Professional Documents
Culture Documents
3. Tác phẩm:
a) Hoàn cảnh sáng tác:
- 1948, đơn vị Tây Tiến giải thể, thành lập trung đoàn 52.
- Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được ông sáng tác tại Phù Lưu Chanh sau khi rời xa đơn vị cũ.
- In trong tập thơ ‘Mây đầu ô’ là đứa con đầu lòng hào hoa và trăng kiện không chỉ của thơ ca Quang Dũng mà là của thơ ca kháng chiến thời kì đầu (Gs Phong
Lê).
b) Nhan đề:
‘Nhớ Tây Tiến’ -> ‘Tây Tiến’
- Chất chứa bao cảm xúc, nỗi nhớ dân trào da diết mỗi lần gọi tên.
- Thêm từ ‘Nhớ’ là thừa thãi.
- Ý nghĩa: tiến về miền Tây Bắc của Tổ quốc. Tinh thần ‘nhất khứ bất phục phản’ của thanh niên thời đại kháng chiến chống Pháp.
c) Bố cục: 4 phần.
2. Nhớ chiến trường Tây Bắc hùng vĩ và mĩ lệ, nhớ những người đồng đội ngã xuống (1)
a) Thiên nhiên nơi chiến trường Tây Bắc:
- Tên những địa danh: Sài Khao, Mường Lát.
-> Gợi sự xa xôi, hoang dã với những ấn tượng khó phai.
- Hình ảnh:
+ ‘sương lấp đoàn quân mỏi’: thanh tắc của từ ‘lấp’ gợi sự nặng nề, khắc nghiệt. Thành công miêu tả sự gian khổ, giàu chất hiện thực.
+ ‘hoa về trong đêm ơi’: 1 chuỗi những thanh bằng liên tiếp gợi nét lãng mạn, đậm chất thơ. ‘hoa’ trở nên gần gũi, có hồn, hương thơm bung tỏa trong đêm,
vương vấn bước chân vào tâm hồn lính trẻ. Cũng có thể hiểu, ‘hoa’ là những ngọn đuốc lửa, là điếu thuốc lập lòe, ẩn hiện trong đêm sương.
-> Tạo sự cân bằng hài hòa về nhịp điệu, cảm xúc và hình ảnh.
- 4 câu tuyệt bút:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
+ Địa hình:
* Điệp từ ‘dốc’: sự trùng điệp, hiểm trở, cao vút của núi rừng Tây Bắc.
* Từ láy tạo hình ‘khúc khuỷu – thăm thẳm – heo hút’ kết hợp với thanh trắc, diễn tả được sự trúc trắc, gập ghềnh khó đi.
* ‘Heo hút cồn mây’ đảo ngữ, diễn tả độ cao của núi và vẻ đẹp của binh đoàn hành quân trong mây.
* Nhân hóa ‘súng ngửi trời’: phản chiếu tâm hồn tinh nghịch lạc quan của những người lính Tây Tiến.
* Nghệ thuật tương phản, đối lập giữa 1 bên là ‘Ngàn thước lên cao’ với 1 bên là ‘ngàn thước xuống’: con số ước lệ kết hợp với phép đối ‘lên – xuống’ đã diễn
tả được: nhìn lên thì cao chót vót, nhìn xuống thì sâu thăm thẳm.
* Nhịp thơ 4/3: như gấp khúc câu thơ, gấp khúc con đường hành quân.
-> 3 câu đầu gợi sự rợn ngợp không gian, độ cao của núi, độ sâu của vực. Đó cũng là vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc.
+ Phút nghỉ chân: ‘Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.’: có cấu tạo toàn bộ là thanh bằng, tạo cảm giác nhẹ nhàng, thư thái trước 1 không gian mênh mông,
trước vẻ đẹo thanh bình của những bản làng dưới thung lũng xa, đang chìm trong mưa rừng sương núi. Diễn tả tâm trạng của người lính, bình thản trước gian
lao.
1
b) Hình ảnh những người đồng đội ngã xuống (trện đường hành quân)b:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
- Tiếng gọi ‘Anh bạn’ gợi sự thân thương, gần gũi, trìu mến.
- Từ láy ‘dãi dầu’ gợi sự vất vả, thiếu thốn, bệnh tật trong hoàn cảnh và điều kiện chiến đấu.
- ‘Gục lên súng mũ bỏ quên đời!’ gợi nhiều cách hiểu.
+ Có thể là 1 giấc ngủ ngắn lấy lại sức.
+ Cách nói giảm nói tránh về cái chết.
+ Chết trong tư thế đẹp: vẫn sẵn sàng chiến đấu, 1 cái chết đậm chất bi hùng.
-> Vần thơ nói đến sự mất mát, hi sinh nhưng không bi lụy, bi thương.
c) 4 câu cuối:
- Nhân hóa ‘thác gầm thét’, ‘cọp trêu người’ đặc tả sự hoang dã, dữ dội, mang dại của thiên nhiên được khám phá theo chiều thời gian và sự lạc quan, cười nhạo
gian khổ của những chàng lính trẻ.
- Thán từ ‘Nhớ ôi’, đảo ngữ: tô đậm nỗi nhớ da diết, đậm sâu, bật ra thành lời.
+ ‘cơm lên khói’, ‘thơm nếp xôi’: gợi hơi thở nồng ấm của sự sống, gợi 1 cảnh tượng ấm áp, bình yên. Cảnh vừa hiện thực vừa lãng mạn.
=> Thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng tráng, dữ dội nhưng cũng vừa thơ mộng, mĩ lệ, nổi bật lên là hình ảnh chiến sĩ can trường, ngang tàn và rất đỗi tinh nghịch, hào
hoa. Nghệ thuật đặc sắc nhất của đoạn 1 là sự kết hợp hài hòa của thanh điệu, giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực cùng thủ pháp đối lập.
3. Nhớ cảnh liên hoan nơi biên giới và cảnh sông nước Châu Mộc:
a) Đêm liên hoan:
- Động từ:
+ ‘bừng lên’ của ánh sáng; ấm áp, niềm vui lan tỏa của sự giao hòa, gắn kết quân với dân.
+ Chơi chữ ‘hội đuốc hoa’ (Hán Việt: hội hoa chúc): nghịch ngầm, tếu táo, đa tình.
- Nhân vật trung tâm ‘em’: thu hút hồn vía.
+ Thái từ ‘Kìa em’ thể hiện cảm xúc từ ngỡ ngàng đến si mê trước sự xuất hiện của các cô gái Thái.
- Bức tranh liên hoan sống động có cả âm thanh, vũ điệu.
=> Tổng hòa khiến cho những chàn lính Tây Tiến ngỡ ngàng lạc về thủ đô nước Lào, tâm hồn đầy ắp tình thơ, ý nhạc.
2
[VIỆT BẮC]
2. Đánh giá:
- Được đánh giá là đỉnh cao của đời thơ Tố Hữu.
- Là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
3. Đoạn trích:
- Thuộc phần đầu, tái hiện những kỉ niệm Cách mạng và kháng chiến ở Việt Bắc.
4. Chủ đề:
- Đoạn thơ vừa là khúc tình ca, vừa là khúc hùng ca của cuộc kháng chiến.
3
người ra đi, tự dặn lòng mình chớ quên ân tình Việt Bắc.
=> Tố Hữu rất tinh tế trong việc mượn các yếu tố biểu đạt của ca dao dân ca để tái hiện cảm xúc của người đi và kẻ ở trong buổi chia ly. Lối hỏi đáp đậm đà tính
dân tộc đã mở ra biết bao kỉ niệm và biết bao nỗi nhớ thương qua giọng thư tự nhiên, ngọt ngào, tha thiết như 1 khúc tình ca.
3. Cảnh và người Việt Bắc trong nỗi nhớ của người ra đi:
a) 4 câu đầu:
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đỉnh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...
- Lời khẳng định thủy chung sâu sắc:
- Câu 1: Ngắt nhịp 3/3 kết hợp cấu trúc đảo: ta – mình / mình – ta, nhấn mạnh, khẳng định ta với mình tuy 2 mà 1, trong ta có mình, trong mình có ta.
- Câu 2: Từ láy ‘mặn mà’, ‘đinh ninh’: nâng lên thành 1 lời thề thiêng lêng về sự thủy chung, son sắc.
- Câu 3: Được xem là câu trả lời tinh tế, biết đón bắt tâm trạng của người ra đi trước câu hỏi của Việt Bắc ‘mình đi, mình có nhớ mình’: khẳng định luôn luôn ghi
nhớ, mãi mãi ghi nhớ ân tình to lớn của Việt Bắc.
