế có sự trùng
điệp về cấu trúc tạo nên nhịp điệu nhanh, dồn dập, vừa gợi ra niềm vui háo hức say
mê, vừa gợi ra những bước chân nhanh vội của tác giả để đến với dòng sông của
mình. Cụm từ “sông Đà” được điệp lại liên tiếp 3 lần ở 3 vế của câu văn gợi ra được
trái tim nồng nhiệt, ấm nóng đang cố gắng mở rộng tất cả biên độ của mình để ghi
lại những biểu hiện dù là nhỏ bé, giản dị nhất của sông Đà như: bờ, bãi, chuồn
chuồn, bươm bướm. Các vế câu lại được khéo léo sắp xếp để vế sau dài hơn vế
trước cho thấy sự tăng cấp, sự hối hả dồn dập trong niềm vui vỡ òa của tác giả,
khiến cho câu văn không còn là câu mô tả bình thường mà đã trở thành những tiếng
reo vui.
Niềm vui của tác giả còn được diễn tả bằng những hình ảnh so sánh độc đáo liên
tiếp đặt cạnh nhau:“Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa
dầm, vui như nổi lại chiêm bao đứt quãng”. Có thể nói đây là 2 hình ảnh so sánh rất
lạ.Cách so sánh giúp tác giả diễn tả chính xác niềm vui căng tràn, mãnh liệt của
mình. Vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm gợi ra niềm vui vì sự mong đợi
đã được thỏa mãn vì sự thay đổi theo chiều hướng lạc quan, tươi sáng. Vui như nối
lại chiêm bao đứt quãng lại gợi ra được niềm vui hiếm hoi nhưng vô cùng mãnh liệt,

42
vì thông thường những giấc mơ khi đã đứt thì rất khó nối lại được. Việc nối lại
những giấc chiêm bao đứt quãng vừa là những trường hợp rất hi hữu, vừa vô cùng
quý giá.
c. Sông Đà, một tình nhân chưa quen biết
- Nguyễn Tuân đã gieo vào tâm trí người đọc những cảnh đẹp ấn tượng đọc đôi bờ
sông. Không dữ dội như quãng bày thạch trận trên sông, “cảnh ven sông lặng như
tờ, từ đời Lý đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Tác
giả hướng đến lịch sử những buổi đầu dựng nước và giữ nước để làm nổi bật vẻ đẹp
nguyên sơ của dòng sông. Đúng như nhà văn đã so sánh “bờ sông hoang dại như
một bờ tiền sử ”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi thơ”. Điểm thêm vào đó
là “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” cùng “một đàn hươu cúi đầu
ngổn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Thiên nhiên nơi đây như một bức họa thủy
mặc khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Lý Bạch “Yên hoa tâm nguyệt há Dương
Châu ” (Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói). Đó là cái nắng
Đường thi ấm áp và tràn ngập sự sống của mùa xuân.
- Hình ảnh tiếng còi sương.
d. Tiểu kết: Như vậy, để làm rõ vẻ vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà, Nguyễn Tuân
đã miêu tả từ nhiều thời điểm: mùa xuân, mùa thu, từ nhiều góc độ: khi thì ngồi trên
trực thăng để bao quát toàn cảnh , khi thì xuôi thuyền dọc theo sông Đà thậm chí có
khi còn dừng hẳn lại để chiêm ngưỡng và miêu tả một cách cặn kẽ, kĩ càng. Việc
làm đó của Nguyễn Tuân vừa cho thấy con sông Đà mang trong mình một vẻ đẹp đa
chiều, phải soi ngắm từ nhiều phương diện, góc độ mới có thể thấy hết cái thơ mộng
trữ tình của nó, vừa cho thấy tinh thần lao động nghiêm túc ở Nguyễn Tuân.
3. Đánh giá:
a. Nôi dung: Cái hay cái đặc sắc và giá trị nhân văn của đoạn văn nằm ở đâu?
b. Về nghệ thuật:
- Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị;

43
- Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao;
- Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giọng điệu mượt mà, sâu lắng.
c. Lí luận văn học:
- Pau top xki từng khẳng định: Nhà văn chân chính là người dẫn đường đến xứ sở
của cái đẹp. …
4. Lệnh phụ: Nhận xét chất thơ thể hiện trong đoạn trích
- Biểu hiện: chất thơ trong đoạn trích thể hiện:
+ Cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông: Sông Đà như một người
gái đẹp của núi rừng Tây Bắc với mái tóc dài, thật dài, mượt mà, tha thướt, gài
buông lơi những bông hoa ban trắng ngần hay những bông gạo đỏ rực, thấp thoáng
ẩn hiện giữa núi rừng mùa xuân mù sương khói.
+ Vẻ tinh khôi, non tơ của nương ngô nhú lá non đầu mùa, của những vạt đồi cỏ
gianh đang ra nõn búp; vẻ lặng tờ, tịnh không một bóng người, hoang dại, hồn nhiên
của đôi bờ biền bãi.
+ Ở xúc cảm tinh tế của tác giả trước dòng sông thơ mộng, trữ tình: cảm giác đằm
đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân sau chuỗi ngày chia biệt; cảm giác thấy thèm được
giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ
- Yên Bái - Lai Châu...
+ Ở những so sánh, liên tưởng thú vị độc đáo của Nguyễn Tuân: Sông Đà như một
người con gái đẹp, như một cố nhân, nước Sông Đà đổi màu liên tục qua mỗi mùa
trong năm.
- Ý nghĩa: Chất thơ trong tuỳ bút của Nguyễn Tuân là một phần trong nội dung
phong cách tài hoa, uyên bác của ông. Ông để lại ấn tượng đặc biệt về một con sông
đầy cá tính, mang tính cách của con người với hai nét độc đáo, đối lập mà thống
nhất: hung bạo và trữ tình. Qua đó, ta thấy nhà văn có công đi tìm cái đẹp - chất
vàng thiên nhiên Tây Bắc để ca ngợi. Thiên nhiên là sản phẩm nghệ thuật vô giá, là
công trình mĩ thuật của tạo hoá đã ban tặng cho con người. Đó cũng chính là tình

44
yêu Tổ quốc mà nhà văn cách mạng Nguyễn Tuân đã gửi gắm qua trang tuỳ bút của
mình.
C. KB:
- Kết luận về nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp trữ tình của sông Đà trong đoạn trích;
- Bài học cuộc sống rút ra qua đoạn trích: tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất
nước…

ĐỀ 5: MĨ NHÂN SÔNG ĐÀ

Đề bài: Anh/chị hãy phân tích đoạn trích: “(…) Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như
một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa
ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn
say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mâymùa thu mà
nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước SôngĐà
không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ
lừ chínđỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở
một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về (…)

(Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ Văn 12, Tập 1)

Mở bài:

“Sông Đà ơi! Cùng tôi vang tiếng hát

Sông lượn lờ trong trang sách làm thơ

Giữa dòng đời thương ai lòng cách trở

45
Chuyện sông Đà người hãy kể cùng tôi”

( Chuyện sông Đà – Quang Lâm )

Mỗi lần khi nhắc đến sông Đà, tôi lại nhớ đến một con sông dài chảy dọc trên mảnh
đất mẹ Tây Bắc, là một con sông đầy tiềm năng với nhiều những nhà máy thủy điện
có công suất lớn được xây dựng ở đó. Nhưng trong văn chương sông Đà được nhìn
nhận một cách đầy tuyệt diệu, có linh hồn, có cá tính riêng trong tùy bút “ Người lái
đò Sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân. Bằng “nghệ thuật bậc thầy của ngôn từ”
ông đã sáng tạo nên hình tượng con Sông Đà – một trong những kiệt tác của nghệ
thuật văn xuôi – với 2 tính cách tuy đối lập những rất hài hòa đó là: hung bạo và trữ
tình. Nhưng ấn tượng với lòng người đọc nhất đó là vẻ đẹp con Sông Đà trữ tình
điều đó được thể hiện qua đoạn văn: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài… bực bội gì
mỗi độ thu về”.

Nhận xét về Nguyễn Tuân có ai đó đã từng tinh tế cho rằng: “Nguyễn Tuân là một
định nghĩa đầy đủ nhất về người nghệ sĩ”. Ông là nhà văn của những cảm giác
mạnh, là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp với một phong cách nghệ thuật đầy độc
đáo. Trong suốt quá trình sáng tác của mình, Nguyễn Tuân đã để lại cho kho tàng
văn học Việt Nam rất nhiều những tác phẩm có giá trị, một trong số đó, không thể
không nhắc tới tùy bút “Người lái đò Sông Đà” được in trong tập “ Sông Đà” ( 1960
). Tác phẩm là kết quả đẹp của chuyến đi thực tế đầy gian khổ mà hào hứng đến với
miền Tây Bắc để tìm kiếm “chất vàng” của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua
thử lửa” ở tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên miền núi sông
hùng vĩ và thơ mộng này.

Nếu như phần thượng nguồn Nguyễn Tuân đã khắc họa Sông Đà đầy hung bạo và
dữ đội với những thác đá “dựng vách thành”, “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió
cuồn cuồn” trên mặt ghềnh Hát Loong hay những hút nước sâu đầy nguy hiểm. Thì
đến phần hạ nguồn ta sẽ không còn bắt gặp những sự nguy hiểm trên nữa mà ở đây
46
ta lại cảm nhận một vẻ đẹp khác của Sông Đà rất thơ mộng trữ tình như một bức
tranh sơn thủy đầy thu hút.

Khi miêu tả Sông Đà, Nguyễn Tuân đã nhìn con sông với một “góc độ nhìn” đầy
đặc biệt để miêu tả hình dáng của Sông Đà. Từ trên tàu bay ông quan sát Sông Đà
với tầm nhìn bao quát theo chiều không gian Sông Đà như “cái dây thừng ngoằn
ngoèo”. Với sự so sánh đầy đặc biệt đó, đã cho người đọc thấy Sông Đà thật mềm
mại, thướt tha chảy dọc trên mảnh đất Tây Bắc rộng lớn. Không chỉ thế tác giả còn
nhìn thật sâu vào dòng Sông Đà thấy “con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa
gạo tháng Hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Hai từ “tuôn dài”
được lặp lại hai lần cho ta thấy được dòng chảy của Sông Đà dường như nó vô cùng,
vô tận như không có điểm dừng cùng với nhịp câu toàn là thanh bằng đã phần nào
diễn tả sự chảy trôi của con sông sao nó chậm rãi êm đềm đến như thế! Nó thật khác
so với sự cuồn cuộn của “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” của mặt ghềnh Hát
Loong phần thượng nguồn. Không chỉ thế ta còn bắt gặp được sự tài hoa, cái chất
“ngông” của Nguyễn Tuân trong cách bỏ dấu câu khiến cho dòng sông nó cứ chảy
trôi, chảy trôi êm ả giữa miền đất rộng lớn Tây Bắc. Sự tuôn dài tuôn dài của dòng
sông được Nguyễn Tuân so sánh như “một áng tóc trữ tình” . Với việc sử dụng biện
pháp tu từ so sánh đã làm cho dòng Sông Đà như một làn tóc đầy thướt tha, bồng
bềnh của người thiếu nữ ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc . Được tác giả điểm tô lên
mái tóc với những sắc màu của những bông hoa ban trắng tinh khôi với hoa gạo đỏ
thắm trong tiết tháng Ba và sự ấm áp của khói núi Mèo đốt nương xuân đã làm cho
con Sông Đà hiện lên đầy kiều diễm, thướt tha, thơ mộng vừa thực vừa mơ, say đắm
bao độc giả. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng một từ rất đặc biệt đó chính là từ
“áng”. Nghe sao có sự quen thuộc? Ta thường bắt gặp từ “áng” ở áng văn, áng thơ
này được Nguyễn Tuân gắn với tóc thành “áng tóc trữ tình”. Cả cụm từ ấy đã nói
lên chất thơ, chất trẻ trung và đẹp đẽ, thơ mộng của dòng sông. Vẻ đẹp hình dáng
47
của Sông Đà từ trên cao nhìn xuống được Nguyễn Tuân miên tả rất chi tiết và đầy
liên tưởng ta như được đắm mình trong vẻ đẹp đầy thơ mộng, thướt tha với dòng
chảy mền mại được điểm xuyết bởi sắc hoa ban hoa gạo và khói Mèo đốt nương
xuân lúc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc. => so sánh Sông Đà như áng tóc trữ
tình tác giả còn khẳng định vai trò, vị thế của dòng sông đối với thiên nhiên
TB. Nếu như coi con Sông Đà là tóc trữ tình thì mảnh đất TB chính là một cơ
thể sống. Cơ thể ấy đẹp hơn, trẻ trung hơn, tươi mới hơn là nhờ có dòng Sông
Đà => một mái tóc trữ tình.

Văn chương luôn đòi hỏi người nghệ sĩ phải tìm tòi những điều mới lạ. Bởi
chính sự mới lạ là một trong điều cần có dẫn đến sự thành công trong sáng tác của
người nghệ sĩ. Trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” cũng vậy! Nguyễn Tuân
không miêu tả Sông Đà với một phương diện là nhìn từ trên cao nhìn xuống theo
chiều không gian để nhìn ngắm hình dáng con Sông Đà đầy thướt tha, êm ả mà ông
có sự quan sát theo chiều thời gian để thấy rõ sự biến đổi khôn lường của màu nước
Sông Đà theo mùa. Khi miêu tả sắc nước Sông Đà Nguyễn Tuân đã bộc lộ sự mê
hoặc trước khi miêu tả sắc nước Sông Đà trong hai mùa: xuân và thu: “Tôi đã nhìn
say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà
nhìn xuống nước Sông Đà”. Về mùa xuân sông Đà hiện lên với màu “xanh ngọc
bích” – đó là một màu xanh vừa trong vừa sáng, đầy hấp dẫn. Ta như bắt gặp
màu xanh này trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mạc Tử khi miêu tả
khu vườn thôn Vĩ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” . Điểm độc đáo ở đây của cả
hai tác giả đều lựa chọn sắc xanh ngọc bích để tăng thêm vẻ đẹp của đối tượng miêu
tả. Nhưng có lẽ việc sử dụng màu xanh ngọc bích để miêu tả sắc Sông Đà của
Nguyễn Tuân vào mùa xuân như đang là tăng thêm sự quý giá của Sông Đà như
“chất vàng” mà Nguyễn Tuân luôn tìm kiếm. Không chỉ thế Nguyễn Tuân còn
khẳng định sự khác biệt về màu sắc của Sông Đà không “xanh như màu xanh
canh hến của Sông Gâm Sông Lô”. Đến đây ta nghĩ đến lời nhận xét của TS.
48
Trịnh Thu Tuyết: “Việc so sánh màu ngọc bích của Sông Đà với màu xanh canh
hến của Sông Gâm Sông Lô không phải chỉ là biểu hiện quen thuộc của một
nhà văn thị tài, thích khoe tài, khoe uyên bác mà còn là 1 sự thiên vị của một
niềm yêu”. Có lẽ Nguyễn Tuân yêu Sông Đà quá nhiều nên bất cứ con sông nào
với ông cũng không đẹp như sông Đà.

Mùa xuân qua đi mùa thu lại đến sắc nước Sông Đà có sự biển đổi đầy rõ nét không
chỉ còn là sắc xanh ngọc bích đầy hấp dẫn đấy nữa mà thay vào đó là màu “lừ lừ
chín đỏ”. Thật khó có thể hình dung được ? Có lẽ nó phải chăng là màu đỏ của
“Những dòng sông đỏ nặng phù sa” mà Nguyễn Đình Thi miêu tả hay không? Để
giải thích được điều này vế sau tác giả đã cho người đọc dễ hình dung hơn khi miêu
tả sắc đỏ đấy “lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bỗi gì mỗi độ
thu về” hay “như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Nhà văn đã sử dụng
thành công biện pháp tu từ so sánh màu sắc của con sông với sắc thái, tâm trạng của
con người lúc “bất mãn”, “bực bội” khi mỗi đợt thu về đã làm cho con sông Đà
hiện lên không còn vô tri, vô giác nữa mà khiến nó trở nên có hồn và có cảm xúc.
Ngoài ra ta còn thấy được cái tài của Nguyễn Tuân khi đặt hai màu của 2 mùa khác
nhau trong năm, xanh và đỏ ở cạnh nhau cũng vô cùng tinh tế. Hai màu đó tuy
đối chọi nhau giờ lại hài hòa, êm dịu một cách lạ thường… Như vậy bên cạnh vẻ
đẹp duyên dáng thì Sông Đà còn có vẻ đẹp đầy biến ảo linh hoạt, hấp dẫn không lặp
lại mình. Nếu như vào mùa xuân sắc nước gợi lên sự êm dịu trong trẻo thì sang mùa
thu sắc nước chuyển mình đỏng đảnh ẩn chứa nhiều sức mạnh tiềm tàng trên Sông
Đà.

Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo
phong cách mới lạ, thu hút người đọc. Thì ở đối với Nguyễn Tuân, ông cũng như
vậy ! Ông đã vận dụng nhiều những biện pháp nghệ thuât như so sánh, nhân hóa,…
lời văn bay bổng, phóng tính – viết không theo nguyên tắc các dấu chấm, dấu phẩy,
bỏ đi để tạo nên sự dịu dàng uyển chuyển liền mạch của dòng chảy Sông Đà. Ngoài
49
ra ông còn sử dụng lối liên tưởng đầy hấp dẫn, với cách nhìn nhận đa chiều để có
thể nhìn rõ mọi vẻ đẹp của Sông Đà mà không bỏ sót qua chi tiết nào. Cùng với việc
sử dụng nhiều thanh bằng tạo một con sông êm ả giống như một thiếu nữ Tây Bắc
rất mực nữ tính và hùng vĩ lớn lao.

Kết bài:

Nhà phê bình người Nga Bêlinxki viết: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó
miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay
lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những
câu hỏi đó”. Và quả thực tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân là một
tác phẩm như thế! Trong suốt quá trình dài của thời gian, “Người lái đò Sông Đà”
của Nguyễn Tuân vẫn luôn vẹn nguyên và sống mãi trong lòng người đọc về một tác
phẩm cũng như một nhà văn đa tài đã làm tôn lên vẻ đẹp của thiên nhiên của xứ xở
Tây Bắc nói riêng và thiên nhiên đất nước nói chung.

CỐ NHÂN SÔNG ĐÀ

Nếu như ở đoạn trước tác giả đã tiếp cận và miêu tả Sông Đà như một mĩ
nhân, thì đến đoạn văn này, Nguyễn Tuân miêu tả con sông như một cố nhân. Theo
Nguyễn Tuân, Sông Đà rất gợi cảm, đối với mỗi người Sông Đà lại có một cách gợi
nhưng đối với ông Sông Đà “như một cố nhân” xa thì mong nhớ đợi chờ, bên
nhau trân trọng từng giờ phút giây. Chính vì thế, khi có chuyến đi núi đi rừng đã
lâu, nhà văn Nguyễn Tuân “quên mất mình sắp đổ ra Sông Đà xuống một cái dốc
núi trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch gương chiếu vào mắt mình rồi
bỏ chạy”. Chính cái ánh sáng ấy, dưới con mắt của Nguyễn Tuân nó đã lóe lên màu
nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Nhà văn Nguyễn
Tuân thật tài tình khi dùng câu danh cú bậc nhất của thơ Đường trong bài “Hoàng
50
Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” để miêu tả vẻ đẹp của dòng Sông
Đà. Trong mắt Nguyễn Tuân, Sông Đà rất thơ mộng, rất trữ tình như những vần thơ
tuyệt bút của Lý Bạch. Màu nắng tháng ba Đường thi thật đặc biệt gợi cảm và trữ
tình mới diễn tả được hết vẻ đẹp thơ mộng của Sông Đà. Màu nắng của thơ, của
mộng, ấm áp và sáng lên lấp lánh. Sông Đà yên ả, thanh bình và phẳng lặng trong
sáng như một tấm gương phẳng khổng lồ được ánh mặt trời chiếu vào lấp lánh.
Chính vể đẹp ấy làm nhà văn Nguyễn Tuân cảm thấy vui sướng đằm đằm ấm ấm
như gặp lại một cố nhân. Với việc sử dụng từ Hán Việt “cố nhân” cộng với từ láy
“đằm đằm, ấm ấm” ta thấy được hết tấm lòng trân trọng, sự ấm áp, vui tươi của nhà
văn khi được ở bên Sông Đà. Hai chữ “cố nhân” là bao tình cảm yêu mến, nâng niu
trân trọng của nhà văn dành cho dòng sông quê hương xứ sở. Hai chữ cố nhân ấy
thật đặc biệt và được sử dụng rất đắc địa. Ngày xưa, Lý Bạch đã từng khẳng định:
vàng 300 trăm lạng kiếm dễ, để tìm được một tri kỉ khó muôn đời. Câu nói của Lý
Bạch đánh giá rất cao vai trò, tầm quan trọng của cố nhân, tri kỉ trong cuộc đời mỗi
con người. Có lẽ chính vì thế, khi gặp lại cố nhân Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân
không thể kìm nén được cảm xúc trước vẻ dẹp quá thơ mộng khi “Bờ Sông Đà, bãi
Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà”. Đây là một câu văn, xét về hình
thức là câu thiếu vị ngữ, nhưng đặt trong chỉnh thể nghệ thuật là một sự sáng
tạo độc đáo của của nhà văn Nguyễn Tuân. Câu văn bỏ lửng này đã cho ta nhiều
liên tưởng thú vị. Thứ nhất, câu văn đã mở ra một không gian tuyệt mĩ khi bờ Sông
Đà, bãi Sông Đà và trên mặt Sông Đà đã được phủ kín bởi những cánh chuồn
chuồn, bươm bướm mỏng tang sặc sỡ sắc màu đang dập dờn bay lượn trong màu
nắng tháng ba Đường thi. Thứ hai, câu văn buông lửng khiến ta liên tưởng đến nhà
văn Nguyễn Tuân như đứng lặng người trước vẻ đẹp tuyệt mĩ của dòng sông, sức
mạnh ngôn từ của ông như đang bất lực trước cảnh sắc tuyệt diệu ấy. Thứ ba, câu
văn được sử dụng chủ yếu thanh bằng (11/13 âm tiết) cùng với điệp từ Sông Đà (lặp

51
lại 3 lần) đã tạo ra một giai điệu êm ả, ngọt ngào, làm sống dậy khung cảnh sắc thơ
mộng, thanh bình.

Trước vẻ đẹp diệu kì của thiên nhiên ban tặng, của Sông Đà dành tặng cho
người cố nhân, Nguyễn Tuân chỉ còn biết thốt lên trong niềm reo vui ngỡ ngàng
“Chao ôi, trông thấy con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như
nối lại chiêm bao đứt quãng”. Với việc sử dụng thán từ “chao ôi” kết hợp với biện
pháp tu nghệ thuật so sánh, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, nhà văn Nguyễn Tuân đã
diễn tả trọn vẹn niềm vui vô bờ bến của mình khi gặp lại con sông sau nững ngày xa
cách. Trong văn học xưa nay, có rất nhiều cách diễn tả niềm vui như: vui như hội,
vui như Tết, vui như mở cờ trong bụng. Hay nhà thơ Chế Lan Viên đã diễn tả
niềm vui vô bờ bến của mình khi trở về với nhân dân Tây Bắc, người mẹ của hồn
thơ và cội nguồn của sự sáng tạo:

“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ,

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”

Nếu như Chế Lan Viên có một loạt hình ảnh so sánh diễn tả niềm vui của
mình thì nhà văn Nguyễn Tuân cũng vậy. Ông đã có những câu văn so sánh tuyệt
diệu, giúp người đọc hình dung rõ hơn, cụ thể hơn về những cảm xúc của ông khi
gặp lại cố nhân Sông Đà. Cách so sánh “vui như thấy nằng giòn tan” thật đáng yêu,
nhưng vi diệu hơn khi tác giả so sánh “vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Đây
là cách so sánh rất mới lạ, độc đáo và rất Nguyễn Tuân mà khó ai có thể sánh kịp.
Với cách so sánh này, nhà văn mới diễn tả được tận cùng của niềm vui khi gặp lại
cố nhân mình hằng yêu mến, quý trọng. Đó là niềm vui bắt nguồn từ tình cảm yêu

52
quý của một nhà văn không còn thiếu quê hương. Chỉ có tình yêu vô bờ bến,
Nguyễn Tuân mới có niềm vui như vậy khi gặp lại cố nhân Sông Đà.

Nói tóm lại, bằng những câu văn êm ái, giàu chất tạo hình và cảm xúc,
Nguyễn Tuân không chỉ làm sống dậy một vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Sông Đà
mà còn thể hiện thái độ trân trọng, tình yêu rất mực của mình dành cho cố nhân
Sông Đà. Quả thực là những tấm lòng đối đãi tấm lòng trong thiên hạ. Đây là đoạn
văn hay, là một góc nhìn khá tinh tế góp phần cho người đọc cảm nhận đầy đủ hơn
về vẻ đẹp của dòng sông.

Có ai đó đã từng khẳng định: nhà văn chân chính là người dẫn đường đến xứ
sở của cái đẹp, thì đoạn văn này, Nguyễn Tuân xứng đáng để được tôn vinh là nhà
văn chân chính, người nghệ sĩ suốt đời đi tìm kiếm cái đẹp. Vẻ đẹp của Sông Đà
cùng với sự giàu có của ngôn ngữ và tấm lòng của nhà văn đã trộn hòa, thăng hoa để
tạo nên những trang viết đẹp như những trang hoa, tờ hoa. Đọc đoạn văn của
Nguyễn Tuân, người đọc cảm thấy rất vui sướng như được nối lại chiêm bao đứt
quãng khi, khi những trái tim chai sạn vì sương gió cuộc đời đã được hồi sinh. Đó
chính là sức mạnh của văn chương, của nghệ thuật chân chính, của cái đẹp có khả
năng cứu rỗi thế giới.

Vâng, áng văn đẹp là những trang viết thể hiện được sự sáng tạo “khơi được
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Sự sáng tạo đó là trong
cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt. Tuy nhiên, áng văn đó phải thể hiện được tấm
lòng chân thành, tha thiết; phải khơi gợi được những tình cảm nhân văn cao đẹp và
đánh thức được lòng trắc ẩn trong trái tim mỗi người. Vâng đọc những áng văn ấy,
người đọc như được thưởng thức được sắc đẹp ngoài sắc đẹp, vị ngon ngoài vị ngon
mà khó có ngành nghệ thuật nào có thể tạo ra được. Đó là ưu điểm vượt trội của văn
chương khi lấy ngôn từ làm chất liệu. Đối với văn của Nguyễn Tuân, khi thứ ngôn
từ ấy được tinh luyện trong hàng tấn quặng để chắt lọc được một chữ sao cho xác

53
đáng nhất thì lại đáng quý, đáng trân trọng hơn bao giờ hết. Vâng, với thứ văn
chương được chưng cất rất công phu tỉ mỉ ấy chắc chắn sẽ còn “xanh mãi” với thời
gian. Đúng như Văn Cao khẳng định:

“Riêng những câu thơ còn xanh

Riêng những đôi mắt còn xanh

Và đôi mắt em long lanh

Như hai giếng nước”.

Ngày nay, trước đại dịch cô vid đang diễn ra vô cùng phức tạp, liệu những thứ
văn chương như thế còn có thể giúp con người vượt lên trên tăm tối, bế tắc, khổ đau
để dẫn lối tới tương lai tươi đẹp hơn?

ĐỀ 6: SÔNG ĐÀ, TÌNH NHÂN CHƯA QUEN BIẾT

Cảm nhận về vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của dòng Sông Đà được nhà văn
Nguyễn Tuân miêu tả trong đoạn văn bên dưới. Từ đó, anh/chị hãy nhận xét về chất
thơ trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân.
“Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. (…) Dải sông Đà bọt nước lênh bênh/Bao
nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của một người tình nhân chưa quen biết.”
BÀI LÀM
MB tương liên: câu thơ/đoạn thơ/đoạn văn có nội dung tương tự với vấn đề nghị
luận.
Người nhàn, hoa quế rụng rơi
Đêm xuân yên lặng, núi đồi vắng tanh
Trăng nhô, chim núi giật mình
Thường kêu inh ỏi ở quanh suối ngàn

54
Đọc những câu thơ trong bài “Điểu minh giản” (Khe chim kêu) của Vương
Duy, bản dịch của Trần Trọng San khiến tôi lại liên tưởng đến những câu văn trong
tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân. Đó là những câu văn
tuyệt bút miêu tả vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con Sông Đà: “Thuyền tôi trôi trên
Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. (…) Dải sông Đà bọt nước lênh bênh/Bao
nhiêu cảnh bấy nhiêu tình" cua tình nhân chua quen biết”. Từ đây, ta thấy được
chất thơ rất đặc sắc được thể hiện trong tác phẩm.
TB:
1. Khái quát (tác giả + tác phẩm)
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là nhà văn lớn, nhà văn hóa lớn của dân tộc,
người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách
tài hoa, uyên bác, độc đáo. Ông luôn tiếp cận thiên nhiên ở vẻ đẹp hùng vĩ, dữ
dội hoặc thơ mộng, tuyệt mĩ; luôn tiếp cận con người dưới tư cách của một
người nghệ sĩ. Nếu trước Cách mạng tháng Tám, ông nổi tiếng với tập truyện
“Vang bóng một thời” thì sau cách mạng ông được biết đến nhiều với tập tùy
bút Sông Đà (1960). Tập tùy bút là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân
đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn,
xa xôi, không chỉ để thỏa mãn cái thú tìm đến những miền đất lạ cho thỏa niềm khát
khao xê dịch, mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng thứ vàng
mười đã qua thử lửa ở tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên
miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng đó. Vì thế, Sông Đà nói chung và tùy bút Người
lái đò Sông Đà nói riêng cho ta nhận ra diện mạo của một nhà văn Nguyễn Tuân
mới mẻ, khao khát được hòa nhập với đất nước và cuộc đời. Tùy bút Người lái đò
Sông Đà tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa,
không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú,
bộn bề, nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động

55
người đọc nhiều nhất. Đến với đoạn văn miêu tả vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của Sông
Đà sẽ thấy rất rõ điều này.
2. Phân tích, cảm nhận
Sau khi miêu tả tính cách hung bạo của con Sông Đà, trận thủy chiến
kinh điển của ông lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân lại đi sâu miêu tả vẻ đẹp thơ
mộng trữ tình của dòng sông. Vẻ đẹp đó được thể hiện qua hình dáng “tuôn dài
tuôn dài như một áng tóc trữ tình”, qua màu sắc nước đa dạng; qua vẻ đẹp
tuyệt sắc của màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương
Châu”, thì đến đoạn cần phân tích này, Nguyễn Tuân lại tập trung miêu tả
cảnh sắc và sự sống của đôi bờ tiền sử, một vẻ đẹp tĩnh lặng, thanh bình và
căng tràn sức sống. => giới thiệu vị trí đoạn cần phân tích
a. Câu mở đầu:
Mở đầu đoạn văn, Nguyễn Tuân viết: “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà”. Đây
là một câu văn rất đặc biệt khi có sáu chữ đều là thanh bằng, nó gợi cảm giác êm
đềm, thanh bình của một dòng sông quê hương xứ sở. Từ câu văn mở đầu ấy nó đã
trở thành điệp khúc được lặp đi lặp lại ba lần trong một đoạn văn rất ngắn. Sự lặp
lại này nói lên sự hiền hòa, thanh bình, yên ả của một dòng sông như cổ tích tuổi
xưa. Có lúc tác giả dùng cụm từ “thuyền tôi trôi trên”, khi thì là “thuyền tôi trôi
qua”, chính cái điệu trôi nhẹ nhàng ấy, Nguyễn Tuân đã có điều kiện để quan sát
cận cảnh, kĩ lưỡng cảnh sắc và sự sống ven hai bên bờ Sông Đà. Thuyền trôi đến
đâu là vẻ đẹp của sự tĩnh lặng, thanh bình, tươi mới, hoang sơ, cổ kính lại hiện
ra trước mắt người đọc sống động. Đoạn văn như một thước phim tư liệu quay cận
cảnh những gì đẹp nhất, thanh bình nhất của dòng Sông Đà. Chính ống kính ấy
được cảm nhận qua con mắt của một nhà văn tài hoa, uyên bác độc đáo, cảnh
sắc và sức sống bên sông như một lần được sống lại trên những trang văn đậm chất
thơ của Nguyễn Tuân, để rồi nó trở thành trang văn “xanh mãi” cùng với thời gian.
Dưới ống kính ấy, dòng sông thơ mộng, trữ tình hiện ra ở những vẻ đẹp sau:

56
b. Vẻ đẹp của cảnh sắc ven sông
Thứ nhất, đó là một vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, thanh bình như còn dấu tích
lịch sử của ông cha: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời
Lê quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Với việc sử dụng phép điệp từ
“lặng tờ” hai lần cùng với cấu trúc câu văn đặc biệt khi không sử dụng dấu
phẩy để ngăn cách các đơn vị ngữ pháp, nhà văn Nguyễn Tuân như muốn khẳng
định vẻ đẹp thanh bình, yên ả đã chảy miên man trong suốt dòng chảy lịch sử từ
xa xưa đến nay. Chính sự tĩnh lặng ấy đã góp phần tạo nên vẻ đẹp thơ mộng. =>
luận đề (VĐNL)
c. Sự sống ven sông:
Không chỉ vậy, Sông Đà còn hiện lên một vẻ đẹp tươi mới, tràn trề nhựa
sống như như mới bắt đầu một mùa sinh sôi nảy lộc: “Thuyền tôi trôi qua một
nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ
gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh
đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp của sức sống tràn trề còn được Nguyễn Tuân miêu tả
qua hình ảnh “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng bạc như rơi
thoi”. Như vậy, với việc quan sát tinh tế, miêu tả cụ thể, Nguyễn Tuân làm sống
dậy một không gian Sông Đà đẹp đến mê hồn (tinh khôi, trong trẻo, trinh
nguyên, rạo rực và căng tràn sức sống)
d. Sự hoang sơ và hồn nhiên của Sông Đà
Sông Đà còn có một vẻ đẹp hoang sơ cổ kính như một tồn tại vĩnh hằng
của tự nhiên: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một
nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Với việc sử dụng nghệ thuật độc đáo khi lấy cái cụ thể
để so sánh với cái trừu tượng, cùng với liên tưởng bất ngờ, thú vị, Nguyễn Tuân
làm sống dậy cả một không gian hoang sơ, cổ kính đến tuyệt đối. Cách dùng từ
ngữ tinh tế, chính xác và vô cùng sáng tạo khi đặt các đơn vị ngôn từ cạnh nhau:
hoang dại – bờ tiền sử, hồn nhiên – nỗi niềm cổ tích tuổi xưa, tác giả đã diễn tả trọn

57
vẹn vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính của đôi bờ tiền sử. => thực mà như mộng => lạc
vào xứ sở của thần tiên => người tình vẫn trinh nguyên phơi phới.
e. Phân tích “tiếng còi sương”
Để nhấn mạnh vẻ đẹp tĩnh lặng, thanh bình của Sông Đà, nhà văn Nguyễn
Tuân đã có một hình ảnh rất sáng tạo đó chính là “tiếng còi sương”: “Con hươu
thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một
mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói
của một con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà có phải ông cũng vừa nghe thấy
một tiếng còi sương”. Hình ảnh còi sương không phải là mới lạ. Trong bài “Kinh
Nam tình vọng” của Nguyễn Trung Ngạn viết: “Còi sương rúc sáng rạng
hồng/Tranh ai dệt nổi giữa vùng nước mây” hay trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có
viết: “Lầu mai vừa rúc còi sương/Mã sinh giục giã vội vàng ra đi”. Tiếng còi sương
trong thơ xưa được hiểu là âm thanh của tiếng còi hay tiếng tù và thổi trong sáng
sớm báo hiệu thời gian của một ngày mới bắt đầu. Vậy “tiếng còi sương” trong
cách dùng từ của Nguyễn Tuân được hiểu như thế nào? Tiếng tù và thổi lên, một âm
thanh quen thuộc? Như vậy câu chữ có quá cũ, có còn là Nguyễn Tuân? Tiếng còi
của đoàn xe lửa? Chắc là không! Là âm thanh hoang vắng mơ hồ từ xa xăm dội về
theo cách cảm của nhiều người? Thiết nghĩ, đây là âm thanh của những giọt
sương đêm đọng trên lá cỏ tan chảy trong miệng con hươu vỡ ra thành tiếng
còi sương. Thứ âm thanh trong suốt, tinh khiết và nhỏ đến vô cùng khó ai nghĩ
đến, khó ai tưởng tượng ra. Thế mà, Nguyễn Tuân lại cảm nhận được điều đó thì
quả là vi diệu! Vâng, cái vi diệu đó không phải tự nhiên có được mà đó là kết quả
của quá trình đãi quặng tìm vàng giao thoa cùng tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc
sống của nhà văn muốn điều khiển con chữ để tái tạo kì công của tạo hoá và kí tích
của con người. Nếu hiểu như trên, có thể khẳng định, Nguyễn Tuân đã dùng thủ
pháp quen thuộc của thơ Đường khi lấy động để tả tĩnh. Trong bài thơ Khe chim
kêu (dẫn ở phần đầu của bài văn), Vương Duy đã sử dụng triệt để nghệ thuật lấy

58
động tả tĩnh giúp người đọc nhận thấy ko gian yên tĩnh của núi đồi mùa xuân khi về
đêm và tâm hồn thanh tịnh của một người nhàn. Chỉ có người nhàn trong tâm
thanh tịnh như vậy mới nghe được âm thanh tiếng hoa quế (rất nhỏ) rụng rơi.
Và tuyệt diệu hơn là trong không gian tĩnh lặng ấy, đàn chim đã giật mình trước
sự chuyển động của trăng đêm? Thì khi đọc những dòng thơ văn xuôi của
Nguyễn, tôi cũng lại thấy được điều tuyệt diệu của nghệ thuật lấy động tả tĩnh.
Không gian phải tĩnh lặng gần như đến tuyệt đối, thì ông khách sông Đà mới có
thể nghe được tiếng còi sương vỡ ra trong miệng hươu. Trong không gian ấy, một
tiếng động của đàn cá dầm xanh cũng đủ làm cho đàn hươu hốt hoảng và vụt
biến mất. Không gian đẹp và thơ như một thế giới cổ tích tuổi xưa. Ngòi bút của
Nguyễn Tuân đã thực sự thăng hoa. Ông đã cảm nhận được tất cả những gì tuyệt
diệu nhất của thiên nhiên ban tặng và cảm nhận được độ trong trẻo và tinh tế
của ngôn ngữ Tiếng Việt. Khi tình yêu đã thăng hoa cùng tinh thần trách nhiệm
của người cầm bút, sứ mệnh của người đi kiếm tìm cái đẹp thì mọi điều trở
thành sự kì diệu.
f. Tiểu kết:
Nói tóm lại, cảnh sắc và sự sống ven Sông Đà thật tuyệt mĩ mà có lẽ
người đọc mãi mãi không bao giờ quên. Để diễn tả vẻ đẹp ấy, Nguyễn Tuân đã dùng
hai câu thơ nổi tiếng của Tản Đà “Dải sông Đà bọt nước lênh bênh/Bao nhiêu cảnh
bấy nhiêu tình” của một người tình nhân chưa quen biết. Với hai câu thơ này,
Nguyễn Tuân như đang muốn khẳng định tình yêu của mình dành cho một mĩ nhân
Sông Đà, đó là cái nhìn đắm đuối trước một vẻ đẹp đến mê hoặc khó cưỡng lại
của dòng sông quá đỗi thơ mộng trữ tình này. Và chắc chắn, trong tâm trí và trái
tim của bạn đọc, Sông Đà mãi mãi là một tình nhân chưa quen biết bởi một vẻ
đẹp dịu dàng, xuân sắc.

