You are on page 1of 12

TÂY TIẾN

_ Quang Dũng _
I. TIỂU DẪN:
1. Tác giả:
- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Với tài năng của một
họa sĩ, ông đã viết nên những vần thơ giàu tính tạo hình. Mỗi câu thơ của ông đều được nhìn như một
bức tranh với đầy đủ các đường nét, gam màu. Ngoài ra, với năng khiếu âm nhạc, Quang Dũng rất
thành công trong việc tạo giai điệu cho thơ.
- Hồn thơ Quang Dũng phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa – đặc biệt khi ông viết về người
lính Tây Tiến. Bởi lẽ, Quang Dũng là nhà thơ từng khoác áo lính nên ông hiểu cuộc sống và tình cảm
của đối tượng ấy một cách cặn kẽ. Khi viết về người lính, nhà thơ như viết về chính mình và đồng đội
của mình. Đó là lí do tại sao những vần thơ của Quang Dũng vừa chân thật, vừa xúc động lòng người.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Đoàn Quân Tây Tiến:
+ Quá trình thành lập: Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở
Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam. Sau một thời gian hoạt động ở Lào, đoàn quân Tây Tiến trở về
Hòa Bình thành lập trung đoàn 52.
+ Địa bàn hoạt động: khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây
Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào). Những nơi này lúc đó còn rất hoang vu, hiểm trở, núi cao, sông
sâu, rừng rậm, có nhiều thú dữ.
+ Đặc điểm: những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp
khác nhau, trong đó, có cả những sinh viên, học sinh. Sinh hoạt của người lính Tây Tiến hết sức gian
khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn vì đánh trận. Tuy vậy, họ vẫn sống lạc
quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh
sống cực kì gian khổ, thiếu thốn, họ vẫn giữ được cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất
lãng mạn.
- Hoàn cảnh sáng tác:
+ Cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến với chức vụ đại đội
trưởng.
+ Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Một buổi chiều, ở Phù Lưu Chanh
(Hà Đông cũ), nỗi nhớ về Tây Tiến trào dâng và bài thơ Nhớ Tây Tiến ra đời.
+ Bài thơ được in trong tập Mây đầu ô (1986).
b. Tựa đề bài thơ:
- Bài thơ ban đầu có tên Nhớ Tây Tiến, sau này, khi in lại, Quang Dũng đã bỏ chữ nhớ vì nhà thơ
nhận thấy cả tác phẩm đã tràn ngập nỗi nhớ, nên chỉ cần hai tiếng Tây Tiến là đủ.
c. Bố cục và Mạch cảm xúc của bài thơ:
- Đoạn 1: Quang Dũng nhớ về con đường hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến trên cái nền
thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, khắc nghiệt nhưng không kém phần thơ mộng, lãng mạn.
- Đoạn 2: Quang Dũng nhớ đến những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh
huyền ảo của sông nước miền Tây Bắc.
- Đoạn 3: Chân dung lãng mạn, bi tráng của người lính Tây Tiến qua hồi tưởng của Quang Dũng.
- Đoạn 4: Lời thề gắn bó với Tây Tiến của người lính.
 Mạch cảm xúc liên kết toàn bài thơ là nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt của cái tôi trữ tình về Tây Tiến.
Tình cảm của Quang Dũng như những con sóng tuôn trào, dâng lên từ đợt này đến đợt khác. Do đó,
toàn bài thơ là dòng hồi tưởng, nhớ nhung, kí ức này gợi lên kí ức khác, kỉ niệm này khơi lên kỉ niệm
kia. Ngòi bút tinh tế và tài hoa của Quang Dũng đã làm cho những kí ức ấy trở nên sống động và
người đọc có cảm tưởng đang sống cùng nhà thơ trong những hồi tưởng ấy.
d. Ý nghĩa văn bản (Chủ đề):
- Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi
rừng miền tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ.
- Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng, hào hoa, đậm chất bi tráng.
e. Nghệ thuật:
1
- Cảm hứng và bút pháp lãng mạn trên cơ sở hiện thực.
- Cách sử dụng ngôn từ đặc sắc (từ chỉ địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt)
- Kết hợp chất nhạc và chất hội họa.
II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN:
1. Đoạn 1:
 Hai câu thơ đầu - khúc dạo đầu của nỗi nhớ nhung: Dù chỉ hơn một năm sống ở binh đoàn Tây
Tiến nhưng những tháng ngày gian lao mà anh dũng ấy đã để lại trong lòng Quang Dũng nhiều kỉ
niệm khó phai. Vì vậy, khi nỗi nhớ trào dâng thì cảm hứng thơ xuất hiện:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Hai câu thơ đầu đã gợi lên cảm xúc chủ đạo, xuyên suốt bài thơ: một nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả
không gian và thời gian.
- Câu thơ đầu chia thành 2 vế trong nhịp ngắt 4/3 với sự hiện diện của cả miền Tây và binh đoàn
Tây Tiến: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
+ Sông Mã là dòng sông chảy dọc theo địa bàn biên giới Việt – Lào thuộc các tỉnh Mộc Châu,
Sầm Nưa, Mai Châu, Quan Hóa. Đây là dòng sông nhiều ghềnh thác, đổ dốc dữ dội, một mình băng
băng giữa núi rừng hùng vĩ, hai bên bờ sông còn rải rác mồ chiến sĩ Tây Tiến. Vì thế, sông Mã vừa là
một cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, vừa là hình ảnh của vùng đất miền Tây; sông Mã còn là dòng sông
gắn liền với chặng đường hành quân của trung đoàn, từng chứng kiến và chia sẻ những buồn vui,
những mất mát, hi sinh, từng gầm lên khúc độc hành tiễn đưa tử sĩ. Sông Mã đựng đầy kỉ niệm về
trung đoàn Tây Tiến năm xưa.
+ Bài thơ được viết khi Quang Dũng đang ở Phù Lưu Chanh, xa trung đoàn, xa đồng đội, xa
núi rừng miền Tây và dòng sông Mã thân yêu. Nhịp 4/3 với dấu ngắt giữa dòng tạo cảm giác như có
một phút ngừng lặng để nhận ra sự trống trải mênh mông trong thực tại bởi sông Mã xa rồi, để sau
đó, hiện tại mờ đi, nỗi nhớ ùa vào trong tiếng gọi tha thiết hướng về quá khứ Tây Tiến ơi!
+ Ba tiếng Tây Tiến ơi diễn tả cảm xúc tuôn trào mãnh liệt: nỗi nhớ đơn vị cũ không kìm nén
được, bật lên thành tiếng gọi. Thán từ ơi! khiến sông Mã, Tây Tiến trở nên có linh hồn. Quang Dũng
đã lướt qua khoảng cách của không gian và thời gian để gọi Tây Tiến trong kỉ niệm, cũng là để đối
diện với đồng đội và với chính mình.
+ Tiếng gọi không dừng lại trong câu 1 mà như được ngân nga tiếp nối trong những vần ơi
của từ láy chơi vơi ở câu 2 – phép điệp vần tinh tế khiến tiếng gọi như âm vang, đập vào vách đá, dội
vào lòng người, da diết, bâng khuâng.