- Câu 4: Lối so sánh dân gian ‘bao nhiêu – bấy nhiêu’: sử dụng cái vô cùng của tự nhiên ‘nguồn bao nhiêu nước’ để khẳng định cái vô cùng của nghĩa tình mà Việt
Bắc dành cho Cách mạng.
b) 18 câu tiếp:
- Lối so sánh độc đáo ‘như nhớ người yêu’, Tố Hữu đã mượn tình cảm muôn thuở cho con người để giãi bày nỗi nhớ dành cho Việt Bắc – nỗi nhớ cháy bỏng,
thường trực, da diết và đậm sâu.
- Điệp ngữ ‘Nhớ từng’: tô đậm 1 nỗi nhớ vừa cụ thể, vừa gần gũi, vừa bé nhỏ, vừa thiêng liêng. Trong nỗi nhớ, Việt Bắc đã hiện lên với những nét đẹp vừa hiện
thực, vừa thi vị: được nhìn theo nhiều chiều không gian và thời gian qua phép liệt kê:
+ Nhớ 1 ánh nắng ban chiều, 1 ánh trăng buổi tối.
+ Nhớ những bản làng khói bếp quyện cùng sương sớm.
+ Nhớ những bếp lửa hồng ấm áp trong đêm khuya cùng bóng dáng người thương cần mẫn đi về khuya sớm.
+ Nhỡ những địa danh không tên như ‘rừng nứa bờ tre’ đến những địa danh có tên như ‘Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê’. Từ ‘vơi đầy’ đa nghĩa vừa nói đến quy
luật của con sông, dòng suối: nước có khi vơi khi đầy như không bao giờ cạn cũng như tình cảm của người ra đi dành cho người ở lại.
+ Nhớ cả những tháng ngày đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, gian nan nhưng vẫn lạc quan yêu đời. Tính từ ‘đắng cay ngọt bùi’ (đây là những gia vị,
hương vị của cuộc sống). Động từ ‘chia – sẻ - đắp cùng’.
+ Cảm động nhất và ám ảnh nhất trong nỗi nhất là hình ảnh những người mẹ địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô trong cái nắng cháy lưng và tất cả những tình
cảm thương mến, trân trọng dồn tụ vào 2 từ ‘cháy lưng’ để tôn vinh sự hi sinh thầm lặng của người dân nơi đây.
-> Đây là hình ảnh đẹp nhất , thiêng liêng nhất, đã tạc 1 bức tượng đài bất tử về người mẹ Việt Nam anh hùng.
+ Khép lại đoạn thơ, khép lại những dòng hoài niệm là những âm thanh và nhịp điệu chậm rãi quen thuộc của Việt Bắc: ‘Tiếng mõ rừng chiều, tiếng chày giã
lúa trên núi xa.’.
=> Thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên thật sâu sắc, thấm thía và xúc động trong nỗi nhớ của người ra đi. Đó là khoảng thời gian, không gian lung linh, kỉ
niệm.
4
- 2 câu đầu:
+ ‘Ta về, mình có nhớ ta’ có hình thức mở đầu giống ca dao. Hỏi nhưng thực chất là tạo 1 cái cớ để giãi bày lòng mình.
+ ‘Ta về, ta nhớ những hoa cùng người’: trọng tâm của lời giãi bày.
+ ‘hoa cùng người’ là 1 cách nói khác cho nỗi nhớ thiên nhiên, con người Việt Bắc.
- Qua nỗi nhớ, bức tranh 4 mùa hiện lên với vẻ đẹp đa dạng, sống động được nhìn ở những không gian và thời gian khác nhau.
+ Mùa đông: mở đầu cho bức tranh tứ bình.
* Thiên nhiên Việt Bắc được vẽ bằng 2 gam màu đối lập nhau: màu xanh thâm u, trầm tĩnh của đại ngàn; màu đỏ của hoa chuối đỏ tươi, rực rỡ, sinh
động, tựa như những đốm lửa.
-> Làm nổi bật vẻ đẹp của sức sống và vẻ đẹp bật lên sức nóng lan tỏa, xua đi giá lạnh mùa đông.
* Con người: hiện lên mờ nhòe, chỉ biết có người đi rừng qua chi tiết ‘nắng ánh’ phản chiếu lên ‘dao gài thắt lưng’.
-> Con người rất nhỏ bé nhưng trong tư thế hiên ngang, làm chủ núi rừng.
+ Mùa xuân:
* Việt Bắc vào xuân như thay áo mới.
* Sắc ‘xanh’ thâm u đã được thay bằng màu ‘trắng’ của hoa mơ.
-> Vẻ đẹp ấn tượng là cả 1 cánh rừng mơ trắng.
* Tính từ ‘trắng rừng’ tạo ấn tượng mạnh về vẻ đẹp tinh khiết nhẹ nhàng của Việt Bắc vào xuân.
MỞ RỘNG:
+ ‘Theo chân Bác’ – Tố Hữu:
...'Ôi sáng xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ.
+ ‘Cô hái mơ’ – Nguyễn Bính:
Thơ thần đường chiều một khách thơ,
Say nhìn xa rặng núi xanh lơ,
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo,
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ.
-> Gợi tả không gian như bước vào thế giới của những cơn mơ.
* Hình ảnh ‘người đan nón’ – công việc thầm lặng, đòi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn trọng, khéo léo, tài hoa ‘chuốt từng’.
-> Như 1 người nghệ sĩ và sản phẩm nón là tác phẩm của họ.
+ Mùa hạ:
* Điểm đặc biệt của bức tranh mùa hạ là không chỉ có màu sắc mà còn có âm thanh.
-> Làm cho bức tranh trở nên sinh động hơn.
* Đặc trưng của mùa hạ là tiếng ve và màu vàng lộng lẫy của hoa phách. Động từ tinh tế ‘đổ’ cho chúng ta cảm nhận được bước đi vô hình của thời gian,
hữu hình trên màu hoa phách (cánh rừng hoa phách). Động từ ‘đổ’ diễn tả được sự chuyển mùa, chuyển màu.
* Cách biểu đạt của Tố Hữu làm người đọc liên tưởng: nghe tiếng ve kêu cả cánh rừng phách bỗng bừng thức và nhất loạt chuyển sang màu vàng.
* Con người: ‘Cô em gái’: cách gọi thân thương, thân mật, từ ‘1 mình’ gợi sự thầm lặng của ‘những con người không ai nhớ mặt đặt tên những họ đã làm
ra đất nước’.
+ Mùa thu:
* Đêm trăng mát rượi, gợi ước ao, khát vọng thanh bình.
MỞ RỘNG: Liên hệ ánh trăng trong thơ kháng chiến của Hồ Chí Minh:
+ ‘Rằm tháng giêng’:
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
+ ‘Cảnh khuya’:
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
+ ‘Tin thắng trận’:
Trăng đẩy cửa sổ hỏi: - Thơ xong chưa?
- Vẫn còn bận việc quân, chưa làm thơ được.
Bỗng tiếng chuông ở lầu trên núi khua tỉnh giấc mộng đêm thu,
Vừa hay là lúc có tin thắng trận ở Liên khu báo về.
* Nhớ con người Việt Bắc với vẻ đẹp lạc quan, với lối sống ân tình, thủy chung.
=> Tứ bình: Với kết cấu đan xen, đoạn thơ làm nổi bật vẻ đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và con người.
=> Có sự hài hòa giữa đường nét, màu sắc, âm thanh. Mang vẻ đẹp lục bát cổ điển.
=> Âm hưởng của khúc tình ca ngọt ngào, của tình đồng chí, nghĩa đồng bào, tình yêu thiên nhiên.
4. Khung cảnh chiến khu Việt Bắc (khúc hùng ca kháng chiến):
a) Vai trò của Việt Bắc trong chiến đấu:
- ‘Núi giăng thành lũy sắt dày / Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.’: rừng núi mênh mông, hùng vĩ trở thành bạn, chở che cho bộ đội ta, cùng quân và dân ta
đánh giặc và núi rừng cũng đầy nguy hiểm với quân thù qua nghệ thuật so sánh, nhân hóa.
- Những cái tên, những địa danh ở chiến khu Việt Bắc: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, Cao – Lạng, Nhị Hà… vang lên đầy mến yêu, tự hào, là nỗi nhớ của cán bộ
về xuôi.
5
+ Lí tưởng ở trong tim.
- Tổng hợp nhiều lực lượng: bộ đội, dân công, cơ giới. Tính từ ‘đỏ đuốc’: hình ảnh đẹp lung linh, lãng mạn hóa con đường ra trận thể hiện sự nhiệt huyết của
quân và dân.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
- Thậm xưng: ‘bước chân nát đá’ mượn ý thành ngữ ‘chân cứng đá mềm’: hào hùng, rực tràn ý chí.