3. Đánh giá:
59
a. Nghệ thuật + nội dung:

Với việc sử dụng câu văn êm ái, kết hợp kiến thức của lịch sử, địa lí, văn
chương, Nguyễn Tuân đã làm sống dậy vẻ đẹp thơ mộng tuyệt mĩ của Sông Đà.
Điều này cho thấy sự tài hoa của nhà văn Nguyễn Tuân trong việc sử dụng từ ngữ,
so sánh và liên tưởng tưởng tượng; vừa thể hiện tình yêu mến tha thiết của ông
đối với thiên nhiên, đất nước. Với việc sử dụng điệp ngữ “thuyền tôi trôi” cộng
với câu văn kết thúc bằng thanh bằng (13/15 câu), cùng phép nhân hóa và ngôn
ngữ giàu chất thơ, Nguyễn Tuân đã gọi được hồn vía của Sông Đà bằng một
đoạn văn quá đẹp. Đoạn văn đẹp như những trang hoa, tờ hoa. Vẻ đẹp đó được
dệt lên từ tình yêu thiên nhiên đất nước say đắm muốn dùng văn chương để ca
ngợi vẻ đẹp của quê hương đất nước, làm đẹp cho đời và làm giàu tâm hồn của
bạn đọc. Với Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân xứng đáng được coi là bậc thầy
của thể loại tùy bút và ngôn ngữ tiếng Việt. Với Người lái đò Sông Đà nói riêng
và tùy bút Sông Đà nói chung thì dòng sông đặc biệt trên Tây Bắc này mãi mãi là
địa hạt riêng của Nguyễn Tuân mà khó ai có thể xâm phạm được.

b. Lí luận văn học

Quả đúng như Pau top xki từng khẳng định: “nhà văn chân chính là người
dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”. Với đoạn văn vừa phân tích, Nguyễn Tuân đã
xứng đáng được coi là người nghệ sĩ chân chính, người suốt đời đi tìm kiếm cái đẹp.
Vâng, với vẻ đẹp của dòng Sông Đà, sự giàu có của ngôn ngữ và tấm lòng của
nhà văn Nguyễn Tuân, ông đã để lại cho đời một siêu phẩm còn “xanh mãi” với
thời gian. Đúng như Văn Cao viết trong bài thơ Thời gian:

“Riêng những câu thơ còn xanh

Riêng những bài hát còn xanh

Và đôi mắt em long lanh

60
Như hai giếng nước”

Từ đây ta thấy, những gì thuộc về nghệ thuật chân chính, thuộc về cái đẹp
sẽ bất từ cùng thời gian. Muốn vậy người nghệ sĩ phải “nhân đạo từ trong cốt
tủy”, là người sẵn sàng “đứng trong lao khổ để đón lấy những vang vọng cuộc đời”
và phải là người biết “tìm tòi, biết khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo
những gì chưa có”. Vâng đó là trách nhiệm nặng nề, công việc rất vất vả của người
cầm bút.
4. Lệnh phụ: 3 bước
- Khái niệm: chất thơ:
- Biểu hiện trong tác phẩm/đoạn trích
- Đánh giá ý nghĩa của lệnh phụ đối với tác phẩm, độc giả.
B1: Trong đoạn trích ta thấy chất thơ thể hiện rất rõ nét. Chất thơ là một thuật
ngữ lí luận văn học thể hiện một phẩm chất đặc biệt của văn xuôi. Tác phẩm
văn xuôi được coi là có chất thơ khi đi sâu miêu tả thế giới cảm xúc và tâm trạng
với những rung động tinh tế. Chất thơ còn được thể hiện ở hình thức đó là tính
nhạc, là sự hàm súc tinh tế của ngôn từ và bằng một giọng văn giàu tính truyền
cảm.
B2: Trong tùy bút Người lái đò Sông Đà, chất thơ được biểu hiện ở những khía
cạnh sau: Thứ nhất, tác giả cảm nhận về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông: Sông Đà
như một người gái đẹp của núi rừng Tây Bắc với mái tóc dài, thật dài, mượt mà, tha
thướt, gài buông lơi những bông hoa ban trắng ngần hay những bông gạo đỏ rực,
thấp thoáng ẩn hiện giữa núi rừng mùa xuân mù sương khói. Thứ hai, vẻ tinh khôi,
non tơ của nương ngô nhú lá non đầu mùa, của những vạt đồi cỏ gianh đang ra nõn
búp; vẻ lặng tờ, tịnh không một bóng người, hoang dại, hồn nhiên của đôi bờ biền
bãi. Thứ ba, ở xúc cảm tinh tế của tác giả trước dòng sông thơ mộng, trữ tình: cảm
giác đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân sau chuỗi ngày chia biệt; cảm giác thấy
thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường
61
sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu... Thứ tư, ở những so sánh, liên tưởng thú vị độc
đáo của Nguyễn Tuân: Sông Đà như một người con gái đẹp, như một cố nhân, nước
Sông Đà đổi màu liên tục qua mỗi mùa trong năm.
B3: Chất thơ trong tuỳ bút của Nguyễn Tuân là một phần trong nội dung phong
cách tài hoa, uyên bác của ông. Ông để lại ấn tượng đặc biệt về một con sông
đầy cá tính, mang tính cách của con người với hai nét độc đáo, đối lập mà thống
nhất: hung bạo và trữ tình. Qua đó, ta thấy nhà văn có công đi tìm cái đẹp - chất
vàng thiên nhiên Tây Bắc để ca ngợi. Thiên nhiên là sản phẩm nghệ thuật vô giá, là
công trình mĩ thuật của tạo hoá đã ban tặng cho con người. Đó cũng chính là tình
yêu Tổ quốc mà nhà văn cách mạng Nguyễn Tuân đã gửi gắm qua trang tuỳ bút
của mình.
KB:
Người lái đò Sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước
say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa
kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao
động bình dị ở miền Tây Bắc. Tác phẩm còn là công phu lao động nghệ thuật khó
nhọc, cùng sự tài hoa, uyên bác của một người nghệ sĩ chân chính trong việc dùng
chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hóa và kĩ tích lao động của con người.
Từ đó, ta có thể khẳng định khi tài năng sáng tạo và tâm huyết đi liền với nhau
con người sẽ luôn tạo ra những siêu phẩm để đời. Vậy tại sao ta không sống
bằng tất cả tình yêu và tinh thần trách nhiệm, bằng cái tâm trong sáng “để gió
mãi cuốn đi”???

ĐỀ 7: HÌNH TƯỢNG ÔNG LÁI ĐÒ

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

62
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.

Đọc những câu thơ trong trích đoạn Đất Nước, trích trường ca “Mặt đường
khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, tôi lại liên tưởng đến ông lái đò trong tùy bút
“Người lái đò Sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm không chỉ miêu tả vẻ
đẹp của con Sông Đà hung bạo và trữ tình mà còn miêu tả vẻ đẹp của ông lái đò với
hai tư cách người nghệ sĩ trên sông nước và người anh hùng trong lao động bằng
một phong cách rất tài hoa, uyên bác.

Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là nhà văn lớn, nhà văn hóa lớn của dân tộc, người
nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách tài hoa, uyên
bác, độc đáo. Ông luôn tiếp cận thiên nhiên ở vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội hoặc thơ mộng,
tuyệt mĩ; luôn tiếp cận con người dưới tư cách của một người nghệ sĩ. Nếu trước
Cách mạng tháng Tám, ông nổi tiếng với tập truyện “Vang bóng một thời” thì sau
cách mạng ông nổi tiếng với tập tùy bút Sông Đà (1960). Tập tùy bút là thành quả
nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và
hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi, không chỉ để thỏa mãn cái thú tìm đến
những miền đất lạ cho thỏa niềm khát khao xê dịch, mà chủ yếu để tìm kiếm chất
vàng của thiên nhiên cùng thứ vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn của những con
người lao động và chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng đó. Vì thế,
Sông Đà nói chung và tùy bút Người lái đò Sông Đà nói riêng cho ta nhận ra diện
mạo của một nhà văn Nguyễn Tuân mới mẻ, khao khát được hòa nhập với đất nước
và cuộc đời. Tùy bút Người lái đò Sông Đà tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho
cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác

63
đáng nhất, có khả nawg làm lay động người đọc nhiều nhất. Đến với trận thủy chiến
kinh điển của ông lái đò với Sông Đà hung bạo sẽ thấy rất rõ điều này.
Trong tùy bút Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân đã miêu tả rất thành công
hình ảnh người lái đò, tiêu biểu cho con người lao động trong thời đại mới. Nếu như
con Sông Đà là thứ vàng của thiên nhiên Tây Bắc, thì người lái đò chính là chất
vàng mười của thứ tâm hồn Tây Bắc đã qua thử lửa. Ông lái đò là kết tinh tư tưởng,
tình cảm và tài năng của nhà văn Nguyễn Tuân
Ấn tượng đầu tiên về ông lái đò chính là diện mạo quắc thước của vị tướng chỉ
huy. Ông lái đò gần 70 tuổi, cái đầu quắc thước được đặt trên thân hình cao to và
gọn quánh như chất sừng, chất mun. Khuôn mặt ông he hé một nửa nụ cười. Tay
ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh như lúc nào cũng kẹp cái
cuống lái trong tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng thác trước mặt ghềnh, nhỡn
giới ông vòi vọi như lúc nào cũng trông thấy cái bến ở đằng xa trong sương. Có thể
khẳng định diện mạo của ông lái đò in hằn dấu ấn của công việc lao động sông nước
gian nan khắc nghiệt, hiểm nguy.
Ấn tượng thứ hai về ông lái đò là ông có trí nhớ siêu việt. Trí nhớ của ông
được rèn luyện cao độ. Ông lái đò nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào từng luồng nước,
của tất cả những con thác hiểm trở. Nếu coi con Sông Đà là bản trường ca, thì ông
lái đò nhớ từng dấu chấm, dấu phẩy đến dấu chấm xuống dòng.
Cuộc sống của ông lái đò gắn liền với công việc gian nan khắc nghiệt bởi ông
làm nghề chở dọc đò sông Đà suốt 10 năm liền. Chính vì thế, bao nhiêu sự độc dữ
nguy hiểm là cuộc chiến đấu với bao nhiêu thác ghềnh ông đều phải vượt qua. Cuộc
sống của ông là một cuộc chiến đấu hàng ngày với thiên nhiên có diện mạo, có tâm
địa như kẻ thù số một của con người để giành sự sống từ tay nó về tay mình. Chính
vì thế, Sông Đà càng hung bạo, cuồng nộ bao nhiêu, khi chiến thắng nó người lái đò
càng được tôn vinh bấy nhiêu. Trong cuộc chiến này, ông lái đò hiện lên uy nghi,
sừng sững trước con sông hung bạo. Vẻ đẹp của ông lái đò được nhà văn Nguyễn

64
Tuân miêu tả rất độc đáo, sáng tạo qua trận thủy chiến với ba thạch trận. Phải khẳng
định rằng, ba thạch trận chính là thiên la địa võng, là trận đồ bát quái mà thiên
nhiên, thần sông thần đá giăng ra để tiêu diêt ông lái đò. Ba thạch trận là thách thức
không nhỏ buộc ông lái đò phải vượt qua.
Ở thạch trận một có năm cửa trong đó có bốn cửa tử và một cửa sinh, cửa sinh
được bố trí bên phía tả ngạn. Ở thạch trận này, con Sông Đà đã tung ra những món
đòn hiểm độc như đá trái, thúc gối, túm chặt lấy thắt lưng, rồi đánh đòn âm, đòn tỉa,
đòn hồi lùng, truy kích. Chúng đã có sự hợp sức của sóng, nước, đá đánh phủ đầu
ông lái đò khi tung ra những đội “quân liều mạng” hò la vang dậy “ùa vào bẻ gãy
cán chèo”. Rồi chúng tung ra cả món đòn hiểm độc nhất khi “bóp chặt hạ bộ của
người lái đò” khiến ông lái đò bị thương mặt méo bệch đi. Dòng nước quá nham
hiểm, độc ác, quá hung bạo, chúng là đại diện cho sức mạnh của uy vũ cuồng nộ.
Mặc dù bị đánh phủ đầu, tấn công vào chỗ hiểm khiến ông lái đò mặt méo bệch đi
nhưng ông vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái. Bị đánh dồn
dập, liên tiếp bằng nhiều mảng miếng biến ảo nhưng ông lái đò vẫn ông nao núng
tinh thần, ông vẫn kìm nén vết thương để chỉ huy con thuyền một cách ngắn gọn
tỉnh táo trên một chiếc thuyền có sáu bơi chèo. Vâng, sự tỉnh táo, rõ ràng trong hoàn
cảnh này không phải ai cũng làm được, điều đó chỉ xuất hiện đối với những bậc anh
hùng, cao nhân. Chi tiết này khiến ta liên tưởng đến Quan Vũ khi được Hoa Đà mổ
cạo chất độc ở xương, ông vẫn ung dung chơi cờ. Và ông lái đò cũng vậy: Uy vũ
bất năng khuất. Rõ ràng, ở thạch trận một, ông lái đò mang dáng dấp của một
vị tướng chỉ huy bản lĩnh, kiên cường, dũng cảm.
Sang thạch trận hai, thách thức dành cho ông lái đò càng chồng chất. Con Sông
đã tăng thêm nhiều cửa, cửa sinh được bố trí bên phía hữu ngạn. Điều đặc biệt,
thạch trận hai được bố trí gần ngay sát thạch trận một khiến cho người lái đò không
được nghỉ ngơi một phút mà phải luôn tay luôn cả tim. Hơn nữa, khi tiến vào thạch
trận hai, ông lái đò đã bị thương, bị hao mòn sức lực, giờ lại bị đặt trong thế “tiến

65
thoái lưỡng nan”. Mặc dù khó khăn chồng chất, hiểm nguy rình rập, nhưng do nắm
chắc binh pháp của thần sông thần đá ở nơi ải nước hiểm trở, cho nên có chỗ thì
ông lái đò “cưỡi lên thác nước Sông Đà như cưỡi hổ phải cưỡi tới cùng”. Có lúc thì
ông rảo bơi chèo, có khi đè sấn lên chặt đôi mà mở đường tiến. Ở thạch trân hai này
ông lái đò rất mạnh mẽ “nắm chặt được cái bờm sóng đúng luồng, ông ghì cương lái
phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chéo”; có lúc nhớ mặt bọn đá, ông
khi thi tránh mà rảo bơi chèo ung dung tự tại. Ông lái đò đã chiến thắng bằng trí nhớ
siêu việt của một con người tự do khi đã “nắm chắc được binh pháp của thần sông
thần đá”. Ở thạch trận này ông mang vẻ đẹp của Triệu Tử Long tả xung hữu đột
xông vào giữa quân Tào để cứu ấu chúa; có lúc ta lại thấy ông như một cao bồi miền
Tây đang thuần phục con ngựa bất kham; có khi ông như Võ Tòng đánh hổ rất dũng
mãnh; có lúc ông ung dung tự tại như một người nghệ sĩ. Ở thạch trận này ta vừa
thấy được sức mạnh của thể chất, trí dũng vô song của ông lái đò. Ông như mang
sức mạnh của một chàng trai tuổi đôi mươi, khi thì là một con người đã lão luyện
trong trận mạc. Nói tóm lại, bằng đoạn văn, Nguyễn Tuân đã miêu tả rất sống động
vẻ đẹp của ông lái đò là một con người lao động trí dũng nhưng vẫn toát lên cốt
cách của một người nghệ sĩ. Ông lái đò là sự tổng hòa của những hình tượng anh
hùng để đời trong các pho sử nổi tiếng trên toàn thế giới. Chất anh hùng và tâm hồn
nghệ sĩ đã hòa làm một.
Ở thạch trân 3, ít của tử hơn khi chỉ có hai cửa, cửa sinh được bố trí ở giữa
những cánh cửa đá khép mở trong làn hơi nước. Tuy chỉ có hai cửa tử nhưng khó
khăn chồng chất, hiểm nguy dữ dội. Sông Đà quá nham hiểm, quá mưu mô, xảo
quyệt khi bố trí cửa sinh ở những cánh cổng đá khép mở để đánh lừa thị giác của
người lái đò. Nhìn thì tưởng “ngon ăn” khi cửa sinh đã được mở toang, nhưng chỉ
cần một chút sơ suất nhỏ, chỉ cần thiếu chính xác một chút xíu thôi ông lái đò sẽ
phải trả giá bằng cả tính mạng. Hơn nữa, ở thạch trận này ông lái đò phải đi với một
tốc độ rất cao, vút vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng theo một đường zich

66
zắc để lượn qua những cánh cổng đá khép mở là điều không hề dê dàng gì. Ấy vậy,
những khó khăn hiểm nguy không làm cho ông lái đò lùi bước, mà ngược lại tay lái
của ông lái đò lại thăng hoa để vượt qua những cánh cổng đá đó rồi cho “con thuyền
tự động lượn được lái được”. Có thể nói, con thuyền đi với một tốc độ rất cao, tốc
độ của tia chớp xé gió “vút vút” kinh hoàng như vậy đòi hỏi người lái đò phải có
bản lĩnh và sự khéo léo mới có thể vẽ được một đường cong rất mềm mại giữa sóng
nước Sông Đà, giữa mây trời Tây Bắc. Ở thạch trận này ông lái đò hiện lên như một
tay đua công thức một, một người nghệ sĩ trên sân cỏ đã đi bóng với tốc độ rất cao,
mềm mại, khéo léo vượt qua các cầu thủ đối phương và rỗi tạo ra một siêu phẩm với
một đường cong tuyệt mĩ. Ông lái đò đã để lại một tuyệt phẩm có một không hai,
một siêu phẩm để đời “xưa nay chưa từng có”. Để đi với tốc độ cao như thế khi vào
đường cua, ô tô và xe máy có sự hỗ trợ của côn, phanh, ga, số, còn ông lái đò chỉ có
sự hỗ trợ của cán chèo vậy mà ông vẫn vẽ được một đường cong tuyệt mĩ khi cho
con thuyền tự động lượn được và lái được thì quả thực quá tài hoa, quá vi diệu. Với
siêu phẩm này, ông lái đò đã đạt đến trình độ thượng thừa trong nghệ thuật vượt
thác ghềnh. Ông chính là người nghệ sĩ trên sông nước có tay lái ra hoa. Trong cuộc
chiến đấu sinh tử với con Sông Đà quá hung bạo mà chất nghệ sĩ vẫn được phát huy
thì thật là bản lĩnh, thật tài hoa. Chất nghệ sĩ trong ông lái đò bỗng chốc thăng hoa
để tạo nên một kiệt tác cho đời.
Nói tóm lại, qua cuộc chiến đấu với ba thạch trận, ông lái đò lên cốt cách của
một người anh hùng trí dũng và vẻ đẹp của người nghệ sĩ có tay lái nở hoa. Điều
đáng nói ở đây là ông lái đò gần 70 tuổi đã chiến thắng được con Sông Đà cuồng nộ,
bung bạo, là biểu tượng cho sức mạnh của thiên nhiên Tây Bắc. Chiến thắng ấy vẻ
vang biết chừng nào! Nó không khác gì chiến thắng của ông lão Xan –ti – a – gô
trong tiểu thuyết “Ông già và biển cả” của nhà văn Hê – Minh – Uê. Chiến thắng
của ông lái đò chính là chiến thắng của kinh nghiệm, của niềm tin, cảu một vẻ đẹp
tâm hồn trí dũng và bàn tay của người nghệ sĩ khéo léo, tài hoa. Qua chiến thắng

67
ấy, nhà văn Nguyễn Tuân đã tôn vinh và ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động
trong thời đại mới. Ông lái đò chính là Sơn Tinh của thế kỉ XX.

Qua hình tượng ông lái đò, Nguyễn Tuân như muốn khẳng định không chỉ có
người anh hùng trong chiến đấu mà còn có người anh hùng trong lao động, không
chỉ có người nghệ sĩ trong các lĩnh vực nghệ thuật mà còn có người nghệ sĩ trong
công việc lao động bình dị đời thường. Với hình tượng ông lái đò, Nguyễn Tuân đã
mở rộng để tài về người anh hùng và nghệ sĩ. Đây là một quan điểm rất mới mẻ,
một tư tưởng rất tiến bộ và nhân văn. Đối với Nguyễn Tuân chỉ cần thuần thục, tài
hoa, khéo léo trong các lĩnh vực nghề nghiệp của mình đang làm cũng xứng đáng
được tôn vinh là người nghệ sĩ. Với quan điểm này, Nguyễn Tuân đã là người khai
mở, người giải phóng để từ đây, con người sẽ phát huy toàn bộ tài năng, tâm huyết
của mình trong công việc bình dị.

Như vậy so với Chữ người tử tù, Người lái đò Sông Đà vừa có sự thống nhất,
vừa có sự phát triển. Thống nhất trong ở cách tiếp cận con người với hai tư cách là
người nghệ sĩ và người anh hùng. Còn phát triển là nếu như Huấn Cao trong Chữ
người tử tù là lớp nho sĩ cuối mùa nay chỉ còn “vang bóng một thời”, thì ông lái đò
lại là con người lao động của thời đại mới. Ông lái đò chính là chất vàng mười của
thứ tâm hồn Tây Bắc đã qua thử lửa, là kết tinh tài năng nghệ thuật và tư tưởng của
nhà văn Nguyễn Tuân.

Với việc sử dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực, cùng với việc huy động đội
quân ngôn từ hùng hậu, công với sự liên tưởng phong phú, táo bạo bất ngờ, so sánh
độc đáo; kết hợp với việc sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, điệp
từ, điệp ngữ, Nguyễn Tuân đã rất thành công khi miêu tả ông lái đò trong cuôc
jchieens đấu với ba thạch trận. Ông lái đò chính là một người anh hùng và người
nghệ sĩ trong lao động sông nước. Cuộc chiến đấu của ông lái đò đã tạo nên một
khúc tráng ca ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động trên sông nước khắc nghiệt.

68
Ông lái đò chính là kết tinh những gì đặc sắc nhất của nhà văn Nguyễn Tuân.
Chính từ hình tượng ông lái đò đã góp phần tạo nên một áng văn đẹp được dệt nên
từ tình yêu nước đắm say của một con người muốn dùng văn chương để miêu tả vẻ
đẹp kì công của tạo hóa và kì tích của con người trên vùng núi sông hùng vĩ và thơ
mộng của Tổ quốc. Đọc Người lái đò Sông Đà đã làm thay đổi mắt ta nhìn, óc ta
nghĩ, tác phẩm đã “soi rọi một thứ ánh sáng riêng” thứ ánh sáng ấy đủ tiếp thêm
sức mạnh giúp ta vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc đời. Cảm ơn nhà
văn Nguyễn Tuân bởi một áng văn quá đẹp, đẹp từ câu chữ cho đến tấm lòng!

Đề 8: Trong tùy bút Người lái đò Sông Đà khi miêu tả dòng sông Đà, nhà văn
Nguyễn Tuân viết: “… Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng
nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì,
rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế
rồi nó rống lên như phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu
da cháy bùng bùng...”

Trong một đoạn khác tác giả lại viết: “ ... Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như
một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở
hoa ban hoa gạo tháng hạt và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.
Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà tôi đã xuyên qua đám
mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà. Mùa xuân đồng xanh ngọc
bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm sông
Lô Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu
bữa..”

(Nguyễn Tuân - Ngữ văn 12, chương trình chuẩn, tập 1, NXB Giáo dục Việt
Nam, 2007, tr.187 và tr.191)

69
Anh/chị hãy cảm nhận hình tượng con sông Đà trong hai đoạn trích trên, từ
đó bình luận về sự độc đáo trong phong cách của Nguyễn Tuân.

HƯỠNG DẪN CHI TIẾT

* Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Tuân và đoạn trích Người lái đò Sông
Đà..

- Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, độc đáo, thành tựu trên các các thể loại: truyện
ngắn và tùy bút. Là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật và cuộc sống.

Tuy cuộc đời cầm bút vắt qua hai giai đoạn trước và sau Cách mạng Tháng Tám

nhưng sáng tác của ông thống nhất ở cái nhìn duy mĩ về con người và sự vật.

- Tác phẩm được sáng tác nhân một chuyến đi công tác của nhà văn lên vùng núi

Tây Bắc và được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960)

* Phân tích hình tượng sông Đà qua hai đoạn văn.

- Phân tích hình ảnh con sông Đà trong hai đoạn văn trên:

+ Hình tượng Sông Đà hung bạo:

* Vị trí: Đoạn văn miêu tả tcas nước Sông Đà trong cuộc thủy chiến với người lái
đò. Đây là một trong những đoạn dữ dội, hiểm nguy nhất của Sông Đà.

*Nội dung:

++ Hung bạo của sông Đà còn thẻ hiện ở thác nước hùm beo. Nguyễn Tuân đã buộc
sự dữ dội, nham hiểm của sông Đà phải hiện lên thành hình và gào thét bằng trăm
ngàn âm thanh với những cung bậc khác nhau.

+ Khi còn xa mới tới thác, Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh của tiếng nước thác
bằng những từ ngữ chỉ cảm xúc, thái độ, tâm trạng của con người khi oán trách, khi
van xin, khi khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo, khi rống lên. Nghệ thuật nhân hóa

70
đã khiến thác nước sông Đà thực sự trở thành một sinh thể sống đang giận dữ, gầm
gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện.

+ Sự tài hoa tinh tế của Nguyễn Tuân còn thể hiện qua cách nhà văn dùng hệ
thống những từ ngữ miêu tả âm thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái
cảm xúc và âm lượng để vừa miêu tả sống động sự đe dọa hung bạo của dòng sông,
vừa miêu tả khoảng cách ngắn dần của người quan sát của thác đá sông Đà – và có
lẽ đây cũng là cách làm tăng dần cảm giác hãi hùng, hồi hộp, kì thú.

+ Những phép so sánh kì thú trong một câu văn dài đầy ắp những hình ảnh dữ
dội với một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa,
đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng
nhà văn đã thể hiện sự tài hoa độc đáo khi lấy hình ảnh gợi tả âm thanh, lấy lửa tả
nước, lấy rừng tả sông, đặt những hình ảnh tương phản trong một trường liên tưởng
bất ngờ, thú vị. Cách miêu tả ấy khiến âm thanh của thác đá không chỉ được cảm
nhận bằng thính giác, không chỉ được hình dung qua trí tưởng tượng mà còn hiện ra
trong những ấn tuợng đặc biệt sống động của thính giác, thị giác.

+ Quan sát từ xa, nhân cách hóa hình tượng Sông Đà, miêu tả sự dữ dội của sông
Đà kêt hợp với phép so sánh tài hoa, độc đáo mang đậm phong cách Nguyễn Tuân.

=> Miêu tả cái độc dữ của thiên nhiên Đà giang không chỉ đơn thuần là nhà
văn miêu tả hay tái hiện mà ẩn đằng sau đó là một sự khám phá thú vị của nhà văn
cả đời đi săn tìm cái đẹp.Đó chính là chất vàng mười quý giá của thiên nhiên Tây
Bắc, một thiên nhiên kì thú, hoang sơ và một tiềm năng thủy điện to lớn của sông
Đà trong công cuộc xây dựng đất nước.

+ Hình tượng sông Đà trữ tình.

*Vị trí: Miêu tả sông Đà trữ tình, thơ mộng thông qua dáng vẻ và màu sắc của dòng
sông

*Nội dung”
71
++Giọng văn thay đổi đột ngột chuyển từ mạnh mẽ , gân guốc sang nhẹ
nhàng, lắng sâu, và sau một cái vặn mình dễ thương của dòng sông nó đã gợi lên
bao cảm xúc .

++ Cảm nhận dòng chảy của Sông Đà từ trên cao nhìn xuống, hình dáng của
Sông Đà khúc này hiền hòa, mềm mại, và gợi cảm như mái tóc của một thiếu nữ
kiều diễm: “Con Sông tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đàu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói mù
núi Mèo đốt hương xuân”.

+++ Nhưng cái đẹp đẽ nhất, mĩ lệ nhất là hình ảnh con sông Đà tuôn dài tuôn dài
như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở
hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Câu văn
này của Nguyễn Tuân xứng đáng được xếp vào những câu văn đẹp được coi là tờ
hoa trong văn học Việt Nam hiện đại. Chính nhịp câu, lời văn và nghĩa chữ đã góp
phần gợi tả những nét thi vị thật đặc biệt của dòng sông. Câu văn rất dài chỉ có một
dấu ngắt duy nhất vừa như mô phỏng sự tuôn dài của dòng sông, vừa đem đến cảm
giác về sự liền mạch bất tận, gợi hình ảnh dòng sông uốn lượn tuôn chảy từ những
dãy núi hùng vĩ của biên giới Tây Bắc, miên man chảy xuống đồng bằng, lặng lẽ
hòa vào sông Hồng rồi tha thiết đổ ra biển... Những thanh bằng liên tiếp ở đầu câu
văn cũng làm tăng thêm sự yên ả, êm đềm, bình lặng cho dòng sông. Hơn nữa, tác
giả đã đặt dòng sông trong một trường liên tưởng vô cùng diễm lệ: cả miền Tây Bắc
tựa một nàng thiếu nữ trẻ trung, xinh đẹp yêu kiều, còn sông Đà chính là mái tóc
kiều diễm của người thiếu nữ ấy. Cách so sánh của nhà văn đã gợi ra nét tha thướt,
mềm mại, dịu dàng và kiêu sa của dòng sông.

Ở đoạn này, những trang kí của Nguyễn Tuân được tô điểm thêm bằng
những sắc màu và đường nét của nghệ thuật hội họa. Sắc xanh của dòng sông thật
nổi bật giữa sắc trắng tinh khiết của hoa ban và sắc đỏ đến nao lòng của hoa gạo.
Ngược lại, cái bung nở đầy mạnh mẽ của hoa ban, hoa gạo lại góp phần diễn tả sức
72
sống căng tràn của dòng sông và tất cả bức tranh nên thơ, đẹp đẽ đó lại được ẩn hiện
trong lớp sương khói lãng đãng, bởi vậy có thêm vẻ đẹp huyền ảo, mơ màng.

++ Không chỉ đẹp ở hình dáng, Sông Đà còn gợi cảm ở màu sắc, mà tác giả
đã dày công bao lần quan sát mới nói hết được vẻ đẹp độc đáo đó, nét duyên dáng
rất riêng của nó…Đó chính là sự thay đổi màu sắc theo mùa

+++ Mùa xuân: sông Đà mang màu xanh ngọc bích. Ẩn đằng sau hình ảnh miêu tả
tưởng chừng như đơn giản ấy là vẻ đẹp của nước, về độ trong cũng như ánh sáng
trên sông Đà. Để có thể tạo nên sắc xanh đẹp đẽ như sắc ngọc thì đòi hỏi dòng nước
phải đạt đến độ trong vắt, đong chảy phải thực sự êm đềm, ngoài ra còn có ánh sáng
chan hòa rực rỡ. Xanh ngọc là màu xanh êm dịu, vừa có màu lại vừa có ánh như có
ánh sáng tỏa ra từ bên trong, đẹp đẽ và cao quý. Bằng sự từng trải của một người
ham xê dịch, nhà văn đã nhận thấy cùng là sắc xanh nhưng chỉ nước sông Đà về
mùa xuân mới đạt đến độ trong trẻo và đẹp như thế, còn các dòng sông khác như
sông Lô, sông Gâm mang màu xanh canh hến. Rõ ràng, cảm hứng đề cao, tôn vinh,
ngợi ca của tác giả được thể hiện rất rõ.

+++Mùa thu: nước sông Đà mùa thu như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ
lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Sắc đỏ của
dòng sông được miêu tả không chỉ ở bề mặt có thể cảm nhận bằng thị giác mà còn ở
sâu tâm trạng, ở sự bất mãn, bực bội mà phải cảm nhận bằng tâm hồn mới hiểu
được. Nhà văn đã không chỉ làm hiện lên màu sắc rất đặc trưng của sông Đà trong
mùa thu mà còn thể hiện sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa đầy đe dọa của một dòng sông
vẫn năm năm báo oán đời đời đánh ghen với con người.

