You are on page 1of 31

[TÂY TIẾN]

I. Tìm hiểu chung:


1. Tác giả: Quang Dũng
a) Cuộc đời:
b) Sự nghiệp:
- Là nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc…
- Thuộc nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.
- Thơ nằm giữa biên giới thật và mơ, như khói như mây như tiếng vọng từ chân trời xa vắng.
- Nhà thơ của ‘Xứ Đoài mây trắng’.
- 2001, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
- Tác phẩm chính: Mây đầu ô, Mùa hoa gạo…

c) Đặc điểm hồn thơ (Phong cách nghệ thuật):


- Hồn thơ tài hoa, phóng khoáng, lãng mạn.

2. Giới thiệu đoàn quân Tây Tiến:


- Thành lập đầu 1947, Quang Dũng là đại đội trưởng.
- Thành phần: đa số là thanh niên trí thức Hà Nội.
- Nhiệm vụ: phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao lực lượng Pháp ở Thượng Lào, miền Tây Bắc Bộ Việt Nam, bảo vệ biên giới Lào Việt.
- Địa bàn hoạt động:

3. Tác phẩm:
a) Hoàn cảnh sáng tác:
- 1948, đơn vị Tây Tiến giải thể, thành lập trung đoàn 52.
- Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được ông sáng tác tại Phù Lưu Chanh sau khi rời xa đơn vị cũ.
- In trong tập thơ ‘Mây đầu ô’ là đứa con đầu lòng hào hoa và trăng kiện không chỉ của thơ ca Quang Dũng mà là của thơ ca kháng chiến thời kì đầu (Gs Phong
Lê).

b) Nhan đề:
‘Nhớ Tây Tiến’ -> ‘Tây Tiến’
- Chất chứa bao cảm xúc, nỗi nhớ dân trào da diết mỗi lần gọi tên.
- Thêm từ ‘Nhớ’ là thừa thãi.
- Ý nghĩa: tiến về miền Tây Bắc của Tổ quốc. Tinh thần ‘nhất khứ bất phục phản’ của thanh niên thời đại kháng chiến chống Pháp.

c) Bố cục: 4 phần.

II. Đọc – hiểu văn bản:


1. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ (2):
- Tên gọi đầu tiên trong nỗi nhớ là con sông Mã: nó chảy suốt chiều dài con đường hành quân cũng như chảy suốt chiều dài bài thơ, chiều dài của nỗi nhớ.
+ ‘Sông Mã’ trở thành chứng nhân ghi lại bao niềm vui, kỉ niệm buồn vui của đời chiến binh.
+ ‘xa rồi’: 2 thanh bằng đặt gần nhau, gợi cảm xúc da diết, ngậm ngùi về 1 thời đi không trở lại.
- Và nỗi nhớ ấy bật gọi thành tên ‘Tây Tiến ơi!’.
+ Câu cảm thán: ‘Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!’.
+ Từ láy ‘chơi vơi’.
+ Điệp từ ‘nhớ’.
-> Nhấn mạnh, khắc sâu nỗi nhớ, vừa giản dị vừa bền chặt.
-> Đây là cảm xúc chủ đạo bao trùm cả bài thơ.
+ ‘Tây Tiến ơi!’: tiếng gọi thân thương – cất lên như tiếng gọi người thương.
+ ‘nhớ chơi vơi’: là nỗi nhớ mênh mông, lửng lơ, không định hình, bao trùm cả không gian, thời gian.
=> Con sống, núi rừng, đơn vị, nay đã trở thành niềm khắc khoải, tha thiết nhớ về.

2. Nhớ chiến trường Tây Bắc hùng vĩ và mĩ lệ, nhớ những người đồng đội ngã xuống (1)
a) Thiên nhiên nơi chiến trường Tây Bắc:
- Tên những địa danh: Sài Khao, Mường Lát.
-> Gợi sự xa xôi, hoang dã với những ấn tượng khó phai.
- Hình ảnh:
+ ‘sương lấp đoàn quân mỏi’: thanh tắc của từ ‘lấp’ gợi sự nặng nề, khắc nghiệt. Thành công miêu tả sự gian khổ, giàu chất hiện thực.
+ ‘hoa về trong đêm ơi’: 1 chuỗi những thanh bằng liên tiếp gợi nét lãng mạn, đậm chất thơ. ‘hoa’ trở nên gần gũi, có hồn, hương thơm bung tỏa trong đêm,
vương vấn bước chân vào tâm hồn lính trẻ. Cũng có thể hiểu, ‘hoa’ là những ngọn đuốc lửa, là điếu thuốc lập lòe, ẩn hiện trong đêm sương.
-> Tạo sự cân bằng hài hòa về nhịp điệu, cảm xúc và hình ảnh.
- 4 câu tuyệt bút:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
+ Địa hình:
* Điệp từ ‘dốc’: sự trùng điệp, hiểm trở, cao vút của núi rừng Tây Bắc.
* Từ láy tạo hình ‘khúc khuỷu – thăm thẳm – heo hút’ kết hợp với thanh trắc, diễn tả được sự trúc trắc, gập ghềnh khó đi.
* ‘Heo hút cồn mây’ đảo ngữ, diễn tả độ cao của núi và vẻ đẹp của binh đoàn hành quân trong mây.
* Nhân hóa ‘súng ngửi trời’: phản chiếu tâm hồn tinh nghịch lạc quan của những người lính Tây Tiến.
* Nghệ thuật tương phản, đối lập giữa 1 bên là ‘Ngàn thước lên cao’ với 1 bên là ‘ngàn thước xuống’: con số ước lệ kết hợp với phép đối ‘lên – xuống’ đã diễn
tả được: nhìn lên thì cao chót vót, nhìn xuống thì sâu thăm thẳm.
* Nhịp thơ 4/3: như gấp khúc câu thơ, gấp khúc con đường hành quân.
-> 3 câu đầu gợi sự rợn ngợp không gian, độ cao của núi, độ sâu của vực. Đó cũng là vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc.
+ Phút nghỉ chân: ‘Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.’: có cấu tạo toàn bộ là thanh bằng, tạo cảm giác nhẹ nhàng, thư thái trước 1 không gian mênh mông,
trước vẻ đẹo thanh bình của những bản làng dưới thung lũng xa, đang chìm trong mưa rừng sương núi. Diễn tả tâm trạng của người lính, bình thản trước gian
lao.

1
b) Hình ảnh những người đồng đội ngã xuống (trện đường hành quân)b:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
- Tiếng gọi ‘Anh bạn’ gợi sự thân thương, gần gũi, trìu mến.
- Từ láy ‘dãi dầu’ gợi sự vất vả, thiếu thốn, bệnh tật trong hoàn cảnh và điều kiện chiến đấu.
- ‘Gục lên súng mũ bỏ quên đời!’ gợi nhiều cách hiểu.
+ Có thể là 1 giấc ngủ ngắn lấy lại sức.
+ Cách nói giảm nói tránh về cái chết.
+ Chết trong tư thế đẹp: vẫn sẵn sàng chiến đấu, 1 cái chết đậm chất bi hùng.
-> Vần thơ nói đến sự mất mát, hi sinh nhưng không bi lụy, bi thương.

c) 4 câu cuối:
- Nhân hóa ‘thác gầm thét’, ‘cọp trêu người’ đặc tả sự hoang dã, dữ dội, mang dại của thiên nhiên được khám phá theo chiều thời gian và sự lạc quan, cười nhạo
gian khổ của những chàng lính trẻ.
- Thán từ ‘Nhớ ôi’, đảo ngữ: tô đậm nỗi nhớ da diết, đậm sâu, bật ra thành lời.
+ ‘cơm lên khói’, ‘thơm nếp xôi’: gợi hơi thở nồng ấm của sự sống, gợi 1 cảnh tượng ấm áp, bình yên. Cảnh vừa hiện thực vừa lãng mạn.
=> Thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng tráng, dữ dội nhưng cũng vừa thơ mộng, mĩ lệ, nổi bật lên là hình ảnh chiến sĩ can trường, ngang tàn và rất đỗi tinh nghịch, hào
hoa. Nghệ thuật đặc sắc nhất của đoạn 1 là sự kết hợp hài hòa của thanh điệu, giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực cùng thủ pháp đối lập.

3. Nhớ cảnh liên hoan nơi biên giới và cảnh sông nước Châu Mộc:
a) Đêm liên hoan:
- Động từ:
+ ‘bừng lên’ của ánh sáng; ấm áp, niềm vui lan tỏa của sự giao hòa, gắn kết quân với dân.
+ Chơi chữ ‘hội đuốc hoa’ (Hán Việt: hội hoa chúc): nghịch ngầm, tếu táo, đa tình.
- Nhân vật trung tâm ‘em’: thu hút hồn vía.
+ Thái từ ‘Kìa em’ thể hiện cảm xúc từ ngỡ ngàng đến si mê trước sự xuất hiện của các cô gái Thái.
- Bức tranh liên hoan sống động có cả âm thanh, vũ điệu.
=> Tổng hòa khiến cho những chàn lính Tây Tiến ngỡ ngàng lạc về thủ đô nước Lào, tâm hồn đầy ắp tình thơ, ý nhạc.

b) Cảnh chia tay trên sông nước Châu Mộc:


* Đẹp như 1 bức tranh thủy mặc:
- Nét vẽ thứ nhất: ‘chiều sương’ gợi vẻ đẹp thơ mộng và huyền ảo vè 1 khung cảnh, bờ sông sương giăng trong chiều nhạt nhòa nắng.
- Nét vẽ thứ hai: ‘hồn lau’ kết hợp với cụm từ ‘nẻo bên bờ’ phác lên hình ảnh những triền lau nhuộm tím bờ sông. Cách dùng từ ‘hồn lau’ nhân hóa, khiến thân
lau cũng trở nên có hồn, có trạng, biết đồng cảm với con người trong cảnh chia ly.
- ‘dáng người’ trên con thuyền ‘độc mộc’ chỉ lưu lại sự ấn tượng về sự uyển chuyển, khỏe khoắn.
- ‘hoa đong đưa’ – nhân hóa – làm cho 1 đóa hoa rừng vừa có hồn, vừa có tình.
+ Phép điệp cấu trúc ‘Có thấy – Có nhớ’: láy đi luyến lại gợi cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến, không chỉ giăng mắc vào tâm hồn người ra đi vẻ đẹp tuyệt hảo
của Tây Bắc mà còn gieo vào lòng người 1 bản tình ca sâu lắng. Đúng như Xuân Diệu nhận xét: ‘Đọc thơ Quang Dũng như ngậm nhạc ở trong đó.’.
=> 2 bức tranh, 2 bút pháp, 2 tâm trạng đối lập nhau cho thấy nét bút tài hoa cua thi sĩ xứ Đoài.

4. Nhớ chân dung lính Tây Tiến (3):


- Ngoại hình: độc đáo, kì dị được kết hợp giữa bút pháp tả thực và lãng mạn.
+ Tả thực: thiếu thốn, bệnh tật làm rụng tóc, da xanh như màu lá, mắt trừng.
+ Lãng mạn: không mọc tóc có cảm giác như không thèm mọc tóc; da xanh thay lá ngụy trang, oai như những chú cọp; mắt trừng toát lên vẻ dữ dội, uy hiếp
hướng về biên giới.
-> Lẫm liệt, kiêu hùng toát lên từ tinh thần mạnh mẽ, bản lĩnh.
- Tâm hồn: ‘Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.’: mắt trừng thì gửi mộng qua biên giới, mắt mơ thì gửi về Hà Nội thân thương, mơ tới người vợ, người bạn gái,
người thương… Câu thơ phản chiếu hào hoa, đa tình của những chàng lính Hà thành.
- Lí tưởng; ‘Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.’: câu thơ đậm khẩu khí ngang tàn vừa có dáng dấp của những tráng sĩ thuở xưa ‘Xếp bút nghiêng theo việc đao
cung’, ‘Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao’. Vừa mang vẻ đẹp của thanh niên thời đại kháng chiến chống Pháp, ‘Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.’.
* Sự hi sinh:
- ‘Rải rác biên cương mồ viễn xứ’: ‘rải rác – mồ viễn xứ’: không trốn tránh hiện thực của chiến tranh.
- Hình ảnh những nấm mồ: biên cương xa xôi, hoang lạnh, gợi cảm giác buồn thương.
-> Nốt trầm trong bản tráng ca đời lính.
- ‘Sông Mã gầm lên khúc độc hành’: như nốt thăng, lấn át đi cảm xúc bi thương.
+ Tác giả mượn hình tượng con sống Mã với đặc điểm rầm rộ, mãnh liệt trong dòng chảy ví von cho khúc nhạc trầm hùng của thiên nhiên. Tấu lên, đưa tiễn
những người con của quê hương về với đất mẹ.
-> Nghệ thuật nói giảm nói tránh, sử dụng từ ngữ Hán Việt trang trọng đã bày tỏ tình cảm trân trọng, thấu hiểu về sự hi sinh cao cả những người đồng đội.
=> Lính Tây Tiến đẹp hào hùng, hào hoa qua bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng.
=> Nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa thành công 1 bức tượng độc đáo về tập thể những người lính anh hùng trong kháng chiến chống Pháp.

5. Lời thề gắn bó với Tây Tiến:


- ‘mùa xuân ấy’: là buổi đầu thành lập; là ngày đầu gặp gỡ, cùng trở thành thành viên của mái nhà Tây Tiến; là thời kì lãng mạn và hào hùng, 1 đi không trở lại.
- Câu kết: ‘Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi’:
+ Thể hiện tinh thần ‘Nhất khứ bất phục phản’ của đội quân anh hùng.
+ Họ đã gửi lại nơi biên giới đất bạn tất cả những tình cảm của mình.
-> Ý thơ nghe ngậm ngùi những vẫn toát lên vẻ trầm hùng.

III. Tổng kết:


Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng
miền Tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ còn sức hấp dẫn lâu dài đối với người đọc.

2
[VIỆT BẮC]

A/ Tác gia: Tố Hữu


I. Tiểu sử:
- Thời thơ ấu, ông sinh ra trong 1 gia đình Nho học ở Huế - mảnh đất thơ mộng, trữ tình, lưu giữ nhiều nét văn hóa dân gian.
- Thời thanh niên, ông giác ngộ Cách mạng khá sớm, hoạt động hăng say và kiên cường đấu tranh trong các nhà từ thực dân.
- Sau này, ông đảm đương nhiều cương vị trọng yếu trong lĩnh vực VH – NT và trong bộ máy nhà lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.

II. Đường Cách mạng, đường thơ:


- 7 chặng đường Cách mạng, Tố Hữu đã cho ra đời 7 tập thơ:
1. Tập thơ ‘Từ ấy’: 1937 – 1946.
VD: Từ ấy, Huế tháng Tám, Vui bất tuyệt.
2. Tập thơ ‘Việt Bắc’: 1946 – 1954.
VD: Việt Bắc, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên.
3. Tập thơ ‘Gió lộng’: 1955 – 1961.
VD: Bài ca mùa xuân 196…
4. ‘Ra trận’: 1962 – 1971; ‘Máu và hoa’: 1972 – 1977.
VD: Dáng đứng Việt Nam…
5. ‘Một tiếng đờn’: 1972; ‘Ta với ta’: 1999.

III. Phong cách thơ:


1. Về nội dung: mang tính chất chính trị trữ tình sâu sắc.
- Hướng tới cái ta chung với lẽ sống lớn và tình cảm lớn.
- Thường đề cập tới những bối cảnh, không gian lớn, thời gian có tính chất lịch sử, trọng đại.
- Đậm chất sử thi.
- Giọng điệu thơ ngọt ngào, tự nhiên.
-> Thơ của ông lấy cảm hứng chính trị nhưng không khô khan.
VD: Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương.
Như từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

2. Về nghệ thuật: đậm đà tính dân tộc.


- Sử dụng thể thơ: thất ngôn, lục bát.
- Ngôn ngữ trong thơ của th sử dụng ngôn ngữ của đời sống hàng ngày, mộc mạc, gần gũi nhưng có giá trị gợi hình, biểu cảm cao, dồi dào tính nhạc.
VD: + Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn.
+ Bước chân nứt đá, muôn tàn lửa bay.

B/ Đoạn trích ‘Việt Bắc’:


I. Tìm hiểu chung:
1. Hoàn cảnh sáng tác:
- 7/1954, chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneva được kí kết.
- 10/1954, toàn bộ Trung ương Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại ấy, Tố Hữu đã sáng tác ra bài thơ này.

2. Đánh giá:
- Được đánh giá là đỉnh cao của đời thơ Tố Hữu.
- Là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp.

3. Đoạn trích:
- Thuộc phần đầu, tái hiện những kỉ niệm Cách mạng và kháng chiến ở Việt Bắc.

4. Chủ đề:
- Đoạn thơ vừa là khúc tình ca, vừa là khúc hùng ca của cuộc kháng chiến.

II. Đọc – hiểu văn bản:


1. 8 câu đầu: Tâm trạng của người đi và kẻ ở trong buổi chia ly:
a) 4 câu đầu: Lời của người ở lại:
- Cách xưng hô: mình (chỉ người ra đi) – ta (chỉ kẻ ở lại).
-> Lối xưng hô ‘mình – ta’ tha thiết, ngọt ngào, đậm sắc thái dân gian.
- Điệp từ ‘nhớ’ được láy đi luyến lại nhiều lần đã trở thành cảm xúc chủ đạo bao trùm đoạn thơ. Không chỉ là tâm trạng của người ở mà còn là tâm trạng của
người đi.
- 4 câu đầu là lời ướm hỏi của người ở lại với người đi:
+ Lời ướm hỏi về thời gian: ‘Mười lăm năm’: là 1 khoảng thời gian gắn bó nghĩa tình và gian nan từ khi kháng Nhật đến lúc hòa bình lập lại ở miền Bắc.
+ Lời ướm hỏi về không gian: ‘cây – núi – sông – nguồn’: đây là những hình ảnh đặc trưng của không gian núi rừng Việt Bắc, ẩn chứa trong đó 1 hàm ý sâu
xa: Nhắc nhớ đạo lí, truyền thống ‘Uống nước nhớ nguồn’.
- Phép điệp cấu trúc ở câu 1 và 3 tạo nên 1 âm điệu bâng khuâng, da diết, lưu luyến.
-> 4 câu đầu là lời ướm hỏi, khơi gợi kỉ niệm về 1 giai đoạn đã qua về không gian nguồn cội nghĩa tình. Qua đó thể hiện tâm trạng lưu luyến của người ở lại.

b) 4 câu sau: Lời của người ra đi:


- Là tiếng lòng của người về xuôi, bâng khuâng và lưu luyến.
+ Đại từ phiếm chỉ ‘ai’ và ‘tiếng ai’ chứa đựng tâm tình tha thiết, là tiếng nói thân thương của người Việt Bắc, làm xao động cõi lòng và níu kéo bước chân
người ra đi.
+ Từ láy chỉ tâm trạng ‘bâng khuâng – bồn chồn’ : diễn tả tâm trạng nôn nao, quyến luyến, bịn rịn, ngập ngừng, không nỡ chia xa và diễn tả tâm trạng chưa
xa đã nhớ.
+ Hình ảnh hoán dụ ‘áo chàm’ chỉ người Việt bắc – mộc mạc, chân chất mà giàu nghĩa tình như chính màu áo của họ.
+ Cách dùng từ trang trọng ‘buổi phân li’.
+ Tất cả những tình cảm lắng đọng trong 1 cử chỉ phi ngôn ‘Cầm tay nhau’: không nói nên lời. Mọi tình cảm trao gởi qua cái nắm tay thật chặt.
+ Dấu chấm lửng ‘…’ ở cuối câu thơ diễn tả sự xúc động nghẹn ngào.
-> Tình cảm lưu luyến của người ra đi cũng đã là 1 câu trả lời rc sự ướm hỏi, nhắc nhớ của người ở lại. Cũng có thể hiểu 8 câu thơ là lời độc thoại nội tâm của

3
người ra đi, tự dặn lòng mình chớ quên ân tình Việt Bắc.
=> Tố Hữu rất tinh tế trong việc mượn các yếu tố biểu đạt của ca dao dân ca để tái hiện cảm xúc của người đi và kẻ ở trong buổi chia ly. Lối hỏi đáp đậm đà tính
dân tộc đã mở ra biết bao kỉ niệm và biết bao nỗi nhớ thương qua giọng thư tự nhiên, ngọt ngào, tha thiết như 1 khúc tình ca.