- Nghệ thuật tương phản, ẩn dụ: ‘nghìn đêm – ngày mai’: phản chiếu niềm tin mãnh liệt, chắc chắn chẳng bao lâu nữa sẽ quét sạch bóng đêm nô lệ.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
-> Đoạn thơ đã khắc họa được các hoạt động tấp nập, hình ảnh hào hùng, âm thành sôi động bằng bút pháp sử thi và cảm hứng lãng mạn, bằng ngôn ngữ giàu
nhac điệu, hình ảnh có tính ẩn dụ cao.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui vẻ
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
- Phép liệt kê và phép điệp từ ’vui’: sự náo nức, phấn khở ngập tràn,
- Lí giải cội nguồn của sức mạnh và sự chiến thắng: sức mạnh của lòng căm thù, của tình nghĩa thủy chung, của khối đại đoàn kết, sự hòa quyện gắn bó giữa con
người với thiên nhiên.
-> Núi rừng Việt Bắc, con người Việt Bắc là hình ảnh của ‘đất nước đứng lên’, là tình cảm, niềm tin, hi vọng của nhân dân cả nước.
=> Nhịp thơ dồn dập gấp gáp, âm hưởng hào hùng, náo nức tạo thành khúc hùng ca chiến thắng: Âm hưởng anh hùng ca, dáng dấp sử thi hiện đại.
6
[ĐẤT NƯỚC]
b) Sự nghiệp:
- Là 1 trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ những nhà thơ trẻ trong những năm chống Mĩ.
- Phong cách thơ: Giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc chính luận.
b) Nội dung:
- Viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiến ở miền Nam trước 1985.
+ Nhận thức rõ bộ mặt xâm lược của Đế quốc Mĩ.
+ Hướng về nhân dân, đất nước.
+ Ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc đấu tranh của toàn dân tộc.
3. Đoạn trích:
a) Xuất xứ:
- Phần đầu chương V của trường ca ‘Mặt đường khát vọng’.
b) Thể loại:
- Trường ca – thể thơ dài có sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình.
c) Bố cục:
b) Cảm nhận về phương diện không gian địa lý, thời gian lịch sử của đất nước (Đất nước là gì?)
- Về phương diện không gian:
+ Viết hoa từ Đất Nước 1 cách trang trọng.
+ Tác giả chia tách ‘Đất Nước’ thành 2 yếu tố đất – nước để cảm nhận và suy tư về đất nước 1 cách sâu sắc, độc đáo và mới mẻ.
+ Đất nước là 1 không gian gần gũi với mỗi người, là con đường đến trường của trẻ thơ, là nơi tắm mát, nơi hò hẹn, là không gian mênh mông chứa đựng
tâm tư, tình cảm của tình yêu lứa đôi tràn đầy màu sắc.
* Là nơi gắn cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của mỗi người:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
* Là nơi gắn với kỉ niệm tình yêu đôi lứa, trong đôi mắt của 1 nhà thơ trẻ. Đất nước là không gian tình yêu, chứa đựng những kỉ niệm dịu ngọt (cái nhìn
về Đất Nước rất mới mẻ, thú vị).
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
+ Đất nước bao gồm cả núi sông, rừng bể:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
7
- Những hình ảnh ca dao, điệu hò dân gian gợi không gian mênh mông, niềm tự hào về đất nước trù phú, giàu đẹp, tài nguyên vô tận.
- Đất nước còn là không gian sinh tồn, nơi phát sinh và phát triển của cộng đồng người Việt qua biết bao thế hệ từ quá khứ ‘Những ai đã khuất’, hiện tại ‘Những
ai bây giờ’ đến thế hệ tương lai ‘Dặn dò con cháu chuyện mai sau’.
- Tất cả đều không quên nguồn cội:
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
-> Trong cái nhìn về không gian đất nước, Nguyễn Khoa ĐIềm nghiêng nhiều về không gian đời thường, thân quen.
b) Vai trò của nhân dân qua 4 nghìn năm lịch sử đất nước:
- Trên phương diện thời gian lịch sử cũng chính nhân dân ta đã ‘làm nên đất nước muôn đời’.
- Chính vì vậy, khi cảm nhận đất nước 4 nghìn năm lịch sử, nhà thơ không nói đến các triều đại, các anh hùng mà nhấn mạnh đến những con người vô danh,
bình dị.
MỞ RỘNG: Nguyễn Đình Chiểu đã tạc bức tượng đài nghĩa sĩ – nông dân bằng ‘Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc’.
c) Trên phương diện văn hóa cũng chính nhân dân là người lưu giữ và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc:
- Đại từ ‘Họ’ đặt đầu câu kết hợp nhiều động từ ‘giữ, truyền, chuyền, gánh’ -> Chính nhân dân là người đã giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ mai sau mọi giá trị
văn hóa tinh thần và vật chất.
- Điểm hội tụ và cũng là cao điểm của cảm xúc trữ tình trong đoạn thơ:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
+ Khi nói đến ‘Đất Nước của Nhân dân’, tác giả mượn văn học dân gian để nhấn mạnh thêm vẻ đẹp của đất nước ‘Đất Nước của ca dao thần thoại’.
d) Từ nên văn học dân gian, nhà thơ đã khám phá ra những vẻ đẹp tâm hồn và tính cách dân tộc:
- Họ là những con người yêu say đắm và thủy chung:
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
- Quý trọng tình nghĩa:
Biết quý cong cầm vàng những ngày lặn lội
- Kiên gan, bền chí trong công cuộc bảo vệ đất nước:
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
- Kết thúc đoạn thơ là hình ảnh dòng sông với những điệu hò:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.
-> Như muốn kéo dài thêm giai điệu ngân nga với nhiều cung bậc về bản trường ca của đất nước.
8
- Hình ảnh đất nước gần gũi, thân thương được cảm nhận mới mẻ và độc đáo.
- Tư tưởng đất nước của nhân dân được thể hiện sâu lắng trữ tình.
2. Nghệ thuật:
- Giọng thơ trữ tình chính luận, cảm xúc sâu lắng, thiét tha; vận dụng nhiều vốn văn hóa dân gian, kiến thức nhiều lĩnh vực.
9
[SÓNG]
b) Sự nghiệp:
* Nói đến Xuân Quỳnh, người ta nói đến hồn thơ giàu nữ tính, có dòng chảy riêng cho mình, gần gũi.
- Đặc điểm thơ: giàu nữ tính với hồn thơ giàu trắc ẩn, hồn hậu, chân thực và luôn luôn da diết trong khát vọng về 1 hạnh phúc đời thường.
- Các tác phẩm chính: ‘Tơ tằm – chồi biếc’, ‘Hoa cỏ may’, ‘Tự hát’, ‘Thư tình cuối mùa thu’, ‘Thuyền và biển’…
-> Xuân Quỳnh là 1 trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ.
2. Tác phẩm:
a) Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ:
- Trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền, Thái Bình (cuối 1967).
- In trong tập ‘Hoa dọc chiến hào’ (1968).
b) Chủ đề:
- Qua hình tượng con sóng, Xuân Quỳnh diễn tả cụ thể, sinh động khát vọng và vẻ đẹp tâm hòn của người phụ nữ trong tình yêu.
c) Bố cục:
b) Khổ 2:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau cũng thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
- 2 câu đầu: Mượn quy luật của sóng: sóng ngày xưa hay sóng ngày sau thì vẫn cồn cào, xôn xao, vỗ bờ.
-> Sự trường tồn của sóng trước thời gian vẫn dạt dào, sôi nổi để liên tưởng đến quy luật của tình cảm.
- 2 câu sau: Tình yêu là khát vọng lớn lao, mãnh liệt và vĩnh hằng của tuổi trẻ và nhân loại.
=> Hai khổ thơ đầu mượn sóng để nói đến những cung bậc cảm xúc của tình yêu: Tình yêu là nỗi niềm khát khao muôn thuở, luôn vươn tới cái lớn lao và hoàn
thiện nhất.
3. 2 khổ tiếp:
a) Khổ 3:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
- Điệp ngữ ‘em nghĩ’: người phụ nữ khi yêu luôn suy tư; và câu hỏi ‘Từ nơi nào sóng lên?’: người phụ nữ quay về lòng mình, nhu cầu tìm hiểu, phân tích, khám
phá tình yêu.
b) Khổ 4:
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
- Các câu hỏi tu từ liên tiếp: ‘Gió bắt đầu từ đâu?’, ‘Khi nào ta yêu nhau’ -> Xuân Quỳnh dựa vào quy luật của tự nhiên để truy tìm khởi nguồn của tình yêu nhưng
10
nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu đều bất ngờ, đầy bí ẩn, không thể lí giải được.
4. 3 khổ tiếp:
a) Khổ 5:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
* Nỗi nhớ trong tình yêu:
- Nỗi nhớ trong đoạn thơ là nỗi nhớ bao trùm cả không gian ‘sóng dưới sóng sâu – sóng trên mặt nước’ và thao thức trong mọi thời gian ‘Ngày đêm không ngủ
được’.