+++Bằng tình yêu của một người say mê nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã thẳng thắn
phản bác cái tên mà thực dân Pháp đã gọi sông Đà là sông Đen. Bằng sự khẳng định
độc đáo này, Nguyễn Tuân đã bày tỏ tình cảm yêu mến vô vàn con sông quê hương
xử sở và vượt lên trên tất cả là tình yêu tổ quốc, lòng tự hào tự tôn dân tộc.

73
+Sông Đà gợi cảm bởi sự mềm mại, hiền hòa, nên thơ và đáng yêu .

* Đánh giá:

+Giống nhau:

++Hai đoạn văn đều miêu tả con sông Đà trong mối quan hệ với người

lái đò trên dòng sông. Bút pháp nhân hóa, làm cho con sông trở thành một sinh vật

có cá tính độc đáo. Thể hiện cái nhìn biện chứng của nhà văn về hai nét tính cách

khác biệt của dòng sông

+Khác nhau:

++ Đoạn 1: hình ảnh con sông Đà hung bạo, dữ tợn như con thủy quái
khổng lồ, ngôn ngữ gân guốc, góc cạnh, sắc sảothể hiện tính cách dữ tợn, với âm
mưu nham hiểm của các thạch trận đá.

+ + Đoạn 2: hình ảnh con sông Đà đằm thắm, trữ tình. Học sinh phân
tích hình ảnh, ngôn ngữ mượt mà, uyển chuyển, sâu lắng

=> Sự khác biệt trong cách miêu tả hai nét tính cách tưởng như đối lập mà lại thống
nhất biện chứng với nhau. Hai nét tính cách đối lập tạo nên cá tính độc đáo của dòng
sông Đà

* Phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân:

- Người lái đò Sông Đà thể hiện cảm hứng với những hiện tượng đập mạnh vào
giác quan nghệ sĩ của nhà văn.

++ Con Sông Đà dưới cái nhìn của Nguyễn Tuân khong còn là một tạo vật thiên
nhiên vô tri vô giác nữa mà là một sinh thể có tính cách và tâm trạng đầy phức tạp.

++ sông Đà có đời sống riêng vừa đẹp tuyệt vời vừa cực kì hung hãn mà Nguyễn
Tuân gọi là hung bạo và trữ tình.

- Khám phá sự vật ở phương diện thẩm mĩ, mĩ thuật .

74
++ Trong cái nhìn của Nguyễn Tuân, Sông Đà là một công trình nghệ thuật kì
diệu của tạo hóa, điểm tô cho nước non Hồng lạc này.

++Con song trong sáng, dịu dàng và gợi cảm biết bao, “ con sông tuôn dài tuôn
dài như một áng tóc trữ tình”. Màu nước Sông Đà cũng đổi thay kì diệu và lóe lên
cái nắng đầy chất thơ Đường “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”

- Miêu tả thế giới tạo vật bằng tri thức, ngôn ngữ của nhiều nghành văn hóa, nghệ
thuật khác nhau.

++ Vận dụng linh hoạt tri thức các nghành như hội họa, điêu khắc, âm nhạc, sân
khấu, lịch sử, địa lí.

++ V ận dụng kĩ thuật điện ảnh.

++ Vận dụng nghệ thuât võ thuật và quân sự.

++ Vận dụng tri thức của nhiều bộ môn khác

- Nguyễn Tuân đã sử dụng thể tùy bút kí rất phóng túng, ngôn ngữ chính xác, biến
hóa giàu hình ảnh giàu nhạc tính, tài năng kiến tạo các câu văn.

=> Phong cách Nguyễn Tuân nói chung rất độc đáo và phong phú. Người lái đò
Sông Đà hấp dẫn người đọc ở lối văn tài hoa lịch lãm, thể hiện cách nhìn sự vật vào
con người ở góc độ văn hóa và thẩm mĩ của Nguyễn Tuân.

Đề 9: Trong tùy bút Người lái đò Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã miêu tả
Sông Đà: “ Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có
những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm
móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy
tít đáy, cũng đang lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần
những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y
như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra
ngoài bờ vực.”

75
Và “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc
ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.

(Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục VN, 2015, tr186 và 191)

Anh( chị) hãy phân tích hình tượng Sông Đà trong hai đoạn trích trên, từ đó
nhận xét về sự độc đáo trong cách miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Tuân.

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT

* Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Tuân và đoạn trích “Người lái đò
Sông Đà”

* Phân tích hình tượng con Sông Đà trong hai đoạn văn

- Hình tượng con Sông Đà trong đoạn văn thứ nhất:

+Vị trí: Đoạn văn miêu tả Sông Đà ở quãng Tà Mường Vát với những cái hút
nước khủng khiếp. Đây là một trong những đoạn dữ dội, hiểm nguy nhất của Sông
Đà.

+ Về nội dung:

++ Diện mạo sống động: Như cái giếng bê tông, như cửa cống cái bị sặc, lừ lừ
những cánh quạ đàn. Sức mạnh khủng khiếp: Nước thở và kêu…xoáy tít đáy…quay
lừ lừ

+++ Một loạt những so sánh sống động, đặc sắc khiến hút nước thiện ra trong hình
ảnh như một cái giếng bê tông xoáy tít, trong âm thanh của một cửa cống cái bị sặc,
trong cả hình ảnh và âm thanh như mặt nước bị rót dầu sôi.

+++ Từ láy tượng hình lừ lừ, từ láy tượng thanh tăng nghĩa ặc ặc cùng
những chi tiết so sánh mang sắc thái nhân hóa khi miêu tả nước (thở và kêu như cửa

76
cống cái bị sặc), tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước
như một quái vật đang giận dữ tới ghê người.

++ Sông Đà quãng này là sự sợ hãi với bất cứ người nào đi qua đây, không thuyền
nào dám men gần…chèo nhanh để lướt quãng sông y như là ô tô sang số ấn ga.

+Về nghệ thuật: Biện pháp so sánh, nhân hóa, câu văn giàu nhạc điệu, giàu hình
ảnh liên tưởng, vận dụng am hiểu về nhiều lĩnh vực trong cuộc sống.

- Hình tượng con Sông Đà trong đoạn thứ hai:

+Vị trí: Miêu tả sông Đà trữ tình, thơ mộng thông qua dáng vẻ mềm mại của dòng
sông từ trên cao nhìn xuống.

+ Về nội dung:

++ Dòng chảy mềm mại, uyển chuyển, ẩn hiện như mái tóc người thiếu nữ Tây
Bắc với vẻ đẹp trẻ trung duyên dáng.

++ Vẻ đẹp của dòng sông hòa quyện với những nét đặc trưng của thiên nhiên
Tây Bắc.

+ Về nghệ thuật: Câu văn giàu chất họa, chất nhạc, vận dụng linh hoạt các biện
pháp tu từ, quan sát , miêu tả tỉ mỉ, tinh tế.

* Nhận xét về sự độc đáo trong cách miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Tuân.

- Độc đáo trong cách khám phá: là nhà văn của những tính cách độc đáo. Ông đã

tìm thấy ở Sông Đà cảm hứng mãnh liệt bởi đó không phải là một dòng sông vô tri
vô giác mà là một sinh thể có linh hồn, tính cách, thậm chí đối lập nhau, vừa hung
bạo vừa trữ tình.

- Độc đáo trong cách thể hiện: Ngôn ngữ giàu hình ảnh, câu văn giàu nhịp điệu co
duỗi nhịp nhàng” vận dụng linh hoạt, các biện pháp tu từ, liên tưởng độc đáo, kiến
thức uyên bác.

77
=> Cách khám phá miêu tả trên chính là những nét tiêu biểu trong phong cách nghệ
thuật của Nguyên Tuân.

Đề 10: Cảm nhận vẻ đẹp trí dũng tài hoa của ông lái đò trong đoạn trích Người
lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân. Từ đó so sánh với nhân vật Huấn Cao
trong Chữ người tử tù để thấy sự chuyển biến trong cách xây dựng nhân vật của
nhà văn.

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT

* Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần bàn luận.

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và Người lái đò sông Đà

- Giới thiệu nhân vật người lái đò và nhân vật Huấn Cao

* Phân tích nhân vật người lái đò sông Đà

* So sánh hai tác phẩm Chữ người tử tù và Người lái đò sông Đà.

- Giới thiêu nhân vật Huấn Cao

+ Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con
người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong sáng.

+ Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa
mãnh liệt đối với những con người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”.

=> Từ việc tìm hiểu vài nét về vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn Cao
chúng ta dễ thấy được những nét chung và điểm khác biệt trong cách tiếp cận con
người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám.

- So sánh

+ Nét chung:
78
++Nguyễn Tuân vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.

++ Vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều
ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu hiện.

++ Vẫn sử dụng vốn ngôn từ hết sức tinh lọc, phong phú, độc đáo. Khả năng tổ chức
câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng.
Các phép tu từ được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện.

+Nét riêng (tính khác biệt):

++ Trước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca
ngợi là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau Cách mạng
tháng Tám, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong
cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân

+ + Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích
chơi “ngông”, mắc cái bệnh ham mê thanh sắc, thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái
Đẹp và nhấm nháp những cảm giác mới lạ. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn
nhạy cảm với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ của nó. Nhưng
không còn là một Nguyễn Tuân “nghệ thuật vị nghệ thuật” nữa. Ông đã nhìn cái đẹp
của con người là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nẩy nở sinh
sôi, đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ
mới

++ Chữ người tử tù ca ngợi cái đẹp của tài hoa, khí phách và thiên lương,
qua đó phủ nhận thực tại phàm tục của xã hội thực dân phong kiến trước Cách
mạng. Người lái đò sông Đà ca ngợi con sông Đà và người lái đò sông Đà, bày tỏ
niềm yêu mến thiết tha thiên nhiên đất nước, niềm tin yêu cuộc sống mới, con người
mới.

++ Huấn Cao là con người của quá khứ, của lịch sử, nay chỉ còn “vang
bóng"; ông lái đò là con người của hiện tại, của hôm nay.

79
++ Huấn Cao là người đặc biệt, siêu phàm; ông lái đò là con người bình
thường của cuộc sống thường nhật.

++ Huấn Cao đố i lập sâu sắc với xã hội, trở thành kẻ tử tù của xã hội bất
công; ông lái đò là một con người đang ngày đêm đem sức lực và trí tuệ xây dựng
quê hương, đất nước.

+ Về cảm hứng thẩm mĩ:

+ + Qua nhân vật Huấn Cao: tài hoa nghệ sĩ chỉ có ở những con người kiệt
xuất thuộc quá khứ “vang bóng một thời’’

+ + Qua nhân vật ông lái đò: tài hoa nghệ sĩ có cả ở nhân dân đại chúng, thể
hiện trong lao động và chiến đấu.

+Về cách tiếp cận con người:

++ Trong Chữ người tử tù: ca ngợi những “con người đặc tuyển, những
tính cách phi thường”, ca ngợi cái đẹp và nhấm nháp những cảm giác mới lạ.

++ Trong Người lái đò sông Đà: ca ngợi những nhân vật tài hoa có
thể tìm thấy ngay trong cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân, ca
ngợi cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nảy nở sinh sôi đồng
thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ mới.

* Đánh giá chung:

- Hai tác phẩm Người lái đò Sông Đà và Chữ người tử tù đã nói lên phần nào
đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân với sự ổn định lẫn sự vận động
trong phong cách ở hai giai đoạn trước và sau Cách mạng.

Đề 11.
Trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà”, có đoạn Nguyễn Tuân viết: “Đá ở đây
từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc

80
thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào
nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Lại có đoạn: “Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của
người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác
hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.
Cảm nhận về hai đoạn văn trên, anh (chị) hãy lí giải điểm khác biệt trong cách
miêu tả con sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân.
Hướng dẫn:
a. Mở bài
– Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, độc đáo, thành tựu trên các các thể loại: truyện
ngắn và tùy bút. Là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật và cuộc sống.
Tuy cuộc đời cầm bút vắt qua hai giai đoạn trước và sau Cách mạng Tháng Tám
nhưng sáng tác của ông thống nhất ở cái nhìn duy mĩ về con người và sự vật.
– Tác phẩm được sáng tác nhân một chuyến đi công tác của nhà văn lên vùng núi
Tây Bắc và được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960)
- Dẫn vấn đê cần nghị luận (2 đoạn văn): Vẻ đẹp phong phú của Sông Đà- nét tính
cách đối lập.
b. Thân bài
b.1. Phân tích hình ảnh con sông Đà trong hai đoạn văn trên:
+ Giống nhau: hai đoạn văn đều miêu tả con sông Đà trong mối quan hệ với người
lái đò trên dòng sông. Bút pháp nhân hóa, làm cho con sông trở thành một sinh vật
có cá tính độc đáo. Thể hiện cái nhìn biện chứng của nhà văn về hai nét tính cách
khác biệt của dòng sông
+ Khác nhau:
+ Đoạn 1: hình ảnh con sông Đà hung bạo, dữ tợn như con thủy quái khổng lồ. Học
sinh phân tích đoạn con sông mai phục trong đoạn thủy chiến với người lái đò
81
+ Đoạn 2: hình ảnh con sông Đà đằm thắm, trữ tình. Học sinh phân tích hình ảnh
con sông ở đoạn hạ lưu: hai bên bờ sông, dòng sông lững lờ như nhớ thương những
hòn đá thác xa xôi ở thượng nguồn.
b.2.Lý giải điểm khác biệt trong cách miêu tả con sông Đà của nhà văn trong hai
đoạn văn kể trên:
– Sự khác biệt trong cách sử dụng từ ngữ, câu văn miêu tả về dòng sông.
+ Đoạn 1: ngôn ngữ gân guốc, góc cạnh, sắc sảo (mai phục, nhổm dậy, vồ lấy
thuyền…) thể hiện tính cách dữ tợn, với âm mưu nham hiểm của các thạch trận đá.
+ Đoạn 2: ngôn ngữ mượt mà, uyển chuyển, sâu lắng (lắng nghe, giọng nói êm êm,
đang trôi những con đò…) thể hiện tính cách hiền hòa, thơ mộng, trữ tình của dòng
sông.
– Do sự tiếp cận của nhà văn về dòng sông ở hai thời điểm khác nhau. Đoạn 1 là
hình ảnh con sông ở thượng nguồn với những đá hai bên bờ sông dựng vách thành,
những quãng mặt ghềnh, những cái hút nước và những thác nước… Nên dòng sông
trở nên dữ tợn, nguy hiểm. Còn ở đoạn 2 sông Đà được miêu tả ở đoạn hạ lưu, mặt
nước chậm trôi, hiền hòa, cảnh hai bên bờ sông tĩnh lặng, thơ mộng như lắng lại ở
người đọc nỗi nhớ thương những hòn đá thác xa xôi nơi thượng nguồn.
– Sự khác biệt trong cách miêu tả hai nét tính cách tưởng như đối lập mà lại thống
nhất biện chứng với nhau.
+ Đoạn 1: Tính cách hung bạo, dữ tợn của con sông Đà là do con sông đang “làm
mình làm mẩy” với con người Tây Bắc và “phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người
lái đò sông Đà”. Đó là cách con sông thể hiện tình yêu đối với con người Tây Bắc.
+ Đoạn 2: Tính cách trữ tình: cái nhìn bao quát từ cao và xa, con sông gợi cảm, trữ
tình. Biết làm duyên làm dáng “tuôn dài như một áng tóc trữ tình”, biết lắng nghe
“giọng nói êm êm của người xuôi”.
Hai nét tính cách đối lập tạo nên cá tính độc đáo của dòng sông Đà.

82
– Sự khác biệt trong hai nét tính cách của con sông Đà giúp nhà văn thể hiện quan
niệm về cuộc sống:
+ Thiên nhiên vừa là hoàn cảnh thử thách nghiệt ngã vừa là người bạn của con
người.
+ Nhà văn nhìn sự vật ở góc độ văn hóa thẩm mĩ. Bởi trong mỗi sự vật, mỗi con
người đều có cá tính độc đáo, cần được thấu hiểu.
+ Thể hiện tình yêu thiên nhiên và cuộc sống lao động của con người Tây Bắc trong
hành trình xây dựng cuộc sống mới XHCN
b.3. Đánh giá
– Con sông Đà với hai nét tính cách đối lập tạo nên cá tính độc đáo khác biệt trong
văn chương
– Khẳng định bút pháp tài hoa độc đáo của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật xây dựng
hình tượng văn học.
c. Kết bài
- Đánh giá khái quát vấn đề.
Đề 12.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng sông Đà trong đoạn trích. Từ đó, anh
(chị) hãy đánh giá sự độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân
được thể hiện qua hình tượng trên.
Hướng dẫn:
1.– Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và Người lái đò sông Đà.
- Dẫn vấn đề cần nghị luận: Vẻ đẹp hình tượng con sông Đà và quan niệm về cái
Đẹp của Nguyễn Tuân.
2. Hình tượng sông Đà
*Phân tích hình tượng

83
* Nghệ thuật xây dựng hình tượng
Hình tượng sông Đà được xây dựng dựa trên:
– Các thủ pháp đối lập, nhân hoá, so sánh.
– Những liên tưởng, tưởng tượng táo bạo, bất ngờ- Hệ thống ngôn từ giàu có, phong
phú, thể hiện vốn sống, vốn kiến thức uyên bác của tác giả thuộc nhiều ngành: lịch
sử, thơ ca, hội hoạ, quân sự, thể thao
* Đánh giá ý nghĩa, vai trò của hình tượng
– Hình tượng sông Đà biểu trưng cho chất vàng mười của thiên nhiên Tây Bắc – 1
hiện diện của cái Đẹp mà nhà văn khao khát kiếm tìm và thể hiện trong các sáng tác
sau cách mạng.
– Hình tượng sông Đà là phông nền để nhà văn khắc hoạ nổi bật vẻ đẹp trí dũng
tuyệt vời, chất tài hoa nghệ sĩ của hình tượng ông lái đò.
– Từ hình tượng sông Đà, người đọc cảm nhận được lòng yêu nước, tinh thần dân
tộc mang sắc thái riêng của Nguyễn Tuân.
3. Hình tượng sông Đà thể hiện sự độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của
Nguyễn Tuân sau cách mạng:
+ Sau cách mạng, Nguyễn Tuân vẫn là người say mê khao khát cái Đẹp, nhưng
Nguyễn Tuân đã biết tìm kiếm và khai thác Cái Đẹp trong lòng cuộc sống của cả
dân tộc.
+ Nguyễn Tuân vẫn luôn đi tìm vẻ đẹp độc đáo của cuộc sống, vì vậy ông đã bị sông
Đà cuốn hút bởi sự khác thường:
“Chúng thuỷ giai Đông tẩu / Đà giang độc Bắc lưu”.
+ Nguyễn Tuân trước và sau cách mạng luôn nhìn sự vật ở phương diện văn hoá, mĩ
thuật. Với cách nhìn này, sông Đà trong mắt ông hiện lên như một kì quan của tạo
hoá.

84
+ Nguyễn Tuân còn quan niệm cái đẹp phải gây ấn tượng mạnh. Vì vậy, ông thường
miêu tả những cảnh đẹp tuyệt đích: hoặc phải thơ mộng, trữ tình đến mức tuyệt mĩ,
hoặc hoành tráng đến dữ dội, dữ dằn. Sông Đà hội tụ được cả hai vẻ đẹp ấy.
4. Đánh giá
– Đánh giá khái quát vấn đề.
– Có thể nêu suy nghĩ riêng của bản thân

Đề 13.
Phân tích nhân vật người lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của
Nguyễn Tuân. So sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao (Chữ
người tử tù) để thấy chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người
của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945
Hướng dẫn:
a. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và Người lái đò sông Đà, Chữ người tử tù.
- Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân từ hai nhân vật ông lái đò và nhân vật
Huấn Cao (thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân
trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945)
b. Thân bài
b1.Hình tượng người lái đò
b.2. So sánh với nhân vật Huấn Cao:
Nhân vật Huấn Cao:
- Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con
người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong sáng.

85
- Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa
mãnh liệt đối với những con người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”.
Hình tượng ông Huấn Cao là hình tượng điển hình cho vẻ đẹp ‘vang bóng một thời”
nay đã lùi vào quá khứ chỉ còn dư âm trong tâm trạng của những tấm lòng tích cổ
thương kim (Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ- Vũ Đình Liên).
b.3. Sự thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân
trước và sau Cách mạng tháng Tám.
+ Nét chung (tính thống nhất):
- Nguyễn Tuân vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
- Vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều
ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu hiện.
- Vẫn sử dụng vốn ngôn từ hết sức tinh lọc, phong phú, độc đáo. Khả năng tổ chức
câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng.
Các phép tu từ được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện.
+ Nét riêng (tính khác biệt):
- Trước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca ngợi là
những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau Cách mạng tháng
Tám, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong cuộc
chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân.
- Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích chơi
“ngông”, mắc cái bệnh ham mê thanh sắc, thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái Đẹp và
nhấm nháp những cảm giác mới lạ. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn nhạy cảm
với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ của nó. Nhưng không còn là
một Nguyễn Tuân “nghệ thuật vị nghệ thuật” nữa. Ông đã nhìn cái đẹp của con
người là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nẩy nở sinh sôi,
đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ mới.

86
c. Kết bài
- Đánh giá chung về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.

Đề 14
Phân tích hình tượng sông Đà trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của
Nguyễn Tuân, qua đó nhận xét về những đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm.
Hướng dẫn:
a. Mở bài
- Người lái đò sông Đà là thiên tùy bút đặc sắc in trong tập Sông Đà, xuất bản năm
1960 của Nguyễn Tuân.
- Trong thiên tùy bút này, Nguyễn Tuân không chỉ ca ngợi con người lao động Tây
bắc thứ vàng mười đã qua thử lửa mà còn phát hiện và ca ngợi vẻ đẹp độc đáo của
con sông Đà: vừa dữ dội hung bạo, vừa thơ mộng trữ tình.
b. Thân bài
* Hình tượng sông Đà
* Nghệ thuật:
- Nguyễn Tuân đã vận dụng vốn tri thức phong phú về nhiều mặt để miêu tả con
sông Đà đem đến cho người đọc những trang viết hấp dẫn, lý thú.
- Miêu tả con sông Đà, Nguyễn Tuân sử dụng những ví von, so sánh, liên tưởng,
tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và thú vị.
- Khi miêu tả sông Đà, Nguyễn Tuân sử dụng vốn từ ngữ phong phú, sống động,
giàu hình ảnh và có sức gợi cao. Câu văn đa dạng, giàu nhịp điệu, co duỗi nhịp
nhàng, có lúc hối hả, gân guốc, có lúc chậm rãi trữ tình.
c. Kết bài
- Khái quát chung vấn đề.

87
ĐỀ 15

Phân tích hình tượng con sông Đà trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà
của Nguyễn Tuân. Từ đó, anh (chị) hãy đánh giá sự độc đáo trong quan niệm
về cái đẹp của nhà văn được thể hiện qua hình tượng trên.

HƯỚNG DẪN

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, cái thật. Cảm hứng chính của tác
giả khi đến với vùng đất Tây Bắc xa xôi hùng vĩ là đi tìm vàng quanh sông Đà, đặc
biệt là chất vàng mười trong tâm hồn con người nơi đây.

- Người lái đò sông Đà là thiên tùy bút đặc sắc in trong tập Sông Đà, xuất bản năm
1960 của Nguyễn Tuân. Trong thiên tùy bút này, Nguyễn Tuân không chỉ ca ngợi
con người lao động Tây bắc “ thứ vàng mười đã qua thử lửa” mà còn phát hiện và ca
ngợi vẻ đẹp độc đáo của con sông Đà: vừa dữ dội hung bạo, vừa thơ mộng trữ tình.

2. Phân tích hình tượng con sông Đà

- Sông Đà là một con sông độc đáo. Sự độc đáo của dòng sông thể hiện qua hai câu
thơ của Nguyễn Quang Bích được Nguyễn Tuân trích dẫn ở phần đề từ của tác
phẩm: “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu” (có nghĩa mọi dòng sông
đều chảy về hướng đông, chỉ có sông Đà chảy về hướng bắc). Dưới ngòi bút tài hoa,
uyên bác của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như một nhân vật sống động với hai
tính cách nổi bật: hung bạo và trữ tình.

a. Tính cách hung bạo

(Phân tích như 2.1; a) phần Củng cố kiến thức cơ bản)

88
b. Tính chất trữ tình

(Phân tích như 2.1; b) phần Củng cố kiến thức cơ bản)

c. Nghệ thuật

- Nguyễn Tuân đã vận dụng vốn tri thức phong phú về nhiều mặt để miêu tả con
sông Đà đem đến cho người đọc những trang viết hấp dẫn, lý thú.

- Miêu tả con sông Đà, Nguyễn Tuân sử dụng những ví von, so sánh, liên tưởng,
tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và thú vị.

- Khi miêu tả sông Đà, Nguyễn Tuân sử dụng vốn từ ngữ phong phú, sống động,
giàu hình ảnh và có sức gợi cao. Câu văn đa dạng, giàu nhịp điệu, co duỗi nhịp
nhàng, có lúc hối hả, gân guốc, có lúc chậm rãi trữ tình.

- Vốn kiến thức uyên bác của tác giả thuộc nhiều ngành: lịch sử, thơ ca, hội hoạ,
quân sự, thể thao

3. Sự độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của nhà văn được thể hiện qua hình
tượng

- Hình tượng sông Đà biểu trưng cho chất vàng mười của thiên nhiên Tây Bắc, của
cái Đẹp mà nhà văn khao khát kiếm tìm và thể hiện trong các sáng tác sau cách
mạng. Hình tượng sông Đà là phông nền để nhà văn khắc hoạ nổi bật vẻ đẹp trí
dũng tuyệt vời, chất tài hoa nghệ sĩ của hình tượng ông lái đò. Từ hình tượng sông
Đà, người đọc cảm nhận được lòng yêu nước, tinh thần dân tộc mang sắc thái riêng
của Nguyễn Tuân

- Hình tượng sông Đà thể hiện sự độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn
Tuân sau cách mạng:

89
+ Sau cách mạng, Nguyễn Tuân vẫn là người say mê khao khát cái Đẹp,
nhưng Nguyễn Tuân đã biết tìm kiếm và khai thác cái Đẹp trong lòng cuộc sống của
cả dân tộc

+ Nguyễn Tuân vẫn luôn đi tìm vẻ đẹp độc đáo của cuộc sống, vì vậy ông đã
bị sông Đà cuốn hút bởi sự khác thường: “Chúng thuỷ giai Đông tẩu / Đà giang độc
Bắc lưu”

+ Nguyễn Tuân trước và sau cách mạng luôn nhìn sự vật ở phương diện văn
hoá, mĩ thuật. Với cách nhìn này, sông Đà trong mắt ông hiện lên như một kì quan
của tạo hoá.

+ Nguyễn Tuân còn quan niệm cái đẹp phải gây ấn tượng mạnh. Vì vậy, ông
thường miêu tả những cảnh đẹp tuyệt đích: hoặc phải thơ mộng, trữ tình đến mức
tuyệt mĩ, hoặc hoành tráng đến dữ dội, dữ dằn. Sông Đà hội tụ được cả hai vẻ đẹp
ấy.

4. Đánh giá khái quát vấn đề

- Đà giang qua lăng kính nghệ thuật tài hoa, lối viết uyên bác của Nguyên Tuân
thực sự đã trở thành đứa con đầy cá tính của người mẹ thiên nhiên Tây Bắc, là một
công trình thiên tạo tuyệt vời. Đó chính là chất vàng quý giá của Tây Bắc.Thiên
nhiên qua trang viết của Nguyễn Tuân hùng vĩ, hung bạo đến mức khủng khiếp, mà
đẹp đẽ nên thơ cũng đến ngất ngây.Qua hình tượng con sông Đà, Nguyễn Tuân đã
thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên, đất nước.

- Với ông, thiên nhiên là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa. Cảm nhận
và miêu tả con sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm
của mình. Hình tượng sông Đà chính là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ
đẹp của người lao động trong chế độ mới.

90
- Đọc Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân ta thêm yêu thiên nhiên, cảnh sắc,
non nước mình.

Đề 16

Cảm nhận về đoạn văn sau trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn
Tuân:

“Thuyền tôi trôi trên sông Đà (...) nó khác hẳn những con đò đuôi én
thắt mình dây cổ điển trên dòng trên” (Trang 191, 192 SGK cơ bản Ngữ Văn
12). Từ đó nhận xét về cái tôi của nhà văn.

HƯỚNG DẪN

1. Mở bài (Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn văn)

2. Thân bài

a. Vị trí:

b.Về nội dung: Đoạn văn tập trung miêu tả vẻ đẹp đầy thơ mộng, trữ tình của con
sông Đà

- Khác với nơi thượng nguồn, sóng, nước, thác, đá dữ dội, sông Đà quãng này lững
lờ trôi, êm lặng, hiền hòa, sông nước thanh bình, cảnh vật hai bên bờ sông vừa
hoang sơ nhuốm màu cổ tích, vừa trù phú tràn đầy nhựa sống.

- Chất trữ tình thể hiện ở êm lặng, hiền hòa, sông nước thanh bình của sông Đà:

+ Mở đầu đoạn là một câu văn êm ru trong những thanh bằng: Thuyền tôi trôi trên
sông Đà... Câu văn đã đưa con thuyền, nhà văn và người đọc trở về cõi mơ êm đềm,
91
yên ả, một cõi hoang sơ vắng lặng như chưa hề có dấu vết của con người trong quá
khứ. Tính từ lặng tờ được lặp lại tới hai lần (Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như
từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi) đã đưa con
sông như thoát khỏi tất cả những bụi bặm xô bồ để đạt đến độ tinh khiết, trong vắt,
trở thành dòng sông của thuở hồng hoang dội về.

+ Bờ sông tiếp tục được miêu tả trong những hình ảnh so sánh độc đáo: Bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.
Cách so sánh của Nguyễn Tuân đã gợi ra vẻ đẹp nguyên sơ trong trẻo và tĩnh lặng
đến tuyệt đối của dòng sông Đà, đưa dòng sông trôi xa thêm vào miền mộng mơ,
tiêu điều của cõi hồng hoang xa xôi, trong thế giới cổ tích huyền hoặc của tuổi thơ.
Để phù hợp với vẻ nguyên sơ này, Nguyễn Tuân đã dùng một nét nghệ thuật rất cổ
điển: Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi
lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi
bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông
cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông
bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến.

Đây chính là nghệ thuật lấy động tả tĩnh bởi chỉ có thể lặng tờ đến tuyệt đối
thì những thanh âm nhỏ bé như thế mới có khả năng tác động mạnh đến vậy tới
những cảnh vật xung quanh. Nét nghệ thuật cổ điển này đã mang đến sức hấp dẫn lạ
thường cho văn chương của Nguyễn Tuân.

+ Dòng chảy ở hạ nguồn được tác giả miêu tả trực tiếp: Dòng sông quãng này lững
lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc cho
thấy dòng nước Đà giang chảy chậm rãi, êm đềm, duyên dáng khác hẳn với hình
ảnh con sông Đà cuồn cuộn ghềnh thác ở thượng nguồn.

+ Giọng văn êm đềm thư thái, có những câu tác giả sử dụng toàn thanh bằng
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà”, tác giả sử dụng gam màu nhạt gợi lên một không
92
gian lặng tờ, yên ắng, ít tiếng động. Chỉ có tiếng “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt
sông bụng trắng như bạc rơi thoi”, “tiếng cá đạp nước đuổi đàn hươu vụt biến”... Tất
cả tạo nên một khung cảnh tĩnh lặng, thi vị, trữ tình.

- Chất trữ tình còn được thể hiện rõ nét qua những cảnh vật ven sông, những hình
ảnh thật nhỏ bé mong manh trong không gian trong lành, nguyên sơ, thuần khiết:
một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa, cỏ gianh đồi núi đang ra những
nõn búp, con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương. Chỉ vài chi tiết
nhưng đã tạo ra ấn tượng về sự non tơ, mỡ màng, về sự tươi mới và sức sống nội tại
trong bản thân mọi sự vật, hiện tượng. Các cảnh vật đã nối tiếp nhau tạo nên bức
tranh nên thơ, đẹp đẽ, yên bình.

- Để gia tăng chất trữ tình cho dòng sông, Nguyễn Tuân khéo léo trích dẫn một vài
câu thơ của Tản Đà, Nguyễn Quang Bích mà không cần thêm bất cứ lời bình luận
nào. Tác giả đã ngầm khẳng định, chính vẻ đẹp trữ tình lãng mạn của dòng sông đã
trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca.

b. Đặc sắc nghệ thuật của đoạn văn

- Đoạn văn thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: độc đáo, tài hoa,
uyên bác. Nhà văn đã vận dụng hiểu biết của nhiều ngành khác nhau: địa lý, lịch sử,
hội họa, văn chương và những tri thức về tự nhiên để khắc họa vẻ đẹp của sông Đà.

- Tác giả thể hiện một trí tưởng tượng phong phú, bất ngờ, thú vị.

- Tác giả vận dụng thành công nhiều thủ pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa,
ngôn từ phong phú giàu hình ảnh, giàu tính biểu cảm. Câu văn co duỗi nhịp nhàng,
giàu nhịp điệu, giàu tính nhạc.

c. Cái tôi của Nguyễn Tuân: Đoạn văn thể hiện cái tôi tài hoa uyên bác của
Nguyễn Tuân.

93
- Nguyễn Tuân đắm say với cảnh sắc thiên nhiên để tận hưởng vẻ đẹp phong phú
của thiên nhiên: đó là cảnh “lặng tờ hoang sơ như một bờ tiền sử” như một câu
chuyện cổ tích hay cảnh sắc căng tràn sức sống của nương ngô, của đồi cỏ gianh.

- Nguyễn Tuân có một tâm hồn rất tinh tế, rộng mở để đón nhận cái đẹp, nhà văn
hòa nhập với thiên nhiên, sống cùng thiên nhiên, cảm nhận được thiên nhiên như
cũng có tâm hồn đồng điệu với mình.

+ Nhà văn hiểu và cảm nhận được hành động vểnh tai của con hươu và tưởng
tượng ra tiếng nói tiếng nói riêng của con vật này.

+ Nhà văn cũng cảm thấy được dòng sông Đà quãng này “như nhớ thương
những hòn thác đá xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc,... như đang lắng nghe
giọng nói êm êm của người miền xuôi”.

- Tâm hồn Nguyễn Tuân bay bổng, lãng mạn: từ con sông Đà hiện tại, tác giả liên
tưởng, nhớ về con sông Đà của Tản Đà ngày trước. Tuy vậy, nhà văn vẫn luôn suy
tư về một tương lai của Tây Bắc “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng
còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai châu”.
Đây chính là tiếng nói đầy tinh thần trách nhiệm của một người nghệ sĩ giàu lòng
yêu nước đối với mảnh đất và con người miền Tây bắc xa xôi.

=> Tất cả góp phần tạo nên những trang văn miêu tả vẻ đẹp trữ tình của sông Đà,
đồng thời bộc lộ tình cảm yêu mến, thiết tha đối với quê hương đất nước.

Đề 17

Cảm nhận vẻ đẹp trí dũng tài hoa của ông lái đò trong đoạn trích Người
lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân. Từ đó liên hệ với nhân vật Huấn Cao trong
Chữ người tử tù để nhận xét sự ổn định và chuyển biến trong cách xây dựng
nhân vật của nhà văn trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
94
HƯỚNG DẪN

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề cần nghị luận

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo, tài
hoa, uyên bác bậc nhất trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Trong cả hai giai
đoạn sáng tác trước và sau Cách mạng tháng Tám, ông đều có những tác phẩm xuất
sắc, Chữ người tử tù và Người lái đò sông Đà là hai tác phẩm tiêu biểu cho phong
cách nghệ thuật của nhà văn.

