You are on page 1of 133

Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

KIẾN THỨC PHẦN THƠ CA KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM


(1946 – 1973)

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 1
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

CHUYÊN ĐỀ I:
THƠ CA KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1946 – 1954)

CHỦ ĐỀ 1:
TÂY TIẾN (Quang Dũng)

TIẾT 1:
TÌM HIỂU VỀ NHÀ THƠ QUANG DŨNG VÀ BÀI THƠ “TÂY TIẾN”

I. NHÀ THƠ QUANG DŨNG (1921 – 1988)


1. Cuộc đời
- Quang Dũng tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
2. Sự nghiệp sáng tác
- Ông là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc.
3. Phong cách nghệ thuật
- Ông còn là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạng và tài hoa – đặc
biệt khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài (Sơn Tây) của mình.
II. BÀI THƠ “TÂY TIẾN” (1948)
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ “Tây Tiến” được nhà thơ Quang Dũng viết vào cuối năm 1948 tại Phù Lưu Chanh,
khi ông chuyển từ đơn vị Tây Tiến sang đơn vị khác và nhớ về đơn vị cũ.
2. Nhan đề
- Ban đầu bài thơ được viết mang tên là “Nhớ Tây Tiến”, khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là
“Tây Tiến”,
3. Xuất xứ
- Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô”.
4. Ý nghĩa nhan đề
- Nhan đề “Tây Tiến” đảm bảo tính hàm súc của thơ, không cần phải trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ
mà tình cảm ấy vẫn hiện lên sâu sắc, thấm thía. Nhan đề còn làm nổi rõ hình tượng trung tâm
của tác phẩm, đó là hình tượng đoàn quân Tây Tiến.
- Việc bỏ đi từ “nhớ” đã vĩnh viễn hóa đoàn quân Tây Tiến, khiến cho hình ảnh người lính
Tây Tiến trở thành bất tử trong thơ ca kháng chiến Việt Nam.
5. Cảm hứng chủ đạo
- Cảm hứng chủ đạo của bài thơ “Tây Tiến” chính là nỗi nhớ da diết của nhà thơ Quang Dũng
về Tây Tiến:
+ Có thể nói nỗi nhớ chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả bài thơ khiến cho bài thơ càng trở nên
dạt dào cảm xúc.
+ Nỗi nhớ dẫn dắt nhà thơ trở về với nhiều điều đặc biệt là khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc
và cuối cùng kết tinh của nỗi nhớ là hình ảnh người lính Tây Tiến.
+ Nỗi nhớ hiện lên trong bài thơ mang trạng thái cảm xúc da diết sâu đậm.
 Có thể nói, “Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc
phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
6. Đoàn binh Tây Tiến
- Tây Tiến không những là tên của một bài thơ mà đó còn là tên gọi của một đơn vị quân đội
thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào
và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như miền tây Bắc Bộ Việt
Nam.
- Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh giáp
biên giới Việt – Lào và cả Sầm Nưa (Lào).

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 2
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh rất
gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống
rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.
- Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành lập trung
đoàn 52.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 3
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 2:

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN GIAN KHỔ VÀ KHUNG CẢNH


THIÊN NHIÊN MIỀN TÂY HÙNG VĨ, HOANG SƠ VÀ DỮ DỘI

I. KHÁI QUÁT
- Có thể nói, tinh hoa của bài thơ được hội tụ lại trong đoạn sau.
- Đoạn thơ đã dựng lên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, mĩ lệ của núi rừng miền Tây, nơi nhà
thơ cũng đoàn quân Tây Tiến đã từng hoạt động, chiến đấu.
II. PHÂN TÍCH
1. Mạch cảm xúc cả bài (câu 1 – 2)
- Bài thơ mở ra bằng một nỗi nhớ trào dâng:
“Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
+ Quang Dũng gọi tên sông Mã ngay từ những dòng thơ đầu, địa danh ấy cũng là hiện thân
tiêu biểu của vùng rừng núi Tây Bắc. Trên quãng đường hành quân, dòng sông ấy không chỉ
là một địa danh trên bản đồ địa lí mà đã trở thành người bạn, người tri kỉ, là chứng nhân lịch
sử đã chứng kiến biết bao đau thương, gian khó, vui buồn của người lính chiến trong suốt
cuộc trường chinh.
+ Lời gọi “Tây Tiến ơi!” rất tha thiết khắc khoải, Tây Tiến không chỉ là một cái tên mà
dường như nó đã trở thành người thân thương ruột thịt.
+ Từ “xa rồi” được đặt giữa sông Mã và Tây Tiến tạo nên khoảng cách giữa quá khứ và hiện
tại, làm bật lên tiếng gọi thiết tha như gọi người thân yêu, gọi vào hoài niệm gõ vào kí ức làm
thức dậy bao kỉ niệm.
+ Từ “ơi” bắt vần với từ láy “chơi vơi” làm cho âm điệu câu thơ trở nên tha thiết, sâu lắng,
bồi hồi. Vần “ơi” tạo ra âm hưởng mênh mang kéo dài khiến cho nỗi nhớ càng trở nên da
diết.
+ Điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần như thu trọn lại để biểu lộ tâm trạng, cảm xúc rõ nét nhất
của người lính Tây Tiến khi nghĩ về sông Mã, miền rừng núi một thời gắn bó và cả đoàn quân
với biết bao kỉ niệm.
+ Từ ngữ độc đáo “nhớ chơi vơi” thể hiện nỗi nhớ khó tả, cứ lửng lơ, chập chờn, khó nắm
bắt. Không có hình, không có lượng nhưng hình như rất nặng mà mênh mang đầy ắp, như vẽ
ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ, khơi nguồn cho kí ức lần lượt hiện
về.
 Hai câu thơ đầu đã khơi mạch chủ đạo của cả bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi. Nỗi nhớ ấy
được cụ thể dần dần trong những vần thơ tiếp sau.
2. Hình ảnh đoàn quân trong đêm trên địa bàn gian lao, vất vả (câu 3 – 4)
- Nếu như hai câu thơ đầu của đoạn thơ sẽ là khúc dạo đầu của hồi ức kỉ niệm thì hai câu thơ
tiếp theo có lẽ lại là những miêu tả về đoạn hành trình đã được lưu dấu:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
+ Những từ chỉ địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi ra địa bàn rộng lớn, đầy lạ lẫm đối với
người lính Tây Tiến. Hai địa danh Sài Khao, Mường Lát vốn dĩ là không gian địa lí nay trở
thành mốc thời gian lịch sử:
 “Sài Khao” là nơi đoàn quân mỏi mòn trong lớp sương mờ dày đặc để đi đến chiến
trường.
 “Mường Lát” gắn với những đêm ẩm ướt đọng đầy hơi nước và hương hoa.
+ Hình ảnh “sương lấp” chính là hình ảnh sương mù vùng Tây Bắc luôn dày đặc như trùm lấy
bước chân, buốt chửng binh đoàn vốn đang rệu rã, mệt mỏi vì chặng đường dài đầy gian khổ.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 4
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc hoạ hơn sự khắc nghiệt
của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo.
+ Hình ảnh “đoàn quân mỏi” giữa Sài Khao sương lấp đập mạnh gây ấn tượng:
 Sự chân thực sinh động của hình ảnh thơ khiến ta như hình dung thấy sự khắc nghiệt của
những ngày phải đương đầu với trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn.
 “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần không “mỏi” bởi ý chí quyết tâm ra đi vì tổ quốc đã
làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn.
+ Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” là hình ảnh đẹp giàu sức gợi:
 Đoàn quân ấy hành quân trong một “đêm hơi” đầy huyền ảo, mơ hồ, bảng lảng khói
sương chốn rừng suối. 
 Ở đây, “hoa” có thể là những ánh đuốc sáng lung linh của đoàn quân đang tiến về bản
làng, cũng có thể là hình ảnh đoàn quân từ rừng đi ra, trên tay vẫn cầm theo những đóa
hoa rừng ngát hương, mà đó cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ về đoàn quân Tây Tiến như
những bông hoa rừng.
 Hai câu thơ vừa tả thực, vừa sử dụng bút pháp lãng mạn đã in đậm dấu ấn tài hoa, lãng
mạn của Quang Dũng.
3. Hình thể sông núi hiểm trở nhưng không kém phần thơ mộng của miền Tây trên
đường hành quân (5 – 6 – 7 – 8)
- Bốn câu thơ tiếp theo đã phác họa ra trước mắt người đọc khung cảnh một bức tranh núi
rừng hùng vĩ, hoang sơ và hình ảnh người lính hào hùng, mạnh mẽ:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
+ Điệp từ “dốc” được lặp lại hai lần gợi lên khung cảnh những đỉnh dốc nối tiếp nhau, hết
đỉnh dốc này lại tới đỉnh dốc khác, chẳng biết bao giờ mới hết.
+ Từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” gợi lên sự hiểm trở, quanh co, lắt léo gập ghềnh, thêm
vào đó là sự chênh vênh của núi rừng, bên là vách núi bên là vực thẳm, sự hun hút của cung
đường.
+ Từ láy “heo hút” thể hiện sự hoang vắng, lạnh lẽo của núi rừng, nơi dường như chưa từng
có bước chân người đến, chính vì người lính hành quân trên những ngọn núi cao chót vót,
nên những “cồn mây” mới như đang quanh quẩn, như đùa giỡn dưới chân, ngỡ rằng người
chiến binh đang bước đi trên mây chứ chẳng phải núi rừng.
+ Hình ảnh “súng ngửi trời” là một hình ảnh nhân hóa thú vị và đầy sáng tạo của Quang
Dũng, vì người lính hành quân qua những đỉnh núi, nơi có thể chạm đến mây, thì những khẩu
súng khoác trên vai, mũi súng dường như đang chọc thủng trời xanh kia, nói là “súng ngửi
trời” đó là cách cảm nhận thật tinh nghịch của người lính trẻ lãng mạn, hài hước và hồn
nhiên.
+ Điệp từ “ngàn thước” được lặp lại hai lần cùng với cặp từ tương phản “lên” – “xuống” và
nhịp thơ 4/3 đã khiến cho độ cao, độ sâu của địa hình thêm đậm nét.
+ Một thoáng mênh mang đã tái hiện lên giữa cuộc hành quân, khi các anh dừng chân nơi
ngọn đèo xa lạ, nhìn thấy bản Pha Luông cùng với những ngôi nhà.
+ Tiếng “nhà” gọi lên nghe chiều bâng khuâng, làm xao xuyến mỗi tâm hồn, một tiếng khẽ
thôi nhưng chứa nhiều nỗi man mác khôn nguôi, khó tả.
+ Hình ảnh “mưa xa khơi” gợi cảm giác khoan khoái mát lạnh của làn mưa trắng xóa. Đó là
nét đẹp lãng mạn của núi rừng Tây Bắc. Vần mở “ơi” được đặt câu thơ thứ tám tạo cảm giác
nhẹ nhàng gợi ra những phút giây nghỉ ngơi thư giãn của người lính.
 Bốn câu thơ vừa gợi ra sự hoang vu dữ dội mà sự êm đềm của núi rừng, vừa gợi ra những
cuộc hành quân vất vả nhưng cũng đầy trẻ trung, yêu đời của các chàng trai Tây Tiến.
4. Nhớ về người lính Tây Tiến (câu 9 – 10 – 11 – 12)

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 5
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng hùng vĩ ấy, hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên thật
đẹp với sự hi sinh bi tráng, cao cả qua bốn câu thơ sau:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
+ Cách gọi “anh bạn” thể hiện tình cảm thân thiết trìu mến, cụm từ “không bước nữa” và “bỏ
quên đời” đều là cách nói tránh về cái chết, điều đó là giảm đi sự đau thương mất mát, đồng
thời nhấn mạnh sự hi sinh cao cả của người lính chiến.
+ Tư thế hi sinh “gục lên súng mũ”, thể hiện tinh thần người lính chiến dẫu có hi sinh cũng
không hề rời đi trách nhiệm, không hề trang bị gắn bó với đời lính là súng và mũ, đó là một
tư thế ngang tàng, gan góc, quả cảm của người lính.
+ “Chiều chiều”, “đêm đêm” là những từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian,
kết hợp cùng biện pháp nhân cách hóa “thác gầm thét”, “cọp trêu người” càng khiến người
đọc cảm nhận được sự bí hiểm, hoang dã ẩn chứa bao nhiêu nguy hiểm, tính mạng người lính
có thể bị đe dọa bất cứ lúc nào. Sự nguy hiểm ấy không chỉ trải rộng trong không gian mà
còn kéo dài và lặp lại thường xuyên theo thời gian.
 Tác giả nhớ về họ như những người anh hùng và không quên cảm phục tinh thần của
những người lính cụ Hồ, cuộc đời dành cả tuổi thanh xuân tươi đẹp để cống hiến cho độc lập
của đất nước, dân tộc.
5. Nhớ về tình dân quân (câu 13 – 14)
- Sau những chặng đường dài nguy khó, hai câu thơ cuối kết thúc đoạn thơ thứ nhất đã khiến
người đọc cảm nhận lại được chút ấm áp, dịu nhẹ bên những kỉ niệm chan chứa tình người
nơi các anh lính trẻ đi qua:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
+ Từ cảm thán “nhớ ôi” đứng đầu câu thơ diễn tả nỗi nhớ da diết, khôn nguôi của tác giả
cũng như những người lính Tây Tiến đối với những người dân Tây Bắc.
+ Những chiến sĩ Tây Tiến và bà con Tây Bắc như trở thành một nhà, quây quần cùng nhau
bên nồi cơm đang lên khói.
+ Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, có hàm chứa bao tình
thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp.
+ Mùi khói bếp xông lên xen lẫn tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng, nồng ấm tựa anh em
một nhà. Là hương nếp xôi nơi đất Mai Châu đã giữ dấu ân tình, là buổi chuyện trò trong
những bữa cơm ngạt thơm vị khói đã làm đậm nên những kỉ niệm không phai, khó mờ.
 Hai câu thơ kết thúc đoạn thơ thứ nhất của bài thơ “Tây Tiến” có âm điệu nhẹ nhàng tha
thiết gợi cảm giác êm dịu, ấm áp, tạo tâm thế cho người đọc cảm nhận đoạn thơ tiếp theo.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Đoạn thơ trên của bài thơ “Tây Tiến” không chỉ khắc họa thành công vẻ đẹp hào hoa, bi
tráng của người lính Tây Tiến mà còn mang đến cho bạn đọc cách nhìn mới mẻ về những con
người này.
2. Giá trị nghệ thuật
- Bằng ngòi bút hào hoa và lãng mạn, Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực nhất những
nỗi nhớ khắc khoải trong tâm hồn của người lính chiến về một thời kháng chiến đã đi qua với
giọng điệu phóng khoáng, hình ảnh thơ giàu sức gợi, nhịp thơ biến đổi.
 Tất cả đã tạo nên một âm hưởng riêng, một phong cách riêng của người lính Tây Tiến.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 6
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

CHỦ ĐỀ 2:
VIỆT BẮC (Tố Hữu)

TIẾT 3:
TÌM HIỂU VỀ NHÀ THƠ TỐ HỮU VÀ BÀI THƠ “VIỆT BẮC”

I. NHÀ THƠ TỐ HỮU (1920 – 2002)


1. Cuộc đời
- Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở Thừa Thiên – Huế.
2. Sự nghiệp văn học
- Đường đời, đường thơ Tố Hữu luôn song hành cùng con đường cách mạng của cả dân tộc.
- Với những tác phẩm giàu chất trữ tình chính trị và đậm đà tính dân tộc, Tố Hữu là một trong
những nhà thơ xuất sắc nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại.
3. Phong cách nghệ thuật
- Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối
tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn
dân.
- Nói cách khác, thơ Tố Hữu là bằng chứng sinh động về sự kết hợp hài hòa hai yếu tố cách
mạng và dân tộc trong sáng tạo nghệ thuật.
- Qua phong cách thơ Tố Hữu, có thể thấy một thành tựu xuất sắc của thơ ca cách mạng, một
nền thơ luôn coi vận mệnh của dân tộc là lẽ sống lớn nhất.
II. BÀI THƠ “VIỆT BẮC” (1954)
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Tháng 10 – 1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung
ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô.
 Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.
2. Thể loại
- Bài thơ được viết theo thể lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc mang âm hưởng nhẹ
nhàng uyển chuyển thấm đẫm chất trữ tình của những câu ca dao.
3. Chủ đề
- Bài thơ được coi là tiếng hát nghĩa tình sắt son thủy chung của mình với ta, của chiến sĩ, cán
bộ, đồng bào đối với chiến khu Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác
Hồ.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 7
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 4:
LỜI NHẮN NHỦ CỦA VIỆT BẮC VỚI CÁN BỘ KHÁNG CHIẾN

I. KHÁI QUÁT
- Đoạn thơ sau trong bài với nhiều tâm tư, tình cảm nhà thơ Tố Hữu gửi vào đã thực sự làm
lay động nhiều tâm hồn, trái tim bạn đọc khiến họ thêm yêu tác phẩm và trân trọng hồn thơ
Tố Hữu.
II. PHÂN TÍCH
1. Nhớ về thiên nhiên Việt Bắc (câu 1 – 2)
- Sau khi gợi lại những kỉ niệm ngày nào, nhân dân tiếp tục bày tỏ những tình cảm chân
thành, nỗi lưu luyến với người đi:
“Mình về, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”
+ Tiếng “mình” cất lên là chứa chan sự yêu thương trong đó, thật quen thuộc, thật gần gũi
biết bao.
+ Cảnh mưa trắng nguồn, lũ ngập đầy suối, mây mù bao phủ núi rừng là sự khắc nghiệt của
thời tiết, của thiên nhiên Việt Bắc. Mưa, lũ, mây, mù còn mang ý nghĩa tượng trưng cho
những gian khổ, thử thách mà quân và dân ta phải trải qua trong những năm dài máu lửa.
+ Hình ảnh “những mây cùng mù” gợi ra một không gian xa xôi, mịt mờ rất riêng của một
vùng thâm sơn cùng cốc.
+ Ở chốn đô thành ấy, đâu còn hình bóng của quang cảnh thiên nhiên hùng vĩ mây mù giăng
lối, đâu còn chiến khu xưa cũ nơi chúng ta đã cùng kề vai sát cánh chiến đấu.
2. Nhớ về cuộc sống ở Việt Bắc (câu 3 – 4 – 5 – 6 – 7 – 8)
- Kỉ niệm của một thời vận động đấu tranh cách mạng gian nan và khổ cực. Những từ ngữ,
những hình ảnh chỉ cần nhắc cũng gợi ra nỗi nhớ cảm động:
“Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”
+ Hình ảnh “miếng cơm chấm muối”, “mối thù nặng vai” đã khắc họa chân thực hoàn cảnh
kháng chiến và nhiệm vụ kháng chiến.
+ “Miếng cơm chấm muối” là chi tiết thực, phản ánh cuộc sống kháng chiến gian khổ của bộ
đội ta.
+ Hình ảnh hoán dụ “mối thù nặng vai” gợi liên tưởng đến “mối thù” sâu nặng của nhân dân
đối với những kẻ cướp nước, những kẻ đang tâm bán nước ta cho giặc. Đồng thời còn là lời
nhắc nhở kín đáo của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào.
- Tiếp mạch cảm xúc, vẫn là những lời hỏi của Việt Bắc nhưng ẩn chứa trong vần thơ lại là
lời bộc bạch tâm sự của người ở lại, bày tỏ tình cảm lưu luyến với cán bộ về xuôi:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
+ Biện pháp tu từ nhân hoá “rừng núi nhớ ai” nói lên tình cảm thắm thiết của Việt Bắc với
những người kháng chiến. “Rừng núi” chính là hình ảnh người ở lại để thể hiện nỗi nhớ da
diết mà sức vóc của nó có thể sánh ngang tầm với núi rừng đại ngàn.
+ Thiên nhiên và con người Việt Bắc nhớ cán bộ về xuôi nhiều đến mức “trám bùi để rụng”,
“măng mai để già”. “Trám bùi” và “măng mai” là những đặc sản Việt Bắc cũng xuất hiện
trong bữa ăn của bộ đội, của cán bộ kháng chiến.
+ Các từ ngữ “để rụng”, “để già” thoáng chút bùi ngùi, cô đơn, thương nhớ.
- Trong tâm trạng lưu luyến khi chia xa, người ở lại tiếp tục gợi nhắc những kỉ niệm một thời
đã từng gắn bó, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi:
“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 8
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

+ Hình ảnh ẩn dụ “nhớ những nhà” gợi cho người đọc cảm nhận được tâm trạng băn khoăn:
liệu rằng cán bộ có nhớ những khóm nhà mà người đã ở, đã nghỉ ngơi hay chăng chứ nhân
dân nơi đây thì nhớ cán bộ nhiều lắm.
+ Nhớ tới nỗi “hắt hiu lau xám”:
 Hình ảnh “hắt hiu lau xám” gợi về miền đất hoang sơ, nghèo nàn nhưng người Việt bắc
chỉ nghèo về vật chất chứ không nghèo về tình cảm.
 Từ láy “hắt hiu” kết hợp với hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc lau xám càng
làm nổi bật hơn khung cảnh hoang vắng, đơn sơ, im lặng nơi núi rừng. 
+ Cụm từ “đậm đà lòng son” đã nói lên tấm lòng thủy chung, son sắc với cách mạng, hết lòng
về kháng chiến của người dân nơi đây. Họ chịu đựng khó khăn, gian khổ để cưu mang giúp
đỡ cán bộ cách mạng.
+ Tác giả đã sử dụng phép tiểu đối giữa hai hình ảnh “hắt hiu lau xám” với “đậm đà lòng
son” để nhấn mạnh đất Việt bắc tuy có nghèo nhưng con người Việt Bắc luôn giàu nghĩa tình.
 Qua thủ pháp tiểu đối, Tố Hữu ca ngợi đồng bào Việt Bắc tuy còn nghèo khổ, thiếu thốn
nhưng giàu tình yêu nước, gắn bó thủy chung với cách mạng và kháng chiến.
3. Nhớ về thời gian, không gian kháng chiến (câu 9 - 10 – 11 – 12)
- Cuối cùng là lời trao gửi của người ở lại để nhắc nhớ về hành trình kháng chiến của toàn
dân tộc với những chặng đường đáng nhớ:
“Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
+ Một loạt các mốc thời gian và địa danh được liệt kê: “kháng Nhật”, “thuở còn Việt Minh”,
“Tân Trào, Hồng Thái” như đang tổng kết lại hành trình mà dân tộc đã đi qua. Chúng không
chỉ giản đơn là những địa danh vô cảm trên bàn đổ địa lí mà mỗi tên gọi đều là những kỉ
niệm, những gian khổ, những chiến thắng mà quân và dân ta đã cùng bên nhau để đón nhận.
+ Núi non nơi này vẫn đợi người quay lại, từ thời kì kháng chiến “kháng Nhật” tới “thuở còn
Việt Minh” thì mình với ta vẫn luôn cạnh nhau.
+ Địa danh “Tân Trào”, “Hồng Thái”, “mái đình”, “cây đa” đã trở thành nhân chứng lịch sử
cho thời kì vất vả nhưng hào hùng của cách mạng Việt Nam.
+ Đặc biệt, kết thúc đoạn thơ thứ ba, Tố Hữu nhắc tới ba từ “mình” nghe thật tha thiết và
chân thành. Từ “mình” đầu tiên và thứ hai để chỉ người lính cán bộ, còn từ còn lại để nhắc
chung tới toàn thể nhân dân.
+ Đại từ xưng hô “mình” nhà thơ Tố Hữu sử dụng xuyên suốt đoạn thơ hay cũng là xuyên
suốt toàn bài đã thể hiện sự gắn bó, tình cảm bền chặt, thắm thiết giữa kẻ ở người đi. Cách
xưng hô đó còn gợi người đọc nghĩ về những lời tâm tình thủ thỉ chân thành giữa quân và
dân, giữa người cán bộ cách mạng với đồng bào Việt Bắc nghĩa tình.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Đoạn thơ trên đã ghi vào lòng người biết bao tình cảm tốt đẹp, tình cảm giữa người chiến sĩ
cách mạng và người đồng bào Việt Bắc thật đáng quý, đó không chỉ là tình quân dân mà còn
là tình cảm gắn bó thân thương, đáng trân trọng.
2. Giá trị nghệ thuật
- Đoạn thơ sử dụng ngôn ngữ mộc mạc giản dị, ý thơ cân xứng, hài hòa.
- Với giọng điệu thơ du dương, ngọt ngào, tâm tình như lời ca dao, bộc lộ chân thành tình
cảm sâu nặng của người ở lại và người ra đi.
 Đoạn thơ đã cho thấy “Việt Bắc” chính là khúc tình ca về cách mạng về cuộc sống và con
người kháng chiến.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 9
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 5:
NỖI NHỚ THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƯỜI VIỆT BẮC
TRONG KHÁNG CHIẾN

I. KHÁI QUÁT
- Trong bài thơ, nổi bật lên là các đoạn thơ sau đã khắc họa nỗi nhớ về con người và thiên
nhiên và con người Việt Bắc trong những năm kháng chiến.
II. PHÂN TÍCH
1. Lời đối đáp của người ra đi (câu 1 – 2 – 3 – 4)
- Đoạn thơ tiếp nối những lời nhắn nhủ, tâm tình của người ở lại trao cho người ra đi:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...”
+ Lối đối đáp “mình – ta” cũng trở đi trở lại trong những câu hát huê tình nay Tố Hữu sử
dụng nói tình cảm chính trị, chuyện riêng tư bàn việc chung đã mềm hóa nội dung chính trị.
+ Hai từ láy “mặn mà”, “đinh ninh” khẳng định nghĩa tình đậm đà, bền chặt, trước sau như
một của cách mạng đối với Việt Bắc.
+ Từ láy “đinh ninh” dường như đã ghim chặt vào lòng người đọc một tấm lòng son sắt và
thủy chung trước sau như một.
 Đó là tình cảm hết sức thiêng liêng và cao cả. Dù hôm nay có chia xa để trở về miền xuôi,
thì lòng của người ra đi vẫn không thay đổi.
+ “Mình” với “ta” tuy hai mà một kết hợp cách nói bình dị, sáng tạo nhắc nhớ truyền thống
“uống nước nhớ nguồn” của ông cha làm câu thơ giàu nhạc tính.
+ “Nguồn” là nơi bắt đầu của một dòng sông, con suối vì thế lúc nào cũng tràn đầy, ở đây
được so sánh với “nghĩa tình” đã cho thấy tình cảm lúc nào cũng dạt dào và đong đầy chất
chứa ko bao giờ cạn hao đi.
+ Bao nhiêu nước thì bấy nhiêu nghĩa tình sâu nặng, như nghĩa mẹ tình cha. “Bao nhiêu”
được so sánh với “bấy nhiêu”.
 Đó là cách so sánh giữa một sự vô tận với một sự vô tận. Đọc câu thơ, ta có cảm giác
dường như đó không còn là những dòng chữ im lặng nữa mà là tiếng lòng được thốt lên từ
một trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở người về trong giây phút li biệt.
2. Nhớ về thiên nhiên, núi rừng ở Việt Bắc (câu 5 – 6 – 7 – 8 – 9 – 10)
- Hình ảnh hiện lên đầu tiên, mở màn cho nỗi nhớ Việt Bắc của người ra đi chính là cảnh sắc
của một Việt Bắc thanh bình:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
+ Hình ảnh so sánh “như nhớ người yêu” đã đẩy cảm xúc lên đến độ căng để bộc lộ tình cảm
mãnh liệt, nồng nàn của nỗi nhớ. Tình đồng chí đồng bào đằm thắm nồng nàn trẻ trung như
tình yêu đôi lứa.
+ Nỗi nhớ dung da diết, dạt dào ấy trở về với một không gian, khoảnh khắc thời gian thơ
mộng, trữ tình. Tựa hồ đó là những đêm trăng lên đầu núi, những chiều lắng đọng lưng
nương, phảng phất một không gian hò hẹn của lứa đôi.
+ Người ra đi tiếp tục nhớ về những kỉ niệm trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cùng với
đồng bào Việt Bắc. Nỗi nhớ về bản làng ẩn hiện trong sương khói mờ ảo.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 10
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

+ Trong không gian ấm cúng của ánh lửa, giữa thời gian “sớm khuya” gợi sự tảo tần, bền bỉ,
sự bền chí, vững lòng trong suốt cuộc chiến đấu.
+ Trong tâm trí người ra đi, hình ảnh Việt Bắc nghĩa tình ấy không chỉ hiện lên trong sương
khói mịt mờ mà còn trong những sớm khuya thấp thoáng bóng dáng người thương bên bếp
lửa. Hình ảnh “bếp lửa” đã gợi ra khung cảnh của một mái ấm nơi những đồng bào Việt Bắc
hiện lên trong bóng dáng của những người thân thương nồng đượm nghĩa tình.
+ Khắp mọi nơi đều để lại sợi nhớ, sợi thương hình dáng “người thương đi về”. Cách nói
“người thương” khéo léo, nhiều sức gợi, chứa chan tình cảm dịu dàng mà nồng nàn, yêu
thương.
 Hẳn trong trái tim nhà thơ đã để thương một người con gái Việt Bắc biết hi sinh vì cách
mạng.
+ Từ “nhớ” và cụm từ “nhớ từng” điệp lại nhiều lần trong đoạn thơ cho thấy nỗi nhớ da diết
sâu đậm của người đi không chỉ với những cảnh vật cụ thể, thân thuộc mà còn nỗi nhớ bao
trùm, toàn vẹn với tất cả những gì thuộc về Việt Bắc.
+ Hình ảnh “rừng nứa”, “bờ tre” chính là nơi hẹn hò, gặp gỡ cái thở ban đầu, lúc mới quen
nhau. Đây cũng là những danh từ chung mô tả đặc điểm của không gian Việt Bắc với bao nét
đẹp mơ mộng.
+ Địa danh “ngòi Thia”, “sông Đáy”, “suối Lê” gắn với những sự kiện và dấu ấn cách mạng.
Cái vơi đầy của sông suối cũng là cái vơi đầy của lòng người, của nỗi nhớ thương bắt nhịp
trong tâm trí người ra đi.
3. Nhớ về con người và cuộc sống ở Việt Bắc (câu 11 – 12 – 13 - 14 – 15 – 16 – 17 – 18 –
19 – 20 – 21 – 22)
a. Lời người ra đi đáp lại nghĩa tình của người ở lại (câu 11 – 12 – 13 – 14)
- Bốn câu thơ tiếp theo là lời người ra đi đáp lại nghĩa tình của người ở lại. Giọng thơ tha
thiết, chân thành gợi lên bao nỗi nhớ về những ngày khó khăn gian khổ của ta và mình:
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
+ “Những ngày” ở đây là cách nói chỉ thời gian gắn bó nhớ thương vô vàn giữa người đi kẻ
ở.
 Đó là nỗi nhớ về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” với bao ân tình cao đẹp. Mười
lăm năm ta đã cùng mình gánh vác giang sơn, chịu đựng bao gian khổ, thiếu thốn; đã cùng
nhau đi qua bao biến cố; mười lăm năm ấy giờ đã thành máu thịt trong nhau rồi.
+ Bốn chữ “mình đây, ta đó” gợi lên mối quan hệ gắn bó khăng khít. Chữ “đây”, “đó” chỉ hai
con người liền kề, gần gũi, cùng nhau chung lưng đấu cật, kề vai sát cánh.
+ Thành ngữ “đắng cay ngọt bùi” giàu sức gợi.
 “Đắng cay ngọt bùi” là bốn tính từ chỉ bốn dư vị, bốn giai âm của cuộc sống.
 “Đắng cay ngọt bùi” cũng là ẩn dụ để nói đến những thăng trầm trong cuộc đời mà ta và
mình đã cùng nhau trải qua.
 “Đắng cay” là để chỉ những gian khổ, mất mát, hi sinh; “ngọt bùi” chỉ niềm vui, hạnh
phúc, vinh quang.
 Ý thơ thể hiện ý nghĩa sâu xa: ta đã cùng mình trải qua những thăng trầm, trải qua bao
gian khó, bao buồn vui, ngọt bùi cay đắng, cùng nhau đi qua vinh nhục… nên đã thấu hiểu,
đồng cảm với nhau. Từ đây ta và mình đã mãi mãi trở thành tri kỉ.
+ Các hình ảnh “chia củ sắn”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng” kết hợp ba động từ
“chia”, “sẻ”, “đắp” đã cụ thể hoá tình đoàn kết, hữu ái giai cấp, gắn bó sâu sắc, chân thành
giữa cách mạng và nhân dân. Đó cũng là những động từ bộc lộ tình cảm đồng cam cộng khổ
của Việt Bắc và cách mạng.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 11
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

+ Nhớ những ngày đói kém, ta cùng mình chia bùi sẻ ngọt: đói ăn ta có củ sắn chia đôi, bát
cơm sẻ nửa; nhớ mùa đông lạnh giá, ta đã cùng mình đắp chung một mảnh chăn sui. Thế mà
cùng nhau đi qua bao gian khó.
 Đó là tình cảm thuỷ chung, gắn bó được chưng cất qua thời gian dài mà ta cùng mình
chung lưng đấu cật, có phúc cùng hưởng, có hoạ cùng chia. Tình cảm ấy là muôn đời không
thời gian nào có thể làm cho phai mờ.
b. Nỗi nhớ trải dài qua khắp núi rừng Việt Bắc rộng lớn, để rồi quy tụ về những kỉ niệm
(câu 15 – 16)
- Nhà thơ gợi ra hình ảnh người mẹ của nhân dân, người mẹ nuôi bộ đội với hình ảnh gần gũi
và rất đỗi thiêng liêng:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”
+ Hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng” gợi cho người đọc liên tưởng đến thiên nhiên Việt
Bắc vô cùng khắc nghiệt:
 Nắng thì đến cháy lưng, mà rét thì như cắt da cắt thịt.
 Hai chữ “cháy lưng” nhói lên nỗi xót thương vô hạn của tác giả đối với những bà mẹ Việt
Bắc.
+ Hai hình ảnh “địu con”, “bẻ từng” qua hai động từ “địu” với “bẻ” cũng gợi lên sự tần tảo,
cần cù lao động, vất vả gian khổ của bà mẹ nuôi trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang
chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Người mẹ không quản ngại thời tiết khắc nghiệt, dữ dội “nắng
cháy lưng” vẫn cần mẫn vừa địu con vừa lao động.
+ Hình ảnh “bẻ từng” gợi ra dáng vẻ người mẹ đang cặm cụi lao động, mẹ đang chắt chiu,
dành dụm từng hạt bắp làm lương thực nuôi quân. Đó là những ân tình không thể nào quên
trong kí ức của người về.
c. Những kỉ niệm, những sinh hoạt ở Việt Bắc (câu 17 – 18 – 19 – 20 – 21 – 22)
- Tiếp nối trong dòng chảy kí ức dạt dào, thiết tha ấy, nhà thơ Tố Hữu gợi ra một bức tranh
Việt Bắc với khung cảnh, với nhịp sống, âm thanh quen thuộc:
“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya thắp sáng những giờ liên hoan”
+ Người ra đi không chỉ nhớ những hình ảnh của cuộc sống đói nghèo hay gian nan vất vả,
tâm trí họ còn in đậm những kỉ niệm đẹp đẽ, thân thương những nếp sống yên bình thơ mộng
của cuộc sống núi rừng thời kháng chiến.
+ Cán bộ cách mạng đến vùng cao đâu chỉ gây dựng kháng chiến mà còn gieo chữ xuống bả,
đem ánh sáng văn hóa xuống làng.
+ Các lớp bình dân học vụ, xóa mù chữ được mở ra khắp các bản làng.
+ Hình ảnh “đồng khuya đuốc sáng” cho thấy sự rộn ràng, vui tươi của khung cảnh lớp học
dạy chữ cho người dân Việt Bắc. Họ cùng nhau học, cùng nhau liên hoan, gắn bó như cá với
nước.
+ Cuộc sống nơi chiến khu không chỉ có niềm hạnh phúc chinh phục chân trời tri thức mà
còn đầy ắp niềm vui trong sinh hoạt tập thể.
- Những kỉ niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra trong tưởng tượng của người
đi:
“Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...”
+ Tác giả sử dụng điệp ngữ “nhớ sao” là nỗi nhớ đầy cảm xúc cùng với đó là những hoạt
động ở chiến khu Việt Bắc.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 12
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

+ Cụm từ “ngày tháng cơ quan” cho thấy một cách nói vui hóm hỉnh, lạc quan. Những người
cán bộ dù trong hoàn cảnh khó khăn của núi rừng vẫn luôn giữ được tâm thế lạc quan, vui
tươi của một người chiến sĩ cách mạng cụ Hồ trên rừng núi Việt Bắc.
+ “Ca vang núi đèo” được xem là lời thơ mang tính chất ẩn dụ, phản ánh tinh thần lạc quan,
tình cảm đoàn kết gắn bó giữa cách mạng và người dân Việt Bắc. Dù bom đạn, chiến tranh,
đau thương, gian khổ, quân và dân vẫn gắn bó với nhau trong khúc nhạc hân hoan, rộn ràng.
+ “Tiếng mõ rừng chiều” gợi hình ảnh từng đàn trâu, đàn bò từ rừng núi thong thả trở về bản
làng, tiếng mõ vang vọng, rộn ràng cả buổi chiều sơn cước.
+ Mỗi đêm khuya thanh vắng, âm thanh “chày đêm nện cối” từ “suối xa” vẫn đều đều vỗ về
trong giấc ngủ.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Các đoạn thơ trên là những đoạn thơ tiêu biểu cho nghĩa tình cao đẹp giữa cán bộ và nhân
dân Việt Bắc.
- Những đoạn thơ ấy đã khơi dậy kỉ niệm mười lăm năm gắn bó keo sơn bền chặt với bao vất
vả gian lao thiếu thốn nhưng luôn đầy lạc quan, tin yêu.
- Qua đó, người về cũng tự nhắc nhở mình đừng quên cội quên nguồn.
2. Giá trị nghệ thuật
- Bằng thể thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển; hình ảnh trong sáng giản dị, gợi cảm, đoạn
thơ đã tạo nên sức hấp dẫn đối với bạn đọc.
 Đọc đoạn thơ, ta thấy bịn rịn một tấm lòng nhớ thương da diết vô hạn.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 13
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 6:
NHỚ VỀ BỨC TRANH TỨ BÌNH SINH ĐỘNG

I. KHÁI QUÁT
- Có thể nói, kết tinh của tác phẩm được lắng đọng trong đoạn thơ sau đã diễn tả nỗi nhớ của
người về xuôi với cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hòa quyện thành bức tranh tứ bình.
II. PHÂN TÍCH
1. Lời ướm hỏi của người ra đi
- Hai câu thơ mở đầu mang đến cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Đó là cảm xúc nhớ
nhung không nguôi về Việt Bắc:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”
+ Điệp ngữ “ta về” mở đầu cho hai câu thơ như đặt ra những nỗi niềm của người từ giã.
+ Điệp từ “ta” lặp lại bốn lần cùng với âm “a” là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân
xa tha thiết nồng nàn.
+ Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”, câu thơ thứ hai là tự trả lời.
+ Cái đẹp của câu thơ là hình ảnh “hoa cùng người”, phải chăng con người cũng là một bông
hoa trong vườn hoa Việt Bắc:
 “Hoa” là ẩn dụ cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc.
 Còn “Người” là vẻ đẹp của con người lao động nơi đây.
 Hình ảnh tạo nên nét hài hòa giữa thiên nhiên và con người, hoa và người khi hòa vào
nhau, khi tách biệt để tôn lên vẻ đẹp của nhau.
+ Chữ “cùng” trong “nhớ những hoa cùng người” rất sáng tạo:
 Nó gợi lên nỗi nhớ lắng sâu da diết.
 Nỗi nhớ cùng lúc đồng hiện hoa và người.
 Nhớ hoa thì trong hoa lấp lánh bóng người, mà nhớ người thì trên khuôn mặt người lấp
lánh bóng hoa.
2. Bức tranh cụ thể của quê hương Việt Bắc trong nỗi nhớ của người ra đi
a. Bức tranh mùa đông ấm áp, lắng dịu
- Những nét vẽ đầu tiên cho bức tranh tứ bình trong bài thơ là khung cảnh mùa đông đẹp đẽ,
tràn đầy sức sống nơi núi rừng Tây Bắc của Tổ quốc:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
+ Thiên nhiên Việt Bắc mở ra khiến cho người đọc ngẩn ngơ, bởi vẻ đẹp rất trữ tình của núi
rừng Tây Bắc.
+ Màu “xanh” của núi rừng Việt Bắc, màu “đỏ tươi” của hoa chuối như những ngọn lửa thắp
sáng rừng xanh.
+ Cái màu “đỏ tươi” là gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi
rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống,
xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng.
+ Hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi” là hình ảnh đặc trưng của rừng núi Việt Bắc vào mùa đông,
nó giống như ngọn đuốc, đốm lửa rực rỡ thắp sáng bức tranh mùa đông, xua tan đi cái u tối,
lạnh lẽo của núi rừng nơi đây:
 Cả không gian như được sưởi ấm.
 Tô điểm thêm nét đẹp đặc trưng của mùa Đông Việt Bắc.
+ Màu “xanh” của rừng, màu “đỏ tươi” của hoa chuối, màu sáng lấp lánh của “nắng ánh” từ
con dao; màu sắc ấy hòa hợp với nhau, làm nổi bật sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của thiên
nhiên Việt Bắc, của con người Việt Bắc đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời trong
kháng chiến.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 14
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

+ Đằng sau bức tranh mùa đông ấy, ẩn hiện lên hình ảnh người nông dân lao động leo lên đèo
cao để đi làm nương rẫy:
 Một hình ảnh khỏe khoắn của người lao động như được tỏa sáng, rực rỡ hơn.
 Tố Hữu đã có một cái nhìn phát hiện về sức mạnh tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân
ta do cách mạng và kháng chiến mang lại.
 Người lao động sản xuất thì hào hùng đứng trên “đèo cao” ngập nắng và lộng gió.
+ Tố Hữu sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, ông không dùng “ánh nắng” là một danh từ mà lại
dùng “nắng ánh” là một động từ, nhằm làm cho hình ảnh người lao động đẹp và rực rỡ hơn.
+ Trên cái nền thiên nhiên vào đông ấy, hình ảnh con người hiện lên thật khỏe khoắn, mạnh
mẽ và đầy chủ động “dao gài thắt lưng”:
 Hình ảnh người đi nương đi rẫy “dao gài thắt lưng” trong tư thế mạnh mẽ hào hùng đứng
trên đèo cao.
 Con người ở đây được đặt trong không gian thiên nhiên rộng lớn, bao la, kì vĩ song vẫn
nổi bật lên một cách vững chãi, sánh ngang với tầm vóc thiên nhiên.
b. Bức tranh mùa xuân rực rỡ, chói chang
- Không chỉ là khung cảnh Việt Bắc vào đông mà hình ảnh vào xuân của thiên nhiên Việt Bắc
cũng được tác giả miêu tả một cách sinh động, độc đáo:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
+ Cùng với sự chuyển mùa là sự chuyển màu trong bức tranh, đông qua, xuân lại tới. Nhắc
đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa
mình thức dậy sau mùa đông dài.
+ Động từ “nở” như sự lan tỏa của sắc trắng, lấn át mọi sắc xanh của lá rừng, tạo nên một
không gian trong lành, dịu mát của hoa mơ, khiến bức tranh trở nên thanh khiết hơn, trữ tình
hơn.
+ Hoa mơ chính là dấu hiệu báo trước khi mùa xuân tới, bởi loại hoa này thường chỉ ra vào
mùa xuân, giống như hoa đào và hoa mai.
+ Cụm từ “trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ có
tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và
làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ:
 Cái đẹp, cái quyến rũ của thiên nhiên dường như được tăng lên bội phần bởi chính cảm
xúc trầm trồ, ngưỡng mộ của tác giả qua cách sử dụng từ “trắng rừng”.
 Trên cái nền xao xuyến ấy của thiên nhiên, hình ảnh con người hiện lên thật lặng lẽ.
+ Người đan nón được nhà thơ nói đến tiêu biểu cho vẻ đẹp tài hoa, tính sáng tạo của đồng
bào Việt Bắc. Mùa xuân Tây Bắc, Tố Hữu nhớ đến hình ảnh “người đan nón” với động tác
“chuốt từng sợi giang” thật gần gũi.
+ Từng động tác “chuốt từng sợi giang” vừa gợi sự cẩn trọng, tỉ mỉ vừa gợi sự khéo léo, tài
hoa của những người lao động Việt Bắc. Dường như, bao nhiêu yêu thương, bao nhiêu ân
tình được người lao động gửi trọn vào trong đấy:
 Động từ “chuốt” kết hợp với trợ từ “từng” đã thể hiện bàn tay khéo léo, tỉ mỉ, và tài hoa
của người lao động.
 Động từ “chuốt” như thổi hồn vào bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc, tạo nên sự hòa hợp
thiên nhiên và con người. Đó cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt
Bắc hào hùng nhưng cũng rất hào hoa.
c. Bức tranh mùa hè rộn ràng, náo nức
- Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao
giờ hết:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 15
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