-> Phép đôi, nhân hóa, giọng thơ dào dạt, náo nức, mãnh liệt, diễn tả nỗi nhớ da diết không thể nào nguôi, cứ cuồn cuộn, dạt dào như sóng biển liên miên.
b) Khổ 6:
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
* Lòng thủy chung trong tình yêu:
- 2 câu thơ đầu là cách nói khẳng định ‘dẫu xuôi – phương bắc’, ‘dẫu ngược – phương nam’ và các từ ‘em cũng nghĩ’.
- Lời diễn đạt ngượng ngạo nhấn mạnh mọi sự cách trở trong tình yêu đều là nghịch lí, đồng thời dẫu có xa xôi cách trở đến mấy, dẫu có khó khăn đến mấy thì
vì tình yêu, người con gái cũng sẽ vượt qua.
- Các điệp ngữ ‘dẫu xuôi về - dẫu ngược về’ và điệp từ ‘phương’ cho thấy với người con gái, phương duy nhất là phương anh, kim chỉ nam duy nhất là kim chỉ
nam tình yêu. Đây là 1 cách diễn đạt độc đáo, thú vị.
-> Khổ 6 khẳng định niềm tin chờ đợi và lòng thủy chung son sắt trong tình yêu của phụ nữ.
c) Khổ 7:
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
- Mượn hình tượng con sóng khao khát đến vờ và mượn quy luật của con sóng ‘Con nào chẳng tới bờ’ để khẳng định tình yêu là sức mạnh giúp em và anh vượt
qua gian lao, thử thách đế đến bến bờ hạnh phúc.
-> Xuân Quỳnh thể hiện cái tôi luôn có niềm tin mãnh liệt vào tình yêu.
5. 2 khổ cuối:
a) Khổ 8:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
- Xuất hiện những từ ngữ diễn tả quan hệ đối lập: ‘tuy – như’, ‘dẫu – vẫn’; ‘Cuộc đời – dài’, ‘Năm tháng – đi qua’.
-> Sự nhạy cảm và lo âu, phấp phỏng về sự hữu hạn của đời người và sự mong manh của hạnh phúc.
b) Khổ 9:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
- Cách dùng từ ngữ chỉ số lượng lớn thê hiện khao khát được chia sẻ, hòa nhập với mọi người ‘Làm sao được tan ra – trăm con sóng – ngàn năm còn vỗ’.
+ Khao khát được sẻ chia, hòa nhập vào cuộc đời.
+ Khát vọng được sống hết mình trong…
2. Nghệ thuật:
- Kết cấu song trùng, tương ứng, hòa hợp giữa ‘em’ và ‘sóng’.
- Thể thơ 5 chữ truyền thống, cách ngắt nhịp, gieo vần độc đáo, giàu sức liên tưởn
11
[NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ]
b) Sự nghiệp:
- Vị trí: quan trọng: thúc đẩy thể loại tùy bút, bút kí đạt đến trình độ cao.
- Phong cách: Ngông.
+ Nhân cách nghệ sĩ tài hoa, uyên bác.
+ Văn chương phóng túng, ý thức về cái tôi cá nhân.
* Phong cách nghệ thuật: là 1 cây bút tài hoa uyên bác, độc đáo và là 1 nghệ sĩ suốt đời tôn thờ và tìm kiếm cái đẹp.
2. Tác phẩm:
a) Xuất xứ:
- In trong tập tùy bút ‘Sông Đà’ (1960).
d) Bố cục:
- Con sông Đà: trữ tình – hung bạo.
- Người lái đò sông Đà: người lao động bình thường – người tài hoa nghệ sĩ.
* Đá Sông Đà:
- ‘Cả một chân trời đá’: đá to, đá bé, đá đứng, đá ngồi, ‘tùy sở thích’, ‘mặt thằng nào thằng nấy nhăn nhúm, méo mó, ngỗ ngược’. Nhà văn đã miểu tả rất sinh động
đá Sông Đà.
- ‘Ngàn năm vẫn mai phục nơi đây’. Bày ra 4 thạch trận trên sông:
+ Thạch trận 1: 5 cửa, trong đó 4 cửa tử - 1 cửa sinh, lập lờ phía tả ngạn.
+ Thạch trận 2: tăng thêm nhiều cửa tử, 1 cửa sinh nằm ở hữu ngạn.
+ Thạch trận 3: trái phải đều là luồng chết, cửa sinh nằm ở giữa phía sau lũ đá hậu vệ.
-> Nguyễn Tuân đã khám phá sức mạnh dữ dội và man dại của thiên nhiên Sông Đà nơi thượng nguồn. Ông phát hiện ra được ‘thứ vàng trắng’ (tiềm năng thủy
điện) quý giá mà con Sông Đà sẽ mang lại cho những buổi đầu kiến thiết đất nước, những năm 60 của thế kỉ trước.
b1) Dáng vẻ của dòng sông chảy từ trên cao nhìn xuống:
- ‘Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trồi Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói
núi Mèo đốt nương xuân’.
- Cấu tạo là 1 câu văn dài, điệp ngữ ‘tuôn dài’: sử dụng chủ yếu là thanh bằng, phép so sánh và nhân hóa: Sông Đà được ẩn hiện trong mây trời được tô điểm
bằng hoa ban trắng, hoa gạo đỏ, trong khói núi Mèo giàu chất điện ảnh, giàu chất thơ, chất hội họa.
+ Cách nói ‘áng tóc trữ tình’: từ ‘áng’ rất đẹp
-> Nhà văn đã thu được cái thần, cái hồn, cái bảng lảng sương khói, vẻ đẹp êm ả, hiền hòa của dòng sông. Sông Đà đã hóa thân thành 1 ‘mĩ nhân dịu hiền và xuân
sắc’.
b2) Sắc nước Sông Đà biến ảo theo mùa được nhìn ở nhiều chiều thời gian:
- Mùa xuân ‘dòng xanh ngọc bích’: so sánh màu nước vừa trong veo vừa xanh biếc vừa lấp lánh như ngọc.
- Mùa thu ‘lừ lừ chín đỏ’: so sánh màu nước như 1 thứ quả đang từ từ chín, cứ ửng dần lên; so sáng màu nước như ‘da mặt của một người bầm đi vì rượu bữa’;
‘vẻ mặt của một người bực bội, bất mãn mỗi độ thu về’; đó là 1 màu đỏ đậm, đỏ bầm. Nét độc đáo của Nguyễn Tuân là ông lấy tâm trạng, thái độ của con người để
liên tưởng đến màu nước, làm nổi bật lên 1 con sông trĩu nặng phù sa sau thác lũ.
-> Lối so sánh của Nguyễn Tuân rất thú vị, độc đáo; chất kí và tùy bút hòa quyện vào nhau làm nên 1 con sông vừa huyền ảo vừa thơ mộng.
b4) Cảnh ven sông được nhìn từ góc độ đi thuyền trên Sông Đà:
- Con sông tĩnh lặng, hoang vắng tựa như thừi tiền sử ‘lặng lờ’.
- Vẻ đẹp hoang sơ, hồn nhiên, trong sáng, chỉ có thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên.
- Nguyễn Tuân miêu tả giàu chất thơ: ‘nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa’, cỏ gianh đang ra những nõn búp. 1 đàn hươu cúi đầu ngốn những búp cỏ
gianh đẫm sương đêm…: bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống non trẻ, thanh khiết, trù phú, yên bình và thơ mộng.
- Sở trường so sánh, liên tưởng độc đáo: ‘Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa’. Nhà văn thấy được vẻ đẹp
rất riêng của Sông Đà – xa xăm, nhuốm mùa cổ tích, huyền thoại.
-> Trong niềm cảm hứng dạt dào, Nguyễn Tuân đã viết nên 1 đoạn văn xuôi chất thơ với những ví von liên tưởng độc đáo đưa người đọc đến 1 không gian lãng
mạn. Sông Đà với Nguyễn Tuân còn tình tứ như ‘một người tình nhân chưa quen biết’.
=> Cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Tuân và con Sông Đà như 1 mối duyên kì ngộ giữa 1 cái tôi phóng túng với 1 đối tượng thẩm mỹ độc đáo. Sông Đà là minh chứng cho
ngòi bút tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân. Sông Đà như 1 công trình nghệ thuật vô song của tạo hóa, chuẩn bị cho sự xuất hiện của ông lái đò với những vẻ đẹp
tương ứng ở đoạn sau.
b) Người tài trí, dũng cảm, lão luyện trong nghề leo ghềnh vượt thác:
b1) Ông lái đò trong hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt:
- Cuộc sống là 1 cuộc chiến đấu, hàng ngày giành cái sống từ tay Sông Đà hung bạo: đó là cuộc chiến đấu không cân sức giữa 1 con Sông Đà cuồng nộ với 1 con
người lao động bé nhỏ chỉ có 1 con thuyền 6 mái chèo.