2. 12 câu tiếp: Lời của người ở lại.


- 12 câu thơ là 12 câu hỏi nhắc nhớ của người Việt Bắc, đồng thời cũng là lời tự vấn của người ra đi.
- Đại từ nhân xưng ‘mình’ chỉ cho cả người đi và kẻ ở, thể hiện mối quan hệ gắn bó, thân thiết, tuy 2 mà 1.
- Ở các câu lục, cụm từ ‘mình đi – mình về’ láy đi, láy lại luân phiên trong suốt đoạn thơ, tạo nên âm hưởng trữ tình, da diết.
- Cả 1 chân trời kỉ niệm về Việt Bắc hiện ra, tươi rói và sống động như mới của ngày hôm qua. Việt Bắc hiện lên với tất cả nét đẹp đặc trưng, với tất cả những
yêu thương, gian nan, tình nghĩa.
+ Thiên nhiên hiện ra thoáng đạt, hùng vĩ, ảm đạm và khắc nghiệt nhưng cũng không kém phần thi vị, thơ mộng. ‘mưa nguồn – suối lũ – mây mù – lau xám –
trám – măng mai’. Tất cả làm cho thời gian và không gian Việt Bắc như mờ đi trong sương khói của hoài niệm.
+ Cái gợi nhớ nhung nhât là những tháng ngày gian nan, đắng cay mà tình nghĩa: Cùng đồng cam cộng khổ ‘miếng cơm chấm muối’, cùng chung 1 mục tiêu, ý
chí ‘mối thù nặng vai’; nhớ về những con người Việt Bắc tuy nghèo vật chất nhưng hết lòng với Cách mạng qua phép đối ‘hắt hiu lau xám’ với ‘đậm đà lòng son’.
+ Nhớ những trận đánh, những chiến công, những trận danh đi vào lịch sử qua phép liệt kê: ‘Nhớ khi kháng Nhật, thưở còn Việt Minh’, ‘Tân Trào, Hồng Thái,
mái đình, cây đa’.
+ Nghệ thuật nhân hóa ‘núi rừng nhớ ai’ kết hợp phép biểu đạt độc đáo dùng cái dư thừa tô đậm cái thiếu: trám rụng không buồn nhặt, măng già không
buồn hái. Để diễn tả cái cảm giác người cán bộ về xuôi để lại 1 khoảng trống không sao bù đắp được trong lòng người Việt Bắc.
- Câu thơ ‘Mình đi, mình có nhớ mình’, 3 đại từ ‘mình’ biến hóa linh hoạt, gợi nhiều tầng nghĩa.
+ Hỏi cán bộ về xuôi có nhớ về người ở lại.
+ Tầng nghĩa thứ 2 sâu xa hơn: Hỏi cán bộ về xuôi liệu có nhớ chính bản thân của mình của những tháng ngày gian nan không. Câu hỏi hàm chứa sự nhắc
nhở trước sau đừng thay đổi, luôn giữ vững phẩm chất và ý chí của 1 người Cách mạng.
-> Với phép điệp cấu trúc tạo nên âm hưởng ngọt ngào, da diết, nhớ thương, người ở lại vừa nhắc nhớ vừa khơi gợi những kỉ niệm kháng chiếng mà người ra đi và
người ở lại từng có ở Việt Bắc. Qua đó truyền tải 1 thông điệp: Lối sống có tình nghĩa, thủy chung sau trước.

3. Cảnh và người Việt Bắc trong nỗi nhớ của người ra đi:
a) 4 câu đầu:
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đỉnh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...
- Lời khẳng định thủy chung sâu sắc:
- Câu 1: Ngắt nhịp 3/3 kết hợp cấu trúc đảo: ta – mình / mình – ta, nhấn mạnh, khẳng định ta với mình tuy 2 mà 1, trong ta có mình, trong mình có ta.
- Câu 2: Từ láy ‘mặn mà’, ‘đinh ninh’: nâng lên thành 1 lời thề thiêng lêng về sự thủy chung, son sắc.
- Câu 3: Được xem là câu trả lời tinh tế, biết đón bắt tâm trạng của người ra đi trước câu hỏi của Việt Bắc ‘mình đi, mình có nhớ mình’: khẳng định luôn luôn ghi
nhớ, mãi mãi ghi nhớ ân tình to lớn của Việt Bắc.
- Câu 4: Lối so sánh dân gian ‘bao nhiêu – bấy nhiêu’: sử dụng cái vô cùng của tự nhiên ‘nguồn bao nhiêu nước’ để khẳng định cái vô cùng của nghĩa tình mà Việt
Bắc dành cho Cách mạng.

b) 18 câu tiếp:
- Lối so sánh độc đáo ‘như nhớ người yêu’, Tố Hữu đã mượn tình cảm muôn thuở cho con người để giãi bày nỗi nhớ dành cho Việt Bắc – nỗi nhớ cháy bỏng,
thường trực, da diết và đậm sâu.
- Điệp ngữ ‘Nhớ từng’: tô đậm 1 nỗi nhớ vừa cụ thể, vừa gần gũi, vừa bé nhỏ, vừa thiêng liêng. Trong nỗi nhớ, Việt Bắc đã hiện lên với những nét đẹp vừa hiện
thực, vừa thi vị: được nhìn theo nhiều chiều không gian và thời gian qua phép liệt kê:
+ Nhớ 1 ánh nắng ban chiều, 1 ánh trăng buổi tối.
+ Nhớ những bản làng khói bếp quyện cùng sương sớm.
+ Nhớ những bếp lửa hồng ấm áp trong đêm khuya cùng bóng dáng người thương cần mẫn đi về khuya sớm.
+ Nhỡ những địa danh không tên như ‘rừng nứa bờ tre’ đến những địa danh có tên như ‘Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê’. Từ ‘vơi đầy’ đa nghĩa vừa nói đến quy
luật của con sông, dòng suối: nước có khi vơi khi đầy như không bao giờ cạn cũng như tình cảm của người ra đi dành cho người ở lại.
+ Nhớ cả những tháng ngày đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, gian nan nhưng vẫn lạc quan yêu đời. Tính từ ‘đắng cay ngọt bùi’ (đây là những gia vị,
hương vị của cuộc sống). Động từ ‘chia – sẻ - đắp cùng’.
+ Cảm động nhất và ám ảnh nhất trong nỗi nhất là hình ảnh những người mẹ địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô trong cái nắng cháy lưng và tất cả những tình
cảm thương mến, trân trọng dồn tụ vào 2 từ ‘cháy lưng’ để tôn vinh sự hi sinh thầm lặng của người dân nơi đây.

MỞ RỘNG: Liên hệ:


+ Khúc hát ru những em bé lớn lên trên lưng mẹ - Nguyễn Khoa Điềm.
+ Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên.
Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
+ Huyền thoại mẹ - Trịnh Công Sơn.
-> Khắc họa bức tượng người mẹ Việt Nam anh hùng vĩ đại.

-> Đây là hình ảnh đẹp nhất , thiêng liêng nhất, đã tạc 1 bức tượng đài bất tử về người mẹ Việt Nam anh hùng.
+ Khép lại đoạn thơ, khép lại những dòng hoài niệm là những âm thanh và nhịp điệu chậm rãi quen thuộc của Việt Bắc: ‘Tiếng mõ rừng chiều, tiếng chày giã
lúa trên núi xa.’.
=> Thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên thật sâu sắc, thấm thía và xúc động trong nỗi nhớ của người ra đi. Đó là khoảng thời gian, không gian lung linh, kỉ
niệm.

c. 10 câu tiếp: Bức tranh tứ bình:


Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

4
- 2 câu đầu:
+ ‘Ta về, mình có nhớ ta’ có hình thức mở đầu giống ca dao. Hỏi nhưng thực chất là tạo 1 cái cớ để giãi bày lòng mình.
+ ‘Ta về, ta nhớ những hoa cùng người’: trọng tâm của lời giãi bày.
+ ‘hoa cùng người’ là 1 cách nói khác cho nỗi nhớ thiên nhiên, con người Việt Bắc.
- Qua nỗi nhớ, bức tranh 4 mùa hiện lên với vẻ đẹp đa dạng, sống động được nhìn ở những không gian và thời gian khác nhau.
+ Mùa đông: mở đầu cho bức tranh tứ bình.
* Thiên nhiên Việt Bắc được vẽ bằng 2 gam màu đối lập nhau: màu xanh thâm u, trầm tĩnh của đại ngàn; màu đỏ của hoa chuối đỏ tươi, rực rỡ, sinh
động, tựa như những đốm lửa.
-> Làm nổi bật vẻ đẹp của sức sống và vẻ đẹp bật lên sức nóng lan tỏa, xua đi giá lạnh mùa đông.
* Con người: hiện lên mờ nhòe, chỉ biết có người đi rừng qua chi tiết ‘nắng ánh’ phản chiếu lên ‘dao gài thắt lưng’.
-> Con người rất nhỏ bé nhưng trong tư thế hiên ngang, làm chủ núi rừng.

MỞ RỘNG: Liên hệ ‘Lên Tây Bắc’ – Tố Hữu:


Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nỗi vai vươn tới
Lá nguy trang reo với gió đèo.

+ Mùa xuân:
* Việt Bắc vào xuân như thay áo mới.
* Sắc ‘xanh’ thâm u đã được thay bằng màu ‘trắng’ của hoa mơ.
-> Vẻ đẹp ấn tượng là cả 1 cánh rừng mơ trắng.
* Tính từ ‘trắng rừng’ tạo ấn tượng mạnh về vẻ đẹp tinh khiết nhẹ nhàng của Việt Bắc vào xuân.

MỞ RỘNG:
+ ‘Theo chân Bác’ – Tố Hữu:
...'Ôi sáng xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ.
+ ‘Cô hái mơ’ – Nguyễn Bính:
Thơ thần đường chiều một khách thơ,
Say nhìn xa rặng núi xanh lơ,
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo,
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ.
-> Gợi tả không gian như bước vào thế giới của những cơn mơ.

* Hình ảnh ‘người đan nón’ – công việc thầm lặng, đòi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn trọng, khéo léo, tài hoa ‘chuốt từng’.
-> Như 1 người nghệ sĩ và sản phẩm nón là tác phẩm của họ.
+ Mùa hạ:
* Điểm đặc biệt của bức tranh mùa hạ là không chỉ có màu sắc mà còn có âm thanh.
-> Làm cho bức tranh trở nên sinh động hơn.
* Đặc trưng của mùa hạ là tiếng ve và màu vàng lộng lẫy của hoa phách. Động từ tinh tế ‘đổ’ cho chúng ta cảm nhận được bước đi vô hình của thời gian,
hữu hình trên màu hoa phách (cánh rừng hoa phách). Động từ ‘đổ’ diễn tả được sự chuyển mùa, chuyển màu.
* Cách biểu đạt của Tố Hữu làm người đọc liên tưởng: nghe tiếng ve kêu cả cánh rừng phách bỗng bừng thức và nhất loạt chuyển sang màu vàng.
* Con người: ‘Cô em gái’: cách gọi thân thương, thân mật, từ ‘1 mình’ gợi sự thầm lặng của ‘những con người không ai nhớ mặt đặt tên những họ đã làm
ra đất nước’.
+ Mùa thu:
* Đêm trăng mát rượi, gợi ước ao, khát vọng thanh bình.

MỞ RỘNG: Liên hệ ánh trăng trong thơ kháng chiến của Hồ Chí Minh:
+ ‘Rằm tháng giêng’:
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
+ ‘Cảnh khuya’:
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
+ ‘Tin thắng trận’:
Trăng đẩy cửa sổ hỏi: - Thơ xong chưa?
- Vẫn còn bận việc quân, chưa làm thơ được.
Bỗng tiếng chuông ở lầu trên núi khua tỉnh giấc mộng đêm thu,
Vừa hay là lúc có tin thắng trận ở Liên khu báo về.

* Nhớ con người Việt Bắc với vẻ đẹp lạc quan, với lối sống ân tình, thủy chung.
=> Tứ bình: Với kết cấu đan xen, đoạn thơ làm nổi bật vẻ đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và con người.
=> Có sự hài hòa giữa đường nét, màu sắc, âm thanh. Mang vẻ đẹp lục bát cổ điển.
=> Âm hưởng của khúc tình ca ngọt ngào, của tình đồng chí, nghĩa đồng bào, tình yêu thiên nhiên.

4. Khung cảnh chiến khu Việt Bắc (khúc hùng ca kháng chiến):
a) Vai trò của Việt Bắc trong chiến đấu:
- ‘Núi giăng thành lũy sắt dày / Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.’: rừng núi mênh mông, hùng vĩ trở thành bạn, chở che cho bộ đội ta, cùng quân và dân ta
đánh giặc và núi rừng cũng đầy nguy hiểm với quân thù qua nghệ thuật so sánh, nhân hóa.
- Những cái tên, những địa danh ở chiến khu Việt Bắc: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, Cao – Lạng, Nhị Hà… vang lên đầy mến yêu, tự hào, là nỗi nhớ của cán bộ
về xuôi.

b) Bức tranh Việt Bắc ra trận kì vĩ, hoành tráng:


Những đường Việt Bắc của ta
- Câu đầu vẽ nên 1 bức tranh mọi nẻo đường Cách mạng ‘của ta’: niềm vui tự chủ, tự hào.
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
- Sự phối hợp: so sánh, từ láy ‘rầm rập’, phép điệp âm ‘r’ tái hiện được hình ảnh đoàn quân ra trận với khí thế mạnh mẽ, hào hùng như rung chuyển cả đất trời.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
- Từ láy ‘điệp điệp trùng trùng’ gợi hình ảnh những đoàn quân nối nhau kéo dài như vô tận ra tiền tuyến, mô phỏng lực lượng quân đội vừa tinh nhuệ vừa đông
đảo.
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
- Hình ảnh vừa hiện thực vừa lãng mạn, ‘ánh sao đầu súng’: gợi nhiều liên tưởng:
+ Hành quân trong 1 đêm trời đầy sao.
+ Ngôi sao trên mũ nan.

5
+ Lí tưởng ở trong tim.

MỞ RỘNG: Liên hệ ‘Ánh sao đầu súng’, ‘Đồng chí’ – Tố Hữu.

- Tổng hợp nhiều lực lượng: bộ đội, dân công, cơ giới. Tính từ ‘đỏ đuốc’: hình ảnh đẹp lung linh, lãng mạn hóa con đường ra trận thể hiện sự nhiệt huyết của
quân và dân.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
- Thậm xưng: ‘bước chân nát đá’ mượn ý thành ngữ ‘chân cứng đá mềm’: hào hùng, rực tràn ý chí.
- Nghệ thuật tương phản, ẩn dụ: ‘nghìn đêm – ngày mai’: phản chiếu niềm tin mãnh liệt, chắc chắn chẳng bao lâu nữa sẽ quét sạch bóng đêm nô lệ.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
-> Đoạn thơ đã khắc họa được các hoạt động tấp nập, hình ảnh hào hùng, âm thành sôi động bằng bút pháp sử thi và cảm hứng lãng mạn, bằng ngôn ngữ giàu
nhac điệu, hình ảnh có tính ẩn dụ cao.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui vẻ
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
- Phép liệt kê và phép điệp từ ’vui’: sự náo nức, phấn khở ngập tràn,
- Lí giải cội nguồn của sức mạnh và sự chiến thắng: sức mạnh của lòng căm thù, của tình nghĩa thủy chung, của khối đại đoàn kết, sự hòa quyện gắn bó giữa con
người với thiên nhiên.
-> Núi rừng Việt Bắc, con người Việt Bắc là hình ảnh của ‘đất nước đứng lên’, là tình cảm, niềm tin, hi vọng của nhân dân cả nước.
=> Nhịp thơ dồn dập gấp gáp, âm hưởng hào hùng, náo nức tạo thành khúc hùng ca chiến thắng: Âm hưởng anh hùng ca, dáng dấp sử thi hiện đại.

III. Tổng kết:


- Việt Bắc là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ
đậm sắc thái dân gian – tất cả đã góp phần khắc sâu lời nhắn ngủ của Tố Hữu: Hãy nhớ mãi và phát huy truyền thống quý báu anh hùng bất khuất, ân nghĩa
thủy chung của cách mạng, của con người Việt Nam.

6
[ĐẤT NƯỚC]

I. Tìm hiểu chung:


1. Tác giả: Nguyễn Khoa Điềm
a) Cuộc đời:

b) Sự nghiệp:
- Là 1 trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ những nhà thơ trẻ trong những năm chống Mĩ.
- Phong cách thơ: Giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc chính luận.

2. Trường ca Mặt đường khát vọng:


a) Hoàn cảnh sáng tác:
- 1971, ở giữa chiến khu Trị - Thiên, hướng về tuổi trẻ Việt Nam, những ngày sục sôi đánh Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm viết ‘Mặt đường khát vọng’.

b) Nội dung:
- Viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiến ở miền Nam trước 1985.
+ Nhận thức rõ bộ mặt xâm lược của Đế quốc Mĩ.
+ Hướng về nhân dân, đất nước.
+ Ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc đấu tranh của toàn dân tộc.

3. Đoạn trích:
a) Xuất xứ:
- Phần đầu chương V của trường ca ‘Mặt đường khát vọng’.

b) Thể loại:
- Trường ca – thể thơ dài có sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình.

c) Bố cục:

II. Đọc – hiểu văn bản:


1. Những cảm nhận mới mẻ của tác giả về đất nước:
a) Cảm nhận về phương diện sinh thành và tồn tại của đất nước:
Đất nước có từ bao giờ?
* Theo tác giả Nguyễn Khoa Điềm, đất nước bắt nguồn từ những gì gần gũi nhất, bình dị nhất trong đời sống vật chất và tâm hồn của mỗi con người.
- Câu thơ mở đầu bằng giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ, tự nhiên như lời tâm tình, tác giả đưa ta trở về với cội nguồn của đất nước.
+ Cụm từ ‘đã có rồi’ chỉ thời gian sinh thành của đất nước không xác định, chỉ biết đất nước là 1 giá trị lâu bền, vĩnh hằng, trường tồn qua mấy ngàn năm
lịch sử, như đất, như trời.
+ Nhân xưng đại từ ‘ta’ là nhân xưng, nhân danh cho 1 thế hệ trẻ đang tự vấn về cội nguồn của đất nước.
- Mượn chất liệu văn học dân gian để diễn tả về đất nước. Đất nước có trong những câu chuyện cổ, trong lời ru ‘ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể’ đã phủ
màu sắc huyền ảo, cổ tích khiến đất nước trở nên gần gũi, bình dị, thân thương; đất nước hiện lên trong phong tục ăn trầu: Đất nước bé nhỏ nhưng biểu tượng
cho tình yêu, đời sống tâm linh, biểu tượng cho sự kết nối nữa các thế hệ trong 1 gia đình, ‘bắt đầu’ nhấn mạnh yếu tố cội nguồn và nhắc nhở con người phải
nhớ đến cội nguồn.
- Câu thơ thứ 4:
+ ’lớn lên’ chỉ sự trưởng thành của đất nước.
+ Hình ảnh ‘cây tre’: biểu tượng cho làng quê, cốt cách, phẩm chất con người Việt Nam.
+ ‘trồng tre mà đánh giặc’ gợi nhớ truyền thuyết Thánh Gióng với ý nghĩa đất nước gắn liền với lịch sử đấu tranh giữ nước, biểu tượng cho tinh thần của
tuổi trẻ Việt Nam.
- Đất nước còn gắn với phong tục tập quán quen thuộc:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
- Đất nước còn gắn với đời sống tình nghĩa:
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
* Vận dụng 1 cách linh hoạt ca dao:
- Đất nước gắn liền với 1 ngôi nhà, nơi sinh tồn của bao thế hệ. ‘Cái kèo, cái cột’ thể hiện mơ ước của nhân dân về nơi an cư, ấm áp, chắc chắn. Họ lấy cái kèo, cái
cột đặt tên cho con cái, tuy mộc mạc nhưng thể hiện sự mơ ước về cuộc sống no đủ của con cái mai sau.
- Đất nước gắn liền với nghề trồng lúa nước lâu đời, trong sự cần cù, chịu thương chịu khó, trong cuộc sống cần lao. Các động từ liên tiếp, liệt kê ‘xay, giã, giần,
sàng’ nhấn mạnh sự chịu thương chịu khó, vất vả 1 nắng 2 sương, mỗi hạt gạo thấm vị mặn của mồ hôi làm nên vị ngọt cho đời.
- Câu thơ cuối là 1 lơi kết mang ý nghĩa khẳng định đầy tự hào:
Đất Nước có từ ngày đó…
-> Với lối thơ quy nạp, bằng hình ảnh và lối thơ đậm chất dân gian, trữ tình kết hợp tự sự, đất nước hiện lên vừa tôn kính, thiêng liêng, vừa thân thương gần gũi.
Đất nước được cảm nhận từ chiều sâu văn hóa, lịch sử và trong cuộc sống đời thường.

b) Cảm nhận về phương diện không gian địa lý, thời gian lịch sử của đất nước (Đất nước là gì?)
- Về phương diện không gian:
+ Viết hoa từ Đất Nước 1 cách trang trọng.
+ Tác giả chia tách ‘Đất Nước’ thành 2 yếu tố đất – nước để cảm nhận và suy tư về đất nước 1 cách sâu sắc, độc đáo và mới mẻ.
+ Đất nước là 1 không gian gần gũi với mỗi người, là con đường đến trường của trẻ thơ, là nơi tắm mát, nơi hò hẹn, là không gian mênh mông chứa đựng
tâm tư, tình cảm của tình yêu lứa đôi tràn đầy màu sắc.
* Là nơi gắn cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của mỗi người:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm

MỞ RỘNG: Liên hệ ‘Quê hương’ – Đỗ Trung Quân.