- Sau tiếng gọi ấy, nỗi nhớ ào ạt trào dâng trong câu thơ tiếp: Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
+ Điệp từ nhớ được lặp lại hai lần ở đầu hai vế câu diễn tả nỗi nhớ day dứt, miên man, ám
ảnh, không thể nguôi ngoai và tình yêu thương mãnh liệt mà tác giả dành cho binh đoàn Tây Tiến.
+ Vế đầu xác định đối tượng của nỗi nhớ: nhớ về rừng núi. Đó là không gian mênh mông của
miền Tây với những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông,... những địa danh vừa gợi lên kỉ
niệm về con đường hành quân gian truân vất vả, vừa gây ấn tượng mạnh mẽ về miền đất heo hút,
hoang sơ. Và vì thế, nỗi nhớ không chỉ dừng lại ở rừng núi miền Tây, nỗi nhớ còn hướng về những
năm tháng quá khứ đầy kỉ niệm và những đồng đội thân yêu nay kẻ còn người mất.
+ Vế sau câu thơ dành để miêu tả sắc thái của nỗi nhớ: nhớ chơi vơi. Chơi vơi là từ láy vần với
hai thanh không, gợi độ cao phiêu du, bay bổng, là một từ láy thật phù hợp để miêu tả nỗi nhớ hướng
về vùng núi cao miền Tây. Hơn nữa, từ láy ấy còn gợi cảm giác về một nỗi nhớ vô hình, vô lượng,
không thể đo đếm, một nỗi nhớ mơ hồ, đầy ám ảnh, một nỗi nhớ lơ lửng, ăm ắp, khôn nguôi, không
mất đi mà trở thành nỗi thao thức, xao xuyến, bồi hồi, rung động, da diết yêu thương. (Nỗi nhớ ấy
khơi nguồn cho những cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày,… liên tiếp xuất hiện ở những câu
thơ sau).
 Hai câu thơ đầu đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ, cũng là của cả bài thơ, đó là nỗi nhớ
tha thiết của người cựu chiến binh Tây Tiến hướng về miền Tây, trung đoàn Tây Tiến và những năm
tháng quá khứ không thể nào quên.
 Nỗi nhớ hướng về những kỉ niệm với thiên nhiên và con người trên chặng đường hành quân
của đoàn quân Tây Tiến (Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc - Con đường hành quân của binh
đoàn Tây Tiến): Thông qua những nét vẽ tài hoa, vừa chân thực vừa thấm đẫm chất lãng mạn,

2
Quang Dũng đã làm hiện lên bức tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, heo hút, hiểm trở nhưng cũng
mĩ lệ, thơ mộng và xiết bao kì thú.
 Thiên nhiên hùng vĩ, khắc nghiệt, dữ dội (Con đường hành quân gian khổ):
- Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi: Nét đặc sắc đầu tiên của thiên nhiên miền Tây trong kí ức của
Quang Dũng chính là màn sương rừng mờ ảo: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi. Câu thơ gợi lên
cái ẩm, cái lạnh của sương muối nơi núi rừng Tây Bắc.
+ Nhịp ngắt 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào chữ lấp – một động từ có sức gợi tả màn
sương rừng miền Tây mênh mông, dày đặc che kín cả một đoàn quân, trùm phủ, khuất mờ cả rừng
núi khiến con đường hành quân của các chiến sĩ thêm vất vả, gian nan.
+ Nếu bỏ đi chữ mỏi ở cuối câu, Quang Dũng như vẽ lên trước mắt người đọc một bức tranh
lãng mạn (đoàn quân thấp thoáng, ẩn hiện trong làn sương khói huyền ảo). Nhưng chữ mỏi đã kéo
câu thơ về với hiện thực chiến tranh. Con đường hành quân thật gian khổ vì thời tiết khắc nghiệt. Tác
giả không che giấu sự mỏi mệt của người lính, họ mỏi mệt một phần vì bụi bặm đường xa, một phần
vì sương muối nặng nề.
- Nhớ đến miền Tây, không thể nào quên sự hiểm trở và hùng vĩ vô cùng của dốc núi. Ba câu thơ
tiếp theo đã miêu tả sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hiểm trở ấy, qua đó làm hiện lên cuộc
hành quân gian lao, vất vả, ý chí bất khuất, kiên cường và tinh thần lạc quan, yêu đời của người lính
Tây Tiến:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
+ Đây là những câu thơ giàu giá trị tạo hình, là một bằng chứng trong thơ có họa (thi trung
hữu họa). Khi đọc lên, ta có thể hình dung địa hình cực kì hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút
của núi rừng miền Tây – địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến: Dốc lên quanh co, ngoằn ngoèo,
cao vút, tưởng như đang đi trong mây, mũi súng chạm được đỉnh trời; lúc xuống, dốc đổ thẳng đứng
càng đáng sợ hơn. Đặc biệt, câu thơ thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như
thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.
+ Ba từ láy tượng hình khúc khuỷu, heo hút, thăm thẳm đã được tác giả sử dụng một cách hiệu
quả và đặc sắc để diễn tả sự hiểm trở, trùng điệp, độ cao ngất trời và độ sâu hun hút của núi đèo miền
Tây:
 khúc khuỷu: gập ghềnh, trắc trở, gian nan
 thăm thẳm: gây ấn tượng về độ sâu hoặc vực sâu (có thể dốc lên quá dài, hoặc cũng có
thể là dốc xuống theo kiểu ngàn thước xuống)
 heo hút: gợi cảnh hoang vu của núi rừng
+ Thanh trắc, ngắt nhịp 4/3: vừa thể hiện con đường chông gai người lính phải trải qua, vừa
thể hiện nhịp thở nặng nhọc của họ trên những con đường ấy.
+ Điệp từ dốc, ngàn thước, nghệ thuật đối nhấn mạnh, tô đậm sự hùng vĩ, hiểm trở trên con
đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến.
(Sự trùng điệp của núi đèo miền Tây trong bài thơ Tây Tiến làm gợi nhớ đến mấy câu thơ trong
Chinh phụ ngâm: “Hình khe thế núi xa gần – Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”. Còn sự hoang vu,
hiểm trở của nó lại gợi nhớ tới câu thơ trong bài Thục đạo nan (Đường Thục khó) của Lý Bạch:
“Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh” (Thục đạo chi nan, nan vu thướng thanh thiên).
- Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
+ Không chỉ mở ra theo chiều không gian, hình ảnh núi rừng Tây Bắc còn tiếp tục được khám
phá ở chiều thời gian: chiều – thác gầm thét; đêm – cọp trêu người gợi tới sự đe dọa của núi rừng bí
ẩn. Với biện pháp nhân hóa, tác giả Quang Dũng cho thấy con đường hành quân của lính Tây Tiến
không chỉ gian khổ mà còn hết sức nguy hiểm, đầy đe dọa.
+ (Hình ảnh thơ và cảm xúc có gì đó phảng phất bài Nhớ rừng của Thế Lữ. Nhưng đây là thác
thật, gầm thét thật, cọp thật ở Mường Hịch đêm đêm thường ngồi chồm chỗm theo dõi đoàn quân đi).
