You are on page 1of 10

Hầu trời

Bài 1 Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu (1889 - 1939), xuất thân trong một gia đình khoa bảng ở làng Khê Thượng, huyện
Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, nay là huyện Ba Vì, Hà Nội, một vùng có khung cảnh thiên nhiên sơn thuỷ hữu tình. Cha là cử nhân Hán
học Nguyễn Danh Kế, làm quan tới chức Án sát. Mẹ là bà Phủ Ba cũng thông thạo chữ nghĩa và thích văn chương thi phú. Thisĩ
có hai câu thơ rất hay giới thiệu về vẻ đẹp của quê hương mình :Nước gợn sông Đà con cá nhảy,Mây trùm non Tản cái diều bay.
Sông Đà, núi Tản và mây trắng xứ Đoài đã gợi ý cho nhà thơ lấy bút danh :Tản Viên ở trước mặt,Đà Giang bên cạnh nhà.
Bút danh ấy đã được ghi nhận là mốc son trong lịch sử phát triển của thơ ca tiếng Việt và sống mãi trong lòng người yêu thơ
suốt bảy thập kỉ qua. Tản Đà có những đóng góp rất quan trọng cho nền văn học nước nhà. Các sáng tác tiêu biểu của ông là
:Khối tình con I, II, III(thơ) ;Giấc mộng con I, II(truyện phiêu lưu viễn tưởng),Còn chơi(thơ và văn xuôi),...
Tản Đà là người của hai thế kỉ. Thuở nhỏ, ông cũng theo đuổi con đường cử nghiệp của cha nhưng thi Hương mấy lần không
đậu. Thời ấy, Hán học cũng đã suy tàn nên ông chuyển qua học chữ quốc ngữ rồi sáng tác thơ, viết văn, làm báo. Ông chua chát tự
nhận xét:Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang, Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng. Là nhà Nho nhưng Tản Đà không chịu khép mình
trong khuôn khổ Nho giáo mà lại có những phá cách rất táo bạo. Tính chất giao thời thể hiện rất rõ trong cuộc đời, lối sống, học
vấn và sự nghiệp văn chương của Tản Đà.
Trong sáng tác, tuy Tản Đà vẫn thường sử dụng những thể loại cổ điển nhưng cảm hứng thì lại rất mới mẻ. Thơ Tản Đà thể
hiện“cái tôi”lãng mạn bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương, ưu ái. Bởi vậy nên nhà nghiên cứu phê bình
văn học Hoài Thanh đã trân trọng xếp Tản Đà ở vị trí đầu tiên trong cuốn Thi nhân Việt Nam.
Bài Hầu Trời in trong tập Còn chơi, xuất bản năm 1921, nằm trong mạch cảm hứng lãng mạn đậm chất ngông của thi sĩ Tản
Đà - một vị trích tiên như tác giả tự nhận, vì đánh vỡ chén ngọc mà bị Thượng đế đày xuống hạ giới. Có lúc chán chường trước
cảnh đời nhiễu nhương, đen bạc, thi sĩ than thở :
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi, Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Trần thế em nay chán nửa rồi, (Muốn làm thằng Cuội).
Cung quế đã ai ngồi đó chửa ?
Có khi cao hứng, thi sĩ còn mơ lạc bước vào chốn Thiên Thai, được gặp gỡ các giai nhân như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương
Quý Phi... đàm đạo văn chương với Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương... Còn lần này thì thi sĩ đã được mời lên tận
thiên đình để đọc thơ Hầu Trời !
Qua bài thơ này, Tản Đà đã mạnh dạn thể hiện“cái tôi”cá nhân - một“cái tôi”ngông nghênh, phóng túng lạ kì! Đó cũng là cách
thể hiện ý thức về tài năng, giá trị đích thực của bản thân và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời. Có thể tóm tắt nội
dung bài thơ như sau: Đêm khuya thanh vắng, thi sĩ buồn nên đun nước pha trà uống rồi cất tiếng ngâm văn.Tiếng ngâm sang
sảng vọng tới trời cao. Hai tiên nữ xuống truyền lệnh Trời đòi thi sĩ lên hầu chuyện. Thi sĩ được đón tiếp trọng vọng, được mời
đọc văn thơ. Trời và chư tiên hết lời khen ngợi, tán thưởng. Trời truyền hỏi danh tính, thi sĩ kể lể tình cảnh khốn khó của kẻ theo
đuổi nghề văn dưới hạ giới. Trời an ủi, khuyên nhủ, thi sĩ cảm kích lạy tạ ra về. Cuối cùng là cuộc chia tay đầy xúc động của thi sĩ
với Trời và chư tiên.
Cách vào đề của bài thơ khá thú vị, khiến người đọc cảm nhận được tài hư cấu nghệ thuật độc đáo và lối dẫn dắt rất có duyên
của Tản Đà :Đêm qua chẳng biết có hay không,Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể !Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.
Giấc mơ đêm qua mà thi sĩ là người trong cuộc cũng không biết rõ là có hay không, thực hay hư. Nếu là mơ thì ắt hẳn không thể
có thực; nhưng mọi chi tiết, hình ảnh vẫn hiện ra rõ ràng, nên không thể không tin. Bởi vậy mà ở ba câu tiếp theo, thi sĩ cả quyết
khẳng định như đang đối thoại với người nghe kể vậy. Ngữ điệu mạnh mẽ làm nổi bật yếu tố thật :Thật hồn! Thật phách! Thật
thân thể! Thật được lên tiên - sướng lạ lùng. Tất cả đã khơi gợi sự hiếu kì và cuốn hút người nghe nhập cuộc.
Ở những khổ thơ tiếp theo, thi sĩ đã kể về tình huống mình được Trời mời lên Thiên đình :Nguyên lúc …chơi đấy.
Tình huống câu chuyện bắt đầu từ Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà của thi sĩ dưới hạ giới làm cho Trời mất ngủ. Rõ ràng, cái
duyên may được lên hầu Trời gắn liền với câu chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cao hứng của thi sĩ. Dường như tác giả
muốn nói rằng câu chuyện tuy không có thật nhưng lại rất thật về tâm sự và nỗi niềm của mình. Chuyện bịa mười mươi mà xem
ra rất tự nhiên, hấp dẫn.
Khi chư tiên đã tề tựu đông đủ, Trời liền:Truyền cho “văn sĩ đọc văn nghe!”. Được lời như cởi tấm lòng, thi sĩ vội vàng cung
kính:“Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc”. Thi sĩ đọc văn thơ của mình với tất cả sự phấn khích và thăng hoa của cảm hứng. Có lẽ chưa
bao giờ thi sĩ lại hứng thú đến như vậy. Không để sót một khoảng trống nào của thời gian, thi sĩ đọc liền một mạch:Đọc hết …tốt
hơi.
Thi sĩ cao hứng và tự đắc vì có lẽ đây là dịp hiếm hoi để Trời và các chư tiên thưởng thức thơ của thi sĩ sông Đà, núi Tản.
Thính giả nghe thơ cổ vũ thật nhiệt thành. Các chư tiên đồng thanh tán thưởng và hồn nhiên bộc lộ sự hâm mộ qua nét mặt, cử
chỉ, điệu bộ, ngôn ngữ... Điều đó làm cho cảm hứng trong lòng thi sĩ mỗi lúc một dâng cao:Văn dài hơi …cùng vỗ tay. Thi sĩ cao
hứng tự nhận :Văn đã …buồn cười.Cuộc đọc văn đã khép lại mà ấn tượng sâu sắc của nó khiến :Chư tiên …chợ trời !”Trời nghe
thi sĩ đọc văn đã không tiếc lời khen tặng và những lời khen đó chứng tỏ Trời có khả năng thẩm văn,thẩm thơ tinh tế :Trời lại
….như tuyết.