+ Xuân sang hè đến rực rỡ, muôn màu sắc và âm thanh. Là tiếng ve kêu rộn ràng, như một
bản đàn chào đón mùa hè, cùng với đó là sắc rực rỡ của “rừng phách đổ vàng”.
+ Tiếng ve kêu vàng giữa “rừng phách” đã làm nên cái động giữa muôn vàn cái tĩnh:
 Màu vàng của rừng phách là đặc trưng báo hiệu mùa hè về trên xứ sở vùng cao.
 Tiếng ve như xé tan sự yên tĩnh của núi rừng, đánh thức sự bình yên nơi đây. 
+ Động từ “đổ” là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè:
 Chữ “đổ” được tác giả sử dụng thật tinh tế, gợi nên sự căng tròn, tràn trề và cả nguồn
sống rạo rực.
 Tiếng ve kêu như trút xuống “đổ” xuống thúc giục ngày hè trôi nhanh, làm cho rừng
phách thêm vàng.
+ Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả
tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ
lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh.
+ Cách gọi “cô em gái” thể hiện sự trân trọng, yêu thương của tác giả với con người Việt
Bắc.
+ Hình ảnh “cô gái hái măng một mình” thể hiện sự chăm chỉ, chịu thương chịu khó lặng
thầm cống hiến cho đất nước, cho kháng chiến của con người Việt Bắc.
+ Hình ảnh “hái măng một mình” không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng
dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha
thiết:
 Hai chữ “một mình” giàu sức gợi, nó gợi lên dáng vẻ con người lao động cặm cụi, siêng
năng, chịu thương chịu khó của cô gái.
 Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.
d. Bức tranh mùa thu êm ái, ngọt ngào
- Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung
linh dịu mát:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
+ Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo
lung linh, dịu mát.
+ “Trăng rọi hòa bình” là hình ảnh gợi tới ngày mai tươi sáng. Có thể nói, đây là một hình
ảnh thơ được tạo nên bởi sự hòa quyện giữa cảm hứng thiên nhiên và cảm hứng lịch sử.
+ Người cán bộ kháng chiến về xuôi nhớ vầng trăng Việt Bắc giữa rừng thu, trăng “rọi” qua
tán lá rừng xanh, trăng thanh mát rượi màu “hòa bình” nên thơ.
+ “Ai” là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, “nhớ ai” là nhớ về tất cả, về mọi người dân Việt Bắc
giàu tình nghĩa thủy chung, đã hi sinh quên mình cho cách mạng và kháng chiến.
+ Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại
đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc những rung
động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Đoạn thơ trên là bộ tranh tứ bình tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
- Bức tranh thơ lãng mạn hài hòa, giàu sức sống, mỗi bức tranh là một thế giới sắc màu đẹp
đẽ.
2. Giá trị nghệ thuật
- Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị vừa cổ điển vừa hiện đại đoạn thơ trên của Tố Hữu
đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc.
- Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân
quen sống động và có hồn hơn.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 16
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

 Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ
về xuôi.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 17
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

CHUYÊN ĐỀ II:
THƠ CA KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ (1965 – 1973)

CHỦ ĐỀ 3:
SÓNG (Xuân Quỳnh)

TIẾT 7:
TÌM HIỂU VỀ NHÀ THƠ XUÂN QUỲNH VÀ BÀI THƠ “SÓNG”

I. NHÀ THƠ XUÂN QUỲNH (1942 – 1988)


1. Cuộc đời
- Xuân Quỳnh tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, quê ở Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
- Xuất thân từ một gia đình công chức, mồ côi mẹ từ nhỏ, Xuân Quỳnh ở với bà nội.
2. Sự nghiệp sáng tác
- Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì
chống Mĩ.
3. Phong cách nghệ thuật
- Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi
tắn, vừa chân than, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời
thường.
II. BÀI THƠ “SÓNG” (1967)
1. Hoàn cảnh sáng tác
- “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái
Bình).
2. Chủ đề
- “Sóng” là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân
Quỳnh.
3. Xuất xứ
- Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 18
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 8:
NHẬN THỨC VỀ TÌNH YÊU QUA HÌNH TƯỢNG “SÓNG”

I. KHÁI QUÁT
- Trong hai khổ thơ sau, tác giả Xuân Quỳnh không chỉ thể hiện được những trạng thái đối
lập của cảm xúc trong tình yêu mà còn là những khát khao vươn tới những điều vĩ đại, cao
cả.
II. PHÂN TÍCH
1. Những đặc tính của sóng và trạng thái trong tình yêu (khổ thơ thứ nhất)
- Xuân Quỳnh đã bắt đầu thi phẩm này một cách vô cùng tinh tế:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
+ “Dữ dội” nhưng cũng “dịu êm”, “ồn ào” nhưng cũng lại “lặng lẽ”. Đó là những sắc thái của
con sóng nơi đại dương và cũng là sắc thái của người con gái trong tình yêu.
+ Nhà thơ mượn con sóng tự nhiên để nói thay sóng lòng. Nếu sóng biển lúc dịu êm, lúc dữ
dội thì trái tim người phụ nữ đang yêu cũng có lúc êm đềm, có khi lại giông tố.
 Sự tinh tế của nhà thơ không chỉ biểu hiện ở phép ẩn dụ mà còn được thể hiện ở cách sử
dụng từ ngữ.
+ Hai từ “dữ dội”, “ồn ào” miêu tả cảnh “sóng” lúc phong ba bão tố: “sóng” dữ dằn không
ngừng uốn lượn, phóng lên cao và liên tục gầm gào tạo ra những bọt tung trắng xóa.
+ Hai hình ảnh “dịu êm”, “lặng lẽ” là cảnh “sóng” lúc trời trong, gió thoảng: “sóng” nhấp nhô
dịu dàng, nhẹ nhàng, êm ả vỗ vào bờ cát như thầm lặng một nỗi niềm.
+ Khi yêu người con gái cũng có lúc khát khao cháy bỏng không kìm nén được cảm xúc của
mình nên bộc lộ ra bên ngoài bằng sự cuồng nhiệt, sôi nổi, “dữ dội” đến “ồn ào”. Nhưng
cũng có lúc cảm xúc ấy lắng sâu vào bên trong bằng sự “dịu êm”, “lặng lẽ”, nồng nàn của
nhớ thương.
+ Và đôi khi tình cảm ấy ở người con gái cũng có sự đảo ngược. “Dịu êm”, “lặng lẽ” bình
tĩnh đến phớt lờ ở bên ngoài và cháy bùng ngọn lửa yêu thương đang khao khát “dữ dội” đến
“ồn ào” ở bên trong. 
+ Cách ngắt nhịp câu thơ 2/3 đều đặn, nhịp nhàng tạo nên âm điệu của những con sóng gối
lên nhau vô hồi, vô hạn vỗ vào bờ.
+ Cách sử dụng liên từ “và” cho thấy những trạng thái đối lập này luôn tồn tại trong một thể
thống nhất không mâu thuẫn mà đan xen vận động chuyển hóa không ngừng. Những trạng
thái đối nghịch của sóng cũng chính là những biến động khác thường những cảm xúc đa dạng
trong trái tim người phụ nữ.
+ Hình ảnh nhân hóa “sóng” tìm ra tận bể gợi người đọc liên tưởng đến hành trình tìm đến
cái rộng lớn bao la của sóng:
+ Những hình ảnh “sông”, “sóng”, “bể” miêu tả hành trình, quy luật của sóng đi từ sông ra
biển cả.
+ “Sông” tượng trưng cho sự bé nhỏ, chật chội, “bể” là hình ảnh của sự rộng lớn, không
cùng. “Sông” dẫu dài, rộng đến đâu cũng chưa thể là nơi để “sóng” thỏa sức vẫy vùng.
+ Dòng sông chật hẹp không chứa nổi sự xoay trở của sóng. Sóng sẽ từ bỏ không gian chật
hẹp ấy để đến với cái bao la khoáng đạt của biển cả một cách tự tin, chủ động.
+ Với đặc tính “dữ dội”, “ồn ào” và “dịu êm”, “lặng lẽ” thì “sóng” chỉ có “tìm ra tận bể” bao
la để hiểu rõ mình hơn.
+ Biện pháp nhân hóa “sông không hiểu” và “sóng tìm ra” cho thấy sóng khát khao mạnh mẽ
được vẫy vùng trong một không gian dào dạt, mênh mông.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 19
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

+ “Hiểu nổi mình” là khát vọng muôn đời của con người, để hiểu được mình thì cần đặt bản
thân trong phạm vi rộng lớn của cuộc đời, nơi chứa đựng những điều bí ẩn , kích thích sự tò
mò, khám phá và tìm hiểu của con người.
+ Động từ “tìm” cùng với giới hạn “tận bể” cho thấy sự kì công, quyết tâm và khao khát bứt
phá của sóng. Khát vọng bứt phá của sóng cũng chính là khát vọng đi tìm hạnh phúc tình yêu
của trái tim em.
+ Tác giả đã khéo léo sử dụng động từ “tìm” trong việc nhân hóa con sóng đã cho ta thấy
được sự chủ động của con sóng, con sóng chủ động chối bỏ những phạm vi chật hẹp “sông”
để vươn tới những phạm vi rộng lớn bao la “bể”.
+ Từ “tận” mang sắc thái biểu trưng cho xa xôi, khó khăn. Soi chiếu đối sánh với sóng ta thấy
được hành trình gian nan, xa xôi, trắc trở của người phụ nữ khi kiếm tìm tình yêu đích thực
của cuộc đời mình.
 Người con gái đang yêu luôn nhận thức được những biến động khác thường của lòng
mình, muốn vượt qua cái tôi hạn hẹp cá nhân không chấp nhận một tình yêu ích kỉ tầm
thường mà muốn vươn tới một tình yêu lớn đẹp đẽ, đích thực, bao dung.
2. Giãi bày nỗi khát vọng tình yêu luôn rạo rực trong trái tim nhà thơ (khổ thơ thứ hai)
- Khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã phát hiện ra quy luật của sóng cũng là quy luật của tình yêu con
người:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày nay vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
+ Lúc này trong tâm hồn và trái tim người phụ nữ đang chan chứa biết bao hạnh phúc, bao
ước niệm tươi đẹp về tình yêu. Thán từ “ôi” ở ngay câu đầu của đoạn thơ đủ cho ta thấy được
xúc cảm dâng trào nổi trội trong lòng nhà thơ.
+ Bằng những cụm từ chỉ thời gian “ngày xưa”, “ngày sau”, tác giả Xuân Quỳnh đã khẳng
định những đặc điểm, trạng thái của sóng đã có từ ngàn đời, bất biến qua thời gian.
+ Trạng từ “vẫn thế” theo cùng để một lần nữa khẳng định chắc nịch hơn chân lí đó mãi
không đổi thay. 
+ Bởi tình yêu cho con người ta sức hút diệu kì. Những từ “khát vọng”, “bồi hồi” và hình ảnh
“trong ngực trẻ” đã diễn tả thật mãnh liệt một trái tim với những nhịp đập dồn dập vì khát
khao, một tâm hồn đang rạo rực niềm đam mê tình yêu của tuổi trẻ.
+ “Khát vọng tình yêu” là khát vọng vĩnh hằng muôn thuở biết bao nhiêu thế kỉ đã qua con
người đã đến và sống mà không thể thiếu tình yêu. Tình yêu khiến con người ta trẻ mãi, tái
sinh như con sóng biển ào lên rồi lại tan ra hòa nhập vào biển cả.
+ Từ láy “bồi hồi” khéo léo được đặt đầu dòng thơ nhấn mạnh cảm giác đắm chìm, si mê, rạo
rực trong tình yêu. Yêu và được yêu là quãng thời gian đẹp nhất của cuộc đời mỗi người.
+ Tình yêu cũng giống như ước mơ vậy, làm cho ta “trẻ” mãi, không phải là đôi mắt không
mờ hay làn da không hằn vết chân chim, mà ta khỏe và trẻ trong tâm hồn, một tâm hồn rạo
rực và giàu sức sống. Tình yêu chính là không có tuổi như thế, và người biết giữ tình yêu
luôn cháy chính là giữ mãi cho mình một sức sống bền bỉ dẻo dai.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Hai khổ trên giống như khúc nhạc dạo đầu, đã mở ra toàn bộ mạch cảm xúc của bài thơ
“Sóng”, đồng thời gợi cho người đọc những cảm nhận mới lạ bởi cách diễn đạt trẻ trung, mà
vô cùng sâu sắc, đậm chất thơ Xuân Quỳnh.
2. Giá trị nghệ thuật
- Bằng hình tượng sóng đầy đặc sắc, Xuân Quỳnh đã mang đến hơi thở đầy mới mẻ cho thơ
tình Việt Nam, tình cảm nhẹ nhàng đầy nữ tính trong sóng cũng như bông hoa dọc chiến hào
có thể làm dịu đi cái khốc liệt của chiến tranh, làm đắm say độc giả bao thế hệ.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 20
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 9:
LÒNG THỦY CHUNG SON SẮT CỦA NGƯỜI CON GÁI TRONG TÌNH YÊU

I. KHÁI QUÁT
- Có thể nói rằng tình cảm sâu đậm, đáng trân quý của người phụ nữ trong tình yêu được thể
hiện rõ nét nhất trong hai khổ thơ sau của bài thơ.
II. PHÂN TÍCH
1. Sự thủy chung trong tình yêu (khổ thơ thứ sáu)
- Quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh rất mới mẻ nhưng vẫn có gốc rễ rất sâu của đạo lý
truyền thống:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
+ Nhà thơ sử dụng nghệ thuật điệp cấu trúc “dẫu…về” nhằm khẳng định sự mạnh mẽ, táo bạo
và chân thành của người phụ nữ khi yêu. Dù có phải trải qua tất cả những thay đổi thăng
trầm, người phụ nữ vẫn luôn thủy chung với tình yêu và hạnh phúc với sự lựa chọn của mình.
+ Cuộc đời luôn ẩn chứa nhiều biến động, không ai có thể biết trước được những điều sẽ xảy
ra trong tương lai. Nhưng dù có “xuôi về phương Bắc” hay “ngược về phương Nam” thì tấm
lòng của em vẫn không thay đổi.
+ Tác giả đã sử dụng phép đối lập giữa “Bắc và Nam”, giữa “xuôi và ngược” để thể hiện nỗi
nhớ và tình yêu tha thiết của cô gái với chàng trai. Có thể nói dù ở bất cứ nơi đâu, dù có
muôn vàn những khó khăn, cách trở thì người con gái ấy vẫn thủy chung, son sắt một lòng
với người mình yêu thương.
+ Nhà thơ đặt khái niệm phương anh cạnh phương Bắc, Nam tách biệt không gian địa lí và
tình yêu. Nếu trong địa lí bốn phương tám hướng con người dễ lạc lối thì trong tình yêu,
“em” chỉ hướng về một phương “anh”,
+ Các điệp cấu trúc “dẫu…về”, “dẫu…về”, điệp từ “phương” đã liên kết với các từ ngữ “em
cũng nghĩ”, “hướng về anh” làm cho niềm tin đợi chờ trong tình yêu được khẳng định một
cách mạnh mẽ.
+ Dù cuộc đời có luôn biến chuyển không ngừng, đôi ta phải trả qua nhiều sóng gió, vạn vật
có luôn đổi thay. Thì đối với “em”, ở bất cứ “nơi nào” – cụm từ phiếm chỉ, không xác định rõ
không gian, thời gian, vẫn hướng về “phương anh” – một phương duy nhất. Tấm lòng của
“em” vẫn luôn nguyên vẹn dành cho “anh”, hướng đến “anh”.
+ Lòng sắt son dẫn nhân vật “em” vượt trùng cách trở đổ về bến bờ hạnh phúc như sóng chỉ
hướng đến đích cuối cùng là bờ. Tác giả nhìn sâu vào lòng mình để nắm bắt quy luật của
sóng.
+ Từ “nghĩ” không chỉ nhấn mạnh tới suy nghĩ đơn thuần trong đầu óc con người mà nhắc tới
cả ý chí, niềm tin và khát vọng.
+ Dấu gạch ngang đặt giữa câu thơ, tách hai chữ “một phương” riêng thành một vế. Chữ
“một” đã thể hiện một tình yêu sắt son thủy chung. Chính điều đó đã tạo nên điểm nhấn, sâu
lắng, nồng nàn của xúc cảm thơ.
 Xuân Quỳnh quả thực đã rất tự tin và chân thành bày tỏ tình cảm thủy chung của mình
trước anh. Đó là sự tự tin của người phụ nữ bản lĩnh dám yêu và cũng dám đi đến tận cùng để
đạt tình yêu của cuộc đời.
2. Tình yêu sẽ chiến thắng mọi thử thách của cuộc sóng (khổ thơ thứ bảy)
- Cuối cùng, sức vượt trùng khơi của con sóng để tìm về bờ đã chiến thắng tất cả:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 21
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

Dù muôn vời cách trở”


+ Giữa biển khơi, giữa đại dương mênh mông, xanh thẳm, có biết bao con sóng được tạo nên
từ gió. Gió tạo nên sóng nhưng chính gió cũng làm cho sóng tan nát, xê dịch vì sức gió quá
mạnh. Nhưng dù bao khó khăn, dù mưa giông bão táp thì sóng vẫn vươn mình lên để vượt
qua tất cả mà chạy đến bên bờ để vỗ về, để hòa nhập.
+ Những từ “trăm ngàn”, “chẳng”, “dù” cùng với kết cấu quan hệ trái ngược giữa điều kiện
và sự việc, Xuân Quỳnh đã bộc lộ niềm tin về bến đỗ của tình yêu đích thực, của hạnh phúc
sau những trắc trở đắng cay.
+ Ở ngoài đại dương xa xôi đó, có trăm ngàn con sóng vỗ nhưng cuối cùng, con sóng nào
cũng tìm được đến bến bờ của mình. Cũng giống như “em” và “anh, dù cuộc đời phải trải qua
muôn ngàn sóng gió, có đôi lúc phải cách xa nhau thì đến cuối cùng, “em” và “anh” vẫn sẽ
gặp lại nhau.
+ Hình ảnh ước lượng “trăm ngàn con sóng” vượt mọi khoảng cách đến bờ, khơi dậy trong
lòng thi sĩ sự tin tưởng vào tình yêu đôi lứa là hành lí, đưa con người đến cái đích cuối cùng
của cuộc đời, có thể vượt lên những giới hạn của đời sống.
 Đó không phải suy nghĩ nông nổi, bồng bột mà là sự nhận thức về quy luật, chân lí của đời
sống nên nó trong sáng, trọn vẹn và tha thiết, cháy bỏng.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Qua hai khổ thơ trên, Xuân Quỳnh đã khắc họa lòng thủy chung tuyệt đối trong tình yêu.
- Hai khổ thơ ấy nói riêng và cả bài thơ nói chung đã để lại trong lòng người đọc một ấn
tượng sâu sắc, khó phai.
2. Giá trị nghệ thuật
- Cách xây dựng hình tượng tài tình, kết hợp ngôn từ sống động và thể thơ năm chữ mang
giọng điệu linh hoạt, giúp người đọc cảm thấu bản tâm phức tạp của người con gái khi yêu
trong hành trình thức nhận những quy luật tình yêu chính đáng, ngợi ca tiếng nói nhân bản
của con người.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 22
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 10:
KHÁT VỌNG VỀ TÌNH YÊU VĨNH CỬU, BẤT DIỆT

I. KHÁI QUÁT
- Nổi bật nhất trong bài thơ là hai khổ thơ sau thể hiện khát vọng được hiến dâng, hi sinh cho
tình yêu của người phụ nữ khi yêu.
II. PHÂN TÍCH
1. Nhà thơ thấm thía nỗi lo âu, buồn bã về sự trôi chảy của thời gian và cái hữu hạn của
cuộc đời, nhất là của tình yêu (khổ thơ thứ tám)
- Người phụ nữ vốn rất nhạy cảm, đặc biệt là trong tình yêu, họ luôn mang trong mình những
dự cảm lo âu:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
+ Thời gian và không gian được đặt trong hai bình diện đối lập: “cuộc đời” và “năm tháng”;
“biển cả” và “mây trời”.
+ Những hình ảnh như “cuộc đời”, “biển” như thầm nhắc đến sự dài rộng bao la của cuộc
đời, của đất trời cùng những trở ngại, khó khăn mà con người phải đối diện trong tình yêu.
Nói đến khó khăn, nói đến trở ngại trong tình yêu, đó cũng là một cách để qua đó nhà thơ
khẳng định một sự thực ở đời rằng: dẫu có thử thách, gian truân đến đâu, không có khoảng
cách, chẳng có giới hạn nào con người không thể vượt qua, không thể làm chủ.
+ Cuộc đời chẳng biết bao nhiêu là dài, nhưng ắt hẳn đối với tình yêu, yêu hết mình qua bao
nhiêu ngày tháng thì chắc hẳn là rất dài.
 Trước mắt đây sẽ là biết bao khó khăn, hình ảnh của biển được nhà thơ sử dụng để bổ
sung cho từ “dài” của cuộc đời ấy.
 Rất dài và rất rộng, thế nhưng mây vẫn trôi, vạn vật vẫn sinh tồn và tình yêu đôi ta cũng
sẽ được trường tồn theo thời gian.
 “Cuộc đời” chỉ quỹ thời gian ngắn ngủi của mỗi kiếp người, “năm tháng” là hoán dụ cho
dòng thời gian vô thủy vô chung.
+ Nhà thơ đã rất khéo léo khi mượn hình ảnh ẩn dụ “biển cả” và “mây trời” để nói lên cảm
xúc lo âu của mình. “Biển cả” là một không gian mênh mông nhưng vẫn chỉ là hữu hạn, còn
“mây trời” lại gợi sự phiêu du trong vũ trụ vô cùng vô tận.
+ “Cuộc đời” và “biển cả” cũng không chỉ là cái dài cuộc đời, cái rộng của không gian mà nó
còn là khoảng cách, là trở ngại.
+ Đối với Xuân Quỳnh, dù biển kia có “rộng” lớn bao nhiêu, bao dung đến mấy như tình yêu
của người thi sĩ thì áng mây là tình yêu nhỏ bé mong manh vẫn có thể “bay về xa” mãi mãi.
Tâm hồn người phụ nữ khi yêu là thế, dù có đang hạnh phúc bao nhiêu, say đắm bao nhiêu
vẫn mang một chút trắc trở và hoài nghi về sự bền vững của tình yêu.
+ “Năm tháng” và “mây trời” là hai ẩn dụ nói về tình yêu, một tình yêu đẹp hướng tới hạnh
phúc. “Năm tháng” và “mây trời” không chỉ là thời gian rộng lớn, không gian mênh mông mà
nó còn là tượng trưng cho sức mạnh vô hạn.
+ Điệp từ “vẫn” biểu lộ một niềm tin về tình yêu.
+ Các từ ngữ “vẫn đi qua”, “vẫn bay về xa” là sự kết đọng “đinh ninh lời thề” của một tình
yêu đẹp.
2. Nhà thơ ước vọng một tình yêu bất tử vĩnh hằng (khổ thơ cuối)
- Từ sự lo âu về sự bền vững trong tình yêu mong manh, nhà thơ bày tỏ niềm khát khao mãnh
liệt muốn sống hết mình với tình yêu vĩnh hằng:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 23
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

Giữa biển lớn tình yêu


Để ngàn năm còn vỗ”
+ Phải làm sao, làm sao để có thể tan thành từng con sóng, từng con sóng ngày đêm vỗ bờ,
cất lên tiếng lòng của tình yêu, cất lên khúc nhạc của những thương yêu. “Làm sao” chỉ hai từ
thôi mà chứa đựng cả một khát khao đầy cháy bỏng, một mong muốn đầy thiết tha là có được
tình yêu vẹn tròn, say đắm.
+ “Tan ra” không phải là mất đi, không phải vào cõi hư vô mà đó là khát vọng được hóa thân
vào sóng để được hòa cùng cái vô tận của không gian biển cả, của cái vô cùng của ngàn năm:
 Khát vọng ấy là khát vọng muốn vĩnh viễn hóa tình yêu, muốn bất tử hóa tình yêu, muốn
dùng tình yêu để nối dài cuộc đời với sự ngắn ngủi và hữu hạn của cuộc đời con người.
 Khát vọng ấy còn gợi nhớ đến hình ảnh nàng tiên cá hóa thân thành bọt biển để người yêu
mình được hạnh phúc trọn vẹn.
+ Sóng trên đại dương trường tồn bất diệt. “Trăm con sóng nhỏ” rì rào vỗ, xôn xao reo “giữa
biển lớn tình yêu” mang vẻ đẹp nhân văn cao quý của tình yêu. Đó là niềm ước mong của
thiếu nữ được sống trong hạnh phúc bền vững như những con sóng vỗ mãi trên “biển lớn tình
yêu” đến ngàn năm sau.
+ Từ những con sóng lòng trong tình yêu, nhà thơ Xuân Quỳnh khát khao “được tan ra”
thành “trăm con sóng nhỏ”. Điều đó cho thấy từ những trăn trở, nữ sĩ trở nên khao khát một
cách mãnh liệt và cháy bỏng vô cùng, ao ước một tình yêu trọn vẹn, tròn đầy.
+ Hình ảnh sóng là một hình tượng nghệ thuật xuyên suốt bài thơ:
 Đến đây thì nó lại trở thành biểu tượng của nỗi khát khao trong tình yêu của nhà thơ.
 Xuân Quỳnh cũng như bao người con gái khác, thực sự muốn được tan ra thành hàng
trăm con sóng nhỏ, để được chìm đắm trong tình yêu bình dị mãi mãi không bao giờ kết
thúc.
+ Người phụ nữ của thời hiện đại ấy mong muốn được trọn đời, được vĩnh hằng sống với
“biển lớn tình yêu”, ao ước được sống trọn vẹn bất tử với tình yêu con người và tình yêu cuộc
đời. Đó cũng là cách để nữ thi sĩ chống lại quy luật khắc nghiệt của cuộc đời con người. 
+ Đối với trái tim đang yêu của người thi sĩ, dường như một con sóng vẫn chưa đủ, một con
sóng quá nhỏ bé so với “biển lớn tình yêu” mênh mông, lớn lao. Bởi thế ước muốn tan ra
thành “trăm con sóng nhỏ” của nhà thơ là hi vọng, là khát vọng vô cùng chính đáng.
+ Nhà thơ không chỉ ước muốn tan thành trăm con sóng mà còn khát khao “ngàn năm còn
vỗ”. Hình ảnh “ngàn năm còn vỗ” cho thấy khát khao tột cùng được sống hết mình muôn đời
mãi mãi trong tình yêu.
 Đó chính là nhịp tim, là tiếng sóng lòng của nhà thơ Xuân Quỳnh vẫn đang thiết tha, khao
khát và đắm say được sống với tình yêu vĩnh hằng.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Hai khổ thơ trên bài thơ “Sóng” của nhà thơ Xuân Quỳnh đã thể hiện được những tâm tư,
triết lí sâu sắc của nhà thơ cùng với khát vọng được yêu thương vô cùng bình dị trong tình
yêu của nhà thơ Xuân Quỳnh.
2. Giá trị nghệ thuật
- Đoạn thơ hội tụ bao vẻ đẹp:
+ Một ý tưởng đẹp: niềm tin về tình yêu hạnh phúc.
+ Lời thơ đẹp: thanh tao, ý vị.
+ Giọng thơ nồng nàn, ngọt ngào.
 Đoạn thơ mang vẻ đẹp nhân văn sáng giá.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 24
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

CHỦ ĐỀ 4:
ĐẤT NƯỚC (Nguyễn Khoa Điềm)

TIẾT 11:
TÌM HIỂU VỀ NHÀ THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM
VÀ BÀI THƠ “ĐẤT NƯỚC”

I. NHÀ THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM (1943)


1. Cuộc đời
- Nguyễn Khoa Điềm quê gốc ở thành phố Huế.
- Ông xuất thân trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng.
2. Sự nghiệp văn học
- Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ thời kì chống Mĩ cứu nước.
3. Phong cách nghệ thuật
- Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người tri
thức về đất nước, con người Việt Nam.
II. BÀI THƠ “ĐẤT NƯỚC” (1971)
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm
1971, in lần đầu năm 1974.
2. Xuất xứ
- Đoạn trích “Đất Nước” (phần đầu chương V của trường ca), là một trong những đoạn thơ
hay về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại.
3. Chủ đề
- Bài thơ viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiến miền Nam về non sông đất
nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu
chống đế quốc Mĩ xâm lược.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 25
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 12:
PHƯƠNG DIỆN LỊCH SỬ – VĂN HOÁ DÂN TỘC:
“ĐẤT NƯỚC CÓ TỪ BAO GIỜ?”

I. KHÁI QUÁT
- Ở đoạn thơ sau, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện quan niệm của mình về cội nguồn của đất
nước thật đặc sắc.
II. PHÂN TÍCH
1. Đất nước có từ bao giờ? (câu 1 – 2)
- Ngay từ những câu thơ đầu đoạn trích, Nguyễn Khoa Điềm đã trầm ngâm, suy tư về cội
nguồn, quá hình thành của đất nước bằng giọng tâm tình, dịu ngọt như lời kể chuyện cổ tích:
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”
+ Mở đầu đoạn thơ, tác khẳng định trực tiếp rằng đất nước này đã tồn tại từ rất lâu rồi, khi mà
con người mới sinh ra trên mảnh đất của họ thì chính nơi đó là đất nước, là quê hương.
+ Đất nước có từ “khi ta lớn lên”, từ khi ta chưa ra đời, xuyên suốt bốn ngàn năm văn hiến.
Như vậy, đất nước tồn tại như một điều hiển nhiên, nó có chiều sâu cội nguồn cũng như sự
hình thành và phát triển bao đời nay. 
+ Nhà thơ đã khiến cho biết bao nhiêu tâm hồn lay động, để rồi kết lại bằng ba tiếng “đã có
rồi” chậm và nhỏ, nhấn mạnh sức sống lâu đời của đất nước bằng chính sự dịu êm, ngọt ngào
sâu sắc. Cùng với đại từ phiếm chỉ “ta”, không chỉ rõ ràng, cụ thể một ai, nhà thơ đã tô đậm
lên được ngàn năm văn hiến lâu đời của đất nước, khắc sâu bề dày lịch sử mà đất nước đã đi
qua.
+ Nguyễn Khoa Điềm viết hoa hai chữ “Đất Nước” như một niềm tôn kính, thương yêu bằng
tất cả trái tim. Với nhà thơ, đất nước mình không chỉ là đất nước vô giác vô tri, đất nước từ
lâu đã mang một linh hồn dân tộc thắm thiết, đậm đà mà từ đây, ông khẳng định rõ hơn về
sinh thể thiêng liêng, ruột thịt này.
+ Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” chỉ thời gian huyền hồ, hư ảo là nhịp thời gian cổ xưa xa
thẳm để mở đầu những câu chuyện cổ tích. Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước có từ rất xa
xưa, trong sâu thẳm thời gian, trong kí ức tuổi thơ hồn nhiên trong sáng của mỗi cuộc đời:
 Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi,
thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người.
 Từ lời hát mẹ ru, từ những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ kể đã nuôi dưỡng
chúng ta khôn lớn, làm ta hiểu hơn về văn hóa của ta, theo ta đi hết cuộc đời và trở thành
một phần kí ức tốt đẹp khiến ta không thể quên.
 “Ngày xửa ngày xưa” mở ra những câu truyện, thì dấu ba chấm lửng ở cuối cụm từ lại
khiến người ta cứ mãi suy tư.
 Đất nước là những thứ thân thuộc, gần gũi, gắn bó với mỗi con người, ở trong mỗi con
người từ khi phôi thai, thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”.
 Tác giả cảm nhận đất nước bằng chiều sâu lịch sử – văn hóa và cuộc sống đời thường của
mỗi con người qua cụm từ “ngày xửa ngày xưa”, gợi những bài học về đạo lí làm người qua
các câu chuyện cổ tích thấm đượm nghĩa tình.
+ Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” vô cùng quen thuộc, thân thương vì ai trong chúng ta không
từng được đắm mình trong những câu chuyện cổ tích thần tiên “mẹ thường hay kể”. Những
câu chuyện kể, những lời ru của mẹ đưa con về với đất nước yêu dấu.
 Những câu chuyện cổ tích, những bài học đạo lí làm người, ước mơ khát vọng của nhân
dân về lẽ công bằng được gửi gắm vào câu ca dao đó đã góp phần tạo nên Đất Nước đa dạng
về văn hóa như hiện nay.
2. Quá trình hình thành Đất Nước (câu 3 – 4 – 5 – 6 – 7 – 8 – 9)

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 26
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Tác giả cảm nhận đất nước gắn với phong tục tập quán, hình thành nên bản sắc văn hóa
riêng của dân tộc:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
+ Nguyễn Khoa Điềm xác định thời khởi thủy của đất nước, bắt đầu từ miếng trầu, rồi lớn lên
cùng hàng tre dân tộc. 
+ “Đất Nước bắt đầu” một câu thơ lí giải sự hình thành đất nước gắn liền với câu chuyện cổ
tích cầu cau. Đó là câu chuyện cổ tích ngợi ca nghĩa anh em và tình vợ chồng gắn bó keo sơn.
+ “Miếng trầu bà ăn” là miếng trầu tình nghĩa trong “Sự tích trầu cau” khiến ta rung rung
nước mắt về tình cảm vợ chồng, về tình nghĩa anh em gắn bó. Từ đó, hình ảnh “trầu cau” trở
thành “miếng trầu là đầu câu chuyện”, trở thành thứ không thể thiếu được trong lễ cưới,
tượng trưng cho tình nghĩa đằm thắm, thủy chung.
+ Từ truyện cao dao, cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang
tính thẩm mĩ, là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc.
- Đất nước ta từ ngàn đời đã có truyền thống chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc:
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
+ Hai chữ “lớn lên” liên tưởng đến hình ảnh chú bé làng Gióng lên ba vươn vai thành một
tráng sĩ oai phong lẫm liệt khi đất nước bị giặc Ân xâm lược.
+ Hai tiếng “dân mình” khi được cất lên nghe sao mà thân thương quá đỗi, bởi lẽ dân mình
cùng chung một cội nguồn.
+ Hình ảnh “cây tre” là biểu tượng của người Việt Nam, gắn với đời sống thường ngày và có
lúc trở thành vũ khí xông pha ra chiến trường đánh giặc.
+ Từ hình những ảnh thực tế, cho đến đời sống tinh thần, đó là từng bước đi lên trưởng thành
của một dân tộc, của một đất nước con người ý thức được về đất nước, về sự tồn tại của đất
nước và ý thức về việc phải có trách nghiệm bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ bờ cõi đất nước.
- Bên cạnh truyền thống về lòng yêu nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc đến những
hình ảnh mang đậm vẻ đẹp thuần phong mĩ tục giản dị của con người Việt Nam:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
+ Đất nước còn là phong tục búi tóc thành cuộn sau gáy rất quen thuộc của người phụ nữ Việt
Nam từ bao đời nay. Đó là vẻ đẹp giản dị nhưng mang một nét đẹp riêng biệt không thể lẫn
lộn với những nền văn hóa khác.
+ Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động,
chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu.
+ Chữ “thương” giúp thơ ông gần gũi với văn học bình dân.
+ Cuộc sống bấp bênh, nhiều khó khăn vất vả, chỉ có “gừng cay” và “muối mặn” chứ ít khi
ngọt ngào nhưng cũng chính vì lẽ đó mà con người ta biết trân trọng hạnh phúc nhiều hơn.
+ Tác giả đã vận dụng thành ngữ “gừng cay muối mặn” một cách hết sức tự nhiên, đặc sắc,
nhẹ nhàng mà thấm đượm ân tình để nói lên sự thuỷ chung ở trong con người như câu nói:
“Gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình
nghĩa sẽ đong đầy”.
- Ngoài những phong tục tập quán và tình yêu thương của con người, Nguyễn Khoa Điềm
còn nêu lên truyền thống lao động sản xuất của người dân:
“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
+ Từ những điều thân thuộc và đời thường, những cái tên âu yếm, yêu thương ấy đã ra đời
bằng những “kèo” và những “cột”.
+ Hình ảnh “cái kèo, cái cột” còn gợi lên cảm giác thật gần gũi và thân thuộc, dường như
trong tâm trí chợt hiện lên một mái nhà tranh đơn sơ nhưng lại rất đầm ấm, tuy giản dị nhưng
lại có thừa niềm vui và tiếng cười lan tỏa khắp không gian

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 27
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

+ Câu thơ như nét vẽ giản dị họa lên truyền thống trồng lúa nước cũng như đức tính cần lao,
chịu khó, vốn “một nắng hai sương” biết bao đời tiếp nối và giữ gìn của toàn dân tộc.
+ Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến hình ảnh đồng lúa bát ngát, mênh mông, nơi cò thẳng cánh
bay cao, nơi sáo diều vi vu yên bình chao lượn.
+ Nhắc đến bông lúa trổ đòng đòng, thơm thật ngọt mùi hương lúa chín là nhắc đến những
giọt mồ hôi mặn đã rơi xuống để đổi lấy tinh túy của đất trời. Những hạt ngọc trời ấy đã được
làm ra từ đôi tay chai sạn vì nắng, vì gió, vì đồng áng, ruộng nương của những người nông
dân Việt Nam chất phác, thật thà.
+ Các động từ “xay”, “giã”, “giần”, “sàng” đó là quy trình sản xuất ra hạt gạo:
 Để làm ra được hạt gạo, người nông dân phải trải qua biết bao tháng ngày nắng sương vất
vả gieo cấy, chăm sóc, xay giã và giần sàng.
 Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của người nông dân vất vả
nắng mưa. 
+ Thành quả ngọt ngào này không chỉ giúp dân ta có đời sống no ấm mà nó còn trở thành nền
văn minh lúa nước mà khi nhắc đến người ta biết ngay đến Việt Nam. Không chỉ dừng lại ở
đó, nền văn minh này đã giúp cho nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thế hai thế giới
và toàn cầu biết đến lúa gạo Việt Nam.
- Từ tất cả các yếu tố trên, nhà thơ khẳng định:
“Đất Nước có từ ngày đó…”
+ “Ngày đó” là ngày nào, chúng ta không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết rằng
ngày đó chính là ngày ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán, có nhiều văn
hoá riêng biệt khác với quốc gia khác. Đó là ngày ta có đất nước của dân tộc Việt Nam.
+ Dường như mỗi khi “Đất Nước” được cất thành lời, người đọc đều nhỏ giọng hơn, nhẹ
nhàng hơn, để cho thanh âm như nhỏ dần, nhạt dần, hòa dần vào trong không gian và dòng
thời gian vẫn miệt mài chảy trôi.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Qua đoạn thơ thứ nhất, hình ảnh đất nước hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ
thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa,
truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt.
2. Giá trị nghệ thuật
- Thành công của đoạn thơ là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như
phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp.
- Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ…
- Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang
đậm hồn thơ triết lí.
 Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 28
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 13:
ĐẤT NƯỚC TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ CỘNG ĐỒNG

I. KHÁI QUÁT
- Đoạn thơ dưới đây là lời nhắc nhở về ý thức, trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay với quê
hương đất nước”.
- Đoạn thơ gợi sự gắn bó mật thiết giữa mỗi cá nhân với quê hương, đất nước và giữa cá nhân
với tập thể.
- Đất nước là một phần không thể thiếu như máu xương của mỗi con người.
 Do vậy mỗi cá cần có ý thức, trách nhiệm đấu tranh, bảo vệ và mang đất nước phát triển
đến “ngày tháng mơ mộng”.
II. PHÂN TÍCH
1. Tác giả khẳng định: Đất nước hóa thân và kết tinh trong cuộc sống mỗi người (câu 30
– 31)
- Hai câu thơ mở đoạn là sự thức nhận chân lí về cội nguồn, về truyền thống, về lịch sử... Đất
nước gần gũi và gắn bó thân thiết với “anh và em”, với mọi người:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”
+ Chỉ “một phần” nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự hào.
+ Từ khái niệm, ý niệm “mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của đất nước” được
diễn đạt một cách “miền hóa” qua tiếng nói tâm tình của lứa đôi, của “anh và em”.
+ Nguyễn Khoa Điềm khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa cá nhân với cộng đồng, đất
nước: “Trong anh và em” đều “có một phần Đất Nước” với giọng thơ đầy tự hào.
+ Đất nước có “trong anh”, “trong em”, đất nước hóa thân vào cuộc sống, vào tâm hồn mỗi
người. Như vậy trong mỗi cá nhân cá thể đều có hình hài sức sống của đất nước nhân dân.
+ Tuy trong anh và em chỉ có “một phần Đất Nước” nghĩa là nhỏ bé, giản dị thôi nhưng
không vì thế mà trở nên tầm thường vô nghĩa, ngược lại nó rất đỗi thiêng liêng và là một
niềm tự hào sâu sắc bởi nó đã làm nên cuộc đời, số phận và sức sống của một đất nước, sức
sống của mỗi chúng ta.
+ Từ ý tưởng quen thuộc “mỗi gia đình là một tế bào của xã hội, mỗi công dân là một phần tử
của cộng đồng” Nguyễn Khoa Điềm đã viết thành hai câu thơ trên lời thơ mềm mại, ngọt
ngào, đằm thắm khiến cho tình cảm chung cũng trở nên nồng chat tha thiết như tình yêu đôi
lứa.
2. Nói về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của mỗi người với đất nước (câu 32 – 33 – 34 – 35)
- Lời thơ mang tính khẳng định dứt khoát, giản dị mà sâu sắc, cụ thể mà khái quát cao:
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn to lớn”
+ Đại từ nhân xưng thay đổi từ “anh và em” đến “hai đứa” góp phần khẳng định sự gắn kết
đôi lứa làm nên sự hài hòa, nồng ấm cho đất nước.
+ “Khi hai đứa cầm tay” nghĩa là khi anh và em hòa hợp, gắn bó, yêu thương thì đất nước sẽ
trở nên tươi thắm hơn, đẹp đẽ hơn. Câu thơ được tác giả viết rất sâu sắc thể hiện tư tưởng
“hạnh phúc cá nhân là hạnh phúc của cộng đồng.
+ “Khi chúng ta cầm tay mọi người” đó là cái cầm tay nối vòng tay lớn, đó là cái cầm tay
phát huy sức mạnh đoàn kết cộng đồng. Cái cầm tay đó sẽ làm cho đất nước trở lên to lớn,
rạng rỡ, huy hoàng, tỏa sáng vĩnh cửu.
+ Sự tăng tiến từ sự gắn kết của cá nhân “anh và em” đến tình cảm lứa đôi “hai đứa” với mọi
người khiến cho đất nước trở nên “vẹn tròn, to lớn”. Đây chính là triết lí sâu sắc của Nguyễn

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 29
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

Khoa Điềm về mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và giữa cộng đồng với quê hương,
đất nước.
+ Nguyễn Khoa Điềm khẳng định nền tảng để tạo nên đất nước “vẹn tròn, to lớn” chính là tự
sự tình yêu, ý thức, trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với quê hương đất nước, mối quan hệ
bền chặt của tình cảm lứa đôi, gia đình có vững chắc mới tạo nền móng vững vàng cho đất
nước.
3. Diễn tả về tương lai của đất nước (câu 36 – 37 – 38)
- Đồng thời, ý thức, trách nhiệm với đất nước không chỉ dành cho “Đất Nước” ở hiện tại ở
mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng mà đó còn là sự nuôi dưỡng, dành trọn niềm tin cho
thế hệ mai sau mong:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những ngày tháng mơ mộng”
+ “Mai này” giọng thơ ngọt ngào sâu lắng thiết tha khi Nguyễn Khoa Điềm hướng cái nhìn
của người đọc về viễn cảnh ngày mai của đất nước.
+ Con ta là hạnh phúc nối dài của đôi ta không chỉ chỉ những đứa con ruột thịt của nhà thơ
mà còn chỉ thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước. Con sẽ “lớn lên”.
+ Hai chữ “lớn lên” thể hiện niềm tin của nhà thơ về sự lớn lên thể chất nhưng quan trọng
hơn là về trí tuệ bản lĩnh của nhân dân trên hành trình lịch sử mang đất nước đi ra đến “những
ngày tháng mơ mộng”.
+ Động từ “mang” đứng trước từ “Đất Nước” khiến đất nước không còn là một khái niệm
trừu tượng, một hình ảnh mơ hồ chung chung mà trở lên hữu hình, hữu thể gắn chặt với bổn
phận và tinh thần của thế hệ sau. Hành trình đó thật dài lâu và cao cả không dứt, không nổi,
không nối, không ngừng, không nghỉ.
+ Đó là niềm tin của cha mẹ dành cho con cái, mong với những nền tảng, sự hi sinh, niềm tin
dành cho “con”, sẽ mang “Đất Nước đi xa” đến với những tầm cao mới “ngày tháng mơ
mộng”.
+ “Mơ mộng” nghĩa là rất đẹp ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một
cường quốc văn minh. Điều mà “anh và em”, mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến
thành hiện thực “mai này” gần.
4. Nhà thơ muốn nhắn nhủ với mọi người về trách nhiệm thiêng liêng của mình với đất
nước
- Những câu thơ cuối đoạn thơ là những lời tự nhủ tâm niệm chân thành thấm thía của nhà
thơ khi nói về sứ mệnh, bổn phận của nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ đối với đất nước:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
+ Tác giả liên tục lấy “em” để trò chuyện, để nhấn mạnh một điều giản dị nhưng có nghĩa
như một chân lí: Đất nước chính là máu thịt, là sự sống của mỗi chúng ta. Vậy mỗi chúng ta
phải có vai trò trách nhiệm dựng xây và phát triển đất nước.
+ “Em ơi em” — một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang dâng
lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước.
+ Đất Nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình, là mồ hôi xương máu của tổ
tiên, ông cha, là của dân tộc ngàn đời.
+ Điệp ngữ “phải biết” như một mệnh lệnh phát ra từ con tim làm cho giọng thơ mạnh mẽ,
chấn động đi liền với một hệ thống từ ngữ tăng tiến mức độ “gắn bó” – “san sẻ” – “hóa thân”,
không phải là những lời hô hào suông khô cứng hay những lí lẽ giáo điều tẻ ngắt mà là mệnh
lệnh phát ra từ trái tim của người thanh niên trí thức yêu nước. Họ hiểu rõ được sứ mệnh lớn