 Thiên nhiên mĩ lệ, nên thơ, lãng mạn (Con đường hành quân thơ mộng): Bên cạnh những
nét gân guốc, dữ dội, thiên nhiên Tây Bắc còn có những không gian tuyệt vời để người lính Tây Tiến
có giây phút thảnh thơi tâm hồn. Lính Tây Tiến phần đông là trí thức, thanh niên Hà Nội, tâm hồn
lãng mạn nên say sưa với vẻ đẹp hoang dã, thơ mộng của núi rừng.
3
- Mường Lát hoa về trong đêm hơi
+ Câu thơ vẽ lên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp với hình ảnh hoa lồng trong sương. Với thủ
pháp nhân hóa, Quang Dũng cho người đọc cảm nhận được hương thơm núi rừng đang giăng mắc
trong màn đêm. Một không gian thật lãng mạn, thơ mộng.
- Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
+ Câu thơ mở ra một không gian xa, rộng ở bên dưới tầm mắt. Trong màn mưa phủ khắp đất
trời, thấp thoáng hiện ra vài đốm nhà, như bồng bềnh trên một biển mưa giăng khắp núi rừng.
+ Câu thơ với toàn thanh bằng, vần ơi gợi cảm giác bồng bềnh, góp phần lột tả một bức tranh
thiên nhiên đẹp dịu dàng, với những đường nét êm ái.
+ Hình ảnh nhà ai thấp thoáng trong làn mưa nhẹ là biểu hiện sinh động cho cuộc sống con
người Tây Bắc. Nó gợi lên cảm giác ấm cúng, bình yên.
- Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
+ Kết thúc đoạn thơ, Quang Dũng một lần nữa nhắc đến cảm xúc chủ đạo nhớ, một lần nữa
gọi tên Tây Tiến. Câu thơ đầy cảm xúc, những hình ảnh giản dị, đời thường hiện lên thật sống động.
+ Mùa em: là một kết hợp từ độc đáo – gợi một mùa đẹp – mùa của yêu thương, bình yên,
thân thuộc, đầm ấm, của nỗi nhớ và kỉ niệm.
+ Dư vị đọng lại trong lòng người lính là hương thơm nếp xôi của các em gái Mai Châu từng
Uý lạo (thăm hỏi, an ủi (bằng lời nói, vật phẩm) những người vì sự nghiệp chung mà chịu mất mát
hoặc vất vả, khó nhọc) bộ đội hành quân qua bản mình. Lại nhớ câu thơ của Chế Lan Viên: Anh nắm
tay em cuối mùa chiến dịch – Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng – Đất Tây Bắc tháng ngày không
có lịch – Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương – Tiếng hát con tàu.
 Hai câu thơ tạo cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc bước sang đoạn thơ thứ
hai.
 Hình ảnh người lính Tây Tiến trên con đường hành quân:
- Đoàn quân mỏi: Tác giả không che giấu sự mỏi mệt của người lính, họ mỏi mệt một phần vì bụi
bặm đường xa, một phần vì sương muối nặng nề.
- Súng ngửi trời: là cách nói (độc đáo, in đậm dấu ấn sáng tạo của Quang Dũng) tinh nghịch, cho ta
thấy được phẩm chất của người lính Tây Tiến: hóm hỉnh, vui đùa. Mặt khác, đó còn là cách nói miêu
tả, tôn vinh hình ảnh người lính cao lớn, đẹp đẽ, hiên ngang vì chinh phục được những con dốc cao,
có mặt ở những nơi cao nhất, nguy hiểm nhất.
- Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
+ Hai câu thơ khá độc đáo vì gợi ra nhiều suy nghĩ. Có người cho rằng Quang Dũng miêu tả
cái chết của người lính Tây Tiến sau khi đã kiệt sức giữa chặng đường hành quân. Song cũng có
người cho rằng, đây chỉ là khoảnh khắc mệt mỏi, kiệt sức với những giây phút thiếp đi của người lính
giữa chặng đường hành quân, là giờ phút nghỉ ngơi để chuẩn bị tinh thần cho chặng đường kế tiếp.
Dù là cách hiểu nào thì cũng đều nói lên sự gian khổ, khắc nghiệt của những cuộc hành quân, đều thể
hiện phong cách khinh bạc, vẻ đẹp ngang tàng bỏ quên đời của người lính Tây Tiến khi đối diện với
hiện thực gian khổ của con đường hành quân.
+ Cảm hứng lãng mạn của Quang Dũng không hề bỏ qua sự khốc liệt của hiện thực, không thi
vị, không cường điệu. Nhà thơ miêu tả rất chân thực, chân thực mà không bi lụy.
- Tài tình là sự đan xen giữa những câu thơ gân guốc, mạnh mẽ với những câu thơ mềm mại, dịu
dàng. Vậy là giữa gian khổ, người lính Tây Tiến vẫn tìm được chất thơ của cuộc sống. Trước thiên
nhiên Tây Bắc thơ mộng, tâm hồn họ càng trở nên lãng mạn, phong phú hơn.
 Đánh giá:
- Thiên nhiên khắc nghiệt mà hùng vĩ, thơ mộng mà gợi cảm.
- Người lính hào hùng, hào hoa, lãng mạn.
 Nghệ thuật:
- Bút pháp lãng mạn kết hợp với bút pháp hiện thực đã khắc họa rất chân thật con đường hành quân
gian khổ và vẻ đẹp của người lính Tây Tiến.
- Nghệ thuật tạo sự tương phản để người đọc cảm nhận được tận cùng. Vũ Quần Phương nhận xét:
“Bút pháp Quang Dũng thích tung hoành trong một biên độ rất rộng giữa những nét khỏe, dữ dằn và

4
những nét tinh vi, e ấp. Ở bài thơ “Tây Tiến”, bút pháp đó thật đắc dụng với những tập câu song
hành”.
- Cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh gây ấn tượng cho người đọc. (Thơ Quang Dũng là thơ của cảm xúc,
cảm giác, cho nên, đôi khi người đọc không cần phân tích mà tự thân câu chữ đã gợi rất nhiều. Hàng
loạt những từ địa danh được liệt kê bằng nghệ thuật đồng hiện gợi sự hấp dẫn của xứ lạ, phương xa,
một miền đất hoang sơ, nhuốm một vẻ huyền ảo. Hai tiếng Mường Hịch nghe như đe dọa, nhưng hai
tiếng Mai Châu đúng là thanh nhẹ như một mùi hương.
2. Đoạn 2:
 Đêm liên hoan đậm tình quân dân (4 câu đầu): Sau những vất vả đường dài hành quân, người
lính Tây Tiến được sống trong không khí vui vẻ của đêm liên hoan trên đất bạn Lào:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, âm thanh réo rắt của tiếng khèn, tiếng nhạc, cảnh vật và con
người như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực. Quang Dũng đã tái hiện một đêm liên hoan
thật huyền ảo, rộn rã, tưng bừng.
- Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa:
+ Động từ bừng diễn tả cảm xúc đột ngột, ngỡ ngàng, choáng ngợp và vui sướng của người
lính Tây Tiến. Họ được sống trong không gian lung linh ánh sáng, rực rỡ sắc màu, nhộn nhịp âm
thanh.