Đây là đoạn thơ thú vị, độc đáo nhất trong bài. Tác giả cố tình mượn lời Trời để ca ngợi thơ văn mình. Rõ ràng ý thức về“cái
tôi”cá nhân của Tản Đà rất cao và thi sĩ không hề vô lí khi tự khen đến thế:Văn đã giàu thay lại lắm lối. Lời văn, khí văn được so
sánh với những vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên:như sao băng, như mây chuyển, như gió thoảng, như sương, như mưa sa, như
tuyết... Tưởng chừng tinh hoa của núi Tản sông Đà đã được thu cả vào hồn thơ thi sĩ. Đoạn thơ trên đã khai thác tối đa tác dụng
của các biện pháp tu từ để thể hiện đầy đủ mọi cung bậc trầm bổng, mạnh mẽ, tinh tế và linh diệu của cảm xúc đang thăng hoa.
Tình huốngHầu Trờibất ngờ quả đã cho Tản Đà một cơ hội tuyệt vời để phô bày tài năng văn chương của mình trước thiên hạ.
Thật thú vị khi tất cả nhân vật trong câu chuyện đều có tâm trạng hứng khởi tột độ, từ thi sĩ đến chư tiên và nhất là Trời - một ông
Trời khá bình dân trong cung cách cư xử, nói năng. Điều đáng chú ý là thi sĩ chỉ cao hứng tột độ như thế khi gặp được người hiểu
và thông cảm với mình mà thôi. Chứ dưới hạ giới, thi sĩ dễ đâu tìm được người tri âm tri kỉ như vậy?! Lời ban khen của Trời hẳn
là sự thẩm định, đánh giá chính xác nhất, không ai có thể nghi ngờ hay bác bỏ. Đúng là một cách tự khẳng định rất ngông, rất Tản
Đà, xưa nay chưa từng có!
Người đọc có cảm giác như thi sĩ vô cùng tự hào khi khẳng định và ca ngợi tài năng văn chương của mình. Chưa có tác giả nào
dám mạnh dạn, công nhiên như thế. Có lẽ một cuộc cách mạng về thơ ca thực sự đã được bắt đầu từ chính Tản Đà - thi sĩ được
coi là “cây cầu nối” giữa thơ cũ và thơ mới.
Thể theo yêu cầu của Trời, thi sĩ tự xưng tên tuổi và thân thế :- “Dạ bẩm …Nam Việt”.Trời ngợ một lúc lâu rồi sai Thiên tào
kiểm tra lại:Thiên tào …vì tội ngông”.Lúc ấy, Trời mới phán rằng :Trời rằng: ..đời hay”.
Được lời như cởi tấm lòng, Tản Đà trình bày một mạch những nỗi niềm bức xúc của mình chất chứa bấy lâu nay. Qua lời Trời,
Tản Đà nói đến nhiệm vụ truyền bá thiên lương mà Trời giao cho, (giải thích để loài người hiểu rằng lương thiện vốn là bản tính
trời sinh). Điều đó chứng tỏ Tản Đà tuy lãng mạn, ngông nghênh nhưng không hoàn toàn thoát li hiện thực mà vẫn có ý thức trách
nhiệm với đời và khát khao được gánh vác việc đời. Đấy cũng là một cách tự khẳng định mình.
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong đoạn thơ dưới đây, thi sĩ lại sử dụng bút pháp tả thực cụ thể,
tỉ mỉ đến từng chi tiết :- “Bẩm Trời, ….dám theo”.
Tản Đà không trực tiếp phát biểu quan niệm của mình về văn chương và nghề văn, tuy vậy người đọc vẫn có thể hình dung ra
phần nào về nội dung của hoạt động tinh thần đặc biệt này. Đối với Tản Đà, văn chương không còn đơn thuần là một khái niệm
tinh thần cao siêu mà đã trở thành một nghề kiếm sống như bao nghề khác, có người bán kẻ mua và thị trường văn chương cũng
hết sức phức tạp. Vì thế mà nhà văn, nhà thơ không dễ thành công.
Tản Đà đã vẽ ra một bức tranh hiện thực trần trụi, nghiệt ngã về nghề văn bằng ngôn ngữ đời thường. Đó là cảnh sống nghèo
khổ :Trần gian thước đất cũng không có; thi sĩ đành phải mưu sinh bằng công việc viết văn, làm thơ và xuất bản mà vốn liếng
chẳng có gì ngoài ngòi bút :Giấy người mực người thuê người in, Mướn cửa hàng người bán phường phố.Người nghệ sĩ phải cam
chịu cảnh :Văn chương hạ giới rẻ như bèo, Kiếm được đồng lãi thực rất khó, Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều, Lo ăn lo mặc hết
ngày tháng... Kể đến đây, cảm xúc của thi sĩ chợt ngậm ngùi, chua chát, khác hẳn với cảm xúc trữ tình bay bổng, đắc ý khi đọc
thơ cho Trời nghe.
Tất cả những điều ấy đã hiện ra nhiều lần trong thơ văn Tản Đà, một thi sĩ tài hoa hơn người mà cả đời phải sống trong tình
cảnh nghèo khổ, quẫn bách :Hôm qua … lào vì thơ.
Về cuối đời, ông từng phải chuyển qua nghề xem tướng số để kiếm ăn sống lay lắt qua ngày; rồi mở lớp dạy Hán văn, quốc văn
nhưng không có học trò. Cuối cùng, ông chết trong cảnh túng bấn, cơ cực rất thương tâm!
Giấc mơ Hầu Trờiphải chăng là biểu hiện tha thiết, mãnh liệt của khát vọng được khẳng định tài năng của thi sĩ giữa chốnvăn
chương hạ giới rẻ như bèovà thân phận của người sáng tạo bị xã hội rẻ rúng, khinh khi. Vậy thì chỉ có thể lên thiên đình thi sĩ mới
có thể tìm được tri âm tri kỉ, mà chuyện này chỉ có thể xảy trong giấc mộng mà thôi ! Dường như Trời cũng thấu hiểu nỗi niềm
bức xúc của thi sĩ nên chân thành khuyên nhủ:Rằng : “Con ..tuyết!”.
Cuộc chia tay giữa thi sĩ với Trời và chư tiên diễn ra quyến luyến và xúc động. Ngày đã rạng, tiếng gà xao xác gáy. Thi sĩ tỉnh
mộng nhưng ấn tượng về cuộc hầu Trời vẫn còn nóng hổi khiến thi sĩ bâng khuâng tiếc nuối và ao ước đêm nào cũng được lên
thiên đình để hầu Trời.
Câu chuyện về cuộc đọc vănHầu Trờivà các chư tiên đã phản ánh khá rõ tâm hồn và tính cách của Tản Đà - một thi sĩ ngông và
hay sầu mộng. Đó là một Tản Đà ý thức rất rõ về tài năng của mình, dám đàng hoàng, công khai thể hiện và khẳng định một cách
tự hào, tự đắc về cái tài văn chương hơn người ấy. Thi sĩ chẳng ngần ngại tự khen mà còn mượn những lời tán dương của Trời
cùng các chư tiên để đề cao thơ văn mình. Điều đó xuất phát từ niềm hãnh diện của một hồn thơ đã hấp thu được linh khí của
sông Đà, núi Tản. Trong một bài thơ tự vịnh, Tản Đà đã kiêu hãnh viết :Vùng đất Sơn Tây nảy một ông,Tuổi chửa bao nhiêu văn
rất hùng.úi Tản sông Đà ai hun đúc,Bút thánh câu thần sớm vãi vung... “Cái tôi”đó cũng thật ngông khi dám tìm lên tận thiên
đình để khẳng định tài năng của mình trước các chư tiên và Ngọc Hoàng thượng đế!