* Là nơi gắn với kỉ niệm tình yêu đôi lứa, trong đôi mắt của 1 nhà thơ trẻ. Đất nước là không gian tình yêu, chứa đựng những kỉ niệm dịu ngọt (cái nhìn
về Đất Nước rất mới mẻ, thú vị).
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
+ Đất nước bao gồm cả núi sông, rừng bể:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

7
- Những hình ảnh ca dao, điệu hò dân gian gợi không gian mênh mông, niềm tự hào về đất nước trù phú, giàu đẹp, tài nguyên vô tận.
- Đất nước còn là không gian sinh tồn, nơi phát sinh và phát triển của cộng đồng người Việt qua biết bao thế hệ từ quá khứ ‘Những ai đã khuất’, hiện tại ‘Những
ai bây giờ’ đến thế hệ tương lai ‘Dặn dò con cháu chuyện mai sau’.
- Tất cả đều không quên nguồn cội:
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
-> Trong cái nhìn về không gian đất nước, Nguyễn Khoa ĐIềm nghiêng nhiều về không gian đời thường, thân quen.

* Về phương diện lịch sử:


- Đất nước gắn liền với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cư, truyền thuyết các vua Hùng dựng nước.
-> Khơi dậy niềm tự hào về bề dày lịch sử đất nước, về nguồn cội thiêng liêng của dân tộc.

* Trong mối quan hệ cá nhân với cộng đồng:


- Đất nước không ở đâu xa mà hóa thân, kết tinh trong mỗi con người:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
- Đất nước là sự hài hòa, hòa hợp giữa nhiều mối quan hệ:
+ Cá nhân với cá nhân:
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
+ Cá nhân với cộng đồng:
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
-> Trong định nghĩa của tác giả, Đất nước được xây dựng trên cơ sở của tình yêu thương và tình đoàn kết của dân tộc.

* Lời nhắn của tác giả:


- Điệp ngữ ‘phải biết’, những từ ngữ ‘máu xương’, ‘gắn bó’, ‘san sẻ’, ‘hóa thân’, cách xưng hô thân mật ’Em ơi em’. Giọng thơ ngọt ngào tha thiết như lời tâm sự,
nhắn gửi chân thành dành cho thế hệ trẻ cũng như bản thân: Cần có trách nhiệm giữ gìn, làm cho đất nước sống mãi muôn đời.

2. Tư tưởng ‘Đất nước của nhân dân’:


a) Sự hiện diện của nhân dân trong những danh lam thắng cảnh của đất nước:
- Dưới cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, thiên nhiên địa lý của đất nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà còn là sản phẩm văn hóa từ cuộc đời và số phận
của nhân dân:
+ Tác giả đã có cái nhìn khám phá đậm chất nhân văn qua lối thơ quy nạp và qua phép liệt kê kết hợp với điệp ngữ ‘góp cho’, ‘góp nên’, ‘góp tên’.
-> Nhân dân là chủ nhân, là người làm nên Đất nước. Đất nước là sự kết tinh của bao nhiêu công sức khát vọng.
- Qua cái nhìn của nhà thơ, mỗi danh lam thắng cảnh còn ẩn chứa nét đẹp tâm hồn của nhân dân:
+ Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái biểu tượng cho sự chung thủy, tình nghĩa vợ chồng thắm thiết.
+ Những ‘ao đầm’ mà ngựa Thánh Gióng đi qua tượng trưng cho truyền thống yêu nước và sức mạnh bất khuất của dân tộc.
+ Núi Bút, non Nghiêng tượng trưng cho truyền thống hiếu học, vượt khó vươn lên của nhân dân.
+ Những địa danh cùng cực nam đất nước xa xôi tượng trung cho tinh thần xả thân vì cộng đồng, đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng
tạo của nhân dân ta.
Máu thịt của nhân dân là máu thịt của đất nước
- Từ đó, tác giả đi đến 1 kết luận mang tính triết lí khái quát:
+ Những tên núi, tên sông, tên làng, tên bản, tên ruộng đồng, gò bãi… bất cứ đâu trên đất nước này đều mang theo ‘1 dáng hình, 1 ao ước, 1 lối sống ông cha’.
+ Tất cả đều cho nhân dân tạo ra – những con người bình thường vô danh.
+ Tầm vóc của đất nước và nhân dân không chỉ trên bình diện địa lí ‘mênh mông’ mà còn ở dòng chảy lịch sử ‘bốn nghìn năm’, ‘đằng đẵng’.

b) Vai trò của nhân dân qua 4 nghìn năm lịch sử đất nước:
- Trên phương diện thời gian lịch sử cũng chính nhân dân ta đã ‘làm nên đất nước muôn đời’.
- Chính vì vậy, khi cảm nhận đất nước 4 nghìn năm lịch sử, nhà thơ không nói đến các triều đại, các anh hùng mà nhấn mạnh đến những con người vô danh,
bình dị.

MỞ RỘNG: Nguyễn Đình Chiểu đã tạc bức tượng đài nghĩa sĩ – nông dân bằng ‘Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc’.

c) Trên phương diện văn hóa cũng chính nhân dân là người lưu giữ và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc:
- Đại từ ‘Họ’ đặt đầu câu kết hợp nhiều động từ ‘giữ, truyền, chuyền, gánh’ -> Chính nhân dân là người đã giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ mai sau mọi giá trị
văn hóa tinh thần và vật chất.
- Điểm hội tụ và cũng là cao điểm của cảm xúc trữ tình trong đoạn thơ:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
+ Khi nói đến ‘Đất Nước của Nhân dân’, tác giả mượn văn học dân gian để nhấn mạnh thêm vẻ đẹp của đất nước ‘Đất Nước của ca dao thần thoại’.

d) Từ nên văn học dân gian, nhà thơ đã khám phá ra những vẻ đẹp tâm hồn và tính cách dân tộc:
- Họ là những con người yêu say đắm và thủy chung:
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
- Quý trọng tình nghĩa:
Biết quý cong cầm vàng những ngày lặn lội
- Kiên gan, bền chí trong công cuộc bảo vệ đất nước:
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
- Kết thúc đoạn thơ là hình ảnh dòng sông với những điệu hò:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.
-> Như muốn kéo dài thêm giai điệu ngân nga với nhiều cung bậc về bản trường ca của đất nước.

III. Tổng kết:


1. Nội dung:

8
- Hình ảnh đất nước gần gũi, thân thương được cảm nhận mới mẻ và độc đáo.
- Tư tưởng đất nước của nhân dân được thể hiện sâu lắng trữ tình.

2. Nghệ thuật:
- Giọng thơ trữ tình chính luận, cảm xúc sâu lắng, thiét tha; vận dụng nhiều vốn văn hóa dân gian, kiến thức nhiều lĩnh vực.

9
[SÓNG]

I. Tìm hiểu chung:


1. Tác giả: Xuân Quỳnh
a) Cuộc đời:

b) Sự nghiệp:
* Nói đến Xuân Quỳnh, người ta nói đến hồn thơ giàu nữ tính, có dòng chảy riêng cho mình, gần gũi.
- Đặc điểm thơ: giàu nữ tính với hồn thơ giàu trắc ẩn, hồn hậu, chân thực và luôn luôn da diết trong khát vọng về 1 hạnh phúc đời thường.
- Các tác phẩm chính: ‘Tơ tằm – chồi biếc’, ‘Hoa cỏ may’, ‘Tự hát’, ‘Thư tình cuối mùa thu’, ‘Thuyền và biển’…
-> Xuân Quỳnh là 1 trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ.

2. Tác phẩm:
a) Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ:
- Trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền, Thái Bình (cuối 1967).
- In trong tập ‘Hoa dọc chiến hào’ (1968).

b) Chủ đề:
- Qua hình tượng con sóng, Xuân Quỳnh diễn tả cụ thể, sinh động khát vọng và vẻ đẹp tâm hòn của người phụ nữ trong tình yêu.

c) Bố cục:

II. Đọc – hiểu văn bản:


1. Cảm nhận chung về bài thơ:
* Về âm điệu:
- Âm điệu được tạo nên bởi:
+ Thể thơ 5 chữ, ngắt nhịp 2/3/3/2 đều đặn, gieo thanh bằng, thanh trắc luân phiên gợi liên tưởng đến những con sóng lăn tăn, gối nhau ngoài biển khơi.
+ Phương thức tổ chức ngôn từ, hình ảnh.

* Hình tượng sóng:


- Xuất hiện ở nhan đề.
- Được lặp đi lặp lại trong suốt cả bài thơ.
- Ý nghĩa:
+ Nghĩa thực: tả con sóng của tự nhiên, của đại dương, của biển cả với nhiều trạng thái mâu thuẫn, trái ngược nhau.
+ Nghĩa biểu tượng: con sóng trong thơ Xuân Quỳnh gắn với nghệ thuật nhân hóa ẩn dụ trở nên có hồn, có tính cách, tâm trạng phù hợp để diễn tả những
cung bậc tình cảm trong tâm hồn người phụ nữ khi yêu.
-> Cụ thẻ trong bài thơ, sóng là hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của nhân vật trữ tình ‘em’.

* Hình tượng ‘sóng’ và ‘em’:


- Sóng và em là 2 hình tượng song hành suốt bài thơ, khi tách rời, khi hòa nhập.
-> Sóng là nét độc đáo trong cấu trúc hình tượng của bài thơ, diễn tả sâu sắc, sinh động mãnh liệt khát vọng tình yêu vừa có nét đẹp truyền thống vừa có nét đẹp
hiện đại của Xuân Quỳnh.

2. 2 khổ thơ đầu:


a) Khổ 1:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
- 2 câu đầu với phép tiểu đối miêu tả sự đối lập ‘dữ dội – dịu êm’, ‘ồn ầo – lặng lẽ’, tác giả miêu tả trạng thái đối lập của sóng và liên tưởng đến tâm lí phức tạp
của phụ nữ khi yêu (khi sối nổi mãnh liệt, khi dịu dàng, sâu lắng).
- 2 câu sau: phép nhân hóa ‘Sông không hiểu’ và ‘Sóng tìm ra tận bể’.
-> Con sóng mang khát vọng lớn lao. Nếu ‘Sông không hiểu nỗi mình’ thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp để ‘tìm ra tận bể’, tìm đến nơi cao rộng, bao dung.
=> Hành trình ‘tìm ra tận bể’ của sóng cũng chính là quá trình tự khám phá, tự nhận thức chính bản thân mình, khát khao sự đồng cảm, đồng điệu trong tình yêu.

b) Khổ 2:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau cũng thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
- 2 câu đầu: Mượn quy luật của sóng: sóng ngày xưa hay sóng ngày sau thì vẫn cồn cào, xôn xao, vỗ bờ.
-> Sự trường tồn của sóng trước thời gian vẫn dạt dào, sôi nổi để liên tưởng đến quy luật của tình cảm.
- 2 câu sau: Tình yêu là khát vọng lớn lao, mãnh liệt và vĩnh hằng của tuổi trẻ và nhân loại.
=> Hai khổ thơ đầu mượn sóng để nói đến những cung bậc cảm xúc của tình yêu: Tình yêu là nỗi niềm khát khao muôn thuở, luôn vươn tới cái lớn lao và hoàn
thiện nhất.

3. 2 khổ tiếp:
a) Khổ 3:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
- Điệp ngữ ‘em nghĩ’: người phụ nữ khi yêu luôn suy tư; và câu hỏi ‘Từ nơi nào sóng lên?’: người phụ nữ quay về lòng mình, nhu cầu tìm hiểu, phân tích, khám
phá tình yêu.

b) Khổ 4:
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
- Các câu hỏi tu từ liên tiếp: ‘Gió bắt đầu từ đâu?’, ‘Khi nào ta yêu nhau’ -> Xuân Quỳnh dựa vào quy luật của tự nhiên để truy tìm khởi nguồn của tình yêu nhưng
10
nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu đều bất ngờ, đầy bí ẩn, không thể lí giải được.

MỞ RỘNG: Liên hệ ‘Vì sao’ – Xuân Diệu



Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu…

4. 3 khổ tiếp:
a) Khổ 5:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
* Nỗi nhớ trong tình yêu:
- Nỗi nhớ trong đoạn thơ là nỗi nhớ bao trùm cả không gian ‘sóng dưới sóng sâu – sóng trên mặt nước’ và thao thức trong mọi thời gian ‘Ngày đêm không ngủ
được’.
-> Phép đôi, nhân hóa, giọng thơ dào dạt, náo nức, mãnh liệt, diễn tả nỗi nhớ da diết không thể nào nguôi, cứ cuồn cuộn, dạt dào như sóng biển liên miên.

b) Khổ 6:
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
* Lòng thủy chung trong tình yêu:
- 2 câu thơ đầu là cách nói khẳng định ‘dẫu xuôi – phương bắc’, ‘dẫu ngược – phương nam’ và các từ ‘em cũng nghĩ’.
- Lời diễn đạt ngượng ngạo nhấn mạnh mọi sự cách trở trong tình yêu đều là nghịch lí, đồng thời dẫu có xa xôi cách trở đến mấy, dẫu có khó khăn đến mấy thì
vì tình yêu, người con gái cũng sẽ vượt qua.
- Các điệp ngữ ‘dẫu xuôi về - dẫu ngược về’ và điệp từ ‘phương’ cho thấy với người con gái, phương duy nhất là phương anh, kim chỉ nam duy nhất là kim chỉ
nam tình yêu. Đây là 1 cách diễn đạt độc đáo, thú vị.
-> Khổ 6 khẳng định niềm tin chờ đợi và lòng thủy chung son sắt trong tình yêu của phụ nữ.

c) Khổ 7:
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
- Mượn hình tượng con sóng khao khát đến vờ và mượn quy luật của con sóng ‘Con nào chẳng tới bờ’ để khẳng định tình yêu là sức mạnh giúp em và anh vượt
qua gian lao, thử thách đế đến bến bờ hạnh phúc.
-> Xuân Quỳnh thể hiện cái tôi luôn có niềm tin mãnh liệt vào tình yêu.

5. 2 khổ cuối:
a) Khổ 8:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
- Xuất hiện những từ ngữ diễn tả quan hệ đối lập: ‘tuy – như’, ‘dẫu – vẫn’; ‘Cuộc đời – dài’, ‘Năm tháng – đi qua’.
-> Sự nhạy cảm và lo âu, phấp phỏng về sự hữu hạn của đời người và sự mong manh của hạnh phúc.

b) Khổ 9:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
- Cách dùng từ ngữ chỉ số lượng lớn thê hiện khao khát được chia sẻ, hòa nhập với mọi người ‘Làm sao được tan ra – trăm con sóng – ngàn năm còn vỗ’.
+ Khao khát được sẻ chia, hòa nhập vào cuộc đời.
+ Khát vọng được sống hết mình trong…

III. Tổng kết:


1. Nội dung:
- Vẻ đẹp của người phụ nữ trong tình yêu hiện lên qua hình tượng sóng: tình yêu tha thiết, thiết tha, nồng nàn, đầy khát vọng và son sắt, thủy chung vượt qua
mọi giới hạn của đời thường.

2. Nghệ thuật:
- Kết cấu song trùng, tương ứng, hòa hợp giữa ‘em’ và ‘sóng’.
- Thể thơ 5 chữ truyền thống, cách ngắt nhịp, gieo vần độc đáo, giàu sức liên tưởn

11
[NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ]

III. Tìm hiểu chung:


1. Tác giả: Nguyễn Tuân
a) Tiểu sử:
- Gia đình: Sinh ra trong 1 gia đình nhà Nho khi Hán học đã tan.
- Quê quán: Làng Mọc, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
- Con người: Cá tính độc đáo, khát khao xê dịch.

b) Sự nghiệp:
- Vị trí: quan trọng: thúc đẩy thể loại tùy bút, bút kí đạt đến trình độ cao.
- Phong cách: Ngông.
+ Nhân cách nghệ sĩ tài hoa, uyên bác.
+ Văn chương phóng túng, ý thức về cái tôi cá nhân.

* Phong cách nghệ thuật: là 1 cây bút tài hoa uyên bác, độc đáo và là 1 nghệ sĩ suốt đời tôn thờ và tìm kiếm cái đẹp.

2. Tác phẩm:
a) Xuất xứ:
- In trong tập tùy bút ‘Sông Đà’ (1960).

b) Hoàn cảnh sáng tác:


- Kết quả chuyến đi thực tế Tây Bắc cho thỏa khát khao xê dịch và để tìm ‘thứ vàng mười đã qua thử lửa’ ở tâm hồn người lao động.

c) Thể loại: Tùy bút:


- Bắt nguồn từ hiện thực qua đó bộc lộ cái tôi trữ tình của người viết.
- Giàu tính sáng tạo, trình bày tự do, giàu hình ảnh, từ ngữ phong phú, nhiều so sánh liên tưởng.

d) Bố cục:
- Con sông Đà: trữ tình – hung bạo.
- Người lái đò sông Đà: người lao động bình thường – người tài hoa nghệ sĩ.

II. Đọc – hiểu văn bản:


1. Ý nghĩa lời đề từ:
“Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”
(thơ Nguyễn Quang Bích)
- Câu thơ đã nhấn mạnh, ca ngợi vẻ đẹp độc đáo của Sông Đà, Sông Đà trở thành 1 nhân vật có diện mạo, cá tính độc đáo – đối tượng thẩm mỹ mà Nguyễn Tuân
khát khao kiếm tìm.
“Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”
(nhà thơ Ba Lan)
- Nhấn mạnh vẻ đẹp của tiếng hát bên dòng sông, vẻ đẹp của con người lao động. Khuynh hướng thẩm mỹ của nhà văn: đi tìm và khám phá vẻ đẹp của con
người.
-> 2 lời đề từ đã định hướng cảm hứng chủ đạo: khám phá, phát hiện và khẳng định vẻ đẹp, sự độc đáo của thiên nhiên và con người Tây Bắc qua 2 hình tượng con
Sông Đà và người lái đò Sông Đà.