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 30
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

lao của thế hệ mình là phải đoàn kết với nhân dân, san sẻ chung vai sát cánh với cộng đồng,
đồng thời sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn hi sinh cho đất nước quê hương.
+ Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là những biêu hiện của tình yêu
nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Đoạn thơ trên đã góp phần thể hiện tư tưởng “Đất Nước là của Nhân dân” ở mối quan hệ
giữa mỗi cá nhân với cộng đồng, quê hương, đất nước.
- Do đất nước có trong mỗi người, gắn bó mật thiết như xương máu của mỗi người nên bản
thân họ cần có ý thức bảo vệ, giữ gìn và phát triển quê hương, đất nước của mình.
- Đồng thời, đoạn thơ đã thể hiện phong cách thơ “trữ tình chính luận” của Nguyễn Khoa
Điềm đậm đặc.
2. Giá trị nghệ thuật
- Giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cám xúc, sáng tạo về ngôn từ, hình ảnh, thể
hiện một hồn thơ giàu tính suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều mới mẻ tìm tòi.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 31
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 14:
NHÂN DÂN LÀM NÊN VẺ ĐẸP CỦA DANH LAM THẮNG CẢNH

I. KHÁI QUÁT
- Đoạn thơ sau đây là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên
không gian địa lí – bức tranh văn hóa đất nước muôn màu muôn vẻ.
II. PHÂN TÍCH
1. Tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu địa lí về những danh lam thắng
cảnh trên khắp các miền đất nước
- Tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân” trước hết được thể hiện qua sự biết ơn sâu nặng của
nhà thơ đối với nhân dân đã “góp” cuộc đời mình, tuổi tên của mình, số phận mình để hóa
thân thành những địa danh, thắng cảnh. Những địa danh, thắng cảnh ấy gắn với cuộc sống, số
phận, tính cách của nhân dân:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình cho đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
+ Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật liệt kê những địa danh “núi Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”,
“đất tổ Hùng Vương”, “núi Bút”, “non Nghiên”, “Hạ Long”, “tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà
Đen, Bà Điểm” và sử dụng động từ “góp” để diễn tả hình ảnh của nhân dân hóa thân thành
những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp cho đất nước. Các danh thắng ấy được nhà thơ liệt kê
từ Bắc đến Nam, đâu đâu cũng mang bóng dáng nhân dân.
+ Ở miền Bắc, danh thắng ấy hiện lên với núi Vọng Phu, hòn Trống Mái biểu tượng cho vẻ
đẹp của tình yêu thủy chung bền vững. Hòn Vọng Phu nay vẫn còn ở Lạng Sơn gắn liền với
tích nàng Tô Thị bồng con chờ chồng hóa đá. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, Thanh Hóa, tương
truyền do hai vợ chồng yêu nhau hóa thân thành. Thời gian trôi qua, những vẻ đẹp thủy
chung, nghĩa tình đã bất tử.
+ Đó còn là vẻ đẹp người anh hùng làng Gióng với chứng tích “ao đầm ” hình móng chân
ngựa mọc đầy quanh chân núi Sóc Sơn (Hà Nội). Đó là quần thể núi non hùng vĩ “chín mươi
chín con voi” bao quanh núi Hi Cương (Phú Thọ) nơi đền thờ vua Hùng ngự trị. Đó là “con
cóc con gà quê hương góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Tất cả nhằm nhắc nhở chúng ta
nhớ về truyền thống đánh giặc giữ nước, công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước của cha
ông.
+ Ở miền Trung, nhà thơ đưa ta về với vùng đất Quảng Ngãi để chiêm ngưỡng “núi Bút, non
Nghiên” do cậu học trò nghèo dựng nên. Đó là biểu tượng của truyền thống hiếu học của
nhân dân đã góp cho đất nước bao tên tuổi.
+ Ở miền Nam, danh thắng là con sông Cửu Long hiền hòa, tươi đẹp: “Những con rồng nằm
im góp dòng sông xanh thẳm”. Là những người dân hiền lành, chăm chỉ góp nên “tên xã tên
làng trong mỗi chuyến di dân”.
 Đó là “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”.
2. Thiên nhiên đất nước, qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần
tâm hồn, máu thịt của nhân dân 
- Bốn câu thơ cuối nâng ý thơ lên tầm khái quát: sự hóa thân của nhân dân vào bóng hình đất
nước. Nhân dân chính là người đã tạo dựng, đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi
ngọn núi, dòng sông, khắp mọi miền đất nước này:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 32
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi! Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
+ Hai câu đầu là khẳng định dáng hình của Nhân Dân trong không gian Đất Nước “trên khắp
ruộng đồng gò bãi”. Bóng hình ấy của nhân dân không chỉ làm cho đất nước thêm phần tươi
đẹp mà còn mang “một ao ước, một lối sống cha ông”.
 Nghĩa là nhân dân không chỉ góp danh lam thắng cảnh, mà còn góp vào đó những giá trị
tinh thần, là phong tục, tập quán, là truyền thống văn hóa lưu dấu tới mai sau.
+ Hai câu cuối, hình tượng thơ được nâng dần lên và chốt lại bằng một câu đầy trí tuệ:
“Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. “Núi sông ta” sỡ dĩ có được là nhờ “những cuộc đời”
đã hóa thân để góp nên.
 Nhân dân không chỉ góp tuổi, góp tên mà còn góp cả cuộc đời và số phận mình.
 Ý thơ giản dị mà sâu sắc khiến ta hình dung Đất Nước thật gần gũi và thân thuộc.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Những dòng thơ trong đoạn trích trên là những dòng cảm xúc và suy tưởng về công lao của
bao thế hệ nhân dân đã làm nên vóc dáng và linh hồn cho sông núi quê hương.
2. Giá trị nghệ thuật
- Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên được viết theo thể thơ tự do.
- Câu thơ mở rộng kéo dài, biến hóa linh hoạt tạo cho đoạn thờ giàu sức gợi cảm và khái quát
cao.
- Thủ pháp liệt kê địa danh, nhà thơ luôn viết hoa hai chữ “Đất Nước” thể hiện sự thành kính
thiêng liêng.
- Động từ “góp” được nhắc lại nhiều lần.
 Tất cả làm nên đoạn thơ hay về đất nước.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 33
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 15:
VẺ ĐẸP CỦA NHÂN DÂN QUA CA DAO, THẦN THOẠI

I. KHÁI QUÁT
- Tư tưởng lớn của thời đại “Đất nước của Nhân Dân” được thể hiện đậm nét qua đoạn thơ
sau.
II. PHÂN TÍCH
1. Hình tượng đất nước vẹn tròn
- Đoạn thơ mở đầu bằng một lời khẳng định, lời khẳng định ấy là cảm hứng chung cho cả
đoạn thơ:
“Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” 
+ Nhà thơ khẳng định chắc nịch: “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”, lời khẳng định
ấy đã thể hiện một cách chân thành, mãnh liệt tình cảm của nhà thơ đối với dân tộc.
+ Hơn ai hết, nhà thơ hiểu rằng, để có được đất nước trường tồn, vĩnh cửu thì nhân dân hơn ai
hết là những người đã đổ máu xương, đổ công sức của mình để làm nên hình hài đất nước. Vì
thế đất nước không của riêng ai mà là của chung, của nhân dân và mãi mãi thuộc về nhân
dân.
+ Ở câu thơ thứ hai, nhà thơ lại một lần nữa khẳng định: “Đất nước của nhân dân, Đất Nước
của ca dao thần thoại”.
+ Điệp ngữ chuyển tiếp “Đất nước của nhân dân” được lặp lại như thêm một lần nữa nhấn
mạnh về cái sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với đất nước.
+ Vế thứ hai, nhà thơ nhấn mạnh: “Đất Nước của ca dao thần thoại”.
+ Nhắc đến ca dao thần thoại ta lại càng nhớ đến nhân dân, vì hơn ai hết, nhân dân lại là
người tạo ra văn hóa, tạo ra ca dao thần thoại. Mà đất nước của “ca dao thần thoại” nghĩa là
đất nước tươi đẹp vô ngần như vầng trăng  cổ tích, ngọt ngào như ca dao, như nguồn sữa mẹ
nuôi ta lớn nên người. Và không phải ngẫu nhiên tác giả nhắc tới hai thể loại tiêu biểu nhất
của văn học dân gian.
+ “Ca dao” bộc lộ thế giới tâm hồn của nhân dân với tình yêu thương, với sự lãng mạn cùng
với tinh thần lạc quan. Còn “thần thoại” thể hiện cuộc sống qua trí tưởng tượng bay bổng của
nhân dân. Đó là những tác phẩm do nhân dân sáng tạo, lưu truyền và có khả năng phản chiếu
tâm hồn, bản sắc dân tộc một cách đậm nét nhất.
- Khi nói đến “Đất nước của Nhân dân”, một cách tự nhiên, tác giả trở về với cội nguồn
phong phú đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp tinh
thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. Ở
đây tác giả chỉ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống
nhân dân, dân tộc:
“Dạy anh biết yêu em từ thở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
+ Chức năng của ca dao, nói như Nguyễn Khoa Điềm là “dạy”. Chức năng ấy cùng với ý
nghĩa của nó được thể hiện qua ba phương diện.
+ Phương diện thứ nhất, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh về tình cảm thủy chung trong tình
yêu của con người Việt Nam. Tình yêu của chàng trai ấy không phải là ngọn gió thoáng qua,
không phải là lời của bướm ong mà là lời nói là nghĩ suy chân thật. Ý thơ đã khẳng định được
một tình yêu thủy chung bền vững không gì có thể đếm đong được. Nhân dân dạy ta biết yêu
thương lãng mạn, đắm say thủy chung với những câu ca dao ấy.
 Đây là phát hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa đến nay nói đến nhân dân
người ta thường nghĩ đến những phẩm chất cần cù chịu khó, bất khuất kiên cường. Còn ở đây

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 34
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

tác giả lại ngợi ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình từ thưở ấu thơ
cho đến lúc trưởng thành.
+ Ở phương diện thứ hai, Nhân dân gìn giữ và truyền lại cho ta quan niệm sống đẹp đẽ, sâu
sắc, ca dao đã “dạy anh biết” – Sống trên đời cần quý trọng tình nghĩa, phải  “Biết quý công
cầm vàng những ngày lặn lội”. Nhân dân đã dạy ta rằng: Ở đời này còn có thứ quý hơn vàng
bạc, châu báu ngọc ngà… Đó là tình nghĩa giữa con người với con người.
 Bởi vậy, nghĩa với tình còn nặng hơn nhiều lần giá trị vật chất.
+ Ở phương diện thứ ba, nhân dân đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù và chiến đấu:
“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
 Hai câu thơ đã gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của nhân dân trong
biết bao cuộc chiến vệ quốc vĩ đại. Từ thuở lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu
với nạn ngoại xâm.
 Cuộc chiến đấu giành độc lập tự do nào cũng kéo dài hàng chục năm, thậm chí hàng trăm
năm.
 Sau cả nghìn năm Bắc thuộc nhân dân vẫn đứng lên giành chủ quyền, rồi đến 100 năm đô
hộ giặc Tây… thử hỏi nếu không có sự kiên trì bền bỉ và khát vọng tự do mãnh liệt, dân
tộc bé nhỏ này làm sao có thể vượt qua bao nhiêu khó khăn gian khổ, mất mát hi sinh để
đến ngày toàn thắng.
2. Khúc hát ngợi ca và thức tỉnh
- Hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát là một biểu tượng nói lên
sức mạnh nhân dân chiến thắng mọi thử thách, lạc quan tin tưởng đưa đất nước đi tới một
ngày mai vô cùng tươi sáng:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…”
+ Câu thơ gợi cho ta hình ảnh của những dòng sông, những dòng sông không biết đến từ bến
bờ nào nhưng khi hòa vào đất Việt lại vang lên biết bao câu hát điệu hò.
+ Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm làm ta nhớ đến những điệu hò hùng tráng trên sông Mã,
điệu ca Huế ngọt ngào trên sông Hương và điệu hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền Trung, hay đờn
ca tài tử tha thiết trên sông Tiền, sông Hậu ở miền Nam. Và “dòng sông” ấy vừa có ý nghĩa là
dòng sông của quê hương đất nước nhưng vừa có ý nghĩa là dòng sông Văn Hóa, dòng sông
Lịch sử.
+ Dân tộc ta có 54 dân tộc anh em, là 54 dòng chảy văn hóa đa dạng “trăm màu, trăm dáng”.
Và đó chính là sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam đã vun đắp phù sa qua bao
năm tháng thăng trầm để làm nên một đất nước đậm đà bản sắc dân tộc.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Đoạn thơ trên đã thể hiện một cách rất thành công tư tưởng lớn của thời đại “Đất Nước của
Nhân Dân”.
2. Giá trị nghệ thuật
- Đoạn thơ đã để lại âm hưởng ca dao, dân ca đặc sắc nhưng không lấy lại nguyên văn mà
sáng tạo làm nên một ý thơ riêng mềm mại, tài hoa và giàu tính triết lí.
- Điệp ngữ “Đất Nước” được nhắc lại nhiều lần cùng với việc nhà thơ luôn viết hoa hai từ
“Đất Nước” tạo nên một tình cảm thiêng liêng xiết bao tự hào về non sông gấm vóc Việt
Nam.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 35
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

KIẾN THỨC PHẦN VĂN XUÔI HIỆN ĐẠI VIỆT NAM


(1945 – 1986)

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 36
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

CHỦ ĐỀ I:
TRUYỆN NGẮN HIỆN ĐẠI (1945 – 1953)

CHUYÊN ĐỀ 1:
VỢ NHẶT (Kim Lân)

TIẾT 1:
TÌM HIỂU VỀ NHÀ VĂN KIM LÂN VÀ TRUYỆN NGẮN “VỢ NHẶT”

I. NHÀ VĂN KIM LÂN (1920 – 2007)


1. Cuộc đời
- Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở Bắc Ninh.
2. Sự nghiệp sáng tác
- Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn.
- Ông thường viết về nông thôn và người nông dân.
- Ông có những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê.
3. Phong cách nghệ thuật
- Ông viết chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ
và tâm lí của họ.
- Dù viết về phong tục hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng
cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời; thật
thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa.
II. TRUYỆN NGẮN “VỢ NHẶT” (1945)
1. Xuất xứ
- “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).
2. Hoàn cảnh ra đời
- Tiền thân của truyện ngắn “Vợ nhặt” là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, được viết ngay sau Cách
mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo.
- Sau khi hòa bình lập lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn
này.
3. Chủ đề
- Tác phẩm phản ánh đời sống của những con người bần cùng, lương thiện, trong cảnh đói
kém khủng khiếp do bọn thực dân phong kiến gây ra.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 37
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 2:
TÌNH HUỐNG TRUYỆN ĐỘC ĐÁO

I. KHÁI QUÁT
- Trong tác phẩm, nhà văn Kim Lân đã ghi lại sự thật mặn chát của cuộc đời người nông dân
trong nạn đói 1945, tất cả sự thật nghiệt ngã ấy được nhà văn thông qua tình huống truyện.
- Xây dựng được tình huống truyện độc đáo, Kim Lân trong không chỉ thu hút được sự quan
tâm, kích thích sự tò mò, khám phá của độc giả mà qua đó còn thể hiện được bao quan điểm
nhân sinh sâu sắc.
II. PHÂN TÍCH
1. Khái niệm về tình huống truyện
- Tình huống truyện là sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo theo lối lạ hóa.
Có thể nói tình huống là một môi trường để nhân vật bộc lộ sắc nét tính cách của mình. Trong
truyện Vợ nhặt, đó là tình huống “nhặt” được vợ.
- Truyện ngắn thông thường được xây dựng trên một tình huống độc đáo. Chính từ đây tính
cách và số phận của nhân vật, chủ đề tác phẩm được thể hiện rõ nét. Tính cách độc đáo, tình
huống truyện mà Kim Lân sáng tạo nên ngay từ cái tên tác phẩm “Vợ nhặt”
2. Tình huống truyện độc đáo trong “Vợ nhặt”
a. Lạ lùng
- Tình huống của “Vợ nhặt” thể hiện ngay ở tên truyện.
- Xưa nay lấy vợ lấy chồng luôn được xem là sự kiện hệ trọng của một đời người. Vậy mà
Tràng bỗng dưng nhặt được vợ về như nhặt một thứ rơi vãi ngoài đường. Một người đàn ông
nghèo túng, xấu xí, lại là dân ngụ cư thế mà được một người đàn bà tự nguyện theo về làm vợ
hẳn hoi. Kì lạ hơn nữa là Tràng dám đem vợ về giữa những ngày đói kém, khi cái chết vì đói
đang rình rập đe dọa.
 Kim Lân mở đầu truyện bằng một cuộc trở về đầy lạ lùng.
b. Éo le
- Cảnh đám cưới của Tràng và chị vợ nhặt cũng diễn ra thật lạ lùng, sự kiện hạnh phúc có ý
nghĩa thiêng liêng nhất của đời người nhưng lại được diễn ra trong không khí ngột ngạt, u tối
bởi ám ảnh đói khát, khi sự sống và cái chết chỉ cách biệt bởi ranh giới vô cùng mỏng manh.
- Tình huống để Tràng và người vợ nhặt quen biết rồi đi đến quyết định gắn bó cả đời với
nhau cũng chỉ là những câu nói đùa vu vơ, vài bát bánh đúc. Hoàn cảnh gặp mặt có phần hài
hước, lạ lùng ấy lại là nút thắt quan trọng gắn kết giữa hai con người, từ những người xa lạ họ
đã gắn kết với nhau bởi mối quan hệ đặc biệt.
 Lấy vợ khi nạn đói hoành hành tuy có thiếu thốn về vật chất nhưng cả Tràng và người vợ
nhặt đều có chung khao khát hạnh phúc, có niềm tin vào cuộc sống hạnh phúc trong tương
lai.
2. Phản ứng của mọi người trước sự kiện Tràng có vợ
a. Những người dân trong xóm ngụ cư
- Những người dân xóm ngụ cư đã quen nhìn Tràng là một chàng trai xấu xí với nụ cười hềnh
hệch, chàng trai nghèo mà xấu xí ấy ngỡ như không bao giờ lấy được vợ lại có vợ trong tình
huống không ai ngờ đến nhất.
- Nhìn người đàn bà e thẹn, rón rén đi sau Tràng mọi người đều vô cùng ngạc nhiên “đứng cả
trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán”. Chính sự kiện lạ lùng ấy đã mang đến một không khí tươi
mát, lạ lùng vào không khí u ám vì đói khát làm cho cuộc sống của những người dân nghèo
ấy có phần đổi khác so với thường ngày. Tuy nhiên, những người dân xóm ngụ cư cũng tỏ
thái độ lo lắng cho tương lai của Tràng và người vợ nhặt: “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái
của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”.
b. Nhân vật Tràng

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 38
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Niềm hạnh phúc của con người đến nhanh lắm, nó nhỏ bé nhưng lại có thể nhanh chóng làm
con người ta quên hết những ê chề, mệt mỏi, nó dường như không chân thực lắm mà đôi khi
còn khiến con người ta lơ lửng như đi ra từ giấc mơ. Chính vì thế mà khi đi bên cạnh người
vợ mới nhặt về, Tràng dường như đã quên hết tất cả cái cuộc sống ê chề, tăm tối hàng ngày
và thậm chí còn quên ngay cả cái nạn đói đang đeo bám con người ta hằng ngày. Hóa ra, nhà
văn đã hóa thân vào trong tác phẩm để có thể gửi gắm đến nhân vật của mình cái tình cái
nghĩa đậm đà, sâu sắc.
- Hạnh phúc của Tràng được xây dựng trên cái tình, cái nghĩa. Đó là tình yêu thương giữa
con người với con người trong cơn khó khăn, hoạn nạn, là cái nghĩ của một người mang hàm
ơn – trong cái lúc quẫn cùng ấy lại có một người tự dang rộng vòng tay để mình bấu víu,
nương tựa. Cũng chính bởi vậy mà nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công sức sống mãnh
liệt của tình cảm con người thiêng liêng mà bất diệt ấy để cùng nhau vươn tới một cuộc sống
tốt đẹp hơn.
- Lúc trở về nhà, cái niềm vui sướng, hạnh phúc ấy đã đã vơi đi muôn phần mà thay vào đó là
Tràng đã trở về với hiện thực, trở về với cái nghèo, với nỗi lo về sự không chấp thuận của
mẹ. Nhưng, lo lắng là thế nhưng cái niềm hạnh phúc trong anh nào có biến mất, mà ngược
lại, nó vẫn ở đó, vẹn nguyên như lúc ban đầu.
- Niềm vui của anh cũng đã làm cho cả căn nhà vẫn im lìm là vậy mà bỗng nhiên sáng bừng
sức sống. Bởi từ đây, Tràng đã nhận ra rằng: sau những ngày dài làm lụng vất vả sẽ vẫn luôn
có người chờ đợi mình ở nhà, giờ đây, mọi niềm vui, nỗi buồn của anh đều sẽ có một người
bạn để san sẻ, yêu thương.
c. Nhân vật người vợ nhặt
- Nhà văn đâu chỉ cho Tràng được thay đổi, mà ngược lại, qua cuộc trò chuyện ngắn ngủi,
tưởng chừng như trêu đùa đã khiến hai con người ấy nên duyên vợ chồng. Người đàn bà ấy
chỉ là một người cong cớn, chỏng lỏn, chỉ biết quan tâm đến miếng ăn mà giờ đây lại trở
thành vợ của người ta, chóng vánh là thế. Ấy vậy mà khi về đến nhà Tràng, khi đã trở thành
dâu nhà người ta, thì thị lại trở nên nhẹ nhàng và e lệ là thế.
- Đọc đến đây, ắt hẳn nhà văn muốn người đọc phải tự hỏi: Cái chỏng lỏn, cong cớn kia đâu
mất rồi? để giờ đây, đến chính người đọc còn thấy người vợ Tràng mới mang về lại là một
người đàn bà hiền lành, đầy ý tứ và rất lễ phép với mẹ Tràng – bà cụ Tứ khi mới nói: “U đã
về đấy ạ!” – Chỉ bằng một lời nói, một hành động, nhà văn đã khiến người đọc hiểu rằng
người đàn bà ấy đã trở thành một người con dâu thực sự, biết lắng nghe những sự khuyên dạy
của mẹ chồng.
- Nếu tưởng như đã người vợ ấy chỉ “làm bộ” như vậy thì đến sáng hôm sau, mọi thứ như
một câu trả lời thích đáng nhất. Mới sáng sớm, nàng dâu mới đã tất bật dọn dẹp, sắp xếp lại
gia đình – đó chỉ là những thay đổi tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng thấm thía đối
với cả Tràng và bà cụ Tứ. Và cứ như thế, cuộc sống gia đình, niềm hạnh phúc cũng đã làm
thay đổi thị, thay đổi tính cách và cả số phận của thị nữa.
 Kim Lân đã cố tình đặt nhân vật người vợ vào tình huống éo le như vậy để có thể nhấn
mạnh rằng: “Cái đó có lúc sẽ làm cho con người ta trở nên hèn mọn, yếu kém, nhưng đôi khi
nó sẽ không làm lu mờ hay khiến con người ta trở nên vô nhân cách mà sau cùng thì con
người vẫn luôn quay trở lại với những gì vốn có của riêng mình”.
d. Nhân vật bà cụ Tứ
- Trong nội dung của cốt truyện ấy, nhà văn còn khéo léo đưa diễn biến tâm trạng của bà cụ
Tứ.
- Khi bà cụ Tứ mới về nhà, bà thấy một người đàn bà trẻ đang ngồi trong nhà cùng con trai
của mình. Hàng loạt những câu hỏi dường như ùa về trong bà: “Người đàn bà đó là ai? Sao
lại chào mình bằng u?”. Để rồi sau tất cả đó, là một tiếng: “À”. Bà đã hiểu ra tất cả, bà lặng
im không nói. Sự không không nói gì của bà, không phải là sự không đồng ý mà ngược lại bà
lại thấy xót xa cho số phận của Tràng và người con dâu mới của mình. Rồi bà lại tự trách

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 39
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

mình, bà trách mình vì nghèo quá, mà không có đủ tiền để làm cho con mình một cái đám
cưới, bà tự trách mình đã không thể làm tròn được bổn phận của mình. Nhưng dù gì thì bây
giờ bà cũng chỉ biết vui thay cho niềm hạnh phúc của hai con mình.
- Cảm động biết bao khi kết thúc câu chuyện bằng hình ảnh nồi cháo cám – đó là món ngon
từ tinh thần chứ không phải là về vật chất. Cái đắng, cái chát của cháo cám đã được tình yêu
thương của bà cụ Tứ lấp đầy. Nhưng ẩn trong nụ cười của bà cụ Tứ ấy luôn ẩn chứa một nỗi
lo: Bà lo cho cuộc sống trước mắt của hai đứa con của mình, làm sao để có thể sống cho qua
những ngày tháng mà cái đói, cái nghèo luôn cứ đeo bám cuộc sống của gia đình bà. “Phải
chăng cái đắng chát và nghẹn bứ của nồi cháo cám cứ thế mà quẩn quanh trong cuộc sống
của gia đình bà và ngay cả đối với những người dân sống trong xóm ngụ cư?”.
3. Ý nghĩa của tình huống truyện
- Tình huống truyện trong “Vợ nhặt: không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu
chuyện mà còn nén trong đó ý đồ nghệ thuật độc đáo của nhà văn, đồng thời gợi mở các khía
cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Đặt nhân vật của mình vào tình huống bất ngờ và éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật
được nhiều ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm của mình.
- Với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo nhà văn đã thể hiện rõ chủ đề của tác phẩm
đồng thời tố cáo hiện thực xã hội đã tước đoạt hết quyền sống, quyền hạnh phúc của con
người.
- Thông qua tình huống “nhặt vợ” đầy đặc biệt, tác giả Kim Lân đã tái hiện được không khí
đói khát, chết chóc của nạn đói nhưng từ cái nền đói khát đó tác giả đã làm nổi bật lên ánh
sáng của tình người, làm bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp ở những người dân nghèo khổ.
2. Giá trị nghệ thuật
- Có thể khẳng định, truyện ngắn “Vợ nhặt” là một thành công của Kim Lân.
- Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông cũng là đỉnh cao của truyện ngắn
hiện đại Việt Nam.
 Người đọc nhớ mãi một “Vợ nhặt” với tình huống truyện độc đáo và chất nhân văn cao cả
của tác phẩm.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 40
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 3:
NHÂN VẬT TRÀNG

I. KHÁI QUÁT
- Trong tác phẩm, nhà văn Kim Lân đã khắc hoạ thành công nhân vật Tràng, một người lao
động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị.
II. PHÂN TÍCH
1. Hoàn cảnh
a. Hoàn cảnh gia đình
- Hoàn cảnh sống của Tràng là sống trong một xóm ngụ cư, đó là tập thể những con người
sống không định cư một chỗ mà chỉ sống cho qua ngày. Đặc biệt họ là những người ở nơi
khác dạt đến chứ không phải người dân chính gốc ở đây.
- Hoàn cảnh sống của Tràng là sống trong nạn đói năm 1945:
+ Gia đình chỉ còn mẹ già là bà cụ Tứ, em gái thì đi lấy chồng còn cha thì đã mất. Hai mẹ con
nương tựa vào nhau để mà sống sót qua nạn đói này.
+ Tràng thì làm nghề kéo xe bò thuê nên cũng chưa đến mức phải chết đói. Sáng nào Tràng đi
làm cũng chứng kiến biết bao nhiêu là xác người chết, rồi những người sống thì lại bồng bế
dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma. Không khí vẩn lên những mùi hôi thối tanh
tủa của xác người. Tràng làm, ăn, ngủ trong tiếng quạ kêu trên những gốc đa và tiếng người
khóc khi nhà có người chết đói.
 Tóm lại, Tràng sinh ra trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn của đất nước.
b. Hoàn cảnh bản thân
- Trước hết là ngoại hình của Tràng, khi nạn đói chưa đến xóm ngụ cư, Tràng xuất hiện với
dáng đi ngật ngưỡng, mắt một mí lại gà gà đắm vào bóng chiều. Thân hình thì to lớn vập vạp
quai hàm bạnh ra, lưng to như thân một con gấu lớn.
- Qua những nét ngoại hình ấy ai trong chúng ta cũng biết Tràng không hề đẹp nếu không nói
là quá xấu. Tràng giữ cho mình một nét thô kệch nông dân chính gốc. Thế nhưng Tràng lại
quá xấu, cái xấu ấy phải chăng tạo hóa đã ban cho anh mà không hề thương xót. Ngoại hình
của Tràng còn được nói đến khi nạn đói tràn vào xóm ngụ cư. Khi ấy Tràng không còn ngất
ngưởng vui vẻ được nữa, thay vào đó là dáng đi mệt mỏi, đầu thì về đằng trước mặt cúi gằm
lại.
 Cái đói đã làm mụ mị cả con người Tràng.
c. Nhận xét
- Với tất cả hoàn cảnh gia đình và ngoại hình như thế thì nguy cơ ế vợ của Tràng là rất cao.
Ai lại đi lấy một người xấu xí thô kệch đến thế đã vậy lại còn là dân ngụ cư nữa. Ở đây người
ta khinh những người dân ngụ cư lắm. Thế mà trong nạn đói ấy, Tràng lại lấy được vợ hay
nói như trong văn bản thì là Tràng nhặt vợ về. Ô hóa ra con người trong nạn đói cứ như rơm
rác hay mớ rau ngoài chợ có thể lựa mà nhặt mang về nhà.
- Điều mà ta thấy ở nhân vật này nữa đó chính là nét đẹp về tâm hồn. Hoàn cảnh có khó khăn,
ngoại hình có xấu xí nhưng lại có một tấm lòng vàng.
2. Tâm trạng và hành động
a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ
- Một người hội tụ đầy đủ nguy cơ ế vợ như Tràng nhưng lại lấy được vợ hết sức nhanh
chóng, chỉ qua hai lần gặp gỡ.
* Lần gặp thứ nhất:
- Lần thứ nhất, Tràng gặp người vợ nhặt của mình trong một lần kéo xe thóc lên tỉnh. Lên đến
dốc kéo xe nặng anh mới cất lên mấy câu trêu đùa mấy cô gái ngồi nhặt hạt rơi ở đường. Mấy
cô ả đẩy người vợ nhặt ra. Khi ấy cô này còn cong cớn lắm. Thế rồi ở đâu chạy đến và trách
Tràng thất hẹn nói phét. Thị bữa ấy nhìn mặt gầy hẳn đi như cái lưỡi cày vậy. Thương lòng
Tràng bảo thị ngồi ăn trầu nhưng Thị từ chối và đòi ăn cái khác. Vậy là Tràng cũng chiều

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 41
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

lòng cho Thị ăn một chập bốn bát bánh đúc, ăn xong Thị còn lấy đũa quẹt ngang mồm cất lên
một tiếng: “Hà, ngon!”.
- Những câu hò đã nhắc đến miếng ăn, vô tình tác động mạnh đến người đàn bà đã bị bỏ đói
lâu ngày, bởi vậy, thị đã ton ton chạy lại đẩy xe bò với Tràng. Cái đói đã làm cho người vợ
nhặt không còn chút duyên dáng e thẹn nào của người con gái.
 Thật ra thì Tràng cũng chẳng có mà để hào phóng với thị mà cái thời buổi ấy lo ăn cho gia
đình chẳng xong nữa là cho người ngoài. Thế nhưng chính tấm lòng vàng thương người của
anh đã khiến cho anh để cho thị ăn thoải mái một bữa.
* Lần gặp thứ hai:
- Lần gặp gỡ thứ hai, càng bất ngờ hơn khi Tràng không thể nhận ra người phụ nữ béo tốt lần
trước lại “gầy sọp hẳn đi”, quần áo thì rách rưới như tổ đỉa. Thì ra cái đói có thể hủy hoại con
người ta nhanh đến như vậy.
- Trước tình cảnh đó, ai chẳng động lòng thương cảm, đặc biệt là Tràng, một con người hết
sức hiền lành, chân chất, nhân hậu. Thương tình Tràng còn đã thị mấy bát bánh đúc, con
buông lời đùa cợt: “Này, nói đùa chứ, có về với tới thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”,
nhưng nào ngờ thị tin thật, vào theo Tràng về nhà làm vợ.
- Ban đầu, Tràng cũng thoáng sợ hãi, bởi “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có
nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng khi hạnh phúc đến, khi long thương người lấn át tất
cả, Tràng đã tặc lưỡi một cái: “Chậc, kệ!”.
 Tràng không nỡ chối bỏ một con người tội nghiệp đến vậy. Tràng mang đôi vai, dương
cánh tay giúp đỡ mặc dù hoàn cảnh của gia đình mình cũng chẳng khá khấm hơn là bao
nhiêu.
* Nhận xét:
- Câu chuyện Tràng lấy vợ quả là một câu chuyện bi hài.
+ Hài là ở chỗ Tràng lấy được vợ quá đỗi nhanh chóng dễ dàng.
+ Bi là ở chỗ nạn đói đang hoành hành, Tràng còn chưa lo nổi thân mình, lại đi đèo bòng
thêm một người khác, không chỉ vậy, đám cưới là sự kiến quan trọng của đời người lại diễn
ra hết sức qua loa, chóng vánh.
b. Trên đường về
- Sau khi nhặt được vợ, tâm trạng Tràng có sự thay đổi rõ rệt. Có ai ngờ được làm câu hôn
ngờ nghệch đã thay đổi tâm trạng và số phận của những con người trong gia đình đói khổ.
 Đời sống tinh thần chuyển những gam màu u ám, chết chóc sang ấm áp và hi vọng.
- Trong hoàn cảnh khốn cùng, Tràng vẫn khao khát hạnh phúc, có ý thức tạo dựng mái ấm gia
đình.
- Khi chấp nhận thị làm vợ, Tràng đã thể hiện sự quan tâm, chăm sóc của một người chồng:
“hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng
cơm đánh một bữa no nê…”. Tràng còn hào phóng “mua hai hào dầu để thắp sáng”.
- Trên đường về nhà, Tràng cảm nhận được niềm vui mới đang len lỏi trong từng nấc thang
suy nghĩ “phớn phở khác thường”. Thỉnh thoảng lại còn cười nụ một mình.
- Khi đi bên thị, Tràng rụt rè bỡ ngỡ khác thường, khi thì hắn đi sát người đàn bà, lúc lại lùi
ra sau một tí, hai tay cứ xoa vào vai nọ vai kia. Tràng muốn nói bông đùa đôi câu nhưng lại
cứ cảm thấy ngường ngượng.
 Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã cho người đọc thấy được diễn biến tâm lí chân thực, sinh
động của Tràng. Tràng hôm nay đã thực sự khác với Tràng hôm qua. Một cuộc hôn nhân đã
khơi dậy biết bao nhiêu cảm xúc thầm kín bên trong, bao nhiêu phẩm chất tốt đẹp chưa có
điều kiện bộc lộ.
 Cảnh đời tối tăm, sự đói khát dường như đã tạm lùi để còn lại là niềm vui sướng miên
man: “Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, cái
đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ
chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 42
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có
bàn tay vuốt ve dọc sống lưng”. Hạnh phúc đã thực sự làm thay đổi mọi thứ.
c. Khi về đến nhà
- Về đến nhà, lúc đầu Tràng cảm thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “đứng tây ngây ra giữa nhà,
chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua. Tràng vẫn sung sướng tột bực,
sung sướng đến mức không dám tin là mình đã có vợ – lại có vợ trong hoàn cảnh trớ trêu, éo
le như thế này: “hắn vẫn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”.
- Trong lúc đợi bà cụ Tứ về, Tràng nôn nóng sốt ruột, cứ đi đi lại lại. Chưa bao giờ hắn lại
thấy nôn nóng như thế.
- Khi mẹ về, hắn mừng rỡ, rối rít như trẻ con. Anh không phải là người vô tư, nông cạn mà vô
cùng sâu sắc và hiểu đời. Tràng đã ý thức được việc lấy vợ là hệ trọng cả đời, ý thức được sự
thay đổi tinh thần của mình.
 Đây là khoảnh khắc thiêng liêng mà trong hoàn cảnh đói kém đương thời, không phải ai
cũng có được.
d. Buổi sáng hôm sau
* Buổi sáng tỉnh dậy:
- Sáng hôm sau, Tràng bỗng cảm thấy mình hoàn toàn đổi khác. Tràng cảm thấy “trong người
êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”.
- Bản thân Tràng cũng không tin rằng mình đã có được vợ. Rồi Tràng chắp hai tay ra sau
lưng, bước ra sân. Anh nhận ra sự xung quanh mình mọi thứ đều có sự thay đổi vô cùng lớn:
“Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần
áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái
ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành
ngay lối đi đã hót sạch”.
- Căn nhà dường như được khoác lên mình một chiếc áo mới. Những cảnh tượng thật ấm
cúng hiện ra trước mắt của Tràng: “Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ
mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”. Chỉ là
một cảnh tượng thật giản dị, nhưng lại khiến cho Tràng thấy cảm động.
- Nếu như trước khi có vợ, Tràng chỉ là một anh con trai xấu xí, cục mịch lại có phần dở hơi.
Thì sau khi có vợ, Tràng đã hoàn toàn thay đổi về nhân thức.
- Anh cảm nhận được trách nhiệm của một người chồng, cảm thấy yêu thương cái gia đình
của mình đến lạ lùng. Trong suy nghĩ của anh tự nhủ: “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng
vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng,
phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn
có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Và suy nghĩ như vậy, Tràng liền hành động:
“Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn
nhà”.
 Kim Lân đã thật tinh tế khi khắc họa sự thay đổi của nhân vật Tràng, không chỉ là vẻ bên
ngoài mà còn là sự nhận thức bên trong.
* Trong bữa cơm đầu tiên sau khi có vợ:
- Đặc biệt hơn cả là trong bữa ăn đầu tiên sau khi có vợ. Tràng đã nhìn thấy hình ảnh một
người phụ nữ hoàn toàn khác. Không còn cái vẻ đanh đá trước đó, mà là người đàn bà hiền
hậu đúng mực. Tràng cũng thấy mẹ của mình tươi tỉnh khác hẳn ngày thường.
- Dù bữa ăn ngày đói trông thật thảm hại, nhưng gia đình Tràng ăn rất ngon miệng. Trong
bữa ăn, khi nghe mẹ tính chuyện tương lai, Tràng chỉ vâng. Tiếng vâng của anh cho người
đọc cảm nhận được không khí ấm cúng, hòa hợp trong gia đình chưa từng có trước đó.
- Đến khi bà cụ Tứ bê nồi cháo cám ra, khi thị điềm nhiên và vào miệng, bà cụ Tứ tươi cười
khen “Ngon đáo để”. Thì Tràng cầm bát cháo cám đưa lên miệng, hắn chun mặt lại vì chao
chát. Điều đó phần nào vẫn cho thấy nét trẻ con trong hành động của Tràng.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 43
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Đặc biệt đến cuối cùng, khi nghe cô vợ nhặt nhắc đến những người đi phá kho thóc Nhật,
trong óc của Tràng hiện ra hình ảnh người dân đi phá kho và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp
phới.
 Điều đó giống như là những hi vọng của Tràng vào một tương lai tươi sáng với sự đổi thay
giải phóng họ khỏi cuộc đời khổ cực.
 Như vậy, người vợ nhặt đã giúp Tràng có những thay đổi sau sắc về nhận thức.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Với nhân vật Tràng, Kim Lân đã xây dựng thành công chân dung của những con người lao
động nghèo khổ, nhưng có tấm lòng nhân hậu và tình yêu thương con người bao la.
- Ngoài ra cũng cần kể đến nghệ thuật tạo dựng tình huống đặc sắc, đặc nhân vật vào hoàn
cảnh éo le, để từ đó giúp nhân vật bộc lộ phẩm chất đẹp đẽ của bản thân.
- Tràng là hình tiêu biểu của những người lao động nghèo khổ nhưng có tấm lòng đẹp đẽ, soi
sáng, sưới ấm những đêm đen của đất nước.
2. Giá trị nghệ thuật
- Bằng ngòi bút phân tích tâm lí bậc thầy, ngôn ngữ giản dị mà điều luyện Kim Lân đã khắc
hoạ thành công nhân vật Tràng.
- Nhân vật đã vẽ nên chân thực cuộc sống của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945.
- Đồng thời cũng thể hiện sự cảm thông, tin yêu của Kim Lân với số phận những người nông
dân bất hạnh vào tương lai tươi sáng của họ.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 44
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 4:
NHÂN VẬT NGƯỜI VỢ NHẶT

I. KHÁI QUÁT
- Bằng óc quan sát tinh tế và tấm lòng đồng cảm sâu sắc với số phận con người, Kim Lân đã
thực sự làm bạn đọc xúc động khi xây dựng thành công hình tượng nhân vật người vợ nhặt và
qua đó thể hiện rất rõ số phận của người phụ nữ trong tác phẩm.
II. PHÂN TÍCH
1. Lai lịch
- Người phụ nữ Việt Nam trong văn học mỗi khi được nhắc đến sẽ rất mong manh, rất yếu
đuối vì chịu một sự hà hiếp, sự áp bức của xã hội.
- Thị, một người đàn bà không tên, không tuổi mà Kim Lân chỉ nhắc tới bằng những đại từ
phiếm chỉ. Không rõ ràng và đầy mơ hồ, cũng như số phận của thị, người đàn bà “nhặt hạt rơi
hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm”.
- Thị là bất kì người đàn bà nghèo khổ nào đấy ngoài kia đang bị cái đói, cái khổ bủa vây.
- Nhắc tới thị bằng hai tiếng “vợ nhặt” sao mà thê lương tới thế. “Vợ” không được cưới hỏi,
không được đưa rước về nhà chồng mà là “nhặt” về, lượm về cũng như một món hàng bị rẻ
rúng.
 Kim Lân dường như đã cho thấy giá trị bần cùng, thấp kém của con người trong xã hội
vào những năm 1945 ấy:
+ Một thời buổi đầy loạn lạc, bi thương như màu sắc của xóm làng buổi xế chiều “hai bên
dày phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa bóng người đói dật dờ đi lại lặng lẽ
như bóng ma”.
+ Khung cảnh đầy thê lương như dâng lên tột bậc với tiếng quạ “cứ gào lên từng hồi”.
2. Chân dung ngoại hình qua hai lần gặp gỡ Tràng
a. Lần gặp gỡ thứ nhất
- Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước
cổng chợ tỉnh.
- Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc” “Muốn ăn cơm trắng mấy giò!/ Lại đây mà
đẩy xe bò với anh, nì!”, thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, liếc mắt, cười tít”.
 Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ. Đây chính là sự
hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
b. Lần gặp gỡ thứ hai
- Lần gặp gỡ thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn, đó là người phụ nữ gầy vêu
vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng
hoáy”.
- Có thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp
hơn nữa. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm.
Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”.
- Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ
ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà
xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”.
 Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.
 Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc
vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.
3. Phẩm chất
a. Có khát vọng sống mãnh liệt
- Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét:
+ Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn
bà lại cảm thấy xấu hổ.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 45
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

+ Trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư.
+ Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia, cái nón rách tàng che
nửa khuôn mặt”.
- Về đến nhà chồng, nhìn thấy “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn
những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”.
 Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà
thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách.
 Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan
và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách của
mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý
biết bao.
b. Là người ý tứ, nết na
- Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“ngồi mớm” thế ngồi bấp
bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào
đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ
chồng.
- Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.
- Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
c. Buổi sáng hôm sau
- Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách:
+ Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa.
+ Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua Thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn
bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu.
+ Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: “Tràng nom thị hôm nay khác
lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như
những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước
sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có
sức cảm hóa với thị.
- Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi
người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng Thị vẫn vui vẻ, bằng lòng.
 Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng.
d. Có niềm tin vào tương lai
- Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang
người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho
người đói nữa đấy”.
- Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa
chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to
lắm”.
 Qua đó, ta thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là “người truyền tin cách mạng”.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Người vợ nhặt là một sáng tạo của Kim Lân.
- Thông qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người ta
dù sống trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai và không bao giờ
mất đi niềm tin vào sự sống.
- Thông qua hình ảnh nhân vật thị nhà văn như phanh phui, lột trần bộ mặt thối nát của bọn
thực dân và bọn cường quyền lộng hành, chính vì tội ác của chúng mà làm thân phận con
người chỉ đáng vài bát bánh đúc, chính chúng là thủ phạm hủy hoại tương lai của biết bao con
người.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 46
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Chính thị là một hình tượng mà nhà văn Kim Lân đã dựng lên để nói với nhân dân và bè lũ
độc ác kia rằng người phụ nữ Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung không
bao giờ từ bỏ sự sống ở bất cứ hoàn cảnh nào.
2. Giá trị nghệ thuật
- Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lân đặt vào tình huống hết sức độc đáo, từ đó nhân vật
bộc lộ tâm trạng, cách hành xử của bản thân.
- Nhân vật được tập trung khắc họa ở cử chỉ, hành động qua đó làm bật lên vẻ đẹp của người
vợ nhặt.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 47
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 5:
NHÂN VẬT BÀ CỤ TỨ