Thái độngôngtrong văn chương chính là phản ứng của những nghệ sĩ tài hoa, có cá tính mạnh mẽ, không chịu trói mình trong
khuôn khổ chật hẹp có sẵn.Ngôngcũng là thái độ của những người trí thức có nhân cách cứng cỏi, quay lưng ngoảnh mặt trước
một xã hội bất công, nhiễu nhương mà họ không chấp nhận. Ngông trong văn chương bao giờ cũng gắn liền với tài hoa và nhân
cách của người cầm bút. Tản Đà không phải là một trường hợp cá biệt trong văn học Việt Nam mà trước ông đã có quan Thượng
Nguyễn Công Trứ với :Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng, ngẩng cao đầu thách thức :Trong triều ai ngất ngưởng như ông?Và
chửi thói đời xấu xa bằng một câu thề như dao chém đá:Kiếp sau xin chớ làm người, Làm cây thông đứng giữa trời mà reo... Tú
Xương thì chửi thẳng vào mặt cái xã hội thối nát, đảo điên :Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo, Nhân tình trắng thế lại bôi vôi...và
định:Phen này ông quyết đi buôn lọng, Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng.
Tuy nhiên, cái ngông của Tản Đà có những điểm đặc thù do chịu ảnh hưởng của buổi giao thời dở Tây dở ta. Tản Đà phản ứng
xã hội bằng thái độ ngông của một nghệ sĩ tài hoa tài tử. Thái độ ngông nghênh, tự đắc dường như được thi sĩ cố ý phóng đại
trong bàiHầu Trờicốt để gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Nhà thơ đánh giá văn mình hay đến mức Trời và các chư tiên phải hết
lời tán thưởng. Như thế tức là dưới hạ giới, không ai xứng đáng là kẻ tri âm tri kỉ với mình. Tản Đà còn tự nhận mình là một vị
trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tộingông, nhưng lại được Trời trao cho sứ mệnh cao cả làtruyền bá thiên lươngcho loài người.
Việc nhà thơ thêu dệt nên chuyệnHầu Trờihàm chứa một sự thách thức đối với cái nhìn đầy thành kiến về bậc thang giá trị của
con người trong xã hội tôn thờ đồng tiền, coi nhẹ các giá trị tinh thần. Cáingôngcủa Tản Đà có nhiều điểm tương đồng với
cáingôngcủa Nguyễn Công Trứ thể hiện qua bàiBài ca ngất ngưởng: Ý thức rất cao về tài năng của bản thân, dám nói giọng bông
lơn về những đối tượng như Trời, Tiên, Bụt; dám khẳng định“cái tôi cá nhân”vượt ra ngoài khuôn khổ của luân lí, đạo đức Nho
giáo.
Điểm khác biệt giữa hai người là Nguyễn Công Trứ tuyngất ngưởngtột bậc nhưng vẫn giữ :Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung,
còn Tản Đà lại không coi đó là chuyện hệ trọng. Hơn nữa, cái tài mà Tản Đà muốn khoe thuộc phạm trù văn chương chứ không
phải là cái tài “kinh bang tế thế” như Nguyễn Công Trứ. Rõ ràng, thi sĩ Tản Đà đã rũ bỏ được khá nhiều gánh nặng trách nhiệm
mà thông thường các nhà Nho từ trước tới nay vẫn tự đặt trên vai mình (Vũ trụ nội mạc phi phận sự) để sống thoải mái hơn với
quyền tự do cá nhân mới mẻ mà thời đại đưa tới.
Bài thơHầu Trờiđược viết theo thể thất ngôn trường thiên khá tự do về số lượng câu; bố cục theo lối tự sự, diễn biến câu
chuyện theo trình tự thời gian. Vì tác giả là nhân vật chính nên cảm xúc bộc lộ tự nhiên, thoải mái và cách kể chuyện rất hóm
hỉnh, có duyên. Ngôn ngữ bình dân và giọng điệu hài hước rất ăn ý, hoà hợp, hỗ trợ cho nhau nhằm thể hiện sinh động thái độ hào
hứng của thi sĩ trước một đối tượng đặc biệt đang say sưa nghe mình đọc văn, ngâm thơ. Quan hệ giữa thi sĩ với Trời và chư tiên
xem ra cũng dân dã, thân mật như giữa những người đồng thanh tương khí.
Lối kể bịa mà như thật và nụ cười hóm hỉnh tạo nên nội dung trữ tình của bài thơ, giúp người đọc hiểu sâu hơn về con người
thi sĩ. Những yếu tố nêu trên là một phần tất yếu của bài thơ, hoàn toàn xứng hợp với câu chuyện Hầu Trời mà tác giả hư cấu.
Ngôn ngữ trong bài thơ rất gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày. Từ dùng nôm na, bình dị, lại được đặt trong ngữ điệu nói nên
càng ý vị :Văn dài hơi tốt ran cung mây! Văn đã giàu thay, lại lắm lối... Trời nghe Trời cũng bật buồn cười... Chư tiên ao ước
tranh nhau dặn,... Đặc biệt, dưới ngòi bút của tác giả, Trời và chư tiên không có một chút gì là đạo mạo. Họ biểu hiện cảm xúc
theo một cung cách rất đỗi... bình dân :lè lưỡi, chau mày, lắng tai đứng, vỗ tay, bật buồn cười, tranh nhau dặn,... Cứ tưởng tượng
ra hình ảnh của các đấng cao siêu mà có những cử chỉ, điệu bộ ngộ nghĩnh, rất “người” như thế, ai mà chẳng buồn cười và khâm
phục cách kể chuyện tự nhiên, sinh động của thi sĩ Tản Đà. Các đoạn đối thoại và miêu tả phản ứng tâm lí của từng nhân vật đan
xen với nhau khiến người đọc có cảm tưởng mình đang được chứng kiến hoặc tham gia vào câu chuyện, cùng nếm trải, chia sẻ
những phút sung sướng lạ lùng và đắc ý tột bậc của người kể chuyện.
Hầu Trời là bài một thơ hay, độc đáo, có nhiều nét mới mẻ về mặt thi pháp, tiêu biểu cho tính chất giao thời giữa cái mới và cái
cũ trong nghệ thuật thơ Tản Đà. Qua bài thơ, người đọc có thể nhận ra đôi điều về xu hướng phát triển của thơ ca Việt Nam trong
những thập niên đầu thế kỉ XX.
Bài 2 Tản Đà được coi là “người nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ, là người đặt nền móng cho
thơ mới. Những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là đại
diện tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có những bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn
hiện đại hoá mau lẹ. Hầu trời là một bài thơ có rất nhiều điểm mới. Bài thơ thể hiện đậm nét cá tính sáng tác của Tản Đà. Mạch
thơ được triển khai theo lôgíc một câu chuyện với các chi tiết cụ thể, rành mạch, khiến cho bài thơ hấp dẫn và có sức thuyết
phục : nằm một mình, buồn nên dậy đun nước uống rồi ngâm văn, động đến Trời, tiên xuống hỏi rồi đưa lên gặp Trời, Trời cùng
chư tiên đón tiếp long trọng, mời đọc thơ, giới thiệu về mình rồi đọc thơ và giãi bày cảnh ngộ cùng Trời, Trời giải thích, khen
ngợi rồi cho đưa về trần giới. Nhà thơ đã chọn một cách rất độc đáo để thể hiện tâm sự của mình.
Chuyện hầu Trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ khẳng định tài năng của bản thân và bộc lộ quan niệm mới mẻ của ông về
nghề văn, đồng thời thể hiện ý thức của cái Tôi cá nhân đầy cá tính của mình. Nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình bằng một
giọng điệu rất hấp dẫn, bịa mà rất tự nhiên, hóm hỉnh :Đêm qua …lạ lùng.
Lí do được Trời mời lên hầu cũng thật đời thường và dễ tin : Nằm buồn dậy đun nước uống, rồi ngâm thơ, chơi trăng. Và “Tiếng
ngâm vang cả sông Ngân Hà” đã làm Trời mất ngủ. Thế là được lên Trời.
