Professional Documents
Culture Documents
Thơ
Vẻ đẹp của sông Đà nhìn từ trên cao- so sánh
áng tóc trữ tình, cảm nhận về màu nước sông
Đà
Hút nước
Đoạn 2
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn
cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào túm được
qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
- Nhận xét về nhịp điệu câu văn: câu văn có nhiều vế câu liên tiếp, ngắt nhịp ngắn, âm hưởng xô đuổi
mạnh mẽ, gợi ra sự dữ dội của sông Đà
- Điệp từ “xô”
- Các hình ảnh nối tiếp: nước- đá, đá- sóng, sóng- gió
- Từ láy “cuồn cuộn”- gợi vòng xoáy bất tận, sự vần vũ không dừng lại của thiên nhiên sông Đà- tất cả
đều đang xô đuổi nhau trong sự vần vũ bất tận của thiên nhiên sông Đà- bản giao hưởng của nước, đá, của
sóng, của gió sông Đà, tất cả các bè xô đuổi nhau tạo thành một hòa âm dữ dội…
- Sự sắp xếp hình ảnh đi ngược lại quy luật tự nhiên:
+ Tự nhiên: gió- sóng xô đá, nước xô đá; đá: đứng yên, không di dịch
+ Trong trang văn của Nguyễn Tuân: đá xô sóng, sóng xô gió- tạo thành sự tuần hoàn không gian,
nước ở dưới thấp, đá dưới thấp xô đuổi ngọn gió cuồn cuộn trên cao; đến hòn đá cũng không thể đứng yên,
xô đuổi nhau- cảm nhận 1 cách sống động về sự dữ dội tột cùng của sông Đà.
Chơi ngông trong văn chương
- Từ láy “gùn ghè”- so sánh sắc thái với từ “gầm ghè”
- “Suốt năm”: thời gian- bất tận trong không gian và thời gian
- Ý nghĩa của cụm từ “đòi nợ xuýt”- nhấn mạnh sông Đà mang diện mạo của một tên du côn thích gây
gổ, cà khịa một cách vô lý, vô lối, nó đòi người ta phải trả món nợ mà người ta không nợ, đòi phải trả bằng
cả sinh mệnh
Sự dữ dội, hung bạo được cảm nhận bằng nhịp điệu
Đoạn 3
Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước thác réo gần mãi, lại réo to mãi lên.
Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà
chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre
nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.
2. Phân tích/ cảm nhận của anh/ chị về hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông
Đà của Nguyễn Tuân
1. Mở bài:
2. Thân bài:
2.1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
2.2. Phân tích hình tượng người lái đò
- Kết nối với nhan đề: Người lái đò sông Đà; lời đề từ: Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông
(Wladyslaw Broniewski)- cảm hứng ngợi ca, khám phá vẻ đẹp của con người lao động trên dòng sông- nhấn
mạnh sự chuyển biến trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân sau CMT8
- Lai lịch, ngoại hình, một số nét tính cách (giới thiệu chung)
+ Lai lịch: người lái đò trong tác phẩm không được nhắc đến tên, chỉ được gọi là ông đò Lai Châu,
ông lái, người lái đò- con người lao động đời thường, giản dị, vô danh, một người giữa muôn người, một vẻ
đẹp bình dị giữa muôn mặt đời thường (liên hệ đến cảm hứng sáng tác trước CM- trí thức tinh hoa). Ông đò
sinh ra, lớn lên và cả cuộc đời gắn bó với sông nước, không thể đếm được bao nhiêu lần vượt thác, bao
nhiêu chuyến đò trong cuộc đời ông lái, chỉ biết con sông này giống như một thiên sử thi anh hùng, một bản
trường ca mà ông đã thuộc đến từng dấu chấm.