- Nêu vấn đề cần nghị luận: Qua nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù và ông
lái đò trong đoạn trích Người lái đò sông Đà, người đọc thấy được những nét ổn
định và khác biệt trong cảm hứng thẩm mĩ và giá trị tư tưởng của nhà văn trước và
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.

2. Phân tích nhân vật người lái đò sông Đà

* Nhân vật người lái đò sông Đàn (Phân tích như trong phần Củng cố kiến thúc cơ
bản)

- Ông là người anh hùng sông nước.

- Ông lái đò là nghệ sĩ tài hoa.

* Nghệ thuật

3. Liên hệ với nhân vật Huấn Cao

- Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con
người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong sáng.

- Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa
mãnh liệt đối với những con người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”.

95
=> Từ việc tìm hiểu vài nét về vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn Cao chúng ta
dễ thấy được những nét chung và điểm khác biệt trong cách tiếp cận con người của
Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám.

4. Nhận xét

a. Những nét ổn định

- Cả hai tác phẩm đều có cái nhìn con người nghiêng về phương diện tài hoa nghệ
sĩ: Hình tượng ông lái đò và hình tượng nhân vật Huấn Cao đều được Nguyễn Tuân
xây dựng như những nhân vật tài hoa nghệ sĩ

+ Huấn Cao là một nghệ sĩ có tài về viết chữ rất nhanh và rất đẹp.

+ Ông lái đò tuy là người lao động bình thường nhưng có thể coi là một nghệ
sĩ trong nghệ thuật băng ghềnh vượt thác.

- Ngoài tri thức chuyên môn của văn chương, hai tác phẩm trên còn vận dụng con
mắt quan sát của hội họa, điêu khắc để diễn tả hình ảnh con người. - Vẫn là ngòi bút
tài hoa, uyên bác, lịch lãm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều ngành văn hóa,
nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu hiện.

- Vẫn sử dụng vốn ngôn từ hết sức tinh lọc, phong phú, độc đáo. Khả năng tổ chức
câu văn đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng. Các
phép tu từ được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện.

b. Những nét chuyển biến

- Về cảm hứng thẩm mĩ: Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân quan niệm:
Tài hoa nghệ sĩ chỉ có ở những con người kiệt xuất thuộc quá khứ “Vang bóng một
thời”. Sau Cách mạng tháng Tám, ông quan niệm: Tài hoa nghệ sĩ có cả ở nhân dân
đại chúng, thể hiện trong lao động và chiến đấu. Cụ thể qua hai nhân vật:

96
+ Huấn Cao là con người của quá khứ, của lịch sử nay chỉ còn “Vang bóng”;
ông lái đò là con người của hiện tại hôm nay.

+ Huấn Cao là người đặc biệt, siêu phàm; ông lái đò là con người bình thường
của cuộc sống thường nhật.

+ Huấn cao đối lập sâu sắc với xã hội, trở thành kẻ tử tù của xã hội bất công;
ông lái đò là con người đang ngày đêm đem sức lực và trí tuệ xây dựng quê hương,
đất nước.

Chữ người tử tù ca ngợi cái đẹp của tài hoa, khí phách và thiên lương, qua đó phủ
nhận thực tại phàm tục của xã hội thực dân phong kiến trước Cách mạng. Người lái
đò sông Đà ca ngợi con sông Đà và người lái đò sông Đà, bày tỏ niềm yêu mến thiết
tha thiên nhiên đất nước, niềm tin yêu cuộc sống mới, con người mới.

- Về giá trị tư tưởng:

+ Chữ người tử tù ca ngợi cái đẹp của tài hoa, khí phách và thiên lương, qua
đó phủ nhận thực tại phàm tục của xã hội thực dân phong kiến trước Cách mạng.

+ Người lái đò sông Đà ca ngợi ông lái đò, bày tỏ niềm yêu mến thiết tha,
lòng tin yêu con người mới.

- Nghệ thuật miêu tả nhân vật:

Huấn Cao là nhân vật của truyện ngắn lãng mạn vì thế được xây dựng bằng
bút pháp lí tưởng hóa, còn nhân vật ông lái đò là nhân vật của thể loại tùy bút nên
không được hư cấu mà nhà văn sử dụng trí tưởng tượng của mình để tái hiện một
cách sinh động.

5. Đánh giá, khái quát lại vấn đề cần nghị luận:

97
Hai nhân vật đã nói lên phần nào những nét ổn định và sự vận động trong cảm
hứng thẩm mĩ và giá trị tư tưởng của nhà văn trước và sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945.

- Khẳng định vẻ đẹp của hình tượng ông lái đò

Đề 18: Cảm nhận của anh/chị về hình tượng nhân vật ông lái đò trong thiên tùy
bút “Người lái đò Sông Đà” (Nguyễn Tuân). Từ đó, liên hệ với truyện ngắn
“Chữ người tử tù” và chỉ ra sự nhất quán của Nguyễn Tuân trong quan niệm
của nhà văn về con người.

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

I. Mở bài

- Nguyễn Tuân là nhà văn có vị trí quan trọng trong văn học Việt Nam hiện đại với
phong cách nghệ thuật độc đáo. Ông được mệnh danh là “một cái định nghĩa về
người nghệ sĩ” (Nguyễn Đăng Mạnh) và là nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái Đẹp.

- Người lái đò Sông Đà là một trong những thiên tùy bút đẹp nhất của Nguyễn Tuân.
Tác phẩm khắc họa thành công hình tượng người lái đò và thể hiện sự nhất quán của
nhà văn trong quan niệm về con người ở giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng
Tám.

II. Thân bài

1. Cảm nhận về hình tượng nhân vật người lái đò

2. Liên hệ với truyện ngắn “Chữ người tử tù” và chỉ ra sự nhất quán của
Nguyễn Tuân trong quan niệm của nhà văn về con người

98
- Nhân vật chính trong “Chữ người tử tù” (truyện ngắn viết trước CMTT) là Huấn
Cao. Huấn Cao được khắc họa với ba vẻ đẹp nổi bật: tài hoa nghệ sĩ, khí phách hiên
ngang và thiên lương trong sáng.

- “Người lái đò Sông Đà” là tác phẩm được viết ở giai đoạn sau CMTT. Từ nhân
vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” đến nhân vật ông đò trong “Người lái đò
Sông Đà”, có thể nhận thấy sự nhất quán của Nguyễn Tuân trong quan niệm của
nhà văn về con người:

+ Con người từ cuộc đời thực đi vào sáng tác của Nguyễn Tuân đều là những người
nghệ sĩ tài hoa trong nghề nghiệp của mình

+ Con người được tô đậm bởi những phẩm chất siêu phàm, phi thường, xuất chúng
+ Con người luôn được đặt trong những hoàn cảnh khó khăn, những thử thách vô
cùng khắc nghiệt để bộc lộ phẩm chất đáng quí

>>> Quan niệm đề cao con người, đậm chất nhân văn.

- Sự nhất quán trong quan niệm của nhà văn về con người của Nguyễn Tuân thể
hiện tình yêu, sự trân trọng của tác giả đối với các nhân vật, đồng thời tạo nên dấu
ấn riêng biệt, phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn.

III. Kết bài

Khẳng định vẻ đẹp hình tượng các nhân vật trong hai tác phẩm. từ đó thấy
được phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân khi cảm nhận con người.

Đề 19: Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã miêu tả về cuộc
chiến giữa người lái đò và con sông Đà:
“ Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí
ấy cứ bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò (…) Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai

99
chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái…”
Hay đoạn khác, Nguyễn Tuân lại viết
“…Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay
nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm
chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá
nơi ải nước hiểm trở này.”
(Nguyễn Tuân – Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo Dục Việt Nam, 2013, tr189)
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà trong hai lần miêu tả trên, từ đó làm
bật nổi “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của người lao động Tây Bắc mà
Nguyễn Tuân đang tìm kiếm.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

I. Mở bài:
– Tác giả:
+ Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp
+ Ông có công lớn trong việc đưa thể tuỳ bút đến đỉnh cao nghệ thuật, làm phong
phú ngôn ngữ văn học dân tộc và đem đến cho văn học dân tộc một phong cách độc
đáo tài hoa.
+ Trước năm 1945, Nguyễn Tuân là con người của “chủ nghĩa xê dịch” với cái tôi
riêng độc đáo. Nhưng sau năm 1945, cái tôi riêng ấy đã hòa vào cái ta chung.
– Tác phẩm: Vẫn độc đáo, vẫn tài hoa, nên con người ấy đã để lại cho chúng ta
nhiều tác phẩm xuất sắc. Trong đó phải kể đến tùy bút “Người lái đò Sông Đà”
– VĐCNL: Qua hình tượng người lái đò sông Đà được tác giả miêu tả rất nhiều lần
tróng tác phẩm, ta chợt phát hiện ra đó chính là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của
người lao động Tây Bắc mà Nguyễn Tuân đang tìm kiếm.
II. Thân bài:
1. Khái quát vấn đề:
Trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, đã rất nhiều lần Nguyễn Tuân miêu tả về
100
người lái đò trên dòng sông Đà. Có khi ông hiện lên với nét đẹp dũng cảm, kiên
cường“ Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở
bất chí ấy cứ bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò (…) Nhưng ông đò cố nén vết thương,
hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái…”
Có khi lại tài hoa và giàu kinh nghiệm: “…Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận
vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai
và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá.
Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này.”
– Đó rõ ràng là “thứ vàng mười đã qua thử lửa ” của con người Tây Bắc mà Nguyễn
Tuân đang tìm kiếm.
2. Luận điểm 1:Nét đẹp trí dũng, kiên cường của ông lái đò
– Trước con thủy quái khổng lồ độc dữ ông lái vẫn bình tĩnh, tự tin: Sự dũng cảm,
kiên cường
– Dù bị sóng thác đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất và bị thương nhưng ông lái
vẫn “cố nén vết thương”: Sự gan góc, không dễ bị khuất phục
– “Vẫn kẹp chặt”: Tư thế chắc chắn, sừng sững của người chỉ huy
– Nét đẹp trí dũng của ông lái còn được thể hiện ở nhiều đoạn khác trong bài…
-> Ta thường thấy xuất hiện trong tác phẩm của Nguyễn Tuân những người anh
hùng thực sự – những hình mẫu đầy lí tưởng. Trước 1945 là Huấn Cao tài hoa, thiên
lương và hiên ngang bất khuất, sau năm 1945 lại là một người lái đò cũng trí dũng,
kiên cường không kém. Qua đó ta cảm nhận được nét bút khỏe khoắn, tài năng đầy
bản lĩnh của Nguyễn Tuân.
3. Luận điểm 2: Nét đẹp tài hoa, giàu kinh nghiệm của ông lái đò
– Đổi chiến thuật: Sự tài tình, linh hoạt trong trận đánh, như một nghệ sĩ đang phô
diễn tài năng.
– “Nắm chắc”, “thuộc”: Giàu kinh nghiệm, am hiểu rất rõ về đối thủ của mình…
– Nét đẹp tài hoa, giàu kinh nghiệm của ông lái còn được thể hiện ở nhiều đoạn

101
khác…
-> Dù có nhiều điểm khá tương đồng với nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử
tù” nhưng ông lái đò của chúng ta lại có nhiều điểm khác biệt. Điểm khác biệt lớn
nhất có thể kể đến đó là ông chỉ xuất hiện như một anh hùng vô danh, lặng thầm và
vô cùng khiêm tốn. Có người cho rằng đây là dấu hiệu của sự đột phá trong tác
phẩm Nguyễn Tuân – ông đã chấp nhận hòa cái tôi ngông nghênh vào cái ta chung
của thời đại.
4. Đánh giá tổng hợp
– Qua hai đoạn miêu tả người đọc cảm nhận được vẻ đẹp trí dũng, tài hoa, giàu bản
lĩnh và kình nghiệm của người lái đò sông Đà. Đây chính là chất vàng mười đã qua
thử lửa của con người Tây Bắc mà Nguyễn Tuân đang tìm kiếm.
– Nguyễn Tuân đã vận dụng các động từ, tính từ và từ láy tượng hình một cách linh
hoạt và tài tình tạo nên một bức tranh thiên nhiên đẹp đến ngất ngây lòng.
III. Kết bài
- Khẳng định vẻ đẹp của hình tượng người lái đò
- Khẳn định tài năng của Nguyễn Tuân

Đề 20. Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hình tượng sông Đà trong tác
phẩm “Người lái đò sông Đà” – Nguyễn Tuân và hình tượng sông Hương trong
tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” – Hoàng Phủ Ngọc Tường. Từ đó,
trình bày suy nghĩ của mình về việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê
hương, đất nước.
Hướng dẫn:
a. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và Người lái đò sông Đà.
– Giới thiệu tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và Ai đã đặt tên cho dòng song.

102
– Giới thiệu vấn đề nghị luận : vẻ đẹp của sông Hương, sông Đà, và về việc bảo vệ
cảnh quan thiên nhiên của quê hương, đất nước.
b. Thân bài
b.1.Nét tương đồng của 2 dòng sông:
+ Sông Đà và sông Hương đều được các tác giả miêu tả như một nhân vật trữ tình
có tính cách với những vẻ đẹp đặc trưng riêng biệt, thể hiện tình yêu thiên nhiên,
tình yêu quê hương, đất nước.
+ Sông Đà và sông Hương đều mang nét đẹp của sự hùng vĩ, dữ dội.
– Vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà được thể hiện qua sự hung bạo và dữ dội của nó trên
nhiều phương diện khác nhau cảnh trí dữ dội, âm thanh ghê rợn, đá sông Đà như
đang bày trùng vi thạch trận.
– Khi chảy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy dữ dội tựa 1 bản trường ca của
rừng già, tựa cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại….
+ Sông Đà và sông Hương đều có vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình:
– Sông Đà: dáng sông mềm mại tựa mái tóc tuôn dài tuôn dài, màu nước thay đổi
qua từng mùa, vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính…
– Sông Hương: với dòng chảy dịu dàng và đắm say giữa những dặm dài chói lọi
màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Sông Hương còn mang vẻ đẹp của người con gái
ngủ mơ màng chờ người tình mong đợi đánh thức. Nó còn được ví như điệu slow
tình cảm dành riêng cho Huế…
+ Cả 2 đều được miêu tả qua ngòi bút tài hoa, uyên bác:
– Tài hoa: 2 dòng sông đều được miêu tả trên phương diện văn hóa, thẩm mĩ:
+ Sông Đà là nơi hội tụ 2 nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng
vĩ, uy nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng.
+ Sông Hương là dòng sông của âm nhạc, dòng sông của thơ ca, của lịch sử gắn liền
với những nét đặc sắc về văn hóa, với vẻ đẹp của người dân xứ Huế.
103
– Uyên bác: cả 2 tác giả đều vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng kiến thức trên
nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa hình tượng 2 dòng sông. 2. Nét độc đáo riêng
trong từng hình tượng dòng sông:
Sông Đà:
– Trong đoạn trích, nhà văn tập trung tô đạm nét hung bạo, dữ dội của sông Đà
giống như 1 kẻ thù hiểm độc và hung ác.
-> Thể hiện rõ nhất qua hình ảnh nước dữ, gió dữ, đá dữ đặc biệt đá bày trùng vi
thạch trận chực lấy đi mạng sống của con người. – Sông Đà được cảm nhận ở chính
nét dữ dội, phi thường, khác lạ: tiếng thét của sông Đà như tiếng thét của ngàn con
trâu mộng, đá trên sông đà mỗi viên đều mang 1 khuôn mặt hung bạo, hiếu chiến…
– Đặc biệt, tác giả miêu tả sự hung bạo của sông Đà để làm nổi bật sự tài hoa, tài trí
của người lái đò. Lúc này đây, sông Đà như 1 chiến địa dữ dội. Và mỗi lần vượt
thác của người lái đò là mỗi lần ông phải chiến đấu với thần sông, thần đá…
Sông Hương:
– Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng, gợi cảm và nữ tính, luôn
mang dáng vẻ của 1 người con gái xinh đẹp, mong manh có tình yêu say đắm. Khi ở
thượng nguồn, nó là cô gái Digan phóng khoáng, man dại; khi ở cánh đồng Châu
Hóa, nó là cô thiếu nữ ngủ mơ màng; khi lại như người tài nữ đánh đàn giữa đem
khuya, hay là nàng Kiều tài hoa, đa tình mà lại chung tình, là người con gái dịu dàng
của đất nước.
– Sông Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như người mẹ phù sa
bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa này từ bao đời nay
.– Sông Hương được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu: thủy trình của sông
Hương là thủy trình có ý thức tìm về người tình mong đợi. Khi chảy giữa Huế, sông
Hương mềm hẳn đi như 1 tiếng ” vâng” không nói ra của tình yêu. Trước khi đổ ra

104
cửa biển, sông Hương như người con gái dùng dằng chia tay người yêu, thể hiện 1
nỗi niềm vương vấn với 1 chút lẳng lơ kín đáo.
– Thông qua hình tượng sông Hương mang nét đẹp nữ tính, nhà văn thể hiện nét đẹp
lãng mạn, trữ tình của đất trời xứ Huế.
b.2. Trách nhiệm bản thân trong việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê hương,
đất nước.
Học sinh có thể trình bày quan điểm cá nhân dựa trên những gợi ý sau: Thế hệ trẻ
cần có trách nhiệm bảo vệ cảnh quan đất nước qua hành động cụ thể như: yêu quí,
bảo vệ môi trường, quảng bá thắng cảnh…
c. Kết bài
Đánh giá chung về đóng góp của hai nhà văn.
– Qua vẻ đẹp tương đồng của 2 dòng sông, ta bắt gặp sự tương đồng độc đáo của 2
tâm hồn có tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm tự hào với vẻ đẹp của non sông đất
nước Việt Nam.
– Mỗi nhà văn đều có 1 phong cách nghệ thuật độc đáo trong việc thể hiện hình
tượng các dòng sông, giúp người đọc có những cách nhìn phong phú, đa dạng về vẻ
đẹp của quê hương, đất nước mình.

Đề 21: Về nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn
Tuân, có ý kiến cho rằng: “Ông lái đò là một nghệ sĩ tài hoa”. Ý kiến khác thì
nhấn mạnh: “Ông lái đò là một người lao động bình thường”.
Từ cảm nhận về nhân vật ông lái đò, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên .

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT

* Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm

105
* Nêu vấn đề nghị luận: Trích dẫn 2 ý kiến

* Giải thích ý kiến

+Ý kiến 1: Ông lái đò là một nghệ sĩ tài hoa: là những người có rung động
tâm hồn mãnh liệt trước mọi vui buồn của đời sống và có khả năng thể hiện những
rung động ấy bằng những phương tiện nghệ thuật đặc thù.Ở ý kiến này, người nghệ
sĩ tài hoa được hiểu là người đạt tới trình độ điêu luyện trong ngề nghiệp và có đời
sống tâm hồn đậm chất nghệ sĩ.

+ Ý kiến 2: Người lao động bình thường là người k động thầm lặng, vô danh,
không tên tuổi. Giống như bao người lao động khác trong công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước.

=>Hai ý kiến trên bổ sung cho nhau, làm hoàn thiện chân dung, tính cách
người lái đò Sông Đà.

* Chứng minh-bình luận ý kiến:

+ Ông lái đò-một nghệ sĩ tài hoa.

++ Ông lái đò có tính cách phóng khoáng, thích đối mặt với thử thách mạo
hiể m, gian nguy.

++ Ông nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá như một nghệ sĩ điêu
luyện cao cường.

++ Cuộc băng ghềnh vượt thác ngoạn mục đã khẳng định vẻ đẹp tài hoa nghệ
sĩ của một tay lái ra hoa.

+++ Vòng vây thứ nhất, Sông Đà bày ra nhiều cạm bẫy.Ông lái đò bị sóng
thác đánh miếng đòn độc hiểm.Nhưng bằng tinh thần dũng cảm, ông đã tỉnh táo chỉ
huy sáu mái chèo, chiến thắng trùng vi thạch trận đầy nguy hiểm.

+++Ở vòng vây thứ hai, Sông Đà đã thay đổi chiến thuật.Ông đò đã nắm chắc
binh pháp của thần sông thần đá, xác định đúng cửa sinh và chiến thắng thầng đá
tướnbag đứng chiến ở cửa giữa.
106
+++Vòng vây thứ ba Sông Đà tiếp tục thay đổi chiến thuật, bên trái bên phải
đều là cửa tử.Ông lái đò phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa.Thuyền như một
mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn
được.Thế là hết thác.

+Ông lái đò là một người lao động bình thường.

++Ông lái đò sinh ra bên bờ sông Đà và gắn bó với nghề sông nước như
bao người lái đò khác nơi thượng nguồn Sông Đà khuất nẻo.

++Ông có đời sống tâm hồn giản dị, không nói nhiều về chiến công dù đi
đâu cũng luôn nhớ về nương ruộng, bản mường.

* Nghệ thuật thể hiện:

- Ngôn ngữ phong phú, sáng tạo, hài hòa, kết hợp kể với tả nhuần
nhuyễn vàđặc sắc, nghệ thuật khắc họa nhân vật độc đáo, sáng tạo.Nguyễn Tuân đã
sử dụng bút pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng độc đáo, thú vị, vận dụng
tri thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật, góp phần miêu tả cuộc chiến hào hùng
và khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật.

* Đánh giá:

- Qua hình tượng ông lái đò, có thể thấy ông lái đò là một nghệ sĩ tài
hoa trên sông nước, đồng thời cũng là một người lao động giản dị bình thường.Vẻ
đẹp của ông đò tiêu biểu cho vẻ đẹp của người dân lao động vùng Tây Bắc tổ
quốc..Hai ý kiến trên không đối lập mà bổ sung cho nhau đem đến một cái nhìn đầy
đủ, toàn diện về nhân vật

Đề 22: Về đoạn trích tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân ở sách giáo
khoa Ngữ văn lớp 12 (tập 1), có ý kiến cho rằng: "Đó là một công trình khảo cứu
công phu". Nhưng ý kiến khác lại nhấn mạnh: "Đó là một áng văn giàu tính
thẩm mĩ".

Từ việc cảm nhận đoạn trích đã học, anh/chị hãy bình luận những ý kiến
107
trên.

Hướng dẫn trả lời:

* Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm

* Nêu vấn đề nghị luận: Trích dẫn 2 ý kiến

* Giải thích ý kiến

- Công trình khảo cứu công phu: Là một tác phẩm được tạo nên từ công
sức tìm tòi, nghiên cứu dựa trên các tài liệu phong phú. Nó thể hiện vốn sống và tầm
hiểu biết sâu rông của nhà văn. Nó đem đến cho người đọc những hiểu biết phong
phú về các đặc điểm, tính chất của đối tượng được đề cập...

- Áng văn giàu tính thẩm mĩ: Là tác phẩm nghệ thuật đạt đến độ hoàn
hảo trong việc tái hiện cái đẹp, khơi gợi những hứng thú và khả năng cảm nhận cái
đẹp ở người đọc thông qua cách viết tài hoa, độc đáo của người nghệ sĩ...

* Phân tích biểu hiện:

- Công trình khảo cứu công phu

+Tác giả huy động một vốn kiến thức tổng hợp khá đồ sộ về rất nhiều
ngành khoa học và nghệ thuật.

++ Địa lí: Đặc điểm địa hình, địa thế, dòng chảy của sông, các con thác
dọc sông Đà, sắc nước mỗi mùa...

++Lịch sử: Tên sông qua các thời kì và lịch sử sông Đà: thời tiền sử,
thời Hùng Vương, thời phong kiến, thời kháng chiến, thời xây dựng chủ nghĩa xã
hội...

++Văn học, văn hoá: Hình ảnh con sông Đà trong thơ văn: Nguyễn
Quang Bích, gợi nhớ thơ Lí Bạch, thơ Ba Lan, Tản Đà... Đời sống vật chất (đốt lửa
trong hang đá, nướng ống cơm lam) và tinh thần (bàn cá anh vũ, cá dầm xanh...)

108
++Các kiến thức khác: quân sự, thể thao, âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh,
sân khấu...

++Sự am hiểu tường tận về công việc lái đò, và khả năng chinh phục
thiên nhiên của người dân lao động Tây Bắc...

- Áng văn giàu tính thẩm mĩ

+ Người đọc có được khoái cảm thẩm mĩ thực sự trước vẻ đẹp tuyệt
vời của con sông Đà hung bạo và trữ tình; vẻ đẹp của ông đò anh hùng và nghệ sĩ.
Bên cạnh đó, người đọc còn được thưởng thức vẻ đẹp của một thiên anh hùng ca và
một bản tình ca say đắm về thiên nhiên và cuộc sống. (Chứng minh qua chi tiết nghệ
thuật)

+ Nhà văn đã biến những thông tin khô khan, tư liệu lạnh lùng thành
hình tượng sống động, có đời sống, có tâm lí, tính cách, số phận cụ thể. (Chứng
minh qua chi tiết nghệ thuật)

+ Giá trị thẩm mĩ còn thể hiện ở thể văn Tuỳ bút vừa thực tế vừa tự
do phóng túng, ở tài năng lựa chọn ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn
Tuân.

* Bình luận hai ý kiến:

Hai ý kiến đều đề cập đến những vẻ đẹp khác nhau của đoạn trích tuỳ bút.
Ý kiến thứ nhất nhấn mạnh trí tuệ uyên bác, lao động nghệ thuật nghiêm túc, công
phu và tình yêu đối với những người lao động bình thường của nhà văn. Ý kiến thứ
hai thể hiện chất tài hoa, tài tử, sự sáng tạo độc đáo trong cách miêu tả vẻ đẹp thiên
nhiên và con người của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám...

Bàn luận chung: Hai ý kiến tuy khác nhau nhưng không đối lập mà bổ sung
cho nhau, giúp người đọc có cái nhìn sâu sắc và thấu đáo hơn về vẻ đẹp của tác
phẩm và sự vận động trong phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân sau
Cách mạng tháng Tám...
109
* Đánh giá

- Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám. Với sự tài hoa, uyên bác của mình nhà
văn đã khắc họa thành công vẻ đẹp con người và thiên nhiên Tây Bắc. Qua đó, tác
giả gửi gắm tình yêu thiên nhiên, con người nơi đây vốn được xem như "chất vàng
mười", một thứ vàng đã qua thử lửa. Tác phẩm này vừa là" một công trình khảo cứu
công phu" vừa là "một áng văn giàu tính thẩm mĩ" mà Nguyễn Tuân đã để lại cho
muôn đời sau.

- Đọc "Người lái đò sông Đà" ta thấy yêu hơn về vẻ đẹp phong phú của
thiên nhiên và con người Việt Nam. Từ đó, chúng ta hiểu rõ hơn về trách nhiệm của
bản thân trong việc bảo vệ cảnh quan thên nhiên tuyệt đẹp của quê hương đất nước
mình.

Đề 23.
Về nhân vật Ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn
Tuân, có ý kiến cho rằng: “Ông lái đò là một nghệ sĩ tài hoa”. Ý kiến khác thì
nhấn mạnh: “Ông lái đò là một người lao động bình thường”.
Từ cảm nhận về nhân vật ông lái đò, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên?
Hướng dẫn:
a. Mở bài
* Vài nét về tác giả, tác phẩm:
“Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa” (Nguyễn Minh Châu).
Toàn bộ cuộc đời cũng như gần 5000 trang viết của ông đã tạo nên một “huyền sử”
– huyền sử của một người ưu lối chơi “độc tấu”.
+ “Người lái đò sông Đà” được coi là một trong những tác phẩm thành công xuất
sắc nhất trong tùy bút “Sông Đà”. Với khao khát truy tìm “chất vàng mười của tâm
hồn vùng Tây Bắc” – “thứ vàng mười đã được thử lửa” (Đi mở đường), Nguyễn

110
Tuân đã viết lên bài ca cuộc sống của con người và thiên nhiên Tây Bắc với nhiều
nét độc sáng mới lạ.
+ Nhận xét về người lái đò sông Đà có hai ý kến như sau : ( trích dẫn hai ý kiến)
b. Thân bài
b.1. Giải thích ý kiến: “Ông lái đò là một nghệ sĩ tài hoa” và “Ông lái đò là một
người lao động bình thường”.
+ Người nghệ sĩ tài hoa là những người có rung động tâm hồn mãnh liệt trước mọi
vui buồn của đời sống và có khả năng thể hiện những rung động ấy bằng những
phương tiện nghệ thuật đặc thù. Ở ý kiến trên, người nghệ sĩ tài hoa được hiểu là
người đạt tới trình độ điêu luyện trong nghề nghiệp và có đời sống tâm hồn đậm
chất nghệ sĩ.
+ Người lao động bình thường là người lao động thầm lặng, vô danh, không tên tuổi
giống như bao người lao động khác trong công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước. Khẳng định 2 ý kiến trên bổ sung cho nhau, làm hoàn thiện chân dung, tính
cách người lái đò sông Đà.
b.2. Chứng minh – bình luận ý kiến:
* Ông lái đò – một nghệ sĩ tài hoa:
– Ông lái đò có tính cách phóng khoáng, thích đối mặt với thử thách, mạo hiểm,
gian nguy.
– Ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá như một nghệ sĩ điêu luyện, cao
cường.
– Cuộc băng ghềnh, vượt thác ngoạn mục đã khẳng định vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của
một “tay lái ra hoa”:
+ Vòng vây thứ nhất, sông Đà bày ra nhiều cạm bẫy. Ông lái đò bị sóng thác đánh
miếng đòn độc hiểm. Nhưng bằng tinh thần dũng cảm, ông đã tỉnh táo chỉ huy sáu
mái chèo, chiến thắng trùng vi thạch trận đầy nguy hiểm.
111
+ Vòng vây thứ hai, sông Đà đã thay đổi chiến thuật. Ông lái đò đã nắm chắc binh
pháp của thần sông, thần đá, xác định đúng cửa sinh và chiến thắng thằng đá tướng
đứng chiến ở cửa giữa.
+ Vòng vây thứ ba, sông Đà tiếp tục thay đổi chiến thuật, bên phải bên trái đều là
cửa tử. Ông lái đò phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa. Thuyền như một mũi
tên tre xuyên nhanh qua hoi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được.Thế là
hết thác.
Ông cũng là một người lao động bình thường:
– Ông lái đò sinh ra bên bờ sông Đà và gắn bó với nghề sông nước như bao người
lái đò khác nơi thượng nguồn sông Đà khuất nẻo.
– Đời sống tâm hồn giản dị: không nói nhiều về chiến công; dù đi đâu cũng luôn
nhớ về nương ruộng, bản mường.
b.3. Nghệ thuật thể hiện:
Ngôn ngữ phong phú, sáng tạo, hài hoa, kết hợp kể với tả nhuần nhuyễn và đặc sắc,
nghệ thuật khắc họa nhân vật độc đáo, sáng tạo.
Bút pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng độc đáo, thú vị; vận dụng tri thức
của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật góp phần miêu tả cuộc chiến hào hùng và
khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật.
b.4. Đánh giá:
- Qua cảm nhận hình tượng ông lái đò, có thể thấy, ông lái đò là một nghệ sĩ tài hoa
trên sông nước, đồng thời, cũng là một người lao động giản dị bình thường. Vẻ đẹp
của ông lái đò tiêu biểu cho vẻ đẹp của người dân lao động vùng Tây Bắc tổ quốc.
- Hai ý kiến trên không đối lập mà bổ sung cho nhau đem đến một cái nhìn đầy đủ,
toàn diện về nhân vật.
c. Kết bài
– Đánh giá khái quát vấn đề.
112
– Có thể nêu suy nghĩ riêng của bản thân.
Đề 24

“Phong cảnh sông Đà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ uy
nghiêm, vừa tuyệt vời thơ mộng” (Ngữ văn 12, t1, NXBGD 2000, tr 168 )

Anh/ chị hãy phân tích hình tượng sông Đà trong đoạn trích Người lái
đò sông Đà để làm sáng tỏ nhận định trên.

HƯỚNG DẪN

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhận định

2. Giải thích nhận định

- Nhận định đề cập đến hai vẻ đẹp tưởng như đối lập nhau của phong cảnh Tây Bắc
dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân:

+ Hùng vĩ uy nghiêm (hung bạo)

+ Tuyệt vời thơ mộng (trữ tình)

-> Hai nét đẹp đó không loại trừ nhau mà ngược lại thống nhất trong một chỉnh thể
tài hoa, tạo nên sức quyến rũ, vẻ đẹp phong phú của phong cảnh nơi đây.

Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: Nhà văn của
những tình cảm, cảm giác mạnh, những phong cảnh tuyệt mỹ. Nguyễn Tuân không
thích cái gì nhợt nhạt bằng phẳng nên hung bạo hay trữ tình đều được đẩy lên mức
độ tột cùng. Dòng sông Đà là một con sông như thế.

3. Phân tích hình tượng sông Đà

- Nguyễn Tuân đã khai sinh dòng sông nghệ thuật của mình với hai nét tính
cách; hung bạo và trữ tình. Những nét tính cách này được hé mở qua lời đề từ: hung

113
bạo, dữ dội, một mình “chơi một lối độc tấu: câu thơ của Nguyễn Quang Bích”; trữ
tình thơ mộng: câu thơ của nhà thơ Ba Lan.

a) Vẻ đẹp hùng vĩ (hung bạo) (Phân tích như trong 2.1; a) bài Người lái đò Sông
Đà phần Củng cố kiến thức cơ bản)

b) Vẻ đẹp trữ tình tuyệt vời thơ mộng (Phân tích như trong 2.1; b), bài Người lái
đò Sông Đà phần Củng cố kiến thức cơ bản)

c) Nghệ thuật: Tài năng nghệ thuật bậc thầy:

- Quan sát soi chiếu sự vật ở nhiều góc độ

- Nguyễn Tuân đã vận dụng vốn tri thức phong phú về nhiều mặt để miêu tả
con sông Đà đem đến cho người đọc những trang viết hấp dẫn, lý thú.

- Miêu tả con sông Đà, Nguyễn Tuân sử dụng những ví von, so sánh, liên
tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và thú vị.

- Khi miêu tả sông Đà, Nguyễn Tuân sử dụng vốn từ ngữ phong phú, sống
động, giàu hình ảnh và có sức gợi cao. Câu văn đa dạng, giàu nhịp điệu, co duỗi
nhịp nhàng, có lúc hối hả, gân guốc, có lúc chậm rãi trữ tình.

4. Đánh giá:

Đề 25

Về hình tượng con Sông Đà trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà (trích
Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân) có ý kiến cho rằng: Con Sông Đà là
một loài thủy quái vừa hung ác vừa nham hiểm.

Ý kiến khác thì nhấn mạnh: Con Sông Đà dịu dàng như một thiếu nữ, gợi
cảm như một cố nhân, như một nhân tình chưa quen biết.

114
Từ cảm nhận về hình tượng con Sông Đà, anh/ chị hãy làm sáng tỏ hai ý
kiến trên.

HƯỚNG DẪN

1. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm

+ Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Nói đến
ông là người ta nghĩ ngay đến một nhà văn tài hoa, uyên bác và có một cách diễn đạt
rất độc đáo.

+ Người lái đò Sông Đà là thiên tùy bút đặc sắc in trong tập Sông Đà, xuất bản năm
1960 của Nguyễn Tuân. Trong thiên tùy bút này, Nguyễn Tuân không chỉ ca ngợi
con người lao động Tây Bắc thứ vàng mười đã qua thử lửa mà còn phát hiện và ca
ngợi vẻ đẹp độc đáo của con Sông Đà: vừa dữ dội hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình.

- Giới thiệu và trích dẫn ý kiến (...)

2. Giải thích

- Con Sông Đà là một loài thủy quái vừa hung ác vừa nham hiểm -> Tính cách hung
bạo của Sông Đà.