+ Ba chữ hội đuốc hoa vừa đa nghĩa, vừa tinh nghịch. Từ nghĩa tả thực - đuốc đốt để thắp
sáng trong đêm lửa trại, Quang Dũng liên tưởng một cách tình tứ thành đuốc hoa – ngọn đuốc thắp
trong đêm tân hôn. Có thể thấy, những chàng lính thật lãng mạn. Họ như đang sống trong tâm trạng
của một chàng rể mới. Vậy những cô dâu mới là ai? Câu thơ thứ hai Quang Dũng đã trả lời.
- Kìa em xiêm áo tự bao giờ:
Khèn lên man điệu nàng e ấp
+ Cụm từ Em xiêm áo – nàng e ấp: gợi hình ảnh những cô gái sơn cước xuất hiện bất ngờ
trong trang phục lộng lẫy, rực rỡ. Họ duyên dáng, quyến rũ, uyển chuyển trong điệu múa sinh động
và tiếng khèn âm vang.
+ Hô ngữ kìa em khiến ta có cảm giác như tác giả đang nói với cô gái trong thực tại, không
phải trong hoài niệm. Kí ức thật sống động.
+ Các cụm từ kìa em, tự bao giờ diễn tả thái độ của những chàng lính trẻ. Họ vừa ngạc nhiên,
ngỡ ngàng, vừa say sưa, đắm đuối trước cái lạ của xứ lạ: trang phục lạ - xiêm áo, vũ điệu lạ - man
điệu, cách giao tiếp lạ - e ấp. Tâm hồn của họ giàu mộng mơ, yêu đời.
- Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
+ Xây hồn thơ: Trong không khí tưng bừng, rộn rã, của đêm liên hoan, nét nhạc chơi vơi cùng
vũ điệu Lăm vông tình tứ của các cô gái Lào đã làm cho tâm hồn người lính Tây Tiến trở nên lãng
mạn, biến họ thành thi sĩ, bay bổng đến một vùng đất lạ.
 Tóm lại, với giọng điệu hiền hòa, êm ái, những chi tiết sống động, đoạn thơ đã gợi tả khung cảnh
đêm liên hoan ấm áp, thắm thiết tình quân dân. Người đọc như cảm nhận được tâm hồn hào hoa, lãng
mạn của người lính. Đằng sau những đêm liên hoan vui tươi náo nức chính là vẻ đẹp của nghĩa tình
quân dân ấm áp. Chính tình cảm ấy đã tiếp thêm cho người lính ý chí nghị lực niềm tin, đã trở thành
điểm tựa tinh thần để người lính có thể vượt qua mọi khó khăn gian khổ.
 Cảnh thơ mộng của sông nước miền Tây (4 câu sau): Nếu cảnh liên hoan đem đến cho người
đọc không khí mê say, tưng bừng thì bức tranh sông nước miền Tây gợi lên cảm giác mênh mang, mờ
ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng không miêu tả mà chỉ gợi. Không gian dòng sông trong một
buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên
dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình con người trên chiếc thuyền
5
độc mộc. Và như hòa hợp với con người, những bông hoa rừng của đong đưa làm duyên trên dòng
nước lũ. Cảnh vật hiện lên mơ hồ, lung linh, huyền ảo.
- Không gian - thời gian: là một buổi chiều sương bên một dòng sông. Không gian, thời gian ấy tạo
nên một vẻ đẹp bảng lảng, mơ hồ, đạm chất lãng mạn nhưng cũng thấm đượm một nỗi buồn man mác
bởi trong văn học buổi chiều chính là thời điểm để gợi buồn, gợi nhớ nhất; còn không gian bến sông
luôn là không gian quen thuộc của những buổi chia ly
- Thiên nhiên:
+ Ba chữ chiều sương ấy thật cô đọng, hàm súc. Cụm từ ấy gói trọn cả thời gian (chiều),
không gian (sương) và ấn tượng (ấy), vẽ lên một bức tranh mơ hồ, huyền ảo, như hư như thực.
+ Hồn lau – nẻo bến bờ gợi cảnh vật xa vời, mông lung, bàng bạc.
 Trong rất nhiều thiên nhiên cảnh vật của núi rừng Tây Bắc, Quang Dũng đặc biệt nặng
lòng với hình ảnh của những cây lau xào xạc, vi vút hai bên bờ sông. Điều đặc biệt là ở chỗ tác giả
không ghi lại dáng lau, hình lau mà ghi lại hồn lau.Ở hình ảnh này tác giả của Tây Tiến đã có sự gặp
gỡ với Chế Lan Viên khi Chế Lan Viên đã từng cảm nhận rất tinh tế:
Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng
 Hoa lau có màu xám trắng. Bông lau được tạo bởi muôn ngàn hạt nhỏ li ti nên chỉ cần
một chút gió nhẹ hoa cũng xao động, cả bờ lau đung đưa mềm mại. Sắc trắng của hoa lau trong chiều
sương nhạt nhòa mờ ảo, cái phất phơ của nhành lau trong xạc xào gió núi đã khiến rừng lau như có
hồn, như biết chia sẻ nỗi niềm với con người. Sự giao cảm ấy khiến nỗi nhớ càng mênh mông da diết.
 Khi đã xa miền Tây, câu hỏi có thấy hồn lau neo bến bờ càng làm xao xuyến lòng
người. Hoa lau thường mọc bên bờ sông, trên núi nơi vắng người qua lại. Trong những năm tháng
quá khứ, người chiến sĩ Tây Tiến hành quân giữa núi rừng miền Tây, bên dòng sông Mã, giữa phất
phơ ngàn lau, lau như linh hồn của rừng núi chia sẻ buồn vui với chiến sĩ trên đường hành quân. Nay
người đã đi xa, ngàn lau vẫn ở lại với mênh mông gió núi. Hình dung về những hàng lau cô đơn nơi
nẻo bến bờ khiến nỗi nhớ càng xao xác trong lòng người đã chia xa.
+ Hoa đong đưa trên dòng nước lũ: gợi khung cảnh hoang dại mà tình tứ. Những bông hoa
dập dềnh trên dòng nước lũ cũng quyến luyến, duyên dáng lạ thường (đong đưa chứ không phải đung
đưa – biện pháp nhân hóa), gợi liên tưởng thi vị về dáng vẻ dịu mềm, tình tứ của sơn nữ miền Tây.
Đó là một sáng tạo mới mẻ về ngôn từ, thể hiện chất lãng mạn rất đặc sắc của hồn thơ Quang Dũng.
- Con người: Nổi lên trên nền cảnh của bức tranh thiên nhiên thơ mộng là hình ảnh một dáng người
trên con thuyền độc mộc.
 Người đi – dáng người: gợi nên những ấn tượng trong kí ức
 Dáng người trên độc mộc: Hình ảnh con người trên chiếc thuyền độc mộc là ai – Thiếu
nữ Thái hay những chàng lính Tây Tiến? Dù hiểu theo cách nào thì hình ảnh con người hiện lên cũng
thật rắn rỏi, vững chãi. Hình ảnh ấy tạo thêm một nét khỏe khoắn cho bức tranh thiên nhiên. Con
người và thiên nhiên đẹp trong sự hài hòa.
- Âm điệu đoạn thơ man mác buồn.