+ Ngoại hình in đậm dấu ấn của vùng sông nước: tay dài lêu nghêu, chân khuỳnh ra như lúc nào cũng
đang kẹp chặt một cái cuống lái tưởng tượng, giọng nói thì ào ào, mạnh mẽ như tiếng nước trên mặt ghềnh
+ Ông lái đò không thích chỗ nước êm mà thích đi thuyền ở nơi có thác- trải nghiệm cảm giác thú vị,
hành trình vượt thác sông Đà trở thành một cuộc phiêu lưu- dấu ấn nhân vật của Nguyễn Tuân: chất tài hoa
nghệ sĩ, thích cảm giác mạnh, phi thường, độc đáo
- Vẻ đẹp của người lái đò trong trận thủy chiến trên sông Đà
(Có hai cách triển khai: Cách 1: phân tích vẻ đẹp hình tượng theo diễn biến của trận thủy chiến- từ đó
khái quát phẩm chất; Cách 2: phân tích theo các phẩm chất, lấy dẫn chứng từ hình ảnh người lái đò trong
trận thủy chiến trên sông)
+ Tái hiện lại trùng vi thạch trận sông Đà (tái hiện khái quát, tránh miêu tả tỉ mỉ, chi tiết, kể lại tác
phẩm bằng lời của mình): nhấn mạnh tâm địa của kẻ thù số một với con người, con sông đã lặng lẽ giao
việc cho mỗi hòn đá, bày thạch trận trên sông, tính toán từ vị trí đến chiến thuật một cách kĩ càng, quyết
đoạt bằng được sinh mệnh của người lái đò
+ Vòng thứ nhất:
Khi phân tích, đặt sự hung hãn, dữ tợn của thác đá sông Đà bên cạnh sự bé nhỏ, đơn độc của con
thuyền và sự dũng cảm, mưu trí, bản lĩnh của người lái đò, nhấn mạnh sự tương phản để làm nổi bật phẩm
chất
Sự hung hãn, dữ tợn của thác đá sông Đà: đám đá tảng đá hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên
sông đòi ăn chết con thuyền đơn độc, chúng bủa vây lấy con thuyền, khiến cho con thuyền không còn đường
lui, không còn biết đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà: hàng tiền vệ canh cửa giả vờ sơ hở để dụ con thuyền
vào; vào tuyến giữa đánh khuýp quật vu hồi, nếu vẫn chọc thủng được tuyến giữa thì vẫn còn những boong
ke chìm và pháo đài nổi. Đây là bày binh bố trận, thực tế sẽ còn hung hãn hơn: nước thác hò reo làm thanh
viện cho đá, làm thành một trận nước vang trời thanh la não bạt (đe dọa bằng âm thanh); những con sóng
hung tợn như quân liều mạng đá trái, thúc vào bụng vào hồng thuyền, đòi lật ngửa thuyền ra, đánh đòn tỉa,
đánh đòn âm, đánh hồi lùng… Nguyễn Tuân đã sử dụng biện pháp tu từ liệt kê, nhân hóa, hàng loạt các
động từ mạnh, những câu văn ngắt nhịp ngắn, mạnh mẽ, dồn dập gợi sự tấn công liên tiếp nhằm đoạt
bằng được sinh mệnh người lái đò. Tất cả đều muốn lấn át, tiêu diệt con thuyền đơn độc và nhỏ bé, không
cho con thuyền một cơ hội nào để sống sót. Những con sóng đã đánh đến ngón đòn hiểm độc nhất: bóp chặt
lấy hạ bộ của người lái đò và khiến cho ông đò bị thương.
(Liên hệ với những đoạn trước để nhận xét về tâm địa nham hiểm, độc ác của kẻ thù số một với con
người)
Phẩm chất trí dũng tuyệt vời và bản lĩnh của ông lái đò: Ông đò rất chắc tay chèo trước những
luồng sóng tấn công liên tiếp, hung hăng, dữ tợn. Ngay cả khi bị thương, ông đò vẫn cố nén vết thương, hai
chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái. Giữa tiếng hỗn chiến của nước của đá thác, vẫn nghe thấy dõng dạc tiếng
chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của người lái đò – cứ thế ông đã vượt qua trùng vi thạch trận lần thứ nhất
Lưu ý: số lượng câu văn và chi tiết miêu tả trực tiếp hình ảnh ông lái đò không nhiều, chủ yếu là các
câu văn và chi tiết miêu tả thác đá sông Đà- nghệ thuật đòn bẩy để làm nổi bật bản lĩnh mạnh mẽ, tư thế
oai phong, vững chãi, sự bình tĩnh, tỉnh táo, sáng suốt và điêu luyện của người lái đò
+ Vòng thứ hai: vừa xong trùng vi thạch trận vòng thứ nhất, ông đò không một phút nghỉ tay đã lập
tức đổi luôn chiến thuật- cho thấy kinh nghiệm dày dạn của ông lái đò. Đây đúng là con người đã nắm vững
trong tay binh pháp của sông Đà, đã thuộc quy luật phục kích của đá thác, con người biết rất rõ tâm địa
nham hiểm của kẻ thù. Vòng hai này sẽ khó khăn hơn nhưng hình ảnh ông lái đò hiện lên càng mạnh mẽ
hơn.