- Con Sông Đà dịu dàng như một thiếu nữ, gợi cảm như một cố nhân, như một nhân
tình chưa quen biết ->Vẻ nđẹp trữ tình của con Sông Đà.

=> Đây là hai nét tính cách thống nhất vừa hung bạo, dữ dội lại vừa thơ mộng, trữ
tình của con Sông Đà.

3. Cảm nhận hình tượng con Sông Đà

a. Sông Đà là một loài thủy quái vừa hung ác vừa nham hiểm

(Phân tích như trong phần kiến thức cơ bản - Sông Đà hùng vĩ, hiểm trở)

115
b. Con sông Đà dịu dàng như một thiếu nữ, gợi cảm như một cố nhân, như một
nhân tình chưa quen biết. (Phân tích như trong phần kiến thức cơ bản - sông Đà
thơ mộng, trữ tình)

* Nghệ thuật

- Nguyễn Tuân đã vận dụng vốn tri thức phong phú về nhiều mặt để miêu tả con
Sông Đà đem đến cho người đọc những trang viết hấp dẫn, lý thú.

- Miêu tả con Sông Đà, Nguyễn Tuân sử dụng những kiến thức của nhiều ngành
nghệ thuật khác nhau, lối ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ
và thú vị.

- Khi miêu tả Sông Đà, Nguyễn Tuân sử dụng vốn từ ngữ phong phú, sống động,
giàu hình ảnh và có sức gợi cao. Câu văn đa dạng, giàu nhịp điệu, co duỗi nhịp
nhàng, có lúc hối hả, gân guốc, có lúc chậm rãi trữ tình.

3. Bình luận

Hai ý kiến đều đúng, tuy là hai ý kiến khác nhau nhưng không đối lập mà bổ
sung cho nhau; giúp người đọc nhìn nhận toàn diện và thống nhất về hình tượng
con Sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình. Cảm nhận và miêu tả con Sông Đà, Nguyễn
Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm của mình. Hình tượng Sông Đà
chính là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong
chế độ mới.

Hai ý kiến trên giúp ta hiểu rõ hơn tùy bút Người lái đò Sông Đà. Tùy bút
khép lại nhưng vẫn mở ra cho ta nhiều suy nghĩ khác nhau. Đó là sự đánh dấu cho
sự phát triển văn học nước nhà.

Đề 26

116
Tuỳ bút Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã
thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng
lớn, xa xôi của Tổ quốc, nơi ông đã khám phá ra chất vàng của thiên nhiên
cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những người lao động.

Anh (chị) hãy làm rõ “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở nhân vật người
lái đò trong đoạn trích Người lái đò sông Đà.

HƯỚNG DẪN

1. Giới thiệu tác giả tác phẩm cùng vấn đề nghị luận: “thứ vàng mười đã qua thử
lửa” ở nhân vật người lái đò.

VD: Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hóa những con tàu

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ

(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)

Trong những năm tháng miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và
hàn gắn vết thương chiến tranh, nhiều nghệ sĩ đã đến với Tây Bắc góp phần kiến
thiết miền Tây và cho ra đời những tác phẩm văn học đặc sắc. Tuỳ bút Sông Đà
(1960) là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong
chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc,
nơi ông đã khám phá ra chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua
thử lửa” ở tâm hồn của những người lao động. Viết tuỳ bút Người lái đò sông Đà,
Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông
Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người
đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui
117
và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Dưới
ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người
nghệ sĩ tài hoa trong nghề nghiệp của mình.

2. Giải thích

- “Thứ vàng mười đã qua thử lửa” - từ dùng của Nguyễn Tuân - để chỉ vẻ đẹp tâm
hồn của những con người lao động trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ mộng.

3. Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của ông lái đò sông Đà

a) Ông lái đò người lao động rất đỗi bình thường hoạt động trong một môi trường
lao động khắc nghiệt, dữ dội. (Phân tích như trong II- dạng 1, đề 2)

b) Ông mưu trí và dũng cảm để vượt qua những thử thách khắc nghiệt trong cuộc
sống lao động hàng ngày (Phân tích như trong II- dạng 1, đề 2)

c) Nghệ sĩ tài hoa (Phân tích như trong II- dạng 1, đề 2)

d) Nghệ thuật (như trong II- dạng 1, đề 2, tổng kết nghệ thuật))

4. Đánh giá Khái quát lại vấn đề. Nhận xét chung về vẻ đẹp của ông lái đò.

+ Ông lái đò mang những phẩm chất cao đẹp của người lao động thời hiện
đại mới: giản dị mà không kém phần hùng tráng, khỏe khoắn, cũng đầy mưu trí.

+ Đó là những con người tự do, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.

Đề 27

Bàn về hình tượng ông đò trong tùy bút Người lái đò Sông Đà của
Nguyễn Tuân, có ý kiến cho rằng: thứ vàng mười đã qua thử lửa là ở cốt cách
nghệ sĩ của ông đò. Ý kiến khác lại khẳng định: phẩm chất anh hùng của người
lao động này mới thực là thứ vàng mười của con người Tây Bắc.
118
Từ cảm nhận của mình về hình tượng ông đò, anh/ chị hãy bình luận
những ý kiến trên.

HƯỚNG DẪN

1. Vài nét về tác giả, tác phẩm

- Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, có phong cách tài hoa, độc đáo, có nhiều đóng
góp quan trọng cho nền văn học hiện đại Việt Nam.

- Tùy bút Người lái đò sông Đà là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn
Tuân in trong tập Sông Đà (1960). Ở thiên tùy bút này tác giả đã xây dựng được
hình tượng đáng nhớ đó là người lái đò.

- Nêu 2 ý kiến cần nghị luận.

2. Giải thích ý kiến

- Cốt cách nghệ sĩ là nói đến tài nghệ của ông đò: Khi con người đạt tới trình độ
điêu luyện trong công việc của mình là khi họ bộc lộ nét tài hoa, nghệ sĩ. Ông đò là
một nghệ sĩ tài hoa với nghệ thuật chèo thuyền vượt thác hết sức cao cường.

- Phẩm chất anh hùng của ông đò bộc lộ ngay ở cuộc sống lao động thường ngày
trong trận chiến ác liệt với Đà giang.

- Đây là hai nhận xét khái quát về hai phẩm chất cao đẹp của hình tượng ông đò.

3. Cảm nhận hình tượng ông đò

* Ý kiến 1: Cốt cách nghệ sĩ của ông đò

- Để có thể chiến thắng dòng thác sông Đà, ông đò đã có sự chuẩn bị chu đáo, nắm
chắc tình hình của đối phương bởi biết mình biết người, trăm trận trăm thắng. Ông
hiểu biết tường tận về tính nết của dòng sông “nắm chắc binh pháp của thần sông,

119
thần đá” “ thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở”. Ông lão đã biết
từng cửa tử, cửa sinh trên thạch trận sông Đà.

- Từ đó ông đò đã chủ động chỉ huy cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan.

+ Ông đã vượt qua vòng trùng vi thạch trận thứ nhất bằng chính kinh nghiệm
của một vị thuyền trưởng lão luyện, dày dạn trên sông nước với tiếng chỉ huy “ngắn
gọn tỉnh táo của người cầm lái”

+ Bằng sự thông minh sáng suốt “đổi luôn chiến thuật” đã giúp ông đò đưa
con thuyền vượt qua trùng vây thứ hai.

+ Tay lái ra hoa khiến con thuyền như mũi tên tre “xuyên nhanh qua hơi
nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”, vượt qua trùng vây thứ ba, vậy là
hết thác.

- Ông có một phong thái ung dung, lịch lãm biết nhìn những thử thách đã qua bằng
cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn.

* Ý kiến 2: Phẩm chất anh hùng của ông đò:

- Ông lái như một vị tướng tài ba tung mình giữa trận đồ bát quái với những tên
tướng đá hết sức nguy hiểm.

Tinh thần dũng cảm kiên cường đã giúp ông kìm nén nỗi đau về thể xác do
cuộc vật lộn với thác dữ “hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”.

- Người lái đò đã chiến thắng thác dữ bằng những động tác táo bạo mà vô cùng
chuẩn xác “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt
đôi ra để mở đường tiến”

3. Bình luận hai ý kiến

- Hai ý kiến đều đúng, cùng bổ sung hoàn thiện vẻ đẹp của ông đò với sự hài hòa
giữa cốt cách tài hoa nghệ sĩ và phẩm chất anh hùng được tôi luyện trong những lần
120
vượt thác đầy hiểm nguy. Thứ vàng mười đã qua thử lửa của con người Tây Bắc đã
được tạo từ hai phẩm chất trên.

- Qua hình tượng này tác giả phát biểu quan niệm mới về chủ nghĩa anh hùng: anh
hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà có cả ngay trong cuộc sống lao động đời
thường.

- Góp phần làm nên thứ vàng mười đã qua thử lửa ấy Nguyễn Tuân đã dụng công
tạo ra tình huống đầy thử thách; huy động vốn hiểu biết uyên bác về nhiều lĩnh vực,
Nhà văn có vốn ngôn ngữ phong phú, những từ dùng rất mới mẻ, chính xác, sử dụng
phối hợp các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa độc đáo... Vì vậy hình tượng ông đò
hiện lên thật sống động, hấp dẫn.

Đề 28

Về đoạn trích tuỳ bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân, có ý kiến
cho rằng: Đó là một công trình khảo cứu công phu. Nhưng ý kiến khác lại nhấn
mạnh: Đó là một áng văn giàu tính thẩm mĩ.

Từ việc phân tích đoạn trích tuỳ bút, anh/chị hãy bình luận những ý kiến
trên

HƯỚNG DẪN

1. Vài nét về tác giả, tác phẩm

- Nguyễn Tuân là một nhà văn tài năng với một phong cách độc đáo.

- Tuỳ bút Sông Đà là kết quả chuyến đi thực tế Tây Bắc trong và sau kháng chiến
chống Pháp.

- Nêu 2 ý kiến cần nghị luận

121
2. Giải thích ý kiến

- Công trình khảo cứu công phu: là một tác phẩm được tạo nên từ công sức tìm tòi,
nghiên cứu dựa trên các tài liệu phong phú. Nó thể hiện vốn và tầm hiểu biết của
nhà văn, đồng thời cũng đem đến cho người đọc những hiểu biết phong phú về các
đặc điểm, tính chất của đối tượng được đề cập.- Áng văn giàu tính thẩm mĩ: là tác
phẩm nghệ thuật đạt đến độ hoàn hảo trong việc tái hiện cái đẹp, khơi gợi những
hứng thú và khả năng cảm nhận cái đẹp ở người đọc.

3. Phân tích

a) Công trình khảo cứu công phu

- Tác giả huy động một vốn kiến thức tổng hợp khá đồ sộ về rất nhiều ngành nghề
khoa học và nghệ thuật.

+ Địa lí: Sắc nước mỗi mùa, tên của các con thác dọc sông Đà, đặc điểm địa
hình, địa thế của sông…

+ Lịch sử: Các thời kì lịch sử khác nhau gắn với Sông Đà: thời tiền sử, thời
Hùng Vương, Thời vua chúa phong kiến, thời kháng chiến, thời xây dựng chủ nghĩa
xã hội…

+ Văn hoá: Những sinh hoạt vật chất ( đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm
lam) và tinh thần ( bàn cá anh vũ, cá dầm xanh…)

+ Văn học: Hình ảnh con sông Đà trong thơ văn ( Đà giang độc bắc lưu), gợi
nhớ thơ Lí Bạch, thơ Ba Lan…

+ Các kiến thức khác: quân sự, thể thao, âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh, sân
khấu…

- Cung cấp cho người đọc những hiểu biết về con sông Đà và về cuộc sống người
lao động trên sông:
122
+ Về con sông Đà: từ chiều dài sông, đầu nguồn, lưu vực, tên sông qua các
thời kì lịch sử ( Linh Giang)…

+ Về ông đò: Công việc lái đò rất vất vả, khi phải chống chọi lại với ghềnh
thác và những hiểm hoạ bất ngờ của thiên nhiên nên đã làm bộc lộ ở người lái đò
khả năng chinh phục thiên nhiên.

b) Áng văn giàu tính thẩm mĩ

- Người đọc có được khoái cảm thẩm mĩ thực sự trước vẻ đẹp tuyệt vời của con
sông Đà hung bạo và trữ tình; vẻ đẹp của ông đò anh hùng và nghệ sĩ. Bên cạnh đó,
người đọc còn được thưởng thức vẻ đẹp của một thiên anh hùng ca và một bản tình
ca say đắm về thiên nhiên và cuộc sống.

- Nhà văn đã biến những thông tin khô khan, tư liệu lạnh lùng thành hình tượng
sống động, có đời sống, có tâm lí, tính cách, khả năng, số phận cụ thể

- Giá trị thẩm mĩ còn thể hiện ở thể văn Tuỳ bút vừa thực tế vừa tự do phóng túng, ở
tài năng lựa chọn ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ rất mới mẻ, hóa độc đáo của
Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân sử dụng những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc
đáo, bất ngờ và thú vị. Câu văn đa dạng, giàu nhịp điệu, co duỗi nhịp nhàng, có lúc
hối hả, gân guốc, có lúc chậm rãi trữ tình.

Nguyễn Tuân đã tạo được tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ rõ
phẩm chất của mình.

Vốn kiến thức uyên bác của tác giả thuộc nhiều ngành: lịch sử, thơ ca, hội
hoạ, quân sự, thể thao... đã đem đến cho người đọc những trang viết hấp dẫn, lý thú.

4. Bình luận hai ý kiến

123
- Hai ý kiến đề cập đến những phương diện khác nhau về vẻ đẹp của đoạn trích tuỳ
bút. Ý kiến thứ nhất nhấn mạnh đến chất trí tuệ, ở lao động nghệ thuật rất công phu
của một con người thiết tha yêu những giá trị vật chất và tinh thần của đất nước, của
dân tộc và tình yêu, sự gần gũi đối với những người lao động bình thường. Ý kiến
thứ hai thể hiện chất tài hoa, tài tử và phong cách độc đáo vừa thống nhất vừa cách
tân sáng tạo trong nghệ thuật của Nguyễn Tuân .

- Hai ý kiến tuy khác nhau nhưng không đối lập mà bổ sung cho nhau, hợp thành sự
nhìn nhận toàn diện và thống nhất; giúp người đọc có cái nhìn sâu sắc và thấu đáo
hơn về vẻ đẹp của Tuỳ bút Sông Đà và tư tưởng của nhà văn.

Đề 29

Có ý kiến cho rằng: trong sáng tác văn chương Nguyễn Tuân thường
“tiếp cận con người thiên về phương diện tài hoa nghệ sĩ” . Anh/ chị hiểu ý kiến
trên như thế nào?

Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử
tù và người lái đò trong đoạn trích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân để
làm sáng tỏ nhận xét đó.

HƯỚNG DẪN

1. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm vấn đề nghị luận

2. Giải thích ý kiến: “Tiếp cận con người thiên về phương diện tài hoa nghệ sĩ”

- Văn chương là con người. Văn chương của Nguyễn Tuân biểu hiện cái “tôi” cá
nhân độc đáo của ông. Một nét riêng trong sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Tuân là
khi “tiếp cận” nghĩa là tìm hiểu, khám phá để miêu tả phản ánh con người, ông
nghiêng về mặt tài hoa nghệ sĩ.

124
- Tài hoa nghệ sĩ là một phẩm chất cao quý của con người, nó làm cho lao động
cũng là sự sáng tạo, nâng hoạt động của con người trở nên tinh tế, điêu luyện, trở
thành một nghệ thuật, con người xuất hiện với bản chất nghệ sĩ của mình (cái đẹp
mang tính văn hóa).

- Ý kiến này nhấn mạnh vào đặc điểm có tính chất phổ biến trong cảm hứng, trong
cách xây dựng hình tượng nhân vật, nó biểu hiện một quan niệm thẩm mỹ và trở
thành nét tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.

3. Phân tích các hình tượng Huấn Cao, Người lái đò

a. Hình tượng Huấn Cao

- Nhân vật trung tâm của tác phẩm “Chữ người tử tù” tiêu biểu cho vẻ đẹp lý tưởng
của một nho sĩ tài hoa, cứng cỏi, thiên lương trong sáng giữa cuộc đời trần tục, bất
công.

- Huấn Cao nổi tiếng “viết chữ rất nhanh và đẹp”. Tài viết chữ ấy gắn liền với một
nhân cách, nét chữ nói lên “cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Huấn
Cao chỉ dành những chữ ấy cho những người tri kỷ, quyết không thể dùng chữ để
mua bán hoặc đổi chác “ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình
viết câu đối.”

- Nét chữ Huấn Cao khiến viên quản ngục khát khao có được, coi nó như “một báu
vật trên đời”. Ông ta càng cảm phục Huấn cao khi biết cái tài này gắn liền với
“nghĩa khí”, “thiên lương” của một kẻ sĩ chân chính. Những cử chỉ, lời nói của viên
quản ngục với Huấn Cao biểu hiện thái độ “tâm phục khẩu phục”. Đó là sức mạnh
chinh phục tuyệt đối của tài hoa, của nhân cách của một nghệ sĩ lớn.

+ Huấn Cao tỏ rõ sự ân hận với quản nguc “thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm
lòng trong thiên hạ” và đồn tâm trí vào từng nét chữ, bày tỏ niềm cảm thông với
viên quản ngục “ta khuyên thầy nên thay đổi chỗ ở đi...”. Điều đó có nghĩa là cái tài
125
luôn gắn với cái tâm, cái tâm soi chiếu cái tài. Như vậy chữ tài mang ý nghĩa nhân
văn cao cả, biểu hiện một quan niệm nghệ thuật tiến bộ, phong phú của Nguyễn
Tuân về cái đẹp.

b. Hình tượng người lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”

- Là bức chân dung người lái đò như một anh hùng trong huyền thoại, một nghệ sĩ
tài hoa trên sông nước.

- Bản thân bức tranh thiên nhiên sông Đà “hung bạo” đã biểu hiện cái tài của người
lái đò, con người gần bảy mươi tuổi đã hàng trăm lần qua lại trên dòng sông có gằn
73 con thác.

Cái tài ấy biểu hiện tập trung ở trí nhớ tuyệt vời: nhớ từng con thác, hòn đá
trên dòng sông như “nhớ mặt” một bọn “thủy quân” nơi “ải nước” dữ tợn, “nắm
chắc binh pháp của thần sông, thần đá” để chế ngự được chúng. Cái tài ấy là sự linh
hoạt điều khiển con thuyền: khi thì “ghì cương”, khi “ rảo bơi ”, khi lại “ đè sấn” lên
luồng nước hoặc “ phóng thẳng thuyền”... vượt qua khúc sông nguy hiểm.

+ Cùng với trí tuệ sáng suốt và lòng dũng cảm, sức chịu đựng phi thường:
“cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, đây là “cuộc chiến đấu
hàng ngày” của người lái đò để “giành lấy cái sống từ tay những cái thác”.

+ Cái tài của người lái đò không hề có chút gì kiêu bạc, xa rời mà gần gũi,
bình dị là phẩm chất cao quý của người lao động. Vào chỗ dòng nước yên ả thì tiếng
thác dữ trên sông cũng “xèo xèo tan trong trí nhớ” nhường chỗ cho niềm vui với vị
cơm lam, với lời bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh... của người lái đò.

* Đánh giá

Huấn Cao là cái vẻ đẹp tài hoa ở kẻ sĩ chân chính đối lập với cuộc đời bất
công, là một nhân cách lớn lồng lộng giữa cuộc đời xô bồ đầy cặn bã. Người lái đò
sông Đà là kết tinh vẻ đẹp của người lao động trong xã hội mới có cái phi thường
126
trong cái bình thường. Cái đẹp của Huấn cao đối lập với thực tại, phủ định thực tại.
cái đẹp của người lái đò hòa vào vẻ đẹp chung của thiên nhiên đất nước, của cuộc
sống lao động hòa bình. Hai hình tượng cùng một ngòi bút, một phong cách nghệ
thuật vừa ổn định, vừa phát triển.

Đề 30

Có ý kiến cho rằng: “Cảnh vượt thác là một cảnh tượng xưa nay chưa
từng có”. Bằng việc cảm nhận đoạn văn sau đây, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên:
“Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới [… ] thế là hết thác” (Ngữ
Văn 12, tập 1, trang 189 - 190)

HƯỚNG DẪN

1. MỞ BÀI

Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho
rằng: “Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ”. Vâng! là người nghệ sĩ
chân chính nên Nguyễn Tuân luôn tìm mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái mới lạ,
độc đáo “xưa nay chưa từng có” trong hành trình sáng tạo. Tuỳ bút Người lái đò
Sông Đà là kết quả của hành trình bền bỉ và sáng tạo về vẻ đẹp kì diệu của thiên
nhiên và con người Tây Bắc. Bằng sự tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ
một dấu ấn không thể mờ phai về con sông miền Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình
và nổi lên trên thác dữ là vẻ đẹp của một chiến binh sông nước với “tay lái ra hoa”
đã vượt bao trùng vi thạch trận như một người nghệ sĩ trên mặt trận vượt thác leo
ghềnh. Điều đó được khắc hoạ thật ấn tượng mang cảm giác thật mãnh liệt qua đoạn
văn sau đây: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới [… ] thế là hết
thác”
127
2. THÂN BÀI

a. Giải thích:

- “Cảnh vượt thác”: là cảnh tượng người lái đò vượt qua ba trùng vi thạch trận với
bao tướng dữ quân tợn.

- “Xưa nay chưa từng có”: cảnh tượng hiếm gặp, trước sau chưa có.

-> Thực chất của ý kiến là bàn đến tài nghệ vượt thác của ông lái đò và tài năng
nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Tuân.

2.Nội dung

2.1. Trí và Dũng của ông lái đò được thể hiện qua trận trận thủy chiến là một
cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”.

* Trùng vi thạch trận thứ nhất

- Nguyễn Tuân dồn hết bút lực vào miêu tả trùng vi thạch trận đầu tiên. Ở trùng vi
thạch trận này - thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là trận địa với bốn
cửa tử, một cửa sinh. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện; những
hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền
phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần
vào. Bằng các từ ngữ: reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách thức…
người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp, kịch
tính. Đó chính là biệt tài phù thuỷ ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.

Thác đá sông Đà rất khôn ngoan, chúng không chỉ đánh trên mặt trận giáp lá
cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh
của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước
thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà
đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc. Sông Đà cậy thế

128
quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát
nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền
lên”.

- Một loạt động từ được Nguyễn Tuấn huy động để miêu tả cách đánh của sông Đà
làm người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của thiên nhiên: ùa vào, bẻ
gãy, đá trái, thúc gối, đội,… Bị tấn công bất ngờ nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh.
Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ông đò hai tay
giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy
thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”.
Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn
hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”.
Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom đóm rừng ùa
xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó là cái
méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm ông
khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh
đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò.
Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi
chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.

* Trùng vi thạch trận thứ hai

Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ
sông Đà thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách
sông Đà ở sự thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường.
Chuyển từ thế trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công. Ở trùng vi
thạch trận thứ hai này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí
lệch qua bờ hữu ngạn. So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng
không vì thế mà ông đò nao núng. Với kinh nghiệm mười năm chiến trường sông

129
nước, người lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy
luật phục kích của lũ đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là
cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá
luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với
kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm
chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”,
“lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa.
Chúng xô ra định níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn
nên “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở
đường tiến”. hàng loạt động từ được huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu
hò reo theo từng nhịp tiến của ông đò: nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt…
Chính nhờ sự mưu trí và tài năng ấy ông đò vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi
với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ
đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất
vọng”. Qua đó để thấy người khách sông Đà quả thật là Trí Dũng song toàn.

* Trùng vi thạch trận thứ hai

Ở trùng vi thứ ba, sông Đà còn một cơ hội cuối để thử thách người lái đò.
Trùng vi này ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại
nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên
đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan”
nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” - ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo
thành một mũi tên còn ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc
thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa
trong lại cửa trong cùng. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước,
vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ
lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc
thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được… sự thần tốc trong cách đánh
130
và cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường.
Quả là “Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài
năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ” (Phan Huy Đông).
Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục.
Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Đoạn trích
vì thế đã xây dựng được một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

c. Bình luận:

Ý kiến trên là một ý kiến đúng. Ý kiến đã đánh giá thật sâu sắc đoạn trích và
tài nghệ có một không hai của người lái đò sông Đà. Ông là người lao động nhưng
lại mang cốt cách của một tâm hồn nghệ sĩ. Trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh
ông là một con người phi thường, tài hoa. Một nghệ sĩ có phong thái ung dung, nhàn
nhã, khiêm tốn. Ông chính là hình tượng con người lao động là biểu tượng cho trí
dũng song toàn trong hành trình đi tìm cái đẹp của nhà văn. Chính ý kiến này cũng
đã góp phần làm sáng tỏ giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích nói riêng và
tác phẩm nói chung.

3. KẾT BÀI

Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca
những con người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển
hình là hình tượng ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét
đẹp và cả chất nghệ sĩ trong nghề. Cuộc vượt thác của người khách sông Đà quả thật
là phi thường, xứng đáng là một trong những “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

*Đề 31

Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân thể hiện “Sự kế
thừa và biến đổi phong cách của nhà văn ở giai đoạn sau Cách mạng tháng
Tám”

131
Anh ( chị) hãy làm rõ nhận xét trên qua tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà”

*Hướng dẫn:

a/ Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tuỳ bút Người lái đò Sông Đà, phong
cách nghệ thuật của nhà văn

- Nêu vấn đề cần nghị luận: Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn
Tuân thể hiện “Sự kế thừa và biến đổi phong cách của nhà văn ở giai đoạn sau
Cách mạng tháng Tám”

b/ Thân bài:

b.1/ Sơ lược về phong cách nghệ thuật NguyễnTuân

- Trước Cách mạng: thường tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ
và sự việc ở phương diện văn hoá thẩm mĩ

- Sau Cách mạng: có những thay đổi quan trọng tuy vẫn có sự kế thừa những
nét phong cách ở giai đoạn trước Cách mạng, không còn đối lập giữa xưa và nay,
giọng văn vì thế không kiêu bạc mà trở nên tin yêu, đôn hậu. Tìm thấy chất tài hoa
nghệ sĩ ở cả nhân dân đại chúng. Cái đẹp, cái tài có thể tìm thấy trên mọi phương
diện của cuộc sống. Thiên nhiên vẫn còn là những công trình thiên tạo tuyệt vời của
tạo hóa, con người là những người tài hoa nghệ sĩ trong chính nghề nghiệp của mình
b.2/ Chứng minh sự kế thừa và biến đổi phong cách của Nguyễn Tuân
trong tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà”

- Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà là sự kế thừa phong cách của nhà văn ở giai
đoạn trước Cách mạng tháng Tám:

+ Tiếp cận sự vật sự việc trên phương diện văn hóa, nghệ thuật

132
+ Dựng cảnh hay dựng người đều gây ấn tượng: dựng cảnh ở hai thái
cực dữ dội thơ mộng. Khám phá con người ở góc độ tài hoa nghệ sỹ

- Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà thể hiện sự biến đổi phong cách của nhà văn
ở giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám:

+ Vẫn là cái nhìn tài hoa, uyên bác nhưng giờ đây Nguyễn Tuân không đối
lập quá khứ với hiện tại, nhà văn say sưa ca ngợi vẻ đẹp của con sông Đà, một vẻ
đẹp của cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng, vẻ đẹp của “ Chất
vàng” Tây Bắc. Và trên cái nền của thiên nhiên ấy, Nguyễn Tuân đặc biệt ngợi ca
nguồn tài nguyên quý giá của vùng đất nơi đây, đó là con người lao động bình dị
trong công cuộc xây dựng mới của đất nước, là “ Chất vàng mười đã qua thử lửa”
Đặc biệt, nhà văn tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ không phải ở những nhân vật đặc
tuyển như trước đây mà tìm thấy ở nhân dân đại chúng như ông lái đò vùng Tây Bắc
xa xôi. Điều đó khẳng định, nhà văn đã phát hiện ra cái đẹp ngay trong hiện thực đời
thường chứ không chỉ là chút vang bóng cô đơn, lạc lõng của quá khứ

+ Không khí nghệ thuật: gắn với hơi thở của thời đại, gắn với nhịp sống hiện
tại của đất nước. Ngôn từ đậm chất uyên bác tài hoa, không nặng màu sắc cổ điển
như trước

b.3/ Đánh giá

- Sự biến đổi trong phong cách của Nguyễn Tuân có nguyên nhân từ sự thay
đổi tư tưởng và tình cảm của nhà văn ở giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám.
Nguyễn Tuân muốn khảng định rằng cái đẹp của chủ nghĩa anh hùng có ở khắp mọi
nơi. Nó không chỉ có ở những kì tích mà còn có ngay trong những việc làm bình dị
ở những con người lao động bình thường

- Sự kế thừa biến đổi phong cách của Nguyễn Tuân trong túy bút là một hiện
tượng thú vị, cần được quan tâm

133
c/ Kết luận:

- Đánh giá vấn đề đã nghị luận

- Cảm nghĩ của bản thân về tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Tuân từ sau
cách mạng tháng Tám

*Đề 32:
Về hình tượng sông Đà trong đoạn trích “Người lái đò sông Đà” của
Nguyễn Tuân (sách Ngữ văn 12), có ý kiến cho rằng “ Con sông Đà là một loài
thủy quái vừa hung ác vừa nham hiểm”. Ý kiến khác thì nhấn mạnh “ Con sông
Đà dịu dàng như một thiếu nữ, gợi cảm như một “cố nhân” và bí ẩn như một
“người tình nhân chưa quen biết”
Cảm nhận của anh ( chị) về vẻ đẹp hình tượng sông Đà qua hai ý kiến trên

*Hướng dẫn:
a/ Mở bài:
- Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm
- Dẫn ý kiến
b/ Thân bài:
b.1/ Giải thích ý kiến:
- Ý kiến thứ nhất nói đến vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
- Ý kiến thứ hai nói đến vẻ đẹp trữ tình của sông Đà
- Hai ý kiến nói hai nét tính cách đối lập nhau nhưng cũng lại thống nhất
với nhau trong hình tượng sông Đà
b.2/ Cảm nhận về hình tượng sông Đà:
*Về nội dung:

134
- Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà “con sông Đà là một loài thủy quái vừa
hung ác, vừa nham hiểm”
+ Đá bờ sông dựng thành vách bóp chẹt lòng sông, quãng sông chỗ ấy lúc
chính ngọ mới thấy ánh mặt trời
+ Mặt ghềnh Hát Lóong và Tà Mường Vát: gió, đá, sóng nước dữ dội
+ Những cái hút nước ghê rợn, âm thanh cuồng nộ
+ Trùng vi thạch trận ở dưới lòng sông, lũ đá hiểm ác mai phục sẵn để
quyết tiêu diệt bất cứ người lái đò nào đi qua
- Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà “con sông Đà dịu dàng như một thiếu nữ,
gợi cảm như một “cố nhân” và bí ẩn như một “người tình nhân chưa quen biết”
+ Từ trên cao Sông Đà mang vẻ đẹp của một mĩ nhân: Con sông Đà “như
một áng tóc trữ tình”
+ Sắc nước sông Đà đẹp thay đổi theo mùa “mùa xuân xanh ngọc bích,
mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ”
+ Góc nhìn từ bờ bãi sông Đà “như một cố nhân”, mang vẻ đẹp của một
người tình nhân chưa quen biết. Vẻ đẹp ở quãng hạ lưu êm đềm tĩnh lặng,
hoang sơ cổ kính mà cũng rất tươi mới đầy sức sống và còn nhiều điều bí ẩn,
mới mẻ chưa khám phá
*Về nghệ thuật:
+ Sử dụng vốnkiến thức của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau: điêu
khắc, hội họa, điện ảnh, âm nhạc...
+ Xây dựng nhiều hình ảnh so sánh, liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ, thú
vị
+ Sáng tạo trong cách sử dụng ngôn từ, kết cấu câu trùng điệp, giọng
điệu biến hóa linh hoạt, lúc dồn dập, lúc chậm rãi...
b.3/ Bình luận các ý kiến:
- Hai ý kiến đều có tính khái quát sâu sắc, nhấn mạnh những tính cách

135
khác nhau của hình tượng sông Đà, hung bạo và trữ tình
- Sự hung bạo dữ dội và vẻ đẹp trữ tình của Đà giang như một biểu
tượng về sức mạnh, vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ, phong phú và đa dạng của thiên
nhiên đất nước
- Hai ý kiến tuy khác nhau nhưng không đối lập nhau mà bổ sung cho
nhau. Hai ý kiến đánh giá hợp thành một cái nhìn toàn vẹn và thống nhất về vẻ
đẹp cũng như tính cách của hình tượng sông Đà
c/ Kết luận:
- Giá trị của ý kiến đánh giá
- Qua đó, ta thấy tình yêu, niềm tự hào về thiên nhiên, đất nước của
Nguyễn Tuân, nhà văn luôn viết về con người và thiên nhiên đất nước bằng tất
cả sự say mê, ngưỡng mộ, bằng bút lực tài hoa và một văn phong mang đậm
dấu ấn riêng.

Câu 33: Anh/chị hãy phân tích hình tượng người lái đò trong cuộc chiến với con
sông hung dữ trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân. Từ đó, hãy
cắt nghĩa vì sao, trong con mắt của tác giả, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng,
nhưng con người Tây Bắc mới thật xứng đáng là vàng mười của đất nước ta.

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT

* Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút Người lái đò sông Đà
và hình tượng người lái đò .

*Phân tích hình tượng người lái đò trong cuộc chiến với con sông Đà hung dữ

+ Thoạt nhìn đó là cuộc đấu không cân sức. Bởi đó là trận đấu mà ở bên này
là một thiên nhiên lớn lao, dữ dội và hiểm độc, với sức mạnh được nâng lên hàng
thần thánh, có sóng nước hò reo quyết vật ngửa mình thuyền, có thạch trận với ba
21 lớp trùng vi vây bủa, được trấn giữ bởi những hòn đá ngỗ ngược, hỗn hào và

136
nham hiểm; còn bên kia là con người bé nhỏ, không hề có phép màu, vũ khí trên tay
chỉ là chiếc cán chèo-những chiếc que thật mỏng manh trước nguy nga sóng
tháctrên một con đò đơn độc hết chỗ lùi.

+ Cuối cùng vẫn là con người chiến thắng sức mạnh thần thánh của tự nhiên,
vẫn là con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp kia của trùng vi
thạch trận, để những thằng đá tướng phải lộ sự tiu nghỉu, thất vọng qua bộ mặt xanh
lè. Người lái đò đã đè sấn được sóng gió, nắm chặt cái bờm sóng mà thuần phục sự
hung hãn củadòng sông. Nguyễn Tuân cho thấy, nguyên nhân làm nên chiến thắng
của con ngườkhông hề bí ẩn. Đó chính là sự ngoan cường, chí quyết tâm, và nhất là
kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác xuống ghềnh đã giúp cho con người nắm
chắc binh pháp của thần sông, thần đá, để từ đó khuất phục dòng thác hồng hộc hơi
thở của hùm beo.

=> Để miêu tả cho thật hùng tráng và hấp dẫn cuộc thủy chiến giữa ông lái đò
với thác dữ sông Đà, Nguyễn Tuân đã tung ra đạo binh ngôn từ hùng hậu cùng tất cả
sự tài hoa, uyên bác trong ngòi bút của mình.