- Nghệ thuật điệp cấu trúc có thấy – có nhớ: nhà thơ như tự hỏi lòng mình để khắc sâu thêm kỉ niệm.
 Tóm lại, với bút pháp lãng mạn và gợi tả, nhà thơ đã gợi tả được cảnh buổi chiều sương phủ trên
sông nước mênh mang với những nét vẽ mềm mại, tinh tế.
 Đánh giá:
- Đoạn thơ mở ra vẻ đẹp khác của thiên nhiên và con người nơi miền Tây: thiên nhiên mĩ lệ, mơ
màng, thơ mộng, trữ tình – tình quân dân thắm thiết, đậm đà.
- Người lính hào hoa, lãng mạn.
 Nghệ thuật:
- Bút pháp lãng mạn và gợi tả tài hoa.
- Ngôn ngữ tạo hình
- Giàu tính nhạc, chất thơ và chất nhạc hoà quyện, mà nói như Xuân Diệu là “đọc đoạn thơ này
người đọc như ngậm âm nhạc trong miệng”. Đó là nhạc của ngôn từ và phép điệp và lớp ngôn từ gợi
tả tinh tế. Ngoài ra, đó còn là nhạc của tâm hồn khi cảm xúc của tác giả trào dâng thành nỗi nhớ
nhung.
6
3. Đoạn 3: Hình ảnh người lính Tây Tiến: Nếu như ở hai đoạn trên, hình ảnh thiên nhiên vẫn
chiếm ưu thế so với hình ảnh con người, thì đến đoạn này, hình ảnh chân dung những người lính Tây
Tiến đã nổi bật lên ở vị trí trung tâm và được miêu tả trực tiếp bằng bút pháp lãng mạn nhưng không
thoát li hiện thực và với cảm xúc bi tráng.
 Bốn câu đầu:
 Chân dung ngoại hình:Bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ bằng những nét có vẻ phi
thường, khác lạ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
- Hai câu thơ có âm hưởng mạnh mẽ nhờ sử dụng những cách tạo từ ngữ mới mẻ và độc đáo:
+ Chữ đoàn binh có âm vang và mạnh hơn chữ đoàn quân.
+ Không mọc tóc:
 Trong ký ức của Quang Dũng, Tây Tiến là một đoàn binh không mọc tóc. Nét vẽ ngoại
hình này xuất phát từ một hiện thực trong cuộc sống của người lính Tây Tiến: họ phải cạo trọc đầu để
giảm bớt những bất tiện trong cuộc sống ở rừng hoặc tạo thuận lợi cho cách đánh cận chiến, cũng có
thể đó là hậu quả của những trận sốt rét liên miên nơi rừng thiêng nước độc. Dù hiểu theo cách nào,
đó cũng là hình ảnh gợi lên sự gian khổ, thiếu thốn, khắc nghiệt của chiến tranh.
 Nhưng với cách diễn đạt độc đáo của Quang Dũng, cũng như trong câu thơ anh bạn
dãi dầu không bước nữa, câu thơ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc đã chuyển hoàn toàn tình thế bị
động sang trạng thái chủ động. Người lính Tây Tiến vì thế hiện lên không tiều tụy, ốm yếu mà kiêu
dũng, ngang tàng. Hơn thế nữa, còn có thể coi hình ảnh đoàn binh không mọc tóc là một nét vẽ phi
thường làm đậm thêm cảm hứng lãng mạn cho hình tượng thơ.
+ Xanh màu lá: chân dung người lính Tây Tiến còn được vẽ tiếp trong nét ngoại hình đặc sắc
quân xanh màu lá dữ oai hùm.
 Có thể hiểu đây là màu xanh áo lính hay màu xanh của lá ngụy trang khiến cả đoàn
quân xanh màu lá.
 Nhưng theo mạch thơ, có lẽ nên hiểu đây là câu thơ miêu tả những gương mặt xanh
xao, gầy ốm vì sốt rét, vì cuộc sống kham khổ ở rừng. Có thể nhận ra cách diễn đạt tinh tế của Quang
Dũng khi nhà thơ miêu tả một đoàn quân xanh màu lá chứ không phải xanh xao. Người lính Tây Tiến
như hòa với thiên nhiên cây lá, gầy ốm mà vẫn trẻ trung, tràn đầy sức sống.
 Đoàn quân Tây Tiến hoạt động ở vùng núi rừng Tây Bắc. Theo lời kể của nhiều người, lính Tây
Tiến phải đối diện với hoàn cảnh hết sức khó khăn, gian khổ, Đó là căn bệnh sốt rét rừng, lại thêm
thiếu thuốc men, lương thực. Bởi thế, những chàng lính trẻ hiện lên với chân dung kì lạ: không mọc
tóc, làn da xanh màu lá. Qua cách miêu tả của Quang Dũng, người đọc nhìn thấy dấu vết khắc nghiệt
của chiến trường. Nhà thơ đã dùng cái nhìn hiện thực để miêu tả chân dung chàng lính trẻ. Quang
Dũng không che giấu cái gian khổ, ngược lại dũng cảm nhìn vào thực tế. Đó là lí do vì sao hình ảnh
người lính trong thơ ông hiện lên khá chân thật. Chúng ta cũng bắt gặp hình ảnh này trong bài thơ
Đồng chí của Chính Hữu:
Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi
Hay Tố Hữu trong bài thơ Cá nước:
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
- Có thể thấy không mọc tóc, quân xanh màu lá là cách diễn tả đẹp và thanh của cảm hứng lãng mạn
về một hiện thực thô ráp, nặng nề của chiến tranh. Và ngay trong vế sau của câu thơ đã là một tương
phản độc đáo giữa xanh màu lá với dữ oai hùm: Trên những gương mặt xanh xao, gầy ốm của người
lính vẫn toát lên nét dữ dội, kiêu hùng, vẻ uy nghi lẫm liệt tựa như những vị chúa tể rừng xanh. Cùng
với hình ảnh về một đoàn binh không mọc tóc, những gương mặt dữ oai hùm cũng là nét đặc sắc ấn
tượng của cảm hứng lãng mạn trong bức chân dung phi thường về người chiến binh Tây Tiến. Hình
ảnh ẩn dụ dữ oai hùm còn gợi liên tưởng tới cọp trêu người ở đoạn trên - một liên tưởng thú vị, trìu
mến, tự hào: dường như ở miền đất có bóng hổ rình rập, đe dọa với cọp trêu người thì người lính
cũng phải có oai hùm dữ dội uy nghi để chế ngự và chiến thắng.
 Quang Dũng không mô tả hiện thực trần trụi mà nhìn hiện thực qua lăng kính lãng mạn. Cho nên
đằng sau chân dung ngoại hình của người lính Tây Tiến, chúng ta bắt gặp tư thế coi thường gian khổ,
7
thái độ vượt lên những chướng ngại, thử thách. Hiện lên trên những câu thơ là phong thái hào hùng,
uy dũng dữ oai hùm của những chàng lính trẻ. Với giọng điệu mạnh mẽ, gân guốc, câu thơ tạo được
một hình ảnh mang vẻ hiên ngang, dữ dội, lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến.