- Ông lái đò là 1 người hiểu biết sâu sắc về Sông Đà:
+ Nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá.
+ Thuộc lòng quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước.
- Nhờ thế ông đã giành được sự sống từ Sông Đà.
- Cuộc thủy chiến giữa ông lái đò với Sông Đà:
THẠCH TRẬN 1
SÔNG ĐÀ ÔNG ĐÒ
- 4 cửa tử - 1 cửa sinh (trái) - Giữ vững mái chèo khỏi bị hất lên khỏi trận địa.
- Đá tiền vệ oai phong lẫm liệt. - Cố nén vết thương.
13
- Nước thác ‘thanh viện’: hò reo, cổ vũ cho đá. - Hai chân kẹp chặt cuống lái.
- Động từ thể hiện sự chủ động tấn công của đá: - Chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo.
‘đá trái’, ‘thúc gối’, ‘đội cả thuyền lên’. -> So sánh, miêu tả: vững vàng, bình tĩnh.
-> Nhân hóa, liên tưởng: Sông Đà hung hãn, hiếu
chiến.
THẠCH TRẬN 2
SÔNG ĐÀ ÔNG ĐÒ
- Tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh bên phải. - Nắm chắc binh pháp, thuộc lòng quy luật.
- Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông - Nắm lấy cái bờm sóng, ghì cương lái, phóng
đá. nhanh vào cửa sinh.
- Núi thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. - Rảo bơi chèo, đè sấn lên cửa đá, mở đờng tiến.
-> Nhân hóa, liên tưởng: hiểm ác, hiếu thắng. - Bỏ lại luồng tử sau lưng thuyền.
-> So sáng, dùng động từ mạnh: chủ động, bản lĩnh
và trí tuệ.
THẠCH TRẬN 3
SÔNG ĐÀ ÔNG ĐÒ
- Trái phải đều là luồng chết, cửa sinh ở giữa. - Đưa thuyền vút qua cổng đá, cánh mở cánh khép.
-> Nhân hóa, liên tưởng: Sông Đà nguy hiểm tột độ, - Thuyền như 1 mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
hiếu sát. nước (thuyền với ông lái đò hòa làm 1).
-> So sánh, liên tưởng: quyết đoán, tài hoa, khéo
léo.
=> Bằng nghệ thuật kể và tả hồi hộp, căng thẳng: sử dụng từ ngữa thuộc nhiều lĩnh vực, Nguyễn Tuân đã say sưa tường thuật trận chiến sinh tử giữa ông đò và
Sông Đà. Chiến thắng thuộc về người lái đò cũng như thuộc về ‘ông lái đò chữ nghĩa Nguyễn Tuân’ trên ‘dòng sông con chữ’.
4. Nghệ thuật:
- Bút pháp lãng mạn, tài hoa, uyên bác.
- Vốn từ ngữ phong phú, giàu có, điêu luyện và sáng tạo.
- Lối viết tự do, phóng túng, dạt dào cảm xúc.
- Phát huy tối đa sở trường so sánh, nhân hóa, liên tưởng, tưởng tượng.
14
[AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG]
2. Tác phẩm:
a) Xuất xứ:
- ‘Ai đã đặt tên cho dòng sông?’ được viết năm 1981, in trong tập sách cùng tên.
c) Thể loại:
- Bút kí.
* Góc độ âm nhạc:
- ‘Quý điệu chảy lặng lờ’ của nó khi chảy ngang qua thành phố, ‘điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế’.
- Cách miêu tả của nhà văn vừa thấy tình cảm mà nhà văn dành riêng cho sông Hương mà vừa như cảm nhận được tình cảm quyến luyến của sông Hương dành
15
riêng cho Huế trước khi ra biển.
- ‘Sông Hương khi người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya’.
- Nhà văn cho rằng toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được ‘sinh thành trên mặt nước của dòng sông này’. Qua sự quan sát tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường khám
phá ra sông Hướng gắn với lịch sử âm nhạc lâu đời của Huế. Là cái nôi hình thành nền âm nhạc truyền thống. Liên tưởng đến Nguyễn Du và Truyện Kiều, tưởng
tượng đến điệu tứ đại cảnh khởi phát từ tiếng đàn của Kiều – kết quả sáng tạo của Nguyễn Du sau bao năm lênh đênh trên 1 quãng sông này với 1 phiến trăng
sầu.
-> Khẳng định dòng sông gắn bó với những giá trị văn hóa, văn học kinh điển của dân tộc.
* Góc độ tình yêu (đoạn sông Hồng trước khi chảy ra biển)
- Tác gả nhìn sự đột ngột đổi dòng, rẽ hướng để quay lại gặp thành phố lần cuối trước khi ra biển mà liên tưởng tới cuộc chia tay lưu luyến bị rịn của Kiều trong
đêm tình tự, khúc ngoặc bất ngờ đó so sánh như nỗi ‘vấn vương’ cả 1 chút ‘lẳng lơ, kín đáo’ của tình yêu.
-> Sông Hương cũng giống như con người biết quyến luyến. Và 1 lần nữa tác giả khẳng định lại, sông Hương như 1 người tình dịu dàng và chung thủy của thành
phố Huế, giống với người Châu Hóa xưa mãi chung tình với quê hương xứ sở.
2. Sông Hương dưới góc độ lịch sử, đời thường, thi ca:
a) Lịch sử:
- ‘Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc’: sông Hương mang 1 vẻ đẹp vừa trữ tình, vừa hùng tráng.
+ Thời Nguyễn Trãi: sông Hương có tên gọi là Linh Giang, là dòng sông biên thùy.
+ Thế kỉ XVIII, là dòng sông vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân với chiến công của vua Quang Trung.
+ Thế kỉ XIX, là trang sử bi tráng với các cuộc khởi nghĩa đẫm máu.
+ Thế kỉ XX, gắn với những chiến công rung chuyển.
+ Trong kháng chiến chống Mĩ, là trang sử bi hùng, xót xa chứng kiến những di tích văn hóa bị tàn phá bởi chiến tranh.
-> Sông Hương gắn với những trang sử thăng trầm của thành phố Huế.
b) Thi ca:
- Sông Hương trở thành nguồn cảm hứng bất tận.
- Dòng sông ‘không chịu lặp lại mình’ trong cảm hứng sáng tạo của các nghệ sĩ.
+ Là dòng sông quan hoài vạn cổ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan.
+ Là dòng sông hùng tráng như kiếm dựng trời xanh trong thơ Cao Bá Quát.
+ Là ‘dòng sông trắng, lá cây xanh’ trong thơ Tản Đà.
+ Là ‘dòng sông trong veo, phục sinh’ trong thơ Tố Hữu.
c) Đời thường:
- Hết chiến tranh, sông Hương trở về làm người con gái dịu dàng, bình thường của đất nước với vẻ đẹp giản dị, thâm trầm và rất Huế. Khi nhà văn ví dòng sông
với sắc nước như chiếc áo lục điều của của cô dâu.
3. Nghệ thuật:
- Về văn phong: lối viết tài hoa, mê đắm, hướng nội và có chiều sâu.
- Ngôn từ: vốn từ phong phú, gợi hình và gợi cảm.
- Sử dụng nghệ thuật nhân hóa, so sánh, liên tưởng có hiệu quả.
16
[VỢ CHỒNG A PHỦ]
2. Tác phẩm:
a. Xuất xứ: 1952 – 1953
- In trong tập truyện Tây Bắc, là kết quả của chuyến đi theo bộ đội giải phóng lên Tây Bắc.
c. Tóm tắt:
* Những yếu tố tác động làm hồi sinh tâm hồn Mị:
- Các yếu tố ngoại cảnh của mùa xuân.
- Đặc biệt là âm thanh của tiếng sáo: được miêu tả từ xa đến gần, từ mơ hồ đến cụ thể, vừa là tiếng sáo thực vừa là tiếng sáo trong tâm tưởng: Tiếng sáo lấp ló
ngoài đầu núi, tiếng sáo rũ bạc ở đầu làng, tiếng sáo lửng lơ ở ngoài đường.
-> Nó có sức mạnh len lỏi vào mọi ngóc ngách tâm hồn và làm tan chảy lớp băng vô cảm của Mị. Làm Mị ‘thiết tha, bồi hồi’, ‘Mị ngồi nhẩm thầm bài hát’.
+ Tiếng sáo đưa Mị trở về quá khứ: Từ cõi quên trở về cõi nhớ, tác động vào ý thức của Mị, làm Mị sống lại những ngày tươi đẹp trong quá khứ khi còn là 1
người con gái trẻ trung, xinh đẹp được biết bao chàng trai say mê, theo đuổi.