I. KHÁI QUÁT
- Trong tác phẩm, bên cạnh nhân vật Tràng, người vợ nhặt, nhân vật bà cụ Tứ cũng được xây
dựng rất thành công bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế, qua đó ta có thể thấy rõ tấm lòng,
đức hi sinh của một người mẹ nông dân trước cách mạng.
II. PHÂN TÍCH
1. Giới thiệu nhân vật
- Bà cụ Tứ là mẹ của anh cu Tràng.
- Trong tác phẩm, bà xuất hiện trước người đọc trong bóng hoàng hôn tê tái, người mẹ nghèo
khổ “húng hắng ho” chẳng khác nào một cái bóng đi vào ngõ.
- Trước mái tranh đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại.
- Nhà văn đặt nhân vật vào hoàn cảnh bất ngờ đó là việc đứa con trai đưa một người đàn bà
về nhà làm vợ vào giữa ngày đói khủng khiếp và cái chết đang rình rập gõ cửa từng nhà.
- Viết về bà cụ Tứ nhà văn đi sâu vào phân tích tâm lí và tấm lòng nhân ái đáng quý đáng
trọng của bà đối với con cái của mình.
2. Diễn biến tâm trạng
a. Khi về nhà thấy Tràng mừng rỡ
- Cụ về đến đầu cổng cái ho thúng thắng của tuổi già cất lên, cụ thấy bất ngờ khi Tràng tỏ ra
vui mừng đến thế.
- Sau câu nói cất lên “U đã về đấy!” cùng với tâm trạng và hành động của Tràng linh cảm của
một bà mẹ như giúp bà nhận ra rằng có một điều gì đó bất bình thường. Chính vì thế cụ Tứ lo
lắng lắm và cứ thế tâm lí của cụ càng ngày càng diễn biến đến tầm cao hơn.
- Từ lo lắng bất thường cụ ngạc nhiên khi thấy sao lại có người đàn bà nào ngồi đầu giường
thằng con trai mình thế kia. Những câu hỏi liên tiếp được cất lên cho thấy tâm trạng bối rối
của người mẹ. bà chưa biết là ai nhưng linh cảm cho bà thấy một điều bất thường và cuối
cùng thì nó đã đến.
 Bước chân của cụ Tứ bước vào đến nhà cũng là tâm lí đạt tới đỉnh điểm.
b. Khi Tràng giới thiệu người đàn bà xa lạ
- Từ chỗ ngạc nhiên khi người đàn bà ấy lại gọi bà bằng “u” đến chỗ Tràng nói “Kìa nhà con
nó chào u”. Đọc đến đây ta như cảm tưởng được cụ Tứ đang mắt tròn mắt dẹt nhìn người đàn
bà rồi lại nhìn con mình mà không hiểu. Và tai bà dường như không nghe thấy gì nữa. Một
cảm giác khó tả diễn ra trong người phụ nữ ấy.
- Thế rồi bà như vỡ lẽ ra mọi chuyện khi Tràng nói thêm về tình cảnh này. Bà buồn bà giấu
những giọt nước mắt của mình mà chấp nhận. Tại sao vậy đáng ra nhà có hỉ thì phải vui mới
đúng chứ thế mà ở đây bà lại khóc. Không phải bà không thích có con dâu nhưng trong hoàn
cảnh miếng ăn còn chưa lo được thì lấy nhau về lại chỉ khổ thêm. Vì thế bà buồn bà thương
con trai mình rồi nhìn người đàn bà vân vê tà áo đã rách bợt cũng thấy thương cô ấy.
- Vậy nên bà nhắm mắt mà chấp nhận: “Thôi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u
cũng mừng long…”.
- Có thể nói sau cái gật đầu kia là cả một nỗi lòng người mẹ, lo lắng cho con với cuộc sống
sau nay. Bà thì thế nào cũng được nhưng bà không muốn con của bà thì bà muốn nó được
sống cho qua cái tao đoạn này. Những cảnh tượng khói mờ mịt bên ngoài như nói thay cho
tâm hồn của người mẹ ấy.
- Khi bà đã vơi đi nỗi lòng ấy bà với trách nhiệm của người mẹ bà như khơi sáng cho con
mình những ý nghĩ tốt đẹp cho tương lai.
- Bà nói rằng “không ai giàu ba họ không ai khó ba đời cả”, vì thế chỉ cần qua cái giai đoạn
này thì chính họ yên bề gia thất. Bà lấp đi trong chính mình cái thực tại đen tối để rồi cùng
con cái mình nghĩ về những chuyện tương lai.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 48
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

c. Buổi sáng hôm sau


- Buổi sáng hôm sau với bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới, bà dậy sớm cùng con dâu sửa
soạn lại căn nhà quét dọn sạch sẽ mong chờ những điều tốt đẹp sẽ đến. Và ta cũng cảm thấy
được những nét tâm trạng vui vẻ của bà khi thấy con mình hạnh phúc. Bữa cơm ấy bà là
người nói nhiều nhất dường như bà không thể nào dấu đi niềm vui trong lòng mình.
- Bà nói với Tràng về việc chỗ kia sẽ làm một cái chuồng gà nuôi hai con gà để mỗi ngày nó
đẻ trứng ra ăn.
- Niêu cháo đơn sơ ấy chỉ vẻn vẹn có nồi cháo hoa thế nhưng mọi người ăn rất ngon cũng
như bà đang rất vui.
- Hết cháo bà quyết định mang nồi “chè” đãi các con. Thật ra thì đó là cám thế nhưng bà
không muốn các con đói và bà cũng muốn níu giữ cái không khí vui vẻ hạnh phúc ấy. Biết
rằng Tràng và vợ thấy chát ở trong lòng nên bà an ủi rằng nhiều người còn không có cám mà
ăn.
 Vậy là người mẹ ấy với những phẩm chất của mình đã đem đến cho các con những niềm
yêu thương niềm tin vào tương lai.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Nhân vật bà cụ Tứ có thể xem là hình tượng chung của những người mẹ Việt Nam nghèo
khổ, từng trải và hiểu biết: người mẹ hết lòng yêu thương con, cảm thông cho những số phận
cùng cảnh ngộ và không ngừng hi vọng về cuộc sống gia đình hạnh phúc về sau.
2. Giá trị nghệ thuật
- Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình
để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi vợ chồng trẻ.
- Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ Việt Nam.
Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 49
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 6:
GIÁ TRỊ HIỆN THỰC TRONG
TRUYỆN NGẮN “VỢ NHẶT” CỦA NHÀ VĂN KIM LÂN

I. KHÁI QUÁT
- Trong tác phẩm “Vợ nhặt”, bức tranh hiện thực hiện lên dưới ngòi bút của Kim Lân bằng
những câu văn nhẹ nhàng, nhưng vô cùng ám ảnh và u ám.
II. PHÂN TÍCH
1. Giải thích
- Giá trị hiện thực là những điều diễn ra trong cuộc sống, được tác giả nhìn thấy và đưa vào
tác phẩm một cách tinh tế tạo nên ý nghĩa phản ánh hiện thực của một thời kì, một chế độ
trên nhiều góc độ khác nhau.
 Đây là yếu tố cốt lõi của một tác phẩm văn học, nhất là văn học hiện thực, là bức tranh
phác họa cuộc sống một cách kĩ lưỡng nhằm nêu bật lên được những đặc điểm điển hình của
một thời kì, giai cấp nào đó.
- Giá trị hiện thực của các tác phẩm văn học phần lớn đều mang tiếng nói chung của đại đa số
quần chúng đương thời, là bản cáo trạng đối với những thói hư tật xấu và là tiếng lòng thổn
thức của những người thấp cổ bé họng, không có tiếng nói trong xã hội bấy giờ.
2. Kim Lân đã phản ánh một cách chân thực tình cảnh khốn khổ của người nông dân
trong nạn đói những năm 1944 – 1945 thông qua ba nhân vật Tràng, người vợ nhặt và
bà cụ Tứ
a. Nhân vật Tràng
- Người nông dân đầu tiên hiện lên ấy là Tràng, một chàng trai còn trẻ, vô tư, nhưng cuộc
sống nghèo khổ, sống vật vờ lay lắt như một cành củi khô dưới bầu trời u ám, ngày ngày lao
động quần quật với công việc kéo xe.
 Cái đói, cái khổ những năm tháng ấy khiến một anh con trai vốn sức vóc cũng trở nên tiều
tụy, mệt mỏi “Tràng cúi đầu bước từng bước chậm chạp”, tàn tạ vô cùng.
b. Nhân vật thị
- Còn thị, một người đàn bà, bị cái đói hành hạ đến độ cong cớn, sưng sỉa vì miếng ăn, rồi
cuối cùng vì bốn bát bánh đúc mà đánh đổi cả một đời làm vợ người.
 Thị đã ở bên bờ vực của cái chết, nên thị phải chấp nhận mang trên mình cái danh người
“vợ nhặt”, tựa như cọng rơm, cọng rác vứt đâu đó ngoài xó chợ.
c. Bà cụ Tứ
- Cuối cùng là bà cụ Tứ, một người đàn bà tội nghiệp, tuổi cao sức yếu, đáng lí ra nên ở nhà
bồng cháu, bồng chắt, thế nhưng bà vẫn đăm đăm nỗi lo không lấy được vợ cho đứa con trai
duy nhất, rồi cả nỗi lo đói kém, bà vẫn phải lao động miệt mài, với một tương lai u ám và một
tia niềm tin còn lóe sáng, rằng cầm cự được qua cơn đói này tương lai sẽ tốt hơn.
3. Xóm ngụ cư
- Đó là nạn đói qua số phận ba nhân vật chính, nhưng nó còn khủng khiếp hơn khi người ta
nhìn ra ngoài kia, nơi những con người của xóm ngụ cư đang đếm từng bước đến nghĩa địa.
- Có thể nói rằng chưa từng có một nhà văn nào lại có thể vẽ ra một bi kịch nạn đói kinh
hoàng và ám ảnh đến thế, những người dân tản cư, bồng bế, dắt díu nhau nhếch nhác “xanh
xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”, cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí
vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.
- Khung cảnh thê lương, tối tăm và lạnh lẽo, “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng
ma”, cùng với “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp”,
như tiếng vẫy gọi đầy ám ảnh của tử thần.
- Có thể nói rằng nạn đói đã biến một ngôi làng thành nơi mà cái chết hiện diện, bao trùm
khắp không gian và thời gian, khiến con người ta không thể trốn chạy, vật vờ, ngột ngạt và
tuyệt vọng.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 50
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Bức tranh hiện thực của Kim Lân hiện lên tàn khốc đến nỗi con người ở đây dường như đã
nhìn thấy cái chết của mình, và đang chậm rãi chờ nó tới “khó ai có thể tin mình sống nổi”
trong đó có cả ba con người đang cầm cự là Tràng, thị và cụ Tứ.
 Xóm ngụ cư ấy dường như đã bước một bàn chân sang nghĩa địa, sự sống và cái chết chỉ
là một bức màn mỏng, mong manh vô cùng, động một cái thôi là đã có vài người ngã xuống,
thảm hại và bi thương.
4. Bức tranh sinh hoạt gia đình Tràng
- Bi kịch nạn đói còn thể hiện cả trong đời sống của gia đình Tràng, “bữa cơm ngày đói trông
thật thảm hại, giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với
cháo”.
- Nếu trong cảnh khác, mà không phải nạn đói, có lẽ chẳng ai nuốt nổi bữa cơm “đạm bạc”
ấy, thế nhưng cả nhà Tràng đều ăn rất ngon lành vui vẻ.
- Nhưng gây ấn tượng và có giá trị phản ánh hiện thực sâu sắc nhất vẫn là hình ảnh nồi cháo
cám mà bà cụ Tứ bảo là món “chè khoán” mừng tân hôn. Vị đắng ngắt, nghẹn ứ nơi cổ họng
của Tràng chính là mùi vị khốn khổ của những năm tháng kinh hoàng ấy, con người ta tàn tạ
đến mức phải ăn cả thức ăn của gia súc để giành giật lại sự sống. Và còn biết bao nhiêu cảnh
đời khốn khổ vật vạ, không có cả cám để ăn rồi chờ thần chết đến đến mang mình đi.
- Rồi ám ảnh đến mức trong đêm tân hôn của Tràng và thị Kim Lân vẫn đặt vào đó “Tiếng ai
hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”, u ám và thiểu não càng làm nổi bật lên cái
hiện thực khốc liệt của người nông dân trong nạn đói.
III. TỔNG KẾT
- “Vợ nhặt” của Kim Lân là một tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc, người ta thấy ở đó một
nạn đói kinh hoàng với những sinh linh bé nhỏ, tàn tạ bước từng bước lần về nghĩa địa, thấy
được cái không khí tang thương, u uất, tràn ngập mùi tử thi bao trùm trên xóm nhỏ. Đồng
thời có ý nghĩa phản ánh sự tàn ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật – những kẻ đã gây ra
thảm kịch cho hơn hai triệu đồng bào phải chết đói ở miền Bắc nước ta.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 51
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 7:
GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG
TRUYỆN NGẮN “VỢ NHẶT” CỦA NHÀ VĂN KIM LÂN

I. KHÁI QUÁT
- “Vợ nhặt” của Kim Lân là một truyện ngắn mang đậm giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc
bởi sự xót thương của Kim Lân dành cho những số phận bất hạnh, sự trân trọng vẻ đẹp tâm
hồn cũng như niềm khát khao hạnh phúc, hướng tới tương lai của những con người dưới đáy
xã hội.
II. PHÂN TÍCH
1. Giải thích
- Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm văn học rất phong phú và đa dạng: Đó là biểu hiện của
lòng yêu nước thương nòi, lên án tố cáo các thế lực tàn bạo chà đạp lên con người.
- Đồng thời, khẳng định đề cao phẩm chất, tài năng, những khát vọng chính như khát vọng về
quyền sống, quyền hạnh phúc, công lí và chính nghĩa, đề cao đạo lí tốt đẹp giữa người với
người.
2. Nạn đói khủng khiếp năm 1945
a. Cái đói bao trùm khắp nơi và tràn đến cái xóm nghèo của dân ngụ cư
- Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã phản ánh nỗi đau khổ tột cùng của nhân dân ta, người nghèo
trong trận đói năm Ất Dậu.
- Đoàn người từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau
lên “xanh xám như những bóng ma” nằm ngổn ngang khắp các lều chợ.
- Quạ đen đậu trên những ngọn cây bay vù lên “như những đám mây đen” trên nền trời. Mùi
gây của người vẫn lên khắp xóm chợ. Người chết đói như ngả rạ. Sáng nào cũng thấy bốn cái
thây nằm còng queo bên đường!
3. Tình cảnh của gia đình Tràng
* Tình hình của bà mẹ con Tràng và người vợ nhặt:
- Đói và chết đó đâu chi riêng ai! Mẹ con Tràng, cái nhà “vắng teo đứng rúm ró” trên mảnh
vườn đầy cỏ dại.
- Cửa nhà là một tấm phên rách. Niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. cơ
ngơi ấy đã làm cho nàng dâu mới thất vọng “nén một tiếng thở dài”.
- Bà cụ Tứ “mặt bủng beo u ám”.
- Anh cu Tràng “bước mệt mỏi”, cái đầu “trọng nhẵn chúi về đằng trước” với bao lo lắng,
chật vật. Hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần “tả tơi như tổ đỉa “gầy sọp hẳn đi”,
khuôn mặt lưỡi cày “xám xịt”, chỉ còn thấy hai con mắt.
- Con đường phía trước của thị là vực thẳm, là chết đói. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả. Chỉ
nghe Tràng nói “muốn ăn gì thì ăn”, thấy anh ta vỗ vỗ vào túi khoe “rích bố cu”, hai con mắt
“trũng hoáy” của thị tức thì “sáng lên”.
- Tình tiết thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, trông có vẻ thô lỗ, nhưng không đáng
chê, trái lại rất đáng thương. Thị đang đói, Thị đã nhịn đói nhiều ngày, thị cần được ăn, thị
cần được sống.
 Kim Lân rất nhân hậu khi nói về thị, khi nói về sự đói khát của người nghèo.
* Tình cảm xót xa của bữa cơm đón nàng dâu mới (nồi cháo loãng và bát cám):
- Cái xóm ngư cụ càng về chiều “càng xơ xác, heo hút”, nhà cửa “úp súp,tối om”, nhưng
khuôn mặt “hốc hác u tối”.
- Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi cháo cám.
- Người con gái giữa trận đói như một thứ vứt đi, có thể “nhặt” được.
- Thị lấy chồng không một quả cau, không một lá trầu, chẳng có quan tám tiền cheo, quan
năm tiền cưới, lại đèo buồng cau”.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 52
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng, nàng dâu mới “khép nép”, “cúi mặt xuống tay vân vê
tà áo đã rách bợt”.
- Tối tân hôn “tiếng khóc tỉ tê” của những gia đình có người mới chết đó vọng đến thê thiết
não nùng. Sáng tinh mơ tiếng trống thúc thuế dội lên từng hồi “dồn dập, vội vã”.
 Bằng những chi tiết rất hiện thực, rất điển hình, Kim Lân đã thể hiện tình cảm xót thương,
lo âu cho số phận của người nghèo khổ trước hoạn nạn, trước nạn đói đang hoành hành. Đáng
quý hơn nữa, ông đã đứng về phía nhân dân, về phía người nghèo vạch trần và tố cáo tội ác
của Nhật – Pháp, bắt trồng đay, bắt đóng thuế, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, gây ra trận
đói năm Ất Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta ở miền Bắc bị chết đói.
4. Sự cưu mang, niềm hi vọng của người lao động nghèo khổ
a. Tình huống Tràng có vợ, “nhặt” được vợ và ý nghĩa
- Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã biểu lộ một tấm lòng trân trọng đối với hạnh phúc của con
người.
 Cách kể của Kim Lân rất hóm hỉnh về tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ và những
tình tiết xoay quanh nàng dâu mới.
- Chỉ một vài câu “tầm phơ tầm phào”, Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc thế mà hắn nhặt được
vợ! Nhặt được vợ nhưng hắn cùng phải liều: “Chậc, kệ!”.
- Hắn nghĩ thóc gạo này nuôi thân còn khó, lại còn “đèo bòng”.
- Trên đường dẫn vợ mới “nhặt” được về nhà xin phép mẹ già, anh cu Tràng vui như mở cờ
trong bụng.
- Kim Lân tả đôi mắt và nụ cười của anh con trai cục mịch này để làm nổi bật niềm hạnh
phúc mới nhặt được vợ.
- Tràng “phởn phơ khác thường”:
+ Hắn “tủm tỉm cười nụ”.
+ Hai mắt “sáng lên lấp lánh”, có lúc cái mặt hắn “cứ vênh lên tự đắc với mình”.
- Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông “hay đáo để”.
- Tràng khoe hai hào dầu, rồi cười hì hì, bị thị “phát đánh đét” vào lưng với câu mắng yêu:
“Khỉ gió”.
- Nghểnh cổ thổi tắt phụt ngọn đèn con, bị thị mắng: “Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”.
 Những tình tiết ấy rất hay nói lên tình yêu mạnh hơn cái chết.
b. Ánh sáng của hơi ấm hạnh phúc gia đình giữa lúc nạn đói hoành hành
* Cảnh gia đình Tràng, căn nhà, mảnh vườn trong buổi sáng hôm sau:
- Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động:
+ Vượt qua phong tục tập quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm, bà cụ Tứ thương
người đàn bà xa lạ, thương con và thương mình, bà nhận nàng dâu mới: “Ừ thôi thì các con
đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng long…”.
+ Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này,
mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được...”.
+ Bà dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là “con”. Lòng đầy thương xót, bà nói với hai
con: “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá!”.
 Qua đó ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động nghèo khổ đứng trước tai họa,
họ đã dựa vào nhau, san sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách,
hướng tới ngày mai với niềm tin và hi vọng: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Người đọc cảm
thấy ngọn đèn “vàng đục” chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng là ngọn
đèn hy vọng và hạnh phúc ấm no.
- Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất trong
truyện ngắn “Vợ nhặt”.
+ Bà cụ Tứ gọi là “chè khoán, ngon đáo để”. Bà tự hào nói với hai con là “xóm ta khối nhà
còn chả có cám mà ăn đấy”.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 53
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

+ Trong bữa cháo cám, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cái gia đình
mẹ con vô cùng “đầm ấm hòa hợp” hạnh phúc.
+ Sau này, vợ chồng cái Tràng có thể có những bữa cơm nhiều thịt cá ngon lành hơn, nhưng
không bao giờ có thể quên được bữa cháo cám buổi sáng hôm ấy. Vị cháo “đắng chát” mà lại
ngọt ngào chứa đựng bao tình thương của mẹ.
 Kim Lân sống gần gũi người nhà quê, ông hiểu sâu sắc tâm lí, tình cảm của họ. Ông đã
làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc đời của ông cảm nhận được cái
hương đời, cái tình thương của lòng mẹ, mà không một cao lương mĩ vị nào có thể sánh
được? Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đời của người dân
cày Việt Nam.
- Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ tinh nghịch reo lên: “Chông vợ hài”.
- Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm cảm thấy “có một cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào
cuộc sống đói khát, tăm tối của họ”.
- Bà cụ Tứ vui sướng vì con trai đã có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm tươi tỉnh “rạng rỡ hẳn
lên”.
- Vợ Tràng trở thành người đàn bà “hiền hậu đúng mực”.
- Tràng như từ một giấc mộng bước ra. Anh ngủ dậy cảm thấy lửng lơ". Hạnh phúc đến quá
bất ngờ. Việc hắn có vợ sau một ngày một đêm mà hắn “vẫn ngỡ ngàng như không phải”.
Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật.
- Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu dọn lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt.
Hai cái ang được kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được sạch.
Mẹ chồng, nàng dâu mới, con trai, ai cũng muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh
phúc. Họ không nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống về hạnh phúc và sự đổi đời. Tràng
cảm thấy hắn đã “nên người”, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này!
* Niềm hi vọng của họ về sự đổi thay số phận hướng về cuộc cách mạng:
- Một chi tiết rất hay là vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin ở mạn Thái
Nguyên, Bắc Giang, người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật chia cho người
đói. Còn anh cu Tràng thấy trong óc mình “lá cờ đỏ bay phấp phới”.
- Cách mạng sắp đến. Nạn đói sẽ bị đẩy lùi.
 Hình ảnh lá cờ đỏ truyện ngắn “Vợ nhặt” không chỉ tô đậm giá trị nhân đạo mà còn tạo
nên âm hưởng lạc quan đầy chấn động, như một dự cảm về ngày mai ấm no, hạnh phúc.
III. TỔNG KẾT
- Giá trị nhân đạo của tác phẩm làm nên niềm tin cho những con người lao động nghèo khổ,
khốn khó:
+ Nó chính là bản năng sống, khát khao được hạnh phúc của mỗi con người.
+ Nó thể hiện sự nhân văn, nhân đạo của tác giả Kim Lân khi đồng cảm với người nông dân,
nhân vật của mình.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 54
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

CHUYÊN ĐỀ 2:
VỢ CHỒNG A PHỦ (Tô Hoài)

TIẾT 8:
TÌM HIỂU VỀ NHÀ VĂN TÔ HOÀI
VÀ TRUYỆN NGẮN “VỢ CHỒNG A PHỦ”

I. NHÀ VĂN TÔ HOÀI (1920 – 2014)


1. Cuộc đời
- Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, quê ở Hà Đông (nay thuộc Hà Nội).
- Xuất thân trong một gia đình thợ thủ công.
2. Sự nghiệp sáng tác
- Tô Hoài bước vào con đường văn học bằng một số bài thơ có tính chất lãng mạn và một
cuốn truyện vừa, viết theo dạng võ hiệp, nhưng rồi ông nhanh chóng chuyển sang văn xuôi
hiện thực và được chú ý ngay từ những sáng tác đầu tay.
- Ông là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam.
3. Phong cách nghệ thuật
- Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật của đời thường.
- Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau
trên đất nước ta.
- Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của
người từng trải, vốn từ vựng giàu có.
II. TRUYỆN NGẮN “VỢ CHỒNG A PHỦ” (1952)
1. Xuất xứ
- Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (1952) in trong tập “Truyện Tây Bắc”, là một trong những
tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài.
2. Hoàn cảnh sáng tác
- Truyện ngắn này là kết quả của chuyến đi kéo dài tám tháng khi tham gia chiến dịch Tây
Bắc, sống và gắn bó nghĩa tình với đồng bào dân tộc của nhà văn.
3. Chủ đề
- Tác phẩm phản ánh số phận đau thương và quá trình đến với con đường tự do, con đường
cách mạng của các dân tộc ít người ở Tây Bắc.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 55
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 9:
VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI NHÂN VẬT MỊ

I. KHÁI QUÁT
- Trong truyện, tác giả đã gửi gắm trọn vẹn nhất những tình cảm của mình vào nhân vật Mị,
một cô gái đại diện cho vẻ đẹp và phẩm chất con người Tây Bắc.
II. PHÂN TÍCH
1. Sự xuất hiện và cảnh ngộ của Mị
- “Vợ chồng A Phủ” mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lí
và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô
gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi,
thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt
buồn rười rượi”.
- Hình ảnh người con gái với vẻ mặt và ánh mắt vô hồn bên cạnh cái quay sợi, tảng đá, tàu
ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười
rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ, bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức
mạnh tiềm tàng.
 Tô Hoài đã rất khéo léo khi gợi tả hình ảnh của Mị qua những cử chỉ và nét mặt đặc trưng
đó. Một sự đối lập đến đau lòng giữa căn nhà rộng lớn của thống lí và sự lầm lũi, côi cút của
người con gái bí hiểm đó.
2. Cuộc đời của Mị (thân phận nô lệ)
a. Trước khi làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra
* Là cô gái trẻ đẹp, có tài thổi sáo:
- Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp.
- Sức hấp dẫn của Mị tựa như những bông hoa rừng Tây Bắc đầy mê hoặc.
- Vào những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị. 
- Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi, uốn chiếc lá trên môi, thổi lá
cũng hay như thổi sáo”.
- Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương.
- Quả thế, Mị đã được yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước
trước âm thanh hò hẹn của người yêu.
 Nhân vật Mị được tô Hoài miêu tả như bông hoa rừng rực rỡ với những nét phẩm chất
đáng quý: trẻ trung, nhan sắc, tài năng và yêu đời. Thế nhưng “bông hoa tinh khiết của núi
rừng Tây Bắc” không được hưởng hạnh phúc mà bị nhấn chìm trong kiếp sống tôi đòi, khổ
nhục.
* Là người con hiếu thảo, tự trọng:
- Khi thống lí bá tra cho Mị về làm dâu xóa nợ Mị đã nói với bố: “Con nay đã biết cuốc
nương làm ngô, con phải làm nương ngô để giả nợ thay cho bố”.
 Câu nói ấy cho thấy Mị là một người con hiếu thảo khi đã biết làm lụng chăm chỉ để gánh
đỡ vất vả, trả nợ cho cha.
- Không những thế, Mị còn là người không ham mê giàu sang, phú quý: “Bố đừng bán con
cho nhà giàu”:
+ Trong hoàn cảnh khó khăn như Mị ai mà chẳng mong ước được đổi đời, ai cũng muốn
thoát khỏi cảnh nợ nần chồng chất.
+ Trong xã hội phong kiến xưa, cách phổ biến nhất đó là được gả cho con nhà giàu sang, hào
phú.
 Thế nhưng với Mị ở đây lại ngược lại, với Mị, giàu sang hay phú quý đều chẳng thể làm
mờ mắt con người. Duy chỉ có tình yêu thương, hiếu thảo với cha là sáng mãi.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 56
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Khi thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị “cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ
cho” thì Mị bảo bố rằng: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả
nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.
 Câu nói là sự lựa chọn dứt khoát đầy bướng bỉnh ngang ngạnh của Mị. Câu nói chất chứa
tinh thần phản kháng, quyết liệt, niềm khát khao tự do của Mị. Mị thà chấp nhận làm nương,
làm rẫy cực nhọc để được tự do còn hơn làm dâu con nhà giàu mà phải buộc mình vào kiếp
nô lệ.
* Là người có khát vọng tình yêu, tự do:
- Bên cạnh đó, Mị là người có khát vọng tình yêu tự do.
- Mị là một cô gái trẻ, đẹp, có khát khao chính đáng nhưng phải bị bắt làm con dâu gạt nợ cho
nên ban đầu Mị phản kháng quyết liệt.
b. Khi về làm dâu nhà thống lí
* Nguyên nhân:
- Tuổi thanh xuân hứa hẹn với cô bao điều tốt lành, nhưng chỉ vì món nợ cha mẹ cô vay của
tên thống lí Pá Tra từ ngày cưới, cho đến khi mẹ cô đã chết mà vẫn chưa trả được nên Mị bị
bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà hắn.
 Mị là con nợ đồng thời cũng là con dâu nên số phận đã trói buộc Mị đến lúc tàn đời.
* Mị trẻ, đẹp, có khát khao chính đáng nên ban đầu Mị phản kháng quyết liệt:
- Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị phải âm thầm chịu đựng bao nỗi bất công, thời gian đầu, đêm
nào Mị cũng khóc thương cho số phận, cho cảnh hẩm hiu của đời mình, nàng đã bỏ hết tất
thảy để tìm đến cái chết bằng nắm lá ngón để giải thoát những uất ức, khổ đau kìm nén bấy
lâu. Nhưng khi nghĩ về cha, thương cha nàng lại không đành lòng, đành phó mặc cuộc sống,
chấp nhận cuộc đời cơ cực với kiếp nô lệ đau thương của mình.
- Đã có lúc Mị muốn tìm đến cái chết để giải thoát bản thân mình nhưng nghĩ đến cảnh người
cha già, thương cha nên cô đành chấp nhận cuộc sống hiện thực.
- Niềm khát khao sống, khát khao yêu trong con người Mị dường như đã không còn. Mị chấp
nhận sống, chấp nhận sự tồn tại như đã chết.
 Bên trong Mị vẫn còn tiềm ẩn sức sống rất mãnh liệt, chỉ chờ thời cơ thì sức sống sẽ bùng
nổ.
* Nỗi cực nhọc về thể xác:
- Nhà văn đã để lại ấn tượng về khoảng thời gian mà Mị đã sống trong nhà thống lí: “Lần lần,
mấy năm qua, mấy năm sau”, chỉ mấy năm thôi nhưng chắc là lâu lắm. Nếu đó là những năm
tháng hạnh phúc thì đâu có gì để nói, nhưng đây lại là những năm tháng Mị phải kéo lê cuộc
sống của mình trong đau khổ, trong sự xói mòn, mất mát dần của cảm xúc tâm hồn.
- Điều đáng ngạc nhiên là đến chính Mị cũng chẳng còn nhớ cuộc sống trong chốn địa ngục
trần gian ấy đã diễn ra trong bao nhiêu năm nữa: “Mị cũng không nhớ nữa”. Cái khoảng thời
gian không xác định ấy tưởng chỉ mang tính chất giới thiệu thôi mà gợi lên biết bao thương
xót, ngậm ngùi.
- Mấy tháng đầu khi về làm dâu nhà thống lí, Mị đau khổ, đêm nào Mị cũng khóc, Mị trốn về
nhà với nắm lá ngón trên tay, định gặp cha rồi chết. Đó không phải là hành động tích cực
nhưng trong hoàn cảnh của Mị lại là biểu hiện của ý thức phản kháng.
- Khát vọng được sống một cuộc sống xứng đáng đã thôi thúc Mị tìm đến cái chết như một sự
giải thoát. Nhưng lần ấy, Mị không thể chết, vì Mị thương cha. Bây giờ, cha Mị là người thân
duy nhất của cô cũng đã chết được mấy năm, không có gì rang.
- Thật chua xót làm sao, hóa ra, cái môi trường độc địa kia đã ngấm vào trong Mị, đau khổ đã
đồng hóa Mị, khiến Mị quen dần với nó, chấp nhận nó như một phần cuộc sống của mình: “Ở
lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”.
- Người đời thì quen ăn sung mặc sướng, Mị thì “quen khổ”, chua xót làm sao. Và càng chua
xót hơn, khi cái sự “quen” trong vô tức ấy, nó làm thui chột luôn cả ý thức đấu tranh trong
Mị. Ngay cả đến sự phản kháng yếu ớt cũng không còn.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 57
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Làm sao còn có thể phản kháng khi chính Mị còn “tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng
là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà này đến nhà
khác, ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”.
 Nhà văn như nhập thân vào nhân vật để nói lên suy nghĩ của Mị. Và suy nghĩ đã ăn sâu
trong Mị mấy năm nay, chính là Mị nghĩ mình cũng như một con vật nuôi trong nhà thống lí.
Con vật phải chịu kiếp đọa đày dưới đòn roi của chủ, phải làm việc khổ sai và không có thể
phản kháng, kêu ca. Mị cũng thế. Câu văn chất chứa biết bao nỗi xót xa, thương cảm Tô Hoài
dành cho nhân vật của mình.
- Gương mặt chính là sự phản chiếu của suy nghĩ, tâm hồn.
Suy nghĩ cam chịu, tâm hồn vô cảm đã khiến cho vẻ mặt của Mị mới buồn bã làm sao: “Mị
cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”.
 Chỉ có những người không thể vui, không thể hạnh phúc, mới có vẻ mặt đó. Đó là khuôn
mặt nói lên sự lạnh lẽo, vô cảm của đời sống tâm hồn. Khuôn mặt héo hắt của một tâm hồn
lay lắt.
- Hoàn cảnh sống khắc nghiệt thực sự đã biến Mị thành cỗ máy nên không phải ngẫu nhiên
mà nhà văn lại miêu tả Mị với những suy nghĩ và hành động lặp đi lặp lại, lúc nào cũng chỉ
nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi
tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay,
đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay
trong cánh tay để tước thành sợi.
 Vậy là Mị chỉ nhớ về công việc, những công việc giống nhau, chẳng có gì mới mẻ, chẳng
có gì đáng để Mị suy nghĩ, bận tâm thêm. Mị chẳng muốn nghĩ thêm hay chẳng thể nghĩ
thêm. Dù thế nào thì những suy nghĩ lặp lại ấy đã nói lên sự vô cảm của đời sống tâm hồn.
- Những hành động lặp đi lặp lại trong suy nghĩ của Mị đã nói lên cuộc sống khổ cực trong
nhà thống lí.
- Thân phận của Mị chẳng khác nào thân phận “trâu ngựa”. Con trâu con ngựa suốt tháng
suốt năm phải làm việc lam lũ trên nương, khoảnh khắc nghỉ chân của nó thật ngắn ngủi.
- Từ ngày về nhà thống lí Pá Tra làm dâu, quanh năm Mị quanh quẩn trên nương “bẻ bắp”,
“hái củi”, “bung ngô”, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Con
ngựa đôi khi còn được “đứng gãi chân, nhai cỏ”, còn Mị phải vùi vào làm việc “cả đêm, cả
ngày”.
 Bằng cách nói so sánh và thủ pháp vật hoá, tác giả gợi lên cho người đọc về cuộc sống
tăm tối, nhẫn nhục, đau khổ. Mị tê liệt về tinh thần, buông xuôi theo số phận.
 Vậy, Mị bị biến thành một thứ công cụ lao động, một nô lệ trong gia đình nhà chồng.
* Nỗi đau khổ về tinh thần:
- Bao nhiêu khổ đau ở nhà thống lí đã biến Mị từ một cô gái xinh đẹp, yêu đời mấy năm về
trước bỗng trở thành một người đàn bà lầm lũi, vô cảm.
- Lúc nào Mị cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như
con rùa nuôi trong xó cửa”.
 Mị suốt đời câm lặng, chịu đựng bị đè nén, áp bức như con rùa. Đằng sau sự so sánh này
là niềm thương cảm thấm thía của nhà văn về một kiếp người bị hóa thành kiếp vật.
- Ở nhà Pá tra, Mị thực sự là một người tù.
- Căn buồng âm u tăm tối với cái ô cửa sổ bé bằng bàn tay lúc nào “trông ra cũng chỉ thấy
trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” thực sự là hình ảnh của một nhà ngục. Nó đã
giam hãm tâm hồn và tuổi xuân của Mị. Nó đã làm tê liệt con người ý thức trong Mị, chỉ còn
nơi Mị cái suy nghĩ tội nghiệp, đáng thương, Mị “nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ
vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”.
 Căn buồng ấy là ẩn dụ về một nhà tù rùng rợn. Nó giam lỏng cuộc đời, tuổi thanh xuân
của Mị. Mị sống một cuộc sống đen tối, bế tắc, ngột ngạt, không lối thoát.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 58
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

 Niềm tin có thể mở ra cánh cửa kì diệu đưa ta vào một thế giới đáng sống. Khi con người
không còn niềm tin vào cuộc sống thì ngay đến suy nghĩ cũng chỉ toàn là một màu đen u ám.
- Những suy nghĩ tiêu cực của Mị là hệ quả tất yếu của quãng thời gian dài sống trong chốn
địa ngục trần gian nhà thống lí.
 Những chi tiết trên mang giá trị hiện thực, nhân đạo sâu sắc. Là tiếng nói tố cáo tội ác của
thống lí Pá Tra, qua đó tố cáo chế mạnh mẽ chế độ phong kiến miền núi của nhà văn Tô
Hoài.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Qua hình tượng nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã miêu tả thực trạng cuộc sống bị áp bức, đè
nén, chà đạp đến cùng cực, nhàu nát của số phận những con người nhỏ bé nơi miền núi cao
Tây Bắc, tố cáo, vạch trần tội ác của bọn phong kiến nơi ấy đồng thời phát hiện nhiều phẩm
chất tốt đẹp của con người tập trung ngòi bút ngòi bút ngợi ca sức sống tiềm tàng của họ.
 Đó cũng chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo toát lên từ nhân vật trung tâm của
thiên truyện hấp dẫn này.
2. Giá trị nghệ thuật
- Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khắc họa chân thực, rõ nét
diễn biến tâm lí, những cung bậc cảm xúc của Mị trong những quá trình tâm lí khác nhau.
- Tác phẩm cũng làm sáng lên tinh thần nhân đạo sâu sắc của Tô Hoài, cảm thương cho số
phận bất hạnh của nhân vật, nâng niu trân trọng những khát vọng, mơ ước của họ.
- Đồng thời lên án, tố cáo bọn phong kiến miền núi chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc
của con người.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 59
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 10:
SỰ TRỖI DẬY CỦA LÒNG HAM SỐNG
VÀ KHÁT VỌNG HẠNH PHÚC TRONG ĐÊM TÌNH MÙA XUÂN

I. KHÁI QUÁT
- Tác phẩm xoay quanh số cuộc sống của nhân vật Mị, đặc biệt là diễn tả diễn biến nội tâm
của cô trong từng giai đoạn và đêm tình mùa xuân là một cảnh tác động lớn diễn biến tâm lí
và hành động của người con gái vùng núi này.
- Tô Hoài đã bộc lộ tài năng bậc thầy của mình trong việc khắc họa, lí giải những chuyển
biến tâm lí của Mị. Nó vừa là một sự đột phá bộc phát vừa là hệ quả tất yếu của một sức sống
tiềm ẩn được khơi dậy để sống đúng với bản chất của mình.
II. PHÂN TÍCH
1. Những yếu tố tác động đến sự hồi sinh của Mị
a. Cảnh vật
- Trước hết, nói về chất xúc tác đã thức tỉnh ý thức của Mị, có thể thấy rõ hai luồng tác động
đậm nét.
- Thứ nhất là sự tác động của ngoại cảnh, của không khí ngày xuân mà gắn liền với nó chính
là tình yêu, là sức sống nảy nở, sinh sôi.
- Xuân qua rồi xuân lại trở lại. Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài lại đến. Cả một không gian
tưng bừng. Lúa ngô ở các nương đã thu hoạch xong. Gió và rét dữ dội. 
- Cảnh vật rực rỡ, màu sắc vui tươi: “Những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòa
như con bướm sặc sỡ, hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ hau, đỏ thậm rồi sang
màu tím man mác”.
- Âm thanh rộn rã: “Đám trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân trước nhà”.
 Tất cả đang tưng bừng báo hiệu xuân, thổi vào lòng Mị một luồng sinh khí vô hình.
b. Rượu
- Cùng với ngoại cảnh, rượu chính là chất xúc tác trực tiếp làm sống dậy tâm hồn yêu đời,
khát sống của Mị: “Mị đã lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát”.
- Mị uống rượu như đang uống cái đắng cay của phần đời đã qua, uống cái khao khát của
phần đời chưa tới.
- Mị uống cho quên đi thực tại, uống để hả giận, để nuốt hận. Có lẽ ai đó đã đúng khi nói, hơi
men có thể khiến con người làm những việc ngoài sức tưởng tượng và phạm vi kiểm soát cá
nhân.
 Rượu làm cơ thể và đầu óc Mị say nhưng tâm hồn đã tỉnh lại sau bao ngày câm nín, mụ mị
vì bị đày đọa. Chính men rượu đã dìu Mị đi theo tiếng nói của trái tim ham sống đang ngủ
yên bấy lâu.
c. Nghe tiếng sáo gọi bạn
- Nói về sự hồi sinh của Mị, sẽ là thiếu sót nếu không đề cập đến vai trò đặc biệt quan trọng
của tiếng sáo: “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm theo bài hát
của người đang thổi”. Mị nhớ “ngày trước, Mị thổi sáo giỏi… Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi
lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.
- Với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, khát vọng tình yêu, hạnh phúc.
Tô Hoài đặc biệt dụng công khi miêu tả “tiếng sáo gọi bạn cứ thiết tha, bồi hồi”, “ngoài đầu
núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo”, “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”, “tiếng sáo
gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đường”, “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc
chơi, những đám chơi”, “trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”…
 Nhà văn đã dùng tiếng sáo như một hồi chuông báo, lay tỉnh tâm hồn u mê, nguội lạnh của
Mị. Tiếng sáo từ chỗ lấp ló, lơ lửng đã len lỏi, thâm nhập vào linh hồn, đưa Mị về với thế giới
thực tại, thúc giục Mị đấu tranh vì bản thân mình.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 60
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

 Trong các yếu tố trên, tiếng sáo là yếu tố quan trọng nhất. Tiếng sáo là biểu tượng của
khát vọng tình yêu tự do. Nó đánh thức sức sống tiềm tàng khuất lấp bấy lâu trong Mị. Tiếng
sáo ấy choáng hết tâm trí Mị, nâng hồn Mị lên và du dương bay theo nó. Mị được trở lại
thành con người, nhận thức được quyền sống, quyền hạnh phúc của mình.
d. Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân
- Dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự thức tỉnh của Mị là Mị nhớ về quá khứ, nhớ lại quãng thời
gian hạnh phúc tuổi trẻ ngắn ngủi và niềm ham sống trở lại: “Mị thấy phơi phới trở lại, lòng
đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị
muốn đi chơi”.
- Mị bắt đầu ý thức được tình cảnh hiện tại đầy đau xót của mình. Mị nghĩ “nếu có nắm lá
ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết chứ không buồn nhớ lại nữa”. Bởi vì khi càng nhớ, Mị càng
cảm thấy đau, thấy tủi cho thân phận mình, “chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Nước mắt tưởng đã
cạn kiệt trong thể xác vô cảm, tê liệt gần như hoàn toàn cả về ý chí lẫn tình cảm lại có thể lăn
dài.
 Hóa ra, từ trong sâu thẳm tâm hồn, Mị không chết. Mị đã khóc cho những hoài niệm của
mình, khóc cho vết thương tưởng đã chai sạn vì những áp bức, đè nén trải qua. Quả đúng như
nhận định: Khi người ta muốn chết nghĩa là người ta muốn sống thực sự. Mị đã ý thức được
tình cảnh đau xót của mình. Mị thà chết như một con người chứ quyết không sống như một
con vật.
- Những sục sôi trong tâm tưởng đã dẫn đến việc Mị “lấy ống mỡ, sắn một miếng bỏ thêm
vào đĩa dầu”. Chỉ một hành động nhỏ nhưng Tô Hoài đã nói lên cả một sự thức tỉnh trong con
người Mị. Mị muốn thắp sáng căn phòng bấy lâu chìm trong bóng tối, thắp lên ánh sáng cho
cuộc đời tăm tối của mình. Hoặc không, ít ra, ánh sáng nhỏ nhoi ấy cũng phần nào khiến Mị
cảm thấy mình không phải một thứ đồ bị bỏ quên, không phải một con rùa nuôi trong xó cửa.
- Với Mị, lòng ham sống, khát khao hạnh phúc đã được châm lên giống như từng cơn sóng
trào hết lớp này đến lớp khác xô mãi, xô mãi vào bờ không cách nào ngăn trở được.
- Sau khi đốt đèn, Mị “quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Có lẽ đã
rất lâu rồi, từ khi trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, trở thành một cỗ máy câm
lặng, Mị đã không còn biết đến đi chơi, không còn biết đến sự tồn tại của chiếc váy hoa ấy.
e. Khi bị A Sử trói đứng
- Quên hẳn sự có mặt của A Sử, quên hẳn mình đang bị trói, tiếng sáo vẫn dập dìu trong tâm
trí Mị, đưa Mị vào một thế giới của tình yêu, hạnh phúc mà ở đó luôn nghe văng vẳng tiếng
hát gọi bạn tình: “Em không yêu quả pao rơi rồi. Em yêu người nào. Em bắt pao nào”.
- Sức sống tiềm tàng mãnh liệt ở Mị lúc này, thể hiện rất đậm nét qua hành động Mị “vùng
đứng dậy” đầy dứt khoát. Nhưng, cũng chính khi ấy, Mị nhận ra thực tế phũ phàng rằng mình
đang bị trói đứng vào cột, “tay chân đau không cựa được”.
 Sợi dây trói ở đây chính là sự tàn bạo, khắc nghiệt của cường quyền, thần quyền, của
những hủ tục lạc hậu kiềm hãm, vùi dập tương lai, hạnh phúc của con người.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài là một tâm
trạng hỗn hợp: vui sướng và đau khổ, ham sống và tủi nhục muốn chết.
- Trong bóng tối nặng nề ấy, hành động của Mị rất ít. Phần lớn là những dòng nội tâm đang
trỗi dậy tuôn trào trong lòng Mị.
- Tác giả đã bộc lộ rõ nét tài năng miêu tả diễn biến nội tâm của nhân vật một cách chân thật,
sinh động.
- Sự trỗi dậy của Mị trong đêm tình mùa xuân tuy không thay đổi số phận nhưng nó là tiền đề
quan trọng cho những đột biến lớn lao trong cuộc đời Mị.
2. Giá trị nghệ thuật