 Chân dung tâm hồn:
- Có một thời, hai câu thơ trên bị xếp vào loại thơ ủy mị, yếu đuối (buồn rớt, mộng rớt, không phù
hợp với hoàn cảnh bấy giờ), thể hiện tình cảm trí thức tiểu tư sản, không đại diện cho số đông công –
nông. Quả thực, Quang Dũng có nói đến tình cảm lãng mạn của người lính. Bởi lẽ phần đông trong
số họ là những thanh niên trí thức Hà Nội, vừa rời trang sách là đến với cuộc chiến đấu lớn của dân
tộc. Do đó, tránh sao khỏi những giây phút mơ mộng, những khoảnh khắc rung cảm riêng tư. Quang
Dũng đã thành thật trong miêu tả thế giới nội tâm của những chàng lính Tây Tiến. Đây là những tình
cảm chân thật của người lính, thể hiện ước mơ cao đẹp và chân chính của con người về cuộc sống
hòa bình, hạnh phúc.
- Mắt trừng gửi mộng qua biên giới: Câu thơ có hai cách hiểu:
+ (nghĩa đen: nhìn trừng trừng trong đêm). Binh đoàn Tây Tiến có nhiệm vụ bảo vệ một địa
bàn rộng lớn, bao gồm lãnh thổ cả hai nước Việt – Lào nên hình ảnh mắt trừng gửi mộng trước hết là
cái nhìn thâu tóm và bao quát của người chiến binh hướng về tiền tuyến với giấc mộng chiến trường
không giới hạn. Cách miêu tả hành vi của người lính Tây Tiến qua sự nhấn mạnh động từ trừng gây
một ấn tượng đặc biệt, gợi nhiều vẻ đẹp. Đó là cặp mắt không chỉ thức để canh gác, mà còn chứa
đựng cái nhãn lực mạnh mẽ có thể thiêu cháy quân thù. Hơn thế, chứa đựng trong cái nhìn ấy còn có
những khát vọng về ý chí lập công vô cùng mãnh liệt của những người lính, tạo nên vẻ đẹp hào hùng.
+ (cách nói cường điệu của bút pháp lãng mạn: không ngủ được). Mắt trừng gợi đôi mắt chất
chứa suy tư, gửi ước mơ, hoài mộng về quê nhà. Đó là biểu hiện cho tâm trạng băn khoăn, trằn trọc,
khó ngủ vì nhớ quê, nhớ nhà, nhớ Hà Nội, nhớ người thương dáng kiều thơm. (hào hoa, lãng mạn)
- Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm
+ Dáng kiều thơm: gợi hình bóng những cô gái Hà thành yêu kiều, duyên dáng – đồng thời
còn gợi lên những giá trị văn hóa của vùng đất thủ đô.
+ Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút của Quang Dũng không phải là những người
khổng lồ không tim. Họ là những người có tâm hồn và tình cảm nên không thể thiếu nỗi nhớ về hậu
phương. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua vẻ dữ dằn, oai hùm
bề ngoài của họ là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương. Người lính Tây Tiến
mang nỗi nhớ về Hà Nội thanh lịch, ở đó có những cô gái yêu kiều, xinh đẹp.
- So sánh với nỗi nhớ trong Đồng chí, Nhớ Hồng Nguyên: Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng đã
khắc họa bao gương mặt nỗi nhớ như thế. Nỗi nhớ hậu phương của người lính ra đi từ nông thôn có
phần giản dị và thiết thực hơn. Người lính trong Đồng chí của Chính Hữu nhớ về gian nhà, ruộng
nương, giếng nước, gốc đa,…. Người lính trong Nhớ của Hồng Nguyên nhớ về người vợ trẻ:
Ba năm rồi gửi lại mái lều tranh
Luống cày đất đỏ
Tiếng mõ đêm trường
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya.
Nỗi nhớ hậu phương của người lính Tây Tiến có sự đồng điệu với nỗi nhớ của người lính trong Đất
nước của Nguyễn Đình Thi:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
Bởi họ đều là những trí thức Hà thành. Nhưng dù là nỗi nhớ của người lính nông thôn hay lính thành
thị thì cũng đều là nỗi nhớ của những tâm hồn luôn hướng về đất nước, tổ quốc, quê hương.
 Có thể nói qua thơ của Quang Dũng ta hiểu thêm về tâm hồn phong phú, nhạy cảm của người lính.
Họ chưa từng quên lí tưởng nhưng cũng biết lắng lòng trong những giây phút rung cảm, khao khát
riêng tư. Chúng ta cần trân trọng phát hiện của nhà thơ. Người lính không chỉ đẹp vì biết hi sinh cho
lí tưởng, vì anh hùng, dũng cảm trong chiến đấu mà còn bởi vì họ có phong thái hào hoa.
- Nghệ thuật tương phản giữa ngoại hình và nội tâm là một cách tô đậm vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn,
phong phú của người lính. Hóa ra, gian khổ không ám ảnh họ, trái lại, đối diện với đói rét, đau khổ,
bệnh tật, chết chóc, người lính vẫn hướng về cái đẹp với những khát khao lãng mạn, trẻ trung, yêu
đời.
8
 Bốn câu sau: (ngời lên) vẻ đẹp lí tưởng của thời đại – Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh và cái
chết bi tráng của người lính Tây Tiến:
- Rải rác biên cương mồ viễn xứ:
+ Câu thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt: biên cương, viễn xứ gợi không khí cổ kính, nghiêm
trang.
+ Biên cương, viễn xứ: là nơi biên giới xa xôi, nơi heo hút hoang lạnh. Cái chết, dù là sự hi
sinh, cũng không thể nào không gợi cảm xúc bi thương. Hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên
cương viễn xứ lại càng nhân lên cái cảm xúc bi thương ấy.
 Bằng bút pháp tả thực, Quang Dũng đã gợi nên trong lòng người đọc ấn tượng mạnh về những cái
chết cô đơn, vô danh, chết nơi xứ người. Đó là hiện thực khốc liệt của chiến tranh: “Người lính Tây
Tiến không chỉ chết vì chiến trận mà còn chết vì bệnh tật. Cứ nghe thấy tiếng cồng chiêng là biết có
người chết” (Trần Lê Văn).
- Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh: Những nấm mồ hoang lạnh, vô danh mọc lên dọc đường
hành quân nhưng không làm chùn bước chân Tây Tiến. Khi dựng lên hình tượng tập thể những người
lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy.
Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của
tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy, hình ảnh bi thương những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang
biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Vì
thế, câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên dữ dội như một lời thề danh dự, lời thề
sông núi.
+ Câu thơ mang khẩu khí ngang tàng, gợi nhớ những tráng sĩ thuở xưa. Đó là Kinh Kha bên
bờ sông Dịch trước khi sang Tần hành thích bạo chúa Tần Thủy Hoàng theo lời thái tử Đan (nước
Yên). Chàng dứt áo ra đi với khẩu khí yêng hùng tráng sĩ:
Phong tiêu tiêu hề, Dịch thuỷ hàn
Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục phản
Dịch
Gió hiu hắt chừ, Dịch thuỷ lạnh ghê
Tráng sĩ ra đi chừ, không bao giờ về
Còn một bản dịch khác:
Gió đìu hiu sông Dịch lạnh lùng ghê
Tráng sĩ một đi không trở về
Đó còn là hình ảnh chinh phu trong buổi lên đường:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao. (Chinh phụ ngâm)
+ Câu thơ thể hiện lý tưởng cao đẹp của người lính:
 Chiến trường: là bom đạn khốc liệt, là dữ dội nguy nan, là cái chết cận kề.