2. Hình tượng con Sông Đà:


a) Vẻ đẹp ‘hung bạo’ ở thượng nguồn:
- Cảnh đá bờ sông ‘dựng thành vách’: vẻ đẹp hùng vĩ:
+ Miêu tả: ‘chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời’: đặc tả được lòng sông lúc nào cũng tối, âm u và lạnh lẽo.
+ ‘Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu’: có cảm giác nước Sông Đà chảy qua quãng này như bị nghẹn lại. Nói độ hẹp của lòng sông mà
gián tiếp nói được lưu tốc của nước từ thượng nguồn đổ xuống nhanh, mạnh và xiết.
+ So sánh kết hợp với liên tưởng, tưởng tượng giúp người đọc có 1 sự hình dung thú vị: ‘Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy
lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện’ và cảm nhận
được không khi mát lạnh không kể mùa nào của Sông Đà.
-> Sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, vừa huyền bí qua bút pháp miêu tả 1 vài chi tiết ấn tượng cùng với nghệ thuật so sánh và phép liên tưởng, tưởng tượng độc đáo.

* Mặt ghềnh Hát Loóng:


- Câu vần có cấu tạo độc đáo, cấu trúc đặc biệt: 1 câu văn dài, có sự trùng điệp ở những vế ngắn ‘nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió’, sử dụng phép điệp ngữ,
điệp cấu trúc và sử dụng nhiều thanh trắc ‘đá – sóng – gió – nước’ diễn tả được sức mạnh dữ dội, dồn dập, mãnh liệt, đầy tính uy hiếp của ghềnh sông đối với
nhà đò.
- Để tôn lên sức mạnh, tính uy hiếp của ghềnh sông, nhà văn tả về sự kết hợp, cộng hưởng của các yếu tố: nước, đá, sóng, gió: ‘nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió’.
- Từ láy ‘cuồn cuộn’, ‘gùn ghè’ kết hợp với phép nhân hóa ‘như đòi nợ xuýt’ đem đến cho người đọc 1 sự liên tưởng rằng Sông Đà mang dáng vẻ của 1 tên đòi nợ
thuê hung ác, dữ dằn.
-> Bằng nghệ thuật miêu tả kết hợp với liên tưởng, nhà văn đặc tả thật ấn tượng âm hưởng dữ dội, mạnh liệt, cuồng nộ của mặt ghềnh Hát Loóng.

* Các hút nước (xoáy nước):


- Nghệ thuật so sánh: ‘giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu’.
- Nhân hóa: ‘Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc’.
- Liên tưởng: đi qua cái hút nước ‘y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua môt quãng đường mượng cạp ra ngoài bờ vực’.
- Tác giả kết hợp tả với kể: bè gỗ bị rơi vào những cái hút nước, trồng cây chuối, dìm đi và sau đó tan tác thành từng mảnh trôi dạt xuống khuỷnh sông dưới.
- Tưởng tượng: 1 anh quay phim ngồi trên thuyền thúng, cho cả người cả thuyền, cả máy quay vào cái hút nước, từ đáy hút nước quay lại cảnh tượng khủng
khiếp (Nguyễn Tuân đặc biệt có cảm hứng với những gì thuộc về cảm giác mạnh).
- Ví von cái hút nước như 1 cái ly khổng lồ, con thuyền giống như chiếc lá rừng. Con thuyền ‘lá’ hoàn toàn vô lực trước cái xoáy nước do ai đó mạnh tay khuấy
vào.
=> Tất cả những thủ pháp nghệ thuật trên nhằm nhấn mạnh những cái hút nước như những cạm bẫy đầy nguy hiểm. Tác giả đã tác động mạnh vào các giác quan
đó bị khuyếch trương đến ngưỡng cực đại của nỗi sợ hãi.

* Âm thanh thác nước Sông Đà:


- Miêu tả âm thành từ xa vọng lại, từ xa đến gần.
+ Từ ngữ miêu tả: réo, réo to mãi lên.
12
+ Nhân hóa: tiếng nói oán trách, van xin, giọng gằn, chế nhạo.
-> Thác nước hiện lên như 1 tên tướng giặc nham hiểm đã được trang bị bài bản chiến thuật tâm lí chiến nhằm giở thủ đoạn dụ dỗ người lái đò.
- Miêu tả độc đáo cái nhất, thể hiện đậm nét cái tôi ‘nhất’ của Nguyễn Tuân: so sánh âm thanh man dại của thác nước với tiếng rống tuyệt vọng của 1000 con
trâu mộng giữa biển lửa. Dùng lửa để tả nước, dùng rừng để tả sông và tôn lên được âm thanh của thứ thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của sự man dại, dữ dội.
Thác nước Sông Đà không khác gì 1 loài thủy quái khổng lồ.
=> Nguyễn Tuân như 1 nhạc trưởng tài ba đang điều khiển bản giao hưởng trường ca của nước và đem đến cho người đọc 1 ấn tượng độc đáo, lạ lẫm và đầy rung
động mãnh liệt trước vẻ đẹp kì vĩ của thiên nhiên.

* Đá Sông Đà:
- ‘Cả một chân trời đá’: đá to, đá bé, đá đứng, đá ngồi, ‘tùy sở thích’, ‘mặt thằng nào thằng nấy nhăn nhúm, méo mó, ngỗ ngược’. Nhà văn đã miểu tả rất sinh động
đá Sông Đà.
- ‘Ngàn năm vẫn mai phục nơi đây’. Bày ra 4 thạch trận trên sông:
+ Thạch trận 1: 5 cửa, trong đó 4 cửa tử - 1 cửa sinh, lập lờ phía tả ngạn.
+ Thạch trận 2: tăng thêm nhiều cửa tử, 1 cửa sinh nằm ở hữu ngạn.
+ Thạch trận 3: trái phải đều là luồng chết, cửa sinh nằm ở giữa phía sau lũ đá hậu vệ.
-> Nguyễn Tuân đã khám phá sức mạnh dữ dội và man dại của thiên nhiên Sông Đà nơi thượng nguồn. Ông phát hiện ra được ‘thứ vàng trắng’ (tiềm năng thủy
điện) quý giá mà con Sông Đà sẽ mang lại cho những buổi đầu kiến thiết đất nước, những năm 60 của thế kỉ trước.

b) Vẻ đẹp ‘trữ tình’ của Sông Đà ở hạ nguồn:


- Mang 1 gương mặt hoàn toàn khác ở hạ nguồn. Đó là vẻ đẹp trữ tình và duyên dáng được nhìn ở những góc độ khác nhau (trên cao xuống, cận cảnh từ rừng
ra, ở giữa sông nhìn về hướng vờ).

b1) Dáng vẻ của dòng sông chảy từ trên cao nhìn xuống:
- ‘Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trồi Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói
núi Mèo đốt nương xuân’.
- Cấu tạo là 1 câu văn dài, điệp ngữ ‘tuôn dài’: sử dụng chủ yếu là thanh bằng, phép so sánh và nhân hóa: Sông Đà được ẩn hiện trong mây trời được tô điểm
bằng hoa ban trắng, hoa gạo đỏ, trong khói núi Mèo giàu chất điện ảnh, giàu chất thơ, chất hội họa.
+ Cách nói ‘áng tóc trữ tình’: từ ‘áng’ rất đẹp
-> Nhà văn đã thu được cái thần, cái hồn, cái bảng lảng sương khói, vẻ đẹp êm ả, hiền hòa của dòng sông. Sông Đà đã hóa thân thành 1 ‘mĩ nhân dịu hiền và xuân
sắc’.

b2) Sắc nước Sông Đà biến ảo theo mùa được nhìn ở nhiều chiều thời gian:
- Mùa xuân ‘dòng xanh ngọc bích’: so sánh màu nước vừa trong veo vừa xanh biếc vừa lấp lánh như ngọc.
- Mùa thu ‘lừ lừ chín đỏ’: so sánh màu nước như 1 thứ quả đang từ từ chín, cứ ửng dần lên; so sáng màu nước như ‘da mặt của một người bầm đi vì rượu bữa’;
‘vẻ mặt của một người bực bội, bất mãn mỗi độ thu về’; đó là 1 màu đỏ đậm, đỏ bầm. Nét độc đáo của Nguyễn Tuân là ông lấy tâm trạng, thái độ của con người để
liên tưởng đến màu nước, làm nổi bật lên 1 con sông trĩu nặng phù sa sau thác lũ.
-> Lối so sánh của Nguyễn Tuân rất thú vị, độc đáo; chất kí và tùy bút hòa quyện vào nhau làm nên 1 con sông vừa huyền ảo vừa thơ mộng.

b3) Bờ bãi Sông Đà: cận cảnh từ rừng bàng ra sông:


- Con Sông Đà gợi cảm qua cảm xúc ngỡ ngàng của nhà văn, ông bày tỏ niềm vui khi gặp lại Sông Đà như niềm vui bất ngờ khi gặp lại cố nhân. Nhân hóa con
Sông Đà như 1 cố nhân.
- Nhà văn liên tưởng ánh sáng lóe lên ở dòng sông giống màu nắng tháng 3 Đường hi. Màu nắng đó đã phủ lên Sông Đà 1 vẻ đẹp huyễn hoặc, thật mà như không
thật. Nó rực rỡ, lấp lánh tựa như dòng sông Trường Giang trong Đường thi thuở nào.
- Bộc lộc cảm xúc của mình tựa như 1 đứa trẻ với những niềm vui không che giấu: so sánh ‘vui như thấy nắng giòn tan’, ‘vui như nối lại chiêm bao đứt quãng’.
-> Đó là niềm vui, cảm xúc của 1 người gặp lại ‘cố nhân’, 1 cố nhân vừa quen vừa lạ qua liên tưởng rất thú vị.

b4) Cảnh ven sông được nhìn từ góc độ đi thuyền trên Sông Đà:
- Con sông tĩnh lặng, hoang vắng tựa như thừi tiền sử ‘lặng lờ’.
- Vẻ đẹp hoang sơ, hồn nhiên, trong sáng, chỉ có thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên.
- Nguyễn Tuân miêu tả giàu chất thơ: ‘nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa’, cỏ gianh đang ra những nõn búp. 1 đàn hươu cúi đầu ngốn những búp cỏ
gianh đẫm sương đêm…: bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống non trẻ, thanh khiết, trù phú, yên bình và thơ mộng.
- Sở trường so sánh, liên tưởng độc đáo: ‘Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa’. Nhà văn thấy được vẻ đẹp
rất riêng của Sông Đà – xa xăm, nhuốm mùa cổ tích, huyền thoại.
-> Trong niềm cảm hứng dạt dào, Nguyễn Tuân đã viết nên 1 đoạn văn xuôi chất thơ với những ví von liên tưởng độc đáo đưa người đọc đến 1 không gian lãng
mạn. Sông Đà với Nguyễn Tuân còn tình tứ như ‘một người tình nhân chưa quen biết’.
=> Cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Tuân và con Sông Đà như 1 mối duyên kì ngộ giữa 1 cái tôi phóng túng với 1 đối tượng thẩm mỹ độc đáo. Sông Đà là minh chứng cho
ngòi bút tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân. Sông Đà như 1 công trình nghệ thuật vô song của tạo hóa, chuẩn bị cho sự xuất hiện của ông lái đò với những vẻ đẹp
tương ứng ở đoạn sau.

3. Hình tượng người lái đò:


a) Lai lịch, ngoại hình:
- Người Lai Châu, khoảng 70 tuổi, làm nghề chở đò dọc, trao đổi hàng hóa giữa miền xuôi và miền ngược, nhà ở ngã tư sông.
- Tráng kiện như chàng trai, thân hình đặc quánh như chất sừng, chất mun, tay dài lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh cao vời vợi, giọng nói thì ào ào
như tiếng nước trước mặt ghềnh.
-> Sinh ra ở vùng sông nước Sông Đà, mang tố chất của người làm nghề sông nước.

b) Người tài trí, dũng cảm, lão luyện trong nghề leo ghềnh vượt thác:
b1) Ông lái đò trong hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt:
- Cuộc sống là 1 cuộc chiến đấu, hàng ngày giành cái sống từ tay Sông Đà hung bạo: đó là cuộc chiến đấu không cân sức giữa 1 con Sông Đà cuồng nộ với 1 con
người lao động bé nhỏ chỉ có 1 con thuyền 6 mái chèo.
- Ông lái đò là 1 người hiểu biết sâu sắc về Sông Đà:
+ Nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá.
+ Thuộc lòng quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước.
- Nhờ thế ông đã giành được sự sống từ Sông Đà.
- Cuộc thủy chiến giữa ông lái đò với Sông Đà:

THẠCH TRẬN 1
SÔNG ĐÀ ÔNG ĐÒ
- 4 cửa tử - 1 cửa sinh (trái) - Giữ vững mái chèo khỏi bị hất lên khỏi trận địa.
- Đá tiền vệ oai phong lẫm liệt. - Cố nén vết thương.

13
- Nước thác ‘thanh viện’: hò reo, cổ vũ cho đá. - Hai chân kẹp chặt cuống lái.
- Động từ thể hiện sự chủ động tấn công của đá: - Chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo.
‘đá trái’, ‘thúc gối’, ‘đội cả thuyền lên’. -> So sánh, miêu tả: vững vàng, bình tĩnh.
-> Nhân hóa, liên tưởng: Sông Đà hung hãn, hiếu
chiến.

THẠCH TRẬN 2
SÔNG ĐÀ ÔNG ĐÒ
- Tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh bên phải. - Nắm chắc binh pháp, thuộc lòng quy luật.
- Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông - Nắm lấy cái bờm sóng, ghì cương lái, phóng
đá. nhanh vào cửa sinh.
- Núi thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. - Rảo bơi chèo, đè sấn lên cửa đá, mở đờng tiến.
-> Nhân hóa, liên tưởng: hiểm ác, hiếu thắng. - Bỏ lại luồng tử sau lưng thuyền.
-> So sáng, dùng động từ mạnh: chủ động, bản lĩnh
và trí tuệ.

THẠCH TRẬN 3
SÔNG ĐÀ ÔNG ĐÒ
- Trái phải đều là luồng chết, cửa sinh ở giữa. - Đưa thuyền vút qua cổng đá, cánh mở cánh khép.
-> Nhân hóa, liên tưởng: Sông Đà nguy hiểm tột độ, - Thuyền như 1 mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
hiếu sát. nước (thuyền với ông lái đò hòa làm 1).
-> So sánh, liên tưởng: quyết đoán, tài hoa, khéo
léo.

=> Bằng nghệ thuật kể và tả hồi hộp, căng thẳng: sử dụng từ ngữa thuộc nhiều lĩnh vực, Nguyễn Tuân đã say sưa tường thuật trận chiến sinh tử giữa ông đò và
Sông Đà. Chiến thắng thuộc về người lái đò cũng như thuộc về ‘ông lái đò chữ nghĩa Nguyễn Tuân’ trên ‘dòng sông con chữ’.

c) Vẻ đẹp thanh cao, bình dị trong tâm hồn:


- ‘Sông thác xèo xèo tan trong trí nhớ’: với nhà đò, công việc đó là bình thường là cuộc sống, không có gì đáng để kể, để khoe.
-> Vẻ đẹpc ủa sự khiêm nhường.
- Họ trở về với cuộc sống thanh thản, vô ưu, tận hưởng những thú vui tao nhã đời thường: đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, bàn về cá anh vũ, cá dầm
xanh, những hang ca túa ra tràn bờ ruộng…
-> Họ mang cốt cách của người nghệ sĩ giữa đời thường, người nghệ sĩ, anh hùng trong lao động – đối tượng mới trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau Cách mạng
tháng 8.
=> Ca ngợi vẻ đẹp người lao động vô danh vùng Tây Bắc, nhà văn yêu mến gọi họ là ‘chất vàng mười đã qua thử lửa’.

4. Nghệ thuật:
- Bút pháp lãng mạn, tài hoa, uyên bác.
- Vốn từ ngữ phong phú, giàu có, điêu luyện và sáng tạo.
- Lối viết tự do, phóng túng, dạt dào cảm xúc.
- Phát huy tối đa sở trường so sánh, nhân hóa, liên tưởng, tưởng tượng.

III. Ý nghĩa văn bản:


- Người lái đò Sông Đà là 1 áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của 1 con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì
vĩ, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.
- Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc, cùng sự tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩ để tái tạo
những kì công của tạo hóa và những kì tích lao động của con người.

14
[AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG]

I. Tìm hiểu chung:


1. Tác giả: Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Nhà văn chuyên về bút kí.
- Nét đặc sắc trong sáng tác kết hợp nhuần nhuyễn giữa:
+ Chất trí tuệ và tính trữ tình.
+ Nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều.
- Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.

2. Tác phẩm:
a) Xuất xứ:
- ‘Ai đã đặt tên cho dòng sông?’ được viết năm 1981, in trong tập sách cùng tên.

b) Vị trí đoạn trích:


- Thuộc phần thứ nhất của tác phẩm.

c) Thể loại:
- Bút kí.

II. Đọc – hiểu văn bản:


1. Thủy trình của Hương Giang:
a) Vẻ đẹp của Sông Hương ở thượng nguồn:
a1) Giữa lòng Trường Sơn:
- ‘Sông Hương là thuộc về 1 thành phố duy nhất’: câu văn chứa chan tình cảm tự hào của tác giả dành cho sông Hương.
- ‘Sông Hương là bản trường ca của rừng già’: với 1 lối so sánh độc đáo, nhà văn đã ví vón sh như 1 bản trường ca của rừng già với nhiều tiết tấu hùng tráng và
dữ dội.
+ Sử dụng từ láy, từ ngữ gợi tả như ‘rầm rộ’, ‘mãnh liệt’, ‘cuộn xoáy’. Các từ ngữ này vừa gợi tả hình ảnh, vừa gợi tả âm thanh.
- ‘Cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng’.
-> Vẻ đẹp nên thơ, tình tứ, mê đắm, quyến rũ.
-> Với những từ ngữ giàu giá trị gợi hình, gợi tả chính xác vẻ đẹp sông Hương vừa hùng vĩ, man dại, vừa trữ tình, say đắm lòng người.
- Bằng biện pháp so sánh và nhân hóa, tác giả liên tưởng:
+ Sông Hương ‘như 1 cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại’ với 1 ‘bản lĩnh gan dạ, 1 tâm hồn tự do và trong sáng’.
-> Vẻ đẹp nữ tính, vừa dịu dàng mãnh liệt, hoang sơ.

a2) Khi nó chảy ra khỏi rừng:


- Sông Hương trở thành người mẹ đơn sơ, là ‘người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở’.
+ Sông Hương là khởi nguồn, sự bắt đầu của 1 không gian văn hóa Huế.
+ Đã góp phần tạo nên và bảo tồn văn hóa của thiên nhiên xứ sở.
-> Chiều sâu trong vẻ đẹp của dòng sông: khơi về nguồn cội để khám phá vẻ đẹp sâu thẳm, sức sống mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính.

b) Sông Hương chảy về đồng bằng, ngoại vi thành phố Huế.