Cuộc hội kiến với Trời và chư tiên được kể lại chi tiết, hồn nhiên, nghe tự nhiên như thật. Tác giả đã chọn lối kể chuyện nôm
na của dân gian để tái hiện câu chuyện hầu Trời.
Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp Trời để giới thiệu về mình. Giới thiệu rõ, chính xác tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề
nghiệp, kể tên các tác phẩm của mình. Nhà thơ đã chọn tình huống độc đáo : gặp Trời, ngâm thơ cho Trời cùng chư tiên nghe, qua
đó khẳng định tài năng của mình. Khẳng định một cách rất tự nhiên :
Tự khen tài của mình nhưng lại chọn hình thức để Trời cùng chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông đáng yêu.
Sau khi giới thiệu các tác phẩm, có phân chia rõ ràng thành từng loại theo quan điểm của bản thân (văn thuyết lí, văn chơi, văn
tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch) thì đưa ra nhận xét, cùng với những nhận xét của Trời “Văn đã giàu thay, lại lắm lối” (đa
dạng về thể loại, giọng điệu). Nhà thơ lại còn mượn lời của Trời để khẳng định tài năng của bản thân :Trời lại …như tuyết !”
Nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái Tôi của mình, gắn liền với tên tuổi thật của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài
và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như còn
là biểu hiện của sự tự hào, tự tôn dân tộc. Hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả phong cách ngông của mình :“Bẩm quả ..tội
ngông.”
Qua cuộc đối thoại tưởng tượng với Trời, nhà thơ còn khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm cao cả của mình nói riêng và của
người nghệ sĩ nói chung là lo việc “thiên lương” của nhân loại :Trời rằng : …đời hay.”Tạo tình huống tưởng tượng này để an ủi
mình, đồng thời cũng là để nói lên ý nghĩa cao quý của văn chương, của nhà văn.
Cũng nhân đây, nhà thơ giãi bày tâm sự của mình về nghề văn. Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho thơ Mới, không chỉ
bởi thơ ông mang hơi thở hiện đại của thời đại với cái Tôi cá nhân sừng sững giữa trang văn mà còn vì ông là nhà thơ đầu tiên
“mang văn chương ra bán phố phường”, coi nghề văn là nghề kiếm sống. Khi giãi bày cảnh ngộ với Trời, nhà thơ đã kể lể rất chi
tiết về nghề làm văn kiếm sống này. Tản Đà cũng đã dùng lời Trời để tự an ủi mình.
Với Hầu Trời, Tản Đà đã mang đến cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX một không khí mới. Dưới hình thức một bài thơ  câu
chuyện tưởng tượng vui và đầy hào hứng, nhà thơ đã khẳng định cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ. Nhà thơ vừa tự tin khẳng định
tài năng của mình vừa nói lên quan điểm làm văn chương, đó là viết văn để phục vụ thiên lương. Viết văn hay làm cho đời đẹp
hơn là nhiệm vụ trời đã trao cho người nghệ sĩ.
Sáng tạo độc đáo về mặt nghệ thuật của Tản Đà là đã đưa ngôn ngữ đời thường nôm na, dễ hiểu, dung dị mà vẫn rất gợi cảm
vào thơ ca. Ngôn ngữ thơ ở Hầu Trời đã có sự xâm nhập của giọng điệu văn xuôi và ngôn ngữ bình dân. Không quá câu nệ vào
vần luật nên mạch cảm xúc được phát triển rất tự nhiên và cái Tôi cá nhân đã thoả sức bộc lộ và thể hiện mình. Điểm độc đáo và
thành công của bài thơ còn thể hiện ở chỗ tạo ra cái cớ là tình huống hầu Trời để tự khẳng định tài năng và quan niệm của mình.
Đó là một kiểu ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ cũng đã phác hoạ một chân dung thi sĩ Tản Đà với phong cách
ngông độc đáo, đó là cái ngông của một nhà nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khẳng định.
Bài 3 Tản Đà (1889 – 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, ông sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời, Hán học đã tàn và
Tây học cũng mới bắt đầu nên con người ông kể cả học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn “người của hai
thế kỉ”(Hoài Thanh). Vào những năm 20 của thế kỉ XX, tên tuổi Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng trên thi đàn, một số tác
phẩm tiêu biểu của ông là: “Thơ Tản Đà” (1925); “Giấc mộng lớn” (tự truyện – 1928); “Còn chơi” (thơ và văn xuôi – 1921)…
Thơ Tản Đà thể hiện “cái tôi” lãng mạn, bay bổng vừa phóng khoáng lại vừa cảm thương, chính vì vậy ông đã được nhà phê bình
văn học Hoài Thanh xếp ở vị trí đầu tiên trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”. Một bài thơ thể hiện khá rõ nét phong cách này của
Tản Đà là bài “Hầu trời. Bài thơ được in trong tập “Còn chơi”, xuất bản năm 1921, thể hiện rõ nhất “cái tôi” cá nhân ngông
nghênh, phóng túng và khao khát được khẳng định giá trị bản thân trước cuộc đời của Tản Đà.
Bài thơ “Hầu trời” gây ấn tượng sâu sắc với người đọc bằng cách vào đề, cách dẫn dắt khá bất ngờ và thú vị, cuốn hút người
đọc vào câu chuyện mà tác giả sắp kể:“Đêm qua ..lạ lung” Chính tác giả là chủ thể của giấc mơ cũng không dám khẳng định là
giấc mơ đó có hay không, thực hay hư ảo. Nhưng ở các câu thơ tiếp theo với việc dùng ngữ điệu mãnh mẽ như để khẳng định yếu
tố thực của giấc mơ. Từ “thật” được lặp lại bốn lần cũng như để nhấn mạnh sự thật của các chi tiết, hình ảnh trong giấc mơ.Ở
những khổ thơ tiếp theo, tác giả kể về lí do được lên “hầu trời” của mình:“Nguyên lúc …chơi đấy”.
Câu chuyện hoàn toàn hư cấu mà giống như một câu chuyện có thật vì có đủ tình huống, không gian, thời gian diễn ra sự việc
và tác giả là nhân vật chính. Tác giả giải thích lí do của buổi “hầu trời” là do “tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời mất
ngủ. Trời bèn sai tiên nữ xuống gọi thi sĩ lên đọc văn cho Trời nghe. Lí do của buổi “hầu trời” mà tác giả đưa ra như một khẳng
định rằng: Cái may mắn được lên hầu trời gắn liền với những phút cao hứng trong thơ văn của nhà thơ.
Khi đã đưa ra lí do, tác giả kể tiếp diễn biến của buổi “hầu trời”. Câu chuyện diễn ra rất tự nhiên và hợp lí. Theo lệnh của Trời,
thi sĩ đọc văn và ngâm văn của mình cho Trời và các chư tiên nghe.“Truyền cho ..xin đọc”.
Đúng với niềm đam mê của mình, thi sĩ đọc với tất cả sự nhiệt tình và phấn khích. Có lẽ chưa bao giờ thi sĩ lại cảm thấy hứng
thú và thăng hoa đến như thế này nên đọc liền một mạch:“Đọc hết văn ..tốt hơi”.
Thái độ của người nghe rất chăm chú và ai cũng tán thưởng, bộc lộ sự hâm mộ qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ: “Tâm như nở dạ”;
“Cơ lè lưỡi”; “Hằng Nga, Chức nữ chau đôi mày”; “Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng” và khi hết mỗi bài thì tất cả cùng đồng
loạt vỗ tay. Thi sĩ còn kể ra hàng loạt các tập thơ của mình như: “Khối tình”, “Đài gương”, “Lên sáu”…Nhận được sự ngưỡng
mộ, thi sĩ được các chư tiên dặn: “Anh gánh lên đây bán chợ trời”.