17
+ Tiếng sáo thôi thúc Mị đến với những cuộc chơi như bao nhiêu trai gái người Mông khác, thôi thúc Mị đi theo tiếng gọi của tình yêu và đời sống tự do. Mị
ý thức được bản thân mình ở hiện tại ‘Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi’. Tiếng sáo biểu tượng cho khát vọng và thổi bừng ngọn lửa khát vọng trong
tâm hồn Mị.
- Men rượu nồng nàn:
+ Cách Mị uống rượu: Mị uống ực từng bát, cách uống đầy phẫn uất và đầy khát khao. Uống như thể cố nuốt trôi những uất ức, tủi nhục của những năm
tháng qua, uống cho cả những khát khao mãnh liệt của phần đời chưa tới.
+ Men rượu, cơn say khiến cho Mị có những suy nghĩ phản kháng táo bạo:
* Mị muốn đi chơi. Mị sẽ đi chơi như bao người phụ nữ có chồng khác.
* ‘Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra.’. Lúc này, Mị muốn phủ
nhận sự sống của chính mình. Nghĩa là cô đã ý thức được tình trạng tủi nhục, vô cảm ở hiện tại và cũng không muốn tiếp tục cuộc sống vô nghĩa như thế nữa.
+ Mị bước vào buồng như 1 thói quen: Nhưng không phải để tiếp tục làm con rùa nuôi trong xó cửa mà để sửa soạn đi chơi. Cô thắp sáng đĩa đen như muốn
thắp sáng lại đời mình, vấn lại tóc – lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, người đàn bà ấy chăm chút bề ngoài của bản thân, và chiếc váy hoa trên vách chuẩn bị đi
chơi.
-> Sức sống tiềm tàng đã trỗi dậy trong ý thức, qua hành động, thế nhưng A Sử trở về:
+Bằng 1 hành động tàn nhẫn và vô cảm, A Sử trói đứng Mị vào cột nhà, khép cửa và đi chơi. Thế nhưng Mị ‘không biết mình đang bị trói’ bởi hơi rượu vẫn
nòng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi. Tiếng sáo đã làm chủ và dẫn lối cho tâm hồn Mị, Mị vùng bước đi, ‘đi theo tiếng gọi khát khao,
của con tim’. Nó khiến Mị quên đi thực tại nghiệt ngã trong chốc lát.
+ Sợi dây trói đưa Mị trở về thực tại.
+ Tiếng sáo tắt hẳn, thứ âm thanh của thực tại: Tiếng ngựa nhai cỏ, gãi chân. ‘Mị thổn thức nghĩ rằng mình không bằng con người’. Cụm từ ‘thổn thức nghĩ
rằng’ cho thấy Mị đã hi sinh về cảm giác, nhận thức. Khi khát vọng sống cũng là khi Mị nhận thức được nỗi đau thân phận.
=> + Đoạn văn đêm tình mùa xuân được đánh giá là đoạn giàu chất thơ nhất, thấm đẫm chất nhân văn, ghi nhận thành công của Tô Hoài ở khả năng phân tích
tinh tế, diễn tả nội tâm của nhân vật.
+ Niềm khát khao sống tiềm tàng trong Mị vừa mới trỗi dậy đã bị dập tắt không thương tiếc, Mị trở lại với nhịp sống và trạng thái vô cảm như trước khi nhưng
tâm hồn cô tựa như 1 hòn than tạm thời vị vùi dưới lớp tro tàn bụi bặm chờ cơ hội để bùng cháy lên.
d. Cô Mị với sức phản kháng táo bạo, mãnh liệt qua đêm mùa đông năm sau khi cởi dây trói cho A Phủ và tự giải phóng cho mình:
* Những đêm mùa đông cô đơn bên bếp lửa:
- Câu văn tả cảnh ‘Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn’.
+ Nét đặc trưng của Tây Bắc.
+ Câu văn tả cảnh mà như khơi mở thế giới của tâm trạng.
-> Cảnh có sự đồng điệu với phận người. Câu văn như tiếng thở dài ngậm ngùi và thương cảm.
- Những chi tiết lặp đi lặp lại ‘thổi lửa’, ‘sưởi lửa hơ tay’: lặp đi lặp lại như 1 lập trình đơn điệu, buồn chán. Tô đậm nỗi cô đơn, héo úa, trạng thái sống vật vờ, vô
hồn của Mị. Sức ấm nóng của ngọn lửa không đủ sức xua đi sự lạnh leo, giá băng trong tâm hồn.
-> Sau mùa xuân năm ấy: Mị trở về cảnh sống ‘lùi lũi như con rùa nổi trong xó cửa’, không vui, không thiết tha với mọi điều xung quanh.
19
[VỢ NHẶT]
*Nhà văn Nguyên Hồng đã từng đánh giá nhà văn Kim Lân như sau: Là ‘nhà văn một lòng đi về với con người, với đất, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống
nông thôn’.
2. Tác phẩm:
a. Đề tài:
- Nạn đói 1945 -> ám ảnh.
-> Đề tài đi vào trong thơ văn (Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài, Tố Hữu…)
b. Xuất xứ:
- Tiền thân là tiểu thuyết ‘Xóm ngụ cư’ sau CMT8 -> dang dở, mất bản thảo.
- Sau 1954, tác giả dựa vào 1 phần cốt truyện cũ viết lại, cô đọng trong dung lượng của một truyện ngắn và đặt tên là ‘Vợ nhặt’.
c. Tóm tắt:
d. Chủ đề:
- Tái hiện tình cảm thê thảm của người nông dân trong nạn đói 1945.
- Quá đó, khám phá và thể hiện bản chất tốt đẹp, sức sống kì diệu của họ: ‘Hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau’, đem lại
giá trị nhân đạo của tác phẩm.
b. Con người:
- Người chết ‘như ngả rạ’, ‘không buổi sáng nào…không gặp 3, 4 cái thây nằm còng queo ra đường’.
- Người đói: xanh xám, dật dờ, nhà văn đã so sánh học ‘như những bóng ma’ (lặp lại 2 lần như sự 1 sự ám ảnh).
-> Qua 2 đối tượng, nhà văn đã khắc họa cuộc sống ở trạng thái ‘cùng’, ranh giới giữa sự sống và cái chết, cõi âm, lấn át coi dương, bi thảm khủng khiếp và day
dứt.
=> Tố cáo tội ác của Phát xít Nhật -> Giá trị hiện thực.
‘Người ta nhận được vật rơi vật vãi, còn Tràng đã nhặt được vợ’.
-> 1 tình huống ngoài sức tưởng tượng.
- Tình huống truyện vừa độc đáo, thú vị, bất ngờ, vừa gợi sự oái ăm, bi thương.
+ ‘Bất ngờ thú vị’ vì trong hoàn cảnh bình thường Tràng đã khó lấy vợ, thế mà trong cái cảnh tối rầm lại vì đói – khát thì Trạng lại lấy được vợ 1 cách quá
dễ đang chỉ với mấy lời bông đùa, 4 bát bánh đúc. -> Sự kiện Tràng lấy vợ làm xôn xao cả xóm ngụ cư, tiếp thêm nụ cười cho những đứa trẻ, làm rạng rỡ những
khuôn mặt hốc hác trong phút chốc.
* Chuyện Tràng có vợ gây ra sự kinh ngạc lớn, kể cả với người trong cuộc là Tràng. Nhà văn rất tinh tế miêu tả cái cảm giác ngỡ ngàng nhưng không
phải của Tràng, cái vẻ mặt tỏ vẻ không hiểu của mẹ Tràng khi Tràng 3 lần 4 lượt giới thiệu thị.
+ Gợi sự oái ăm, bi thương của kiếp người:
* Chỉ có thười buổi đói khát, mạng người như cọng rơm cọng rác, Tràng mới lấy được vợ, chỉ vì miếng ăn, sự tồn tại, người đàn bà liều lĩnh theo không
1 người đàn ông xa lạ.
* Hạnh phúc của đôi vợ chồng Tràng diễn ra trong sự bối rối, khó xử, nghẹn ngào. Khuôn mặt và những giọt nước mắt của cụ Tú lẫn vào trong bóng đêm,
tiếng khóc hờ của nhà hàng xóm vừa có người mới chết.
-> Đằng sau nụ cười là những giọt nước mắt. Đằng sau hạnh phúc là những lo âu, nhà văn đã xác định được tình huống truyện độc đáo để thể hiện giá trị của tác
phẩm, làm ‘phép thử’ để bộc lộ tính cách nhân vật và để nhà văn truyền tải chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
20
* Diễn biến tâm lý:
- Lúc quyết định lấy người đàn bà làm vợ:
+ Lúc đầu: Khi thấy người đàn bà biến lời nói đùa của mình thành thật, Tràng cảm thấy ‘chợn’ (sợ, lo lắng) vì ‘đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi
không, lại còn đèo bông.’ -> rất thật, rất thực tế.
+ Sau đó: Chỉ trong 1 khoảnh khắc, anh ‘chậc, kệ’, chấp nhận người đàn bà.