- Chủ yếu được nhìn/tái hiện ở góc độ địa lí:
- Bằng nghệ thuật nhân hóa, sông Hương chảy xuôi về đồng bằng được tác giả ví von như 1 người tình dịu dàng, chung thùy, trải qua hành trình đầy gian truân
để tìm gặp ‘người tình mong đợi’.
- Nhà văn hình dung về hành trình của sông Hương, đây là ‘cuộc tìm kiếm có ý thức’ của ‘người con gái sông Hương’; mang 1 câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ
tích như ‘người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại’ chờ ‘người tình mong đợi đến đánh thức’.
- Tác giả thể hiện lối hành văn lịch lãm và tài hoa, uyến bác khi diễn tả dòng sông chảy qua những địa danh khác nhau:
+ Chảy giữa cánh đồng Châu Hóa.
+ Chuyển dòng 1 cách liên tục.
+ Uốn mình theo những đường con thật mềm.
+ Trôi theo hướng Nam – Bắc qua điện Hòn Chén: ‘vấp Ngọc Trản’, ‘chuyển hướng sang tây bắc’, vòng qua ‘Nguyệt Biều, Lương Quán’, uốn 1 hình cung về
phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dẫn về Huế.
+ Trôi đi giữa 2 dãy đồi sừng sững như ‘Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo’.
-> Qua những từ ngữ chuyển dòng, uốn mình, vẫn đi trong dư vang , trôi đi, vượt qua… Sông Hương tựa như 1 nàng tiên được đánh thức bỗng bừng lên sức trẻ và
niềm khao khát tuổi thanh xuân.
- Sông Hương được nhìn qua những trạng thái và vẻ đẹp khác nhau:
+ ‘mềm như tấm lụa’.
+ ‘có lúc thì phản quang’ làm cho thành phố ‘sớm xanh, trưa vàng, chiều tím’.
+ ‘có lúc mang vẻ đẹp trầm mặc nhất như triết lí, như cổ thi khi nó vòng qua bao lăng tẩm, đền đài của các vua chúa thời Nguyễn’.
-> Bằng biện pháp tả kể làm cho vẻ đẹp của sông Hương trở nên vừa dịu dàng, vừa mạnh mẽ.

c) Sông Hương chảy vào lòng thành phố Huế:


- Sông Hương đã hoàn thành cuộc tìm kiếm có ý thức, được là chính mình khi gặp người tình mong đợi ‘là thành phố Huế’.
- Sông Hương như 1 con người biết mang tâm trạng: ‘Sông Hương vui tươi hẳn lên’, ‘yên tâm’, mềm hẳn đi như 1 tiếng ‘vâng’ không nói ra của tình yêu.
-> Là tâm trạng của 1 người đi xa, tìm đúng đường về với những cảm giác nao nức, bồi hồi. Câu văn có 1 lối so sánh, ví von là dùng 1 tiếng vâm em ấp, ngập ngừng,
thiêng liêng trong tình yêu để tả dáng vẻ mềm mại của dòng sông cho thấy cái nhìn tình tứ của nhà văn.
- Nhà văn so sánh Sông Hương với những dòng sông nổi tiếng trên thế giới: Sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Nga.
+ Tương đồng: đều thuộc về 1 thành phố duy nhất, là linh hồn của 1 thủ đô, cố đô là biểu tượng văn hóa của quốc gia.
+ Khác biệt: sông Hương ‘trôi đi chậm, thực chậm, cơ hội chỉ còn là một mặt hồn yên tĩnh’.
-> Là cách thức để nhà văn bày tỏ lòng yêu mến và tự hào về con sông yêu thương của mình.
- Tác giả cảm nhận sông Hương ở nhiều góc độ.

* Góc độ hội họa, kiến trúc:


- Soi bóng ‘chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vần trăng non’.
- Sông Hương cùng những chi lưu của nó làm nên vẻ đẹp cổ kính của 1 đô thị cũ.

* Góc độ âm nhạc:
- ‘Quý điệu chảy lặng lờ’ của nó khi chảy ngang qua thành phố, ‘điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế’.
- Cách miêu tả của nhà văn vừa thấy tình cảm mà nhà văn dành riêng cho sông Hương mà vừa như cảm nhận được tình cảm quyến luyến của sông Hương dành

15
riêng cho Huế trước khi ra biển.
- ‘Sông Hương khi người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya’.
- Nhà văn cho rằng toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được ‘sinh thành trên mặt nước của dòng sông này’. Qua sự quan sát tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường khám
phá ra sông Hướng gắn với lịch sử âm nhạc lâu đời của Huế. Là cái nôi hình thành nền âm nhạc truyền thống. Liên tưởng đến Nguyễn Du và Truyện Kiều, tưởng
tượng đến điệu tứ đại cảnh khởi phát từ tiếng đàn của Kiều – kết quả sáng tạo của Nguyễn Du sau bao năm lênh đênh trên 1 quãng sông này với 1 phiến trăng
sầu.
-> Khẳng định dòng sông gắn bó với những giá trị văn hóa, văn học kinh điển của dân tộc.

* Góc độ tình yêu (đoạn sông Hồng trước khi chảy ra biển)
- Tác gả nhìn sự đột ngột đổi dòng, rẽ hướng để quay lại gặp thành phố lần cuối trước khi ra biển mà liên tưởng tới cuộc chia tay lưu luyến bị rịn của Kiều trong
đêm tình tự, khúc ngoặc bất ngờ đó so sánh như nỗi ‘vấn vương’ cả 1 chút ‘lẳng lơ, kín đáo’ của tình yêu.
-> Sông Hương cũng giống như con người biết quyến luyến. Và 1 lần nữa tác giả khẳng định lại, sông Hương như 1 người tình dịu dàng và chung thủy của thành
phố Huế, giống với người Châu Hóa xưa mãi chung tình với quê hương xứ sở.

2. Sông Hương dưới góc độ lịch sử, đời thường, thi ca:
a) Lịch sử:
- ‘Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc’: sông Hương mang 1 vẻ đẹp vừa trữ tình, vừa hùng tráng.
+ Thời Nguyễn Trãi: sông Hương có tên gọi là Linh Giang, là dòng sông biên thùy.
+ Thế kỉ XVIII, là dòng sông vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân với chiến công của vua Quang Trung.
+ Thế kỉ XIX, là trang sử bi tráng với các cuộc khởi nghĩa đẫm máu.
+ Thế kỉ XX, gắn với những chiến công rung chuyển.
+ Trong kháng chiến chống Mĩ, là trang sử bi hùng, xót xa chứng kiến những di tích văn hóa bị tàn phá bởi chiến tranh.
-> Sông Hương gắn với những trang sử thăng trầm của thành phố Huế.

b) Thi ca:
- Sông Hương trở thành nguồn cảm hứng bất tận.
- Dòng sông ‘không chịu lặp lại mình’ trong cảm hứng sáng tạo của các nghệ sĩ.
+ Là dòng sông quan hoài vạn cổ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan.
+ Là dòng sông hùng tráng như kiếm dựng trời xanh trong thơ Cao Bá Quát.
+ Là ‘dòng sông trắng, lá cây xanh’ trong thơ Tản Đà.
+ Là ‘dòng sông trong veo, phục sinh’ trong thơ Tố Hữu.

c) Đời thường:
- Hết chiến tranh, sông Hương trở về làm người con gái dịu dàng, bình thường của đất nước với vẻ đẹp giản dị, thâm trầm và rất Huế. Khi nhà văn ví dòng sông
với sắc nước như chiếc áo lục điều của của cô dâu.

3. Nghệ thuật:
- Về văn phong: lối viết tài hoa, mê đắm, hướng nội và có chiều sâu.
- Ngôn từ: vốn từ phong phú, gợi hình và gợi cảm.
- Sử dụng nghệ thuật nhân hóa, so sánh, liên tưởng có hiệu quả.

III. Ý nghĩa văn bản:


- Sông Hương hiện lên với vẻ đẹp đa dạng, huyền ảo, gắn liền với văn hóa Huế trong tình yêu tha thiết và trong sự hiểu biết sâu sắc của nhà văn Hoàng Phủ
Ngọc Tường.

16
[VỢ CHỒNG A PHỦ]

I. Tìm hiểu chung:


1. Tác giả: Tô Hoài
- Là nhà văn lớn, có khối lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam chủ yếu là đến từ tự học.
- Thành công nhất ở văn xuôi hiện thực.
- Phong cách nghệ thuật: biệt tài miêu tả thiên nhiên, phong tục tập quán vùng núi và miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật bằng lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động
và vốn từ vựng giàu có.

2. Tác phẩm:
a. Xuất xứ: 1952 – 1953
- In trong tập truyện Tây Bắc, là kết quả của chuyến đi theo bộ đội giải phóng lên Tây Bắc.

b. Vị trí đoạn trích:


- Thuộc phần 1: Cuộc đời của Mị và A Phủ dưới ách thống trị của thực dân và chúa đất ở Hồng Ngài.

c. Tóm tắt:

II. Đọc – hiểu văn bản:


1. Nhân vật Mị:
a. Cách giới thiệu mở đầu của tác giả:
- Tác giả mở trực tiếp theo kiểu truyền thống về kiểu nhân vật bất hạnh.
- Cách kể dựa trên hình ảnh so sánh đối lập để tạo sự tò mò ở người đọc về số phận nhân vật: Hình ảnh 1 cô gái lẻ loi âm thầm, gần như lẫn vào cách vật vô tri,
vô giác ‘khung cửi, tảng đá, tàu ngựa’, hoàn toàn đối lập với cảnh đông đúc, tấp nập của nhà Thống lí. Hình ảnh 1 cô con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhất
làng mà có khuôn mặt buồn rưti rượi và lúc nào cũng cúi đầu.
- Nhà văn Tô Hoài đã bắt đầu câu chuyện cổ có thật của mình về những thân phận về nông nô ở Tây Bắc trước Cách mạng.

b. Cô Mị và cuộc đời cực nhọc, khổ đau:


* Cô Mị trước khi bị bắt về làm dâu nhà Thống lí:
- Là 1 người con gái trẻ đẹp, tài hoa.
+ ‘Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị’.
+ ‘Thổi lá hay’.
- Là người con gái hiếu thảo, chăm chỉ, có ý thức về tình yêu, hạnh phúc và cuộc sống tự do.
+ ‘Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu’.
-> Bông hoa đầy hương sắc giữa 1 núi rừng Tây Bắc.

* Lí do bị bắt về làm dâu:


- Từ món nợ của đời bố mẹ Mị để lại.
- Mị bị lừa bắt: ‘A Sử lợi dụng tập tục bắt vợ để lừa Mị’, ‘trình ma nhà thống lí và trở thành cô con dâu gạt nợ’. -> Trả nợ đến tàn đời.

* Phản ứng của Mị khi bị bắt về làm dâu:


- ‘Rặng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc’, Mị trốn về nhà lạy cha, định tìm đến cái chết.
-> Việc trở thành vợ A Sử, con dâu nhà giàu khiên Mị vô cùng đau khổ và phản ứng của Mị là phản ứng của 1 người không cam chịu 1 cuộc sống tù túng, ép buộc.
- Vì thương cha, Mị phải nén nỗi buồn, nỗi đau riêng, trở về nhà của thống lí, tiếp tục kiếp sống trâu ngựa.

* Từ khi chấp nhận cảnh ngộ:


- Mị sống âm thầm như chiếc bóng, bị tê liệt tinh thần phản kháng đến mức ‘Bố Mị chết. Nhưng Mịcuxng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa’. Với
Mị bây giờ, sống cũng là 1 hình thái khác của chết, sống hay chết đều như nhau vì: ‘Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi.’. Mị đã đi đến trạng thái vô cảm với
chính bản thân mình.
- Nhà văn 2 lần so sánh:
+ So sánh bằng: ‘Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa’. Mị tự so sánh thân phận mình cũng giống con trâu, giống con ngựa,
‘cũng chỉ biết đi làm mà thôi’. Suy nghĩ này cho thấy điều đáng sợ nhất đã xảy ra và cho thấy thái độ bằng lòng, cam chịu, chấp nhận số phận.
+ So sánh hơn: ‘Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả
ngày.’. Câu văn phản ánh tình trạng bị bóc lột tàn tệ và sống dưới mức của 1 con người.
- Mị sống ‘lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa’, vô tri, vô hình, vô tiếng, sống câm lặng.
- Chi tiết nghệ thuật giàu tính ám ảnh: Căn buồng của Mị được nhà văn miêu tả tỉ mị, ấn tượng:
+ ‘1 chiếc cửa sổ 1 lỗ vuông bằng bàn tay’.
+ ‘Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.’.
-> Mị sống ở nơi đó như giam hãm cuộc đời mình trong ngục thất tinh thần, đánh mất ý niệm thời gian. Đây là 1 chi tiết biểu tượng cho thứ ngục thất tinh thần
giam hãm khát vọng sống, khát vọng tự do của 1 cô gái trẻ.
=> Mị đã bị đầu độc, mê muội về tinh thần bởi bóng tối của thần quyền, bị bóc lột tàn tệ sức lao động bởi sự áp chế của cường quyền. Mị soosng mà như đã chết, vô
cảm với tất cả mọi thứ xảy ra xung quanh, cô đã đi đến cực hạn của nỗi đau thân phận.

c. Cô Mị với sức sống tiềm tàng, trỗi dậy mãnh liệt:


* Biệt tài miêu tả thiên nhiên:
- Cảnh sắc thiên nhiên và phong tục Tây Bắc hiện ra rất gợi cảm:
+ Gió và rét rất dữ dội.
+ Cỏ tranh vàng ửng.
+ Những chiếc váy hoa phơi trên mỏm đó xòe như những con bướm sặc sỡ.
+ Tiếng trẻ con chơi con quay cười ầm trước sân.
-> Đó cũng là những dấu hiện báo hiệu rằng những đêm tình mùa xuân đã tới.
-> Bằng 1 vài nét phác, cảnh đặc trưng của Tây Bắc khi Tết đến xuân về hiện lên thật mĩ lệ. Đoạn văn cho thấy sự am hiểu và tài năng miêu tả thiên nhiên cũng như
phong tục người Mông của tác giả.

* Những yếu tố tác động làm hồi sinh tâm hồn Mị:
- Các yếu tố ngoại cảnh của mùa xuân.
- Đặc biệt là âm thanh của tiếng sáo: được miêu tả từ xa đến gần, từ mơ hồ đến cụ thể, vừa là tiếng sáo thực vừa là tiếng sáo trong tâm tưởng: Tiếng sáo lấp ló
ngoài đầu núi, tiếng sáo rũ bạc ở đầu làng, tiếng sáo lửng lơ ở ngoài đường.
-> Nó có sức mạnh len lỏi vào mọi ngóc ngách tâm hồn và làm tan chảy lớp băng vô cảm của Mị. Làm Mị ‘thiết tha, bồi hồi’, ‘Mị ngồi nhẩm thầm bài hát’.
+ Tiếng sáo đưa Mị trở về quá khứ: Từ cõi quên trở về cõi nhớ, tác động vào ý thức của Mị, làm Mị sống lại những ngày tươi đẹp trong quá khứ khi còn là 1
người con gái trẻ trung, xinh đẹp được biết bao chàng trai say mê, theo đuổi.
17
+ Tiếng sáo thôi thúc Mị đến với những cuộc chơi như bao nhiêu trai gái người Mông khác, thôi thúc Mị đi theo tiếng gọi của tình yêu và đời sống tự do. Mị
ý thức được bản thân mình ở hiện tại ‘Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi’. Tiếng sáo biểu tượng cho khát vọng và thổi bừng ngọn lửa khát vọng trong
tâm hồn Mị.
- Men rượu nồng nàn:
+ Cách Mị uống rượu: Mị uống ực từng bát, cách uống đầy phẫn uất và đầy khát khao. Uống như thể cố nuốt trôi những uất ức, tủi nhục của những năm
tháng qua, uống cho cả những khát khao mãnh liệt của phần đời chưa tới.
+ Men rượu, cơn say khiến cho Mị có những suy nghĩ phản kháng táo bạo:
* Mị muốn đi chơi. Mị sẽ đi chơi như bao người phụ nữ có chồng khác.
* ‘Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra.’. Lúc này, Mị muốn phủ
nhận sự sống của chính mình. Nghĩa là cô đã ý thức được tình trạng tủi nhục, vô cảm ở hiện tại và cũng không muốn tiếp tục cuộc sống vô nghĩa như thế nữa.
+ Mị bước vào buồng như 1 thói quen: Nhưng không phải để tiếp tục làm con rùa nuôi trong xó cửa mà để sửa soạn đi chơi. Cô thắp sáng đĩa đen như muốn
thắp sáng lại đời mình, vấn lại tóc – lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, người đàn bà ấy chăm chút bề ngoài của bản thân, và chiếc váy hoa trên vách chuẩn bị đi
chơi.
-> Sức sống tiềm tàng đã trỗi dậy trong ý thức, qua hành động, thế nhưng A Sử trở về:
+Bằng 1 hành động tàn nhẫn và vô cảm, A Sử trói đứng Mị vào cột nhà, khép cửa và đi chơi. Thế nhưng Mị ‘không biết mình đang bị trói’ bởi hơi rượu vẫn
nòng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi. Tiếng sáo đã làm chủ và dẫn lối cho tâm hồn Mị, Mị vùng bước đi, ‘đi theo tiếng gọi khát khao,
của con tim’. Nó khiến Mị quên đi thực tại nghiệt ngã trong chốc lát.
+ Sợi dây trói đưa Mị trở về thực tại.
+ Tiếng sáo tắt hẳn, thứ âm thanh của thực tại: Tiếng ngựa nhai cỏ, gãi chân. ‘Mị thổn thức nghĩ rằng mình không bằng con người’. Cụm từ ‘thổn thức nghĩ
rằng’ cho thấy Mị đã hi sinh về cảm giác, nhận thức. Khi khát vọng sống cũng là khi Mị nhận thức được nỗi đau thân phận.
=> + Đoạn văn đêm tình mùa xuân được đánh giá là đoạn giàu chất thơ nhất, thấm đẫm chất nhân văn, ghi nhận thành công của Tô Hoài ở khả năng phân tích
tinh tế, diễn tả nội tâm của nhân vật.
+ Niềm khát khao sống tiềm tàng trong Mị vừa mới trỗi dậy đã bị dập tắt không thương tiếc, Mị trở lại với nhịp sống và trạng thái vô cảm như trước khi nhưng
tâm hồn cô tựa như 1 hòn than tạm thời vị vùi dưới lớp tro tàn bụi bặm chờ cơ hội để bùng cháy lên.

d. Cô Mị với sức phản kháng táo bạo, mãnh liệt qua đêm mùa đông năm sau khi cởi dây trói cho A Phủ và tự giải phóng cho mình:
* Những đêm mùa đông cô đơn bên bếp lửa:
- Câu văn tả cảnh ‘Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn’.
+ Nét đặc trưng của Tây Bắc.
+ Câu văn tả cảnh mà như khơi mở thế giới của tâm trạng.
-> Cảnh có sự đồng điệu với phận người. Câu văn như tiếng thở dài ngậm ngùi và thương cảm.
- Những chi tiết lặp đi lặp lại ‘thổi lửa’, ‘sưởi lửa hơ tay’: lặp đi lặp lại như 1 lập trình đơn điệu, buồn chán. Tô đậm nỗi cô đơn, héo úa, trạng thái sống vật vờ, vô
hồn của Mị. Sức ấm nóng của ngọn lửa không đủ sức xua đi sự lạnh leo, giá băng trong tâm hồn.
-> Sau mùa xuân năm ấy: Mị trở về cảnh sống ‘lùi lũi như con rùa nổi trong xó cửa’, không vui, không thiết tha với mọi điều xung quanh.

* Thái độ của Mị khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói đứng:


- ‘Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế.’, ‘Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay.’.
+ Nhà văn trần thuật khách quan: khắc họa đậm nét sự lạnh lùng, vô cảm trong trái tim băng giá của Mị.
- ‘Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi.’.
+ Không quan tâm, không tò mò đến sự sống chết của 1 người đàn ông trong gian bếp của mình.
+ Đến thân mình, Mị còn không thương, sao biết thương người. Mị đã chai sạn, trơ lì trước mọi nỗi đau, từ thân xác đến tâm hồn. (‘Có đêm A Sử chợt về, thấy
Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.’)
+ Tình cảnh người bị trói đứng nhiều ngày trong nhà thống lí là cảnh thường tình, quen thuộc, chính Mị cũng từng bị trói như thế.
-> Nỗi xót xa, ngậm ngùi của nhà văn trước sự bị dập vùi đến thê thảm của phận người phụ nữ trong nông thôn.

* Hành động cắt dây trói cứu A Phủ:


- Yếu tố tác động: thấy ‘1 dòng nước mắt lấp lánh bò xuống 2 hõm má đã xám đen lại’ của A Phủ.
+ Mị nhớ lại tình cành của mình mùa xuân năm trước, bị trói như thế, nước mắt chảy xuống mà không lau được.
-> Thương thân. Chi tiết quan trọng, tác động vào lớp băng đầu tiên nơi trái tim Mị.
- Nhớ đến người đàn bà bị trói cho đến chết: ‘chúng nó thật độc ác’: ghê sợ và tức giận. Câu trần thuật của nhà văn hòa lẫn vào dòng diễn biến nội tâm của nhân
vật ‘trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình cũng chết thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này.’. Dòng nội tâm như
sự thức tỉnh của Mị, đưa cô ra khỏi bóng tối u mê, trở về với ánh sáng của nhận thức.
- Tự khai sáng: ‘người kia có việc gì mà phải chết thế’, cái ‘phảng phất nghĩ’ báo hiệu sự tự nhận thức về quyền con người.
- Sợ A Phủ chết ‘chết đau, chết đói, chết rét, phải chết’: điệp ngữ, từng vế ngắn, diễn tả nội tâm đang sôi sục, vừa thương người vừa tức giận trước sự tàn bạo.
- Trước khi cởi trói cho A Phủ thì trong Mị có những giằng co về mặt tâm lí: A Phủ trốn, Mị sẽ bị kết tội, sẽ bị trói thay vào đó, ‘phải chết trên cây cọc ấy’ nhưng
‘Mị cũng không thấy sợ.’. Thương người hơn thương thân. Trái tim nhân hậu giàu tình yêu thương của Mị đã hồi sinh.
- Hành động cắt dây cho A Phủ: Kết quả của sự tự nhận thức không phải là xốc nổi, tự phát.
-> Nghệ thuật trần thuật linh hoạt, tài quan sát tỉ mỉ, miêu tả tinh tế và chân thực diễn biến nội tâm.