Đoạn thơ tiếp theo thể hiện rõ ý thức về “cái tôi” cá nhân của tác giả rất cao:“Trời lại …tuyết!”“Cái tôi” được thể hiện ở việc
tác giả đã cố ý mượn lời của Trời để ca ngợi thơ văn của mình. Hiện tượng này từ trước đến nay trong lịch sử văn chương chưa
từng thấy, nó không những chứng tỏ Tản Đà rất có ý thức về tài năng văn chương vượt trội của bản thân so với các nhà văn, nhà
thơ cùng thời mà còn như khẳng định chính Tản Đà là người khơi nguồn cho một cuộc cách mạng về thơ ca, đúng với cái tên
“người của hai thế kỉ” mà Hoài Thanh đã gọi. Cái hay, cái đẹp trong thơ văn Tản Đà được chính tác giả đem so sánh với vẻ đẹp
tuyệt vời của các hiện tượng, sự vật trong vũ trụ như: sao băng, mây, gió, sương, tuyết…, thái độ của tác giả tỏ ra rất tự hào, kiêu
hãnh về tài năng văn chương của mình. Đây chính là cái “ngông” của thi sĩ, tự khẳng định một cách rất “ngông”, rất Tản Đà.
Theo yêu cầu của Trời, thi sĩ tự xưng tên tuổi và thân thế:“ – Dạ, bẩm lạy …Nam Việt”Trời ngờ ngợ một lúc lâu rồi sai Thiên
tào kiểm tra lại. Thiên tào tra sổ rồi bẩm báo:“ – Bẩm quả có ..ngông”.Lúc ấy Trời mới phán rằng đó không phải là Trời đày mà là
nhờ làm việc “thiên lương” của nhân loại. Thấy Trời phán vậy, thi sĩ liền trình bày một mạch nỗi khổ của bản thân và những khó
khăn của nghề kiếm sống bằng ngòi bút:“- Bẩm Trời, …theo”
Đoạn thơ này là một bức tranh hiện thực được vẽ bằng bút pháp tả chân thực, tỉ mỉ và rất cụ thể, phản ánh chính xác đời sống
cùng cực của tầng lớp văn nghệ sĩ và tình hình lộn xộn của thị trường văn chương thời ấy. Cảm xúc ở đoạn thơ khi thi sĩ đọ thơ
cho Trời nghe hứng khởi bao nhiêu thì đoạn này lại ngậm ngùi, chua xót bấy nhiêu. Giấc mơ “hầu trời” như sự biểu hiện tha thiết,
mãnh liệt của khát khao được thể hiện tài năng của thi sĩ. Dường như Trời cũng thấu hiểu được tình cảnh của thi sĩ nên khuyên
nhủ: Rằng: …tuyết”
Tiếng gà gáy xao xác, tiếng người dậy báo hiệu đã hết đêm. Cuộc chia tay giữa thi sĩ với Trời và các chư tiên diễn ra trong niềm
xúc động:“Hai hàng ..trần ai” Thi sĩ đã tỉnh khỏi giấc mộng nhưng những sự việc diễn ra vẫn còn đầy ấn tượng khiến thi sĩ phải
thốt ra như sự tiếc nuối:“Một năm ..hầu Trời”.
Câu chuyện “hầu trời” đã phản ánh khá rõ tính cách của Tản Đà, ông đã mạnh dạn tự biểu hiện “cái tôi” cá nhân, một “cái tôi”
ngông, phóng túng tác giả ý thức rất rõ về tài năng, dám đàng hoàng công khai cái tài văn chương hơn người của mình. Bài thơ
“Hầu trời” là một bài thơ hay và độc đáo, tiêu biểu cho tính chất giao thời giữa cái mới và cái cũ trong nghệ thuật thơ Tản Đà.
Bài 4 I.Kiến thức cơ bản1. Tác giả-tác phẩm:- Tản Đà: (1889-1939), tên thật Nguyễn Khắc Hiếu
- Quê hương: Tỉnh Sơn Tây (Nay thuộc tỉnh Hà Tây)- Con người:+ Sinh ra va Lớn lên trong buổi giao thời.
+ Là“người của hai thế kỷ” (Hoài Thanh)+ Học chữ hán từ nhỏ nhưng về sau chuyển sang sáng tác văn chương bằng chữ quốc
ngữ…
- Phong cách thơ:+ lãng mạng, bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương ưu ái.
+ Có thể xem thơ văn ông như một gạch nối giữa hai thời văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.
2. Văn bản “Hầu trời” a) Xuất xứ:-Trong tập “Còn chơi” (1921)
-Bài thơ ra đời vào thời điểm khuynh hướng lãng mạng đã khá đậm nét trong văn chương thời đại. Xã hội thực dân nữa phong
kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái, xót đau…
b) Bố cục: 3 phần:Phần 1; Giới thiệu về câu truyện, từ “đêm qua … lạ lùng”
Phần 2: “chủ tiên … chợ trời” Thi nhân đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.
Phần 3: “Trời lại phê cho… sương tuyết” thi nhân trò chuyện với trời.
II. Nội dung cơ bản:1. Giới thiệu câu chuyện- Câu chuyện xảy ra vào “đêm qua” (câu 1)  Gợi khoảng khắc yên tĩnh, vắng lặng.
- Câu truyện kể về một giấc mơ được lên cõi tiên (câu 4).
- Nhân vật trữ tình là tác giả, đang mang tâm trạng “chẳng phải hoảng hốt, không mơ màng”
- Biện pháp nghệ thuật:+ Điệp từ ‘thật”  nhấn mạnh tâm trạng cảm xúc của thi nhân.
+ Câu cảm thán  Bộc lộ cảm xúc bàng hoàng.
+ Câu khẳng định  dường như lật lại vấn đề: mơ và tỉnh, hư mà như thực.
- Cách giới thiệu trên đã gợi cho người đọc về tứ thơ lãng mạng nhưng cảm xúc là có thực. Tác giả muốn người đọc cảm nhận
được cái “hồn cốt” trong cõi mộng, mộng mà như tỉnh, hư mà như thực.
=>Cảm nhận được “cái tôi” cá nhân đầy chất lãng mạng, bảy bổng pha lẫn nét “ngông” trong thơ thi nhân. Với cách vào chuyện
độc đáo có duyên đã làm cho câu truyện mà tác giải sắp kể trở nên hấp dẫn lôi cuốn.
2. Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe:a) Thái độ của thi nhân khi đọc thơ và việc thi nhân nói về tác phẩm của mình:
- Thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc:“ Đọc hết ..chơi”
- Thi nhân kể tường tận, chi tiết về các tác phẩm của mình:“Hai quyển …tiểu thuyết….”
- Giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngông nghênh có phần tự đắc.
=> Đoạn thơ cho thấy thi nhân rất ý thức về tài năng văn thơ của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ “cái
tôi” cá thể. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến trời để khẳng dịnh tài năng. Đây là niềm khát khai chân thành trong tâm hồn thi sĩ.
b) Thái độ của người nghe:Rất ngưỡng mộ tài năng thơ văn của tác giả.
- Thái độ của trời: khen rất nhiệt thành: văn thật tuyệt, văn trần được thế chắc có ít, văn chuốt như sao băng…
- Thái độ của chư tiên: xúc động, hâm mộ và tán thưởng…Tâm nở dạ, cơ lè lưỡi…
=> Cả đoạn thơ mang đậm chất lãng mạng và thể hiện tư tưởng thoát li trước cuộc đời.
3. Thi nhân trò chuyện với trời:
a) Thi nhân kể về hoàn cảnh của mình:- Thi nhân kể họ tên, quê quán:“ Con tên ..Việt Nam”
 Trong văn chương việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cáh để khẳng định cái tôi cá nhân của mình.
- Thi nhân kể về cuộc sống: Đó là môt cuộc sống nghèo khó, túng thiếu, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, coi thường. Ở trần gian ông
không tìm được tri âm, nên phải lên tận cỏi trời để thoả nguyện nỗi lòng.