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 61
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Qua nghệ thuật miêu tả tâm lí cùng việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, thông dụng, Tô Hoài
dường như đã vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh một người con gái mạnh mẽ, tuy đã bị vùi
dập, tưởng chỉ còn cái xác không hồn nhưng bên trong vẫn tiềm tàng ẩn chứa sức sống mãnh
liệt, chỉ tìm cơ hội để hồi sinh, để bùng cháy.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 62
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 11:
TÂM TRẠNG VÀ HÀNH ĐỘNG CỨU A PHỦ CỦA MỊ TRONG ĐÊM ĐÔNG

I. KHÁI QUÁT
- Từ việc phân tích diễn biến tâm lí, hành động Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ, nhà
văn đã gửi gắm những cái nhìn nhân đạo mới mẻ của mình tới người đọc.
II. PHÂN TÍCH
1. Sơ lược về nhân vật A Phủ
- A Phủ là chàng trai nghèo khổ cả cha lẫn mẹ, vì đánh A Sử, A Phủ bị bắt phạt vạ trở thành
đứa ở trừ nột của nhà thống lí Pá trá, cùng chung thân phận nô lệ trâu ngựa với Mị.
- Một lần sơ ý để hổ vồ mất bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói bỏ mấy ngày liền giữa mùa
đông giá rét.
2. Tâm trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ
- Cuộc sống đọa đày trong nhà thống lí Pá Tra của Mị vẫn tiếp diễn:
+ Thời gian đọa đày biến cô trở thành người câm lặng trước mọi sự.
+ Những gì diễn ra chung quanh không khiến Mị quan tâm.
+ Những đêm đầu Mị thổi lửa hơ tay.
 Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện, kể cả lúc ra sưởi lửa, bị A Sử đánh ngã xuống
bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước.
- Song, trong lòng, không phải chuyện gì Mị cũng bình thản:
+ Mị rất sợ những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn.
+ Khi trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa.
 Đối với Mị, nếu không có bếp lửa ấy, cô sẽ chết héo.
- Ngồi bên bếp lửa, Mị nhớ lại ngày mình cũng bị A Sử trói trước kia, thấy thương thân,
thương người rồi thành ra Mị căm giận những con người ấy, cái ác cái khổ đau đọa đầy lên
những người lao động bé mọn như Mị.
3. Thương người cùng cảnh ngộ
- Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa hơ tay. Đã
mấy lần rồi, mỗi khi dậy thổi lửa hơ tay, Mị lại thấy cảnh A Phủ bị trói nhưng Mị vẫn thản
nhiên dửng dưng thờ ơ: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi. Mị vẫn trở
dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”.
- Quá quen với cái tạm bộ của cha con thống lí Pá Tra, tâm hồn Mị tê dại đến vô cảm. Và tâm
hồn Mị có lẽ sẽ mãi mãi hóa đá nếu như Mị không bắt gặp giọt nước mắt của A Phủ.
- Như mọi đêm, Mị dậy thổi lửa hơ tay, ngọn lửa bập bùng sáng lên, lé mắt trông sang, Mị
bỗng bắt gặp dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má tuyệt vọng của A Phủ – một
chàng trai vốn can trường dũng cảm. Nước mắt gọi nước mắt: Mị nhớ lại đêm tình mùa xuân
bị A Sử trói, nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng cổ mà không sao lau đi được. Niềm
đồng cảm trỗi dậy, thương thân bao nhiêu, Mị thương A Phủ bấy nhiêu.
- Thương mình, thương A Phủ, lòng Mị sục sôi niềm căm hờn phẫn uất với cha con thống lí
Pá Tra: “Trời ơi, nó bắt trói người ta đến chết, nói bắt mình đến chết, nó bắt trói đến chết
người đàn bà trước cũng ở cái nhày này cũng thôi. Chúng nó thật độc ác”.
- Lần đầu tiên, sau bao năm tháng câm lặng, Mị dõng dạc cất lên lời kết án đanh thép cha con
thống lí.
- Mị như lột xác, trở lại làm cô gái dũng cảm, khát khao tự do, sục sôi tinh thần phản kháng.
Rồi Mị nghĩ đến tình cản nguy khốn đang ập đến với A Phủ: “Cơ chừng này, chỉ đêm mai là
người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết… A phủ sẽ phải chết, chết oan uổng, vô
lí”. Nghĩ đến điều ấy, trái tim Mị như thắt lại, cõi lòng nhói đau.
- “A Phủ” – tiếng gọi buông ra hay tiếng nấc nghẹn ngào xót xa. Rồi Mị miên man nhớ lại
đời minh, Mị lại tưởng tưởng có thể một lúc nào đó, biết đâu A Phủ chẳng đã chốn được, lúc

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 63
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

ấy bố con Pá Tra sẽ bảo Mị cởi trói cho A phủ, Mị liền phải trói thay, phải chết trên cái cọc
này. Nghĩ thế, trong tình cảnh nào, làm sao Mị cũng không thấy sợ.
 Tình thương người ngày càng mạnh, nó lớn hơn niềm thương thân và giúp Mị chiến thắng
mọi nỗi sợ hãi, nó thôi thúc Mị hành động một cách táo bạo: cắt dây trói cứu A Phủ.
4. Từ cứu người đến cứu mình
- Cắt dây trói cho A Phủ xong, Mị bỗng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng: “Đi
ngay!” rồi nghẹn lại. đứng lặng trong bóng tối, rồi Mị chạy vụt theo, băng đi đuổi kịp A Phủ.
Nỗi sợ hãi và hành động chạy theo A Phủ vô vùng đột ngột những ngẫm ra lại hết sức hợp lí,
dương nhu không thể khác được.
- Là người, ai cũng sợ chết, nhất là khi cái chết cận kề.
- Là một cô gái, Mị lại rất yêu đời và ham sống, mị không thể chấp nhận cúi đầu chờ chết ở
cái nơi địa ngục trần gian này.
- Cuối cùng, phải kể đến chất xúc tác làm cho cuộc nổi loạn nhân tính hoàn tất.
 Đó là hành động quật sức vùng lên chạy của A Phủ. Hành động ấy như tia lửa bắt cháy
nguồn sống mãnh liệt trong Mị, thôi thúc Mị hành động táo bạo: cùng A Phủ trốn khỏi Hồng
Ngài.
 Vậy là, sau bao năm tháng bị vùi dập, sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị đã bùng cháy
mãnh liệt trong đêm đông “định mệnh”. sức sống ấy như nguồn sức mạnh vô song giúp Mị
chiến thắng tất cả mọi thế lực bạo tàn cường quyền và thần quyền. Chính sức mạnh ấy đã giải
cứu cho A Phủ và Mị khỏi thế giới địa ngục để đến với chân trời tự do, hạnh phúc.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Trong lần hành động này, Mị cuối cùng cũng đã thành công.
- Sự thành công ấy là nhờ trong tâm hồn Mị, sức sống vẫn còn cháy, nó chỉ cần một tác nhân,
một chất xúc tác để bùng phát.
- Mị hành động vừa có lí và có tình, tưởng chừng là bộc phát, nông nổi nhưng lại là những
hành động sâu sắc và đầy đúc kết. Cũng nhờ có điều này mà giá trị nhân đạo của tác phẩm
càng được đẩy lên một tầm cao mới nhân văn hơn.
2. Giá trị nghệ thuật
- Tô Hoài đã miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị rất tự nhiên, hợp lí và chân thực.
- Không thấy diễn biến tâm trạng của nhân vật sẽ không hiểu được hành động của nhân vật
đó.
- Hành động cuối cùng của Mị – cởi trói cho A Phủ – có vẻ bất ngờ nhưng lại hợp với quy
luật tâm lí con người, quy luật của cuộc sống.
 Nhà văn không chỉ đem đến cho bạn đọc những nhân vật biết hành động mà quan trọng
hơn là vì sao có hành động ấy. Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng một nhân vật có sức
sống bên trong mãnh liệt đằng sau khuôn mặt vô hồn, vô cảm của Mị. Bởi vậy, có người đã
xem đây là “một nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi cách mạng đương đại Việt
Nam”.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 64
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 12:
NHÂN VẬT A PHỦ

I. KHÁI QUÁT
- Bên cạnh nhân vật Mị, A Phủ chính là một nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều ấn
tượng sâu sắc về bản lĩnh vượt lên số phận và chính mình.
II. PHÂN TÍCH
1. Cuộc đời
- Từ nhỏ mồ côi cha mẹ, không người thân thích, sống sót qua nạn dịch.
- Năm mười tuổi bị bắt đem bán đổi lấy thóc của người Thái, sau đó trốn thóat và lưu lạc đến
Hồng Ngài.
 A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường như lại
khiến người đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. A Phủ với những tính cách, phẩm chất vừa
khiến người ta xót thương vừa khiến người ta ngưỡng mộ hơn.
2. Khi bị bắt về nhà thống lí
- Thế nhưng, vận rủi đã đến với anh và chuyển hướng cuộc đời anh đến chỗ thảm khốc. Vì
xích mích với đám trai làng trong lúc đi chơi, A Phủ đã đánh A Sử, con trai thống lí Pá Tra
đến chảy máu. Hành động bột phát ấy đã mang tai họa đến với A Phủ. Anh bị đám trai làng
bắt trói và đưa về nhà thống lí để chịu tội.
- Từ một thanh niên tự do bỗng dưng A Phủ trở thành nô lệ. Cuộc đời nhân vật A Phủ là điển
hình của cảnh áp bức bóc lột ở chốn Hồng Ngài. Bọn thống trị dựa vào đầu óc mê tín của
người dân, lợi dụng cường quyền và thần quyền để áp bức, bóc lột sức lao động của họ.
 Qua cảnh sử kiện tại nhà thống lí, Tô Hoài đã cho người đọc thấy được bộ mặt dã man tàn
bạo của bọn thống trị miền núi. Bọn thống trị bằng sức mạnh của mình đã chà đạp lên quyền
sống của con người, tước đoạt ở họ quyền làm người tự do. Không những thế, chúng còn
hành hạ thân xác con người tàn tệ như đối xử với thú vật.
- A Phủ bị bắt khiêng về ném xuống nhà như một con vật. Thế rồi suốt từ trưa đến chiều, thâu
đêm đến sáng hôm sau, bọn chức dịch lợi dụng việc sự kiện kéo đến ăn cỗ và thi nhau hút
thuốc phiện.
- Còn A Phủ suốt đêm đó phải quỳ giữa nhà chịu đòn. Cứ sau một đợt hút thuốc phiện lại một
lần A Phủ bị đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. A Phủ đau lắm
nhưng không biết kêu ai. Anh chỉ có một mình, còn bọn chúng thì quá đông.
- Anh là kẻ có tội, còn bọn chúng dựa vào cả cường quyền, lẫn thần quyền để khuất phục, chế
ngự và hành hạ anh. Mọi người biết nhưng không ai nói gì, làm gì. Vì họ cũng tin vào thứ
cường quyền và thần quyền ấy.
- Cuối cùng A Phủ bị phạt vạ một trăm đồng bạc trắng. A Phủ không có tiền nộp nên phải ở
làm kẻ lao động trừ nợ cho nhà thống lí. bản án ấy được khẳng định qua lời của tên thống lí:
“Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở lại làm con trâu,
con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao
mới thôi”.
- Đau đớn hơn đó là khi A Phủ phải đứng lên cầm con dao, ra chọc tiết, làm thịt lợn để làm cỗ
hầu chính những kẻ đã biết anh thành nô lệ.
 Như vậy, sống trong hoàn cảnh mà mọi quyền lực đều nằm trong tay giai cấp thống trị, số
phận của những người dân nghèo thật bi thảm. Họ có thể bị đánh đập dã man, bị chết bất cứ
lúc nào.
- Cuộc đời A Phủ từ đây rơi vào bóng tối cùng cực. A Phủ chính thức trở thành nô lệ, là công
cụ lao động trong nhà thống lí Pá Tra. Quanh năm suốt tháng anh chỉ làm việc quần quật chỉ
một thân một mình. A Phủ hết đốt rừng, cuốc nương rồi lại săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa.
Quanh năm một thân một mình, rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng. Anh chìm ngập trong cả núi

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 65
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

công việc, không bao giờ ngơi tay. Cả ngày mưa lẫn ngày nắng người ta thấy lúc nào A Phủ
cũng phải làm việc.
 Lâu dần anh quên cả ý nghĩa của sự tồn tại bản thân, quên hẳn những khát khao của tuổi
trẻ.
- Tưởng chừng số phận đã an bài số phận A Phủ sẽ là người nô lệ suốt đời suốt kiếp. Rồi anh
sẽ chết khi không còn sức lực để làm việc nữa. Thân xác anh sẽ trở về với đất. Cái tên A Phủ
sẽ không còn ai nhắc đến. Thế nhưng, một sự việc xảy đến, một lần nữa, cuộc đời A Phủ lại
chuyển hướng. Bánh xe số phận lại gập ghềnh.
- Lần đó, chỉ do mải mê bẫy dính mà anh để hổ bắt mất bò. Mất một con bò khiến cho thống
lí Pá Tra vô cùng giận dữ. Nó trói đứng A Phủ vào cột suốt mấy ngày mấy đêm phải chịu đói,
chịu rét cho đến khi A Sử và bọn trai làng giết được con hổ ấy thì chúng mới tha cho anh.
Với sức của A Sử và bọn trai làng nghiện hút, A Phủ không tin chúng sẽ bắt được con hổ. A
xin đi bắt hổ nhưng chúng không chịu. Chúng lo sợ anh sẽ bỏ trốn. Và thiếu chút nữa A Phủ
đã phải trả giá bằng cả tính mạng của mình nếu không được Mị giải thoát.
 Thông qua biểu phản ánh số phận đầy đau thương của nhân vật A Phủ, nhà văn tố cáo
mạnh mẽ giai cấp thống trị độc ác đồng thời bày tỏ niềm đồng cảm sâu sắc đối với người dân
nghèo. Trong con người của A Phủ, người đọc còn cảm nhận được ở anh những phẩm chất
tốt đẹp. Đó là sự ý thức của A Phủ về quyền làm người. Ngay từ nhỏ A Phủ đã thể hiện sự
dũng cảm của mình. A Phủ không chấp nhận sống dưới cánh đồng thấp nên đã trốn lên núi
cao.
- Còn khi bị bọn A Sử phá đám trong buổi chơi tết, A Phủ để xông ra đánh A Sử mà không hề
nghĩ rằng đó là con quan: “A Phủ sốc tới, nắm có vòng cổ (dấu hiệu con nhà quan) kéo dập
đầu xuống, xé vai áo,đánh tới tấp”.
- Khi bị bắt, bị đánh đập, A Phủ không hề kêu van. Anh không hề van xin mà lì như tượng đá.
Ngay cả khi làm mất bò, A Phủ thản nhiên vác nửa con bò còn lại về ném xuống gốc đào
trước cửa. Anh không chấp nhận chịu trói mà đòi lấy súng để đi bắn hổ. Anh nói dõng dạc:
“cho tôi đi. Được con hổ ấy còn nhiều hơn con bò, cho tôi khỏi tội”. Đó là anh tự tin vào bản
thân.
- Bị thống lí trói đứng vào cột, đến đêm A Phủ tìm cách nhay đứt hai vòng dây. Phải chăng,
đó chính là ý thức của sự phản kháng trong con người A Phủ.
- Khi được Mị giải thoát, dù chân khụy xuống, không bước đổi nhưng đứng giữa ranh giới
của sự sống và cái chết A Phủ đã quật sức vùng lên chạy. Anh còn cứu thoát cả cuộc đời nô
lệ của Mị.
 Sự vùng lên tự giải thoát cho chính mình của A Phủ (và Mị) tiêu biểu cho sự vươn lên của
đồng bào dân tộc miền núi. Cho dù đó chỉ là sự tự phát nhưng đó là tiền đề cho sự vươn tới
ánh sáng của Đảng ở chặng đời sau này của A Phủ.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Nhân vật A Phủ đã được khắc họa thành công, sở trường quan sát nhạy bén và khả năng
thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố giúp nhà văn dựng được một
hình tượng đặc sắc chỉ bằng mấy nét đơn sơ.
 Thông qua nhân vật A Phủ, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm càng đậm nét.
2. Giá trị nghệ thuật
- Bằng ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, Tô Hoài đã làm nổi bật được hình tượng
và khí phách của A Phủ – nhân vật điển hình trong truyện.
- Cùng với A Phủ là Mị, dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc,
họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính
mình.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 66
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 13:
GIÁ TRỊ HIỆN THỰC TRONG
TRUYỆN NGẮN “VỢ CHỒNG A PHỦ” CỦA NHÀ VĂN TÔ HOÀI

I. KHÁI QUÁT
- “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm mang giá trị hiện thực sâu sắc, đả kích và lên án sự bất công
trong xã hội phân chia giai tầng đã vùi dập con người đến tận cùng khổ đau, đồng thời bêu
riếu bọn cường hào, thống lí tàn ác, phơi bày những thế lực đen tối tồn tại ở khu vực vùng núi
phía Bắc trước cách mạng.
II. PHÂN TÍCH
1. Giải thích
- Giá trị hiện thực là những điều diễn ra trong cuộc sống, được tác giả nhìn thấy và đưa vào
tác phẩm một cách tinh tế tạo nên ý nghĩa phản ánh hiện thực của một thời kì, một chế độ
trên nhiều góc độ khác nhau.
 Đây là yếu tố cốt lõi của một tác phẩm văn học, nhất là văn học hiện thực, là bức tranh
phác họa cuộc sống một cách kĩ lưỡng nhằm nêu bật lên được những đặc điểm điển hình của
một thời kì, giai cấp nào đó.
- Giá trị hiện thực của các tác phẩm văn học phần lớn đều mang tiếng nói chung của đại đa số
quần chúng đương thời, là bản cáo trạng đối với những thói hư tật xấu và là tiếng lòng thổn
thức của những người thấp cổ bé họng, không có tiếng nói trong xã hội bấy giờ.
2. Phản ánh chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi thống khổ về vật chất và tinh thần
của đồng bào miền núi Tây Bắc
a. Nhân vật Mị
* Sự xuất hiện và cảnh ngộ:
- Mở đầu tác phẩm, tác giả tạo sự chú ý cho độc giả bằng cách để cho Mị xuất hiện trong
dáng vẻ của nỗi cùng quẫn bi thương của kiếp người: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá
Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc
nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên,
cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
 Cách mở đầu ấy đã gợi mở về thân phận của những người lao động trog xã hội cũ mịt
mùng không lối thoát.
* Sự đày đọa về vật chất, thể xác:
- Theo tục lệ, cha mẹ Mị không có tiền cưới phải đến vay nhà thống lí Pá Tra, mỗi năm trả lãi
một nương ngô. Đến khi mẹ mất, cha già mà nợ kia vẫn còn. Tuy cha Mị không chấp nhận lời
đề nghị của thống lí Pá Tra đổi Mị để trừ nợ nhữn A Sử vẫn cướp Mị về làm vợ.
- Mị từ khi sinh ra đã mang theo trên người món nợ truyền kiếp của cha mẹ. Trong một đêm
mùa xuân, Mị bị bắt về làm dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Thế là Mị trở thành một món
hàng trừ nợ. Hình thức cho vay nặng lãi đã cột chặt bao nhiêu người nghèo vào số phận nô lệ,
phụ thuộc vào bọn chủ nợ giàu có.
- Mị không dám phản ứng vì về đạo lí đó là món nợ Mị phải trả như một cái án truyền kiếp
mà cô phải gánh lấy từ trong trứng nước. Về phương diện thần quyền, nghĩ rằng mình đã
“trình ma” nhà Pá Tra nên Mị chỉ còn biết làm thân trâu ngựa cho đến lúc chết mà thôi.
 Hành động này tố cáo sự vô nhân đạo của những kẻ nắm quyền lực thời đó. Xã hội đốn
mạt đã cho chúng sức mạnh để tác oai tác quái trên số phận người dân nghèo. Chính xã hội
thực dân nửa phong kiến đã trao cho bọn chúa đất phong kiến cái quyền hành phi lí đó. Làm
dâu gạt nợ nhà thống lí, Mị bị cường quyền và thần quyền đày đọa cả về thể xác và tinh thần.
- Bước chân về, đúng hơn là bị cưỡng bức về nhà thống lí Pá Tra, Mị bị đày đọa cả về thể xác
lẫn tinh thần. Là con dâu chỉ trên danh nghĩa, thực chất Mị chỉ là tôi tớ, người suốt ngày quần
quật làm ra của cải vật chất cho nhà thống lí Pá Tra. Thân phận Mị, cũng như nhiều phụ nữ
trong gia đình ấy không bằng thân trâu ngựa: “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm nó còn

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 67
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả
ngày”.
* Sự đày đọa về tinh thần:
- Nỗi đau về vật chất đã khủng khiếp, nhưng nỗi đau về tinh thần lại càng khủng khiếp hơn.
Nhà văn Tô Hoài vô cùng xót xa trước nỗi khổ tinh thần của Mị. Cái địa ngục khủng khiếp ấy
đã biến Mị từ một cô gái trẻ trung, vui tươi, xinh đẹp, yêu đời thành “con rùa lùi lũi nuôi
trong xó cửa”, thành “con trâu con ngựa trong chuồng; chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà
thôi”.
- Những ngày đầu về làm dâu, Mị phản kháng quyết liệt: hàng mấy tháng ròng, đêm nào Mị
cũng khóc, Mị định tự tử bằng lá ngón. Nhưng Mị chết đi thì nợ kia vẫn còn. Thương cha, Mị
lại tiếp tục cuộc sống làm dâu gạt nợ.
- Lâu dần, chuỗi ngày triền miên những vất vả cực nhọc không dứt đã làm tê liệt cả ý thức về
bản thân và những mong muốn thay đổi số phận ở Mị. Giờ đây, Mị an phận và cam chịu thân
phận nô lệ trong nhà thống lí: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng
mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa… ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà
thôi”.
- Cuộc sống của Mị ở nhà thống lí Pá Tra mỗi ngày lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Mị
cam chịu thân phận, chỉ biết ngồi trong cái buồng kín mít, trông ra cửa sổ vuông mờ mờ trăng
trắng, “đến bao giờ chết thì thôi”. Mị sống như một cái bóng vật vờ, sống mà như đã chết,
không còn cả ý thức về thời gian nữa. Mị không còn nhớ mình về làm dâu nhà Pá Tra bao
năm.
 Ý thức phản kháng trong con người Mị tưởng chừng như đã bị tê liệt.
- Cuộc sống câm lặng nhẫn nhục đã làm Mị chai sạn đi, trở thành cái xác không hồn vật vờ,
thành một nữ cô chỉ biết làm việc không ngơi tay, thành kẻ hầu hạ cho chồng mình mà lúc
nào cũng có thể bị đánh đập một cách tàn nhẫn không thương tiếc. Ý thức về cuộc sống trong
Mị giờ đây đã bị xóa sạch. Với cô không còn quá khứ, hiện tại, tương lai, chỉ còn ô cửa sổ bé
tí nhờ nhờ thứ ánh sáng thảm hại không biết ngày hay đêm, chỉ còn ánh lửa leo lét làm bạn
giữa đêm đông dài giá lạnh. Rồi cái mong ước bình dị được đi chơi tết của Mị cũng bị A Sử
phũ phàng dập tắt khi nó vừa mới bừng lên. Trong khi A Sử đi chơi và bắt bao nhiêu cô gái
đẹp về làm vợ, Mị không dám nói gì.
- Dù là vợ A Sử, Mị vẫn bị hắn trói dã man vào cột nhà khi cô vừa nảy ra ý muốn đi chơi Tết
như bao phụ nữ đã có chồng khác. Thân phận con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã
hội thực dân phong kiến ngày ấy bị coi rẻ quá mức. Người phụ nữ chỉ biết cúi đầu cam chịu.
Quyền bình đẳng nam nữ chỉ là một khao khát không bao giờ trở thành hiện thực.
 Cường quyền và thần quyền nhà thống lí Pá Tra đã giết chết cô gái ấy cả thể xác lẫn tâm
hồn. Mị cùng bao cô gái đáng thương khác trong nhà thống lí như người chị dâu chưa già mà
lưng đã còng vì quanh năm phải đeo thồ nặng quá , còn Mị phải làm việc cực nhọc suốt đêm
ngày để phục dịch cho cha con thống lí ăn chơi quanh năm suốt tháng.
b. Nhân vật A Phủ
- Cũng giống như Mị, vì món nợ vô lí suốt đời không thể trả nổi mà A Phủ phải bước chân
vào nhà thống lí. Cũng chỉ vì yêu lẽ phải, dũng cảm đánh lại con nhà giàu để bảo vệ công lí
mà A Phủ bị bắt phạt vạ một cách bất công. Anh bị bắt, bị đánh đập tàn ác: “Mặt A Phủ sưng
lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút… Cứ như thế, suốt
chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút…”.
 Mạng người bị coi rẻ; pháp luật, công lí thuộc về tay kẻ có tiền, có thế lực. Cha con thống
lí đã tự cho mình các quyền sinh sát, mặc nhiên ức hiếp, sát hại dân làng.
- Cũng như Mị, A Phủ trở thành cái máy làm việc trong nhà thống lí: “Đốt rừng, cày nương,
cuốc nương, săn bò tót,bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một mình rong ruổi ngoài gò,
ngoài rừng”. Người ở đợ trừ nợ cho nhà thống lí thì cũng như con trâu, con ngựa vô tri trong
chuồng. Thống lí đã dùng việc cho vay nặng lãi để ràng buộc cuộc đời người nông dân, biến

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 68
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

họ thành nô lệ, đời đời kiếp kiếp. Thống lí Pá Tra đã tuyên bố: “Đời mày, đời con, đời cháu
mày, tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ tao mới thôi”.
- Cha con thống lí thản nhiên mặc sức hưởng lạc trên mồ hôi công sức người khác. Rồi do
nguyên nhân khách quan gặp cơn đói rừng, hổ ăn mất một con bò, đó là chuyện hoàn toàn ở
miền núi và A Phủ có khả năng chuộc lại lỗi lầm vậy mà A Phủ vẫn đành phải chấp nhận tự
lấy dây, lấy cọc cho thống lí trói mình vào cọc một cách nhục nhã để thế mạng cho con bò bị
mất.
 Số phận đau khổ nghiệt ngã của Mị và A Phủ cũng là số phận của đồng bào Tây Bắc trước
cách mạng nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung.
3. Lên án chế độ phong kiến thực dân
- Thống lí là người đứng đầu bộ máy chính quyền ở các bản làng vùng dân tộc. Giàu có, lại
dựa vào thế lực của Tây, cha con thống lí Pá Tra tha hồ tác oai tác quái ức hiếp dân lành. Đó
là hiện trạng phổ biến xảy ra ở nước ta trước Cách mạng.
- Hình thức bóc lột của bọn chúa đất phong kiến là cho vay nặng lãi để cột chặt kiếp nô lệ của
người dân miền núi. Kèm theo việc cho vay nặng lãi là tục lệ cúng trình ma. Khi người dân
ngu muội tin vào chuyện ma quái đó thì bọn giàu có độc ác càng có cơ hội nô dịch họ.
- Một sự thật đau lòng diễn ra không hề cá biệt là khi ái đó liều mình đi vay nợ thì vĩnh viễn
số phận họ và cả số phận đời con cháu họ cũng không thể thoát được kiếp ngựa trâu cho bọn
nhà giàu.
 Chính xã hội thực dân nửa phong kiến đã trao cho chúng cái quyền phi lí đó. Đây là
nguyên nhân trực tiếp gây nên nỗi khổ của những người dân thấp cổ, bé miệng như Mị và A
Phủ. Bộ mặt tàn bạo của chúng không chỉ hiện ra qua những hành động đánh đập dã man đối
với kẻ ăn người ở trong nhà mà còn qua những lời nguyền rủa rất thâm hiểm: “đời mày, đời
con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.
 Có lẽ đó không chỉ là lời nguyền rủa của một hai cá nhân mà còn là lời nguyền rủa của cả
một chế độ xã hội. Bao giờ còn chế độ xã hội đó thì vẫn còn những kẻ ác như Pá Tra và
những nạn nhân của hắn như Mị và A Phủ.
4. Tái hiện quy luật đâu tranh xã hội
- Không dừng lại ở việc nắm bắt và phơi bày bản chất của cuộc sống, giá trị hiện thực của tác
phẩm còn thể hiện qua cách thức tái hiện quy luật đấu tranh xã hội: có áp bức, có đấu tranh;
có thống trị tàn bạo, có vùng lên quật cường.
- Mặc dù ở thân phận nô lệ, tù đày, mặc dù nỗi buồn khổ, tủi nhục đã biến Mị thành một cái
bóng lặng lẽ, âm thầm; nhưng trong con người Mị vẫn âm ỉ một khát vọng sống, khát vọng
hạnh phúc mãnh liệt. Bởi lẽ, Mị là cô gái ham sống, yêu đời, yêu tự do, khát khao hạnh phúc.
Sức sống tiềm tàng mãnh liệt ở Mị dù có bị vùi dập đến kiệt cùng vẫn không lụi tắt. Sức sống
ấy chỉ tạm thời bị phủ dưới lớp tro nguội lạnh để chờ cơ hội bùng lên cháy sáng.
- Khi bị đẩy đến cùng đường, trong sự lóe sáng của tình người, con người lương thiện sẽ tự
vùng dậy.
 Cuộc giải thoát của Mị dành cho A Phủ cũng là sự giải thoát cho chính mình. Khởi nguồn
của sự giải thoát đó chính là sự đánh thức lương tri của con người khi chứng kiến nỗi bi đát
tột cùng của đồng loại.
III. TỔNG KẾT
- Qua tác phẩm, người đọc thấy được giá trị hiện thực sâu sắc được thể hiện qua tác phẩm
“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, càng thêm hiểu rõ cuộc sống cùng khổ của người dân lao
động miền núi trước Cách mạng tháng Tám do sự thống trị tàn ác của giai cấp cầm quyền.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 69
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 14:
GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG
TRUYỆN NGẮN “VỢ CHỒNG A PHỦ” CỦA NHÀ VĂN TÔ HOÀI

I. KHÁI QUÁT
- “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm đã lên tiếng vì quyền con người, ca ngợi và bảo vệ con
người và là một tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc.
II. PHÂN TÍCH
1. Giải thích
- Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm văn học rất phong phú và đa dạng.
 Đó là biểu hiện của lòng yêu nước thương nòi, lên án tố cáo các thế lực tàn bạo chà đạp
lên con người. Đồng thời, khẳng định đề cao phẩm chất, tài năng, những khát vọng chính như
khát vọng về quyền sống, quyền hạnh phúc, công lí và chính nghĩa, đề cao đạo lí tốt đẹp giữa
người với người.
2. Giá trị nhân đạo được thể hiện ở việc khắc hoạ vẻ đẹp và ngợi ca, trân trọng giá trị
của những người lao động bình thường
- Mị được khắc họa với hình tượng của một cô gái có vẻ đẹp cả ngoại hình và tâm hồn. Minh
chứng là việc cô có nhiều người theo đuổi. Thế nhưng, vẻ đẹp tâm hồn của Mị đó là cô gái
không cam chịu cuộc sống mất tự do:
+ Cô xin cha rằng thà làm việc để trả nợ còn hơn là bán mình trả nợ, mất tự do. Hơn nữa, Mị
còn mang trong mình vẻ đẹp của cô gái giàu ước mơ, khát khao hạnh phúc.
+ Cô luôn khát khao được đi chơi trong đêm tình mùa xuân, ước ao được thổi sáo, được uống
rượu, được sống cuộc đời tươi đẹp của cô gái tuổi đôi mươi. Những tưởng như giấc mơ ấy
của Mị đã bị dập tắt từ ngày bị bóc lột sức lao động ở nhà A Sử thì cuối cùng, sức sống ấy
của Mị cũng trỗi dậy vô cùng mãnh liệt dẫn đến hành động liều mạng cắt dây trói cho A Phủ
và cùng nhau trốn chạy. Tất cả đều là ước mơ được hạnh phúc và tự do của Mị.
- Còn ở A Phủ, người đọc thấy được những phẩm chất vô cùng đáng quý:
+ Anh có sự cần cù, chăm chỉ kiếm sống, biết đúc lưỡi cày, lại cày giỏi và đi săn bò tót cũng
rất bạo. Công việc thường ngày của anh là đi săn, cái gì cũng phăng phăng. Đồng thời, A Phủ
rất khỏe, chạy nhanh như ngựa.
+ Anh trở thành niềm khao khát của bao cô gái trong làng. Giữa cuộc sống khắc nghiệt như
thế, A Phủ vẫn giữ được cho mình sự lạc quan, niềm tin vào cuộc sống, vui vẻ và yêu đời.
+ Dẫu cho không có quần áo đẹp, chỉ độc một cái vòng vía trên cổ, A Phủ vẫn cứ cùng trai
làng đi tìm người yêu ở các làng trong rừng. Ở anh, người đọc thấy được một tinh thần yêu
đời, yêu cuộc sống tha thiết.
+ Tiếp theo, A Phủ còn là một người yêu chính nghĩa. Vì bất bình, phẫn nộ trước sự độc ác
của A Sử, mặc cho A Sử có là con quan thì A Phủ vẫn trừng trị cho hắn ta một bài học đích
đáng.
 Từ đó, người đọc nể phục được sự thiện lương, yêu chính nghĩa và tinh thần hiệp nghĩa
của anh. Nhà văn Tô Hoài dường như đã gửi gắm ước mơ về chính nghĩa vào nhân vật này.
2. Giá trị nhân đạo được thể hiện ở sự việc A Phủ đánh A Sử
- Dù là tình tiết rất ngắn thế nhưng việc mà A Phủ dám đánh A Sử cho thấy sự hành đạo
nghĩa hiệp của nhân vật này. 
- Trận đánh ấy cho thấy sự phản kháng mạnh mẽ cùng tinh thần nghĩa hiệp của A Phủ đối với
những điều xấu xa trong cuộc sống.
 Bản chất anh hùng tốt đẹp của A Phủ đã khẳng định được ước mơ về công lí của tác giả.
Đồng thời người đọc cũng thấy được sự thất bại thảm hại và đê hèn của nhân vật A Sử.
III. TỔNG KẾT
- Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” đã thể hiện được giá trị nhân đạo sâu sắc.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 70
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

 Đó chính là bức tranh ca ngợi những phẩm chất của những con người khát khao được
hạnh phúc tự do, không chịu cảnh tượng khổ sở do bọn chúa đất đem đến.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 71
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

CHỦ ĐỀ II:
KÍ HIỆN ĐẠI (1954 – 1986)

CHUYÊN ĐỀ 3:
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (Nguyễn Tuân)

TIẾT 15:
TÌM HIỂU VỀ NHÀ VĂN NGUYỄN TUÂN
VÀ BÀI TÙY BÚT “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ”

I. NHÀ VĂN NGUYỄN TUÂN (1910 – 1987)


1. Cuộc đời
- Nguyễn Tuân quê ở Hà Nội.
- Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn.
2. Sự nghiệp sáng tác
- Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp.
- Ông có một vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với văn học Việt Nam hiện đại.
3. Phong cách nghệ thuật
- Nguyễn Tuân là nhà văn uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho
cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất,
có khả năng là lay động người đọc nhiều nhất.
II. BÀI TÙY BÚT “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ” (1960)
1. Xuất xứ
- Bài tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân được sáng tác vào năm 1958 và được
in trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân.
2. Hoàn cảnh sáng tác
- Tác phẩm là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến
đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi, không chỉ để thỏa mãn cái thú
tìm đến những miền đất lạ cho thỏa niềm khát khao “xê dịch”, mà chủ yếu để tìm kiếm chất
vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những con người
lao động và chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng đó.
3. Cảm hứng chủ đạo
- “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân nhiệt tình ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi nhân dân của
một nhà văn mà trái tim đang tràn đầy niềm hứng khởi khi thấy nay mình đã có đất nước,
mình đã không còn “thiếu quê hương”.
4. Chủ đề
- Qua hình tượng Sông Đà và người lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm yêu mến thiết
tha với thiên nhiên đất nước và ngợi ca những con người lao động – chất vàng mười của cuộc
sống.
- Trong tác phẩm, hình tượng con sông Đà hiện lên vô cùng hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất
trữ tình và lãng mạn.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 72
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 16:
VẺ HUNG DỮ CỦA CON SÔNG ĐÀ

I. KHÁI QUÁT
- Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nhà văn ưa cảm giác mạnh.
- Với Nguyễn Tuân, đã là đẹp phải đẹp tuyệt mĩ, đã là dữ dội phải dữ dội đến khác thường,
đến tột đỉnh. Ông không thích những gì tầm thường.
- Con Sông Đà đáp ứng được hai xúc cảm của Nguyễn Tuân vì con Sông Đà mang trong
mình hai tính cách trái ngược nhưng thống nhất với nhau.
- Ở phần thượng lưu, con sông vô cùng hung bạo, dữ dội.
II. PHÂN TÍCH
1. Ý nghĩa lời đề từ
- Mở đầu tùy bút là hai lời đề từ vô cùng đặc sắc và độc đáo:
+ Câu “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông” nhằm ca ngợi vẻ đẹp của sông Đà và tiếng
hát của những con người cần mẫn lao động, làm việc ở nơi đây.
+ Còn câu “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc Bắc lưu” mang ý nghĩa mọi con sông
đều chảy về phía Đông, riêng sông Đà chảy về phương Bắc để nói lên sự khác biệt độc nhất
vô nhị của sông Đà, gợi ra những cá tính riêng của con sông.
 Chỉ với hai lời đề từ ngắn gọn, Nguyễn Tuân đã mang đến cho bạn đọc những vẻ đẹp vô
cùng khác biệt của Sông Đà với những con sông khác giúp bạn đọc phần nào thêm thích thú
và muốn tìm hiểu về con sông này.
2. Đá bờ song “dựng vách thành”
- Sự hung bạo của Sông Đà được thể hiện trước hết ở vách đá. Các từ ngữ tạo hình, góc cạnh
như “dựng vách thành, chẹt lòng sông” đã khiến cho Sông Đà được tái hiện thành hình khối,
đường nét.
- Hình ảnh “mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời” vừa diễn tả được độ cao của vách
đá Sông Đà, độ hẹp của lòng sông.
- Ông tiếp tục khắc sâu độ cao của những vách đá và sự nhỏ hẹp của dòng chảy bằng những
hình ảnh, những liên tưởng độc đáo: “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy đang mùa hè cũng
thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ
nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
 Nhà văn đã dùng cả thị giác và xúc giác để miêu tả, ông miêu tả vách đá vừa bằng con mắt
của một họa sĩ vừa bằng sự cảm nhận tinh tế, độc đáo của một nhà văn. Ông so sánh cảm giác
của con người giữa thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ với một khoảnh khắc của đời sống hiện đại
giữa chốn thị thành. Tác giả đã kéo gần hơn nữa khoảng cách giữa con người và thiên nhiên,
khoảng cách giữa thiên nhiên nhiên hoang sơ với cuộc sống hiện đại ở chốn thị thành.
3. Mặt ghềnh Hát Loóng sóng nước dữ dội
- Cũng như đá bờ sông, thì“quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô
sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất
cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua quãng ấy”.
 Bằng kết cấu trùng điệp “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, tác giả đã làm rõ sự nguy
hiểm của con sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất.
- Không có từ nào trực tiếp tả ghềnh đá nhưng người đọc hình dung rõ diện mạo con sông.
- Quãng dài ghềnh đá nổi trên mặt sông, nước mạnh xô ghềnh tạo sóng dữ, sóng cuộn trào
sinh ra gió thổi rít lên gùn ghè, gùn ghè quanh năm suốt tháng. Con sông đến đây đã trở thành
một kẻ thù nguy hiểm của con người.
 Với nghệ thuật nhân hóa, con sông như một kẻ thù tính khí thất thường, đòi nợ vô duyên
cớ không bỏ sót một ai.
4. Quãng Tà Mường Vát với những cái hút nước chết người

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 73
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Đến đây nghệ thuật so sánh được tác giả đưa ra thật hào phóng tạo nên những liên tưởng kì
thú về cảnh sông nước dữ dội đầy thách thức đối với con người.
- Những cái hút nước giống như “những cái giếng bê tông”, nước thở và kêu như “cửa cống
cái bị sặc”, nước ặc ặc lên như “vừa rót dầu sôi vào”.
- Các động từ “thở”, “kêu”, “sặc”, “ặc ặc”… nói lên cường lực ghê gớm của những cái hút
nước. Và thật độc đáo khi ông lấy hình ảnh “ô tô sang số ấn ga” trên quãng đường mượn cạp
ra ngoài bờ vực để ví von với cách chèo thuyền.
 Bằng so sánh, nhân hóa, liên tưởng độc đáo, bằng kể và tả, kết hợp với các động từ và vận
dụng kiến thức uyên thâm của điện ảnh, Nguyễn Tuân đã khiến cho những cái hút nước ấy
hiện hình nhiều góc độ khác nhau với cường lực ghê gớm giúp người đọc cảm nhận được sự
“dữ tợn của hút nước Sông Đà”.
5. Tiếng nước réo gầm của những con thác
- Đây là một đoạn văn rất tiêu biểu cho phong cách phóng túng, độc đáo của tác giả. Ông đã
lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, lấy âm thanh để tả trạng thái Đặc biệt là khi miêu tả
âm thanh thác nước tác giả lại sử dụng rất nhiều các động từ: “oán trách”, “khiêu khích”,
“van xin”, “lồng lộn”, “bùng bùng”, “gầm thét”, “rống” vừa diễn tả âm thanh vừa diễn tả sức
mạnh, nội lực của thác nước.
 Âm thanh thác nước sông Đà thật mạnh mẽ, hoang dã, ghê sợ
 Để miêu tả âm thanh thác nước tác giả đã vận dụng kiến thức trong lĩnh vực âm nhac.
Nguyễn Tuân đã dùng các cao độ khác nhau trong âm nhạc để miêu tả âm thanh thác nước.
Phải rất am hiểu về âm nhạc thì Nguyễn Tuân mới có cách phối hợp âm thanh làm nổi bật sự
khủng khiếp của nước sông Đà như vậy
6. Dàn “thạch trận”
- Sự hung bạo của Sông Đà không chỉ hiện lên qua vách đá, mặt ghềnh, hút nước, âm thanh
mà nhà văn lại tiếp tục làm nổi bật sự hung bạo ấy ở cảnh đá trên sông.
- Ở ngoài đời, Sông Đà vốn đã hung bạo nhưng dười ngòi bút của Nguyễn Tuân sự hung bạo
ấy còn tăng lên gấp bội:
+ Nguyễn Tuân nhìn vào đâu là những tảng đá sống động đến đấy.
+ Cái đôi đũa thần ngôn từ của Nguyễn Tuân chạm vào đến đâu thì đá nổi hình nổi dáng,
mang vẻ dữ dằn, phảng phất linh hồn con người.
 Đó chính là phong cách uyên bác, tài hoa, độc đáo chỉ có ở Nguyễn Tuân.
- Sông Đà bày binh bố trận với ba trùng vi được bố trí cửa sinh của tử lệch nhau để lừa chết
người lái đò.
- Trùng vi thạch trận thứ nhất:
+ Ở trùng vi thứ nhất, Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh
nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở,
thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa.
+ Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào
trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào
mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát
nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước
bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời
thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở
bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”.
- Trùng vi thạch trận thứ hai:
+ Vượt qua trùng vi thạch trận thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vây thứ
hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía
bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi
chiếc thuyền”.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 74
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

+ Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc
thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng
đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.
 Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!
- Trùng vi thạch trận thứ ba:
+ Đến trùng vi thạch trận thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng
sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác.
+ Tại đây những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền.
Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt.
+ Chiếc thuyền như một cầu thủ phải “phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài,
cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên
được vừa tự động lái được lượn được”, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác.
 Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đò tài ba với “tay lái ra hoa”.
 Các biện pháp so sánh, nhân hóa, cường điệu, vận dụng tri thức trong lĩnh vực thể thao, võ
thuật, quân sự, điện ảnh, sử dụng các động từ “mai phục”, “nhổm”, “vồ” và nhiều tính từ như
“ngỗ ngược”, “nhăm nhúm”, “méo mó”, “phải”, “trái”, “giữa”, “khắc họa đá Sông Đà thật
mưu mô, nham hiểm, xảo quyệt”. Thật độc đáo khi Nguyễn Tuân vận dụng kiến thức của
những lĩnh vực tưởng như chẳng có liên quan gì đến văn chương như quân sự, võ thuật, thể
thao để miêu tả Sông Đà.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Nguyễn Tuân miêu tả sự hùng vĩ, dữ dội của Sông Đà không phải là cảm nhận chung chung
của một khách tham quan hay nhận xét khái quát của một nhà địa lí mà ông đã tận dụng mọi
thế mạnh của nghệ thuật ngôn từ để buộc sự hung tợn mà kì vĩ của Sông Đà phải sống dậy,
phải hiện hình, và phải gào thét lên trên trang giấy.
- Đọc tùy bút “Người lái đò Sông Đà” ta thấy mình như được sống trong những giây phút hồi
hộp, lo lắng, sợ hãi trước sự hung bạo, dữ dội, mưu mô của Sông Đà.
2. Giá trị nghệ thuật
- Bằng ngòi bút phóng linh hoạt, ngôn ngữ giàu chất tạo hình kết với nghệ thuật nhân hóa,
hình ảnh so sánh liên tưởng độc đáo, cường điệu, vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực khác
nhau như điện ảnh, võ thuật, âm nhạc, quân sự.
- Nguyễn Tuân đã khắc họa sinh động sự hung bạo của con Sông Đà nó vừa hiểm trở, dữ dội
vừa ghê gớm, khủng khiếp lại mạnh mẽ, hoang dã, ghê sợ nhưng đặc biệt hơn cả là rất nham
hiểm, mưu mô, xảo quyệt.
- Sông Đà không còn là một dòng sông vô tri vô giác mà nó trở thành một sinh thể có diện
mạo, hành động, tâm trạng. Bên trong sự hung bạo ấy, hình ảnh Sông Đà vẫn nổi bật lên như
một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 75
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 17:
CUỘC SỐNG CỦA CON NGƯỜI TRÊN SÔNG ĐÀ
VÀ HÌNH ẢNH NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

I. KHÁI QUÁT
- Song song với hình tượng con Sông Đà vừa dữ dội, vừa dịu dàng ấy, là hình ảnh người lái
đò Sông Đà can trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con Sông Đà
vừa hung bạo vừa trừa tình.
- Đối với Nguyễn Tuân lúc này, người nghệ sĩ chính là những con người lao động bình dị
nhưng lại có chất nghệ sĩ trong chính nghề nghiệp của mình. Và cảnh tượng ông lái đò vượt
qua con thác đã thể hiện thành công điều đó.
II. PHÂN TÍCH
1. Lai lịch và công việc của người lái đò
- Điểm đặc biệt đầu tiên của nhân vật này chính là không có tên gọi cụ thể mà tên của ông
gắn liền với nghề nghiệp.
- Hằng ngày, ông lái đò trên sông Đà, phải đối diện với thiên nhiên hung bạo.
 Điều này thể hiện, ông là đại diện cho vẻ đẹp người lái đò trên sông nước, cần mẫn.
- Tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình để ngợi ca những con người vô danh
âm thầm cống hiến.
2. Vẻ đẹp ngoại hình bình dị, chân chất
- Ngoại hình của người lái đò chỉ được Nguyễn Tuân phác họa bằng những nét hết sức ngắn
gọn: “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp
lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông,
nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái
đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”.
 Thân thể ông lái đò mang đậm dấu ấn của nghề nghiệp, chứng tỏ ông là một con người
yêu nghề, gắn bó với nghề.
 Chỉ với những lời giới thiệu hết sức ngắn gọn, nhưng ta cũng có thể thấy được chân dung
của một con người cả đời gắn bó với thiên nhiên, con người nơi đây.
3. Người lái đò là một nghệ sĩ tài hoa với những phẩm chất đáng quý
- Không chỉ mang vẻ đẹp ngoại hình gắn với lao động sông nước, ở ông còn in đậm vẻ đẹp
tâm hồn tính cách.
- Thứ nhất, thể hiện ở sự từng trải, giàu kinh nghiệm, có sự hiểu biết sâu sắc về luồng lạch
trên sông Đà:
+ Ông lái đò thể hiện sự hình thành “tính cách” của mình qua “trí nhớ ông được rèn luyện cao
độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất
cả những con thác hiểm trở.
+ Sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả
những cái chấm than chấm câu và những đọan xuống dòng”. Chính vì vậy: “Ông lái đã nắm
chắc được binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc qui luật phục kích của lũ đá”.
 Đó chính là hình ảnh của một con người gắn bó với lao động, yêu nghề sông nước, từng
trải và giàu kinh nghiệm.
- Thứ hai, ở sự thông minh linh hoạt, dũng cảm như một viên tướng tài ba, như một nghệ sĩ
trong nghệ thuật vượt thác sông Đà:
+ Cuộc sống của người lái đò sông Đà là một cuộc chiến đấu hằng ngày. Và ngày nào cũng
phải giành những cái sống từ tay nhưng con thác.
+ Vẻ đẹp này được ngòi bút Nguyễn Tuân thể hiện qua hình ảnh ông lái đò vượt thác: Vẻ đẹp
tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn kinh
nghiệm thủy chiến.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 76
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

+ Chất tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi
thường. Cảnh vượt thác của ông lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy:
 Ở trùng vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: “Thạch
trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới”. Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. Những hòn
đá “bệ vệ oai phong lẫm liệt” được nước thác “reo hò làm thanh viện” chúng liều mạng
xông vào mà “đá trái” mà “thúc gối vào bụng và hông thuyền… Có lúc chúng đội cả
thuyền lên”. Nguy hiểm là vậy nhưng ông lái đò vẫn bình tĩnh “hai tay giữ mái chèo khỏi
bị hất lên khỏi sóng”. Ngay cả lúc bị con thủy quái này đánh miếng đòn hiểm nhất “bóp
chặt lấy hạ bộ” đau điếng nhưng vị thuyền trưởng vẫn “hai chân vẫn kẹp lấy cuống lái”
dù mặt méo bệch vì đau đớn nhưng tiếng chỉ huy của ông vẫn sắc lạnh, tỉnh táo, đưa con
thuyền thoát khỏi nguy hiểm.
 Trùng vây thứ hai lại vô cùng hiểm trở, bố trí nhiều cửa tử hơn: “Dòng thác hùm beo
đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Ông lái đò bắt đầu cuộc tấn công bằng cách “nắm
chặt được cái bờm sóng đúng luồng rồi” ông cho con thuyền “phóng nhanh vào cửa sinh
mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Bọn tướng đá, đứa thì “ông tránh mà rảo
bơi chèo lên”, đứa thì bị “ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối cùng
ông thắng còn bọn đá tướng thất bại thảm hại đưa cái mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”.
 Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là “luồng chết cả”. Đã vậy, còn bố trí “bọn đá hậu
vệ” canh cửa hòng “bắt chết” cái thuyền. Ông lái đò mưu trí “phóng thẳng con thuyền”,
“chọc thủng” trùng vây rồi “vút qua cổng đá cánh mở cánh khép”. Chiếc thuyền như một
mũi tên tre “vút, vút” xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác. Sông nước lại thanh
bình.
 Qua đó, ta thấy ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song toàn,
quyết đoán và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò được Nguyễn Tuân
khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên
cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng. Nguyễn Tuân
đã tung ra một đội quân ngôn ngữ thật hùng hậu, đa dạng, biến ảo thần kì với liên tục những
phép tu từ vô cùng sinh động: so sánh ngầm, nhân hóa, cường điệu… Câu chữ tuôn chảy ào
ạt, điệp điệp trùng trùng tạo ra  một bức tranh hòanh tráng. Nhà văn đã dụng tâm diễn tả cuộc
chiến giữa ông lái đò với dòng sông theo hướng thọat đầu tưởng như không cân sức. Nhưng
cuối cùng phần thắng đã thuộc về con người nhờ sự thông minh và dũng cảm. Cuộc vượt thác
thật ngoạn mục, ông lái đò thực sự là một người nghệ sĩ tài hoa.
- Thứ ba, ở sự khiêm nhường, bình dị, phong thái ung dung mang cốt cách nghệ sĩ:
+ Đối với người lái đò, hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là một phần trong cuộc sống
của ông.
+ Khi vượt qua gian nguy, sóng nước lại tan xèo xèo trong trí nhớ “sông nước lại thanh bình.
Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, và toàn bàn tán về cá anh vũ , cá
dầm xanh… Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua ”.
 Nhà văn như muốn nghỉ ngơi sau chặng đường dài cùng nhân vật của mình đua tranh tài
trí với thiên nhiên hung dữ. Song qua giọng văn nhẹ nhàng, ta lại thấm thía thêm một vẻ đẹp
của người lái đò. Đó là sự khiêm nhường, bình dị, ung dung bởi vì “ngày nào cũng giành lấy
cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ…”. Cái phi
thường đã trở thành bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hòa quyện với phong thái tài tử, nghệ
sĩ.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Nhân vật ông lái đò trong “Người lái đò Sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân là đại diện
cho con người lao động Tây Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, là con người vừa
có phẩm chất anh hùng vừa tài hoa nghệ sĩ, chứa đựng chất vàng mười đã qua thử lửa.
2. Giá trị nghệ thuật

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 77
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Hình tượng người lái đò Sông Đà được xây dựng rất thành công qua ngòi bút độc đáo và
sáng tạo của Nguyễn Tuân.
- Trong hơi thở văn chương ấy, nhà văn đã khẳng định được tài năng và sức mạnh cường đại
của con người, cuộc chiến không cân sức giữa con người lao động và thiên nhiên kì bí vốn có
nhiều cam go, vất vả.
- Nhưng bằng sự thông minh, sáng tạo, đức tính kiên cường, tỉ mỉ vốn ăn sâu vào máu của
những người lao động, họ đã chiến thắng một cách huy hoàng, vẻ vang nhất, trở thành người
nghệ sĩ tài ba trên chính mặt trận tìm kế sinh nhai của mình.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 78
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 18:
VẺ ĐẸP TRỮ TÌNH, THƠ MỘNG CỦA SÔNG ĐÀ

I. KHÁI QUÁT
- Khi miêu tả tính cách hung bạo của Sông Đà, tác giả sử dụng những câu văn mang nhịp
điệu dồn dập, hình ảnh thơ hùng vĩ.
- Nhưng khi ca ngợi dòng Sông Đà trữ tình gợi cảm, ông lại dùng những câu văn dài, êm ả,
nghe như tiếng hát ngân nga.
II. PHÂN TÍCH
1. Từ trên cao nhìn xuống
- Nguyễn Tuân cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà ở nhiều góc độ tầm nhìn khác nhau,
lúc thì nhìn từ trên cao xuống tức là lúc đi máy bay trên Sông Đà, lúc lại nhìn gần đi từ rừng
ra và đi thuyền trực tiếp trên sông nước.
- Trước hết là cảm nhận của nhà văn về vẻ đẹp của sông Đà khi nhìn từ trên cao xuống, tác
giả so sánh từ trên máy bay sông Đà “như chiếc dây thừng ngoằn ngoèo”, phép so sánh cụ thể
hóa dáng hình mềm mại của sông Đà giống như ca dao xưa ví dòng sông uốn lượn như hình
con long trên núi rừng Tây Bắc.
- Tác giả tiếp tục sử dụng trùng điệp các đối so sánh liên hoàn để tô đậm thêm vẻ đẹp muôn
hình muôn vẻ muôn sắc của dòng sông: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ
tình mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng
hai…”:
+ Điệp ngữ “tuôn dài” được lặp lại hai lần nhấn mạnh chiều dài Sông Đà chảy suốt chiều dài
biên giới phía Tây Tổ quốc.
+ Phép so sánh “Sông Đà như một áng tóc trữ tình” lại nhấn mạnh dáng hình dòng sông mềm
mại óng ả, mượt mà, duyên dáng uyển chuyển, yêu kiều.
+ Hình ảnh “ẩn hiện mây trời Tây Bắc” và phép so sánh “mây trời ấy cuồn cuộn như mù khói
núi mèo đốt nương xuân”, chính điều này làm tăng thêm vẻ hư ảo kín đáo e ấp tình tứ của
dòng sông.
+ Động từ “bung nở” là một động từ mạnh đứng trước hai loài hoa của mùa xuân là hoa gạo
đỏ tươi và hoa ban trắng tinh khiết làm tăng thêm cảm nhận về sự vận động của sắc màu cứ
xôn xao rạo rực rồi bừng lên lộng lẫy, trang điểm cho dòng sông đẹp tuyệt diệu cuốn hút lòng
người.
 Những phép tu từ giúp Nguyễn Tuân vừa tả Sông Đà lại vừa gợi lên vẻ đẹp lỗng lẫy giống
như một cô gái Tây Bắc e ấp tình tứ.
2. Từ điểm nhìn thời gian
- Vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Ở
mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà trong một dáng vẻ, màu sắc khác nhau.
- Mùa xuân, nước Sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước
sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi
cảm, trong lành. Thật tài hoa và thật trữ tĩnh bởi đó gợi lên sắc màu của nước, của núi, của da
trời.
- Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái
màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ
lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” chắc chỉ có ở một mình Nguyễn Tuân.
 Ông đã sử dụng phép so sánh thật độc đáo, tinh tế nhưng không kém phần gần gũi. Giúp
người đọc dễ dàng tưởng tượng ra vẻ đẹp thơ mộng chân thực của dòng sông.
- Quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, tác giả ví sông Đà như một cố
nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 79
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên
đi Quảng Lăng” – “Yêu hoa tam nguyệt há Dương Châu “của Lý Bạch, Nguyễn Tuân dường
như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc.
 Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong
sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình.
3. Vẻ đẹp hai bên bờ sông từ điểm nhìn của một vị lữ khách
- Đắm đuối trước vẻ trữ tình thơ mộng của Đà giang trong phong thái của một khách lãng du,
mê đắm, thưởng ngoạn, Nguyễn Tuân đã khám phá ra bao vẻ nên thơ, nên họa của dòng
sông.
- Xuôi về hạ lưu, dòng sông lững lờ, êm trôi như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại
trên phía thượng nguồn Tây Bắc.
- Cảnh ven sông ở đây lặng tờ, cổ kính, hoang sơ. Tưởng như từ đời Lí, Trần, Lê, quãng sông
này cũng lặng tờ đến thế mà thôi.
- Con Sông Đà dường như chỉ biết tồn tại trong không gian mà không hề biết đến thời gian.
Thời gian mải miết trôi, Sông Đà vẫn mãi vẻ đẹp nguyên sơ, hoang dại bờ tiền sử, bờ sông
hồn nhiêu như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.
- Hai bên bờ sông tịnh không một bóng người. Chỉ có những nương ngô mới nhú lên những
là ngô non đầu mùa, những đồi cỏ gianh đang ra nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ
gianh đẫm sương đêm. Thỉnh thoảng, con hươu thơ thẩn ngẩng đầu khỏi ánh cỏ sương chăm
chăm nhìn ông khách sông Đà mà như muốn hỏi rằng: “Có phải ông cũng vừa nghe thấy một
tiếng còi sương”. Vạn vật như đang chìm vào cõi mộng mơ.
- Dưới lòng sông, những đàn cá đầm xanh thi thoảng quẫy vọt lên bụng trắng như bạc rơi
thoi.
 Những câu văn xuôi của Nguyễn Tuân vút lên như vần thơ mềm mại, du dương, như nét
vẽ thanh nhẹ, hư ảo.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Sông Đà hiện ra như một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, vừa là một con sông hung bạo gây
bao khó khăn, nguy hiểm cho con người Tây Bắc, vừa là một dòng sông rất đỗi trữ tình, tạo
nên nét thơ mộng cho cảnh sắc đất nước, Sông Đà quả là “chất vàng” của Tây Bắc.
 Qua hình tượng Sông Đà, văn phong tài hoa, uyên bác cùng tình yêu đất nước của Nguyễn
Tuân thật sự để lại ấn tượng sâu sắc nơi người đọc.
2. Giá trị nghệ thuật
- Dưới ngòi bút dạt dào, chất thơ, chất họa, vẻ đẹp của dòng nước Sông Đà hiện lên như một
bức tranh kì thú như những thước phim huyền ảo.
- Nguyễn Tuân như đưa người đọc vào thế giới thần tiên cổ tích, thơ mộng, cảnh vừa hoang
sơ, cổ kính, vừa thơ mộng, trữ tình, vừa lặng tờ, êm ả, vừa ẩn chứa sức sống tươi non.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 80
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

CHUYÊN ĐỀ 4:
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (Nguyễn Tuân)

TIẾT 19:
TÌM HIỂU VỀ NHÀ VĂN HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
VÀ BÀI BÚT KÍ “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?”

I. NHÀ VĂN HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (1937)


1. Cuộc đời
- Hoàng Phủ Ngọc Tường quê gốc ở tỉnh Quảng Trị.
2. Sự nghiệp sáng tác
- Ông là một trong những nhà văn chuyên về bút kí.
3. Phong cách nghệ thuật
- Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về
triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí…
 Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
II. BÀI BÚT KÍ “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?” (1981)
1. Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ
- “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế và năm 1981, in trong tập
sách cùng tên.
2. Ý nghĩa nhan đề
- Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã dẫn dắt người đọc đến với cội nguồn tên gọi của
dòng Hương thơ mộng.
- Tác giả lấy tên nhan đề cho bài bút kí dưới hình thức của một câu hỏi nhằm mục đích dẫn
dắt, gợi mở người đọc về nguồn gốc tên gọi của dòng sông, nói lên những khát vọng, niềm tự
hào của con người khi muốn mang cái đẹp, tiếng thơm để gây dựng, vun đắp cho văn hóa,
lịch sử của xứ Huế.
- Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” cũng thể hiện được niềm biết ơn đối với những con
người đã khai phá vùng đất này, bộc lộ niềm tự hào về vẻ đẹp của đất nước.
3. Chủ đề
- Tác phẩm thể hiện lòng yêu nước, tinh thần dân tộc gắn liền với tình yêu thiên nhiên sâu
sắc, với truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời. Đồng thời tác phẩm cũng viết về tình yêu, niềm
tự hào tha thiết, sâu lắng của tác giả dành cho sông quê hương, cho xứ Huế thân yêu.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 81
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 20:
SÔNG HƯƠNG Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG

I. KHÁI QUÁT
- Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng bộc lộ nét lịch lãm và tài hoa trong lối hành
văn của tác giả. Độc giả khó cưỡng một sức hấp dẫn toát lên từ hàng loạt động từ diễn tả cái
dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế.
II. PHÂN TÍCH
1. Ra khỏi vùng núi
- Vẻ đẹp của dòng sông Hương trong đoạn trích, ngay từ câu mở đầu đoạn, đã hiện lên đậm
thiên tính nữ: “Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái
đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”:
+ Hình ảnh nhân hóa sông Hương như một người gái đẹp say ngủ đã nói lên sự dịu dàng, vẻ
kín đáo, sự quyến rũ của nó.
+ Hình ảnh người gái đẹp với giấc ngủ mơ màng qua hàng trăm năm ấy khiến ta liên tưởng
tới hình ảnh nàng công chúa cùng giấc ngủ trăm năm trong câu chuyện cố tích.
+ Khi người tình xứ Huế đến đánh thức, sông Hương đã choàng tỉnh và bắt đầu cuộc hành
trình của mình.
 Trong cuộc hành trình đó, sông Hương đã bộc lộ và tự trau dồi thêm cho vẻ đẹp, cho phẩm
chất của mình, khiến cho vẻ đẹp của nó ngày càng toàn vẹn hơn.
2. Một số địa danh trên dòng sông Hương
- Con sông Hương được nhân hóa như đang làm duyên đang múa lượn. Sông Hương lúc thì
trôi theo hướng sang Tây Bắc vòng qua bãi Nguyệt Biều, Lương Quán. Rồi nó “đột ngột vẽ
một hình cung thật tròn về phía Đông Bắc ôm lấy đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”.
- Dòng chảy của sông Hương qua các địa danh ngã ba Tuần, điện Hoàn Chén, Ngọc Trản, bãi
Lương Biều, Lương Quán, Vọng cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo... được tác giả vẽ ra, nhấc lại một
cách chính xác thể hiện những kiến thức về địa lí, văn hóa tinh tường. Người đọc có lúc ngỡ
ông đã từng nhiều năm tháng du ngoạn ngược xuôi với con thuyền nhỏ bồng bềnh trong điệu
Nam ai, Nam bình trên dòng sông Hương thơ mộng.
- Ông yêu dòng sông quê mẹ, ông biết rõ dáng hình và những đường nét uốn lượn của nó.
Ông nói về sắc nước của dòng sông Hương là “xanh thẳm”, dáng hình của nó “mềm như tấm
lụa”, sự tấp nập rộn ràng của nó là“những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”.
Ông say mê thưởng thức gương sông lấp lánh “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” dưới ánh
phản quang nhiều màu sắc trên nền trời Tây Nam thành Huế.
- Giữa đám quần sơn lô xô, giữa những lăng tẩm đồ sộ của các vua chúa nhà Nguyễn, giữa
những rừng thông u tịch, sông Hương mang vẻ đẹp “trầm mặc… như triết lí. như cổ thi”...
Tác giả nhắc lại một vần thơ cổ, thật đắc địa, gợi không khí, khung cảnh “u tịch” và “trầm
mặc” của những rừng thông, của dòng sông, những thành quách và những đồi núi lô xô ở
đây. Nhưng Hương giang không chỉ có vẻ đẹp của nhan sắc, người con gái còn hiện lên trong
vẻ đẹp của trí tuệ, của văn hóa và sự hiểu biết.
- Khi dòng sông chảy qua những đồi thông u tịch, nơi phong kín giấc ngủ ngàn năm của
những vị vua chúa, dòng sông ấy mang vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi. Sự nghiêm
trang, lặng lẽ và khẽ khàng của Hương giang giống như người con gái ý tứ, lịch thiệp, không
muốn làm kinh động đến giấc ngủ ngàn năm của các vị vua chúa.
- Sông Hương ngoài vẻ đẹp nữ tính, còn hiện lên như một người con gái đa tình. Sự đa tình
của Hương giang đã hiện lên qua cuộc hành trình của nó tìm đến với người tình xứ Huế.
- Ngay từ mở đầu của tùy bút, tác giả đã viết về sự đặc biệt của Hương giang khi nó chỉ thuộc
về một thành phố duy nhất. Là người con gái yêu Huế, trọn đời chỉ có người tình Huế.
- Cuộc hành trình của Hương giang từ nguồn đến với kinh thành Huế như sau: “Từ ngã ba
Tuần, sông Hương theo hướng nam – bắc qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 82
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

sang hướng tây – bắc vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một
hình cung thật tròn về phía đông – bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”.
- Từ ngã ba Tuần, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực
sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy
đồi sừng sững như thành quách, với những điểm đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu
Bảo.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thấy những con thuyền trên sông Hương chỉ bé vừa bằng con
thoi, còn sông Hương lại như tấm lụa khổng lồ.
 Đấy là những tấm lụa rực rỡ những sắc màu và những sắc màu ấy lại biến đổi theo thời
gian: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Thật ra, đó chỉ phản quang theo thời gian trong ngày
nhưng cũng đủ cho ta thấy vẻ đẹp kì ảo của thiên nhiên một miền đất. Những sắc màu ấy
không cùng đồng hiện, nếu thế thì không còn là rực rỡ mà chỉ là sặc sỡ. sắc màu ấy đã biến
đổi theo thời gian, theo quy luật, trở thành cách nói quen thuộc của người dân xứ Huế.
 Như thế, cảnh sắc càng trở nên diễm lệ và mơ màng. Có thể nói đó là cuộc hành trình dài,
đầy những gian truân.
- Hành trình sông Hương từ khi bắt đầu đã được nhà văn miêu tả: “Nhưng ngay từ đầu vừa ra
khỏi vùng núi, Sông Hương đã chuyến dòng một cách liên tục, vòng những khúc quanh đột
ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm liếm có ý thức để đi tới
nơi gặp thành phố tương lai của nó”.
 Như vậy, hướng chảy dòng sông, sự chuyển dòng của dòng sông, qua cảm quan nhà văn
đó là một cuộc kiếm tìm rất rõ ràng, có ý thức và có mục đích. Huớng chảy ấy giống như
buớc chân của người con gái lần đầu bỡ ngỡ đến với tình yêu.
III. TỔNG KẾT
- Miêu tả sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường bộc lộ một vốn hiểu biết phong phú, một trí
tưởng tượng bay bổng.
- Bằng giọng văn say đắm lòng người, nhà văn đã thổi hồn vào dòng chảy, thổi phẩm chất
vào sông Hương bản tính của người con gái xứ Huế e lệ, dịu dàng, kín đáo nhưng cũng thật
mãnh liệt.
- Với hơn nửa đời gắn bó cùng cố đô, nhà văn đã có một tình cảm sâu đậm với xứ sở này, và
cũng như dòng sông, tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với Huế cũng thật đậm đà, sâu
nặng.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 83
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 21:
SÔNG HƯƠNG GIỮA LÒNG THÀNH PHỐ HUẾ

I. KHÁI QUÁT
- Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng đến ngoại vi thành phố Huế đã bộc lộ nét tài
hoa, lịch lãm trong lối viết của tác giả.
- Người đọc khó có thể cưỡng lại sức hấp dẫn toát ra từ thủ pháp nhân hóa, từ cách dùng hàng
loạt các động từ diễn tả cái dòng chảy thật sống động qua các địa danh khác nhau của xứ
Huế.
II. PHÂN TÍCH
- Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế thân yêu – có lẽ đây là đoạn tác giả nói về vẻ đẹp
của dòng sông đẹp nhất, duyên dáng, trữ tình nhất. Từ chùa Thiên Mụ trở đi, sông Hương lại
mang một vẻ đẹp khác.
- Tác giả đã thấy sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc. Cái vui tươi
của dòng sông lại cho ta liên tưởng đến cái vui tươi của con người, đến cuộc sống yên bình
của người dân một miền đất với những bờ bãi xanh biếc, màu mỡ ,...
Sông Hương đến gần với xứ Huế chỗ cồn Giã Viên thì tác giả thấy nó có những nét cong thật
mềm mại và đã được so sánh, nhìn nhận: dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng”
không nói ra của tình yêu.
 So sánh này thật là độc đáo, tài hoa và tinh tế. Tác giả đã so sánh với những cái khá mơ hồ
nhưng lại gợi được những liên tưởng: cô gái ấy thuận tình nhưng lại không nói ra vì e lệ.
- Sông Hương giữa lòng thành phố Huế có gì đó gợi nhắc đến sông Xen của Pa-ri, sông Đa-
nuýp của Bu-đa-pét,... nhưng những dòng sông ấy vừa giống lại vừa khác với Hương Giang.
 Đó đều là những dòng sông gắn liền với thủ đô, kinh đô nhưng sông Hương vẫn khác với
hai con sông đó ở chỗ sông Hương không hoàn toàn gắn với những gì hiện đại mà còn gắn
với những xóm thuyền, với nhưng ánh lửa thuyền chài.
- Sông Hương chảy giữa lòng thành phố ở đây ta như thấy có sự đan cài giữa quá khứ với
hiện đại. Sự cận kề và đan xen ấy tạo nên nét đặc thù cho xứ Huế và sông Hương.
 Hương Giang phía hạ nguồn đã chảy chậm hơn. Đây cũng là một nét khác biệt nữa của
dòng sông với sông Nê-va. Sông Nê-va chảy quá nhanh, quá xiết, còn dòng sông Hương chảy
giữa lòng thành phố lại lặng lờ, êm đềm. Nó không còn vũ điệu cuồng nhiệt của cô gái Di-
gan, chẳng còn nữa những gì là rầm rộ, là mãnh liệt. Điệu chảy khác thường ấy của sông
Hương đã được tác giả gọi là “điệu slow” tình cảm dành riêng cho Huế.
- Sông Hương qua cảm nhận của tác giả chủ yếu được nhìn nhận theo chiều không gian, theo
dòng chảy của con sông. Nhưng sẽ thật là thiếu sót nếu không nói đến vẻ đẹp của Hương
Giang từ bình diện thời gian mà vẫn gắn với kinh thành, với đêm khuya trên dòng sông.
III. TỔNG KẾT
- Qua những cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông Hương khi chảy vào thành phố Huế, có thể
nhận thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận và miêu tả dòng sông từ nhiều không gian,
thời gian khác nhau.
- Ở mỗi điểm nhìn, mỗi góc độ, nhà văn đều thể hiện một cảm nghĩ sâu sắc và khá mới mẻ về
con sông đã trở thành biểu tượng của xứ Huế.
 Từ trong những cái nhìn ấy và qua giọng điệu của các đoạn văn, ta thấy bàng bạc một tình
cảm yêu mến, gắn bó tha thiết, một niềm tự hào và một thái độ trân trọng, gìn giữ của nhà
văn đối với những vẻ đẹp tự nhiên và đậm màu sắc văn hóa của dòng sông quê hương.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 84
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 22:
SÔNG HƯƠNG KHI RỜI KHỎI THÀNH PHỐ HUẾ

I. KHÁI QUÁT
- Đoạn nói về sông Hương rời khỏi kinh thành ra đi được Hoàng Phủ Ngọc Tường diễn tả
bằng một ngòi bút nghệ thuật rất đỗi hào hoa phong tình.
II. PHÂN TÍCH
- Ông đã nhân hóa sông Hương thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, họ biết nhạc
cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước Hương Giang: “Hình như trong khoảnh khắc
chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”.
Ông cho hay, thi hào Nguyễn Du đã từng ôm ấp một phiến trăng sầu trong bao năm lênh đênh
trên dòng sông Hương. Một nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỉ đã chỉ đích danh hai câu
thơ: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời” mang điệu nhạc
cung đình Tứ đại cảnh.
- Hương rời khỏi kinh thành lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những
vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ, rồi nó lại đổi dòng đột ngột gặp lại thành phố lần cuối ở góc
thị trấn Bảo Vinh xưa cổ như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, phải chăng khúc lượn này,
sông Hương có cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người.
- Tác giả cho rằng đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và ông đã
so sánh sông Hương với nàng Kiều trong đêm trình tự, ông dẫn buông hai câu thơ của
Nguyễn Du để nói sự lưu luvến chí tình với lời thề trước khi về biển cả.
- Thật không có sự so sánh nào hay hơn khi nói về con sông mang tình người, tình son sắt
thủy chung của lứa đôi: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”, lời thề của lứa đôi,
lời thề của dòng sông đã trở thành giọng hò dân gian của xứ Huế.
- Sâu xa hơn nữa. lời thề ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê
hương xứ sở thân thương.
- Đến với Huế mộng mơ là đến với sông Hương, đến với tiếng chuông chùa Thiên Mụ đến
với tiếng gà Bao Vinh, là đến với lăng tẩm đế vương, đến với con người thủy chung trọn tình
trọn nghĩa, là đến với lời ca điệu hò gian dịu ngọt.
III. TỔNG KẾT
- Sông Hương không chỉ mang vẻ đẹp trời phú mà còn ánh lên vẻ đẹp của con người, như
một người tình dịu dàng, thủy chung.
- Dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương hiện lên vô cùng đẹp đẽ,
hòa quyện nhiều nét đẹp khác nhau, khi mạnh mẽ, dữ dỗi khi lại rất đỗi thâm trầm kín đáo.
- Vẻ đẹp của sông Hương cũng chính là vẻ đẹp của con người nơi đây.
 Qua bài kí này, tác giả cũng thể hiện tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 85
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 23:
SÔNG HƯƠNG TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI LỊCH SỬ, VĂN HÓA

I. KHÁI QUÁT
- Đâu chỉ là thiếu nữ Huế tình tứ, sông Hương còn trầm tích trong mình vẻ đẹp sâu xa của
văn hóa lịch sử.
- Khi là một thiên sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc, lúc là người mẹ phù sa của một vùng
văn hóa xứ xở với sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ.
- Ngoài vẻ đẹp thơ mộng, dịu dàng mà nó mang trong mình thì đây còn là một dòng sông gắn
với lịch sử đất nước và văn hóa xứ Huế nói riêng. 
II. PHÂN TÍCH
1. Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử
- Trong mối quan hệ với lịch sử đất nước, sông Hương là dòng “sử thi viết giữa màu cỏ lá
xanh biếc” theo dòng thời gian sông Hương là chứng nhân lịch sử, nhà văn đã đưa người đọc
trở về với quá khứ gian truân mà hào hùng của đất nước để cảm nhận được hết nét đẹp này
của sông Hương. Nó chính là một ải Chi Lăng ở phía Nam Tổ quốc đã bao lần làm quân thù
khiếp sợ:
+ Châu Hóa giữ vị trí chiến lược trong việc trấn giữ biên cương của Tổ quốc Đại Việt.
+ Lịch sử đã gọi nó là Vạn Lí Trường Thành của Phương Nam.
- Trong sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, sông Hương là dòng Linh Giang âm vang lịch
sử, là dòng sông biên thùy từng chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới của Tổ quốc.
- Thế kỉ XVIII nó soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Nó sống
hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa.
- Thế kỉ XX, sông Hương đi vào Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển
để rồi sau đó nó tiếp tục có mặt trong những năm tháng bi hùng nhất của lịch sử đất nước với
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ ác liệt.
- Quay về quá khứ xa xưa, ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử một dòng sông có
cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng kiên cường, kiêu hãnh qua bao thăng trầm lịch sử.
- Khi hòa bình lặp lại, sông Hương đã trở về cuộc sống đời thường khi đó nó là một người
con gái dịu dàng của đất nước.
 Xuyên suốt trang văn của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra vẻ đẹp hùng
tráng của dòng Hương Giang. Ông đã hiểu một cách thấu đáo, sông Hương từ cội nguồn của
nó cho đến khi đổ ra biển Đông đều gắn với lịch sử dựng và giữ nước oai hùng của dân tộc.
2. Sông Hương trong mối quan hệ với văn hóa
- Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chìm trong vẽ đẹp của Hương Giang để phát hiện ra
cái nôi văn hóa của kinh thành Huế đã được khai sinh.
 Từ đây bằng vốn kiến thức am hiểu sâu sắc về nhiều lĩnh vực âm nhạc, thi ca văn hóa
truyền thống, ông khẳng định “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt
nước của dòng sông này” từ nhã nhạc cung đình, ca Huế, cho đến những điệu hò dân gian,
mái nhì, mái đẩy. Ai đã từng nghe ca Huế trên sông Hương mới có thể cảm nhận hết nét thơ
mộng, lãng mạn của hồn điệu dân gian xứ Huế, trong trường liên tưởng của mình tác giả phát
hiện ra mối quan hệ giữa những bản nhạc xưa của Huế với “Truyện Kiều” của Nguyễn Du để
thấy được sự giao thoa tương đồng giữa thơ và nhạc.
- Vẻ đẹp của sông Hương không được tô đậm, nếu nhà văn quên đi một dòng sông thi ca.
Dòng sông đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ và họ chưa bao giờ lặp lại mình.
- Khi nhìn vẻ đẹp của Hương giang nó vẫn mãi mãi là nỗi hoài vọng về một cái đẹp nào đó
chưa đạt tới, thi sĩ Tản Đà gọi dòng sông xanh biếc ấy là “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Từ
một Linh giang mơ màng sông Hương còn bảng lảng nỗi sầu vạn cổ trong thơ bà Huyện
Thanh Quan.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 86
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

 Đó còn là hình ảnh dòng sông mang tráng khí cao người anh hùng Cao Bá Quát “Trường
giang như kiếm dựng thanh niên”.
- Suy cho cùng vẻ đẹp phong phú biến ảo của Hương giang đã chảy qua những tâm hồn,
những trang thơ, trang văn của người nghệ sĩ làm phong phú thêm mạch nguồn thi ca dân tộc.
Có người đã từng nói rằng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường rất uyên bác với vốn hiểu biết
phong phú về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật xứ Huế.
 Đó là sự uyên bác của một nhà Huế học. Nhận xét đó rất đúng với nhà văn, ông đã mang
đến cho người đọc những kiến thức rất mới mẽ, sâu sắc về văn học Huế.
- Có lẽ vì yêu mến dòng sông Hương nên vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên ấy đã
khơi gợi nguồn cảm hứng để những nghệ nhân xưa may trang phục truyền thống của cô dâu
Huế theo đúng màu sương khói trên sông Hương. Họ kết hợp loại vải vằn thưa màu xanh
chàm với màu đỏ để làm nên một màu tím nhân loại của xứ Huế.
 Sự phát hiện ấy cho thấy sự am tường về văn hóa Huế đồng thời lối viết rất độc đáo, sáng
tạo, bày tỏ được cảm xúc mến thương dành cho sông Hương và xứ Huế.
III. TỔNG KẾT
- Chất trí tuệ và chất thơ trong bài kí là biểu hiện của một phong cách văn xuôi vừa tài hoa
nghệ sĩ vừa uyên bác.
- Ở bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” có sự hòa hợp tương giao linh ứng giữa cảnh
sắc, lịch sử, văn hóa Huế với một tâm hồn nhà văn dễ rung động, vô cùng nhạy cảm.
 Qua bài bút kí, ta có thể cảm nhận được tấm lòng của nhà văn dành cho thiên nhiên, cho
đất Huế, sâu xa hơn là tấm lòng cho quê hương đất nước, thiết tha với những giá trị cổ xưa
của dân tộc. Đó là những giá trị mà cuộc sống hôm nay vẫn cần đến.
- Dòng sông Hương không chỉ bồi đắp nên một nền văn hóa cố đô mà còn làm màu mỡ thêm
cho cuộc sống của mỗi chúng ta hiện tại.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 87
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

CHỦ ĐỀ III:
KỊCH HIỆN ĐẠI VIỆT NAM năm 1975)

CHUYÊN ĐỀ 5:
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT (Lưu Quang Vũ)

TIẾT 24:
TÌM HIỂU VỀ NHÀ VIẾT KỊCH NÓI LƯU QUANG VŨ
VÀ VỞ KỊCH “HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT”

I. NHÀ VIẾT KỊCH NÓI LƯU QUANG VŨ (1948 – 1988)


1. Cuộc đời
- Lưu Quang Vũ quê gốc ở Đà Nẵng.
- Cha là nhà viết kịch Lưu Quang Thuận, nên thiên hướng và năng khiếu nghệ thuật của ông
đã sớm bộc lộ từ nhỏ.
2. Sự nghiệp sáng tác
- Lưu Quang Vũ không chỉ trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những
năm 80 của thế kỉ XX mà còn được coi là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của
nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.
- Trước khi đến với thể loại kịch nói, Lưu Quang Vũ từng làm thơ, sáng tác truyện ngắn, vẽ
tranh.
- Thơ Lưu Quang Vũ không sắc sảo và dữ dội như kịch nhưng giàu cảm xúc, trăn trở, khát
khao.
3. Phong cách nghệ thuật
- Kịch của Lưu Quang Vũ mang nhiều cách tân độc đáo; quan tâm thể hiện xung đột trong
cách sống và quan niệm sống, bày tỏ khát vọng hoàn thiện nhân cách con người.
II. VỞ KỊCH “HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT” (1981)
1. Hoàn cảnh sáng tác
- “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới ra mắt công
chúng) là một trong số những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều
lần trên sân khấu trong và ngoài nước
- Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt
ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc.
2. Chủ đề
- Vở kịch nói về quan niệm cao đẹp về cách sống: Hãy sống chân thật với chính mình, phải
biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân
cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 88
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 25:
TÌNH HUỐNG ÉO LE CỦA NHÂN VẬT HỒN TRƯƠNG BA
TRONG XÁC ANH HÀNG THỊT

I. KHÁI QUÁT
- Kịch của Lưu Quang Vũ viết về nhiều đề tài, giàu tính triết lí và “Hồn Trương Ba, da hàng
thịt” cũng là một vở kịch như thế.
- Ở đây ta dễ dàng bắt gặp tính triết lí ấy hiển hiện ngay trên lời thoại của nhân vật trong đó
câu nói “Không thể sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi
toàn vẹn” đã thể hiện tình huống éo le của nhân vật Trương Ba.
II. PHÂN TÍCH
- Câu nói trên là lời nói của nhân vật Hồn Trương Ba với Đế Thích, mang đậm tính triết lí, ấy
là sự hài hòa, thống nhất giữa hồn và xác trong một con người:
+ Nó thể hiện khát vọng sống khi nhân vật ý thức được bi kịch từ cuộc sống của chính mình-
phải sống gán gửi, tạm bợ trên thân xác của anh hàng thịt.
+ Nói như thế, có nghĩa là nhân vật muốn thoát ra khỏi thực tại, mong muốn được sống là
chính mình mà không bị sự điều khiển, chịu sự chi phối của thân xác vốn không phải là của
mình.
 Tình huống éo le của nhân vật xuất phát từ việc sai sót của Nam Tào, Bắc Đẩu khiến ông
Trương Ba chết đi và Đế Thích rất có thiện ý muốn sửa sai.
- Đế Thích đã để ông Trương Ba sống lại trên xác anh hàng thịt vừa mới chết được một ngày.
+ Tưởng đâu được sống lại là hạnh phúc nhưng không ông Trương Ba luôn phải sống trong
đau khổ trên thân xác anh hàng thịt.
+ Ông bị người vợ nghi ngờ vì những ham muốn, những dục vọng đối với vợ anh hàng thịt.
+ Rồi bị cái Gái xa lánh vì cái thân xác nặng nề vốn nâng niu cây cối mà làm gãy cả chồi non,
chân giẫm nát cả cây sâm mới ươm, làm hỏng cả cái diều của cu Tị.
+ Đến người con dâu cũng nhận thấy sự xa lạ của một ông Trương Ba trước kia với bây giờ
dần dà cô cũng có lúc “không nhận ra thầy nữa”.
- Nhận thấy bi kịch của mình, Hồn Trương Ba thể hiện khát vọng muốn được là mình toàn
vẹn giống như trước kia:
+ Nhân vật đã nói chuyện với Đế Thích giãi bày bi kịch sống nhờ, sống không đúng là mình:
“Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!” và
từ chối cơ hội được sống quý giá của mình.
+ Ngay cả khi Đế Thích đề cập tới việc sống trên thân xác cu Tị trong cơn thập tử nhất sinh,
ông cũng nhất mực từ chối vì ông cho rằng một ông già nhập vào xác một đứa trẻ “chưa bắt
đầu cuộc đời, còn đang tuổi ăn, tuổi lớn, chạy nhảy vô tư” là không phù hợp, không tương
thích.
 Có thể nói, lời thoại trên của nhân vật Hồn Trương Ba đã thể hiện quan niệm của mình về
hạnh phúc, về lẽ sống: Hạnh phúc không phải chỉ đơn giản là được sống mà quan trọng hơn
đó là sống như thế nào.
 Bức thông điệp này được nhà viết kịch Lưu Quang Vũ gửi gắm thông qua bi kịch của
nhân vật Hồn Trương Ba: Đó là con người phải được sống là chính mình, sống hòa hợp giữa
hồn và xác – tâm hồn lương thiện, trong sạch và thân xác khỏe mạnh ấy mới chính là sống
hạnh phúc.
III. TỔNG KẾT
- Xây dựng được tình huống éo le của nhân vật trong vở kịch, Lưu Quang Vũ đã phát triển và
sáng tạo cốt truyện dân gian:
+ Chính tình huống éo le của nhân vật đã tạo nên nên khác biệt giữa cốt truyện dân gian và
kịch bản của Lưu Quang Vũ.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 89
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

+ Nếu như cốt truyện dân gian hướng tới một kết thúc có hậu đó là khi Hồn Trương Ba sống
trên xác anh hàng thịt hạnh phúc bên gia đình và người thân thì ở kịch của Lưu Quang Vũ, sự
việc ấy lại làm nảy sinh bi kịch, những nỗi đau khổ của nhân vật.
+ Bên cạnh đó, Lưu Quang Vũ còn dựng lên những kịch tích thông qua hành động, cử chỉ của
nhân vật đặc biệt là lời nói của nhân vật vừa đậm triết lí vừa mang tầm khái quát cao.
 Lời thoại trên của nhân vật đã thể hiện một quan niệm sống giàu giá trị nhân văn, không
chỉ phản ánh đúng qua đời sống của nhân vật Trương Ba mà còn rất đúng đắn khi mỗi con
người, mỗi cá nhân soi chiếu vào đời sống cụ thể của mình.
 Giờ đây, ta đã hiểu vì sao mà kịch của Lưu Quang Vũ có sức sống lâu bền, thu hút công
chúng đến như vậy và chắc chắn vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nói riêng và kịch
Lưu Quang Vũ nói riêng sẽ vẫn sống mãi với thời gian.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 90
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 26:
CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA HỒN TRƯƠNG BA VÀ XÁC HÀNG THỊT