* Hành động bỏ trốn khỏi Hồng Ngài:


- Sau khi giải thoát cho A Phủ: ‘Mị đứng lặng trong bóng tối’:
+ Câu văn ngắn nhưng lại có vị trí của 1 đoạn văn: biệt tài, sở trường của Tô Hoài.
+ Khoảnh khắc mang tính quyết định.
+ Khoảnh khắc tranh đấu trong nội tâm.
- Hàng loạt các động từ ‘vụt chạy’, ‘băng đi’, ‘lăn, chạy, chạy xuống’, ‘lao chạy xuống’: diễn tả sự hối hả, thôi thúc đi theo tiếng gọi mãnh liệt của sự sống và tự do.
-> Khẳng định sức sống mãnh liệt, cô Mị đã trỗi dậy hoàn toàn, không thế nào dập tắt nổi. Khả năng tự nhận thức, tự giải phóng của người nông nô. Và 1 lần nữa
minh chứng cho tài năng quan sát, miêu tả, kể chuyện và khắc họa nội tâm nhân vật của Tô Hoài. Thể hiện tinh thần nhân đạo, niềm tin vào sức sống mãnh liệt của
con người.

2. Nhân vật A Phủ:


a. A Phủ với số phận đặc biệt:
- Mồ côi, trở thành vật mua bán đổi chác, là mầm sống đặc biệt, vượt qua sự sàng lọc nghiệt ngã của tự nhiên.
- Tính cách ngang bướng, trốn thoát khỏi đồng bằng, lên núi lưu lạc đến Hồng Ngài.
- Khỏe mạng, tháo vát, tài giỏi. Nhiều cô gái mơ ước lấy A Phủ làm chồng.
- Làm thuê làm mướn nhưng vẫn không kiếm đủ tiền cưới vợ.

b. A Phủ với tính cách đặc biệt:


- Dám đánh A Sử, mạnh mẽ, táo bạo. Trở thành kẻ làm không công cho nhà thống lí trừ nợ nhưng cá tính thì vẫn tự do.
- Vô ý để hổ vồ mất bò, điềm nhiên vác nửa con bò về, thản nhiên kể lại cho thống lí nghe, đề xuất mượng súng…
-> Nhà văn đã khắc họa vài nét đơn sơ bên ngoài qua hành động.
18
3. Nghệ thuật:
- Nghệ thuật trần thuật vừa truyền thống vừa sáng tạo, có lúc theo trình tự thời gian, có lúc ngược về quá khứ. Có lúc quá khứ và hiện tại cùng đồng hiện.
- Xây dựng nhân vật: Nhân vật Mị được miêu tả từ bên trong nội tâm, A Phủ được miêu tả từ hành động bên ngoài. Miêu tả tâm lí rất tinh tế.
- Biệt tài miêu tả thiên nhiên, đem lại những mĩ cảm thật giàu chất thơ.
- Ngôn ngữ giản dị, gợi hình gợi cảm và mang đậm bản sắc riêng.

III. Tổng kết:


- Vợ chồng A Phủ là câu chuyện về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đoạ, giam hãm trong cuộc
sống tăm tối đã vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do.
- Tác phẩm khắc hoạ chân thực những nét riêng biệt về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn người dân các dân tộc thiểu số bằng một giọng văn nhẹ
nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ.

19
[VỢ NHẶT]

I. Tìm hiểu chung:


1. Tác giả: Kim Lân
- Là cây bút chuyên viết truyện ngắn.
- Thế giới nghệ thuật của nhà văn Kim Lân: chân thực, xúc động về cuộc sống, khung cảnh nông thôn và người nông dân.

*Nhà văn Nguyên Hồng đã từng đánh giá nhà văn Kim Lân như sau: Là ‘nhà văn một lòng đi về với con người, với đất, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống
nông thôn’.

2. Tác phẩm:
a. Đề tài:
- Nạn đói 1945 -> ám ảnh.
-> Đề tài đi vào trong thơ văn (Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài, Tố Hữu…)

b. Xuất xứ:
- Tiền thân là tiểu thuyết ‘Xóm ngụ cư’ sau CMT8 -> dang dở, mất bản thảo.
- Sau 1954, tác giả dựa vào 1 phần cốt truyện cũ viết lại, cô đọng trong dung lượng của một truyện ngắn và đặt tên là ‘Vợ nhặt’.

c. Tóm tắt:

d. Chủ đề:
- Tái hiện tình cảm thê thảm của người nông dân trong nạn đói 1945.
- Quá đó, khám phá và thể hiện bản chất tốt đẹp, sức sống kì diệu của họ: ‘Hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau’, đem lại
giá trị nhân đạo của tác phẩm.

II. Đọc – hiểu văn bản:


1. Khung cảnh làng ngày đói – giá trị hiện thực:
a. Cảnh vật:
- Thời gian: ‘1 buổi chiều nhập nhoạng’.
-> Tín hiệu nghệ thuật: đặc tả sự tàn tạ, buồn tẻ, lưng đọng. Bởi là thời gian để bắt đầu đi vào bóng tối bao trùm, đi vào giấc ngủ, phập phồng nỗi sợ.
- Về không gian: ‘xóm ngụ cư tồi tàn’, ‘ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ heo hút’, những con đường nhỏ ‘khẳng khiu, sâu thăm thẳm’, 1 căn nhà quặn quẽ,
‘không khí thì vểnh lên mùi ẩm thối rác rưởi và mùi gây của xác người’.
-> Tiêu điều, xơ xác, u ám, ngột ngạt tử khí.
- Sắc màu, âm thanh: ‘tối om’, ‘không ánh đèn lửa’, ‘tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết’.
-> Gợi sự ám ảnh và thê lương.
=> Cảm quan về cái đói đã thấm đẫm vào tận cái nhìn cảnh vật (Đỗ Kim Hồi). Hiện hữu và nhuốm màu chết chóc lên cảnh sắc, không gian.

b. Con người:
- Người chết ‘như ngả rạ’, ‘không buổi sáng nào…không gặp 3, 4 cái thây nằm còng queo ra đường’.
- Người đói: xanh xám, dật dờ, nhà văn đã so sánh học ‘như những bóng ma’ (lặp lại 2 lần như sự 1 sự ám ảnh).
-> Qua 2 đối tượng, nhà văn đã khắc họa cuộc sống ở trạng thái ‘cùng’, ranh giới giữa sự sống và cái chết, cõi âm, lấn át coi dương, bi thảm khủng khiếp và day
dứt.
=> Tố cáo tội ác của Phát xít Nhật -> Giá trị hiện thực.

2. Tình huống truyện – ý nghĩa nhan đề:


- Nhà văn đã xác định được 1 tình huống truyện rất thành công cho thấy tài năng của 1 nhà văn lớn.
- Tình huống truyện được thể hiện ở nhan đề, gợi sự nghịch lý, không bình thường.

‘Người ta nhận được vật rơi vật vãi, còn Tràng đã nhặt được vợ’.
-> 1 tình huống ngoài sức tưởng tượng.
- Tình huống truyện vừa độc đáo, thú vị, bất ngờ, vừa gợi sự oái ăm, bi thương.
+ ‘Bất ngờ thú vị’ vì trong hoàn cảnh bình thường Tràng đã khó lấy vợ, thế mà trong cái cảnh tối rầm lại vì đói – khát thì Trạng lại lấy được vợ 1 cách quá
dễ đang chỉ với mấy lời bông đùa, 4 bát bánh đúc. -> Sự kiện Tràng lấy vợ làm xôn xao cả xóm ngụ cư, tiếp thêm nụ cười cho những đứa trẻ, làm rạng rỡ những
khuôn mặt hốc hác trong phút chốc.
* Chuyện Tràng có vợ gây ra sự kinh ngạc lớn, kể cả với người trong cuộc là Tràng. Nhà văn rất tinh tế miêu tả cái cảm giác ngỡ ngàng nhưng không
phải của Tràng, cái vẻ mặt tỏ vẻ không hiểu của mẹ Tràng khi Tràng 3 lần 4 lượt giới thiệu thị.
+ Gợi sự oái ăm, bi thương của kiếp người:
* Chỉ có thười buổi đói khát, mạng người như cọng rơm cọng rác, Tràng mới lấy được vợ, chỉ vì miếng ăn, sự tồn tại, người đàn bà liều lĩnh theo không
1 người đàn ông xa lạ.
* Hạnh phúc của đôi vợ chồng Tràng diễn ra trong sự bối rối, khó xử, nghẹn ngào. Khuôn mặt và những giọt nước mắt của cụ Tú lẫn vào trong bóng đêm,
tiếng khóc hờ của nhà hàng xóm vừa có người mới chết.
-> Đằng sau nụ cười là những giọt nước mắt. Đằng sau hạnh phúc là những lo âu, nhà văn đã xác định được tình huống truyện độc đáo để thể hiện giá trị của tác
phẩm, làm ‘phép thử’ để bộc lộ tính cách nhân vật và để nhà văn truyền tải chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

3. Nhân vật Tràng:


a. Ngoại hình, gia cảnh:
- Diện mạo: ‘xấu xí, thô kệch, quai hàm bạnh ra, mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, dáng đi ngật ngưỡng, ại có tật lảm nhảm’.
- Gia cảnh: sống với mẹ già trong 1 túp lều tranh rúm ró, siêu vẹo, lốm nhốm cỏ dại.
- Nghề nghiệp: lái xe bò thuê.
- Ăn nói cộc cằn, tho lỗ.
- Đời sống tinh thần: dân xóm ngụ cư đực xem như 1 thứ có rác của hương thôn.
-> Lí do vì sao Tràng ế vợ.

b. Khát khao mái ấm gia đình ở nhân vật Tràng:


* Tính cách và đời sống nội tâm:
- Tuy nghèo khổ, xấu si nhưng có tấm lòng nhân hậu: sẵn sáng chia sẻ miếng ăn cho 1 người đàn bà xa lạ: anh ta cũng không nỡ xua đuổi vì biết người đàn bà ấy
bấu víu vào mình chỉ vì miếng ăn.
-> Vẻ đẹp của sự tốt bụng, hào phóng, có trong bản năng tự nhiên của anh.

20
* Diễn biến tâm lý:
- Lúc quyết định lấy người đàn bà làm vợ:
+ Lúc đầu: Khi thấy người đàn bà biến lời nói đùa của mình thành thật, Tràng cảm thấy ‘chợn’ (sợ, lo lắng) vì ‘đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi
không, lại còn đèo bông.’ -> rất thật, rất thực tế.
+ Sau đó: Chỉ trong 1 khoảnh khắc, anh ‘chậc, kệ’, chấp nhận người đàn bà.
-> Tâm lí đến đâu, hay đến đó, xuất phát từ lòng thương người cùng khổ.
+ Tràng đưa người vợ mới của mình ra chợ mua 1 cái thúng con, đãni 1 bữa cơm rồi cùng về.
-> Hôn nhân không ai giống ai, quyết định 1 cách chóng vánh, bất ngờ.

- Khi hắn dẫn vợ về, ngang qua xóm ngụ cư:


+ Tràng tinh ý, tinh tế khi ‘nghiêng nét mặt’ nhắc nhở bọn trẻ đừng đưa ghẹo như mọi ngày, để làm thị đỡ ngại đỡ sợ.
+ Mặt hắn phớn phở ‘khác thường’, hắn tủm tỉm cười 1 mình, 2 mắt thì sáng lên ‘lấp lánh’, ‘lấy vậy làm thích ý lắm’, ‘vênh lên tự đắc’.
-> Có sự thay đổi trong nội tâm, 1 cảm xúc mới mẻ đã bắt đầu lan tỏa, nhà văn đã khám phá ra niềm khao khát hạnh phúc sâu thăm biểu hiện 1 cách tinh tế qua nụ
cười và nét mặt của Tràng.

- Khi chỉ còn 2 người trên đường về nhà:


+ Xấu hổ, ngượng ngịu, lúng túng: ‘tay nọ xoa vào tay kia’, ‘nói 1 câu cho rõ tình tứ mà không biết nói thế nào’, ‘hắn quên kết đói khát ghê gớm đang đe dọa,
chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên’.
-> Khoảnh khắc hạnh phúc tinh thần của Tràng lớn hơn cả nỗi sợ, cái đói và cái chết.

- Buổi sáng đầu tiên khi Tràng có gia đình:


+ ‘Như người vừa ở trong giấc mơ đi ra’: Tràng vẫn chưa tin rằng mình đã có vợ, cảm thấy hạnh phúc không chân thực. Đó là cảm giác của 1 người chưa
từng có hạnh phúc và lần đầu tiên chạm tay vào hạnh phúc.
+ Nhìn thấy mẹ giẫy cỏ, vợ quét sân: Đây chỉ là 1 cảnh tượng bình thường nhưng khiến Tràng cảm động, trong Tràng có những thay đổi về nhận thức,
không biết tự bao giờ Tràng gọi cái mái nhà siêu vẹo là cái ‘tổ ấm’, hắn thấy hẳn thương êu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng, ‘hắn đã có 1 gia đình’.
+ Trong cảm xúc hạnh phúc, Tràng thấy xung quanh mình có sự thay đổi kì diệu, bản thân anh cũng có sự thay đổi nhận thức về trách nhiệm đối với gia
đình và biết hướng về tương lai.
+ Nhà văn xác định thời gian nghệ thuật có sự biến đổi: mở đầu bằng 1 buổi chiều u ám, thê lương thì kết thúc lại bằng 1 buổi sáng mùa hè ‘sáng lóa, xói’
gợi sự tiến triển tích cực, là hi vọng lạc quan cho số phận của nhân vật.

MỞ RỘNG: So sánh với lúc Chí Phèo tỉnh dậy trong đêm say: lần đầu tiên nghe thấy những âm thanh của cuộc sống cùng với cảm xúc ‘nao nao buồn’, muốn
khóc.
+ Nhà văn miêu tả tâm lí tinh tế và chân thực, khắc họa, khám phá được vẻ đẹp nội tâm của nhân vật và truyền tải được 1 phần giá trị nhân sinh cao đẹp
trong tác phẩm: trên bờ vực của cái chết, người ta nghĩ về sự sống và hạnh phúc, muốn sống cho ra 1 con người.

4. Nhân vật người vợ:


a. Lai lịch:
- Con số ‘không’ tròn trĩnh: không tên tuổi, không gốc gác quê hương, không quá khứ.
- Nhà văn dùng những từ ngữ ‘thị, người đàn bà, cô ả’ để gọi người đàn bà không có tên là 1 ngụ ý của tác giả để nhân vật có tính khái quát cao hơn

MỞ RỘNG: Giống người đàn bà hàng chài trong ‘Chiếc thuyền ngoài xa’ của tác giả Nguyễn Minh Châu và để nhấn mạnh, thi như cánh bèo trôi nổi trong nạn đói
khủng khiếp 1945.

b. Người vợ nhặt – biểu tượng thê thảm của nạn đói:


- Thị mang chân dung của 1 người đàn bà đói. Nạn đói đã hủy hoại hình hài, dáng vẻ: ‘gầy gò, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, 2 con mắt trũng hoáy, áo quần rách tả
tơi như tổ đỉa’.
- Cái đói còn hủy hoại cả nhân cách, phép tắc xã giao, ý tứ lễ nghĩa.
+ Nói năng cong cớn: ‘cả khối cơm trắng, mấy gió đấy’. Thị cố tỏ ra vẻ khôn ngoan, không bị mắc lỡm bởi sự hấp dẫn của câu hò nhưng lại bộc lộ thảm sự
những hi vọng về miếng ăn.
+ ‘Này, nhà tôi ơi. Nói thật hay nói khoác đấy’ cách nói dạn dĩ như chứa đụng sự phấp phỏng, hi vọng đang giấu sau câu hỏi nửa thật nửa đùa.
- Cử chỉ: ‘ton ton đẩy xe cho Tràng’, ‘liếc mắt’, ‘cười tít’, tương đối không phải vì thị lẳng lơ cũng không phải vì vẻ đẹp của Tràng mà chỉ vì câu hò về miếng ăn
thật hấp dẫn.
- ‘Điêu. Người thế mà điêu’. Thị phải giả vờ sưng xỉa để tái thiết lập lại mối quan hệ bị đứt đoạn cho đỡ ngượng.
- Thị cong cớn dạt phàng ‘miếng trầu xã giao, lễ nghĩa của Tràng’. ‘Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu’ để gợi ý trắng trợn việc được ăn và để lấp đầy cái dạ dày trống
rỗng của Tràng. Khi được mời ăn bánh đúc, mắt thị sáng lên, cắm đầu ăn 1 chặp 4 cái bánh đúc chẳng trò chuyện gì. Đây là 1 cảnh tượng chua xót, thảm hại của
1 người đàn bà bị cái đói hủy hoại phẩm chất, nhân cách.
- Câu nói đùa nhạt thếch cho hành động ăn không ý tứ của mình ‘về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố’.
-> Kim Lân đã tinh tế khi miêu tả diễn biến tâm lý của người đàn bà khốn khổ. Thị hoàn toàn ý thức được sự xấu hổ, nhục nhã nhưng không chống lại được sự gào
thét của dạ dày.
-> Đằng sau sự dơ dáy, trơ trẽn là sự thảm hại, đáng thương của 1 người đàn bà đói. Hình tượng người đàn bà phản ánh 1 hiện thực, giá trị của con người trong
nạn đói thật rẻ rúng.

c. Lòng khát khao sống mãnh liệt:


- Sự thay đổi của người đàn bà:
+ Trên đường theo Tràng về nhà, thị xấu hỏ, ngượng ngùng, đi sau Tràng mấy bước, cái nón tàn che nửa khuôn mặt.
-> Thị trở về với bản chất ý tứ và phép tắc.
+ Về tới nhà Tràng ‘ngồi mớm ở mép giường’, khép nép trước bà cụ Tứ, dạ thưa lễ phép đúng mực.
+ Sáng sớm hôm sau, thị dậy sớm hơn mọi người, chủ động dọn dẹp nhà cửa.
-> Khi có 1 chỗ nương tựa, thị trở về với bản chất tốt đẹp của mình.

- Vẻ đẹp tâm hồn:


+ Lòng ham sống, khát sống mãnh liệt: Thôi thúc thị đồng ý theo Tràng, 1 người xa lạ để khỏi đói, khỏi chết.
+ Khi thấy ngôi nhà của Tràng: thị nén 1 tiếng thở dài, tiếng thở dài ngao ngán thất vọng nhưng cũng là tiếng thở dài chấp nhận -> Đã đến nấc thang cuối
cùng của sự hạ giá nhân phẩm mà đều đem lại không như thị mong đợi nhưng thị không bỏ đi mà thị cảm nhận được điều gì khác quý giá hơn tấm lòng chân
thành của mẹ con Tràng.
+ Chi tiết thị đón bát cháo cám điềm nhiên và vào miệng cho thấy thị cư xử điềm nhiên, tế nhị hiểu được sự cố gắng của người mẹ và trân trọng chút nghĩa
tình ấy, đến lúc này thị vẫn khát sống nhưng cũng là khát vọng về đời sống tinh thần hạnh phúc, trong vòng tay yêu thương của những con người cùng hoàn
cảnh.
+ Người đàn bà hướng mẹ con Tràng. -> Hình ảnh cờ đỏ sao vàng qua những chi tiết mà thị từng gặp trên bước đường lưu lạc như 1 sự gợi ý, định hướng,
làm nên kết thúc mở, tươi sáng, lạc quan cho tác phẩm.