* Lí giải :

Từ việc làm rõ sức mạnh, sự ngoan cường, chí quyết tâm, kinh nghiệm đò
giang của người lái đò-một người lao động bình thường trên mảnh đất Tây Bắc
nước ta – qua cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên, chúng ta hiểu rằng, chẳng phải
tình cờ khi, để nói về màu sắc của núi sông, Nguyễn Tuân chỉ dùng một chữ vàng.
Để rồi sau đó, ông sẽ dùng chữ vàng mười để gọi tên vẻ đẹp và giá trị quý báu của
con người lao động. Điều đó chứng tỏ, trong cảm xúc thẩm mĩ của tác giả Người lái
đò sông Đà, con người đẹp hơn tất cả và quý giá hơn tất cả. Người lái đò sông Đà
chính là khúc hùng ca ca ngợi con người, ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao
động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng trước sức mạnh tựa
thánh thần của dòng sông hung dữ. Đấy chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của
nhân dân Tây Bắc và của những người lao động nói chung.
137
* Đánh giá chung về hình tượng ông lái đò, về tác phẩm và tài năng nghệ thuật
của Nguyễn Tuân.

Đề 34:Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hình tượng sông Đà trong tác phẩm
"Người lái đò sông Đà" – Nguyễn Tuân và hình tượng sông Hương trong tác
phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" – Hoàng Phủ Ngọc Tường. Từ đó, trình
bày suy nghĩ của mình về việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê hương, đất
nước.

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT

* Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần bàn luận.

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và Người lái đò sông Đà

- Giới thiệu tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và Ai đã đặt tên cho dòng sông

- Giới thiệu vấn đề nghị luận: vẻ đẹp của sông Hương, sông Đà, và về việc
bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê hương, đất nước.

* Phân tích

- Nét tương đồng của 2 dòng sông:

+ Sông Đà và sông Hương đều được các tác giả miêu tả như một nhân
vật trữ tình có tính cách với những vẻ đẹp đặc trưng riêng biệt, thể hiện tình yêu
thiên nhiên, tình yêu quê hương, đất nước.

+ Sông Đà và sông Hương đều mang nét đẹp của sự hùng vĩ, dữ dội.

Vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà được thể hiện qua sự hung bạo và dữ dội của nó
trên nhiều phương diện khác nhau cảnh trí dữ dội, âm thanh ghê rợn, đá sông Đà
như đang bày trùng vi thạch trận.

Khi chảy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy dữ dội tựa 1 bản trường ca
của rừng già, tựa cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại....

138
-Đánh giá:

+ Sông Đà và sông Hương đều có vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình:

++ Sông Đà: dáng sông mềm mại tựa mái tóc tuôn dài tuôn dài,
màu nước thay đổi qua từng mùa, vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính...

++ Sông Hương: với dòng chảy dịu dàng và đắm say giữa những
dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Sông Hương còn mang vẻ đẹp của
người con gái ngủ mơ màng chờ người tình mong đợi đánh thức. Nó còn được ví
như điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế...

+ Cả 2 đều được miêu tả qua ngòi bút tài hoa, uyên bác:

++ Tài hoa: 2 dòng sông đều được miêu tả trên phương diện văn
hóa, thẩm mĩ:

+++ Sông Đà là nơi hội tụ 2 nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên
nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, uy nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng.

+++Sông Hương là dòng sông của âm nhạc, dòng sông của thơ
ca, của lịch sử gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, với vẻ đẹp của người dân
xứ Huế.

++ Uyên bác: cả 2 tác giả đều vận dụng cái nhìn đa ngành, vận
dụng kiến thức trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa hình tượng 2 dòng sông.

* Nét độc đáo riêng trong từng hình tượng dòng sông:

a/ Sông Đà:

Trong đoạn trích, nhà văn tập trung tô đạm nét hung bạo, dữ dội của
sông Đà giống như 1 kẻ thù hiểm độc và hung ác. Thể hiện rõ nhất qua hình ảnh
nước dữ, gió dữ, đá dữ đặc biệt đá bày trùng vi thạch trận chực lấy đi mạng sống
của con người. Sông Đà được cảm nhận ở chính nét dữ dội, phi thường, khác lạ:
tiếng thét của sông Đà như tiếng thét của ngàn con trâu mộng, đá trên sông đà mỗi
viên đều mang 1 khuôn mặt hung bạo, hiếu chiến...
139
Đặc biệt, tác giả miêu tả sự hung bạo của sông Đà để làm nổi bật sự tài hoa,
tài trí của người lái đò. Lúc này đây, sông Đà như 1 chiến địa dữ dội. Và mỗi lần
vượt thác của người lái đò là mỗi lần ông phải chiến đấu với thần sông, thần đá...

b/ Sông Hương:

Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng, gợi cảm và nữ tính, luôn
mang dáng vẻ của 1 người con gái xinh đẹp, mong manh có tình yêu say đắm. Khi ở
thượng nguồn, nó là cô gái Digan phóng khoáng, man dại; khi ở cánh đồng Châu
Hóa, nó là cô thiếu nữ ngủ mơ màng; khi lại như người tài nữ đánh đàn giữa đem
khuya, hay là nàng Kiều tài hoa, đa tình mà lại chung tình, là người con gái dịu dàng
của đất nước.

Sông Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như người mẹ
phù sa bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa này từ bao đời nay.

Sông Hương được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu: thủy trình của sông
Hương là thủy trình có ý thức tìm về người tình mong đợi. Khi chảy giữa Huế, sông
Hương mềm hẳn đi như 1 tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu. Trước khi đổ ra
cửa biển, sông Hương như người con gái dùng dằng chia tay người yêu, thể hiện 1
nỗi niềm vương vấn với 1 chút lẳng lơ kín đáo.

Thông qua hình tượng sông Hương mang nét đẹp nữ tính, nhà văn thể hiện
nét đẹp lãng mạn, trữ tình của đất trời xứ Huế

* Trách nhiệm bản thân trong việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê
hương, đất nước

Học sinh có thể trình bày quan điểm cá nhân dựa trên những gợi ý sau: Thế
hệ trẻ cần có trách nhiệm bảo vệ cảnh quan đất nước qua hành động cụ thể như: yêu
quí, bảo vệ môi trường, quảng bá thắng cảnh...

* Đánh giá chung về đóng góp của hai nhà văn

140
- Qua vẻ đẹp tương đồng của 2 dòng sông, ta bắt gặp sự tương đồng độc đáo
của 2 tâm hồn có tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm tự hào với vẻ đẹp của non
sông đất nước Việt Nam.

- Mỗi nhà văn đều có 1 phong cách nghệ thuật độc đáo trong việc thể hiện
hình tượng các dòng sông, giúp người đọc có những cách nhìn phong phú, đa dạng
về vẻ đẹp của quê hương, đất nước mình

ĐỀ 35
(…) Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc
ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân
bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước
Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu
xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ
như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người
bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về (…)
(Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12)

(…) Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt
qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm,
và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm
cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn
nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ
bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang
nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều
tím” như người Huế thường miêu tả (…)
(Ai đã đặt tên cho dòng sông? - Hoàng Phủ Ngọc Tường,Ngữ văn 12)
141
Cảm nhận hai đoạn văn trong Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân và Ai đã đặt
tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường

Hướng dẫn
a. Mở bài
- Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ lớn, với phong cách nghệ thuật độc đáo, nổi bật là nét
tài hoa, uyên bác, đặc biệt sở trường về tuỳ bút. Người lái đò Sông Đà là một tuỳ bút
đặc sắc, kết tinh nhiều mặt của phong cách Nguyễn Tuân, viết về vẻ đẹp và tiềm
năng của thiên nhiên và con người Tây Bắc.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nghệ sĩ tài hoa, mang đậm chất Huế, có nhiều
thành tựu về thể kí. Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một tuỳ bút giàu chất trữ tình
viết về vẻ đẹp sông Hương với bề dày lịch sử và văn hoá Huế, rất tiêu biểu cho
phong cách của ông.
b. Thân bài.
b.1. Về đoạn văn trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà
- Nội dung
+ Đoạn văn tập trung miêu tả vẻ đẹp đầy chất tạo hình của sông Đà với hình dáng
thơ mộng, đường nét mềm mại, ẩn hiện; màu sắc dòng nước biến đổi tương phản
theo mùa, gây ấn tượng mạnh.
+ Hiện diện một cái tôi Nguyễn Tuân đắm say, nồng nhiệt với cảnh sắc thiên nhiên,
tinh tế và độc đáo trong cảm nhận cái đẹp.
- Nghệ thuật
+ Hình ảnh, ngôn từ mới lạ; câu văn căng tràn, trùng điệp mà vẫn nhịp nhàng về âm
thanh và nhịp điệu.
+ Cách so sánh, nhân hoá táo bạo mà kì thú; lối tạo hình giàu tính mĩ thuật, phối hợp
nhiều góc nhìn theo kiểu điện ảnh.
142
b.2. Về đoạn văn trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông?
- Nội dung
+ Đoạn văn miêu tả vẻ đẹp sông Hương theo thuỷ trình của nó, với những vẻ uyển
chuyển, linh hoạt của dòng chảy; vẻ biến ảo của màu sắc; vẻ uy nghi trầm mặc
củacảnh quan đôi bờ.
+ Toát lên một tình yêu xứ sở sâu nặng, đằm thắm, một cách cảm nhận bình dị mà
tinh tế của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Nghệ thuật
+ Hình ảnh chân thực mà gợi cảm; câu văn kéo dài mà khúc chiết, thanh điệu hài
hoà, tiết tấu nhịp nhàng.
+ Lối so sánh gần gũi và xác thực, sử dụng nhuần nhuyễn các địa danh và cách nói
của người Huế
.b.3. Về sự tương đồng và khác biệt giữa hai đoạn văn
- Tương đồng. Cùng miêu tả vẻ đẹp phong phú và biến ảo của sông nước, cùng bộc
lộ tình yêu mãnh liệt dành cho thiên nhiên xứ sở với một mĩ cảm tinh tế, dồi dào;
cùng bao quát sông nước trên nền cảnh khoáng đạt của không gian và thời gian,
cùng được viết bằng một thứ văn xuôi đậm chất trữ tình, giàu hình ảnh, âm thanh và
nhịp điệu.
- Khác biệt. Đoạn văn của Nguyễn Tuân: trội về cảm xúc nồng nàn, cảm giác sắc
cạnh, liên tưởng phóng túng, so sánh táo bạo; cảnh sắc được bao quát từ nhiều góc
nhìn khác nhau, theo nhiều mùa trong năm. Đoạn văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
trội về cảm xúc sâu lắng, cảm giác gắn với suy tư; cảnh sắc được bao quát từ cùng
một góc nhìn mà nương theo thuỷ trình để nắm bắt sự biến đổi của sông nước qua
từng chặng, từng buổi trong ngày.
c. Kết luận.
- Khái quát lại vấn đề.

143
Đề 36: Phân tích đoạn văn sau trong bài tùy bút "Người lái đò Sông Đà" của
Nguyễn Tuân: " Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ.
Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà
thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà
tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn
hươu cúi đầu ngốn búp có gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ
tiềnsử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm
được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt
Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ
sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi
không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi
ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn
cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập
nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt
nước lênh bênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của ‘‘một người tình nhân
chưa quen biết" (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những
hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang
lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những
con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây
cổ điển trên dòng trên…”

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT

* Giới thiệu khái quát vể tác giả Nguyễn Tuân và đoạn trích Người lái đò sông
Đà.

* Phân tích hình tượng con Sông Đà trong đoạn văn:

- Nội dung:

144
+ Vẻ đẹp trữ tình của một quãng sông êm ả, hiền hòa:

++ Thuyền được trôi êm và câu văn mở đầu vì thế cũng trở nên lâng
lâng, mơ màng, không vướng víu với một thanh trắc nào: “Thuyền tôi trôi trên Sông
Đà”. Cái ý “lặng tờ” được nhắc đi nhắc lại mấy lần theo một kiểu trùng điệp rất đặc
thù của thơ: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê,
quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”, nghĩa là không thể “lặng tờ” hơn
được nữa!

++ Thiên nhiên thật hài hoà và mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, Miêu tả
vẻ đẹp trữ tình, thi vị, hoang dại, cổ kính của dòng sông.

+ + thần thái của dòng sông: Dòng sông như một sinh thế mang nặng tâm
trạng, cảm xúc.

++ Không gian: tĩnh mịch, hoang vắng (ngoại trừ thanh âm của “đàn cá
dầm xanh quẫy vọt lên mặt sóng.

+ Cảm xúc của du khách – nhân vật trữ tình trên sông Đà

– Rung cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp ngây ngất của thiên nhiên và chiêm
ngưỡng vẻ đẹp bằng đôi mắt của một người nghệ sĩ tài hoa, một người yêu.

_Nhìn cảnh ven sông lặng tờ, người nghệ sĩ liên tưởng tới quá khứ của quãng
sông để so sánh, đối chiếu, khám phá ra vẻ đẹp hoang dại, cổ tích, huyền thoại kì
thú của nó cũng như vẻ đẹp trẻ trung, tươi tắn nảy nở, sinh sôi của cảnh vật thực tại.

– Yêu thiên nhiên nồng nàn, tha thiết; hòa nhập tâm hồn mình với thiên nhiên.
Người nghệ sĩ ấy với thiên nhiên như một người bạn tri âm, tri kỷ nên rất thấu hiểu
thiên nhiên.

– Khát khao, mơ ước, hi vọng về một tương lai tốt đẹp cho vùng đất Tây Bắc
xa xôi của Tổ quốc.

- Nghệ thuật:

145
++ Nhà văn dùng thủ pháp so sánh tu từ, nhân hóa tu từ, điệp câu trúc cú
pháp để:

++ Nhà văn dùng những nét chấm phá rất tài hoa của nghệ thuật hội họa,
điêu khắc:

++ Gam màu nhạt tạo cảm giác trữ tình thơ

++ Nhà văn có cách phối hợp thanh điệu, nhịp điệu của câu văn cũng rất tài
hoa.

* Đánh giá:

- Cả tác phẩm cũng như trích đoạn đã khơi dậy trong lòng chúng ta tình yêu
thiên nhiên, đất nước mãnh liệt, yêu những con người lao động chân chính, hăng say
và đặc biệt càng thêm yêu vùng đất Tây Bắc xa xôi nhưng giàu tiềm năng của Tổ
quốc Việt Nam.

Đề 37 ( Cảm nhận 01 đoạn văn trích trong VB )


“Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời
Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi
qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng
người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp
cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa…….... Và con sông như đang như đang
lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con
đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển
trên dòng trên”
( “Người lái đò Sông Đà” Ngữ văn 12 tập 1 - Nguyễn Tuân )
Cảm nhận về vẻ đẹp của sông Đà trong đoạn văn trên

146
*Hướng dẫn:

a/ Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm tùy bút. Giới thiệu đoạn
văn trích là vẻ đẹp trữ tình của một quãng sông Đà êm ả hiền hòa & là nỗi lòng cảm
xúc của du khách trên sông

b/ Thân bài:

b.1/ Về nội dung:

- Vẻ đẹp trữ tình của một quãng Đà sông êm ả, hiền hòa


+ Miêu tả vẻ đẹp trữ tình thi vị, hoang dại cổ kính của dòng sông Đà

“ Cảnh ven sông lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê”. Dòng sông Đà với
nhiều hình ảnh đẹp, tinh lọc sắc sảo “ Một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu
mùa”, “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”, “một đàn hươu cúi đầu ngốn
búp cỏ gianh đẫm sương đêm”

+ Đặc biệt, nhà văn dùng cách nói so sánh, nhân hóa, điệp câu trúc “Bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi
xưa” để gợi thần thái của dòng sông, dòng sông Đà hiện lên như một sinh thể sống
mang nặng tâm trạng, cảm xúc

+ Những nét chấm phá rất tài hoa của nghệ thuật hội họa, điêu khắc: Gam
màu nhạt tạo cảm giác trữ tình thơ mộng. Không gian: tĩnh mịch, hoang vắng (ngoại
trừ thanh âm của “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sóng”)

+ Cách phối hợp thanh điệu, nhịp điệu của câu văn cũng rất nhịp nhàng, tinh
tế, tài hoa, miêu tả vẻ đẹp hiền hòa êm ả của sông Đà một cách vô tư, khách quan và
có sự kết hợp với suy nghĩ cảm nhận của cá nhân

- Cảm xúc của du khách – nhân vật trữ tình trên sông Đà

147
+ Rung cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp ngây ngất của thiên nhiên và chiêm ngưỡng
vẻ đẹp ấy bằng đôi mắt của một người nghệ sĩ tài hoa, của một người yêu

+ Nhìn cảnh ven sông lặng tờ, người nghệ sĩ liên tưởng tới quá khứ của quãng
sông để so sánh, đối chiếu, khám phá ra vẻ đẹp hoang dại, cổ tích, huyền thoại kì
thú của nó cũng như vẻ đẹp trẻ trung, tươi tắn nảy nở, sinh sôi của cảnh vật thực tại

+ Yêu thiên nhiên nồng nàn, tha thiết, hòa nhập tâm hồn mình với thiên nhiên

+ Khát khao, mơ ước, hi vọng về một tương lai tốt đẹp cho vùng đất Tây Bắc
xa xôi của Tổ quốc

b.2/ Về nghệ thuật:

- Kể, tả chân thực. Cảm xúc nồng nàn say đắm, chất trữ tình lắng sâu

- Phối hợp nhiều biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, liên tưởng, điệp cấu
trúc

- Nhịp văn giọng văn nhẹ nhàng uyển chuyển

c/ Kết luận:

- Đánh giá giá trị đoạn trích: đã khơi dậy trong lòng chúng ta tình yêu thiên
nhiên, đất nước mãnh liệt, yêu những con người lao động chân chính nhiệt huyết, và
đặc biệt càng thêm yêu vùng đất Tây Bắc xa xôi nhưng giàu tiềm năng của Tổ quốc
Việt Nam

- Tài năng Nguyễn Tuân: trong thể tùy bút, trong nền văn học Việt Nam hiện
đại

Đề 38 (Cảm nhận 02 đoạn văn trích trong VB )


Trong “Người lái đò Sông Đà” ( Ngữ văn 12 tập 1), nhà văn Nguyễn Tuân
khắc họa rõ nét hình tượng dòng sông Đà với những đặc điểm khác nhau. Ban đầu,
nó được hiện với cảnh:
148
“ Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên cái mặt hút xoáy tít
đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn…những cái giếng sâu nước ặc ặc
lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi lại nghênh ngang vô ý là những
cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống…thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến
đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh
sông dưới”

Sau đó, tác giả lại có những cảm nhận khi:

“ Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ...Thuyền tôi trôi
qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng
người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp
cỏ gianh đẫm sương đêm...Chao ôi, thấy thèm được giật mình về một tiếng còi xúp
lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái- Lai Châu”

Hãy cảm nhận hình ảnh dòng sông Đà trong hai vị trí trên, từ đó làm nổi bật
sự đổi thay của hình ảnh này

*Hướng dẫn:

a/ Mở bài:

- Giới thiệu chung về tác giả Nguyễn Tuân, về tùy bút “ Người lái đò sông
Đà”

- Dẫn vấn đề nghị luận: hình ảnh dòng sông Đà trong hai đoạn văn và sự đổi thay
của hình ảnh dòng sông Đà qua hai vị trí

b/ Thân bài:

b.1/ Về nội dung:

149
- Cảm nhận đoạn văn (1): Sông Đà hùng vĩ qua cái hút nước

+ Những ấn tượng về thính giác: “Nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc,
ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Tất cả gợi những liên tưởng về tiếng kêu của
con quái vật hung dữ

+ Những ấn tượng về thị giác: “mặt hút xoát tít đấy đang quay lừ lừ những
cánh quạ đàn, thuyền trồng cây chuối ngược rồi tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Sự
hùng vĩ ở đoạn này góp phần tô đậm tính chất dữ dội, khủng khiếp của sông Đà.
Đây cũng là nét đặc trưng của sông Đà trong hệ thống sông Việt Nam. Điều đó
khiến sông Đà là thử thách đối với bao người lái đò qua sông, là sự khẳng định bản
lĩnh và sức mạnh của con người khi chinh phục và chế ngự dòng sông

- Cảm nhận đoạn văn (2): Sông Đà hiền hòa, thơ mộng, lãng mạn trong
sự tĩnh lặng, bình yên

+ Vẻ đẹp thơ mộng của sông Đà không chỉ được khắc họa trong hình dáng,
trong sắc màu mà còn được khắc họa cả trong tâm hồn bình yên, tĩnh lặng:

~ Câu văn toàn thanh bằng: “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà” đã gợi cảm giác
thư thái, bình an

~ Các từ, cụm từ cùng trường nghĩa chỉ sự tĩnh lặng: “lặng tờ- tịnh không một
bóng người- thèm được giật mình về tiếng còi xúplê”

~ Các hình ảnh: “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa, cỏ gianh
đồi núi đang ra những nõn búp”… tạo nên bức tranh đẹp, trong sáng, bình yên về
một sự sống đang hình thành trên Tây Bắc

~ Sự liên tưởng: “thấy thèm được giật mình về một tiếng còi xúplê của một
chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái- Lai Châu”

150
+ Những ấn tượng về sông Đà, về âm thanh & hình ảnh sông Đà chính là những
ấn tượng về âm thanh cho một nhịp sống sôi động, tươi vui, giàu có sẽ đến với nhân
dân miền Tây Bắc

- Bình luận sự thay đổi:


+ Sông Đà thay đổi từ vẻ đẹp từ dữ dội đến hiền hòa, trữ tình êm dịu

+ Sự thay đổi này tạo nên vẻ đẹp đặc trưng, đa chiều, đa diện của dòng sông
và của thiên nhiên vùng núi phía Bắc. Sông Đà hiện lên thú vị, hấp dẫn, vừa quen
vừa lạ. Chính cách nhìn, cách cảm cùng tấm lòng, tình yêu và niềm hi vọng về một
cuộc sống mới và chính phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân đã mang
tới sự đổi thay, sự hồi sinh cho đất và người nơi đây

b.2/ Về nghệ thuật:

- Thành công trong cách kể, tả, liên tưởng bất ngờ thú vị hấp dẫn

- Sử dụng các từ ngữ, câu văn, hình ảnh sinh động. Giọng văn nhịp văn co
duỗi biến hóa linh hoạt, khả năng quan sát tinh tế

c/ Kết luận:

- Đánh giá giá trị hai đoạn đều văn tập trung làm nổi bật vẻ đẹp của sông Đà
từ dữ dội đến hiền hòa, trữ tình êm dịu

- Đánh giá tài năng Nguyễn Tuân: bậc thầy trong thể kí

ĐỀ 39

Trong Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân đã nhiều lần thay đổi điểm nhìn để
khám phá vẻ đẹp của Sông Đà:

Khi ở trên tàu bay nhìn xuống: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc

151
trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo
tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.”

Khi lại là một du khách đi thuyền trên sông: “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô
nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi
đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm.
Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích
tuổi xưa.”

(Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một,

NXB Giáo dục, 2008, tr.191)

Phân tích sự tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân qua hai điểm nhìn
trên.

ĐÁP ÁN

a. Giải thích:

– Tài hoa: những sáng tạo độc đáo thể hiện phong cách của người viết, đem đến sự hấp
dẫn cho người đọc. 1,0

– Sự tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ thể hiện ở cách sử dụng từ ngữ, cách viết câu, dùng
các biện pháp tu từ sáng tạo, mới mẻ.

b. Phân tích sự tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân qua hai điểm 8,0
nhìn:

– Khi thể hiện vẻ đẹp Sông Đà từ trên tàu bay nhìn xuống:

+ Từ ngữ: độc đáo, tinh tế, gợi cảm,… (HS phân tích cụm từ: “áng tóc trữ tình”, …).

152
+ Câu văn: Câu văn dài chia làm nhiều vế, uyển chuyển, tầng tầng lớp lớp, co duỗi nhịp
nhàng,…

+ Các biện pháp tu từ: so sánh (“Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ
tình”), điệp ngữ (“tuôn dài tuôn dài”), đảo ngữ (“bung nở hoa ban hoa gạo”, “cuồn
cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”), …

 Qua đó, nhà văn làm nổi bật vẻ đẹp mềm mại, duyên dáng, gợi cảm, đầy sức sống của
Sông Đà.

– Khi thể hiện vẻ đẹp Sông Đà từ điểm nhìn của một du khách đi thuyền trên sông:

+ Từ ngữ: mới lạ, chính xác,… (HS phân tích những từ ngữ, cụm từ: “lặng tờ”, “bờ tiền
sử”, “nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”,…).

+ Câu văn: Những câu văn chủ yếu là thanh bằng như những giai điệu trữ tình êm ái,…

+ Các biện pháp tu từ: so sánh, điệp cấu trúc câu (”Bờ sông hoang dại như một bờ tiền
sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niểm cổ tích tuổi xưa”),…

à Qua đó, tác giả miêu tả vẻ đẹp vừa tươi mới, tràn đầy nhựa sống vừa tĩnh lặng, hoang
sơ, … của Sông Đà.

c. Đánh giá:

– Sự tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân cho thấy sự công phu trong lao
động nghệ thuật, tài năng và cá tính sáng tạo của nhà văn.

– Sự tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân đã góp phần làm ngôn ngữ Tiếng
Việt giàu có, tinh tế hơn.

– Sự tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân góp phần thể hiện vẻ đẹp của một

153
cái tôi nhạy cảm, tinh tế, đắm say trước vẻ đẹp của non sông, đất nước.

Mở bài Người lái đò sông đà

Mở bài người lái đò sông đà ngắn gọn

Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác
phẩm của ông là mỗi bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng,
tình cảm gắn bó với đất nước quê hương. Bằng ngòi bút độc đáo, uyên bác, tài hoa,
cùng lòng yêu thiên nhiên sâu sắc và những khám phá mới mẻ trong chuyến đi trải
nghiệm thực tế ngược dòng Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã viết nên những trang bút ký
đặc sắc, tái hiện một cách độc đáo vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng của sông Đà cũng như
thiên nhiên hùng vĩ núi rừng Tây Bắc qua tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”. Giữa
thiên nhiên bao la rộng lớn của núi rừng Tây Bắc, nối bật lên là hình ảnh người lái
đò sông Đà can trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con
sông Đà.

Liên quan: Phân tích người lái đò sông đà ngắn gọn hay nhất.

Mở bài nâng cao người lái đò sông đà

Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy

Thì xa xôi gấp mấy vẫn lên đường.

Sống ở thủ đô mà dạ để mười phương.

Nghìn khát vọng chất chồng mơ ước lớn.”


154
( Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Hòa chung với không khí sôi nổi của cả nước khi Miền Bắc tiên lên xây dựng Chủ
nghĩa xã hội với xu hướng đi đến những vùng cao để phục hồi kinh tế với tiếng hát
đầy sông, đầy cầu thì Nguyễn Tuân đã lựa chọn Tây Bắc làm miền đất hứa để viết
lên tuyệt tác của đời mình. Ông không đi theo lối mòn khi viết về những “cái
tôi”còn buồn như Huy Cận, Chế Lan Viên – Những “cái tôi” luôn cô đơn trước vũ
trụ, cô đơn giữa dòng đời. Nguyễn Tuân đã khéo léo để “cái tôi” cá nhân của mình
hòa chung với “cái ta” của cộng đồng và mở ra một trào lưu văn học mới để rồi tất
cả được kết tinh trong tập “Tùy bút Sông Đà” mà linh hồn của nó chính là “ Tùy bút
Người lái đò Sông Đà”. Nguyễn Tuân là một nhà văn cả đời say mê đi tìm cái đẹp,
cái đẹp ở đây chính là nghệ thuật, mà khi nói đến nghệ thuật cũng chính là cái đẹp,
với Nguyễn Tuân, con người chính là tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời nhất mà tạo hóa
đã ban tặng. Cái đẹp ấy được Nguyễn Tuân phát hiện ra trong “ thứ vàng mười đã
qua thử lửa” của Tây Bắc, ở những con người đang gắn bó với công cuộc xây dựng
quê hương, đất nước. Chất vàng mười ấy chính là vẻ đẹp của người lái đò sông Đà,
dưới ngòi bút điêu luyện của Nguyễn Tuân đó vừa là người anh hùng, vừa là nghệ sĩ
tài hoa trên chính nghề nghiệp của mình.

Liên quan: Sơ Đồ Tư Duy: Người Lái Đò Sông Đà (Trích): Hóa Dài Thành
Ngắn

Mở bài gián tiếp người lái đò sông đà

“ Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hóa những con tàu”

( Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

155
Tây Bắc đã trở thành vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật những năm 58-60 khi miền
Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nhà văn nhà thơ đến với nơi đây để tìm
cho mình những nguồn cảm hứng mới. Ta từng biết đến Tô Hoài với tập “truyện
Tây Bắc” mà nổi bật là truyện ngắn “Vợ Chồng A Phủ”, hay Nguyễn Khải cũng đã
từng xôn xao lòng mình với “Mùa Lạc” thì Nguyễn Tuân lại thăng hoa trên mảnh
đất này với tập “Tùy bút Sông Đà” với linh hồn là bài kí “Người lái đò Sông Đà”.
Là một nhà văn đi theo chủ nghĩa xê dịch, dấu chân của Nguyễn Tuân đã đi khắp
mảnh đất hình chữ S này, nhưng ông lại chọn Tây Bắc làm nơi cho ra đời đưa con
đẻ tinh thần của mình là bởi chỉ có nơi đây mới thỏa mãn thực đơn cho nhãn quan
sáng tác của ông. Tùy bút sông Đà là những trang văn được viết bằng ngôn ngữ điêu
luyện, những đoạn tả đèo cao, vực sâu, thác nước dữ dội, hoặc cảnh thiên nhiên đẹp
đến tuyệt đỉnh, nhưng lấp lánh giữa những vẻ đẹp ấy là hình ảnh con sông Đà hiện
lên vừa hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất nên thơ, trữ tình và lãng mạn.

Kết bài Người lái đò sông đà

Kết bài sông đà

Viết về người lái đò Sông Đà, viết về một vùng đất của Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã
thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết với người lao động và thiên nhiên đất
nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động thì ông lái đò hiện lên càng anh dũng,
ngoan cường trong lao động, ta lại càng thấy được bản lĩnh, tấm lòng và tài năng
của Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình dị ấy “ thứ vàng
mười đã qua thử lửa” của núi rừng Tây Bắc. Cuộc sống quanh ta vốn rất cũ kĩ, tầm
thường, gió vẫn thổi, mây vẫn trôi, ngày lại qua ngày.. nhà văn chính là người đã
mang lại cho ta một thế giới mới, tinh khôi hơn,diệu kì hơn. Và Nguyễn Tuân đã
làm tròn sứ mệnh của một nhà văn, ông đã góp phần mang đến cho Thế giới những
sắc màu mới. Bước vào thế giới của Nguyễn Tuân, chúng ta như bước vào một chân

156
trời với màu sắc huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái
đẹp, của tài hoa và sự uyên bác.

Đọc thêm: Mở bài kết bài Việt Bắc chinh phục giám khảo ngay câu đầu tiên

Kết bài ngắn gọn

“Người lái đò sông Đà” là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say
đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì
vĩ hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhân và nhất là con người lao động
bình dị ở miến Tây Bắc. Hình ảnh người lái đò sông Đã là tiêu biểu cho con người
lao động vùng Tây Bắc, dũng cảm, gan dạ, quật cường, luôn kiên trì và hết mình với
công việc. Nổi bật nên trên thiên nhiên bao la hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc chính là
con người lao động nơi đây.

ĐỀ 40

Cảm hứng về đất nước qua các đoạn trích Đất Nước (trích Mặt đường khát vọng) -
Nguyễn Khoa Điềm, Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân, Ai đã đặt tên cho dòng
sông? - Hoàng Phủ Ngọc Tường.

(SGK Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2014)

a. Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề

b. Giải thích

* Giải nghĩa ý kiến:

 Cảm hứng thể hiện những tâm trạng, tâm lí, cảm xúc, tình cảm rung động
trước một hiện thực trong cảnh huống xác định. Cảm hứng trong sáng tác văn

157
học là cảm xúc và hứng thú, tạo điều kiện để óc tưởng tượng, sáng tạo, khám
phá những giá trị của đời sống và con người.
 Cảm hứng về đất nước trong văn học chính là những rung cảm, những hiểu
biết, những niềm vui tự hào, ngợi ca và xót xa đau thương về quê hương, đất
nước Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
 Văn học Việt Nam hiện đại thế kỷ XX đã thể hiện thành công cảm hứng về
đất nước trong nhiều tác phẩm. Các nhà thơ, nhà văn đã bày tỏ chân thành
cảm xúc về chiều sâu văn hóa, về lịch sử cội nguồn, về danh thắng và vẻ hùng
vĩ tươi đẹp của xứ sở quê hương.
 Các tác phẩm Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, Người lái đò sông Đà của
Nguyễn Tuân, Ai dã đặt tên cho dòng sông?của Hoàng Phủ Ngọc Tường tuy
khác nhau về thể loại nhưng đã góp phần làm sâu sắc thêm cảm hứng về đất
nước Việt Nam.

c. Phân tích, bình luận qua 3 tác phẩm.

(Thí sinh có thể so sánh trên nét chung và riêng hoặc theo từng tác phẩm)

* Những sự gặp gỡ cảm hứng về đất nước trong 3 tác phẩm (2,0 điểm)

(Cách này bài viết ngắn gọn và hấp dẫn nhưng đòi hỏi kỹ năng tổng hợp và khái
quát tốt)

 Cảm hứng về đất nước mang tư tưởng mới, cách nhìn mới và hiện đại. Ra đời
trong thời kỳ chủ nghĩa yêu nước mang âm hưởng chủ nghĩa anh hùng cách
mạng cuối thế kỷ XX. Đất nước được khám phá rộng lớn và toàn diện hơn,
sâu sắc hơn.
o Bức tranh chân thực về thiên nhiên hùng vĩ nhưng vô cùng trữ tình, thơ
mộng. Chiều dài chiều rộng, quá khứ hiện tại và tương lai, cảnh đẹp và
giàu có với dòng sông Đà, sông Hương, với danh thắng từ Bắc vào

158
Nam đí đâu cũng thấy. Cảm hứng khám phá và ngợi ca bao trùm các
chi tiết hình ảnh và ngôn ngữ.
o Bức tranh về lịch sử hào hùng, oanh liệt. Mỗi tác phẩm đều khơi lại
cảm xúc vừa đau thương vừa tự hào về lịch sử dụng và giữ nước.
Nguyễn Tuân vẽ lại cuộc kháng chiến chống Pháp vẻ vang, dựng lại
những con thuyền đuôi én thời Lý Trần; Nguyễn Khoa Điềm tái hiện
4000 năm lịch sử; Hoàng Phủ Ngọc Tường gắn sông Hương với truyền
thống lịc sử văn hóa cố đô và đánh giặc ngoại xâm...
 Tác phẩm nào cũng tràn đầy cảm xúc yêu thương, tự hào; tràn đầy nguồn cảm
xúc nên giàu hình ảnh, nhạc điệu; giàu triết lý suy tưởng; giàu sức gợi cảm và
lôi cuốn. Mỗi tác phẩm như bức tranh lụa đẹp rực rỡ sắc màu và đường nét
được vẽ tạo bằng thứ ngôn ngữ văn chương tài hoa nghệ thuật. Giá trị nội
dung và nghệ thuật của ba tác phẩm viết về đất nước rất lâu dài: Đất nước
trừu tượng trở nên gần gũi và thân thiết, gắn bó với mọi người

* Những phát hiện và sáng tạo khi viết về đất nước của mỗi tác phẩm: (2,0 điểm).
TS thể hiện hiểu biết về tác phẩm gắn với cảm hứng về đất nước.