+ “Bẩm trời hoàng cảnh con thực nghèo khó”+ “Trần gian thước đất cũng không có”
+ “Văn chương hạ giới rẻ như bèo”+ “Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu’
Đó cũng chính là hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội lúc bấy giờ, một cuộc sống cơ cực không tấc đất cắm dùi,
thân phận bĩ rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn.
=>Qua đoạn thơ tác giả đã cho người đọc thấy một bức tranh chân thực và cảm động về chính cuộc đời mình và cuộc đời nhiều
nhà văn nhà thơ khác.
=> Cảm hứng hiện thực bao trùm cả đoạn thơ này.
b) Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân:- Nhiệm vụ trời giao: Truyền bá thiên lương.
 Nhiệm vụ trên chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không hoàn toàn thoát li cuộc sống. Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối
với đời để đem lại cuộc sống ấm no hành phúc hơn.
- Thi nhân khát khao được gánh vác việc đời . đó cũng là một cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.
=>Như vậy có thể nói trong thơ Tản đà cảm hứng lãng mạng và cảm hứng hiện thực đan xen khăng khít .
III. Tổng kết:1. Nội dung:- Bài thơ thể hiện cái tôi cá nhân ngông nghênh, kiêu bạc, hào hoa và cái tôi cô đơn, bế tắc trước thời
cuộc.- Có thể thấy nhà thơ đã tìm được hướng đi đúng đắn để khẳng định mình.
2. Nghệ thuật: Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc.- Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm, không cách
điệu, ước lệ.- Tác giả vừa là người kể chuyện vừa là nhân vật chính.- Cảm xúc bộc lộ thoaỉ mái, tự nhiên, phóng túng.- Thể thơ
thất ngôn trường thiên khá tự do…
Bái 5 Nhà thơ Xuân Diệu từng nói rằng: "Tản Đà là thi sĩ đầu tiên, mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất
đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một cái tôi”. Bằng bản lĩnh của mình, Tản Đà
mang đến một luồng sinh khí mới cho nền văn học Việt Nam. Thi sĩ trực tiếp thể hiện cái tôi bản ngã của mình một cách hết sức
độc đáo và mới mẻ. Và "Hầu Trời” là một trong những bài thơ kết tinh những nét riêng độc đáo đó.Như Hoài Thanh đã nói "Tiên
sinh là người của hai thế kỉ”, Tản Đà là người đã đặt được dấu gạch nối giữa văn học truyền thống và văn học hiện đại, là người
"dạo bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kì đương sắp sửa”(Hoài Thanh). Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, ông sống
khoáng đạt và đã đeo "túi thơ” đi khắp cuộc đời mình. Là một cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, ông để
lại khá nhiều tác phẩm cho đời. Trong đó đáng kể là "Hầu Trời” được trích trong tập Còn chơi (1921). Bài thơ đã thể hiện rõ cái
tôi cá nhân của Tản Đà thông qua sự việc lên thiên đình đọc thơ.Trong sáng tác văn học, không phải ai cũng thể hiện được cái tôi
của mình trên trang viết. Cái tôi gắn liền với cá tính sáng tạo của một người cầm bút. Điều đó đòi hỏi người viết phải thể hiện
được cái riêng có giá trị thẩm mĩ cao, có khả năng đóng góp tích cực cho nền văn học chung.Tản Đà-nhắc đến thi nhân là nhắc
đến "xê dịch, ngông và đa tình”. Ba yếu tố đủ để làm nên một cái tôi riêng trong làng thơ Việt Nam. Nhưng có lẽ, cái tôi độc đáo
của nhà thơ đã thể hiện trong "Hầu Trời” là một cái tôi ngông rất lạ. "Ngông” không phải chỉ định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ
thuật khác. Cái ngông ở đây được nói đến là ngông dựa trên khả năng mình có, nghĩa là chỉ những người tài năng, tự tin bởi cái
tài của mình, tự tin để khẳng định nó với đời mới là cái ngông được người đời chấp nhận. Người ngông tạo cho mình những
phong cách riêng, khác người nhưng để lại những ấn tượng sâu đậm. Chất ngông thương được thể hiện bởi các nhà văn, nhà thơ
có ý thức cao độ về cái tài và cái tình. Với cái tài đó, họ mang ra phục vụ cho đời nhưng cũng là để "đóng dấu” hình ảnh của mình
với thời gian. Họ có thể ngông bởi họ có tài, họ có cái để hãnh diện, để thách thức với cuộc đời, với người đời và cũng bởi trong
cuộc sống, mỗi con người họ đã là một tính cách riêng, một sự phá cách không thể trộn lẫn với một người nào khác. Và cái ngông
ấy trong "Hầu Trời” đã tạo ra cho nhà thơ một cái tôi độc đáo.Nhà thơ ý thức sâu sắc về tài năng của mình. Vì vậy tiếng ngâm thơ
"vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ là ở chỗ ấy."Đêm qua chẳng biết có hay khôngChẳng phải thảng thốt không mơ
mòng Thật hồn! Thật phách! Thật than thểThật được lên tiên sướng lạ lùng!”.Cái duyên được lên hầu Trời gắn liền với câu
chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cảm hứng của nhà thơ. Chuyện tưởng tượng nhưng như thật, có lẽ cái tôi độc dáo của
Tản Đà là ở chỗ vào đề tự nhiên, hấp dẫn nhưng có duyên. Để thế gian thấy tài năng của nhà thơ đã khó vậy mà ngay đến Trời
còn say mê, chư tiên yêu thích thì thật lạ lùng. Vậy mới thấy được cái ngông của nhà thơ biểu hiện mạnh mẽ qua bài Hầu Trời. Đã
có dịp được lên Thiên đình, vì thế Tản Đà tranh thủ "quảng cáo” tài năng của bản thân:"Dạ bẩm lạy Trời con xin đọcĐọc hết văn
vần sang văn xuôiHết văn thuyết lí lại văn chơiĐương cơn đắc ý đọc đã thíchChè Trời nhấp giọng càng tốt hơi.”Tác giả đọc thơ
rất tự tin, khoe tài của mình, đọc cao hứng và nhập thân vào tác phẩm. Qua đó bộc lộ cái tôi in đậm phong cách cái tôi cá nhân tự
ý thức của chính ông. Sẵn tiện nhà thơ giới thiệu luôn những tác phẩm của mình:"Bẩm con không dám man cửa TrờiNhững áng
văn con in cả rồiHai quyển Khối tình văn thuyết líHai Khối tình con là văn chơiThần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyếtĐài gương,
Lên sáu văn vị đờiQuyển Đàn bà Tàu lối văn dịchĐến quyển Lên tám nay là mười Nhờ Trời văn con còn bán được Chửa biết con
in ra mấy mươi?” Nhà thơ có vẻ rất đắc ý bởi ông ý thức được cái tài của mình. Khẳng định bản ngã cái tôi phóng túng, ý thức tài
năng giá trị của mình giữa cuộc đời. Trước Tản Đà các nhà nho tài tử đều hết thảy thị tài nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều khi
mang một nội hàm khá rộng. Họ không dám nói đến cái hay, cái "tuyệt” của thơ mình, hơn nữa, lại nói trước mặt Trời. Rõ ràng ý
thức cá nhân ở nhà thơ đã phát triển rất cao độ. Chính vì vậy mà đến Trời cũng phải tán thưởng:"Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡiHằng Nga, Chức Nữ chau đôi màySong Thành, Tiểu Ngọc lắng tai
đứngĐọc xong một bài cùng vỗ tay.”" Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt!Văn trần được thế chắc có ítNhời văn chuốt đẹp như sao
băng!Khí văn hung mạnh như mây chuyển!Êm như gió thoảng, tinh như sương!Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”Chính vì tình
yêu văn chương, ông mới tự tin sáng tác, chuyển tải những tư tưởng tình cảm mới mẻ vào trang thơ. Dường như với ông, hầu Trời