21
=> Nói tóm lại, ý nghĩa nhân văn được thể hiện qua hình tượng người đàn bà đói: khi được yêu thương và cưu mang thị trở về với phẩm chất vốn có của mình.
Thấm sâu trong tâm hồn của người phụ nữ này là 1 khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng hạnh phúc tinh thần.

5. Bà cụ Tứ:
- Nhân vật quan trọng thể hiện tính nhân bản.

a. Ngoại hình:
- Khắc họa qua những chi tiết: dáng đi ‘lọng khọng’, ‘húng hắng ho’, ‘lẩm nhẩm tính toán’, mắt ‘kèm nhèm’, ‘bủng beo, u ám’.
-> Chân dung của 1 người mẹ tuổi cao sức yếu, cả cuộc đời cơ cực, lo nghĩ, nghèo khổ.

b. Số phận:
- Hẩm hiu: chồng mất sớm, ở với đứa con trai ế vợ, bữa đói bữa no.

c. Diễn biến tâm lý phức tạp khi người con trai 1 ngày đột ngột dẫn vợ về nhà:
- Ngạc nhiên và bất ngờ: 3 lần bà tự hỏi ‘sao lại có người đàn bà lại ở trong ấy nhỉ?’, ‘sao lại chào mình bằng u?’, ‘ai thế nhỉ?’, bà liên tục thắc mắc và phỏng đoán
nhưng tuyệt nhiên không nghĩ đến đó là vợ Tràng, vì cuộc sống quá đỗi cơ cực lại đang trong hoàn cảnh cái đói cái chết cận kề khiến bà hoàn toàn nguôi tắt hi
vọng con trai mình có vợ.

* Lòng người mẹ ngổn ngang như tâm sự: vừa lo lắng, tủi hờn, xót xa cho số kiếp con mình, số kiếp của mình, vừa xen lẫn buồn vui. -> Đây là dòng diễn biến
nội tâm, bà đã giấu tất cả cái buồn tủi vào trong lòng chỉ thể hiện qua 2 dòng nước mắt rỉ xuống nhưng bị bóng đêm che mất.
‘Tuổi già giọt lệ như sương’ – Nguyễn Khuyến.
+ Tủi hờn: tủi cho phận làm mẹ vì nghèo khổ, khốn cùng mà không lo được cưới hỏi đàng hoàng cho con, tủi cho phận con cũng vì nghèo hèn mà lấy vợ
không tông không tích.
+ Lo lắng: ‘Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không’.
+ ‘Còn mình thì…’ đằng sau dấu 3 chấm là cảm xúc nghẹn ngào buồn tủi xót thương của người mẹ.
+ Hàm ơn của người con dâu xa lạ đã cho con trai mình 1 mái ấm đúng nghĩa.
- Bà thật lòng chia sẻ niềm vui trước hạnh phúc của 2 con: ‘Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng’. -> Chi tiết cảm động thể hiện
tấm lòng chân thành của người mẹ.
+ Câu nói đó trút đi gánh nặng chất chứa trong tâm trạng của Tràng.
+ Câu nói đã chiêu tuyết cho giá trị của người vợ nhặt: Cô không còn là 1 người phụ nữ vô sỉ như người ta nghĩ, không phải là 1 người đàn bà theo không
cho không mà giữa cô với Tràng nó là ‘duyên phận’.
-> Vẻ đẹp chất phác, nhận hậu của người mẹ quê.

* Bà cụ Tứ trở thành điểm tựa tinh thần cho các con:


- Thương con trai, bà cũng thương dâu, lớn hơn đó là tình thương và sự đồng cảm của phận phụ nữ với nhau. Nhẹ nhàng, thân mật, ‘lòng đầy thương xót’. Bà
chia sẻ việc nhà, kể chuyện gia cảnh, động viên an ủi và bảo ban 2 con cách sống ‘cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi’ đến cách làm ăn ‘chúng mày
liệu mà bảo ban nhau làm ăn’, ‘ai giàu 3 họ, ai khó 3 đời’. Trong đó chi tiết đôi gà, đàn gà rất có ý nghĩa, nó gợi tinh thần lạc quan về sự sinh sôi, phát triển. Người
mẹ giá đã truyền ngọn lửa sống cho 2 con.

* Bữa cơm ngày đói:


- Bà chỉ nó về chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Chi tiết bát cháo cám:
+ Thể hiện sự vui vẻ, tự hào của người mẹ nghèo trong những ngày đói gay gắt.
+ Bát cháo cám tuy đắng chát nhưng là món quà duy nhất mà mẹ có thể có mà thiết đãi con dâu.
-> Đằng sau manh áo rách là 1 tấm lòng vàng.

* Hình tượng ngời mẹ là nút vẽ cuối cùng hoàn thiện bức tranh về vẻ đẹp của loài người trong nghịch cảnh góp phần hoàn thiện chủ để và tư tưởng của tác
phẩm.

6. Nghệ thuật:
- Có duyên, tự nhiên, chân thực, hấp dẫn.
- Tài năng tạo dựng tình huống truyện độc đáo.
- Tài năng dựng cảnh sống động và đậm màu sắc nông thôn.
- Nghẹ thuật xây dụng nhân vật: ngôn ngữ, hành động, diễn biến nội tâm tinh tế và chân thực.
- Ngôn ngữ: đậm khẩu ngữ nông thôn.

7. Nội dung:
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện
được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ: ngay trên bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu đùm bọc lẫn
nhau. Nội dung nhân đạo sâu sắc và cảm động đó được thể hiện qua 1 tình huống truyện độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn, miêu tả tâm lí khá tinh tế, dựng đối
thoại sinh động.

22
[NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH]

I. Tìm hiểu chung:


1. Tác giả: Nguyễn Thi – Nguyễn Hoàng Ca.
- Ông hi sinh trong chiến dịch ở Sài Gòn (trong cuộc Tổng tiến công xuân Mậu Thân 1968).
- Là 1 trong những cây bút văn xuối của văn nghệ giải phóng miền Nam chống Mĩ, là nhà văn của người nông dân Nam Bộ với giọng văn giàu
chất hiện thực, đằm thắm chất trữ tình, nhân vật có cá tính mạnh mẽ.

2. Tác phẩm:
a) Xuất xứ:
- Được sáng tác 2/1966, in lần đầu trên tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng.

b) Tóm tắt truyện:


- Trong trạn đánh, việt bị thương nặng, lạc đơn vị, anh hồi tưởng về gia đình và đồng đội. Cha mẹ Việt đều bị giặc giết, Chiến và Việt giành
nhau đi bộ đội. Chú Năm cho phép cả 2 lên đường, 2 chị em mang bàn thơ má sang gửi chú Năm. Việc nhà sắp xếp chu toàn. Anh Tánh cùng
tiểu đội đã tìm được Việt vẫn chắc tay súng, Việt được đưa về điều trị. Anh định viết thư cho chị Chiến.

c) Chủ đề:
- Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn cùa người dân Nam Bộ, yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. Đồng thời, khẳng định truyền thống gia đình và
truyền thống dân tộc tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn cho nhân dân ta chống lại kẻ thù xâm lược.

II. Đọc – hiểu văn bản:


1. Tình huống truyện:
- Nhân vật đang rơi vào tình huống đặc biệt: trong 1 trận đánh, bị thương nặng phải nằm lai giữa chiến trường. Anh nhiều lầm ngất đi tỉnh lại
giữa chiến trường.
-> Ý nghĩa: tình huống truyện đã đem đến cách trần thuật qua dòng hồi tưởng miên man đứt, nối. Vì vật đem đến cho tác phẩm màu sắc trữ tình
dậm đà, tự nhiên. Đồng thời tạo điều kiện để nhà văn thâm nhập vào thế giới nội tâm để dẫn dắt truyện.

2. Cách kể chuyện của tác phẩm:


- Người trần thuật kể nhưng cách nhìn và lời kể lại theo giọng điệu nhân vật.
- Tác dụng nghệ thuật:
+ Câu chuyện vừa được thuật, kể cùng 1 lúc, tính cách của nhân vật cũng được khắc họa.
+ Câu chuyện dù không có gì đặc sắc cũng trở nên mới mẻ, hấp dẫn vì được kể qua con mắt, tấm lòng, ngôn ngữ và giọng điệu riêng của
nhân vật. Nhà văn phải thành thạo tâm lí và ngôn ngữ nhân vật mới có thể trân thuật theo phương thức này.

3. 2 chỉ em Chiến và Việt:


a) Nét chung và riêng của từng người:
- Có truyền thống gia đình.
- Truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm.
- 2 chị em đều gắn tình yêu thương trong gia đình với lòng yêu nước.

* Truyền thống gia đình:


- Các thế hệ trong gia đình chịu nhiều đau thương do tội ác của kẻ thù:
+ Ông nội bị giặc giết.
+ Cha bị chặt đầu.
+ Má bị trúng đạn của Mĩ.
+ Thím Năm cũng bị giặc đánh chết.
-> Đau thương mất mát đã hun đúc ngọn lửa căm thù trong tâm hồn những người dân Nam Bộ mộc mạc.

* Truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm:


- Người cha là cán bộ Việt Minh đã anh dũng đến giây phút cuối cùng.
- Má Việt cũng là hiện thân của truyền thống: dáng ngườii chắc, khỏe, sực mùi lúa gạo và mồ hôi.
-> Sự cần cù sương nắng nuôi con, cắn răng kìm nén đau thương để sống, che chở cho đàn con, ranh đấu với kẻ thù.
- Truyền thống ấy thể hiện rõ qua cuốn sổ gia đình. Cuốn sổ là lịch sử gia đình mà qua đó thấy lịch sử của 1 đất nước, 1 dân tộc trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ.
- Chú Năm: đại diện cho truyền thống, lưu giữ truyền thống (trong câu hò, trong cuốn sổ).
-> Truyền thống yêu nước mãnh liệt, căm thù giặc và tinh thần chiến đấu đã gắn kết những con người trong gia đình với nhau và những đứa
con là sự tiếp nối truyền thống của cha mẹ.

* 2 chị em đều gắn tình yêu thương trong gia đình với lòng yêu nước:
- Có chung mối thù với bọn xâm lược, có cùng nguyện vọng cầm súng đánh giặc. Thể hiện sâu sắc trong cái đêm giành nhau tòng quân và khi
khiêng bàn thờ má.
- Đều là những chiến sĩ dũng cảm trong đánh giặc.
- Đều có nét trẻ con giành nhau bắt ếch, giành nhau chiến công.

b) Nhân vật Chiến:


* Hiện lên qua dòng hồi tưởng của Việt:
- Rất giống Má:
+ Bắp tay tròn vo, sạm đỏ, thân người to và chắc nịch.
-> Vẻ đẹp của những người con sinh ra để gánh vác và để chiến thắng.
+ Đặc biệt, trong cái đêm sắ xa nhà đi bộ đội: lo liệu, toan tính việc nhà, lời nói và cử chỉ y hệt Má.
-> Người mẹ sống lại trong hình ảnh Chiến.

23
- Chiến có tính cách người lớn hơn Việt: nhường nhịn em, quan tâm mọi việc của gia đình.
-> Nhân vật Chiến có cá tính đặc sắc, mang vẻ đẹp tâm hồn của người con gái Nam Bộ trong 1 thời kì nhiều mất mát hi sinh.

c) Nhân vật Việt:


- Nếu Chiến có dáng dấp của 1 người lớn thực sự thì ở Việt là sự lộc ngộc, vô tư của 1 cậu con trai đang tuổi mới lớn.
+ Việt hay tranh giành với chị.
+ Đêm trước khi đi, Việt ‘lúc lăn kềnh ra ván cười khì khì’, lúc lại rình ‘chụp một con đom đóm úp trong lòng tay’.
+ Vào bộ đội, Việt lại đem theo 1 chiếc súng cao su.
- Việt trở nên anh hùng:
+ Ngày từ bé đã dám xông vào thằng giết cha mình.
+ Khi bị thương: vẫn quyết tâm sống chết với kẻ thù.
-> Nhà văn xây dựng thành công hình tượng nhân vật Việt. Trước chị, Việt nhỏ bé hồn nhiên, trước kẻ thù Việt vụt lớn trở thành anh hùng. Việt
tiêu biểu cho những chàng trai Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

4. Hình ảnh 2 chị em khiêng bàn thờ Má:


- Đoạn văn giàu sự xúc động, thấy rõ tình cảm gia đình.
- Tâm trạng của Việt ‘thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được vì nó
đang đè nặng ở trên vai’.
-> Việt đã trưởng thành. Hoàn cảnh của gia đình, quê hương, đất nước đã khiến thế hệ trẻ nhanh chóng trưởng thành để tiếp bước con đường
đấu tranh của thế hệ cha anh.
=> Chiến và Việt là 2 khúc sông sau chảy xa hơn, nhanh hơn, kế thừa xứng đáng con sông gia đình.

5. Nghệ thuật:
- Tình huống truyện độc đáo: truyện kể theo dòng nội tâm của nhân vật.
- Phương thức trần thuật: thuộc ngôi thứ 3, nhưng lời kể và giọng điệu theo ngôi thứ nhất (Việt).
- Truyện mang chất sử thi rất đậm đà, qua lịch sử 1 gia đình thấy lịch sử 1 đất nước.

III. Ý nghĩa văn bản: SGK/64

24
[CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA]

I. Tìm hiểu chung:


1. Tác giả: Nguyễn Minh Châu
- Là nhà văn quân đội.
- Sáng tác cả 2 giai đoạn trước và sau 1975.
+ Trước 1975: Sáng tác về đề tài người lính với ikhuynh hướng sử thi, lãng mạn, ca ngoại chủ nghĩa anh hùng Cách mạng (Dấu chân người
lính, Mảnh trăng cuối rừng…).
+ Sau 1975: Chuyển sang khuynh hướng đạo đức thế sự với lối viết đậm chất tự sự, triết lý (Chiếc thuyền ngoài xa, Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Phiên chợ Giót…).
- Được đánh giá là người đi tiên phong trong thời kì đổi mới văn học; nói như Nguyên Ngọc: ‘người mở đường tinh anh và tài năng nhất của
công cuộc đổi mới văn học’.
- Quan điểm sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975:
+ ‘Văn học và đời sống là 2 vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người’ (có tương đòng với Thạch Lam và Nam Cao).
+ Ông chủ trưởng đi sâu, tìm kiếm và phát hiện những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn của những con người có cuộc sống mưu sinh
nhọc nhằn và của những con người trên bước đường hoàn thiện nhân cách.

2. Tác phẩm:
a) Xuất xứ: 1983 – trước thềm Đổi mới 3 năm.
b) Tóm tắt:

II. Đọc – hiểu văn bản:


1. 2 khám phá, phát hiện của người nghệ sĩ (tình huống nhận thức):
a) Khám phá, phát hiện thứ nhất:
- Điểm nhìn: chiếc thuyền ngoài xa giữa biển mù sương.
- Bức tranh được miêu tả:
+ Thiên nhiên: ‘Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời
chiếu vào’ nhìn qua mắt lưới, gọng vó.
+ Con người: bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng.
- Cảm xúc: bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào, hạnh phúc ngập tâm hồn.
- Nhận thức: cảnh ‘đắt’ trời cho, đẹp như 1 bức ranh mực tàu thời cổ, bản thân cái đẹp là đạo đức, khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện,
khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.
-> Là 1 nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm, biết khám phá và biết thưởng thức cái đẹp. Anh cho rằng cái đẹp là hiện thân của chân thện mĩ, cái đẹp có
tác dụng gột rửa con người trở nên thanh cao và thánh thiện.
-> Là nghệ sĩ lãng mạn, có đủ tố chất để đi theo con đường sáng tạo nghệ thuật.

b) Khám phá, phát hiện thứ hai:


- Điểm nhìn: ‘chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng’.: khi chiếc thuyền tiến lại gần bờ.
+ Con thuyền rách nát, cũ kĩ của 1 gia đình ngư phủ nghèo.
+ Cũng tại con thuyền này xuất hiện 1 cảnh tượng nghịch lí so với khám phá phát hiện lần đầu: 1 cảnh tưởng phi thẩm mĩ, phi nhân tính.

* Phi thẩm mĩ:


- Bước xuống thuyền là 1 người đàn ông, chưa thấy người đã nghe thấy tiếng nói thô bạo (ấn tượng), ngoại hình ánh lên vẻ dữ dằn: ‘đôi mắt
đầy vẻ độc dữ, đôi chân mày cháy nắng, lưng rộng và cong, chân chữ bát, ánh nhìn như dán vào lưng áo người đàn bà’.
- Người đàn bà: ‘trạc ngoài 40, rỗ mặt, thân hình cao to kiểu người vùng biển, khuôn mặt vẻ mệt mỏi, tái ngắt, tấm lưng áo bạc phếch, rách rời,
nửa thân dưới ướt sũng’…, bà hiện thân cho sự vất vả, cơ cực, đói nghèo.

* Phi nhân tính:


- Người đàn ông đánh vợ như đánh đòn thùng, bằng cơn giận như lửa cháy, vừa đánh vừa nguyền rủa bằng giọng rên ri, đau đớn ‘mày chết đi
cho ông nhờ. Chung mày chết hết đi cho ông nhờ’. Hiện thân cho nạn bạo hành gia đình, ông thực hiện hành vi thô bạo chỉ để trút hết những
uẩn ức, khổ đau, bế tắc của 1 người trụ cột không lo nổi cho vợ, con.
- Phản ứng của người đàn bà: đưa lưng chịu đánh, không kêu lên 1 tiếng, không chống trả, không chạy trốn -> Nhẫn nhục, cam chịu.
- Đứa con: bằng sức mạnh của tình yêu dành cho mẹ, bằng sức mạnh của sự căm thù của người cha, đánh cha để bảo vệ mẹ.
-> Cảnh tượng này như 1 thứ nước rửa quái đản, biến những thước phim huyền diệu trước đó trở nên méo mó, dị dạng.

- Phản ứng của Phùng;


+ Sốc, kinh ngạc, há hốc mòm ra mà nhìn.
+ Hành động; vứt chiếc máy ảnh chạy lại định can ngăn. Với tư cách 1 nghệ sĩ, chiếc máy ảnh là sinh mệnh, là vật quý giá; với tư cách là 1
con người, lại là 1 người lính bước ra từ cuọc chiến anh không thể làm ngơ trước tội ác. Phùng đã biết đặt cuộc đời cao hơn nghệ thuật. Nhờ
chi tiết này, phát hiện ra anh là 1 nghệ sĩ chân chính.

MỞ RỘNG: Liên hệ quan điểm nghệ thuật của Nam Cao.

=> Qua 2 khám phá phát hiện đầy nghịch lý: thông điệp: không thể đánh giá sự vật, hiện tượng ở vẻ bên ngoài. Riêng với người nghệ sĩ, Nguyễn
Minh Châu cũng nghiêm khắc đặt ra 1 yêu cầu: cần phải nhìn nhận quan niệm về nghệ thuật, cái đẹp sâu sắc hơn vì chưa hẳn cái đẹp là hiện thân
của đạo đức, đằng sau vẻ ngoài hào nhoáng có thể là hiện thực tối tăm, xót xa. Người nghệ sĩ cần có cái nhìn đa chiều.

2. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài:


a) Khi được mời đến tòa án huyện:
- Sợ sệt, lúng túng.
- Tìm đến 1 góc tường để ngồi.