 Hai chữ chẳng tiếc: vang lên chắc nịch, mang cái vẻ bất cần, ngạo nghễ rất lính, tô đậm
tinh thần sẵn sàng hiến dâng cho Tổ Quốc của người lính.
 Đời xanh: thể hiện ý thức về giá trị của tuổi trẻ. Đó là tuổi của sự bắt đầu, của ước mơ,
hi vọng, của cuộc sống non xanh mơn mởn, của hạnh phúc, tình yêu.
 Ai chẳng mong mình được sống trong tuổi thanh xuân đầy hoa mộng. Thế nhưng, người lính ở
đây lại chẳng tiếc đời xanh của mình. Sự hi sinh đối với họ là cái chết vì lí tưởng. Đây không phải là
cách nói của thi ca, mà thực sự là dũng khí tinh thần và hành động của nhiều thế hệ trong những năm
kháng chiến. Bởi lẽ, trong họ chỉ có một điều tâm niệm đó là Tổ quốc – tiếng gọi thân thương mà gần
gũi như lời thơ Chế Lan Viên:
Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông...
Bởi họ hiểu rằng:
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Ai cũng tiếc tuổi thanh xuân thì còn gì Tổ quốc
(Trường ca Những người đi tới biển – Thanh Thảo)

9
 Hình tượng người lính có vẻ tiều tụy, tàn tạ trong hình hài nhưng lại chói ngời vẻ đẹp lí tưởng – lí
tưởng bắt nguồn từ tình yêu đất nước. Đối với những chàng lính trẻ ấy, quan niệm chí làm trai vốn
được học trong sách vở đã kết hợp với niềm say mê lí tưởng của thời đại Quyết tử cho tổ quốc quyết
sinh, đã trở thành hào khí của lính Tây Tiến. Họ dấn thân một cách tự nguyện vào cuộc chiến đấu
chống giặc ngoại xâm mà không suy bì hơn thiệt. Do vậy, dù phải đối diện với sự mất mát đau
thương, chết chóc, người lính vẫn kiên cường, không bi lụy. Biết bao xót thương, tự hào ẩn trong vần
thơ máu lửa ấy.
- Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
+ Hai câu thơ cuối, bằng bút pháp lãng mạn, bằng cảm hứng bi tráng tả trực tiếp giờ phút vĩnh
biệt những người đồng đội của người lính Tây Tiến. Họ nằm lại ở một vùng đất lạ trong không khí
hào hùng mà thiên nhiên dành riêng để tiễn biệt họ.
+ Hình ảnh thơ:
 Áo bào là trang phục người chiến sĩ xưa khi giúp nước, gợi lên nét cổ kính, trang trọng,
gần gũi với hình ảnh điển tích da ngựa bọc thây nhưng lại nói lên sự thật đau lòng.
 Cách nói ước lệ áo bào thay chiếu để vừa tôn vinh, vừa an ủi người lính. Người lính ra
đi trong hoàn cảnh chiến trường khắc nghiệt, thiếu thốn đến mức không có nổi một cỗ quan tài đã
đành, một tấm chăn, manh chiếu bọc thi hài cũng không có. Đồng đội chỉ có thể khâm liệm bằng
chính áo quần đơn sơ của những chiến sĩ ấy. Lúc sống như thế nào thì lúc hi sinh vẫn vẹn nguyên
quần áo ấy mà chôn. Cũng có thể hiểu áo bào thay chiếu là dùng chiếu thay cho áo bào bọc thây.
Chiếc chiếu cói nhàu rách kìa đã từng theo họ suốt chiến trường, là vật bất li thân cũng là tấm áo bào
thành kính đưa những người con ưu tú của dân tộc về với đất mẹ. Dù hiểu theo cách nào, câu thơ
cũng gợi lên sự thiếu thốn, khắc nghiệt của chiến trường, cái chết bi tráng của người lính Tây Tiến.
Nhà thơ Hoàng Lộc trong bài thơ Viếng Bạn cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế:
Ở đây không manh ván
Chôn anh bằng tấm chăn
Của đồng bào Cứa Ngàn
Tặng tôi ngày sơ tán
Chỉ có điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng
lệ. Quang Dũng đã tráng lệ hóa cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hi sinh của
người lính đã được coi là sự trở về với đất nước với núi sông
 Về đất: vừa là cách nói giảm, nói tránh để giảm bớt sự đau thương; vừa là cách kì vĩ
hóa, thiêng liêng hóa sự hy sinh của chàng lính Tây Tiến. Hình ảnh thơ anh về đất gợi lên tâm trạng
thanh thản đón nhận cái chết. Các anh không chết, các anh chỉ về với đất mẹ sau khi đã hoàn thành
nhiệm vụ, sau khi đã sống có ý nghĩa trên cõi đời. Đất mẹ giang rộng vòng tay đón họ trở về. Máu
xương của các anh gửi vào đất mẹ, làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ thắm, làm cho tinh thần VN
càng bất khuất, kiêu hùng.
 Sông Mã gầm lên khúc độc hành: Trong giây phút thiêng liêng tiễn biệt người lính Tây
Tiến, vang lên tiếng gầm (sôi sục và kìm nén) của dòng sông Mã như khúc độc hành bi tráng. Đó là
âm thanh của núi rừng, thiên nhiên, dòng sông như đang tiễn đưa người lính (biện pháp nhân hóa).
Hình ảnh thơ gợi nỗi đau thương mà bi tráng. Tiễn đưa các anh không phải là tiếng khóc của một
người, một số người mà là của cả đất trời. Hình tượng dòng sông Mã được nhân hóa ở câu thơ cuối
đã trở thành biểu tượng sinh động cho quê hương đang tiễn đưa những đứa con anh hùng trở về với
đất mẹ. Chiều kích, tầm vóc của người lính là tầm vóc vũ trụ, đất trời.
 Quang Dũng đã tả thực, không hề né tránh cái chết đau thương của người lính. ĐỒng thời, với cái
nhìn lãng mạn, sự hi sinh ấy không hề gợi cảm giác bi quan, bi lụy, mà trái lại tô đậm phẩm chất hào
hùng của người lính.
 Đánh giá chung:
- Hình ảnh người lính Tây Tiến vừa hào hùng, vừa hào hoa.
- Cái chết bi tráng
- Lí tưởng cao đẹp
 Họ trở thành tượng đài bất tử với thời gian, sống mãi trong lòng dân tộc.
 Nghệ thuật:

10
- Bút pháp lãng mạn kết hợp bút pháp hiện thực vừa tái hiện hiện thực vừa gợi chất hào hùng, lãng
mạn, bi tráng.
- Sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc thái cổ kính, trang nghiêm.
- Sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật
- Lời thơ hàm súc.
4. Đoạn 4: Lời hẹn ước không bao giờ quên
a. ng người Tây Ti n
Tây Tiến người đi không hẹn ước.