là khoảnh khắc đẹp nhất. Vì thế ông mới đem cái tài của mình để thể hiện trước Trời cùng chư Tiên. Và lúc này quan niệm mới
mẻ của ông được bộc lộ: sáng tác văn chương là một nghề. Dù không biểu hiện trực tiếp nhưng đằng sau các câu chữ ta vẫn thấy
có một sự hình dung khác trước về hoạt động tinh thần đặc biệt này. Với Tản Đà, văn chương là một nghề kiếm sống mới, có
người bán kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường đó cũng hết sức phức tạp, không dễ chiều. Đặc biệt hơn dương
như nhà thơ đã ý thức được sự cần thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải có vốn để theo đuổi nó:"Nhờ Trời văn con còn bán
được”"Vốn liếng còn một bụng văn đó”
Thật ngang tang khi thi sĩ muốn "gánh văn” lên Trời để bán."Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:-"Anh gánh lên đây bán chợ
Trời!””Làm náo động thiên cung bằng những lời văn giàu thay lắm lối, nay nhà thơ còn muốn văn của ông được lan rộng cung
đình để mọi người biết đến ông- một tài năng thực thụ của trần thế. Thế mới thấy được cái tôi mạnh mẽ đến nhường nào.Qua bài
thơ "Hầu Trời” không dừng lại ở đó, Tản Đà còn vạch ra thực tế phũ phàng: tài năng không thống nhất với số phận. Ở cuộc đời
nhà thơ thiếu tri âm, tri kỉ và bất hòa với cuộc đời:"Văn chương hạ giới rẻ như bèoKiếm được đồng lãi thực rất khóKiếm được
thời ít tiêu thời nhiềuLàm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.”Vì vậy ông khát khao lên Trời đọc thơ và tìm được người tri âm. Chỉ có
Trời và chư tiên mới hiểu cái hay, cái đẹp trong thơ ông. Và lời Trời khen hắn là sự thẩm định có sức nặng nhất, không thể bác bỏ,
nghi ngờ. Đúng là lối tự khẳng định rất ngông ngạo của nhà thơ.Để Trời hiểu thơ, khen văn thơ tuyệt, Tản Đà liền đó "tâu trình”
rõ ràng thân thế của mình, phù hợp hoàn toàn mạch chuyện:"Dạ bẩm lạy Trời con xin thưaCon tên Khắc Hiếu họ là NguyễnQuê ở
Á châu về Địa CầuSông Đà núi Tản nước Nam Việt”.Khác người xưa, Tản Đà đã tách tên, họ theo một kiểu công khai lý lịch rất
hiện đại, lại còn nói rõ bản quán, châu lục, tên hành tinh. Qua đó ông thể hiện niềm yêu nước tha thiết, đầy tự hào về bản thân, ý
thức cá nhân tự tôn dân tộc sâu sắc. Một cái tên- tên thật chứ không phải tự hay hiệu- mà được nói ra trịnh trọng đến vậy hẳn nhà
thơ phải thấy có một giá trị không thể phủ nhận gắn liền với nó. Cũng qua câu thơ, tác giả ngầm giới thiệu bút hiệu của mình. Tản
Đà là con người khoe tài, thị tài và rất ngông cho nên trước chư tiên không bao giờ kiềm chế mà luôn thể hiện hết tài hoa của
mình.Từ đầu đến cuối nhà thơ đều tự tin về tài năng của bản thân và một lần nữa Tản Đà lại khẳng định rất "ngông”, của kẻ vốn
đã "ngông” khi nhận mình là "trích tiên” bị đày xuống hạ giới vì tội ngông. Nhà thơ khẳng định tài năng và thân phận "khác
thường của mình”.Sự khác thường đặc biệt này còn nằm ở việc thi sĩ được thừa nhận là một người nhà Trời, được sai xuống hạ
giới thực hiện một sứ mệnh cao cả”việc thiên lương của nhân loại”, "Trời rằng không phải Trời đày, Trời định sai con một việc
này, Là việc "thiên lương” của nhân loại, Cho con xuống thuật cùng đời hay”. Một lần nữa cái ngông ấy lại được thổi vào trong ý
thơ. Nhưng cái ngông ấy chẳng qua là vì nó đối lập lại với cả xã hội bất công, vì ông phải đi làm công việc là tìm lại thiên lương
vốn đang bị mai một của con người:"Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớDám xin không phụ Trời trông mong”Nhà thơ ý thức về
nhân cách, một nhân cách vượt ra khỏi mọi sự ràng buộc về danh lợi. Nó đối lập với cái xã hội bất công vụ lợi, chạy theo đồng
tiền và danh lợi thời bấy giờ.Cuối cùng nhà thơ vẫn muốn khẳng định, tự khen thơ mình. Thơ thi nhân chẳng những đẹp mà còn
ẩn chứa những ý niệm cao siêu về cuộc đời, về thiên lương, nhân sinh thế giới quan… Tóm lại là tất cả những gì nhân loại cần có
để vươn đến cái chân- thiện- mỹ. Thoát ra khỏi quan niệm "thi dĩ ngôn chí” , Tản Đà thực sự thăng hoa trong thế giới nghệ thuật,
bộc lộ cảm xúc cái tự do cá nhân mới mẻ của riêng mình.Kế thừa nét ngông của truyền thống, song trong sự ngông của Tản Đà,
người ta không thấy cái ngông đến mức lấy thú ăn chơi hưởng lạc có phần tiêu cực như một cách để đối lại với đời như Nguyễn
Công Trứ. Và cũng không thấy cái ngông trong việc đi tìm một phong cách, một lối thể hiện riêng của người tôn thờ cái đẹp như
Nguyễn Tuân. Cái ngông của Tàn Đà là cái ngông của một người chìm đắm trong mộng: mộng về cuộc đời, mộng về sự đổi thay,
say để mộng, mộng để ngông với người đời. Nhưng có thể thấy rằng, họ gặp nhau ở một điểm cơ bản mà nếu như thiếu nó thì sẽ
không thể "ngông” được đó là cái tài, cái tình và ý thức về cái tôi bản ngã của chính mình. Họ làm nên những phong cách nghệ
thuật riêng độc đáo, nhưng ấn tượng đặc biệt, không thể nào phai trong lòng người đọc và không lẫn với cái ngông của nhà thơ
nào khác. Bài thơ "Hầu Trời” đã kết tinh cái tôi của Tàn Đà. Nhưng không chỉ trên phương diện nội dung, những nét độc đáo và
mới mẻ còn làm nên cái tôi trong nghệ thuật. Có lẽ "Hầu Trời” có vẻ quá dài nhưng chính điều đó lại tạo cho bài thơ giàu yếu tố
tự sự. Hơn thế, nguyên tắc tôn trọng dòng chảy tự nhiên,sống động của cảm xúc cá nhân, cá thể của thơ cho phép nhà thơ thoát
khỏi những ràng buộc quá khắt khe về hình thức để tự do vẫy vùng thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Thể thơ thất ngôn trường
thiên được viết một cách phóng túng, tự do theo cá tính riêng của nhà thơ. Bên cạnh đó, "Hầu Trời” còn đáng chú ý với hiện
tượng chia khổ, các khổ có độ dài khác nhau tạo nên cảm xúc tự do và nét mới trong thơ văn. Cách thể hiện của Tản Đà đã vượt
ra khỏi quy pham nội dung và nghệ thuật, muốn phá cách để thể hiện rõ cái tôi của ông.Nét độc đáo trong cái tôi của Tản Đà là sự
dung hòa nhiều yếu tố khác nhau. Tất cả tạo nên ở thi sĩ tính cách của một nhà Nho tài tử, đa tình, ngông và xê dịch. Cái cũ và
mới, xưa và nay đan xen đưa Tàn Đà trở thành người nối kết hai thời đại thi ca, trở thành ngôi sao sáng với vẻ đẹp rất riêng trên
bầu Trời văn học Việt Nam
Bài 6 Tản Đà (1889 – 1939) là người có lối sống và sự nghiệp văn chương mang dấu ấn “người của hai thế kỉ”. Vào những năm
20 của thế kỉ XX, Tản Đà nổi được ví như một ngôi sao sáng trên thi đàn thơ văn Việt Nam,ông có những tác phẩm tiêu biểu như:
“Thơ Tản Đà” (1925); “Giấc mộng lớn” (tự truyện – 1928); “Còn chơi” (thơ và văn xuôi – 1921)…hồn thơ Tản Đà thể hiện “cái
tôi” lãng mạn, bay bổng vừa phóng khoáng lại vừa cảm thương. Hầu trời là một trong số bài thơ tiêu biểu trong tập “còn chơi” thể
hiện rõ nét nhất tâm hồn phóng khoáng, đôi khi là nét ngông, và cũng góp phần khẳng định giá trị bản thân trước cuộc đời của
Tản Đà.