 Tùy bút Người lái đò sông Đà đã lấy cảm hứng về con sông Đà thơ mộng trữ
tình và hung bạo để khai thác đề tài về quê hương đất nước.Nhà văn đễ khám
phá vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc, thứ vàng mười đã qua thử
lửa theo thủy trình với vẻ đẹp hoang sơ và dữ dội. Những ghềnh thác, hút
nước trên sông; những bờ bãi như nỗi niềm cổ tích ấu thơ; những cảnh đẹp
nên thơ được nhìn từ nhiều góc độ và suy tưởng đan xen quá khứ, hiện tại và
cả tương lai tạo nên dòng sông...như một cố nhân, như người đàn bà kiều
diễm với mái tóc trữ tình làm nên trang sử vàng của miền Tây tổ
quốc...Người lái đò trí dũng và người nghệ sĩ chinh phục thác dữ, chinh phục
thiên nhiên và gắn bó đời đời với con sông Đà. Trang văn câu từ mượt mà,

159
sống động và vốn hiểu biết phong phú, cùng với tài năng, tâm huyết của nhà
văn bậc thầy thể tùy bút đã góp phần làm sống dậy tình yêu và niềm tự hào về
đất nước và con người nơi đây. (dẫn chứng chọn lọc, minh họa)
 Chương V của trường ca Mặt đường khát vọng được viết trong những năm
tháng ác liệt của chiến trường Bình Trị Thiên lại khám phá Đất Nước theo
cảm nhận của người thanh niên thời đại mới gắn với câu chuyện tình yêu lứa
đôi. Đất nước bắt đầu với những gì quen thuộc và bình dị, thân thương và
thiêng liêng suốt chiều dài lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước. Sự mới
lạ và độc đáo khi khám phá đát nước chính là tư tưởng đất nước của nhân
dân, của ca dao thần thoại, của cá nhân góp tài năng và sức lực làm nên dáng
hình xứ sở với bao nhiêu tình yêu mến thương...Cảm hứng trữ tình riêng tư
hòa hợp với cảm hứng chính trị, chương Đất Nước đã có nhiều phát hiện thú
vị trên nhiều phương diện địa lý, phong tục, lịch sử và văn hóa dân gian.
Ngôn ngữ chính luận trở nên mềm mại, chất tự sự kết hợp cảm xúc chân
thành, đằm thắm; hình ảnh thơ lạ và thể thơ tự do tạo nên sức hấp dẫn lôi
cuốn lớp thanh niên miền Nam vùng tạm chiếm nhờ sắc điệu tình yêu lứa đôi
hòa quyện tình yêu tổ quốc. Hạnh phúc của anh và em chính là trách nhiệm
đấu tranh giải phóng quê hương, xây dựng đất nước giàu đẹp, bền vững. (dẫn
chứng chọn lọc, minh họa)
 Bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông? đã góp thêm và hoàn thiện cảm hứng về
đất nước. Áng văn xuôi lung linh sắc màu ngôn từ nghệ thuật, giàu hình ảnh
và nhạc điệu thể hiện tình yêu và tự hào về dòng sông Hương. Nhà văn đã rút
ruột tình cảm riêng với con sông vang bóng chảy qua cố đô cổ kính và linh
thiêng của các triều đại phong kiến để trở về với hiện tại soi hình dáng cầu
Trường Tiền. Người khách thảng thốt về tên con sông đẹp và quyến rũ từ
thượng nguồn uốn lượn, hiền hòa với những đường cong mềm mại, tình từ
như người con gái trẻ trung chảy qua lăng tẩm cổ xưa và màu xanh cây trái.

160
Cảm hứng tự hào về dòng Hương giang đẹp được tay bút hào hoa, viết bằng
cả trái tim thể hiện trong lối văn phóng khoáng, trong cảm xúc trữ tình và liên
tưởng tình tứ bất ngờ. (dẫn chứng chọn lọc, minh họa)

d. Đánh giá, nâng cao vấn đề

 Cảm hứng về đất nước trở thành cảm hứng lớn và mãnh liệt đã được thể hiện
sinh động và hấp dẫn trong nhiều sáng tác văn học cách mạng sau 1945.
 Ba tác phẩm (...) giàu chất nhạc, chất họa, thể hiện tài năng của các tác giả
trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật để khám phá vẻ đẹp mới lạ và thiêng
liêng về đất nước.
 Bài học về trách nhiệm người cầm bút và người tiếp nhận khi thể hiện tình
yêu đất nước, con người và cuộc sống.
 Bài tham khảo:
 NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN
 1. Hình tượng dòng Sông Đà
 Qua ngòi bút của một nhà văn luôn khám phá thế giới ở phương diện
văn hoá, thẩm mĩ, trong tuỳ bút Người lái đò Sông Đà, dòng Sông Đà đã hiện
lên như một công trình mĩ thuật kì vĩ, tuyệt vời của tạo hoá với hai ấn tượng
sâu đậm: dữ dằn, hung bạo và thơ mộng, trữ tình.
 a) Dòng sông hung bạo
 Là nhà văn của những cảm giác mãnh liệt luôn có hứng thú đặc biệt với
núi cao, rừng thiêng, với gió bão và thác ghềnh dữ dội, ngòi bút của Nguyễn
Tuân tung hoành sảng khoái giữa dòng thác ngôn từ.
 Nhà văn tài hoa đã khiến ngôn từ dựng lên ghềnh thác, khiến nhịp điệu
tạo thành sóng gió, dùng những thao tác so sánh, nhân hoá dẫn dắt người đọc
tới trùng điệp những hình dung, liên tưởng khiến cho sự hung bạo của Sông
Đà hiện lên đặc biệt sống động và truyền cảm.

161
 * Một trong những hình ảnh đầu tiên gợi lên sự hùng vĩ của Sông Đà chính là
cảnh đá bờ sông dựng vách thành.
 Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh vách thành đã phần nào thể hiện sự
vững chãi, thâm nghiêm và những sức mạnh bí ẩn đầy đe doạ của Sông Đà
với vách đá như thành cao, vực thẳm như hào sâu. Tác giả đã dùng những chi
tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ
hẹp của lòng sông, độ cao của vách đá, như chi tiết mặt sông chỗ ấy chỉ lúc
đúng ngọ mới có mặt trời đến việc đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá sang
bên kia vách...
 Độ hẹp của lòng Sông Đà khi bị những vách đá lớn bên bờ sông chèn
ép tới nghẹt thở còn được tái hiện một cách tài hoa khi nhà văn sử dụng động
từ chẹt trong một hình ảnh so sánh rất ấn tượng về cái yết hầu: vách đá thành
chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đặc biệt, nghệ thuật miêu tả sự vật
thông qua cảm giác rất quen thuộc của Nguyễn Tuân đã được thể hiện độc
đáo khi nhà văn tạo ra ấn tượng tương phản của xúc giác với chi tiết ngồi
trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, tạo ra ấn
tượng đặc biệt cho thị giác khi lấy hè phố tả mặt sông, lấy nhà cao gợi ra vách
đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối, lạnh lẽo đột ngột
khi con thuyền trôi từ ngoài vào khúc sông có đá dựng vách thành.
 Những hình ảnh so sánh độc đáo kết hợp với cấu trúc trùng điệp của
kiểu ngôn từ không xác định như nào, mấy... trong so sánh về một khung cửa
sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt điện đã làm tăng thêm cảm giác
về độ cao hun hút, thăm thẳm của vách đá qua cái nhìn chới với rợn ngợp của
người quan sát.
 * Sự hung bạo của Sông Đà tiếp tục được đẩy cao hơn trong đoạn văn miêu
tả cảnh mặt ghềnh Hát Loóng.

162
 Nhịp ngắt ngắn, nhanh, dồn dập, sự xuất hiện dày đặc các thanh sắc,
những hình ảnh điệp nối tiếp luân chuyển, thế chỗ nhau trong cụm từ ngữ
hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió... đã tái hiện sinh động quần
thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió và đá Sông
Đà. Động từ xô điệp lại trong cả ba vế câu gây ấn tượng về những chuyển
động vĩnh hằng và sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên, ghềnh thác; kết cấu
ngôn ngữ đặc sắc như mô phỏng hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn
chồm lên nhau theo chiều ngang, vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống,
trùng điệp ghê rợn trên mặt ghềnh.
 Từ láy gùn ghè và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hoá về
việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng như đòi nợ xuýt bất cứ
người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung
hãn, lì lợm và cuồng bạo của dòng sông ngày đêm hăm doạ, uy hiếp con
người.
 * Đem lại những ấn tượng mạnh mẽ hơn nữa cho sự hung bạo của Sông Đà
là hình ảnh những cái hút nước trên sông.
 Một loạt những so sánh sống động, đặc sắc khiến hút nước hiện ra
trong hình ảnh cái giếng bê tông... xoáy tít, trong âm thanh ghê sợ của cửa
cống cái bị sặc..., hoặc trong cả hình ảnh và âm thanh khi tưởng tượng ra mặt
nước đang bị rót dầu sôi - đó là những hình ảnh và âm thanh cho thấy cả sức
mạnh và sự hung bạo của hút nước.
 Từ láy tượng hình lừ lừ, từ láy tượng thanh tăng nghĩa ặc ặc cùng
những chi tiết so sánh mang sắc thái nhân hoá khi miêu tả nước thở và kêu
như cửa cống cái ..., tất cả đều góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh
của hút nước như một quái vật đang giận dữ đến ghê người.

163
 Hình ảnh liên tưởng đến quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực đã
giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền
men gần hút nước đáng sợ.
 Nhà văn đã phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra những
bè gỗ to lớn, nghênh ngang bị lôi tuột xuống đáy hút nước hay chiếc thuyền
bị hút trong cây chuối ngược rồi vụt biến đi và tan xác ở khuỷnh sông dưới...
- đó là những hình ảnh chỉ có trong tưởng tượng nhưng lại đưa đến một ấn
tượng thật sâu đậm về những sức mạnh khủng khiếp của hút nước Sông Đà.
 Không dừng lại trong hình dung, tưởng tượng về những cái bè hay một
con thuyền bất hạnh nào đó phải làm mồi cho hút nước, nhà văn còn tạo ra
một giả tưởng li kì dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận
đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước vì
thế đã được miêu tả bàng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách
sống động, truyền cảm từ hình khối của một thành giếng xây toàn bằng nước
cho đến màu sắc của dòng sông nước xanh ve, thậm chí cho đến cả cảm giác
sợ hãi chân thực của con người khi phải đứng trong lòng một khối pha lê
xanh như sắp vỡ tan và bất cứ lúc nào cũng có thể đổ ụp vào người.
 * Nhưng có lẽ khủng khiếp nhất trong diện mạo và tâm địa của thứ kẻ thù số
một của con người phải là thác đá Sông Đà.
 a. Thác nước:
 Khi còn xa mới tới thác, Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh tiếng nước
thác bằng những từ ngữ chỉ cảm xúc, thái độ, tâm trạng của con người: khi
oán trách... van xin, khi khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo... khi rống lên...
Nghệ thuật nhân hoá đã khiến thác nước Sông Đà thực sự trở thành một sinh
thể sống đang giận dữ gầm gào, đe doạ con người ngay cả khi nó chưa xuất
hiện.

164
 Sự tài hoa tinh tế của Nguyễn Tuân còn thể hiện qua cách nhà văn dùng
một hệ thống những từ ngữ gợi tả âm thanh theo những cung bậc tăng dần cả
về sắc thái cảm xúc và âm lượng để vừa miêu tả sống động sự đe doạ hung
hãn của dòng sông, vừa gợi tả khoảng cách ngắn dần giữa người quan sát với
thác đá Sông Đà. Mặt khác, đây cũng là cách làm tăng dần cảm giác hãi hùng,
hồi hộp đầy hứng thú cho người đọc.
 Đặc sắc nhất là những phép so sánh kì thú trong một câu văn dài đầy ắp
những hình ảnh dữ dội với hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa
rừng vầu tre nứa nổ lửa ... rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng
bùng nhà văn đã thể hiện tài hoa độc đáo khi lấy hình ảnh gợi tả âm thanh, khi
đặt những hình ảnh tương phản trong một trường liên tưởng bất ngờ, thú vị:
lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông... Qua so sánh, tiếng thác đá Sông Đà được
hiện lên như những âm thanh man dại, bản năng của một loài động vật hung
dữ đang cuồng loạn tìm lối thoát thân, lại kết hợp với âm thanh của những
thân cây vầu, tre khô, rỗng, nổ dữ dội trong lửa, cách miêu tả ấy khiến âm
thanh của thác đá không chỉ được cảm nhận bằng thính giác, không chỉ được
hình dung qua trí tưởng tượng mà còn được gợi tả qua những ấn tượng đặc
biệt sống động của thị giác, xúc giác.
 b. Những hòn đá trên sông:
 Khi thác hiện ra, sau câu văn ngắn giống như tiếng reo ngỡ ngàng,
thích thú: Tới cái thác rồi! nhà văn đã dồng thời tả cả đá và nước thác trong
hình ảnh: sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời đá. Tính từ trắng xoá lặp lại
nhiều lần gây ấn tượng về sóng, về gió, về bọt nước trào sôi mãnh liệt, gợi tả
làn hơi nước như mờ đi trên mặt sóng, trên một diện rộng mênh mông của
mặt sông; cùng với hình ảnh chân trời đá, câu văn miêu tả của Nguyễn Tuân
đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá Sông Đà ngây trong
những ấn tượng đầu tiên khi vừa gặp mặt.

165
 Đá Sông Đà cùng với nước, với sóng và gió kết hợp với nhau cùng lúc
tấn công uy hiếp con người đã được nhà văn miêu tả qua một hình ảnh nhân
hoá đặc sắc: đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục...mỗi lần có chiếc thuyền
nào xuất hiện... là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền.
 Sử dụng thuật ngữ của quân sự trên cơ sở những quan sát thực tế,
Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái bí ẩn hiểm ác của đá Sông Đà trong sự vĩnh hằng
của thiên nhiên khi ngàn năm mai phục, khi dữ dằn đột ngột hiện ra sau cái
dập dềnh của sóng để nhổm cả dậy đế vồ lấy thuyền.
 Một loạt những thuật ngữ của quân sự, thể thao, võ thuật như thạch
trận, cuộc giáp lá cà, hàng tiền vệ, boong ke, pháo đài..., một hệ thống dày
đặc những động từ mang sắc thái nhân hoá đặt trong những nhịp câu ngắn,
nhanh, dồn dập: mặt sông rung tít, nước thác reo hò ... hò la ... ùa vào ...bẻ
gãy... thúc gối ... đội thuyền ... đánh miếng đòn độc hiểm ... bám lấy thuyền ...
đánh khuýp quật vu hồi ... khiến thác đá Sông Đà thực sự trở thành một chiến
trường với những trận hỗn chiến ác liệt giữa con người và thiên nhiên.
 Sự ác liệt còn được tô đậm hơn bởi những âm thanh cuồng loạn của
một trận nước vang trời thanh la não bạt.. Có lúc thác đá còn được động vật
hoá để tăng thêm sự hung hãn hoang dại như trong hình ảnh: dòng thác hùm
beo đang hồng hộc tê mạnh trên sông đá. Thậm chí sự hiểm ác và sức mạnh
ghê gớm phi phàm của thác đá Sông Đà còn được nhà văn đẩy lên mức độ
thần linh trong hình ảnh ẩn dụ về binh pháp của thần sông thần đá.
 Tuỳ theo hình dạng, kích thước của đá và góc nhìn của nhà văn mà đá
Sông Đà được miêu tả trong những cảm nhận khác nhau, khi thì ngỗ ngược ...
nhăn nhúm méo mó bởi sự gồ ghề; lúc to lớn qua một dáng vẻ bệ vệ oai
phong lẫm liệt, khi này là tảng dá với những cạnh sắc nhọn hất ngược lên đem
đến cảm nhận về sự xấc xược trong cái hất hàm thách thức; lúc khác lại là

166
tảng đá lớn nhẵn xanh xuôi chảy từ trên xuống qua hình ành nhân hoá về
thằng đá tướng... tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng...
 Thác đá Sông Đà còn vô cùng xảo quyệt khi dụ thuyền đối phương, khi
dàn sẵn trận địa và nhất là khi bày thạch trận mai phục và tấn công con
người: Vòng đầu, mở ra năm cửa ... cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn, vòng
thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử ... cửa sinh lại bố trí lệch qua phía hữu ngạn,
vòng thứ ba bên phải, bên trái đều là luồng chết ... luồng sống... lại ở ngay
giữa bọn đả hậu vệ của con thác...
 => Nghệ thuật nhân hoá cùng những từ láy gợi hình đầy sức biểu cảm
và nhất là những tính từ chỉ tính cách, thái độ, cảm xúc của con người đã giúp
Nguyễn Tuân làm hiện lên một trong những phần khủng khiếp của Sông Đà,
đó là thác đá trên dòng sông. Kết hợp với sóng gió, với nước thác, đá Sông
Đà không im lìm và bất động như đặc tính vốn có tự ngàn năm mà thét gào
sống động; không vô tri mà ác hiểm, dữ dằn, đá Sông Đà đã không chỉ lộ diện
mạo mà cả tâm địa của thứ kẻ thù số một của con người.
 Tuy nhiên, ngay khi miêu tả một Sông Đà hung bạo, hiểm ác, làm hiện
lên tất cả diện mạo và tâm địa của thứ kẻ thù số một của con người, nhà văn
của những cảm giác mãnh liệt, những phong cảnh phi thường tuyệt mĩ,
những gió bão, thác ghềnh dữ dội, những núi cao, vực sâu vẫn luôn truyền
cho người đọc niềm say mê khao khát muốn được tận mắt chiêm ngưỡng vẻ
đẹp kì thú của thiên nhiên. Khi miêu tả Sông Đà hung bạo khúc thượng
nguồn, Nguyễn Tuân không giấu được niềm say mê, phấn khích đối với
những hình ảnh, âm thanh, hay những hoạt động của dòng sông. Nhà văn đã
say sưa trước khúc tráng ca mãnh liệt của hàng cây số nước xô đá, đá xô
sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè..., là âm thanh man dại tới
cuồng loạn của nước thác trong sự so sánh với lửa, với rừng, với đàn trâu da
cháy bùng bùng, đó cũng là sự hùng vĩ mênh mông của thác đá Sông Đà với

167
sóng bọt trắng xoá cả một chân trời đá..., là sự ghê rợn sảng khóai của một
trận nước vang trời thanh la não bạt... tất cả đã tạo thành một tập hợp hoành
tráng của những sức mạnh thiên nhiên hung dữ, một cảnh trí có sức hâp dẫn
kì lạ bởi cả nỗi sợ hãi và niềm say mê. Thậm chí khi miêu tả dòng Sông Đà ở
khúc hạ lưu êm ả, câu văn của Nguyễn Tuân vẫn bâng khuâng trong cảm giác
dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để
lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Từ láy xa xôi gợi nỗi nuối tiếc, nhớ nhung của
chính nhà văn với khúc thượng nguồn với những sức mạnh hoang dại, với
những cuồn cuộn thét gào sóng gió, với vẻ đẹp dữ dội hào hùng.
 => Thông qua sự quan sát tinh tế, cách diễn tả tài hoa, những tri thức uyên
bác, nhà văn của những cảm giác mạnh, những cảnh trí dữ dội, phi thường đã
làm hiện lên hình ảnh dòng Sông Đà hung bạo, hiểm ác không chỉ như một
con thuỷ quái, kẻ thù số một của con người mà còn trở thành một công trình
mĩ thuật kì vĩ, tuyệt vời của tạo hoá, khơi gợi cảm giác hãi hùng đầy ngưỡng
mộ, mê đắm.
 1.2. Dòng sông trữ tình
 Cảm hứng lãng mạn luôn có xu hướng tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ
bởi sự tương phản. Trong tuỳ bút Người lái đò Sông Đà, sự tương phản hiện
hữu ngay trong đối tượng miêu tả bởi làm nên dòng Sông Đà thực sự, ngoài
chất hung bạo, không thể không nhắc đến chất thi vị trữ tình đằm thắm, vẫn
là dòng sông ấy, nhưng sau khi dòng sông vặn mình vào một cái bến cát, khi
chút bọt nước cuối cùng của sóng gió thượng nguồn xèo xèo tan trên cát, ngòi
bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã bất ngờ dẫn người đọc đến một Sông Đà êm
đềm như một giấc mơ, dịu hiền như một miền cổ tích.
 * Từ góc độ trên cao nhìn xuống.
 Làm nên nét trữ tình đầu tiên là hình ảnh con Sông Đà tuôn dài tuôn
dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây

168
Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt
nương xuân. Chính nhịp câu, lời văn và nghĩa chữ đã góp phần gợi tả những
nét thi vị thật đặc biệt của dòng sông. Câu văn rất dài chỉ có một dấu ngắt duy
nhất kết hợp với điệp ngữ tuôn dài tuôn dài... vừa gợi tả sinh động độ dài của
dòng sông, vừa đem đến cảm giác về sự liền mạch bất tận, gợi hình ảnh dòng
sông uốn lượn tuôn chảy từ những dãy núi hùng vĩ của vùng biên giới Tây
Bắc, miên man chảy xuống đồng bằng, lặng lẽ hoà vào sông Hồng rồi tha
thiết đổ ra biển.
 Những thanh bằng liên tiếp ở đâu câu văn cũng làm tăng thêm sự yên ả,
êm đềm, bình lặng cho dòng sông khúc hạ nguồn. Khi so sánh dòng sông như
một áng tóc trữ tình, nhà văn đã đem đến cho Sông Đà nét mềm mại, đằm
thắm, vẻ duyên dáng đầy nữ tính, nhưng lại không làm mất đi vẻ đẹp hùng vĩ,
lớn lao của dòng sông.
 Trong câu văn miêu tả rất tài hoa của Nguyễn Tuân, có thể thấy Sông
Đà đã nhận thêm vào dòng chảy của mình nét thơ mộng, huyền ảo của mây
trời, sự tươi tắn rực rỡ của hoa ban hoa gạo tháng hai, và đặc biệt là cái ấm
áp thật gần gũi thân yêu của làn khói núi Mèo đốt nương xuân. Cách miêu tả
của Nguyễn Tuân đã cho thấy vẻ đẹp của Sông Đà làm say mê trái tim nghệ sĩ
trước hết vì nó là vẻ đẹp của đất nước Tổ Quốc bao la, sau nữa vì nó gắn bó
gần gũi thân thiết với cuộc sống con người.
 Nhà văn của những vẻ đẹp vang bóng một thời nay đã có sự thay đổi cơ
bản trong quan niệm thẩm mĩ: Cái đẹp không còn cô đơn lạc lõng, xa xôi, cái
đẹp hiện ra ấm áp giữa cuộc đời bình dị, cái đẹp hiện diện ngay trong cuộc
sống đời thường của những người lao động bình thường.
 Vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà còn hiện ra qua những màu sắc đầy biến
ảo khi vì niềm yêu và sự say mê, Nguyễn Tuân đã quan sát dòng sông một

169
cách công phu và tinh tế trong những thời điểm khác nhau, với những sắc thái
khác nhau.
 Đó là dòng xanh ngọc bích trong sáng, quí giá và êm nhẹ của Sông Đà
mùa xuân; việc so sánh màu xanh ngọc bích của Sông Đà với màu xanh canh
hến của Sông Gâm, Sông Lô không chỉ là biểu hiện khá quen thuộc của một
nhà văn thị tài, thích khoe tài hoa, khoe uyên bác mà còn là sự thiên vị của
một niềm yêu. Đó còn là dòng Sông Đà lừ lừ chín đỏ vào mùa thu - những từ
ngữ tượng hình đã gợi tả dòng chảy nặng nề, điềm đạm và chậm rãi của con
sông đầy nặng phù sa thượng nguồn.
 Hình ảnh so sánh nước Sông Đà mùa thu như da mặt một người bầm đi
vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ
thu về đã không chỉ làm hiện lên màu sắc rất đặc trưng của nước Sông Đà
trong mùa thu mà còn thể hiện sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa những đe doạ của
một dòng sông vẫn năm năm báo oán, đời đời đánh ghen với con người.
 Vậy là, ngay khi dừng lại miêu tả nét thơ mộng, trữ tình của dòng sông,
hình ảnh của một sông Đà hung bạo hình như vẫn ám ảnh đâu đây trong sự
quan sát và cảm nhận của nhà văn luôn say mê những cảm giác mạnh.
 * Từ góc độ quan sát khi đi thuyền trên sông.
 Trong niềm yêu nhớ của Nguyễn Tuân, Sông Đà như một cố nhân. Để
thể hiện sự gợi cảm của một dòng sông gần thương xa nhớ, nhà văn đã tạo ra
một tình huống đặc biệt cho nỗi nhớ, niềm yêu, cho những bồn chồn, khát
khao, vồ vập... Đó là tình huống đi rừng lâu ngày, bắt đầu thèm chỗ thoáng,
thèm một không gian phóng khoáng mênh mông, và nhất là thèm được gặp lại
Sông Đà – cố nhân. Hai chữ cố nhân vừa là hình ảnh nhân hoá dòng sông như
một người bạn cũ, vừa đưa đến cho dòng sông chút vương vấn cổ kính, xưa
cũ của Đường thi.

170
 Đoạn văn sau đó tràn ngập những cấu trúc so sánh đặc sắc miêu tả
dòng Sông Đà gợi cảm thông qua việc bộc lộ cảm xúc của con người khi sắp
gặp lại dòng sông. Nhìn dòng sông thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu
gương vào mắt mình rồi bỏ chạy là cái nhìn của người chưa ra đến cửa rừng,
mới chỉ thấy từng miếng sáng của dòng sông lấp loá nắng thấp thoáng ẩn hiện
giữa những vạt cây mà đã háo hức, bồn chồn, đã vội vàng, khao khát.
 Khi liên tưởng mặt sông giống như cái miếng sáng loé lên một màu
nắng thủng ba Đường thi, Nguyễn Tuân đã đem đến cho Sông Đà vẻ lãng
mạn huyền ảo của hoa khói, sự trong sáng rực rỡ của sắc xuân, cái bâng
khuâng vời vợi nhớ nhung trong câu thơ được coi là thiên cổ lệ cú của Lí
Bạch: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Liên tưởng của nhà văn làm
xao xuyến những tâm hồn luôn yêu nhớ phong vị Đường thi cổ điển, để rồi
nỗi xao xuyến ấy mơ hồ lan toả trên dòng sông gợi cảm, khiến Sông Đà
không chỉ chảy trong không gian mà như còn trôi chảy trong dòng thời gian
miên viễn, xa xăm của thế giới Đường thi.
 Sau đó là một câu văn chỉ nối tiếp các chủ ngữ: “Bờ Sông Đà, bãi Sông
Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà”. Hai chữ Sông Đà điệp lại cuối
mỗi vế câu đẳng lập như nhịp lên niềm say mê phấn khích, như nhân lên
những khoảng không gian phóng khoáng của bến bãi Đà giang tạo cảm giác
như nhà văn đang hân hoan ngợp giữa không gian Sông Đà mênh mông để rồi
say đắm oà vào những không gian ấy, thậm chí không kịp bình tĩnh để quan
sát bằng lí trí, để miêu tả bằng những vị ngữ cụ thể, tất cả đều bị cuốn đi theo:
những xúc cảm dồn dập, gấp gáp, cuốn đi theo những khao khát, say mê...
 Cảm xúc gặp lại Sông Đà cũng được cụ thể hoá trong những so sánh
bất ngờ, thú vị: “Chao ôi! trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì
mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Có thể thấy hình ảnh Sông

171
Đà gợi cảm vô cùng trong tâm hồn nhà văn qua so sánh trông con sông, vui
như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm.
 Nắng tuy hữu hình nhưng lại là vô thể, chỉ có thể nhìn mà không thể
nắm bắt. Giòn tan lại là tính từ dùng để chỉ đặc điểm của những vật thể mỏng
manh, dễ vỡ. Nắng giòn tan là một ẩn dụ đẹp để gợi ra cái nắng thật trong,
thật sáng, thật mỏng và thật nhẹ; nó vừa mong manh, vừa quí giá, nó hoàn
toàn tương phản với cái u ám trĩu nặng của bầu trời những ngày mưa dầm;
cách so sánh ấy đã giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác trìu mến
nâng niu cùng niềm vui lâng lâng sảng khoái của nhà văn khi gặp lại dòng
sông.
 Sông Đà càng quí giá hơn với nhà văn khi ông so sánh niềm vui tái ngộ
với dòng sông cố nhân... như niềm vui khi nối lại chiêm bao đứt quãng - một
việc gần như không thể có trong đời người. Và sự nối lại giấc mơ càng hi hữu
hiếm quí bao nhiêu, càng đem lại cảm giác sung sướng thú vị bấy nhiêu. Nhà
văn của những khát khao xê dịch đã nhiều lần tới Sông Đà, và bất cứ lúc nào,
nếu muốn, ông cũng có thể tới với cố nhân của mình; vậy mà qua so sánh, có
thể thấy cảm giác khi gặp lại dòng sông lần nào cũng tươi mới, kì diệu như
được nối lại một giấc mơ đẹp, như vừa được tận hưởng niềm vui chưa từng có
trong đời, lần gặp nào cũng như đó là lần đầu tiên, lần cuối cùng, lần duy
nhất.
 Và cuối cùng, trong hình ảnh so sánh về cảm giác gặp lại Sông Đà, nó
đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, Sông Đà đã thực sự trở thành người
bạn cũ, người tri âm với bao kỉ niệm gắn bó trong quá khứ, bao nhớ thương
trong hiện tại, bao hẹn hò chung thuỷ trong tương lai, với sự gợi cảm của
mình, Sông Đà đã thực sự trở thành một cố nhân, một tình nhân, dẫu trái tính
mà vẫn có sức hấp dẫn, mê hoặc lòng người đến kì lạ

172
 Và có lẽ nét trữ tình thi vị nhất của Sông Đà chính là ở sắc thái lặng tờ
hoang dại của nó. Mở đầu đoạn là một câu văn êm ru trong những thanh
bằng: Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Câu văn đã đưa con thuyền, nhà văn và
cả người đọc vào một cõi mơ êm đềm, yên ả, một cõi hoang sơ vắng lặng như
chưa từng có dấu vết của con người.
 Tính từ lặng tờ lặp lại tới hai lần cùng câu văn mang ý nghĩa khẳng
định. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến
thế mà thôi khiến cho sự êm đềm, tĩnh lặng của dòng sông dày thêm không
chỉ vì cái yên ả trong không gian mà như còn vì cái thăm thẳm xa xăm của
thời gian.
 Bờ sông tiếp tục được miêu tả trong những hình ảnh so sánh độc đáo:
bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm
cố tích tuổi xưa. Cách so sánh của Nguyễn Tuân đã không hề làm rõ, làm hiện
hữu hình ảnh của bờ sông, cũng không làm cụ thể hoá những khái niệm trừu
tượng mà thậm chí chỉ càng đẩy dòng sông trôi xa thêm vào miền mộng ảo,
phiêu diêu trong cõi hồng hoang xa xôi, trong thế giới cổ tích huyền hoặc của
tuổi thơ, và chính trong thế giới ấy mà người đọc cảm nhận rõ hơn sự lặng tờ,
hoang dại của một dòng sông trong trẻo, êm đềm.
 Sự yên ả êm đềm đến mức mơ hồ của Sông Đà khúc hạ nguồn tiếp tục
được nhà văn tô đậm hơn bởi những hình ảnh thật mong manh, nhỏ bé, những
hình ảnh chỉ có thể nhận ra trong một không gian trong lành, nguyên sơ,
thuần khiết với mấy lá ngô non đầu mùa mới nhú, mấy nõn búp cỏ gianh đẫm
sương đêm và nhất là được gợi tả qua âm thanh khẽ khàng, dịu nhẹ của tiêng
cá dầm xanh quẫy nước... Đặc biệt nhất là hình ảnh con hươu thơ ngộ ngẩng
đầu nhung khói áng cỏ sương, cất tiếng hỏi nhà văn hằng cái tiếng nói riêng
của con vật lành... Chi tiết này làm tăng thêm ảo giác như nhà văn bước lạc
vào một cõi trong trẻo, an lành, thuần hậu, và không có thực của thế giới cổ

173
tích, ảo giác mãnh liệt đến mức nhà văn bỗng thèm được giật mình vì một
tiếng còi xúp lê của chuyến xe lửa, niềm khao khát này không chỉ là ước mơ
hiện đại hoá miền Tây Bắc mà còn là cách để âm thanh của cuộc sống hiện tại
giúp nhà văn nhận ra rằng mình vẫn đang ở thế giới thực của hiện tại, vẫn là
con người trong nền văn minh hiện đại. Không một sự miêu tả trực tiếp nào
lại khiến sự lặng tờ, hoang dại của dòng sông hiện lên rõ nét đến thế như
trong lời ao ước của Nguyễn Tuân khi đứng bên một dòng sông quá đỗi êm
đềm.
 * Nhận xét chung:
 Trong đoạn văn miêu tả dòng sông trữ tình, cái tôi trữ tình của nhà văn
đã trực tiếp xuất hiện qua lời kể hào hứng: tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa
xuân... tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu...; trong những lời cảm than nồng
nàn: Chao ôi, trông con sông vui như..., chao ôi, thấy thèm được giật mình...
 Vậy là, bên cạnh một Nguyễn Tuân sắc sảo, tài hoa và uyên bác còn có
một Nguyễn Tuân đam mê, dạt dào cảm xúc, khi xao xuyến nỗi nhớ nhung
như một tình nhân, như một cố nhân.., khi bồng bột như trẻ nhỏ trước mênh
mông phóng khoáng của bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, khi lại say đắm muốn tan
hoà vào thế giới êm đềm bát ngát của dòng sông; và nhất là luôn lai láng niềm
mong ước của một thi nhân muốn được đề thơ vào sông nước.
 => Với việc phối hợp linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như ẩn dụ,
nhân hoá, so sánh..., với lối hành văn đầy biến hoá, độc đáo, giàu sức gợi tả
và gợi cảm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều loại hình nghệ thuật khác
nhau để quan sát, miêu tả hoặc bộc lộ cảm xúc, Nguyễn Tuân đã xây dựng
thành công hình tượng dòng Sông Đà trong hai sắc thái: hung bạo và trữ tình.
Ông đã thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của mình trong những trang viết
tài hoa, uyên bác khi miêu tả dòng sông, trong cách tô đậm những sắc thái phi
thường tuyệt mĩ trong việc soi chiếu dòng sông từ góc độ văn hoá, thẩm mĩ,

174
và nhất là trong cách khắc hoạ dòng Sông Đà như một công trình mĩ thuật kì
vĩ tuyệt vời của tạo hoá, để từ đó người đọc nhận ra tình yêu say đắm của nhà
văn với quê hương, đất nước.
 2. Hình tượng người lái đò Sông Đà
 Trước 1945, Nguyễn Tuân thường say mê miêu tả vẻ đẹp tài hoa nghệ
sĩ trong những con người đặc tuyển, xuất chúng, vì thế, cái đẹp và người tài
thường cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời, và trong hoàn cảnh xã hội thực dân
nửa phong kiến ở Việt Nam những năm đầu XX, đó là những vẻ đẹp vang
bóng một thời thường đem đến sự ngưỡng mộ ngậm ngùi, nuôi tiếc.
 Sau 1945, quan niệm thẩm mĩ cùa nhà văn đã có những thay đổi cơ
bản. Vẫn nhìn con ngươi từ phương diện tài hoa nghệ sĩ nhưng bây giờ,
Nguyễn Tuân cho răng bất cứ ngươi lao động nào khi đạt tới trình độ điêu
luyện giỏi giang trong công việc của mình đều có thể coi là nghệ sĩ và xứng
đáng được tôn vinh ở vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Trong những sáng tác sau 1945,
Nguyễn Tuân đã khám phá vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của những con người lao
động bình thường trong cuộc sống đời thường, qua đó mà bộc lộ tấm lòng
trân trọng, yêu mến đối với họ. Người lái đò Sông Đà trong tuỳ bút cùng tên
cũng là một nhân vật được nhà vàn khám phá và thế hiện không chỉ ở vẻ đẹp
tài hoa mà còn là trí dũng.
 * Lai lịch, ngoại hình.
 - Người lái đò khoảng 70 tuổi, có thân hình khỏe mạnh, rắn chắc. Thân hình
của ông mang đậm dấu ấn của nghề lái đò: “Tay ông lêu nghêu như cái sào”,
“chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như gò lấy một cuống lái trong tưởng
tượng”, “giọng ông ào ào như tiếng nước”. Đặc biệt, trên bả vai người lái đò
có một vết bầm như cái đồng tiền, tác giả gọi đó là một huân chương lao động
mà thiên nhiên ban tặng cho người lái đò.