-> Tâm lí đến đâu, hay đến đó, xuất phát từ lòng thương người cùng khổ.
+ Tràng đưa người vợ mới của mình ra chợ mua 1 cái thúng con, đãni 1 bữa cơm rồi cùng về.
-> Hôn nhân không ai giống ai, quyết định 1 cách chóng vánh, bất ngờ.
MỞ RỘNG: So sánh với lúc Chí Phèo tỉnh dậy trong đêm say: lần đầu tiên nghe thấy những âm thanh của cuộc sống cùng với cảm xúc ‘nao nao buồn’, muốn
khóc.
+ Nhà văn miêu tả tâm lí tinh tế và chân thực, khắc họa, khám phá được vẻ đẹp nội tâm của nhân vật và truyền tải được 1 phần giá trị nhân sinh cao đẹp
trong tác phẩm: trên bờ vực của cái chết, người ta nghĩ về sự sống và hạnh phúc, muốn sống cho ra 1 con người.
MỞ RỘNG: Giống người đàn bà hàng chài trong ‘Chiếc thuyền ngoài xa’ của tác giả Nguyễn Minh Châu và để nhấn mạnh, thi như cánh bèo trôi nổi trong nạn đói
khủng khiếp 1945.
21
=> Nói tóm lại, ý nghĩa nhân văn được thể hiện qua hình tượng người đàn bà đói: khi được yêu thương và cưu mang thị trở về với phẩm chất vốn có của mình.
Thấm sâu trong tâm hồn của người phụ nữ này là 1 khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng hạnh phúc tinh thần.
5. Bà cụ Tứ:
- Nhân vật quan trọng thể hiện tính nhân bản.
a. Ngoại hình:
- Khắc họa qua những chi tiết: dáng đi ‘lọng khọng’, ‘húng hắng ho’, ‘lẩm nhẩm tính toán’, mắt ‘kèm nhèm’, ‘bủng beo, u ám’.
-> Chân dung của 1 người mẹ tuổi cao sức yếu, cả cuộc đời cơ cực, lo nghĩ, nghèo khổ.
b. Số phận:
- Hẩm hiu: chồng mất sớm, ở với đứa con trai ế vợ, bữa đói bữa no.
c. Diễn biến tâm lý phức tạp khi người con trai 1 ngày đột ngột dẫn vợ về nhà:
- Ngạc nhiên và bất ngờ: 3 lần bà tự hỏi ‘sao lại có người đàn bà lại ở trong ấy nhỉ?’, ‘sao lại chào mình bằng u?’, ‘ai thế nhỉ?’, bà liên tục thắc mắc và phỏng đoán
nhưng tuyệt nhiên không nghĩ đến đó là vợ Tràng, vì cuộc sống quá đỗi cơ cực lại đang trong hoàn cảnh cái đói cái chết cận kề khiến bà hoàn toàn nguôi tắt hi
vọng con trai mình có vợ.
* Lòng người mẹ ngổn ngang như tâm sự: vừa lo lắng, tủi hờn, xót xa cho số kiếp con mình, số kiếp của mình, vừa xen lẫn buồn vui. -> Đây là dòng diễn biến
nội tâm, bà đã giấu tất cả cái buồn tủi vào trong lòng chỉ thể hiện qua 2 dòng nước mắt rỉ xuống nhưng bị bóng đêm che mất.
‘Tuổi già giọt lệ như sương’ – Nguyễn Khuyến.
+ Tủi hờn: tủi cho phận làm mẹ vì nghèo khổ, khốn cùng mà không lo được cưới hỏi đàng hoàng cho con, tủi cho phận con cũng vì nghèo hèn mà lấy vợ
không tông không tích.
+ Lo lắng: ‘Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không’.
+ ‘Còn mình thì…’ đằng sau dấu 3 chấm là cảm xúc nghẹn ngào buồn tủi xót thương của người mẹ.
+ Hàm ơn của người con dâu xa lạ đã cho con trai mình 1 mái ấm đúng nghĩa.
- Bà thật lòng chia sẻ niềm vui trước hạnh phúc của 2 con: ‘Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng’. -> Chi tiết cảm động thể hiện
tấm lòng chân thành của người mẹ.
+ Câu nói đó trút đi gánh nặng chất chứa trong tâm trạng của Tràng.
+ Câu nói đã chiêu tuyết cho giá trị của người vợ nhặt: Cô không còn là 1 người phụ nữ vô sỉ như người ta nghĩ, không phải là 1 người đàn bà theo không
cho không mà giữa cô với Tràng nó là ‘duyên phận’.
-> Vẻ đẹp chất phác, nhận hậu của người mẹ quê.
* Hình tượng ngời mẹ là nút vẽ cuối cùng hoàn thiện bức tranh về vẻ đẹp của loài người trong nghịch cảnh góp phần hoàn thiện chủ để và tư tưởng của tác
phẩm.
6. Nghệ thuật:
- Có duyên, tự nhiên, chân thực, hấp dẫn.
- Tài năng tạo dựng tình huống truyện độc đáo.
- Tài năng dựng cảnh sống động và đậm màu sắc nông thôn.
- Nghẹ thuật xây dụng nhân vật: ngôn ngữ, hành động, diễn biến nội tâm tinh tế và chân thực.
- Ngôn ngữ: đậm khẩu ngữ nông thôn.
7. Nội dung:
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện
được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ: ngay trên bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu đùm bọc lẫn
nhau. Nội dung nhân đạo sâu sắc và cảm động đó được thể hiện qua 1 tình huống truyện độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn, miêu tả tâm lí khá tinh tế, dựng đối
thoại sinh động.
22
[NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH]
2. Tác phẩm:
a) Xuất xứ:
- Được sáng tác 2/1966, in lần đầu trên tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng.
c) Chủ đề:
- Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn cùa người dân Nam Bộ, yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. Đồng thời, khẳng định truyền thống gia đình và
truyền thống dân tộc tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn cho nhân dân ta chống lại kẻ thù xâm lược.
* 2 chị em đều gắn tình yêu thương trong gia đình với lòng yêu nước:
- Có chung mối thù với bọn xâm lược, có cùng nguyện vọng cầm súng đánh giặc. Thể hiện sâu sắc trong cái đêm giành nhau tòng quân và khi
khiêng bàn thờ má.
- Đều là những chiến sĩ dũng cảm trong đánh giặc.
- Đều có nét trẻ con giành nhau bắt ếch, giành nhau chiến công.
23
- Chiến có tính cách người lớn hơn Việt: nhường nhịn em, quan tâm mọi việc của gia đình.
-> Nhân vật Chiến có cá tính đặc sắc, mang vẻ đẹp tâm hồn của người con gái Nam Bộ trong 1 thời kì nhiều mất mát hi sinh.
5. Nghệ thuật:
- Tình huống truyện độc đáo: truyện kể theo dòng nội tâm của nhân vật.
- Phương thức trần thuật: thuộc ngôi thứ 3, nhưng lời kể và giọng điệu theo ngôi thứ nhất (Việt).
- Truyện mang chất sử thi rất đậm đà, qua lịch sử 1 gia đình thấy lịch sử 1 đất nước.
24
[CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA]
2. Tác phẩm:
a) Xuất xứ: 1983 – trước thềm Đổi mới 3 năm.
b) Tóm tắt:
=> Qua 2 khám phá phát hiện đầy nghịch lý: thông điệp: không thể đánh giá sự vật, hiện tượng ở vẻ bên ngoài. Riêng với người nghệ sĩ, Nguyễn
Minh Châu cũng nghiêm khắc đặt ra 1 yêu cầu: cần phải nhìn nhận quan niệm về nghệ thuật, cái đẹp sâu sắc hơn vì chưa hẳn cái đẹp là hiện thân
của đạo đức, đằng sau vẻ ngoài hào nhoáng có thể là hiện thực tối tăm, xót xa. Người nghệ sĩ cần có cái nhìn đa chiều.
25
- Rón rén ngồi ghé vào mép chiếc ghế, cố thu mình lại.
-> Người đàn bà hiện lên đầy vẻ tội nghiệp, đáng thương, có chút gì đó lạc hậu, mặc cảm, tự ti.
3. Những vấn đề đáng suy nghĩ xoay quanh các nhân vật:
a) Cách xử lí chuyện gia đình của người đàn bà hàng chài:
c) Phác:
MỞ RỘNG: Liên hệ câu nói của Nam Cao; tác phẩm ‘Vĩnh biệt cửu trùng đài’ – Nguyễn Huy Tưởng.
5. Nghệ thuật:
- Xây dựng được những tình huống nghịch lí có ý nghĩa khám phá, phát hiện, tình huống nhận thức.
- Điểm nhìn trần thuật đa chiều:
Nhân vật ‘tôi’: kể chuyện
người nghệ sĩ
hiện thân của tác giả.