25
- Rón rén ngồi ghé vào mép chiếc ghế, cố thu mình lại.
-> Người đàn bà hiện lên đầy vẻ tội nghiệp, đáng thương, có chút gì đó lạc hậu, mặc cảm, tự ti.

b) Khi được khuyên bỏ chồng:


- Xưng hô: con lạy quý tòa: lạc hậu, tha thiết van xin như kểu thường thấy trong xã hội phong kiến, ở những con người thấp cổ bé họng.
- Van xin rất ngược đời: ‘bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó’. Sẵn sáng bỏ tù chứ không chịu bỏ chồng -> Gây khó
hiểu, ngạc nhiên, khiến cho Phùng và Đẩu suy nghĩ phải chăn bị đòn roi nhiều quá đến mức thành quen, trở thành không thể thiếu.

c) Lời giãi bày:


- Thay đổi xưng hô: chị - các chú. Người đàn bà đủ sâu sắc, tinh tế để nhận ra Phùng và Đẩu tốt, có thiện chí, thực lòng, biết thông cảm và lắng
nghe; đủ sắc sảo để kín đáo bày tỏ. Phùng với Đẩu tuy tốt nhưng vẫn còn chưa hiểu hết về những nghịch lí của cuộc đời.
- Những lí do:
+ Bà biết ơn người chông đã đem lại cho bà – 1 người xấu xí thiên chức làm vợ, làm mẹ. Vừa tội nghiệp, vừa đáng trân trọng.
+ Bà hiểu bản chất của chồng: ‘cục tính nhưng hiền lành, không bao gì đánh đập tôi’, sự thô bạo, vũ phu như bây giờ là do hoàn cảnh sống.
+ Vì con, thương con: vò cần 1 người đàn ông chèo chống lúc phong ba, nuôi nấng đàn con trên dưới chục đứa. Lí do rất thực tế, rất đời.
+ Người đàn bà ở biển phải sống vì con, đẻ con ra phải nuôi con đến lúc trưởng thành.
+ Chắt chiu những giọt hạnh phúc hiếm hoi, lấy nói làm động lực để đi qua bão dông của cuộc đời: ‘cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi
hòa thuận vui vẻ, vui nhất là khi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no’, khuôn mặt của bà khi nói về hạnh phúc ‘ửng sáng lên’.
+ Bao dung với chồng, nhận hết lỗi về mình.
-> Người đàn bà không phải là ấu trĩ, thiển cận mà ngược lại ánh lên vẻ đẹp khuất lấp về tình thương con vô bờ bến, của đức hi sinh, sự bao
dung, của sự sâu sắc, thấu trải và cũng rất giàu lòng tự trọng. Bà biết chắt lọc trong khổ đâu triền miên những nhiềm hạnh phúc bé nhỏ để đi
qua sóng gió của cuộc đời, làm điểm tựa cho các con.

d) Sự thay đổi trong nhận thức của Phùng và Đẩu:


- Phùng hiểu rằng không thể đơn giản giải quyét bi kịch của người đàn bà hàng chài bằng việc khuyên bà bỏ chồng vì mấu chốt không phải ở
bạo hành gia đình, sự tàn ác của người đàn ông mà nguyên nhân gốc rễ là sự đói nghèo.
- Phùng cũng nhận ra người đàn bà này không phai là ấu trĩ, nông cạn mà rất thấu trải, sâu sắc, rất thực tế. Bản thân Phùng và Đẩu không phải
là đấng cứu tinh mà chỉ là những ‘chú’ học trò nhỏ đang lắng nghe người đàn bà dạy bài học vỡ lòng về cuộc sống.
- Chi tiết nghệ thuật giàu sức gợi:
+ Người đàn bà bị đánh bên cạnh bãi xe tăng hỏng như 1 ngụ ý: cuộc chiến chống lại đói nghèo, thất học, bạo lực, bất công… còn gian nan
gấp trăm nghìn lần cuộc chiến chống ngoại xâm.
+ Tiếng thở dài của Đẩu: là tiếng thử dài chấp nhận độ vênh giữa lí thuyết đẹp đẽ với thực tế trong đời. Có những nghịch lí buộc ta phải
chấp nhận và sống chung với nó.
=> Thông điệp: không thể đơn giản, sơ lược nhìn nhận con người và cuộc sống.

3. Những vấn đề đáng suy nghĩ xoay quanh các nhân vật:
a) Cách xử lí chuyện gia đình của người đàn bà hàng chài:

b) Người đàn ông vũ phu:

c) Phác:

4. Ý nghĩa kết thúc truyện và ý nghĩa nhan đề:


a) Kết thúc truyện:
* Chi tiết chiếc thuyền vẫn dập dềnh ngoài phá trong cơn bão tháng 7: kết đọng những lo âu, trăn trở về số phạn con người. Bão của thiên
nhiên cũng sẽ tan nhưng bão của 1 gia đình bao giờ mới tan?

* Bức ảnh bộ lịch trên tường năm ấy:


- Mỗi lần ngắm: ‘cái màu hồng hồng của ánh sương mai’: chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, biểu tượng của nghệ thuật.
- Nếu nhìn lâu hơn: thấy người đàn bà hàng chài năm ấy: hiện thân cho cuộc đời với nhiều lam lũ, khốn khó.
- Hình ảnh người đàn bà hàng chài nhọc nhằn, rách rưới vẫn được khắc họa lại 1 lần nữa như 1 sự ám ảnh không nguôi về thân phận con
người. Chi tiết ‘hòa lẫn vào đám đông’ có tính khái quát cao về hiện thực đời sống xã hội.

b) Ý nghĩa nhan đề ‘Chiếc thuyền ngoài xa’:


- Nghệ thuật thì ở ngoài xa trong khi đó cuộc đời thì rất gần; nghệ thuật thì có thể chiếm lĩnh từ xa nhưng cuộc đời thì không thể nhìn ở ngoài
xa mà phán đoán, nhận định.
- Nhan đề đặt ra mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời: nghệ thuật có thể được sản sinh ra từ cuộc đời nhưng không phải cái gì của cuộc
đời cũng đều là nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính là phải vì cuộc đời, vì con người.

MỞ RỘNG: Liên hệ câu nói của Nam Cao; tác phẩm ‘Vĩnh biệt cửu trùng đài’ – Nguyễn Huy Tưởng.

5. Nghệ thuật:
- Xây dựng được những tình huống nghịch lí có ý nghĩa khám phá, phát hiện, tình huống nhận thức.
- Điểm nhìn trần thuật đa chiều:
Nhân vật ‘tôi’: kể chuyện
người nghệ sĩ
hiện thân của tác giả.
- Lối văn giản dị, đời thường nhưng sâu sắc, có dư ba.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: khắc họa tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ, ngoại hình, hành động.

III. Ý nghĩa văn bản:


- Từ câu chuyện về 1 bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa mang đến 1 bài học đúng
đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: 1 cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện
26
tượng. Cách khắc họa nhân vật, xây dựng cốt truyện, sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo đã góp phần làm nổi bật chủ đề - tư tưởng của
tác phẩm.

27
[HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT]

I. Tìm hiểu chung:


1. Tác giả: Lưu Quang Vũ

2. Thể loại kịch:


- Khái niệm: Kịch là loại hình nghệ thuật tổng hợp, trong đó đối tượng miêu tả của kịch là những xung đột trong cuộc sống.

3. Tác phẩm:
a) Hoàn cảnh ra đời:
- Vở kịch được viết từ 1981, được công diễn vào 1984.
- Sáng tạo lại từ cốt truyện dân gian. Nhưng điểm mới là Lưu Quang vũ lấy cái kết thúc của truyện cổ làm điểm khởi đầu cho những bi kịch của
nhân vật.
- Thuộc cảnh VII, đoạn kết vở kịch.
- Đây cũng là đoạn kết của vở kịch, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch.

II. Đọc – hiểu văn bản:


1. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt:

Hồn Trương Ba Da hàng thịt


Mục đích - Phủ định sự lệ thuộc của linh hồn - Khẳng định sự âm u, đui mù vào
vào thể xác. Coi xác thịt chi là cái vỏ thể xác. Dồn Trương Ba vào thế
bề ngoài, không có ý nghĩa. Khẳng đuối lí, buộc phải thừa nhận thỏa
định linh hồn vẫn có đời sống riêng: hiệp và quy phục.
nguyện vọng, trong sạch, thẳng
thắn…
Cử chỉ - Ôm đầu, đứng vụt dậy, nhìn tay - Lắc đầu. -> Tỏ vẻ thương hại.
chân, thân thể, bịt tai lại. -> Đầy tức
giận.
Xưng hô - Mày – Ta -> Khinh bỉ, xem thường. - Ông – Tôi -> Ngang hàng, thách
thức.
Giọng - Khinh bỉ, chửi mắng; ngậm ngùi, - Lúc ngạo ngễ, thách thức; lúc
điệu thấm thía, tuyệt vọng. mỉa mai, bỡn cợt; lúc an ủi, đắc
thắng, ti tiện.
Vị thế - Bị động, đuối lí. -> Thua cuộc, chấp - Chủ động, thắng thế. -> Buộc
nhận quay lại xác hàng thịt. Hồn Trương Ba quy phục mình.

-> Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng đó là cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống chung với cái dung tục và bị cái dung tục đồng hóa.
=> Từ đó, nhà văn muốn gửi gắm: khi còn người phải sống trong dung tục thì tất yếu sẽ bị cái dung tục ngự trị, lất át và sẽ tàn phá những gì
trong sạch, đẹp đẽ, cao quý của con người. Vì thế, con người phải biết đấu tranh chống lại cái dung tục, cái giả tạo để cuộc sống trở nên tươi
sáng hơn, đẹp đẽ và nhân ái hơn.

2. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với những người thân:
- Vợ Trương Ba:
+ Buồn bã, đau khổ vì: ‘ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa’.
+ Đòi bỏ đi, nhường Trương Ba cho vợ anh hàng thịt.
- Con dâu Trương Ba:
+ Thấu hiểu cho hoàn cảnh trớ trêu của bố chồng: Chị biết ông ‘khổ hơn xưa nhiều lắm’.
+ Nhưng nỗi buồn đâu trước tình cảnh gia đình khiến chị không thể chịu được: ‘Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái
bên trong, nhưng mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần’.
- Cháu gái Trương Ba: phản ứng quyết liệt, dữ dội.
+ Nó khước từ tình thân: ‘tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi’.
+ Nó không thể chấp nhận con người đã làm ‘gãy tiệt cái chồi non’, ‘giẫm lên ná cả cây sâm quý mới ươm’ trong mảnh vườn của ông nội nó.
+ Nó hận vì ông đã làm gãy nát cái diều khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền.
+ Với nó: ‘Ông nội đời nào thô lô, phũ phàng như vậy’. Nó xua đuổi quyết liệt: ‘Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi’.
-> Người chồng, người cha, người ông trong sạch, nhân hậu trước đây đã và đang thành 1 kẻ khác, với những thói hư tật xấu của 1 tên đồ tể thô
lỗ, phàm tục.
-> Tất cả những người thân đã nhận thấy và đau đớn, lo lắng, bàng hoàng khi nói ra điều đó. Thể xác đang xâm chiếm, đang lấn lướt linh hồn,
đang tha hóa cái linh hồn ấy.
- Tâm trạng, cảm xúc của Trương Ba:
+ Ông đau khổ tuyệt vọng khi vì ông mà những người thân phải đau đớn bàng hoàng bế tắt, vì ông mà nhà cửa phải tan hoang.
+ Ông thẫn thờ, ôm đầu bế tắc, cầu cứu đứa cháu gái, run rẩy trong nỗi đau, nhận thấy ‘mày đã thắng thế rồi đấy cái thân xác không phải
của ta ạ…’.
+ Đặt ra câu hỏi mang tính tự vấn ‘Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật là không còn cách nào khác?’.
+ Khẳng định dứt khoát ‘không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!’.
-> Trương Ba cũng nhận thấy những thay đổi của mình nên đấu tranh quyết liệt giành giật lại bản thân mình, dẫn đến hành động châm hương
gọi Đế Thích.

3. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba với Đế Thích:


* Sự khác nhau trong quan niệm của Trương Ba và Đế Thích về ý nghĩa sự sống:

Quan niệm của hồn Trương Ba Quan điểm của Đế Thích

28
- Không chấp nhận cảnh sống bên trong một - Khuyên Trương Ba chấp nhận cảnh sống
đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn tạm bợ bởi thế giới vốn không toàn vẹn.
được là tôi toàn vẹn.
- Kiên quyết từ chối, không chấp nhận cuộc - Có ý định cho Trương Ba nhập vào xác cu
sống giả tạo, trái tự nhiên mà theo ông ‘khổ Tị - một em bé hàng xóm vừa chết, bạn thân
hơn cả cái chết’. của cái Gái.

-> Ca ngợi quan niệm sống tích cực: sống -> Cái nhìn quan liêu hời hợt về cuộc sống con
đúng là mình, sống phải hài hòa, toàn vẹn cả người, chỉ ra hiện tượng tiêu cực của xã hội
tâm hồn và thể xác. đương thời.

* Khi Trương Ba ở trong xác anh Hàng thịt thì ông bị thân xác tha hóa, ông ở trong một bi kịch. Nếu ông ở trong xác của xác cu Tị, ông chuyển
sang một bi kịch mới, sống một cuộc sống giả tạo, trái tự nhiên. Bi kịch này sẽ còn ghê gớm hơn trước.

- Đế Thích: sống là tồn tại


- Trương Ba: sống là chính mình

* Ý nghĩa cuộc đối thoại:


- Cuộc sống là đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng được.
- Con người phải luôn đấu tranh đê hoàn thiện nhân cách
-> Hạnh phúc chân chính của con người là được sống thật với mình và mọi người.

4. Phần kết:
- Giàu chất thơ, chất nhân văn:
+ Thể hiện qua câu nói của Trương Ba với vợ: ông uy không còn nữa nhưng ông đã trở lại trẹn vẹn trong kí ức, kỉ niệm, tình cảm yêu
thương của vợ con.
+ Kết thúc là hình ảnh khu vườn: đây là không gian quen thuộc gắn bó với Trương Ba lúc sinh thời; khu vườn đã được giữ lại – nề nếp, gia
phong của gia đình đã được khôi phục và gìn giữ; trong khu vườn có 2 đứa trẻ đang gieo hạt na xuống đất “cho nó… Ông nội tớ bảo vậy. Nối
nhau mà lớn khôn. Mãi mãi…” gợi về sự bất tử của linh hồn trong nỗi nhớ của người thân, trong những giá trị mà khi còn sống họ đã tạo ra; sự
sống không bao giờ dừng lại, tiếp tục sinh sôi, phát triển.
- Vở bi kịch mang âm hưởng lạc quan: không gợi nỗi buồn, không gợi cảm xúc tiêu cực mà để lại những thông điệp có giá trị, gieo niềm tin vào
cuộc sống, vào con người.

5. Nghệ thuật:
- Xây dựng hành động và đối thoại phù hợp với tính cách nhân vật.
- Tình huống kịch: phát triển tính cách nhân vật, phát triển truyện .

III. Ý nghĩa văn bản: (SGK/ghi nhớ)

29
[SỐ PHẬN CON NGƯỜI]

I. Tìm hiểu chung:


1. Tác giả: Mi-khai-in A-lếch-xan-đro-vich Sô-lô-khốp
- Nhận giải thưởng Nobel văn học 1965.
- Thuộc nhà văn lớn nhất thế kỉ XX.
- 1 số thành phần tiêu biểu:
+ Truyện sông Đông.
+ Sông Đông êm đềm (Giải thưởng quốc gia, giải Nobel)

2. Tác phẩm:
a) Xuất xứ:
- 1957.
- Mở ra 1 chân trời mới cho văn học Nga.
- Được xếp vào loại tiểu anh hùng ca.
- Cái nhìn cuộc sống và chiến tranh đầy mới mẻ và táo bạo.

b) Tóm tắt:

c) Chủ đề: thông qua số phận và vượt lên số phận của người lính trở về sau chiến tranh, nhà văn ca ngợi tính cách Nga: kiên cường và nhân
ái.

3. Đoạn trích:
- Phần kết thúc.
- Cuộc gặp gỡ và gắn bó của 2 số phận: Xô-cô-lốp và Va-ni-a.

II. Đọc – hiểu văn bản:


1. Hoàn cảnh và tâm trạng của Xô-cô-lốp sau khi chiến tranh kết thúc (trước khi gặp Va-ni-a):
a) Hoàn cảnh:
- Chịu nhiều đau thương, mất mát về cả thể xác lẫn tinh thần:
+ Bản thân thương tật.
+ Nhà cửa không còn.
+ Mất hết vợ, con.
+ Bị ám ảnh, không dám trở về quê hương.
+ Tha phương kiếm sống.
-> Hoàn cảnh chcung của nhân dân Xô Viết trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại.

b) Tâm trạng:
- Đau đơn tột cùng ‘ta đã chôn trên đất người, đất Đức, niềm vui sướng và niềm hi vọng cuối cùng của tôi’.
- Chán nản, mất phương hướng: ‘như người mất hồn’ tự hỏi ‘về đâu bây giờ’, tìm quên trong men rượu.
- Sống trong nặng trĩu, u ám, cô đơn, bế tắc với 1 trái tim suy kiệt.
-> Điểm nhìn trần thuật: không miêu tả niềm vui, hào quang chiếng thắng mà khai thác ‘nỗi buồn chiến tranh’, sự thật trần trụi và cay đắng phía
sau cuộc chiến. Thể hiện cái nhìn thẳng vào sự thật.

2. … khi gặp bé Va-ni-a:


a) Bé Va-ni-a:
- Mồ côi, không nơi nương tựa: ‘con chim con non nớt như thế mà đã học thở dài ư?’, ‘như ngọn cờ trước gió’.
- Ngây thơ đến tội nghiệp: luôn khát khao được gặp bố và tin Xô-cô-lốp là bố: ‘nhảy chồm lên cổ tôi hôn’.
- Tìm thấy ở Xô-cô-lốp 1 chỗ dựa chắc chắn.

b) Tâm trạng Anđrây Xô-cô-lốp:


- Khi gặp Va-ni-a: xót thương và yêu mến.
- Đau lòng, xúc động trước những lời kể ngây thơ.
+ ‘thích đến nổi thấy nhớ nó’.
+ ‘những giọt nước mắt nóng hổi sôi lên ở mặt tôi’.
- Khi nhận Va-ni-a làm con: niềm vui, hi vọng về cuộc sống đã trửo lại. Tâm hồn nhẹ nhõm, bừng sáng:
+ ‘mắt tôi thì cứ mờ đi, cả người cũng rung lên, 2 bàn tay lấy bấy’.
+ ‘sau…ngủ một giấc ngon lành’.
+ ‘trái tim suy kiệt…êm dịu hơn’.
- Trước tâm hồn ngây thơ của Va-ni-a: không dám thổ lộ ra đau khổ của mình, âm thầm chịu đựng những ám ảnh, né tránh những câu trả lời
đau lòng, hi sinh vì hạnh phúc của Va-ni-a.
=> 2 con người bất hạnh nương tựa vào nhau, sưởi ấm tâm hồn nhau. Chỉ cần tình thương tồn tại, tình thương sẽ chữa lành vết thương của
chiến tranh.
=> Nghị lực và nhân ái. Đó là tính cách Nga.

3. Nghệ thuật:
- Điểm nhìn trần thuật: tác giả và nhân vật giống nhau: ‘cái chính…má anh’: để những đứa trẻ sau chiến tranh được chăm sắc, sung sướng,
hạnh phúc.
- Cái nhìn hiện thực sâu sắc, nghiêm khắc: không tô vẽ hiện thực.
- Xây dựng theo lối truyện lồng truyện, trực tiếp bộc lộ tính cách nhân vật.
- Thái độ người kể chuyện: thiện cảm với nhân vật, xúc động mãnh liệt trước số phận con người.
30
- Trữ tình ngoại đề: sự giãi bày cảm xúc, ấn tượng, chủ quan; bày tỏ lòng khâm phục và tin tưởng ở tính cách Nga kiên cường và báo trước
những khó khăn trở ngại mà con người cần vượt qua để đến với tương lai và hạnh phúc.
- Mong muốn khơi dậy mạnh mẽ tính cách Nga: kiên cường và nhân hậu vượt lên trên hận thù và mất mát sau chiến tranh.
=> Sau chiến tranh, xã hội cần phải quan tâm đến đời sống cá nhân của họ.

III. Ý nghĩa văn bản:


- Bản lĩnh kiên cường và nhân hậu của con người Xô viết.
- Sô-lô-khốp là nhà văn dũng cảm khám phá sự thật.

31

You might also like