175
 - Ông là một người giàu kinh nghiệm sông nước, ông nhớ tất cả các luồng
nước của các con thác hiểm trở. Sông Đà như một thiêng anh hùng ca mà ông
lái đò thuộc đến cả những chấm câu.
 * Bối cảnh cho ông đò xuất hiện
 Ngay khi miêu tả dòng Sông Đà hung bạo khúc thượng nguồn, Nguyễn Tuân
đã có ý thức tạo dựng một nền thiên nhiên dữ dội kì vĩ, một không gian hào
tráng, lớn lao xứng đáng với sự xuất hiện của người anh hùng sông nước. Đó
là một không gian của thác ghềnh hiểm trở, của sóng gió cuồn cuộn thét gào
với hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,.., một không gian của
những hút nước ghê rợn, những thác đá dữ dằn, hiểm ác, của đá dựng vách
thành bí ẩn thâm nghiêm.
 * Tình huống bộc lộ vẻ đẹp tài hoa trí dũng của con người.

 Và để khắc hoạ vẻ đẹp trí dũng tài hoa của ông đò, Nguyễn Tuân đã
miêu tả một cuộc vượt thác nguy hiểm và ngoạn mục trong đó nối bật sự
tương phản giữa một thiên nhiên ác hiểm, hung bạo với con người trí dũng
ngoan cường, đó cùng là trận thủy chiến dữ dội giữa một bên là những trùng
vi thạch trận của đá thác, nước thác cùng sóng gió với một bên là chiếc
thuyền then đuôi én mỏng manh và thác là cả một đoàn quân đá hung bạo, dữ
dằn. Những nghệ thuật quân sự, võ thuật, thể thao như dàn san trận địa… dụ
thuyền đối phương... đánh khuýp quật hồi... đã nhân cách hoá dòng sông
khiến cho thiên nhiên.
 Sông Đà với sóng dữ, thác dữ, đá dữ trở nên hung hàn, hiếm ác như
một thứ kẻ thù số một của con người. Tác giả còn sử dụng một loạt các từ láy
miêu tả diện mạo gớm ghiếc của đám đá Sông Đà khi thì ngỗ ngược, nhăn
nhúm, méo mó, xấc xược thách thức, khi tiu nghỉu cái mặt xanh lè,., một loạt
những động từ đặt trong các nhịp câu ngắt ngắn, nhanh, dồn dập: nước thác
reo hò... hò la... ùa vào... bẻ gẫy... đá trái... thúc gối... đội thuyền... bám lấy
176
thuyền..., rồi sử dụng cấu trúc điệp để tả nước xô đá. đá xô sóng...hay sóng
đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm... - tất cả dà làm hiện lên sự hung
bạo vô cùng của sông Đà khi cùng một lúc các sức mạnh thiên nhiên kết hợp
với nhau tấn công con thuyền đơn độc và con người nhỏ bé.
 Thiên nhiên Sông Đà còn vô cùng xảo quyệt trong việc dàn trận tấn
công con người. Để đưa con thuyền vượt thác Sông Đà khúc thượng nguồn,
nhưng người lái đò phải đối đầu với cả một trùng vi thạch trận trên dòng
sông, trong đó, vòng đâu, mở ra năm cửa ... cửa sinh nằm lập lờ phía tả
ngạn... vòng thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử... cửa sinh lại bố trí lệch qua
phía hữu ngạn... vòng thứ ba bên phải, bên trái đều là luông chết... luồng
sống... lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác...
 Sự dữ dằn, hung bạo và hiểm ác của thiên nhiên Sông Đà chính là
những tình huống đầy thử thách đề nhân vật bộc lộ vẻ đẹp trí dũng tài hoa của
mình khi người lái đò luôn phải tỉnh táo, khôn ngoan, khéo léo, càng phải
ngoan cường, dũng cảm mới có thể đưa con thuyền an toàn vượt qua những
trùng vi thạch trận trên dòng sông.

 * Vòng trùng vi thứ nhất của thạch trận. (+ tập nữa mới đủ)
 Khi sóng thác đánh miếng đòn độc hiểm nhất, ông đò mặt méo bệch đi
– cách sử dụng từ đọc đáo đã giúp nhà văn làm hiện ra không chỉ là gương
mặt biến dạng, trắng bệch vì đau đớn mà còn chợt nhạt vì phải dầm lâu trong
nước lạnh.
 Sự đau đớn của ông đò còn được gián tiếp miêu tả trong một cảm nhận
của thị giác và xúc giác: mặt sông trong tích tắc tỏa sáng như một cửa bể
đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng - đây vẫn là cách miêu tả
thông qua cảm giác rất quen thuộc của Nguyễn Tuân - vết thương đau đớn
của ông đò đã được thể hiện bởi cảm giác toé đom đóm và rát bỏng như lửa

177
cháy.
 Trong trận hỗn chiến gian lao khi tương quan lực lượng quá chênh lệch
với sóng thác Sông Dà, ông đò đã dũng cảm cố nén vết thương đau đớn,
ngoan cường khéo léo đưa con thuyền vượt vòng vây thứ nhất của thạch trận
trên Sông Đà.
 Qua cách miêu tả tiếng hô chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm
lái, Nguyễn Tuân đã không giấu được lòng ngưỡng mộ và cảm phục trước
bãn lĩnh kiên cường, sự dũng mãnh, bình thản của người lái đò.

 * Vòng trùng vi thứ hai của thạch trận. (+ tập nữa mới đủ)
 Ông đò không chỉ dũng mãnh, kiên cường mà còn thể hiện sự thông minh
của một người lái đò dày dạn kinh nghiệm - người nắm chắc binh pháp của
thần sông thần đá, người đã thuộc qui luật của dòng sông, thác đá...
 Ông được miêu tả như một dũng tướng tài ba đang điều khiển, thuần phục
con ngựa bất kham của sóng thác Sông Đà khi nắm chắc bờm sóng... ghì
cương... phóng nhanh vào cửa sinh; kinh nghiệm dày dạn và trí nhớ siêu
phàm của ông đò được thể hiện trong chi tiết ông nhớ mặt từng đứa trong bốn
năm bọn thuỷ quân cửa ải nước để có cách ứng phó phù hợp.
 Những động tác linh hoạt, uyển chuyển điêu luyện của ông đò khi lái
miết một đường chéo, khi tránh mà rảo bợi chèo, khi đè sấn lén mà chặt đôi...
cho thấy những biến pháp kì diệu của một tay lái ra hoa - trí tuệ và tài hoa
con người thậm chí đã chiến thẳng cả thần sông thần đá.
 * Vòng trùng vi thứ ba. (+ tập)
 Sự hiểm ác của thác đá đã được nhà văn miêu tả trong hình ảnh ẩn dụ
tài hoa về cổng đá cánh mở cánh khép - đó là cả một mặt trận đá trùng điệp
trong đó bức tường phòng ngự vững chắc của lũ đá hậu vệ kết hợp với những
mũi tấn công ào ạt, tới tấp không ngưng nghỉ của sóng dữ.
178
 Nhiệm vụ của ông đò là phải phóng thẳng thuyền, chọc thủng một
luồng sinh duy nhất ở ngay giữa cửa bọn đá hậu vệ trấn giữ, trong khoảng
khấc cánh cổng đá mở giữa những đợt sóng thác dữ dội.
 Hình ảnh con thuyền lao vút qua khe hẹp được miêu tả trong những câu
văn ngắn mà bản thân cách ngắt câu, sự kết hợp những động từ và danh từ nối
tiếp: vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng... đã thể hiện sự điêu
luyện khéo léo và sức mạnh của ông đò.
 Tốc độ phi thường của con thuyền dưới bàn tay vừa lái, vừa xuyên, vừa
lượn của ông đò không chi thể hiện qua những động từ giàu sắc thái gợi hình
và biểu cảm: vút... vút..., qua hình ảnh so sánh về một mũi tên tre mà còn
được gợi tả tinh tế qua làn hơi nước mà con thuyền xuyên qua – bởi với cách
so sánh về một mũi tên tre xuyên qua hơi nước, con thuyền không còn lướt
trên mặt nước mà đã thực sự bay trong làn hơi nước trên mặt sóng.
 Tài năng của ông đò khi ấy đã bao hàm cả trí tuệ, sự trải nghiệm, sức
mạnh thể lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh kiên cường - tất cả đều đạt tới
mức phi phàm, kì diệu.
 * Sau khi cuộc chiến kết thúc ông lái đò thể hiện mình là người anh hùng
trong cuộc sống đời thường bình dị
 Với sự giỏi giang, khéo léo, dũng cảm và mạnh mẽ, ông đò đã thể hiện
rõ nét vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ và trí dũng phi thường khi cùng thuyền vượt qua
ghềnh thác, khi bao giờ cũng giữ thế chủ động để tìm cho mình một cửa sinh
duy nhất giữa bát ngát trận đồ cửa tử của những trùng vi thạch trận hiểm ác,
dữ dằn; khi không bao giờ cho phép mình chùn bước, sợ hãi hay sai lầm dầu
chỉ trong khoảnh khắc; khi luôn có thể trình diễn nghệ thuật lái đò điêu luyện
của một tay lái ra hoa.
 Sau khi chiến thắng thiên nhiên hung bạo, những người lái đò lại đốt
lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm
179
xanh.. chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa
ải nước đủ tướng dữ quân tợn. Thái độ bình thản ấy càng làm đậm thêm tầm
vóc lớn lao của những người anh hùng trong cuộc sống đời thường bình dị khi
họ coi việc chiến đấu và chiến thắng Sông Đà dữ dội, hiểm ác, việc giành sự
sống từ những cửa tử của ghềnh thác Sòng Đà chỉ là chuyện thường ngày.
 III. TỔNG KẾT
 Người lái đò Sông Đà là một áng văn đẹp thể hiện những nét
đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, một nhà văn tài
hoa uyên bác luôn quan sát, khám phá, diễn tả thế giới ở phương diện văn
hoá, thẩm mĩ; miêu tả con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ.
 Tác giả đã vận dụng kiến thức của mình trên nhiều lĩnh vực, sử
dụng nhiều từ ngữ, hình ảnh so sánh, nhân hóa độc đáo, mới mẻ. Đặc biệt là
miêu tả người lái đò và con sông Đà ở thế song hành: mượn hình ảnh hung
bạo của con sông Đà để làm nổi bật lên vẻ đẹp của con người nơi đây.

 * Nâng cao: Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân khi xây dựng ông lái đò.
 + Sử dụng vốn kiến thức uyên bác, sâu rộng trong lĩnh vực,
nhiều kiến thức: Quân sự, điện ảnh, võ thuật, thể thao … Nguyễn Tuân luôn
có cảm hứng đặc biệt trước những hiện tượng phi thường, gây cảm giác
mạnh, say mê khám phá và thưởng thức cái đẹp.
 + Tạo tình huống đầy thử thách.
 + Sử dụng từ ngữ góc cạnh, giàu chất tạo hình, gợi liên tưởng, so
sánh, nhân hóa bất ngờ mà vô cùng chính xác.
 + Câu văn có nhịp điệu, lúc thì hối hả, mau lẹ, khi thì chậm rãi,
như tãi ra để diễn tả vẻ đẹp nên thơ, trữ tình của con sông.
 + Tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ ở nhân vật ông lái đò, cách viết phù

180
hợp với quan niệm nghệ thuật về con người, phù hợp với phong cách độc đáo
của Nguyễn Tuân.
 LỆNH PHỤ TRONG NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
 1. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn
Nguyễn Tuân.
 - B1: “Mỗi tác phẩm VH là sự khám phá về nội dung và hình thức” (Lê
Ô nit). “Văn chương chỉ dung nạp những người biết tìm tòi, khơi những
gì chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (Nam Cao) => sáng tạo =
phát hiện mới mẻ về cuộc sống, về con người => Nguyễn Tuân thôi thúc
bản thân đi tìm kiếm chất vàng 10, tìm kiếm cái đẹp. => phát hiện về vẻ
đẹp của người lao động trong thời đại mới.
 -B2: Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát
hiện về người lao động mới. Ông đò tiêu biểu là người anh hùng, cũng là
nghệ sĩ trong môi trường làm việc và trong công việc của mình khi dám
đương đầu với thử thách và đạt tới trình độ điêu luyện trong công việc. Nhà
văn đã phát hiện ra “chất vàng mười đã qua thử lửa” của ông đò bằng
phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác với thể tuỳ bút vừa giàu tính hiện
thực, vừa tràn ngập cái tôi phóng túng đầy cảm hứng, say mê…
 - B3: Qua cách nhìn nhân vật ông đò, nhà văn bày tỏ tình cảm yêu mến, trân
trọng, tự hào về con người lao độngViệt Nam. Nếu trước đây, ông thường
khắc họa người anh hùng trong chiến đấu, người nghệ sĩ trong nghệ thuật và
thuộc về quá khứ “vang bóng một thời” thì đến tác phẩm này, ông tìm thấy
anh hùng và nghệ sĩ ngay trong con người lao động thường ngày, trong
công việc bình thường và trong nghề nghiệp cũng bình thường. Nguyễn Tuân
còn khẳng định với chúng ta rằng chủ nghĩa anh hùng cách mạng đâu phải chỉ
dành riêng cho cuộc chiến đấu chống ngoại xâm mà còn thể hiện sâu sắc
trong việc xây dựng đất nước và chinh phục thiên nhiên.

181
 2. Nhận xét chất thơ thể hiện trong đoạn trích Sông Đà
 - Biểu hiện: chất thơ trong đoạn trích thể hiện:
 +Cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông: Sông Đà như một
người gái đẹp của núi rừng Tây Bắc với mái tóc dài, thật dài, mượt mà, tha
thướt, gài buông lơi những bông hoa ban trắng ngần hay những bông gạo đỏ
rực, thấp thoáng ẩn hiện giữa núi rừng mùa xuân mù sương khói.
 +Vẻ tinh khôi, non tơ của nương ngô nhú lá non đầu mùa, của những vạt đồi
cỏ gianh đang ra nõn búp; vẻ lặng tờ, tịnh không một bóng người, hoang dại,
hồn nhiên của đôi bờ biền bãi.
 +Ở xúc cảm tinh tế của tác giả trước dòng sông thơ mộng, trữtình: cảm giác
đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân sau chuỗi ngày chia biệt; cảm giác thấy
thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên
đườngsắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu...
 +Ở những so sánh, liên tưởng thú vị độc đáo của Nguyễn Tuân: Sông Đà như
một người con gái đẹp, như một cố nhân, nước Sông Đà đổi màu liên tục qua
mỗi mùa trong năm.
 - Ý nghĩa: Chất thơ trong tuỳ bút của Nguyễn Tuân là một phần trong nội
dung phong cách tài hoa, uyên bác của ông. Ông để lại ấn tượng đặc biệt về
một con sông đầy cá tính, mang tính cách của con ngườivới hai nét độc đáo,
đối lập mà thống nhất: hung bạo và trữ tình.Qua đó, ta thấy nhà văn có công
đi tìm cái đẹp- chấtvàng thiên nhiên Tây Bắc để ca ngợi. Thiên nhiên là sản
phẩm nghệ thuật vô giá, là công trình mĩ thuật của tạo hoá đã ban tặng cho
con người.Đócũngchính là tình yêu Tổ quốc mà nhà văn cách mạng Nguyễn
Tuân đã gửi gắm qua trang tuỳ bút của mình.
 3. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn
Nguyễn Tuân

182
 - Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện về
người lao động mới. Ông đò tiêu biểu là người anh hùng, cũng là nghệ sĩ
trong môi trường làm việc và trong công việc của mình khi dám đương
đầuvới thử thách và đạt tới trình độ điêu luyện trong công việc. Nhà văn đã
phát hiện ra “chất vàng mười đã qua thử lửa” của ông đò bằng phong cách
nghệ thuật tài hoa, uyên bác với thể tuỳ bút vừa giàu tính hiện thực, vừa tràn
ngập cái tôi phóng túng đầy cảm hứng, say mê…
 - Qua cách nhìn nhân vật ông đò, nhà văn bày tỏ tình cảm yêu mến, trân
trọng, tự hàovề con người lao độngViệt Nam. Nếu trước đây, ông thường
khắc họa người anh hùng trong chiến đấu, người nghệ sĩ trong nghệ thuật và
thuộc về quá khứ “vang bóng một thời” thì đến tác phẩm này, ông tìm thấy
anh hùng và nghệ sĩ ngay trong con người lao động thường ngày, trong công
việc bình thường và trong nghề nghiệp cũng bình thường. Nguyễn Tuân còn
khẳng định với chúng ta rằng chủ nghĩa anh hùng cách mạng đâu phải chỉ
dành riêng cho cuộc chiến đấu chống ngoại xâm mà còn thể hiện sâu sắc
trong việc xây dựng đất nướcvà chinh phục thiên nhiên.
 4 Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của hình tượng sông Đà
 -B1: Khái niệm về chất trữ tình: Đẹp, giàu cảm xúc được thể hiện, miêu
tả bằng thứ văn giàu chất thơ.
 - B2:
 + Sông Đà như một áng tóc trữ tình hình mềm mại, hiền hòa; mượt mà, duyên
dáng, yêu kiều như áng tóc của người con gái. Trên nền thiên nhiên Tây Bắc
hùng vĩ, SĐ toát lên nét ẩn hiện, hư ảo, nên thơ.
 + Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả
sắc nước: khi thanh khiết thơ mộng, khi đậm nét hư ảo, mơ màng cổ xưa; khi
giận dữ nỗi niềm bực bội.
 + Cảnh sắc và sự sống ven sông: lặng tờ, hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên

183
như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa; căng tràn sức sống.
 => Sông Đà như một cố nhân gần gũi đầm ấm, một cá tính mãnh liệt, hấp
dẫn, đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết.
 => Nghệ thuật: Quan sát công phu; câu văn dài phóng túng, giọng điệu nhẹ
nhàng, giàu chất thơ; nghệ thuật so sánh, liên tưởng, nhân hóa tài hoa độc
đáo; ngôn ngữ giàu hình ảnh…
 - B3:
 + Tâm hồn tinh thế, nhạy cảm và yêu thiên nhiên.
 + Góp phần tạo nên chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc => con sông nó
quyến rũ đến lạ lùng => sức sống, sức hấp dẫn của tác phẩm.
 + Thanh lọc tâm hồn độc giả => đẹp hơn, sống ý nghĩa hơn.
 5. Cái tôi trữ tình thể hiện trong đoạn trích
 - B1: Cái tôi là thuật ngữ chỉ dấu ấn của tác giả để lại trong quá trình
sáng tác thơ văn. Trong tùy bút và bút kí bao giờ cũng in đậm cái tôi của
tác giả. Trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân
cũng vậy.
 -B2:
 + Đam mê cái đẹp thiên nhiên; ngợi ca, tự hào trước vẻ đẹp hùng vĩ, thơ
mộng của Tây Bắc;
 + cái tôi yêu nước, hòa nhập với cuộc sống mới, con người mới.
 + Cái tôi uyên bác, tài hoa với thể tùy bút phóng túng
 B3:
 + Qua việc ngợi ca vẻ đẹp độc đáo của dòng Sông Đà, tác giả đã thể hiện tình
yêu thiên nhiên,yêu đất nước,thiết tha của mình.
 + Qua đó, làm nổi bật lên phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân:
sự độc đáo, tài hoa,uyên bác của một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Nguyễn
Tuân luôn nhìn nhận mọi sự vật,sự việc dưới phương diện thẩm mỹ, luôn đi

184
tìm cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật,tô đậm những cái phi thường để tạo
cảm giác mãnh liệt gây ấn tượng. => đã để lại dấu ấn đậm nét trong lòng
độc giả như một thứ vàng 10 không thể trộn lẫn => nhận thấy cần phải
thể hiện và phát huy cái tôi trong cuộc đời đừng sinh ra là một bản thể
chết đi là một bản sao.
 6. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
 - B1: Phong cách nghệ thuật là một thuật ngữ được sử dụng trong văn
học để chỉ những dấu ấn riêng, độc đáo và là tiêu chí phân giữa nhà văn
này với nhà văn khác. Việc định hình và để lại phong cách nghệ thuật là
điều cần thiết đối với mỗi nhà thơ, nhà văn.
 B2: Biểu hiện:
 + Nguyễn Tuân là người tài hoa, luôn nhìn nhận, đánh giá cảnh vật và con
người ở phương diện cái đẹp và góc độ mĩ thuật và tài hoa. Sông Đà hiện lên
với vẻ đẹp kì vĩ và là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá, còn
người lái đò như một nghệ sĩ trong việc vượt thác ghềnh.
 + Nhà văn uyên bác khi đã vận dụng những tri thức ở nhiều lĩnh vực như lịch
sử, địa lí, quân sự… để viết về con Sông Đà hung dữ mà thơ mộng.
 + Văn phong Nguyễn Tuân phóng túng, ngôn ngữ điêu luyện và phong phú,
hình ảnh giàu liên tưởng bất ngờ, độc đáo. “Người lái đò Sông Đà” thể hiện
sở trường ở thể loại tuỳ bút của ngòi bút Nguyễn Tuân.
 - B3: Ý nghĩa:
 + Sức sống, dấu ấn riêng cho tác phẩm.
 + Hình tượng Sông Đà cũng như ông lái đò hiện hiên sống động, sắc nét hơn.
 + Tạo nên tên tuổi của một văn lớn, người nghệ sĩ lớn nó bao trùm cả một giai
đoạn văn học.
 => tạo dấu ấn, tạo phong cách là điều cần thiết đối với mỗi người trong
hành trình khám phá và khẳng định bản thân mình.

185
 7. Nhận xét nhận xét phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn
Tuân
 - Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: Ông
không chấp nhận sự sáo mòn. Ông luôn tìm kiếm những cách thức thể hiện,
những đối tượng mới mẻ. Nhà văn luôn tiếp cận sự vật ở phương diện văn
hóa thẩm mĩ, có ấn tượng với những sự vật gây cảm giác mạnh (Sông Đà là
một sinh thể như vậy). Tác giả bộc lộ sự tinh vi trong mĩ cảm với trường liên
tưởng phong phú, ngôn ngữ vừa phong phú vừa tinh tế.Một cái tôi uyên bác
khi huy động mọi kiến thức thuộc nhiều lĩnhvực khác nhau để khắc họa hình
tượng sông Đà.
 - Ý nghĩa: Qua phong cách tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân là là nhà văn có
ý thức tự khẳng định cá tính độc đáo của mình. Chứng tỏ ông là người có một
lòng yêu quê hương đất nước tha thiết, một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ
hạnh, một trí thức tâm huyết với nghề. Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn
phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý này.
 8. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn
Nguyễn Tuân
 - Biểu hiện: Nhà văn nhìn Sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà
là con sông có linh hồn, có cá tính như con người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ;
khám phá vẻ đẹp của dòng sông ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn chương,
kết hợp với nhiều ngành nghệ thuật khác như âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh, đầy
ấn tượng.
 - Ý nghĩa: Qua hìnhtượng Sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha
thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm
nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả Sông Đà, Nguyễn Tuân
đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm. Hình tượng Sông Đà là phông
nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới.

186
 9. Nhận xét “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của người lao động miền Tây
Bắc mà Nguyễn Tuân đang tìm kiếm
 - Qua cuộc chiến đấu giữa ông đò với sóng nước sông Đà, tác giả ca ngợi vẻ
đẹp của người lao động miền Tây Bắc. Đó là vẻ đẹp của sự ngoan cường,
lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc
sống và vẻ đẹp của sự tài trí, tài hoa, giàu kinh nghiệm. Đây chính là “thứ
vàng mười đã qua thử lửa”của người lao động miền Tây Bắc mà Nguyễn
Tuân đang tìm kiếm.
 - Qua nhân vật ông đò cho thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận con người của
Nguyễn Tuân sau cách mạng: Trước cách mạng, con người Nguyễn Tuân
hướng tới ca ngợi là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi
thường”. Sau cách mạng, nhân vật tài hoa của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy
ngay trong công cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân.
 - Cái tôi tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân
 + Thể hiện những rung động, say mê của nhà văn trước sự hùng vĩ của thiên
nhiên.
 + Ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở sự vận dụng kiến
thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú; ở sự
giàu có về chữ nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành điện ảnh, thể
thao...được huy động một cách linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và
ấn tượng những cảm giác về đối tượng.
 + Đây cũng chính là một cách thể hiện tình yêu quê hương đất nước, lòng yêu
cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính; đồng thời cũng cho thấy quan niệm của
Nguyễn Tuân: viết văn là để khẳng định sự đọc đáo của chính người cầm bút.
 10. Nhận xét chất thơ thể hiện trong đoạn trích sông Đà trữ tình
 - Biểu hiện: chất thơ trong đoạn trích thể hiện:

187
 +Cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông: Sông Đà như một
người gái đẹp của núi rừng Tây Bắc với mái tóc dài, thật dài, mượt mà, tha
thướt, gài buông lơi những bông hoa ban trắng ngần hay những bông gạo đỏ
rực, thấp thoáng ẩn hiện giữa núi rừng mùa xuân mù sương khói.
 +Vẻ tinh khôi, non tơ của nương ngô nhú lá non đầu mùa, của những vạt đồi
cỏ gianh đang ra nõn búp; vẻ lặng tờ, tịnh không một bóng người, hoang dại,
hồn nhiên của đôi bờ biền bãi.
 +Ở xúc cảm tinh tế của tác giả trước dòng sông thơ mộng, trữtình: cảm giác
đằm đằm ấm ấm như gặp lạicố nhân sau chuỗi ngày chia biệt; cảm giác thấy
thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên
đường sắt PhúThọ - Yên Bái - Lai Châu...
 +Ở những so sánh, liên tưởng thúvị độc đáo của Nguyễn Tuân: Sông Đà như
một người con gái đẹp, như một cố nhân, nước Sông Đà đổi màu liên tục qua
mỗi mùa trong năm.
 - Ý nghĩa: Chất thơ trong tuỳ bút của Nguyễn Tuân là một phần trong nội
dung phong cách tài hoa, uyên bác của ông. Ông để lại ấn tượng đặc biệt về
một con sông đầy cá tính, mang tính cách của con người với hai nét độc đáo,
đối lập mà thống nhất: hung bạo và trữ tình. Qua đó, ta thấy nhà văn có công
đi tìm cái đẹp- chấtvàng thiên nhiên Tây Bắc để ca ngợi. Thiên nhiên là sản
phẩm nghệ thuật vô giá, là công trình mĩ thuật của tạo hoá đã ban tặng cho
con người.Đó cũng chính là tình yêu Tổ quốc mà nhà văn cách mạng Nguyễn
Tuân đã gửi gắm qua trang tuỳ bút của mình.
 11.Cái Tôi của nhà văn Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạn
trích:
 - “Cái tôi” tài hoa thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ
đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước; Tất cả đã cho ta thấy ở Nguyễn Tuân
một “cái tôi” tài hoa, tinh tế.

188
 - “Cái tôi” uyên bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều
sâu; ở sự vận dụng kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa
dạng, phong phú; ở sự giàu có về chữ nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn của
các ngành quân sự, điện ảnh, thể thao,… được huy động một cách hết sức linh
hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và ấn tượng những cảm giác về đối
tượng.
 - “Cái tôi” tài hoa và uyên bác chính là một cách thể hiện tình yêu quê hương
đất nước, lòng yêu cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính.
 12. Nhận xét nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
 - Qua đoạn văn, ta thấy được nét độc đáo trong nghệ thuật miêu tả của
Nguyễn Tuân.
 + Hình ảnh sông Đà hung dữ ở một mức độ ghê gớm, hơn tất cả mọi con sông
đã được tái hiện trong văn học, là bởi vì cảm quan sáng tác của Nguyễn Tuân
chỉ hứng thú với những vẻ đẹp vượt lên mức bình thường, gây ấn tượng mãnh
liệt.
 + Ngòi bút miêu tả của Nguyễn Tuân khi miêu tả sông Đà càng trở nên độc
đáo bởi cách dùng từ chính xác, với câu văn có kết cấu trùng điệp, đặc biệt
với nghệ thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng bất ngờ và ấn tượng.
 + Kết hợp với đó là vốn kiến thức phong phú ở nhiều lĩnh vực khác nhau,
chính sự uyên bác của Nguyễn Tuân khiến cho văn phong của ông càng trở
nên độc đáo.
 - Chính nét độc đáo kết hợp với sự tài hoa và uyên bác trong ngòi bút Nguyễn
Tuân khiến cho hình tượng sông Đà trở nên đặc sắc và đáng nhớ.
 13. Nhận xét nét độc đáo trong tùy bút của Nguyễn Tuân.
 - Đoạn trích cũng như tùy bút “Người lái đò Sông Đà” thể hiện sâu sắc nghệ
thuật viết tùy bút độc đáo, tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân, một nghệ sĩ
suốt đời đi tìm cái đẹp, đó là:

189
 + Luôn nhìn sự vật ở phương diện thẩm mỹ
 + Thể hiện rõ nét tài hoa, uyên bác qua ngôn ngữ phong phú, giàu chất hội
họa: diễn tả được mọi sắc thái, mọi cung bậc, hình thù, màu sắc của Sông Đà.
 + Sức liên tưởng phong phú, vận dụng kiến thức nhiều nghành, nhiều lĩnh vực

  Nét độc đáo của tùy bút Nguyện Tuân tạo nên những trang viết độc đáo
giàu giá trị nghệ thuật cao.
 14. Bình luận ngắn gọn nét độc đáo trong cách miêu tả sông Đà nói
riêng, thiên nhiên Tây Bắc nói chung của nhà văn Nguyễn Tuân.
 - Nhà văn nhìn Sông Đà không chỉ là một dòng sông tự nhiên, vô tri vô giác
mà còn là một sinh thể có sự sống, có tâm hồn, tình cảm. Với Nguyễn Tuân,
sông Đà nói riêng, thiên nhiên Tây Bắc nói chung cũng là một tác phẩm nghệ
thuật vô song của tạo hóa. Vẻ đẹp của Sông Đà hòa quyện vào vẻ đẹp của núi
rừng Tây Bắc nên càng trở nên đặc biệt. …
 - Cách miêu tả độc đáo này cho thấy Nguyễn Tuân có sự gắn bó sâu nặng,
tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên Tây Bắc, với quê hương đất nước,
đồng thời cho thấy được ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm của ông.
 15. Nhận xét những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả của nhà văn
Nguyễn Tuân
 - Đoạn trích đã cho thấy công phu lao động nghệ thuật nghiêm túc, khó nhọc
của nhà văn. Nguyễn Tuân đã phải dành nhiều tâm huyết và công sức để làm
hiện lên những vẻ đẹp và sắc thái khác nhau của thiên nhiên Tây Bắc.
 - Nhà văn đã huy động tối đa các giác quan thị giác, xúc giác, thính giác và
vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực để tái hiện hình ảnh sông Đà gây ấn
tượng mạnh mẽ với người đọc
 - Nhà văn cũng đã thể hiện tài năng điêu luyện của một người nghệ sĩ ngôn từ
trong việc tái tạo những kì công của tạo hóa.

190
 16. Bình luận về cách nhìn, cách miêu tả thiên nhiên của nhà văn
Nguyễn Tuân qua việc “tìm kiếm chất vàng” của thiên nhiên Tây Bắc
 - Nguyễn Tuân đến Sông Đà với mục đích trước tiên là tìm chất vàng của
thiên nhiên. Đằng sau những biểu hiện hung bạo của Đà giang, nhà văn phát
hiện ra vẻ đẹp hoang dại, hùng vĩ và tiềm năng thủy điện to lớn của Sông Đà.
Khi nghĩ đến những tuyếc-bin thủy điện, có lẽ nhà văn đã dự cảm được vị trí,
vai trò của Đà giang trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
 - Dưới cái nhìn của Nguyễn Tuân, thiên nhiên không thuần túy là thiên
nhiên, mà thiên nhiên cũng là một sản phẩm nghệ thuật vô giá của tạo hóa. Vì
thiên nhiên chính là phông, nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp con
người - người lái đò trên dòng sông hung bạo.
 - Chất thơ hay còn gọi là “thi vị” tức là có tính chất gợi cảm và gây hứng thú
trong thơ. “Chất thơ” có thể hiểu là một khía cạnh của cảm hứng thẩm mĩ
nhân văn, phải gắn với cái đẹp. Cái đẹp có thể là do tự nhiên mang lại như
cảnh mây trắng nhởn nhơ bay trên bầu trời xanh thẳm, tạo ra cảm giác dễ chịu
cho người ngắm nhìn. Hoặc, “chất thơ” cũng có thể tạo ra từ những tình cảm,
hành động của con người như: Sự nhớ nhung, sự uyển chuyển của các điệu
múa...”(Đỗ Lai Thúy)
 - Nói một tác phẩm văn xuôi có chất thơ tức là những ý văn, câu văn, đoạn
văn tạo nên sự rung cảm trước cái đẹp của thiên nhiên, cuộc sống con người
và nó có khả năng truyền những rung cảm ấy đến với người đọc. Ở văn xuôi
chất thơ có ở trong nhiều cấp độ: từ ngữ; bức tranh thiên nhiên; hình tượng
nhân vật vượt lên trên thực tại của đời sống, của hoàn cảnh để hướng đến vẻ
đẹp của nhân cách, tâm hồn.
 - Với tài năng nghệ thuật của một nhà văn, đôi mắt của một họa sĩ và sự nhạy
cảm, tinh tế của một tâm hồn yêu cái đẹp, ưa “xê dịch” kết hợp sự liên tưởng

191
phong phú, độc đáo, Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà như một công trình nghệ
thuật của tạo hóa.
 - Qua đó tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên đất nước, niềm tự hào về cảnh
sắc quê hương tươi đẹp, một biểu hiện của tình yêu nước.
 - Xây dựng hình tượng Sông Đà Nguyễn Tuân thể hiện phong cách nghệ thuật
tài hoa, uyên bác:
 + Nhìn sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mỹ, tô đậm cái phi thường,
tuyệt vời của cảnhvật.
 + Vận dụng kiến thức của nhiều ngành khác nhau để xây dựng hình tượng
con sông.
 17.Nhận xét “cái tôi” của Nguyễn Tuân
 - Giải thích khái niệm “cái tôi”
 + “Cái tôi” ở đây chính là phong cách nghệ thuật.
 +Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối
ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật,
nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng
lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc. Chỉ những nhà văn tài năng,
có bản lĩnh mới có được phong cách riêng độc đáo. Cái nét riêng ấy thể hiện ở
các tác phẩm và được lặp đi lặp lại trong nhiều tác phẩm của nhà văn làm cho
ta có thể nhận ra sự khác nhau giữa nhà văn này với nhà văn khác. Trong các
sáng tác của một nhà văn, cái riêng tạo nên sự thống nhất lặp lại ấy biểu hiện
tập trung ở cách cảm nhận độc đáo về thế giới và ở hệ thống bút pháp nghệ
thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy. Phong cách của nhà văn cũng mang dấu
ấn của dân tộc và của thời đại.
 - Nhận xét về “cái tôi” của Nguyễn Tuân thể hiện qua đoạn trích:
 +Cái tôi tài hoa, uyên bác: vốn sống phong phú và trí tưởng tượng dồi dào tạo
nên những trang viết hết sức độc đáo và có giá trị nghệ thuật cao.

192
 +Cái tôi với tài năng điêu luyện trong việc sử dụng ngôn từ.
 +Cái tôi kín đáo thể hiện tình cảm yêu nước tha thiết và niềm say mê, tự hào
với thiên nhiên của quê hương, xứ sở mình.

193

You might also like