Cách vào đề của “ Hầu trời” cũng rất độc đáo, gây ấn tượng người đọc với cách vào đề, dẫn dắt độc giả vào thế giới thơ một
cách cuốn hút. Bằng những câu thơ, thủ thỉ tâm tình như đang kể cho độc giả một câu chuyện như vừa mới xảy ra vậy, câu chuyện
đó bắt đầu từ một giấc mơ, nhưng tác giả lại không thể biết được đó là thật hay mộng, thực hay ảo. Sự đối lập được nêu ra khi bốn
từ “ thật được sử dụng trong 2 câu, chứng tả tác giả không hề mơ mộng mà nó thực chất là một giấc mơ, thế tại sao lại có sự mâu
thuẫn như vậy. Nhưng dẫu sao thì nó vẫn mang lại cảm xúc thích thú vui sướng cho chính tác giả“Đêm qua ..lạ lung”
Ở những khổ thơ tiếp theo, tác giả kể về lí do được lên “hầu trời” của mình, với những câu thơ đầy tính thuyết phục, với ngòi
bút của mình, Tản Đà vẽ ra một câu chuyện như vừa mới xảy ra đây thôi:“Nguyên …chơi đấy”.
Không gian thời gian của câu chuyện mặc dù là của một giấc mơ nhưng lại rất rõ ràng, tác giả giải thích lí do của buổi “hầu
trời” là do “tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ. Trời bèn sai tiên nữ xuống gọi thi sĩ lên đọc văn cho Trời
nghe. Lí do của buổi “hầu trời” mà tác giả đưa ra như một khẳng định rằng: Cái may mắn được lên hầu trời do những phút cao
hứng trong thơ văn của nhà thơ.
Câu chuyện của buổi “hầu trời” diễn ra rất tự nhiên và hợp lí, như chính tác giả vừa mới trở về từ chốn đó vậy:”Theo lệnh của
Trời, thi sĩ đọc văn và ngâm văn của mình cho Trời và các chư tiên nghe.“Truyền cho ..xin đọc”.
Với niềm phấn khích và đầy hứng khởi của mình, sự say sưa trong giọng đọc thơ, cũng ẩn ý cho niềm say mê trong văn chương
đã khiến cho tác giả rất tự tin , thể hienj niềm khát khao và đam mê của chính bản thân mình. Và qua những câu thơ, người ta
cũng thấy được tài năng của ông khi biết được nhiều thể loại:“Đọc hết ..tốt hơi”.Mọi người sau khi được Tản Đà đọc thơ,lây làm
rất thích thú, ai cũng bộc lộ sự hân hoan tán thưởng, kể cả ông trời cũng phải buông ra những lời tán dương mà mới nghe cũng
thấy sung sướng hạnh phúc.
Thái độ của người nghe được thể hiện ở nét mặt, cử chỉ, điệu bộ: “Tâm như nở dạ”; “Cơ lè lưỡi”; “Hằng Nga, Chức nữ chau
đôi mày”; “Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng” và khi hết mỗi bài thì tất cả cùng đồng loạt vỗ tay. Thi sĩ còn kể ra hàng loạt
các tập thơ của mình như: “Khối tình”, “Đài gương”, “Lên sáu”…Nhận được sự ngưỡng mộ, thi sĩ được các chư tiên dặn: “Anh
gánh lên đây bán chợ trời”.
Đoạn thơ tiếp theo thể hiện rõ ý thức về “cái tôi” cá nhân của tác giả rất cao:“Trời …tuyết!”Những câu thơ góp phần thể hiện
“Cái tôi” phóng khoáng ,tác giả đã cố ý mượn lời của Trời để ca ngợi thơ văn của mình. Nó không những chứng tỏ Tản Đà rất có
ý thức về tài năng văn chương vượt trội của bản thân mà còn như khẳng định chính Tản Đà là người khơi nguồn cho một cuộc
cách mạng về thơ ca, đúng với cái tên “người của hai thế kỉ” mà Hoài Thanh đã gọi. Cái hay, cái đẹp trong thơ ca của Tản Đà
được tác giả đem so sánh với vẻ đẹp tuyệt vời của các hiện tượng, sự vật trong vũ trụ như: sao băng, mây, gió, sương, tuyết…,
qua đây cũng thấy được thái độ của tác giả tỏ ra rất tự hào, kiêu hãnh về tài năng văn chương của mình. Theo yêu cầu của Trời, thi
sĩ tự xưng tên tuổi và thân thế:“ – Dạ, bẩm ..Nam Việt”Trời ngờ ngợ một lúc lâu rồi sai Thiên tào kiểm tra lại. Thiên tào tra sổ rồi
bẩm báo:“ – Bẩm quả …dám theo”
Khi được trời hỏi, sau một hồi đối đáp thì cũng lộ ra một điều rằng, vốn dĩ Tản Đà ở hạ giưới chỉ vì tội ngông. Đoạn thơ tái
hiện bức tranh hiện thực được vẽ bằng bút pháp tả chân thực, tỉ mỉ và rất cụ thể, phản ánhđời sống cùng cực của tầng lớp văn
nghệ sĩ một cách chính xác và tình hình lộn xộn của thị trường văn chương thời ấy. Cảm xúc ở đoạn thơ khi thi sĩ đọc thơ cho
Trời nghe hứng khởi bao nhiêu thì đoạn này lại càng thể hiện tâm trạng ngậm ngùi, chua xót bấy nhiêu. Giấc mơ “hầu trời” như
sự biểu hiện khát khao được thể hiện tài năng của thi sĩ. Dường như Trời cũng thấu hiểu được tình cảnh của thi sĩ nên khuyên
nhủ:“Rằng: Con …sương tuyết”
Những lời khuyên của trời dù ngắn ngủi nhưng lại vô cùng có giá trị, cuộc chia tay tiễn biệt giữa trời các chư tiên và tác giả cứ
quyến luyến “Hai hàng ,….trần ai”
Mặc dù đã tỉnh khỏi giấc mộng nhưng vẫn lấy làm hối tiếc khi một năm có bao nhiêu ngày nhưng may mắn chỉ có 1 đêm để
hầu trời. Điều này càng chứng tỏ, lòng khát khao muốn dùng thơ văn và niềm đam mê của mình để ai ai cũng biết tới, và những ai
trân trọng nó. “Một năm …hầu Trời”.
Từ một câu chuyện dường như không có thật, “hầu trời” đã phản ánh khá rõ tính cách của Tản Đà, ông đã mạnh dạn tự biểu
hiện “cái tôi” cá nhân, một “cái tôi” ngông, phóng túng . qua đó tác giả cũng ý thức rất rõ về tài năng, dám công khai cái tài văn
chương hơn người của mình. Bài thơ “Hầu trời” là một bài thơ hay và độc đáo, tiêu biểu cho tính chất giao thời giữa cái mới và
cái cũ trong nghệ thuật thơ Tản Đà, một trong những tác phẩm tiêu biểu cho cả hồn thơ Tản Đà và cả phong trào thơ mới.

You might also like