- Lối văn giản dị, đời thường nhưng sâu sắc, có dư ba.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: khắc họa tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ, ngoại hình, hành động.
27
[HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT]
3. Tác phẩm:
a) Hoàn cảnh ra đời:
- Vở kịch được viết từ 1981, được công diễn vào 1984.
- Sáng tạo lại từ cốt truyện dân gian. Nhưng điểm mới là Lưu Quang vũ lấy cái kết thúc của truyện cổ làm điểm khởi đầu cho những bi kịch của
nhân vật.
- Thuộc cảnh VII, đoạn kết vở kịch.
- Đây cũng là đoạn kết của vở kịch, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch.
-> Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng đó là cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống chung với cái dung tục và bị cái dung tục đồng hóa.
=> Từ đó, nhà văn muốn gửi gắm: khi còn người phải sống trong dung tục thì tất yếu sẽ bị cái dung tục ngự trị, lất át và sẽ tàn phá những gì
trong sạch, đẹp đẽ, cao quý của con người. Vì thế, con người phải biết đấu tranh chống lại cái dung tục, cái giả tạo để cuộc sống trở nên tươi
sáng hơn, đẹp đẽ và nhân ái hơn.
2. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với những người thân:
- Vợ Trương Ba:
+ Buồn bã, đau khổ vì: ‘ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa’.
+ Đòi bỏ đi, nhường Trương Ba cho vợ anh hàng thịt.
- Con dâu Trương Ba:
+ Thấu hiểu cho hoàn cảnh trớ trêu của bố chồng: Chị biết ông ‘khổ hơn xưa nhiều lắm’.
+ Nhưng nỗi buồn đâu trước tình cảnh gia đình khiến chị không thể chịu được: ‘Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái
bên trong, nhưng mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần’.
- Cháu gái Trương Ba: phản ứng quyết liệt, dữ dội.
+ Nó khước từ tình thân: ‘tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi’.
+ Nó không thể chấp nhận con người đã làm ‘gãy tiệt cái chồi non’, ‘giẫm lên ná cả cây sâm quý mới ươm’ trong mảnh vườn của ông nội nó.
+ Nó hận vì ông đã làm gãy nát cái diều khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền.
+ Với nó: ‘Ông nội đời nào thô lô, phũ phàng như vậy’. Nó xua đuổi quyết liệt: ‘Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi’.
-> Người chồng, người cha, người ông trong sạch, nhân hậu trước đây đã và đang thành 1 kẻ khác, với những thói hư tật xấu của 1 tên đồ tể thô
lỗ, phàm tục.
-> Tất cả những người thân đã nhận thấy và đau đớn, lo lắng, bàng hoàng khi nói ra điều đó. Thể xác đang xâm chiếm, đang lấn lướt linh hồn,
đang tha hóa cái linh hồn ấy.
- Tâm trạng, cảm xúc của Trương Ba:
+ Ông đau khổ tuyệt vọng khi vì ông mà những người thân phải đau đớn bàng hoàng bế tắt, vì ông mà nhà cửa phải tan hoang.
+ Ông thẫn thờ, ôm đầu bế tắc, cầu cứu đứa cháu gái, run rẩy trong nỗi đau, nhận thấy ‘mày đã thắng thế rồi đấy cái thân xác không phải
của ta ạ…’.
+ Đặt ra câu hỏi mang tính tự vấn ‘Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật là không còn cách nào khác?’.
+ Khẳng định dứt khoát ‘không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!’.
-> Trương Ba cũng nhận thấy những thay đổi của mình nên đấu tranh quyết liệt giành giật lại bản thân mình, dẫn đến hành động châm hương
gọi Đế Thích.
28
- Không chấp nhận cảnh sống bên trong một - Khuyên Trương Ba chấp nhận cảnh sống
đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn tạm bợ bởi thế giới vốn không toàn vẹn.
được là tôi toàn vẹn.
- Kiên quyết từ chối, không chấp nhận cuộc - Có ý định cho Trương Ba nhập vào xác cu
sống giả tạo, trái tự nhiên mà theo ông ‘khổ Tị - một em bé hàng xóm vừa chết, bạn thân
hơn cả cái chết’. của cái Gái.
-> Ca ngợi quan niệm sống tích cực: sống -> Cái nhìn quan liêu hời hợt về cuộc sống con
đúng là mình, sống phải hài hòa, toàn vẹn cả người, chỉ ra hiện tượng tiêu cực của xã hội
tâm hồn và thể xác. đương thời.
* Khi Trương Ba ở trong xác anh Hàng thịt thì ông bị thân xác tha hóa, ông ở trong một bi kịch. Nếu ông ở trong xác của xác cu Tị, ông chuyển
sang một bi kịch mới, sống một cuộc sống giả tạo, trái tự nhiên. Bi kịch này sẽ còn ghê gớm hơn trước.
4. Phần kết:
- Giàu chất thơ, chất nhân văn:
+ Thể hiện qua câu nói của Trương Ba với vợ: ông uy không còn nữa nhưng ông đã trở lại trẹn vẹn trong kí ức, kỉ niệm, tình cảm yêu
thương của vợ con.
+ Kết thúc là hình ảnh khu vườn: đây là không gian quen thuộc gắn bó với Trương Ba lúc sinh thời; khu vườn đã được giữ lại – nề nếp, gia
phong của gia đình đã được khôi phục và gìn giữ; trong khu vườn có 2 đứa trẻ đang gieo hạt na xuống đất “cho nó… Ông nội tớ bảo vậy. Nối
nhau mà lớn khôn. Mãi mãi…” gợi về sự bất tử của linh hồn trong nỗi nhớ của người thân, trong những giá trị mà khi còn sống họ đã tạo ra; sự
sống không bao giờ dừng lại, tiếp tục sinh sôi, phát triển.
- Vở bi kịch mang âm hưởng lạc quan: không gợi nỗi buồn, không gợi cảm xúc tiêu cực mà để lại những thông điệp có giá trị, gieo niềm tin vào
cuộc sống, vào con người.
5. Nghệ thuật:
- Xây dựng hành động và đối thoại phù hợp với tính cách nhân vật.
- Tình huống kịch: phát triển tính cách nhân vật, phát triển truyện .
29
[SỐ PHẬN CON NGƯỜI]
2. Tác phẩm:
a) Xuất xứ:
- 1957.
- Mở ra 1 chân trời mới cho văn học Nga.
- Được xếp vào loại tiểu anh hùng ca.
- Cái nhìn cuộc sống và chiến tranh đầy mới mẻ và táo bạo.
b) Tóm tắt:
c) Chủ đề: thông qua số phận và vượt lên số phận của người lính trở về sau chiến tranh, nhà văn ca ngợi tính cách Nga: kiên cường và nhân
ái.
3. Đoạn trích:
- Phần kết thúc.
- Cuộc gặp gỡ và gắn bó của 2 số phận: Xô-cô-lốp và Va-ni-a.
b) Tâm trạng:
- Đau đơn tột cùng ‘ta đã chôn trên đất người, đất Đức, niềm vui sướng và niềm hi vọng cuối cùng của tôi’.
- Chán nản, mất phương hướng: ‘như người mất hồn’ tự hỏi ‘về đâu bây giờ’, tìm quên trong men rượu.
- Sống trong nặng trĩu, u ám, cô đơn, bế tắc với 1 trái tim suy kiệt.
-> Điểm nhìn trần thuật: không miêu tả niềm vui, hào quang chiếng thắng mà khai thác ‘nỗi buồn chiến tranh’, sự thật trần trụi và cay đắng phía
sau cuộc chiến. Thể hiện cái nhìn thẳng vào sự thật.
3. Nghệ thuật:
- Điểm nhìn trần thuật: tác giả và nhân vật giống nhau: ‘cái chính…má anh’: để những đứa trẻ sau chiến tranh được chăm sắc, sung sướng,
hạnh phúc.
- Cái nhìn hiện thực sâu sắc, nghiêm khắc: không tô vẽ hiện thực.
- Xây dựng theo lối truyện lồng truyện, trực tiếp bộc lộ tính cách nhân vật.
- Thái độ người kể chuyện: thiện cảm với nhân vật, xúc động mãnh liệt trước số phận con người.
30
- Trữ tình ngoại đề: sự giãi bày cảm xúc, ấn tượng, chủ quan; bày tỏ lòng khâm phục và tin tưởng ở tính cách Nga kiên cường và báo trước
những khó khăn trở ngại mà con người cần vượt qua để đến với tương lai và hạnh phúc.
- Mong muốn khơi dậy mạnh mẽ tính cách Nga: kiên cường và nhân hậu vượt lên trên hận thù và mất mát sau chiến tranh.
=> Sau chiến tranh, xã hội cần phải quan tâm đến đời sống cá nhân của họ.
31