Nếu như vòng đầu có 4 cửa tử và 1 sinh lập lờ ở phía tả ngạn thì vòng hai sông Đà tăng thêm nhiều
cửa tử, cửa sinh lại lệch về phía hữu ngạn. Nó quyết không để con thuyền dùng kinh nghiệm để vòng hai
một cách dễ dàng mà giăng thêm nhiều cạm bẫy. Những con sóng thác cũng trở nên hung hãn hơn “Dòng
thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”- con sông mang diện mạo của một con mãnh thú chỉ
trực chờ tiêu diệt kẻ thù.
Nếu như ở vòng 1 ông lái đò để bị thương vì một cuộc đánh úp, tấn công bất ngờ thì đến vòng hai hình
ảnh ông đò khẳng định tư thế của con người lao động làm chủ được sức mạnh của tự nhiên. Hình ảnh ông
đò hiện lên mạnh mẽ, bản lĩnh, dũng cảm: cưỡi lên thác đá sông Đà phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ- leo
lên lưng cọp thì không có đường lui, hoặc là đi đến cùng và chiến thắng hoặc là phải trả giá bằng sinh mạng
của mình- nâng tầm vóc và sức mạnh của con người. Hình ảnh ông đò nắm lấy bờm sóng, ghì cương lái lái
thẳng vào cửa sinh, đè sấn tới những con sóng để mở đường tiến là hình ảnh kì vĩ về sức mạnh của con
người. Những con sóng dù hung hãn đến mấy cũng không thể cản đường, những con sóng tưởng “vô sở bất
chí” mà cuối cùng đã bị khuất phục trước tài năng, bản lĩnh của người lái đò sông Đà (Liên hệ hình tượng
con người lao động trong Đoàn thuyền đánh cá)
+ Vòng thứ ba: nhấn mạnh đây là vòng cuối trong trùng vi thạch trận sông Đà, bên trái, bên phải đều
là luồng chết, chỉ có duy nhất một cửa sinh ở chính giữa. Cái chết bủa vây khắp nơi, chỉ cần một chút sơ hở
là con thuyền và người lái đò phải trả giá bằng cả sinh mạng. Vậy mà lần này, con thuyền lại vượt qua vòng
vây một cách hết sức nhẹ nhàng “Vút vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng. Con thuyền như mũi tên
tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được”
Lưu ý: nhấn mạnh sự tương phản giữa vòng vây có tính chất quyết định sinh mệnh của con
thuyền và người lái đò, tính chất thử thách khi con thuyền đã phải vượt qua hai vòng chiến đấu căng
thẳng giờ đây lại đứng giữa trận địa đầy cạm bẫy trong sự bủa vây của cái chết với phong thái ung
dung, thư thái như không chút bận tâm của người lái đò và hình ảnh con thuyền lướt đi nhẹ nhàng,
khinh khoái. Đây là hình ảnh thể hiện chất tài hoa nghệ sĩ ở người lái đò đã thuộc đến từng ngã rẽ, khúc
quanh trên quãng sông này như thuộc từng dấu chấm của một bản trường ca anh hùng. Ông đò đúng là con
người “tay lái ra hoa” trên sông nước. Hành trình vượt thác, chống chọi với thiên nhiên hung bạo để giành
giật sinh mệnh bỗng nhẹ nhõm, khinh khoái như một cuộc dạo chơi. Con thuyền lướt đi vun vút trong không
gian “cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng” như không hề có sự hiện diện của cạm bẫy, hình ảnh con
thuyền vượt ranh giới sinh tử hiện lên đậm chất thơ như một mũi tên xuyên qua tấm màn hư ảo, mông lung
của hơi nước. Con thuyền lướt đi nhanh và nhẹ đến mức như tự động lái được, lượn được mà không cần có
sự chú tâm, gắng sức chỉ huy của người lái đò. Chèo đò vượt thác đá sông Đà mà nhẹ nhàng như không vừa
khẳng định bản lĩnh ngang tàng của người lái đò trước mênh mông sông nước vừa là hình ảnh của một
người nghệ sĩ trong hành trình đầy say mê.