I. KHÁI QUÁT
- Qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, tác giả đã ngầm gửi gắm những
thông điệp hết sức sâu sắc về mối quan hệ giữa Hồn và Xác.
II. PHÂN TÍCH
1. Hoàn cảnh dẫn đến cuộc đối thoại
a. Giới thiệu về Trương Ba
- Ông Trương Ba là một người làm vườn, khoảng 50 tuổi, sống trung thực, ngay thẳng và giỏi
đánh cờ.
- Tính tình ông nhân hậu, sống chan hòa với mọi người.
b. Nguyên nhân Trương Ba chết và quá trình tái sinh bên trong xác hàng thịt
- Chỉ vì do sự cẩu thả và tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu trên thiên đình mà ông Trương Ba
phải chết oan.
- Tiên cờ Đế Thích bực bội và vì tiếc một người có tài chơi cờ nên đã hóa phép cho hồn
Trương Ba nhập vào xác của anh hàng thịt vừa mới chết một ngày. Hồn Trương Ba từ đó
sống trong thân xác của anh hàng thịt. Ai cũng ngỡ đó là cách giải quyết thuận lợi cho
Trương Ba, để cho con người hiền lành này tiếp tục sống êm ấm trong gia đình mình. Nhưng
trớ trêu thay, chính sự tái sinh trong xác người khác lại là điều bất hạnh của Trương Ba.
- Trong chính gia đình mình, ông bị người thân chê trách, xa lánh và coi thường. Hồn Trương
Ba bị dồn vào sự đau khổ nhất: tự mình ý thức được sự tha hóa của mình, bị cường hào
nhũng nhiễu, nhìn thấy con trai hư hỏng mà không dạy dỗ được...
 Tất cả những điều đó đã khiến ông không thể chịu đựng được nữa, không thể khuất phục
trước thể xác, trước những cái xấu xa và tự đánh mất mình. Hồn Trương Ba không thể sống
chung với xác anh hàng thịt, tách ra khỏi thân xác để tranh luận.
2. Diễn biến cuộc đối thoại
a. Hồn Trương Ba và xác hàng thịt tranh luận về sức mạnh của thể xác (tư tưởng hồn –
xác độc lập)
- Bước vào đến cảnh VII, hình ảnh Trương Ba hiện lên của một con người đang ngồi “ôm
đầu” đã cho người đọc thấy hình ảnh của một con người cô độc hiện lên trước màn ảnh đầy
sự đau khổ xâm lấn lại kết hợp cùng lúc của ba từ phủ định từ liên tiếp “không…không…
không” bằng một giọng điệu dứt khoát một lời độc thoại đầy khẩn thiết khẳng định việc
muốn rời bỏ thân xác anh hàng thịt.
- Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ: “Tôi chán cái chỗ ở
không phải của tôi lắm rồi” đầy chán nản, ngán ngẩm.
 Lời thoại của Hồn là các câu cảm thán, ngắn, lời văn dồn dập, hối thúc. Thể hiện tâm trạng
căng thẳng, bức bách đau khổ, dằn vặt, quẫn bách đến cùng cực, không thể chịu đựng dày vò
hơn được nữa nên vụt đứng dậy. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba
bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng
thái tuyệt vọng.
- Nghe Hồn tự độc thoại nói, và đang tự dày vò mình, Xác lên tiếng ngay: “Vô ích”. Chính
xác là Xác đã chủ động khiêu chiến nhằm dập tắt hoàn toàn khát khao của Trương Ba: “Ông
không tách ra khỏi tôi được đâu”.
- Đang trong sự bế tắc vô vọng ấy Trương ba chợt nghe thấy những lời nói từ Xác chỉ biết
đáp lại bằng chính sự kinh ngạc vốn có của mình: “A, mày cũng biết nói kia à?”. Trương Ba
ngạc nhiên, trả lời lại bằng cách đưa ra một câu hỏi sau đó liên tục phản đối, Xác giọng vẫn
còn khinh bỉ.
 Cách xưng hô “mày ta” thể hiện rõ sự khinh bỉ, miệt thị đối với Xác: “Vô lí! Mày không
thể biết nói! Mày không có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u đui mù…”.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 91
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Ban đầu Hồn buông ra những lời nói khinh bỉ Xác. Thấy Hồn vừa phủ định vừa khinh miệt
mình, Xác khẳng định lại vị trí và tác động, suy nghĩ của mình: “Ông đã biết tiếng nói của tôi
rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến”,và “sức mạnh ghê gớm, lấn át cả linh hồn cao
khiết”. Hồn tiếp tục phủ định tiếng nói của Xác: “Mày chỉ là vỏ bề ngoài, không có ý nghĩa gì
hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc”.
b. Hồn Trương Ba và xác hàng thịt tranh luận về vai trò của thể xác (tư tưởng hồn – xác
là một, xác chi phối hồn)
- Nghe thấy Hồn đánh giá mình thấp kém, Xác hỏi lại đầy thách thức, giọng thay đổi linh
hoạt đầy châm chọc: “Có thật thế không?”. Câu hỏi của Xác khiến cho Hồn chùn bước và
đuối lí, buộc phải dần nhượng bộ, xác nhận sự ảnh hưởng của Xác: “Nếu có, thì chỉ là những
thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt…”.
- Lại bị Hồn tiếp tục khinh miệt, Xác nhận thức sự lợi lí của mình, nên chuyển sang châm
chọc, mỉa mai: “Tất nhiên, tất nhiên”, “Khi ông ở bên nhà tôi… Khi ông đứng bên cạnh vợ
tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại… Đêm hôm đó, suýt nữa thì…”.
 Đó là cảm giác “xao xuyến”, “lâng lâng cảm xúc” mà trước đây Hồn cho là “phàm”.
- Với bằng chứng cụ thể, Hồn xấu hổ và kiên quyết phủ định: “Là mày chứ, chân tay mày,
hơi thở mày”.
- Xác vừa khẳng định vừa hỏi xoáy lại để tấn công tiếp: “Thì tôi có ghen đâu! Ai lại đi ghen
với chính thân thể mình… nhưng ta nên thành thực: “Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì?
Để thỏa mãn tôi, chẳng nhẽ ông không tham dự chút đỉnh gì?”.
 Như vậy, Xác dẫn dắt Hồn vào sự thật không thể phủ nhận – Hồn ít nhiều đã bị vấy bẩn,
tha hóa bởi dục vọng của thân xác.
- Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng thấy xấu hổ, cảm thấy
mình ti tiện. Lí lẽ của Xác khơi trúng điểm đen mà lâu nay vì trú ngụ trong Xác anh hàng thịt,
Hồn Trương Ba trong khiết đã bị hóa màu.
- Hồn đuối lí bất lực bèn la to, ra lệnh áp chế thể xác để che giấu sự lúng túng, bối rối, do dự,
yếu thế của mình: “Ta… ta… đã bảo là mày im đi!”. Lời thoại của Hồn ngập ngừng lí lẽ như
bị hụt hơi. Hồn bị dồn vào chân tường để buộc phải công nhận sự chế ngự của Xác.
- Xác khẳng định một lần nữa: “Hai ta đã hòa làm một rồi”. Xác nhấn vào sự thật đau đớn mà
Hồn đang muốn trốn chạy, muốn phủ nhận, đẩy tình huống kịch lên cao trào.
- Hồn chỉ còn Cố gắng biện minh chống chế cứu vãn: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên
vẹn, trong sạch, thẳng thắn…”.
- Xác vẫn không buông tha, tấn công bằng sự mỉa mai: “Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều
theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!”.
- Trước sự thực không sao chối cãi, Hồn phản ứng tiêu cự bằng cách “bịt tai lại”.
 Đó là nỗ lực chối bỏ trong tuyệt vọng hoàn toàn bế tắc.
- Xác tiếp tục dùng lời lẽ hiểm hóc sắc lẹm như dao mổ, phanh trần nỗi đau đang tấy mủ
trong Hồn.
 Đó là nhờ sức mạnh của Xác mà Hồn có thể: “Tát thằng con ông tóe máu mồm máu mũi”.
- Mặc dù cố bịt tai, nhưng khi nghe Xác nói như vậy Hồn phải lên tiếng chối bỏ: “Sức mạnh
làm ta trở thành tàn bạo”.
- Xác khôn ngoan biết là lỡ lời nên biện minh cho mình bằng những lí lẽ “là hoàn cảnh”
“cũng đáng được quý trọng”, không có tội. Hồn chỉ còn phản ứng yếu ớt: “Nhưng... Nhưng”.
- Nhận biết Hồn bị dồn vào thế bí, Xác đưa ra giao kèo thỏa hiệp để chung sống, giọng ve
vuốt mơn trớn xác chủ động đưa trò chơi tâm hồn: “Những lúc một mình một bóng, ông cứ
việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh vì để sống
mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong điều xấu ông cứ việc đổ tội cho tôi, để cho ông
được thanh thản… miễn là… ông vẫn làm đủ mọi việc thỏa mãn những thèm khát của tôi.
- Xác sẽ “ve vuốt” Hồn bằng cách thông cảm với “những trò chơi tâm hồn”, nhận hết mọi
điều xấu miễn là Hồn vẫn “làm đủ mọi việc để thỏa mãn thèm khát” của Xác.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 92
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Nhận thức “lí lẽ ti tiện” của Xác, Hồn than như là tuyệt vọng, bất lực: “Trời! Đã là một sự
chấp nhận số phận trong nỗi đau đớn khôn cùng muốn tìm đường thoát nhưng hoàn toàn vô
vọng”.
- Trong cuộc đối thoại này, Xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất
giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông
những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.
 Qua cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác, Xác rõ ràng hiện lên với ưu thế của kẻ nắm giữ sự
thắng thế, chứng tỏ được uy quyền chi phối khủng khiếp của nó với linh hồn, nó cũng cho
thấy sự ngộ nhận về chính mình khi hồn cho rằng: “Ta vẫn có một đời sống riêng trong sạch,
nguyên vặn, thẳng thắn…”.
3. Triết lí nhân sinh từ cuộc đối thoại
- Linh hồn và thể xác vốn không tách rời được nhau, cuộc tranh đấu giữ hồn và xác là cuộc
đấu tranh giữ cao cả và dục vọng, thấp hèn; giữa phần con và phần người.
 Đó chính là lời cảnh cáo sâu xa của Lưu Quang Vũ:
+ Khi con người sống quá lâu trong môi trường dung tục ắt sẽ bị cái dung tục chi phối, không
thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục, tội lỗi.
+ Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng thì đừng đổ tội cho thân xác.
+ Không thể tự an ủi mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn, do đó phải bảo vệ, hoàn thiện
nhân cách con người đó là một vấn đề lớn đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội.
 Đố sẽ là cuộc đấu tranh dai dẳng khi mà con người vẫn còn tồn tại trong xã hội này.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Qua màn đối thoại giữa Hồn và Xác, Lưu Quang Vũ cũng gửi gắm những quan niệm mới
mẻ về con người: con người là một thể thống nhất giữa hồn và xác, bên ngoài và bên trong,
cái cao cả và cái trần thế.
 Vì thế, cuộc sống con người chỉ có ý nghĩa nếu dung hòa được giữa đời sống vật chất và
tinh thần.
- Nếu đề cao tinh thần mà phủ định những nhu cầu bản năng là phi nhân bản, phản nhân văn.
Còn khi chỉ chạy theo những dung vọng tầm thường, con người sẽ tự hạ thấp mình xuống lối
sống dung tục, bản năng.
2. Giá trị nghệ thuật
- Làm nên thành công của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung, Lưu Quang Vũ đã sử
dụng một số thủ pháp nghệ thuật: Sáng tạo lại cốt truyện dân gian.
- Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm.
- Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình huống
truyện.
- Có chiều sâu triết lí khách quan.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 93
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 27:
CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA HỒN TRƯƠNG BA
VÀ NGƯỜI THÂN TRONG GIA ĐÌNH

I. KHÁI QUÁT
- Qua “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, tác giả muốn gửi gắm thông điệp được sống là người
quý giá thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn cố và
theo đuổi còn quý giá hơn.
 Đoạn đối thoại giữa Hồn Trương Ba và người thân trong gia đình đã góp phần thể hiện
được điều đó.
II. PHÂN TÍCH
1. Hoàn cảnh dẫn đến cuộc đối thoại
a. Giới thiệu về Trương Ba
- Ông Trương Ba là một người làm vườn, khoảng 50 tuổi, sống trung thực, ngay thẳng và giỏi
đánh cờ.
- Tính tình ông nhân hậu, sống chan hòa với mọi người.
b. Nguyên nhân Trương Ba chết và quá trình tái sinh bên trong xác hàng thịt
- Chỉ vì do sự cẩu thả và tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu trên thiên đình mà ông Trương Ba
phải chết oan.
- Tiên cờ Đế Thích bực bội và vì tiếc một người có tài chơi cờ nên đã hóa phép cho hồn
Trương Ba nhập vào xác của anh hàng thịt vừa mới chết một ngày. Hồn Trương Ba từ đó
sống trong thân xác của anh hàng thịt. Ai cũng ngỡ đó là cách giải quyết thuận lợi cho
Trương Ba, để cho con người hiền lành này tiếp tục sống êm ấm trong gia đình mình. Nhưng
trớ trêu thay, chính sự tái sinh trong xác người khác lại là điều bất hạnh của Trương Ba.
- Trong chính gia đình mình, ông bị người thân chê trách, xa lánh và coi thường. Hồn Trương
Ba bị dồn vào sự đau khổ nhất: tự mình ý thức được sự tha hóa của mình, bị cường hào
nhũng nhiễu, nhìn thấy con trai hư hỏng mà không dạy dỗ được...
 Tất cả những điều đó đã khiến ông không thể chịu đựng được nữa, không thể khuất phục
trước thể xác, trước những cái xấu xa và tự đánh mất mình. Hồn Trương Ba không thể sống
chung với xác anh hàng thịt, tách ra khỏi thân xác để tranh luận.
2. Diễn biến cuộc đối thoại
a. Đối thoại với vợ
- Sau cuộc đối thoại giữa hồn và xác, Trương Ba đã xây dựng một cuộc đối thoại tiếp theo,
giữa hồn Trương Ba và người thân trong gia đình.
- Hồn Trương Ba trong xác anh hàng thịt đang ngồi lặng lẽ bên cái chõng, thì vợ bước vào
hỏi: “Cái Gái chưa về hả ông?”. Hồn Trương Ba thẫn thờ trả lời: “Chưa”. Vợ Trương Ba tiếp
tục giải thích: “Nó sang nhà cu Tị từ sớm. Cu Tị bị ốm nặng”. Hồn Trương Ba không giấu sự
ngạc nhiên nói: “Ốm nặng? Vậy mà tôi không biết”.
- Hai lời thoại đầu chỉ mang tính giao tiếp thông thường chẳng một dấu hiệu gì mang đến cơn
sóng gió tiếp theo cho Trương Ba lúc này thì từ lời thoại thứ ba: “Ông bây giờ con biết đến ai
nữa. Cu Tị ốm thập tử nhất sinh… Khổ thằng bé ngoan là thế… Cái thân tôi thì sao trời lại
không bắt đi cho rảnh”.
 Đây là sự thay đổi hoàn toàn cảm xúc của cái hờn trách, giận dỗi và chua xót của cái tủi
thân tủi phận mà bất lực.
- Không để vợ nói tiếp nữa, Hồn Trương Ba cắt ngang: “Sao bà lại nói thế?”.
- Nghe chồng nói, người vợ đi thẳng vào vấn đề mà bà đang ấm ức: “Tôi nói thật đấy… Ông
Trương Ba ạ, tôi đã nghĩ kĩ… Có lẽ tôi phải đi”. Hồn Trương Ba hỏi lại: “Đi đâu?”. Người vợ
tiếp tục nói thực lòng với bao hờn dỗi: “Chưa biết! Đi cấy thuê làm mướn… đi biệt để ông
được thảnh thơi… với cô vợ người hàng thịt… Còn hơn là thế này?”.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 94
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Nghe vợ nói, Hồn Trương Ba chỉ còn biết kêu gào: “Bà! Sao lại đến nông nỗi này?”. Đó là
sự bất lực, đau đớn của hồn Trương Ba trước lời nói của người vợ. Để rồi người vợ phải lên
tiếng giải thích: “Chỉ tại bây giờ… ông đâu còn là ông Trương Ba nữa… Thằng Cả đã quyết
định bán khu vườn để có tiền mở thêm vốn liếng cửa hàng thịt”.
- Hồn Trương Ba quá ngạc nhiên nói: “Thật sao? Không được!”. Nghe chồng phản đối bà vợ:
“Ông bảo không được nhưng tôi biết sự thể sẽ dẫn đến như vậy. Ông sẽ đành ưng chịu như
vậy”.
- Người vợ của Trương Ba dù rất mực yêu thương chồng, giàu lòng vị tha nhưng cuối cùng
vẫn rơi vào sự bế tắc.
- Những dấu ba chấm kết hợp với câu cảm thán và các từ “rưng rưng… khóc…” đã diễn tả
đầy đủ sự buồn bã, bất lực.
 Trong cuộc đối thoại với vợ, hồng Trương Ba chỉ sử dụng câu ngắn, câu hỏi liên tiếp cùng
với đó là các câu cảm thán đã cho thấy sự thảng thốt, ngỡ ngãng tê sót của ông. Kết thúc đợt
thoại này Hồn Trương Ba chỉ còn biết ngồi xuống tay ôm đầu.
b. Đối thoại với cháu gái
- Khi Hồn Trương Ba ngẩng lên thì thấy cái Gái đứng trước mặt. Ông đã kêu đứa cháu như là
để cầu cứu: “Gái, cháu!”.
 Đó đã không còn chỉ là lời gọi thông thường nữa mà là tiếng kêu của một trái tim được
phát ra từ miệng khát khao có một điểm tựa, sự đồng cảm cầu cứu.
- Có lẽ lúc đó hồn Trương Ba tưởng rằng đứa cháu gái bé bỏng sẽ sà vào lòng thì trái lại, cái
Gái đã phản ứng quyết liệt và dữ dội: “Nó lùi lại nói đã tạo nên một khoảng cách không chỉ
về mặt không gian mà còn cả về tâm hồn giữ ông và cháu sau đó lại nói: “Tôi không phải là
cháu của ông”.
 Câu nói như là gáo nước lạnh phũ phàng tạt thẳng vào mặt Hồn Trương Ba. Nhưng Hồn
Trương Ba vẫn giữ bình tĩnh dịu giọng nhẫn nhục giải thích, khẳng định: “Ông đúng là ông
nội cháu”.
- Cái Gái liền nói: “Nếu ông nội tôi hiện về được sẽ bóp cổ ông”. Hồn Trương Ba vẫn cố ra
sức thuyết phục bằng những chứng cứ mặc cho sự đe dọa từ đứa cháu gái: “Sáng nào ông
cũng ra cuốc xới chăm chút cây cối ngoài vườn… chỉ có ông nội cháu mới biết quý cây như
thế”.
 Cố giải thích cho đứa cháu giải thích thì Trương Ba càng về sau giọng nói càng ngập
ngừng; những dấu ba chấm xuất hiện liên tục đã là sự ngập ngừng bế tắc không giải thích
được. Tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên không
chấp nhận người ông trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ.
 Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân.
Chính vì quá yêu thương nên giờ đây nó không thể chấp nhận, cũng không thể nào mở lòng
mình đớn nhận con người trước mặt mình cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to
bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm”
trong mảnh vườn của ông nội. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát
khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “ông nội đời nào thô
lỗ, phũ phàng như vậy”.
- Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự kết tội, ruồng bỏ xua đuổi người thân yêu: “Ông
xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi”.
 Như vậy cái Gái là người yêu thương gắn bó với ông hết mực. Ông mất, đêm nào nó cũng
khóc, nâng niu từng chút kỉ niệm của ông. Bây giờ lại phản ứng dữ dội.
 Những lời nói của đứa cháu nhỏ, thêm một lần nữa xoáy khoét vào nỗi đau sâu thẳm của
ông, để ông cảm nhận thấm thía bi kịch bị chính những người thân yêu chối bỏ.
c. Đối thoại với con dâu
- Cuối cùng là cuộc đối thoại với chị con dâu. Sau cuộc đối thoại với cái Gái, chị con dâu ở
trong nhà bước ra nghe thấy những lời cuối cùng con.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 95
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Chị vừa gọi theo con gái: “Gái, quay lại đây, Gái”. Rồi chị lại quay sang nói với Hồn
Trương Ba: “Thầy, thầy đừng giận con trẻ… Chỉ tại nó nghĩ thầy không phải là ông nội nó,
con dỗ dành thế nào nó cũng không nghe (rưng rưng) khổ thân thầy”.
- Hồn Trương Ba cảm thấy ấm lòng: “Đến lúc này, cả nhà chỉ một mình con vẫn thương thầy
như xưa”. Người con dâu khẳng định thêm: “Hơn xưa nữa… nhưng thầy ơi con sợ lắm… mỗi
ngày thầy một đổi khác dần… có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa… làm sao giữ
được thầy ở lại hiền hậu vui vẻ tốt lành như thầy của chúng con xưa kia?”.
- Hồn Trương Ba lại tiếp tục thất vọng buồn rầu nói: “Giờ thì con cũng…”. Người dâu vội
chữa lại nói: “Thầy đừng giận nếu con đã nói điều gì không phải”. “Không ta không giận.
Cảm ơn con đã nói thật. Bây giờ thì đi đi, cho ta được ngồi yên một lát”.
 Trương Ba như được an ủi phần nào, bởi nhận ra cái Gái rất thương ông, ông nghĩ cô con
dâu sẽ là điểm tựa để sẻ chia tâm sự. Nhưng trước những lời nói vừa yêu thương, vừa thẳng
thắn của cô con dâu Trương Ba lặng ngắt như đá tảng đau khổ đến cùng cực đầy sợ hãi. Có lẽ
lúc ấy Trương Ba giống như người đứng trước một cái vực thẳm sâu hoắm khắc khoải cần
một ai đó níu giữ nhưng kết quả vẫn là sự bế tắc đi vào vô vọng.
III. KẾT BÀI
1. Giá trị nội dung
- Con người có thể bị xã hội chối từ nhưng không thể bị gia đình ruồng bỏ. Máu mủ ruột thịt
chính là những điều không bao giờ có thể xóa nhòa. Nhưng nếu đã chịu bi kịch bị ruồng bỏ từ
gia đình, đó là bi kịch lớn nhất của đời người.
 Bởi vậy, con người phải sống sao để cho dù mất tất cả, gia đình vẫn luôn dang rộng vòng
tay chấp nhận ta. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân trong gia đình đã
cho thấy điều đó.
2. Giá trị nghệ thuật
- Làm nên thành công của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung, Lưu Quang Vũ đã sử
dụng một số thủ pháp nghệ thuật: Sáng tạo lại cốt truyện dân gian.
- Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm.
- Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình huống
truyện.
- Có chiều sâu triết lí khách quan.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 96
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 28:
CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA HỒN TRƯƠNG BA VÀ ĐẾ THÍCH

I. KHÁI QUÁT
- Qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích, Lưu Quang Vũ đã làm rõ khát vọng
được sống là chính mình của hồn Trương Ba.
II. PHÂN TÍCH
1. Hoàn cảnh dẫn đến cuộc đối thoại
a. Giới thiệu về Trương Ba
- Ông Trương Ba là một người làm vườn, khoảng 50 tuổi, sống trung thực, ngay thẳng và giỏi
đánh cờ.
- Tính tình ông nhân hậu, sống chan hòa với mọi người.
b. Nguyên nhân Trương Ba chết và quá trình tái sinh bên trong xác hàng thịt
- Chỉ vì do sự cẩu thả và tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu trên thiên đình mà ông Trương Ba
phải chết oan.
- Tiên cờ Đế Thích bực bội và vì tiếc một người có tài chơi cờ nên đã hóa phép cho hồn
Trương Ba nhập vào xác của anh hàng thịt vừa mới chết một ngày. Hồn Trương Ba từ đó
sống trong thân xác của anh hàng thịt. Ai cũng ngỡ đó là cách giải quyết thuận lợi cho
Trương Ba, để cho con người hiền lành này tiếp tục sống êm ấm trong gia đình mình. Nhưng
trớ trêu thay, chính sự tái sinh trong xác người khác lại là điều bất hạnh của Trương Ba.
- Trong chính gia đình mình, ông bị người thân chê trách, xa lánh và coi thường. Hồn Trương
Ba bị dồn vào sự đau khổ nhất: tự mình ý thức được sự tha hóa của mình, bị cường hào
nhũng nhiễu, nhìn thấy con trai hư hỏng mà không dạy dỗ được...
 Tất cả những điều đó đã khiến ông không thể chịu đựng được nữa, không thể khuất phục
trước thể xác, trước những cái xấu xa và tự đánh mất mình. Hồn Trương Ba không thể sống
chung với xác anh hàng thịt, tách ra khỏi thân xác để tranh luận.
2. Diễn biến cuộc đối thoại
- Sự đối nghịch giữa các nhân vật xuất hiện trong tác phẩm ngày càng được biểu hiện chi tiết,
cuộc đối thoại giữa các nhân vậy xuất hiện trong tác phẩm đã biểu hiện chi tiết những điều
đó. Sự khác nhau đến rõ nét đã biểu hiện chi tiết những điều đó, Trương Ba thấy hiểu được
giá trị to lớn, khao khát được quay trở về xác thịt của mình: “Tôi muốn được là tôi trọn vẹn”,
“Là tôi trọn vẹn”, ông thấu hiểu được mối quan hệ giữa thể xác và tâm hồn của mình, sự dằng
xé giữa thể xác và tâm hồn của ông đã làm cho ông đau khổ, dằn vặt, ông muốn quay trở về
đúng xác thịt của mình, sống cuộc đời của mình, ông thấu hiểu được giá trị của cuộc sống mà
mình đang trải qua.
- Điều ước mà Trương Ba đang mong muốn dù nhỏ bé nhưng cũng không phải dễ dàng,
Trương ba dường như đang truyền tải được triết lí mà tác giả muốn thể hiện trong tác phẩm
của mình, ông thể hiện được những khao khát, mong muốn ước vọng của mình với thân xác,
ông khao khát quay trở về là chính mình.
- Ông dám nhận toàn bộ trách nhiệm về mình, không muốn sống nhờ, không muốn sống cuộc
sống trên thân thể của người khác, qua trích đoạn này, tác giả muốn khẳng định khao khát mà
tác giả đang thể hiện, mong ước được trở thành chính mình, khao khát nhận được những gì
của mình, chấp nhận hiện thực, miễn sao không phải sống trên thân thể của người khác là
được.
- Ai cũng khao khát được sống, nhưng sống là chính mình là cuộc sống đáng quý nhất, chính
vì thế ông muốn “là tôi trọn vẹn”, sống cuộc đời của mình, trên thân xác của mình, chịu trách
nhiệm trước hành động của mình.
- Hồn Trương Ba khao khát muốn quay trở về cuộc sống của mình, khi được cho một phép
thử nhập vào xác của cu Tị, thì hình hài và tâm hồn dường như đang thể hiện sâu sắc những

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 97
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

mâu thuẫn, cạnh tranh giữa tâm hồn, với tâm hồn của người 60 tuổi, khi nhập vào em bé 10
tuổi, điều này, sự mâu thuẫn ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
- Những mâu thuẫn đó thể hiện sâu sắc qua từng chi tiết, hành động của nhân vật, ông không
chấp nhận cuộc sống này, cuộc sống đó vốn dĩ có nhiều mâu thuẫn, nhưng sống sang thân thể
người khác là điều cực kì khó hơn, ông không thể chấp nhận được, lựa chọn của Trương Ba
lúc này là muốn quay trở lại là chính mình, ông không muốn sống lương nhờ vào người khác,
không muốn sống trên thân thể của người khác.
 Đó là sự đấu tranh rất lớn khi ông đang dần phải đối mặt với những mâu thuẫn gây gắt của
thể xác và tâm hồn xuất hiện trong tác phẩm.
 Sự mâu thuẫn giữa hai con người làm cho mâu thuẫn của tác phẩm ngày càng nâng cao,
Đế thích quan niệm sống chỉ là sống, nhưng hồn Trương Ba lại quan niệm nên sống là chính
mình, làm tôi chọn vẹn, được hòa hợp cả về thể xác, lẫn tinh thần.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nghệ nội dung
- Thông qua màn đối thoại giữa hai nhân vật Trương Ba và Đế Thích trong “Hồn Trương Ba,
da hàng thịt”, Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng phải sống là chính mình đó mới chính là hạnh
phúc thật sự của con người.
 Bởi vậy trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh với sự dung tục tầm thường và chiến
thắng nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của bản thân. Có như vậy chúng ta mới được là
mình – được là chính mình toàn vẹn.
2. Giá trị nghệ thuật
- Làm nên thành công của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung, Lưu Quang Vũ đã sử
dụng một số thủ pháp nghệ thuật: Sáng tạo lại cốt truyện dân gian.
- Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm.
- Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình huống
truyện.
- Có chiều sâu triết lí khách quan.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 98
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

CHỦ ĐỀ IV:
VĂN HỌC THỜI KÌ ĐỔI MỚI (sau năm 1975)

CHUYÊN ĐỀ 6:
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu)

TIẾT 29:
TÌM HIỂU VỀ NHÀ VĂN NGUYỄN MINH CHÂU
VÀ TRUYỆN NGẮN “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”

I. NHÀ VĂN NGUYỄN MINH CHÂU (1930 – 1989)


1. Cuộc đời
- Nguyễn Minh Châu quê ở Nghệ An.
2. Sự nghiệp sáng tác
- Nguyễn Minh Châu là nhà văn giàu tâm huyết, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng
với tầm vóc dân tộc và với sự kì vọng của nhân dân.
- Ông được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
- Ông có nhiều đóng góp cho văn chương của dân tộc trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu
nước.
3. Phong cách nghệ thuật
- Từ cảm hứng sử thi lãng mạn, huyền ảo đã từng tạo nên vẻ đẹp rực rỡ trong các tác phẩm
thời kì chiến tranh, cảm hứng của ông dần dần chuyển sang tính chất triết luận về những giá
trị nhân bản đời thường, khám phá ý nghĩa bản chất con người trong cuộc mưu sinh, trong
hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.
II. TRUYỆN NGẮN “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” (1987)
1. Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ
- Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu viết vào năm 1987, in trong
tập truyện ngắn cùng tên.
- Với ngôn từ dung dị đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh
và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời.
 Tác phẩm in đậm phong cách tự sự – triết lí của Nguyễn Minh Châu.
3. Chủ đề
- Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” viết về những cảnh đời, thân phận trớ trêu của con
người và gửi gắm chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả về nghệ thuật.
- Nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn bó với cuộc đời và vì cuộc đời và cần phải nhìn
nhận cuộc sống và con người một cách đa diện.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 99
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 30:
TÌNH HUỐNG TRUYỆN
TRONG TRUYỆN NGẮN “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”

I. KHÁI QUÁT
- Truyện ngắn đã xây dựng được tình huống đặc sắc, qua đó thể hiện được những tư tưởng
triết lí nhân sinh mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm.
II. PHÂN TÍCH
1. Định nghĩa tình huống truyện
- Tình huống truyện có thể hiểu là hoàn cảnh, bối cảnh của một câu chuyện mà trong đó có
một hoặc một vài sự kiện đặc biệt xảy ra, mà theo như Nguyễn Minh Châu đó là “tình thế của
câu chuyện, là khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”.
- Chính tình huống truyện đã trở thành chìa khóa then chốt, là điểm tựa để tác giả dễ dàng
làm nổi bật cuộc sống cũng như cá tính của toàn nhân vật, đồng thời cũng là cách để tác giả
bộc lộ những tư tưởng, những suy nghĩ của của mình. Và trong truyện ngắn “Chiếc thuyền
ngoài xa”, tình huống truyện ở đây là một tình huống mang tính nhận thức thông qua hai bức
tranh, một là bức tranh ở bãi biển sáng sớm và bức tranh thứ hai chính là bức tranh ở tòa án
của huyện.
 Điểm chung là chúng đều chứa đựng những nghịch lí bất ngờ, từ đó để lại cho nhiếp ảnh
Phùng, cũng như độc giả những nhận thức mới mẻ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc
sống.
b. Tình huống truyện trong “Chiếc thuyền ngoài xa” được xây dựng qua việc phát hiện
ra những nghịch lí của Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh săn tìm cái đẹp ở ngoài bãi biển và
ở toà án huyện
a. Ở ngoài bãi biển
* Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng:
- Tình huống truyện đầu tiên diễn ra trên bãi biển, bắt đầu với chuyện nhiếp ảnh gia Phùng
được giao nhiệm vụ chụp lấy một bức ảnh đẹp về cảnh biển buổi sáng sương mù để in làm bộ
lịch nghệ thuật.
 Với tâm thế của một nhà nghệ thuật chân chính khao khát cái đẹp, Phùng đã mai phục ở
bãi biển này đến cả chục ngày, tuy nhiên vẫn chưa chụp được bức nào thật sự đáng giá.
- Trong khi người nghệ sĩ quyết định chọn một bức ảnh trong số ảnh đã chụp được làm kết
quả báo báo, thì bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà suốt đời cầm máy
Phùng chưa bao giờ thấy được mà người nghệ sĩ đã xuýt xoa ví như “một bức tranh mực tàu
của một danh họa thời cổ”.
- Hình ảnh chiếc thuyền lưới vó dưới ánh bình minh mờ ảo, với những gam màu hồng hồng
của ánh nắng bình minh tạo nên một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước
cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối, rồi đưa máy lên chụp “liên
thanh” hết cả một phần tư cuốn phim. Thậm chí người nghệ sĩ đã nhận định rằng bản thân đã
“khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.
 Đây có thể nói là sự phát hiện của một người nghệ sĩ chân chính, người có thể hiểu, khám
phá và chỉ cần lướt qua cũng đã có thể nắm bắt được cái thần của bức tranh, nắm bắt được
linh hồn của sự vật. Và cũng từ tình huống truyện thông qua phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ
Phùng, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã khéo léo bộc lộ quan điểm của mình về cái đẹp “bản
thân cái đẹp là đạo đức”.
* Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí, phi nghệ thuật:
- Thế nhưng đối lập hoàn toàn với cái cảnh “đắt” trời cho, với bức tranh toàn thiện, toàn mĩ,
thì bước xuống từ chính con thuyền ấy lại là hai con người đọng lại như một nỗi ám ảnh, trên
con thuyền đó cũng có những mảnh đời bất hạnh, những nỗi khốn khổ của một gia đình làng

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 100
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

chài lênh đênh trên sóng biển ẩn dưới cái vẻ đẹp thơ mộng đến không thực trong mắt người
nghệ sĩ.
- Tiếng thét của người đàn ông dường như đã xé tan cái bức họa toàn bích: “Cứ ngồi nguyên
đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Bóng người hiện rõ hơn, đó là một người đàn bà
xấu xí, thô kệch, mặt đầy rỗ, trông mệt mỏi sau một đêm dài thức kéo lưới, người đàn ông đi
sau mái tóc tổ quạ, chân đi hình chữ bát, ánh mắt độc dữ nhìn chằm chằm vào tấm lưng người
đàn bà. Rồi một cuộc bạo hành gia đình diễn ra ngay trước mắt Phùng, gã đàn ông rút thắt
lưng quất liên tiếp vào vợ, miệng rít lên những tiếng căm hận: “Mày chết đi cho ông nhờ.
Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”, những tưởng chỉ có kẻ thù mới đối với nhau như thế
chứ không phải là một cặp vợ chồng.
- Người đàn bà im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn. Tất cả
những sự việc kinh hoàng ấy diễn ra nhanh quá, khiến Phùng chưa thể phản ứng lại được, bởi
chỉ mới 5, 10 phút trước nó còn là một cảnh “đắt” trời cho, còn bây giờ lại là một cảnh khủng
khiếp, Phùng không thể hiểu nổi những gì đang xảy ra trước mắt.
- Chỉ kịp vứt máy ảnh chạy đến ngăn cản, rồi anh chàng lại chứng kiến tiếp cảnh đứa con trai
vì thương mẹ mà đánh lại cả bố, nó lại căm thù bố như kẻ thù, như ác quỷ. Cuối cùng những
con người ấy rời đi chỉ để lại một bãi cát mênh mông và hoang vắng, không còn bóng dáng
của một cảnh “đắt” trời cho mà người nghệ sĩ chộp được ban nãy.
 Như vậy tổng kết lại tình huống truyện trên bãi biển mở ra bằng một bức họa tuyệt diệu,
toàn bích, sau đó bị phá vỡ bởi cảnh tượng gia đình tan hoang, thù ghét lẫn nhau cũng bởi
chính những con người bước xuống từ chiếc thuyền trong sương sớm. Và cái phát hiện tưởng
như trong sáng, tổng hợp vẻ đẹp chân thiện mĩ ấy hóa ra lại ẩn chứa những điều ghê gớm và
đáng sợ.
2. Trong toà án huyện
- Tình huống truyện thứ hai diễn ra trong tòa án huyện, trước những nhận thức của mình về
gia đình của người đàn bà làng chài, Phùng và Đẩu (chánh án của toà án huyện) đã có ý muốn
giúp chị li hôn. Thế nhưng trái với những mong đợi về việc người phụ nữ này có thể thoát
khỏi cảnh bạo hành, thì chị lại khăng khăng không muốn li hôn: “Con lạy quý tòa, quý tòa bắt
tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”.
 Phản ứng ấy của người đàn bà làng chài khiến cả Phùng và Đẩu vô cùng khó hiểu, gian
phòng trở nên ngột ngạt và khó chịu vô cùng. Cũng từ đây Phùng bắt đầu nhận thức được nỗi
lòng của người đàn bà, hóa ra chị cam chịu nhẫn nhục từng ấy năm, rốt cuộc cũng chỉ vì một
chục đứa con đang chờ ăn trên chiếc thuyền của hai vợ chồng chị.
 Qua lời lí giải của người đàn bà, Đẩu cũng hiểu ra rằng mình không hiểu nỗi khốn khổ của
một người đàn bà, đặc biệt lại là người đàn bà làm nghề chài lưới mà không có người đàn ông
chèo chống những ngày mưa bão, trở trời.
- Mình bản thân chị không thể nào gồng gánh nuôi nấng từng ấy đứa con mà không có chồng,
những nỗi vất vả ấy cả Phùng và Đẩu sẽ chẳng bao giờ hiểu được bởi họ không phải là chị,
không phải là một người đàn bà có số kiếp bất hạnh và chịu đựng hi sinh vì con cái. Và trong
cuộc đời khổ cực của người đàn bà làng chài cũng có những lúc chị cảm thấy hạnh phúc khi
được nhìn thấy các con ăn no, chỉ bấy nhiêu đấy thôi cũng đáng để cho chỉ đánh đổi bằng
những trận đòn, sự nhẫn nhục, chịu đựng chung sống với gã chồng vũ phu.
- Ngay lúc này đây trong đầu Phùng và Đẩu mới vỡ ra một lẽ rằng cái có lí nó tồn tại ngay
trong nghịch lí của cuộc sống, sự cố chấp không li hôn của người đàn bà nếu chỉ nhìn từ vị trí
khách quan của hai người thì đó là nghịch lí đến khó hiểu, thế nhưng đứng vào vị trí của
người phụ nữ đó thì nó lại trở nên có lí.
- Rốt cuộc phụ nữ hi sinh, chịu đựng cũng chỉ vì con cái, vì muốn con được ăn no, được lớn
lên, và được có một gia đình đầy đủ cả cha lẫn mẹ. Không chỉ vậy xét từ vị trí của người đàn
bà làng chài, thì sự vũ phu của chồng cũng chỉ vì khổ quá, chị hiểu chồng và bênh vực chồng,

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 101
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

người đã có ơn với chị, và chị trân trọng gia đình, mái ấm của mình, không muốn nó sự xáo
trộn nào cả.
3. Ý nghĩa tình huống truyện
- Thông qua hai tình huống truyện ở bờ phá và ở tòa án huyện, tác giả Nguyễn Minh Châu đã
cho chúng ta những nhận thức rõ nét hơn về cách nhìn nhận cuộc đời và con người.
- Chúng ta không thể chỉ nhìn nhận sự vật một cách phiến diện, mà phải có cái nhìn đa diện
nhiều chiều, không thể chỉ muốn thu lấy một vẻ đẹp tĩnh mà bỏ qua sự tồn tại của con người,
cũng không thể vì tôn thờ nghệ thuật tuyệt đối mà bỏ qua những sự thật, những éo le bất công
đang tồn tại đằng sau nó, mà khi làm nghệ thuật quan trọng nhất người nghệ sĩ phải đi sâu
vào cuộc đời để thấm thía, để cảm nhận vẻ đẹp thật sự không ở đâu xa trong chính tâm hồn
của con người.
 Bởi nghệ thuật thì xa nhưng cuộc đời thì gần. Đồng thời tình huống truyện cũng cho
chúng ta những cảm nhận rõ ràng hơn về vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà làng chài.
III. TỔNG KẾT
- Như vậy, tình huống truyện của “Chiếc thuyền ngoài xa” không chỉ là phát hiện mang tính
khám phá của Phùng mà còn là tình huống nghệ thuật đặc sắc được dựng lên để thể hiện
những quan điểm, triết lí nhân sinh sâu sắc của Nguyễn Minh Châu.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 102
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 31:
HAI PHÁT HIỆN CỦA NGHỆ SĨ PHÙNG

I. KHÁI QUÁT
- Trong tác phẩm này, nhà văn đã để cho nhân vật Phùng phát hiện ra vẻ đẹp của chiếc
thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương cùng những nghịch lí trớ trêu của gia đình người
đàn bà hàng chài, qua đó thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc về nghệ thuật và cuộc đời.
II. PHÂN TÍCH
1. Phát hiện đầu tiên: Vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương
- Phát hiện thứ nhất của nhân vật người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đầy thơ mộng.
- Để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng đã tới
một vùng biển từng là chiến trường cũ mà anh từng tham gia chiến đấu. Anh đã dự tính bố
cục, phục kích mấy buổi sáng.
- Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra một vẻ đẹp trời cho
trên mặt biển sớm mờ sương, một cảnh đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ bắt gặp được
một lần. Nó đẹp như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ.
- Mái thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù màu trắng như sữa có pha đôi
chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng
phắc như tượng trên chiếc mũi khum khum, đang hướng mặt vào bờ.
 Tất cả bức tranh đó từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thật đơn
giản và toàn bích.
- Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt vời của hóa công, người nghệ sĩ trở nên bối rối
và trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Chưa hết, trong giây lát, người nghệ sĩ còn khám
phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm
hồn.
- Không cần lựa chọn xê dịch gì nữa, anh bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim
với cảm giác hạnh phúc tràn ngập tâm hồn.
 Đây chính là sự nhạy cảm của trái tim người người nghệ sĩ.
- Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa biển trời mờ sương, anh đã bắt gặp
cái thiện, mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp
hài hòa, lãng mạn của cuộc đời. Anh yên tâm ngày mai có thể lên tàu trở về. Câu chuyện đến
đây vẫn chưa có gì đặc biệt, chưa có đột biến.
2. Phát hiện thứ hai: Cảnh bạo lực trong gia đình người đàn bà hàng chài
- Đến với phát hiện thứ hai đó là cảnh bạo hành trong gia đình người đàn bà hàng chài.
- Đang ngây ngất trước vẻ đẹp của thiên nhiên, Phùng ngỡ ngàng khi chiếc thuyền đẹp như
mơ tiến đến gần, từ chỗ chiếc thuyền vọng lại tiếng quát quá dữ tợn của người đàn ông: “Cứ
ngồi nguyện đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”.
-Từ trên thuyền bước xuống là đôi vợ chồng hàng chài:
+ Người vợ đi trước, chị ta “trạc ngoài bốn mươi”, “thân hình cao lớn với những đường nét
thô kệch”, “mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và
dường như đang buồn ngủ”.
+ Người chồng đi sau “tấm lưng rộng và cong”, “mái tóc tổ quạ”, “đi chân chữ bát, bước từng
bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng
nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sung của người đàn bà”.
+ Gã đàn ông thô bạo, cộc cằn, tàn nhẫn với sức khỏe như gấu, hình dáng cổ quái, “trút cơn
giận như lửa cháy” vào việc đánh vợ bằng chiếc thắt lưng to bản như đánh kẻ thù, “vừa đánh
vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két”, vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên
rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Điều kì lạ là
người đàn bà đứng yên cho chồng đánh “không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng
không tìm cách chạy trốn”.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 103
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