– Tây Tiến người đi không hẹn ước, câu thơ láy lại chí nguyện chiến đấu như một lời thề của cả
đoàn binh Tây Tiến cũng như con người thời ấy, một đi không hẹn trước ngày về.
– Quang Dũng dứt dòng hồi tưởng để trở về với thực tại nhằm khắc sâu tư thế ra đi với quyết tâm
sắt đá, có chí lớn, quyết lập được chiến công như người chiến sĩ trong bài thơ Tống biệt hành của
Thâm Tâm:
Li khách! Li khách con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
– Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng, hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm (Ngày về –
Chính Hữu) lên đường theo tiếng gọi của Tổ quốc “không hẹn ước , càng khẳng định cái ý niệm:
Nhất khứ bất phục hoàn. Trong hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến cũng là cái ý niệm của chung cả
một thời kì, một thế hệ con người hi sinh vì nước, xả thân vì nước.
– Câu thơ Tây Tiến người đi không hẹn ước, còn bộc lộ tâm tư của nhà thơ, “người đi ở đây là tác
giả. Tác giả đã ra đi không hẹn ngày về lại đơn vị cũ. Đã xa rồi: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông…
giờ đây bên dòng sông Đáy hiền hòa thơ mộng Quang Dũng nhớ “chơi vơi cảnh và người miền Tây
lắm sông Mã ơi Trong khi đoàn binh hành quân càng về phía Tây càng xa cách, hi vọng ngày lặp lại
càng mong manh. Trong khoảng cách không gian dịu vợi, nỗi nhớ đồng đội của nhà thơ càng tỏa ra
mênh mông: Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
b. hoảng cách
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
– Từ láy “thăm thẳm diễn tả khoảng cách xa vời giữa nhà thơ với những ngày Tây Tiến, giữa hiện
tại và quá khứ. Có phải khoảng cách xa vời giữa người đi về miền biên cương và người ngồi bên
dòng sông Đáy là khoảng cách trong cõi lòng:
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.
(Những giọt lệ – Hàn Mặc Tử)
– Khoảng cách “thăm thẳm , một đi không trở lại. Tất cả bây giờ chỉ là hoài niệm về thiên nhiên và
con người của một thời xa nhớ. Khoảng cách “thăm thẳm ta đã từng bắt gặp trong nỗi nhớ của người
chinh phụ:
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn)
– Nhớ lắm chặng đường gian khổ nhưng cũng rất hào hùng về những chàng trai đất Hà thành áo
vải chân không, đi lùng giặc đánh (Nhớ – Hồng Nguyên). Càng nhớ càng tự hào biết bao nhiêu về ý
chí và lí tưởng cao đẹp của những người con ưu tú của dân tộc.
c. Tình cảm gắn b với Tây Ti n
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy.
 “Mùa xuân ấy trong câu thơ được hiểu là:
– Thời điểm thành lập đoàn binh Tây Tiến (mùa xuân năm 1947). “Mùa xuân ấy đã trở thành thời
điểm một đi không trở lại của lịch sử nước nhà. Sẽ không bao giờ còn có lại cái thuở và thiếu thốn
đến dường ấy nhưng cũng lãng mạn và hào hùng đến dường ấy.
– Mùa xuân của tuổi trẻ, những chàng lính Tây Tiến đã ra đi đã cống hiến tuổi thanh xuân của
mình cho Tổ quốc. Những chàng trai ra đi vì nghĩa lớn ấy đã nêu cao lí tưởng sống đẹp của mình:
Nếu là con chim, chiếc lá
Thì chim phải hót, lá phải xanh
11
L nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.
(Một khúc ca xuân – Tố Hữu)
– “Mùa xuân ấy là mùa xuân của đất nước với một tình yêu rất lạc quan, tin tưởng vào sức sống,
sự trường tồn của dân tộc, trong cuộc kháng chiến trường kì. Mang trong mình dòng máu của cha
Rồng mẹ Tiên những người con ấy nguyện rằng dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác
này bọc trong da ngựa cũng nguyện cam lòng (Hịch tướng sĩ – Trần Quốc Tuấn) để mùa xuân của
dân tộc mãi mãi mang sắc màu hạnh phúc bình yên.
d. ời thề gắn b với Tây Ti n
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
– “Sầm Nứa là một dịa danh ở nước bạn Lào, một trong những vùng được giải phóng đầu tiên ở
Thượng Lào. Thế là sau bao ngày tháng gian khổ vượt núi, băng rừng các anh không chỉ bảo vệ từng
tấc đất biên cương Đại Việt mà còn làm nhiệm vụ quốc tế cao cả để gắn kết thêm tình bằng hữu giữa
Việt – Lào hai nước chúng ta, tình sâu hơn nước Hồng Hà Cửu Long.
– “Hồn về Sầm Nứa chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân
dân Lào chống Pháp, họ quyết tâm thực hiện lí tưởng ấy đến cùng. Cho nên, dù ngã xuống trên đường
hành quân, nhưng hương hồn (anh linh) của các anh vẫn đi cùng đồng đội, sống trong lòng đồng đội.
– “Chẳng về xuôi nghĩa là bỏ mình trên đường hành quân. Đồng thời khẳng định sự gắn bó của
nhà thơ cũng như của những người lính Tây Tiến với những vùng đất mà đoàn quân đã đi qua, cũng
là một chí hướng quyết tâm theo đuổi đến cùng lí tưởng chiến đấu của đơn vị.
 Tứ thơ này nâng chất sử thi của bài thơ. Sự hi sinh của các anh làm tốt tươi thêm mùa xuân cây
cỏ của đất nước, sự ra đi của các anh mãi mãi được ngợi ca:
Có những phút làm nên lịch sử
Có cái chết hóa thành bất tử
Có những lời hơn mọi bài ca
Có con người như chân lí sinh ra.(Hãy nhớ lấy lời tôi – Tố Hữu)
Đất mẹ Việt Nam sinh ra các anh và tự hào về các anh đã làm rạng danh dân tộc.
III. T N ẾT
– Cứ như là gió mênh mang, là mây xanh thẳm chở nỗi nhớ chơi vơi đi muôn dặm… Cứ vương
vấn trong lòng người khúc độc hành sông núi ngân vang lời vĩnh quyết trầm hùng… Đã hơn nửa thế
kỉ đã trôi qua kể từ ngày “mùa xuân ấy , Tây Tiến ra đời, âm hưởng đó vẫn vẹn nguyên trong kí ức
với những ai đã một lần thả hồn mình phiêu du cùng đoàn binh Tây Tiến chiến trường đi chẳng tiếc
đời xanh.
– Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ lại cho đời một khung cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử và
một “tượng đài bất tử về người lính vô danh .
– Đã bảy thập kỉ đã trôi qua, bài thơ Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ với người đọc hôm nay, gợi về
những năm tháng không thể nào quên trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Bằng bút pháp vừa
hiện thực vừa lãng mạn, Quang Dũng diễn đạt tài tình nỗi gian khổ trên những con đường hành quân
của binh đoàn Tây Tiến, dựng lên được hình tượng vô cùng đẹp đẽ về người lính với hào khí ngất trời
trong chiến đấu và nét hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn. Bức tượng đài người lính Tây Tiến được
khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình.

12

You might also like