Professional Documents
Culture Documents
Môi trường:
Gia đình: thân sinh là cụ Nguyễn An Lan.
Được nuôi dưỡng trong nền văn hóa cổ truyền của dân tộc với những phong tục, nề nếp, với
cách ăn ở vui chơi từ một thời xưa đang dần biến đổi.
Theo gia đình sống nhiều năm ở các tỉnh và thành phố miền Trung.
Cuộc đời:
1929 bị đuổi học vì tham gia vào cuộc bãi khóa phản đối giáo viên người Pháp nói xấu người
Việt Nam.
1930 bị bắt giam vì vượt biên trái phép.
1941 bị bắt vì giao lưu với người hoạt động chính trị.
1950 gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
1948-1958 giữ chức Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam.
Con người: trí thức nghệ sĩ có bản lĩnh và nhân cách, lòng tự trọng và tinh thần dân
tộc, có ý thức cho giá trị cổ truyền và yêu tiếng Việt. Ý thức cá nhân phát triển cao,
lối sống tự do phóng túng, ham mê thanh sắc, con người tài hoa uyên bác, am hiểu,
nghiêm túc với nghề.
2. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT: “Tìm kiếm và chiếm lĩnh cái đẹp trong đời”
Người nghệ sĩ là người chiếm lĩnh được cái đẹp trong đời sống.
Nguyễn Tuân chủ trương đi tìm kiếm cái đẹp không chỉ trong đời sống bình thường mà
trong trí tưởng tượng, sự liên tưởng vô hạn của nhà văn về cái đẹp vô hạn, tồn tại trong
thế giới đời sống khác lạ.
Nhà văn phải tìm tòi, quan sát và có phong cách riêng.
“Tôi quan niệm đã viết văn thì phải cố viết cho hay và phải viết đúng cái tạng của mình.
Văn chương cần có sự độc đáo hơn trong bất kì lĩnh vực nào”
Nhà văn dùng chữ: “Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn
không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ
sáng tạo, không nên ăn bám vào người khác. Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay...Cũng
cùng 1 vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích
thước. Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh
cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không
linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp”.
3. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT:
Nguyễn Tuân là người suốt đời đi tìm kiếm cái đẹp.
Cái nhìn văn hóa.
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa và uyên bác.
Cá tính mạnh mẽ, lối sống tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi.
Bậc thầy ngôn ngữ văn xuôi hiện đại.
Giọng điệu riêng: vừa trang nhã, cổ kính, vừa sắc sảo, hiện đại.
Trước và sau Cách mạng:
Ổn định: chủ yếu khám phá thiên nhiên và sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mĩ;
khám phá con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Đó chính là cái nhìn mới mẻ, độc
đáo, có tính chất phát hiện về con người và cuộc sống của Nguyễn Tuân, là bản chất
của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.
Biến đổi:
Trước cách mạng: có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”. Sự “ngông” ấy thể hiện ở
nhân cách hơn người, ở cách ông quay về tìm kiếm vẻ đẹp của một thời đã qua nay chỉ
còn “vang bóng” như những bông hoa lạc lõng cuối mùa còn vương sót lại.
Sau Cách mạng: tìm thấy sự gắn bó giữa quá khứ với hiện tại và tương lai. Tầm mắt của
ông mở rộng hơn: cái đẹp có thật trong cuộc sống hiện tại; chất tài hoa nghệ sĩ cũng có
thể tìm thấy trong đại chúng nhân dân, ở những con người bình thường nhất. Cái đập
mạnh vào giác quan nghệ sĩ, đối với ông, giờ đây là những thành tích của nhân dân trong
chiến đấu và sản xuất.
4. THÀNH TỰU:
Tác phẩm tiêu biểu:
Một chuyến đi (1938)
Ngọn đèn dầu lạc (1939)
Vang bóng một thời (1940)
Chiếc lư đồng mắt cua (1941)
Tàn đèn dầu lạc (1941)
Tùy bút (1941)
Thiếu quê hương (1940)
Tùy bút kháng chiến và hòa bình (1956)
Tùy bút Sông Đà (1960)
Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972)
Ký (1976)
Cảnh sắc và hương vị đất nước (1988)
Ký Cô Tô (1965)
1996 được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ
thuật.