- Phùng chưa hết bàng hoàng thì thằng Phắc, đứa con của cặp vợ chồng này lao tới “như một
viên đạn”. Nó giật chiếc thắt lưng quật vào ngực cha để rồi nhận lại hai cái tát, ngã dúi xuống
bờ cát. Lão đàn ông, cả hai trở lại chiếc thuyền…
 Tất cả như một vở kịch câm, chứa đầy những nghịch lí, không chú giải, không một lời
thoại, kịch tính đến nghẹt thở với những hình ảnh khô khốc, bạo liệt, phi nhân tính, nó phũ
phàng xâm lấn cái giây phút hạnh phúc của người nghệ sĩ, khiến phùng hụt hẫng, bàng
hoàng, cứ đứng “há mồm ra mà nhìn!”.
- Tất cả những cảnh trên là mặt trái của bức ảnh đẹp tuyệt vời mà Phùng đã chứng kiến. Tuy
nhiên, đó mới là một phần bên ngoài của sự thật.
 Lần thứ hai, Phùng lại phải chứng kiến cảnh bạo hành trong gia đình thuyền chài này.
- Vốn là người lính, Phùng không thể làm ngơ trước cái ác, anh xông vào ngăn và bị thương
nhẹ. Anh cay đắng nhận ra những ngang trái, xấu xa, bi kịch gia đình hàng chài kia là thứ
thuốc rửa quái đản làm cho những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng
hiện hình thật khủng khiếp, ghê sợ…
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Thông qua hai phát hiện của nhân vật Phùng, tác giả Nguyễn Minh Châu đã đặt ra mối trăn
trở về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, giữa người nghệ sĩ và người dân.
 Qua truyện ngắn, tác giả cũng đặt ra trách nhiệm của người nghệ sĩ: Trước khi người nghệ
sĩ biết rung động trước cái đẹp thì hãy học cách thấu hiểu, đồng cảm, yêu thương đối với con
người.
2. Giá trị nghệ thuật
- Với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về
cuộc đời, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện (nhân vật Phùng), “Chiếc thuyền
ngoài xa” đã để lại ấn tượng sâu đậm.
- Thành công của Nguyễn Minh Châu là đã đem đến cho người đọc một tác phẩm đầy tính
triết lí và chiêm nghiệm về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật.
 Những triết lí luôn đúng với mọi thời đại.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 104
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 32:
CÂU CHUYỆN CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG CHÀI

I. KHÁI QUÁT
- “Chiếc thuyền ngoài xa” đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng
chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức
hi sinh và lòng vị tha cao cả.
- Người phụ nữ bất hạnh ấy đã để lại cho người đọc một niềm cảm thông và trân trọng sâu
sắc bởi những phẩm chất đáng quý của bà.
II. PHÂN TÍCH
1. Ngoại hình
- Người đàn bà xuất hiện trong tác phẩm qua nhận xét của Phùng vô cùng đặc biệt – ngoại
hình xấu xí, thực không mấy ưa nhìn.
 Đó là người đàn bà mặt rỗ, dáng vẻ mệt mỏi, thân hình thô kệch lam lũ.
- Sau này, đi sâu vào tác phẩm và nghe những lời tâm sự của người đàn bà ta mới biết, chị
vốn sinh trong một gia đình khá giả, nhưng vì một trận ốm mà mặt rỗ, không ai lấy.
- Hình ảnh chị cam chịu nhẫn nhục để người chồng lấy dây lưng vụt tới tấp, đã phần nào hé
lộ số phận bi kịch, bất hạnh của chị.
2. Tính cách, phẩm chất
- Dù chị có số phận bất hạnh như vậy, nhưng ta cũng không thể phủ nhận ẩn sâu trong người
phụ nữ ấy là những vẻ đẹp, phẩm chất đáng quý.
- Đầu tiên ta thấy được chị là người phụ nữ có khả năng chịu đựng cao. Có thể thấy, như lời
chị tâm sự “ba ngày một trận nhẹ, bảy ngày một trận nặng” cứ khi chồng chị bực là chị bị
đánh. Thì có thể thấy rằng, việc chị bị đánh diễn ra hàng ngày, hàng giờ.
- Mặc dù bị hành hạ về thể xác như vậy, nhưng chị vẫn cam chịu nhẫn nhục, không hề kêu
than, không hề chống trả, hay tìm cách trốn chạy. Bởi đối với chị chịu đựng cũng là một lẽ
đương nhiên của những người phụ nữ sống ở miền biển.
3. Giàu lòng tự trọng, vô cùng yêu thương con
- Không chỉ vậy, người đàn bà làng chài còn là một người phụ nữ giàu lòng tự trọng, vô cùng
yêu thương con.
- Cuộc đời chị hi sinh tất cả về con, khi bị người chồng đánh, chị xin hắn lên bờ đánh, để
những đứa trẻ không phải nhìn thấy cảnh ấy. Chị đặc biệt thương thằng Phác, nên đã gửi nó
lên rừng ở cùng ông.
- Khi Phác thấy bố đánh mẹ, đã ngay lập tức xông vào, chị sợ hãi, quỳ sụp xuống van xin.
Chị sợ thằng Phác sẽ bị thương.
- Trong những lời vô cùng chân thành, chị cũng cảm thấy vui, hạnh phúc khi nhìn thấy những
đứa con mình được ăn no “trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên như một nụ cười
khi nghĩ đến những niềm vui nhỏ bé mà gia đình bà từng có và đặc biệt khi nghĩ đến cảnh đàn
con được ăn no”.
- Hạnh phúc quả thực bình dị của một người mẹ nghèo.
- Thương con, hi sinh vì con cũng là lí do vì sao chị kiên quyết không bỏ chồng, bởi với
những người dân miền biển, ngày đêm đối mặt với sóng gió không thể thiếu đôi vai vững
chắc của người đàn ông.
 Hành động, suy nghĩ đó của chị càng khẳng định hơn nữa tình mẫu tử sâu nặng chị dành
cho con.
4. Thấu hiểu lẽ đời
- Không chỉ vậy, chị còn là một người thấu hiểu lẽ đời, đã đem đến cho cả Phùng và Đẩu
những bài học, những quan niệm khác về con người và cuộc đời. Dù chị bị chà đạp về nhân
phẩm, bị hành hạ về thể xác nhưng chị đến tòa án huyện trước những lí lẽ của mình, ta không

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 105
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

còn thấy một người đàn bà quê mùa, ít học, mà thay vào đó là một người phụ nữ thấu tình đạt
lí, thấu hiểu sự đời.
- Ban đầu chị rụt rè, sợ hãi, bởi đây là lần đầu chị tiếp xúc với một không gian mới. Chị ngồi
sâu vào một góc, cố để không ai chú tâm đến mình. Những lời lẽ vô cùng hạ mình, nhỏ bé
đến tối nghiệp trước Phùng và Đẩu: “Con van xin quý tòa”.
- Hình ảnh của chị thật đáng thương, khiến cho cả hai người đàn ông không khỏi khó xử.
Nhưng sau khi lấy lại được bình tĩnh, chị đã nhanh chóng thay đổi cách xưng hô: “Chị cảm
ơn các chú”. Có một sự đổi vai nhanh chóng giữa hai đối tượng, người giáo huấn và người
được giáo huấn giữa Phùng, Đẩu và người đàn bà làng chài. Với những suy nghĩ, trải nghiệm
trong cuộc đời, lí lẽ đời đã thắng những lí lẽ giáo điều sách vở của Phùng và Đẩu.
 Bằng sự từng trải của bản thân, tình yêu thương con và đức hi sinh, người đàn bà làng chài
đã khiến cho hai người đàn ông thay đổi suy nghĩ, khiến họ cảm thông cho số phận và cuộc
đời mình.
 Nhìn vào cuộc đời chị người ta mới thấu rằng cuộc đời này vốn đầy những đa đoan, nhìn
ngoài sao có thể thấu hết hững vấn đề ở xung quanh.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thành công nhân vật người đàn bà hàng chài. Nhân vật này
đã giúp bạn đọc cảm nhận được sự thấu hiểu, sự đồng cảm và tình thương mà tác giả dành
cho nhân vật của mình. 
- Hình ảnh người đàn bà làng chài là đại diện tiêu biểu cho số phận người phụ nữ trong xã hội
vừa bước chân ra khỏi chiến tranh.
- Cuộc sống đói nghèo lạc hậu, bạo lực gia đình đã dồn họ vào ngõ cùng tối tăm. Nhưng
trong bóng tối tưởng thăm thẳm đó lại ngời sáng những đức tính đẹp đẽ của người phụ nữ
nông dân hồn hậu: yêu thương chồng con, đức hinh sinh và tình mẫu tử cao đẹp.
2. Giá trị nghệ thuật
- Với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được hình
ảnh nhân vật người đàn bà với đường nét thô kệch nhưng lại mang một vẻ đẹp rất đời, rất
thực, ẩn sâu và khuất lấp giữa kiếp người nhọc nhằn, lam lũ.
 Một vẻ đẹp khiến lòng người quặn đau.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 106
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

TIẾT 33:
TẤM ẢNH ĐƯỢC CHỌN TRONG BỘ LỊCH NĂM ẤY

I. KHÁI QUÁT
- Thành công của truyện ngắn được tạo nên bởi chính những hình ảnh, chi tiết ấn tượng, giàu
giá trị biểu đạt, trong đó nổi bật nhất có thể kể đến chi tiết “Tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch
cuối năm”.
- Chi tiết “Tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm” là chi tiết khép lại truyện ngắn, đồng
thời cũng là một trong những chi tiết đắt giá nhất thể hiện được quan niệm về cuộc sống và
nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, chi tiết có thể khơi dậy những suy tư, chiêm nghiệm của
Phùng cũng như người đọc.
II. PHÂN TÍCH
- Bức ảnh nghệ thuật được nhiếp ảnh gia Phùng chụp ở bãi biển năm nào đã trở nên nổi tiếng,
trở thành tác phẩm nghệ thuật lí tưởng cho những nhà sành nghệ thuật.
 Đó là bức ảnh hoàn mĩ, là kết tinh của vẻ đẹp toàn bích của thiên nhiên, tài năng và sự
may mắn của người nghệ sĩ.
- Bức ảnh có sự kết hợp giữa con người và cảnh vật, bức ảnh đó từng mang đến hạnh phúc
cho Phùng và còn đủ sức thuyết phục dành cho những người sành nghệ thuật.
- Nhiều năm về sau, khi nhìn vào bức ảnh, Phùng không còn hạnh phúc như khi bắt gặp được
khoảnh khắc trời cho ấy nữa mà đầy những trăn trở, suy tư bởi anh là người hiểu hơn ai hết
sự thật tàn khốc đằng sau một khung cảnh toàn bích, hoàn hảo.
- Đằng sau một bức ảnh nghệ thuật là những góc khuất tối tăm của cuộc đời, đó là hiện thực
trần trụi với cuộc sống lam lũ mà trung tâm là hình ảnh người đàn bà xấu xí, thô kệch đang
bước những bước chậm rãi, bàn chân đặt trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.
- Trong cảm nhận của Phùng, bức tranh không còn chất thơ mộng, lãng mạn nghệ thuật nữa
mà thấm đượm hơi thở của cuộc đời. Chính những cảm nhận này đã mang đến những ám thị
đặc biệt cho Phùng mỗi lần nhìn lại bức ảnh mình từng chụp.
- Xuyên qua cái hồng của sương mai của cảnh vật, Phùng đã nhìn ta được những cái “thô
kệch, ướt súng, nhợt trắng, bạc phếch…” của cuộc đời.
 Chỉ Phùng mới có cái nhìn khác về tác phẩm nghệ thuật của mình phải chăng Phùng đã
từng chứng kiến câu chuyện đầy éo le, nghịch lí bên trong hay Phùng đã biết nhìn bằng trải
nghiệm, dám nhìn thẳng, nhìn sâu vào hiện thực dẫu tàn khốc, vô tình.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nội dung
- Như vậy, chỉ một chi tiết “Tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm”, nhà văn Nguyễn
Minh Châu không chỉ khép lại, đặt dấu chấm cho một câu chuyện mà còn tổng kết được
những giá trị tư tưởng, gợi mở ra những suy tư, chiêm nghiệm nơi độc giả.
- Đoạn kết của tác phẩm là những chiêm nghiệm của tác giả thông qua nhân vật Phùng về
những triết lí nhân sinh của cuộc sống, từ một tấm ảnh mà sau đó là ẩn chứa cả một cuộc đời,
một số phận với nhiều góc khuất cần thấu hiểu, cảm thông. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện
một quan điểm mới về cách nhìn nhận cuộc đời rằng cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều
chiều, đồng thời chấp nhận rằng trong những cái nghịch lí vẫn luôn tồn tại những cái có lí.
2. Giá trị nghệ thuật
- Bằng những nỗ lực của bản thân, Nguyễn Minh Châu đã khắc họa các nhân vật cũng như
những triết lí nhân sinh thật rõ nét và sắc sảo.
- Với lối kết cấu vòng tròn: mở đầu là đi tìm ảnh, kết thúc là ngắm nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ,
chiêm nghiệm nhằm nhấn mạnh tính triết lí của truyện nhà văn đã đưa đến cho độc giả nhiều
trải nghiệm thú vị.
- Giọng văn trầm lắng, suy tư, nhiều dư vị, nhiều liên tưởng bất ngờ.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 107
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

ĐỀ ÔN THI PHẦN ĐỌC – HIỂU


VÀ PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI (đoạn văn ngắn khoảng 200 chữ)
NỘI DUNG ĐỀ 1
I. PHẦN ĐỌC – HIỂU
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
HÃY LÀ NGƯỜI VÔ LÍ
“Một trong những câu nói tôi thích nhất của George Bernard Shaw là: “Người có lý điều
chỉnh bản thân theo thế giới; người vô lí kiên định điều chỉnh thế giới theo bản thân. Vì vậy,
mọi tiến bộ đều tùy thuộc vào người vô lí”. Hãy suy nghĩ về ý tưởng này trong chốc lát. Đó là
một ý tưởng lớn.
Tất nhiên, bạn cần thực tế và ứng xử khôn khéo khi làm việc trong môi trường của mình. Tôi
đồng ý rằng việc áp dụng các quan niệm phổ biến với người khác cũng quan trọng. Những rủi
ro ngu ngốc có thể dẫn đến hậu quả khôn lường. Nhưng như đã nói, đừng nên sợ hãi trước
thất bại hay thất vọng để rồi không dám ước mơ.
Đừng lúc nào cũng tỏ ra có lí và thực dụng, quá nhạy cảm đến nỗi bạn từ chối không chộp lấy
cơ hội ngàn vàng khi nó đến. Hãy đẩy xa giới hạn của những gì bạn nghĩ mình có thể thực
hiện. Đừng quên rằng những kẻ chỉ trích luôn cười nhạo tầm nhìn của nhiều nhà tư tưởng can
trường, nhiều nhà khai phá nổi tiếng. Đừng để ý đến những lời chỉ trích. Luôn ghi nhớ rằng
những tiến bộ vượt bậc mà con người đạt tới đều nhờ nỗ lực can trường của một người nào
đó từng bị chỉ trích rằng ý tưởng của họ là viễn vông, không thể trở thành hiện thực. Thế giới
cần nhiều người biết ước mơ. Cần người vô lí biết đấu tranh chống lại những gì thông
thường. Cần người chống lại sự cám dỗ của tính tự mãn và dám hành động theo cách họ vẫn
luôn thực hiện. Bạn có thể là một trong những người ấy. Từ ngày hôm nay”.
(Trích “Đời ngắn đừng ngủ dài”, Robin Sharma, NXB Trẻ, 2014, Tr. 29)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2. Theo đoạn trích, người có lí và người vô lí khác nhau chỗ nào?
Câu 3. Dựa vào đoạn trích, anh (chị) hiểu thế nào là người vô lí?
Câu 4. Anh (chị) có đồng tình với quan niệm sau không: “Mọi tiến bộ đều tùy thuộc vào
người vô lí”? Vì sao?
II. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI (đoạn văn 200 chữ)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc – hiểu, anh (chị) hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
về ý nghĩa của việc phá vỡ những giới hạn nhận thức thông thường trong cuộc sống.
BÀI LÀM
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 108
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 109
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

NỘI DUNG ĐỀ 2
I. PHẦN ĐỌC – HIỂU
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Trong mỗi chú bé đều âm ỉ giấc mơ bay lên. Tôi cũng thế. Em chắc vẫn còn nuôi giấc mơ
đó. Nhưng khi lớn lên, đôi khi những tầng mây thâm thấp thôi cũng khiến ta như bị che khuất
tầm nhìn. Tệ hơn, những tầng mây sũng nước thậm chí có thể che khuất cả những giấc mơ, đè
nén khát vọng của mỗi người. Một ngày mây mù có thể khiến ta yếu ớt và bi lụy. Một chút
thất bại cũng giống như mây mù kéo đến, có thể làm em rút vào tổ kén bi quan. Ai đó nói
rằng cách tốt nhất để hóa giải khó khăn là đi xuyên qua nó. Đi xuyên qua mây mù bằng giấc
mơ phi công giữ gìn từ thơ bé. Đi xuyên qua gian khó bằng lòng lạc quan. Đi xuyên qua u mê
bằng khao khát hướng đến trí tuệ, thông sáng. Đi xuyên qua thất bại bằng sự điềm đạm
trưởng thành.
Vì triệu năm đã là như thế, cuộc đời có hôm nắng đẹp, có ngày mưa dầm, có tuần mây đen
như đè nặng, có khoảnh khắc u ám tối dạ, rỗng đầu, nhưng mặt trời vẫn mọc mỗi sớm mai.
Không phải ai cũng trở thành phi công lái Airbus hay Boeing đúng y như giấc mơ tuổi nhỏ.
Nhưng ai cũng có thể học cách giữ cho mình giấc mơ bay xuyên qua những tầng mây, đón
nắng rọi sáng tâm hồn khiến nụ cười luôn nở trên môi”.
(Dẫn theo Hà Nhân, “Bay xuyên những tầng mây”, NXB Văn học, 2016, Tr. 98)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính trong đoạn trích.
Câu 2. Theo tác giả, làm thế nào để hóa giải những khó khăn trong cuộc sống?
Câu 3. Nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp liệt kê trong câu sau: “Vì triệu năm đã là như
thế, cuộc đời có hôm nắng đẹp, có ngày mưa dầm, có tuần mây đen như đè nặng, có khoảnh
khắc u ám tối dạ, rỗng đầu, nhưng mặt trời vẫn mọc mỗi sớm mai”.
Câu 4. Anh (chị) có đồng ý với ý kiến sau không: “Ai cũng có thể học cách giữ cho mình
giấc mơ bay xuyên qua những tầng mây, đón nắng rọi sáng tâm hồn khiến nụ cười luôn nở
trên môi”? Vì sao?
II. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI (đoạn văn 200 chữ)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc – hiểu, anh (chị) hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ của mình về sức mạnh của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con
người.
BÀI LÀM
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 110
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 111
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

NỘI DUNG ĐỀ 3
I. PHẦN ĐỌC – HIỂU
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Bạn không nên để thất bại ngăn mình tiến về phía trước. Hãy suy nghĩ tích cực về thất bại và
rút ra  kinh nghiệm. Thực tế những người thành công luôn dùng thất bại như là một công cụ
để học hỏi và hoàn thiện  bản thân. Họ có thể nghi ngờ phương pháp làm việc đã dẫn họ đến
thất bại nhưng không bao giờ nghi ngờ  khả năng của chính mình.
Tôi xin chia sẻ với các bạn về câu chuyện về những người đã tìm cách rút kinh nghiệm từ
thất bại của  mình để đạt được những thành quả to lớn trong cuộc đời. 
Thomas Edison đã thất bại gần 10 000 lần trước khi phát minh thành công bóng đèn điện. J.
K. Rowling,  tác giả của “Harry Potter”, đã bị hơn 10 nhà xuất bản từ chối bản thảo tập 1 của
bộ sách. Giờ đây, bộ tiểu  thuyết này của bà trở nên vô cùng nổi tiếng và đã được chuyển thể
thành loạt phim rất ăn khách. Ngôi sao điện ảnh Thành Long đã không thành công trong lần
đóng phim đầu tiên ở Hollywood. Thực tế bộ phim  Hollywood đầu tay của anh, thất vọng
lắm chứ, nhưng điều đó cũng đâu ngăn được anh vùng lên với những  phim cực kì ăn khách
sau đó như “Giờ cao điểm” hay “Hiệp sĩ Thượng Hải”. 
Thất bại không phải là cái cớ để ta chần chừ. Ngược lại nó phải là động lực tiếp thêm sức
mạnh để ta  vươn tới thành công”. 
(Trích “Tại sao lại chần chừ?”, Tác giả Teo Aik Cher,
Người dịch: Cao Xuân Việt Khương, An Bình,
NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2016, Tr. 39 – 40) 
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích. 
Câu 2. Theo đoạn trích, mặt tích cực của thất bại mà “người thành công luôn dùng” là gì?
Câu 3. Việc trích dẫn các câu chuyện của Thomas Edison, J.K.Rowling, Ngôi sao điện ảnh
Thành Long có tác dụng gì đối với lập luận của tác giả? 
Câu 4. Anh (chị) có đồng tình với ý kiến sau không: “Thất bại là động lực tiếp thêm sức
mạnh để ta vươn tới thành công”? Vì sao? 
II. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI (đoạn văn 200 chữ)
Tù nội dung đoạn trích ở phần Đọc – hiểu, anh (chị) hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ của bản thân về sự cần thiết phải biết chấp nhận thất bại trong cuộc sống. 
BÀI LÀM
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 112
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 113
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

NỘI DUNG ĐỀ 4
I. PHẦN ĐỌC – HIỂU
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Những thói quen tốt ta hình thành khi còn trẻ không tạo nên khác biệt nhỏ nào, đúng hơn,
chúng tạo ra tất cả khác biệt” (Aristotle). Không biết bao nhiêu lần tôi nghe những người trẻ
quanh mình than buồn, chán, bảo không biết gì để làm. Và rồi không biết làm gì nên ta giết
thời giờ với những thú vui nhỏ nhặt, rong chơi cho qua ngày đoạn tháng, ngủ vùi lười biếng
hoặc chìm đắm vào yêu đương. Nhưng khi đã đi qua gần hết thời đôi mươi, ngấp nghé ở
ngưỡng ba mươi, nhìn lại tôi mới thấy tiếc nuối. Thấy bây giờ cuộc sống có quá nhiều cơ hội,
nhiều điều phải làm, nhiều thứ để học, mà mình lại không có đủ thời gian cho ngần ấy thứ.
Nghĩ nếu mà mình biết những điều này khi còn đi học, khi mình còn trẻ tuổi, chắc hẳn cuộc
sống của mình sẽ khác, chắc mình sẽ bớt đi nhiều vật vã gian nan. Ai có trải qua rồi mới hiểu,
tuổi trẻ ngắn ngủi biết bao nhiêu. Thời gian một đi là không trở lại. Điều đáng quý nhất mà
tuổi trẻ có được là thời gian, nhưng rất nhiều người trẻ không biết làm gì có ích với thời gian
của họ. Trên thực tế, có rất nhiều điều để làm, khi người ta còn trẻ”.
(Trích “Tuổi trẻ đáng giá bao nhiêu?” – Roise Nguyễn, NXB Hội Nhà văn, 2020, Tr. 11 – 12)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2. Theo đoạn trích, những người trẻ thường làm gì để giết thời giờ?
Câu 3. Việc tác giả trích dẫn câu nói của Aristotle có tác dụng gì?
Câu 4. Anh (chị) có đồng tình với ý kiến sau không: “Điều đáng quý nhất mà tuổi trẻ có
được là thời gian”? Vì sao?
II. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI (đoạn văn 200 chữ)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc – hiểu, anh (chị) hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày những điều cần làm khi người ta còn trẻ.
BÀI LÀM
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 114
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 115
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

NỘI DUNG ĐỀ 5
I. PHẦN ĐỌC – HIỂU
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Trên đường đời bạn cũng có lúc vấp ngã. Tôi cũng vậy. Ngay cả người tài giỏi, khôn ngoan
nhất cũng có lúc vấp ngã. Vấp ngã là điều bình thường, chỉ có những người không bao giờ
đứng dậy sau vấp ngã mới là người thực sự thất bại. Điều chúng ta cần ghi nhớ là, cuộc sống
không phải là một cuộc thi đỗ – trượt... Cuộc sống là một quá trình thử nghiệm các biện pháp
khác nhau cho đến khi tìm ra một cách thích hợp. Những người đạt được thành công phần lớn
là người biết đứng dậy từ những sai lầm ngớ ngẩn của mình bởi họ coi thất bại, vấp ngã chỉ là
tạm thời và là kinh nghiệm bổ ích. Tất cả những người thành đạt mà tôi biết đều có lúc phạm
sai lầm. Thường thì họ nói rằng sai lầm đóng vai trò quan trọng đối với thành công của họ.
Khi vấp ngã, họ không bỏ cuộc. Thay vì thế, họ xác định các vấn đề của mình là gì, cố gắng
cải thiện tình hình, và tìm kiếm giải pháp sáng tạo hơn để giải quyết. Nếu thất bại năm lần, họ
cố gắng đứng dậy năm lần, mỗi lần một cố gắng hơn. Winston Churchill đã nắm bắt được cốt
lõi của quá trình này khi 4ông nói: “Sự thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại
khác mà không đánh mất nhiệt huyết và quyết tâm vươn lên”.”.
(“Cuộc sống không giới hạn”, NXB Văn Học, Nick Vujicic, chương VII, Tr. 236)
Câu 1. Xác định hương thức biểu đạt chính trong đoạn trích?
Câu 2. Trong văn bản, tác giả đưa ra quan niệm như thế nào về cuộc sống?
Câu 3. Anh (chị) hiểu nghĩa của từ “vấp ngã” được nói đến trong đoạn trích là gì?
Câu 4. Anh (chị) có đồng ý với quan điểm sau của Winston Churchill không: “Sự thành công
là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không đánh mất nhiệt huyết và quyết tâm
vươn lên”? Vì sao?
II. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI (đoạn văn 200 chữ)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc – hiểu, anh (chị) hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
bàn về vấn đề cần phải làm gì để đứng dậy sau vấp ngã đối với tuổi trẻ trong cuộc sống.
BÀI LÀM
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 116
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 117
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

NỘI DUNG ĐỀ 6
I. PHẦN ĐỌC – HIỂU
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Lửa cháy đỏ trời bốn phía ngoại ô
Tro lả tả xuống mặt gầy hoảng hốt
Bom ném lên cao những đường tàu gẫy nát
Những bàn ghế những lá thứ những cánh tay người
Mùi thịt cháy rợn mình mùi khói cay
Ta đứng lặng trong tiếng gầm báo động
Dưới vầng trăng tê dại nỗi kinh hoàng
Bom xé trời, mặt đất chao nghiêng
Vụt mở hoác những vực sâu khủng khiếp
Ngực nghẹn lại không còn khóc được
Thương mọi người cơ cực mấy mươi năm
Thương ga xưa đã sập tan tành
Thương những chuyến lên đường xưa đã chết
Nỗi bất lực cứa lòng muôn kính nát
Kẻ mất người thân lặng lẽ bước trên đường
Đứa trẻ nhà ai bỗng khóc thét lên
Ôm chầm lấy anh dưới cầu thang tối
Đừng sợ, bé em ơi, đừng sợ hãi
Chúng ta cần phải sống
Làm chứng nhân tấn kịch thảm thê này.

B52 suốt đêm gầm rít


Bom giết cụ già và trẻ nhỏ suốt đêm
Thành phố thân yêu không nhỏ bé như em
Để anh ôm trong vòng tay che chở”
(Trích “Ghi vội một đêm 1972”, Lưu Quang Vũ)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính trong đoạn trích.
Câu 2. Tìm những từ (cụm từ) diễn tả thái độ, cảm xúc của con người trước sự hủy diệt của
chiến tranh?
Câu 3. Nêu tác dụng của phép điệp trong những câu thơ sau:
“Thương mọi người cơ cực mấy mươi năm
Thương ga xưa đã sập tan tành
Thương những chuyến lên đường xưa đã chết”
Câu 4. Một thông điệp anh (chị) nhận được từ hai câu thơ sau:
“Đừng sợ, bé em ơi, đừng sợ hãi
Chúng ta cần phải sống”
II. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI (đoạn văn 200 chữ)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc – hiểu, anh (chị) hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống hòa bình.
BÀI LÀM
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 118
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 119
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

NỘI DUNG ĐỀ 7
I. PHẦN ĐỌC – HIỂU
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
““Nhà” chỉ là một từ ngắn ngủi, nó không đồng nghĩa với sự bình yên, nhưng chúng ta vẫn
luôn khao khát rằng nó gắn với sự bình yên. Và khi nào “nhà” trái nghĩa với bình yên thì đó
là khởi đầu cho sự bất hạnh.
Tôi tin rằng, mái nhà nào cũng từng có lúc đồng nghĩa với niềm vui và có cả sự bình yên.
Nhưng bạn của tôi ơi, sự bình yên của nhà không phải là sự có sẵn . “Nhà” là phần cứng, còn
sự bình yên, hạnh phúc, niềm vui là phần mềm. Gia đình là phần cứng còn tình yêu và sự
thấu hiểu là phần mền.
Vậy cho nên , sự bình yên là thứ phải được thiết lập , và vì thế, có thể tái thiết lập. Bằng một
nụ cười xoa dịu , bằng một câu nói vị tha, bằng sự yêu thương nhẫn nhịn, bằng trái tim sẻ
chia, bằng cái nắm tay thấu hiểu, hay có thể bằng một giọt nước mắt. Để kéo những trái tim
về gần với nhau. Để biến “nhà” thành một nơi ta phải luyến tiếc khi rời xa và mong mỏi quay
về”.
(Trích “Nếu biết trăm năm là hữu hạn” – Phạm Lữ Ân, NXB Hội Nhà văn, 2020, Tr. 15)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2. Theo đoạn trích, chúng ta phải làm gì để thiết lập sự bình yên cho gia đình?
Câu 3. Theo anh (chị), vì sao tác giả cho rằng: “Sự bình yên của nhà không phải là điều có
sẵn”?
Câu 4. Anh (chị) có đồng tình với ý kiến sau không: “Tôi tin rằng, mái nhà nào cũng từng có
lúc đồng nghĩa với niềm vui và có cả sự bình yên”? Vì sao?
II. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI (đoạn văn 200 chữ)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc – hiểu, anh (chị) hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày những điều cần làm để gia đình luôn được bình yên.
BÀI LÀM
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 120
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 121
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
NỘI DUNG ĐỀ 8
I. PHẦN ĐỌC – HIỂU
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Em thanh xuân như ngày xưa của anh
dưới sân trường có một viên sỏi xanh rất nhỏ
anh cất dấu tuổi trẻ mình ở đó

… Tuổi trẻ anh áo nâu, chân đất


bữa cháo, bữa khoai, đi cày và đi học
bụng cồn cào con chữ chạy xiêu xiêu

… Chiến tranh đi qua – thời trai anh đi qua


những ngả đường đạn bom mịt mù thăm thẳm lắm
về lại trường xưa tìm lại chút ngày xưa

Sẽ còn mãi những gì không thể mất


em vô tư đâu có thấy anh nhìn
kỉ niệm anh chìm lấp dưới chân em

Em có bắt được thì cho anh xin


anh ngắm lại chứ không sao lấy lại
mảnh vụn thời gian chắp nối đời người…”
(Trích “Gởi về Lam Sơn”, trích “Mẹ và em”, Nguyễn Duy, NXB Thanh Hóa, 1987)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
Câu 2. Tác dụng của dấu gạch nối trong câu sau: “Chiến tranh đi qua – thời trai anh đi qua”?
Câu 3. Theo anh chị, hình ảnh viên sỏi xanh trong sân trường cất dấu cho tác giả điều gì của
tuổi trẻ?
Câu 4. Anh (chị) suy nghĩ gì về ý thơ kỉ niệm thời gian là thứ để “ngắm lại” chứ không phải
để “lấy lại”?
II. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI (đoạn văn 200 chữ)
Từ nội dung phần Đọc – hiểu, anh (chị) hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) về ý nghĩa
của những kí ức đẹp đẽ trong tạo nên giá trị sống của đời người.
BÀI LÀM
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 122
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 123
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
NỘI DUNG ĐỀ 9
I. PHẦN ĐỌC – HIỂU
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Bài học về việc đón nhận thành công luôn thật dễ hiểu và dễ thực hiện. Nhưng đối mặt với
thất bại, nhất là thất bại đầu đời, lại là điều không hề dễ dàng. Với tất cả mọi người, thất bại -
nhất là thất bại trong các mối quan hệ - thường vẫn tạo ra những tổn thương sâu sắc. Điều này
càng trở nên nặng nề đối với các bạn trẻ. Nhưng bạn có biết rằng tất cả chúng ta đều có quyền
được khóc? Vậy nên nếu bạn đang cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng thì hãy cho phép mình được
khóc. Hãy để những giọt nước mắt ấm nồng xoa dịu trái tim đang thổn thức của bạn. Và hãy
tin rằng ở đâu đó, có một người nào đó vẫn đang sẵn lòng kề vai cho bạn tựa, muốn được ôm
bạn vào lòng và lau khô những giọt nước mắt của bạn... Muốn nhìn thấy cầu vồng, ta phải đi
qua cơn mưa... Vì thế, hãy tin ngày mai nắng sẽ lên, và cuộc đời lại sẽ ươm hồng những ước
mơ của bạn, một khi bạn còn giữ trong lòng ánh sáng của niềm tin”.
(Theo “Hạt giống tâm hồn dành cho tuổi teen”, Tập 2 – Nhiều tác giả,
NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2012, Tr. 2)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2. Theo tác giả, điều gì có thể giúp con người đứng lên sau thất bại?
Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng biện pháp tu từ trong câu sau: “Muốn nhìn thấy cầu vồng, ta
phải đi qua cơn mưa…”.
Câu 4. Anh (chị) có đồng ý với ý kiến sau không: “Hãy tin ngày mai nắng sẽ lên, và cuộc đời
lại sẽ ươm hồng những ước mơ của bạn, một khi bạn còn giữ trong lòng ánh sáng của niềm
tin”? Vì sao?
II. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI (đoạn văn 200 chữ)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc – hiểu, anh (chị) hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày quan điểm về cách ứng xử khi gặp thất bại trong cuộc sống.
BÀI LÀM
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 124
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 125
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
NỘI DUNG ĐỀ 10
I. PHẦN ĐỌC – HIỂU
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Hành trình đến bất cứ kết quả nào – dù là một kĩ năng tuyệt vời hay một cách sống tốt đẹp –
cũng quan trọng ngang bằng với đích đến của nó (nếu không nói là quan trọng hơn). Có một
điều tôi mong bạn hãy suy ngẫm: hành trình leo núi ban tặng nhiều giá trị và phần thưởng
hơn việc đến được đỉnh núi. Tại sao? ‌Bởi vì chính cuộc hành trình sẽ hình thành cá tính, tạo
cơ hội để bạn nhận ra tiềm năng của mình và kiểm tra xem bạn thực sự muốn chiến đấu đến
đâu. Chính hành trình mới dạy bạn, biến đổi bạn, và kêu gọi tài năng ẩn náu trong con người
bạn. Bạn phải phát huy những phẩm chất của một người xuất sắc, như sự kiên định, dẻo dai,
trắc ẩn, hiểu biết. Tất nhiên, đạt tới ước mơ sẽ đem lại cảm giác tuyệt vời. Tôi luôn đồng ý
như vậy. Nhưng nó không mang lại những quà tặng tương tự như những gì bạn nhận được
qua cuộc hành trình. Trong thử thách, ta học hỏi được nhiều hơn lúc thành công”.
(‌“Đời ngắn đừng ngủ dài”‌, Robin Sharma, NXB Trẻ, 2018)
Câu 1‌. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản.
Câu 2‌. Theo tác giả, hành trình khiến bạn phải phát huy những phẩm chất nào?
Câu 3‌. Vì sao tác giả cho rằng: “Hành trình đến bất cứ kết quả nào – dù là một kĩ năng tuyệt
vời hay một cách sống tốt đẹp – cũng quan trọng ngang bằng với đích đến của nó”?
Câu 4‌. Anh (chị) có đồng tình với ý kiến sau của tác giả không: “Trong thử thách, ta học hỏi
được nhiều hơn lúc thành công”? Vì sao?
II. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI (đoạn văn 200 chữ)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc – hiểu, anh (chị) hãy viết một đoạn văn (‌khoảng 200 chữ‌)
về tầm quan trọng của sự trải nghiệm trong cuộc sống của mỗi người.
BÀI LÀM
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 126
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 127
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
NỘI DUNG ĐỀ 11
I. PHẦN ĐỌC – HIỂU
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Con‌‌bị‌‌thương,‌‌nằm‌‌lại‌‌một‌‌mùa‌‌mưa‌ ‌
Nhớ‌‌dáng‌‌mẹ‌‌ân‌‌cần‌‌mà‌‌lặng‌‌lẽ‌ ‌
Nhà‌‌yên‌‌ắng,‌‌tiếng‌‌chân‌‌đi‌‌rất‌‌nhẹ,‌ ‌
Gió‌‌từng‌‌hồi‌‌trên‌‌mái‌‌lá‌‌ùa‌‌qua.‌ ‌

Nhớ‌‌vườn‌‌cây‌‌che‌‌bóng‌‌kín‌‌sau‌‌nhà‌ ‌
Trái‌‌chín‌‌rụng‌s‌ uốt‌‌mùa‌‌thu‌‌lộp‌‌độp‌ ‌
Những‌‌dãy‌‌bưởi‌‌sai,‌‌những‌‌hàng‌‌khế‌‌ngọt,‌ ‌
Nhãn‌‌đầu‌‌mùa,‌‌chim‌‌đến‌‌bói‌‌lao‌‌xao…‌ ‌

Con‌‌xót‌‌lòng,‌‌mẹ‌‌hái‌‌trái‌‌bưởi‌‌đào‌ ‌
Con‌‌nhạt‌‌miệng,‌‌có‌‌canh‌‌tôm‌‌nấu‌‌khế‌ ‌
Khoai‌‌nướng,‌‌ngô‌‌bung,‌‌ngọt‌‌long‌‌đến‌‌thế‌ ‌
Mỗi‌‌ban‌‌mai‌‌tỏa‌‌khói‌‌ấm‌‌trong‌‌nhà.‌ ‌

Ba‌‌con‌‌đầu‌‌đi‌‌chiến‌‌đấu‌‌nơi‌‌xa‌ ‌
Tình‌‌máu‌‌mủ‌‌mẹ‌‌dồn‌‌con‌‌hết‌‌cả‌ ‌
Con‌‌nói‌‌mớ‌‌những‌‌núi‌‌rừng‌‌xa‌‌lạ‌ ‌
Tình‌‌ra‌‌rồi,‌‌có‌‌mẹ,‌‌hóa‌‌thành‌‌quê!‌”.
(“Mẹ”,‌‌Bằng‌‌Việt)‌ 
Câu‌‌1.‌‌X ‌ ác‌‌định‌‌phương‌‌thức‌‌biểu‌‌đạt‌‌của‌‌văn‌‌bản.‌ ‌
Câu‌ ‌2.‌ ‌Trong‌ ‌đoạn‌ ‌trích‌ ‌có‌ ‌rất‌ ‌nhiều‌ ‌kỉ‌ ‌niệm‌ ‌được‌ ‌nhắc‌ ‌đến.‌ ‌Hãy‌ ‌chỉ‌ ‌ra‌ ‌những‌ ‌kỉ‌ ‌niệm‌‌đó.
Câu‌‌3.‌‌V ‌ ẻ‌‌đẹp‌‌của‌‌mẹ‌‌được‌‌miêu‌‌tả‌‌như‌‌thế‌‌nào‌‌trong‌‌đoạn‌‌trích‌‌trên?‌
Câu 4. Anh (chị) ‌hãy‌ ‌nhận‌ ‌xét‌ ‌về‌ ‌tình‌ ‌cảm‌ ‌của‌ ‌tác‌ ‌giả‌ ‌đối‌ ‌với‌ ‌mẹ‌ ‌được‌ ‌thể‌ ‌hiện‌ ‌trong‌ ‌đoạn
trích.‌
II. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI (đoạn văn 200 chữ)
Từ‌ ‌nội‌ ‌dung‌ ‌đoạn‌ ‌trích‌ ‌ở‌ ‌phần‌ Đ ‌ ọc‌ ‌– hiểu,‌ ‌anh‌(‌chị)‌ ‌hãy‌ ‌viết‌ ‌một‌ ‌đoạn‌ ‌văn‌ ‌(khoảng‌ ‌200‌ ‌
chữ‌) ‌trình‌ ‌bày‌ s‌ uy‌ ‌nghĩ‌ ‌về‌ ‌ý‌ ‌nghĩa‌ ‌của‌ ‌việc‌ ‌cần‌ ‌trân‌ ‌quý‌ ‌những‌ ‌gì‌ ‌đang‌ ‌có‌ ‌trong‌ ‌cuộc‌ s‌ ống‌ ‌
con‌‌người.‌ ‌
BÀI LÀM
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 128
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 129
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
NỘI DUNG ĐỀ 12
I. PHẦN ĐỌC – HIỂU
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Trong quá trình tiến hóa, con người đã tìm ra những điều kiện cần thiết giúp cho bản năng
được thuần phục để vươn tới hạnh phúc. Ta gọi đó là những nguyên tắc sống.  
Bản năng của con người vốn hướng tới sự hưởng thụ – yêu thích cảm xúc tốt và tránh né cảm
xúc xấu. Nhưng nếu muốn đạt tới giá trị bình an và hạnh phúc bền vững, thì ta cần phải thực
tập buông bỏ những cảm xúc tốt không cần thiết và chấp nhận những cảm xúc xẩu cần thiết.
Những điều không cần thiết thường được gọi là những điều không nên làm, và những điều
cần thiết thường được gọi là những điều nên làm. Đó là những trải nghiệm quý báu mà nhiều
thế hệ trước đã phải trả những cái giá rất đắt mới đúc kết được. Đi theo những nguyên tắc ấy,
tuy không được sống theo sự tùy hứng thoải mái của mình, nhưng ta sẽ đỡ mất thêm thời gian
và năng lực để thử nghiệm. Nhất là ta có thể tránh được những lầm lỡ đáng tiếc. Chính vì thế,
những ai sống theo nguyên tắc đúng đắn thì họ sẽ luôn được bảo hộ một cách an toàn và luôn
mạnh dạn đi tới.  
Nguyên tắc còn có tác dụng tạo nên sự hòa điệu giữa nhiều cá thể. Vì mỗi người vốn sở hữu
một nhận thức và tập quán sống khác nhau. Nhất là tâm tinh con người cũng thường xuyên
biến đổi, nên phải cần có những nguyên tắc để quy định mức cân bằng cảm xúc. Thật ra, chỉ
cần ta sinh hoạt hay sống chung với một người nữa là phải có những nguyên tắc cần thiết, để
bên này không vô tình vượt qua ranh giới đã quy định của bên kia. Bên kia dù thân thích hay
yêu thương ta tới mức nào thì rốt cuộc họ cũng chẳng phải là ta. Họ có những nhu cầu nhất
định mà ta bắt buộc phải tôn trọng. Như vậy, số người sinh hoạt chung với nhau càng đông,
sự khác biệt giữa nhận thức và tập quán sống càng lớn, thì số lượng các nguyên tắc càng phải
tăng lên và trở thành tiếng nói chuẩn mực của đoàn thể. 
Có những nguyên tắc được ghi chép và có ngày ban hành hẳn hoi, nhưng cũng có những
nguyên tắc “bất  thành văn”. Vì điều này còn phụ thuộc vào nhu cầu sinh hoạt của các cá thể
và mức độ ý thức tôn trọng lẫn nhau. Cho nên nguyên tắc phải thường xuyên thay đổi cho
phù hợp với trình độ nhận thức không ngừng tiến bộ của con người. Có thể nói, nguyên tắc là
thước đo kỉ luật của con người. Người sống nguyên tắc là người có bản lĩnh, dám tự đặt mình
vào những khuôn khổ đúng đắn để vươn tới chân thiện – mĩ...”.  
(Trích “Hiểu về trái tim”, Minh Niệm,
NXB tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2020, Tr. 223 – 224).
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích. 
Câu 2. Theo tác giả, vì sao cuộc sống cần có những nguyên tắc?
Câu 3. Anh (chị) hiểu như thế nào về ý kiến sau: “Nguyên tắc là thước đo kỉ luật của con
người”?
Câu 4. Anh (chị) có đồng tình với quan điểm sau của tác giả không: “Người sống nguyên tắc
là người có bản lĩnh, cần tự đặt mình vào những khuôn khổ đúng đắn để vươn tới chân thiện
– mĩ”? Vì sao?
II. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI (đoạn văn 200 chữ)
Từ nội dung của văn bản ở phần Đọc – hiểu, anh (chị) hãy viết một đoạn văn (khoảng 200
chữ) trình bày suy nghĩ về những điều “không nên làm” đối với mỗi người trong cuộc sống.

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 130
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

BÀI LÀM
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 131
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 132
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT & Tuyển sinh vào ĐH-CĐ 2022 môn Ngữ văn

……………………………………………………………………………………......................
……………………………………………………………………………………......................

Sưu tầm – Tổng hợp & Biên soạn: Phạm Thanh Trí Trang 133

You might also like