Đoạn miêu tả vòng thứ ba, âm hưởng của câu văn nhẹ nhõm, khác hẳn với sự dồn dập, căng thẳng của
không khí trận chiến ở trùng vi thạch trận lần thứ nhất, tạo nên ấn tượng thú vị về hành trình lao động của
người lái đò như một cuộc lãng du.
- Sau khi vượt qua trùng vi thạch trận sông Đà, ông đò nướng ống cơm lam, mọi người nói chuyện về
cá dầm xanh, cá anh vũ, những thanh âm của đá thác tan đi trong trí nhớ, họ không nhắc đến chuyện vượt thác,
đối với họ, đó không phải là một kì tích, chỉ là cuộc sống đời thường mà thôi. Họ sống và ngày ngày vượt qua
những con thác tự nhiên như hơi thở, như một phần bình thường của cuộc sống. Đây là phong thái ung dung,
thanh thản, đậm chất nghệ sĩ, ông đò là một huyền thoại giữa đời thường
2.3. Đánh giá:
- Khái quát vẻ đẹp của hình tượng người lái đò, nhấn mạnh bản lĩnh mạnh mẽ, tư thế hiên ngang, dũng
mãnh, sự điêu luyện và tài hoa- khẳng định dấu ấn nghệ sĩ của hình tượng (liên hệ đến phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân- sự theo đuổi cái đẹp hoàn hảo, toàn bích, tiếp cận con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, dấu
ấn sự chuyển biến trong phong cách nghệ thuật sau năm 1945: đi tìm cái đẹp ở cuộc đời lao động, ở những con
người lao động bình thường giản dị, vô danh, đi tìm những huyền thoại giữa đời thường)
Có thể so sánh, mở rộng đến hình tượng Huấn Cao trước CMT8
- Nghệ thuật khắc họa hình tượng: tài dựng cảnh, tả người, nghệ thuật tương phản, đòn bẩy, vận dụng tri
thức của quân sự, thể thao trong khắc họa hình tượng ông lái đò và làm nổi bật âm mưu nham hiểm của con
sông Đà, sử dụng các biện pháp tu từ nhân hóa, liệt kê, các động từ mạnh, những câu văn giàu hình ảnh, nhịp
điệu…
- Mở rộng đến Nguyễn Tuân: định nghĩa về người nghệ sĩ, sự độc đáo, sáng tạo trong phong cách nghệ
thuật, chơi ngông trong văn chương…
3. Kết bài
ĐỀ 2
Trong bài viết nhân dịp kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Nguyễn Tuân, nhà nghiên cứu Phong Lê từng
nhận xét: ở Nguyễn Tuân có tất cả những gì làm nên “hồn cốt của một người viết - đó là lòng yêu cái đẹp và
khả năng làm giàu cho cái đẹp ở tư cách một người viết tận tụy và hết mình cho ngôn từ” (Nguyễn Tuân -
người đến được với cái đẹp và cái thật, Tạp chí Sông Hương, số 257, tháng 07/2010)
Từ cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà, hãy làm nổi bật “hồn cốt của một
người viết” ở Nguyễn Tuân.
ĐỀ 3
Trong bài viết Nguyễn Tuân- Người đi tìm và sáng tạo cái đẹp, nhà nghiên cứu Đoàn Trọng Huy viết:
Trên hành trình khám phá thẩm mỹ, Nguyễn Tuân đã gặp những sự trái khoáy, nghịch lý- cái đẹp thì không
thật, và cái thật thì không đẹp. Nguyễn Đình Thi đã nhận xét như sau: “Cách mạng là sự đổi đời đối với
Nguyễn Tuân, vì ông thấy cái có thật bây giờ đẹp và cái đẹp bây giờ có thật trong cuộc đời”
Tử vẻ đẹp của hình tượng người lái đò trong cảnh vượt thác (Người lái đò sông Đà, Ngữ văn 12, Tập
một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016), liên hệ đến nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù (Ngữ
văn 11, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016), anh/ chị hãy làm rõ hành trình khám phá thẩm mĩ của
Nguyễn Tuân