You are on page 1of 17

Những nhận xét dành cho Thạch Lam đáng kính của chúng ta

-Nhận xét khái quát về sự nghiệp văn chương của ông, Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam có đoạn viết:
"Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm, hay ghi lại cảm xúc của mình trước số phận hẩm hiu của những người
nghèo, nhất là những người phụ nữ trong xã hội cũ, sống vất vả, thầm lặng, chịu đựng, giàu lòng hi sinh ("Cô hàng
xén"). Có truyện miêu tả với lòng cảm thông sâu sắc một gia đình đông con, sống cơ cực trong xóm chợ ("Nhà mẹ
Lê"). Có truyện phân tích tỉ mỉ tâm lí phức tạp của con người ("Sợi tóc"). "Ngày mới" đi sâu vào nội tâm của một cặp
vợ chồng trí thức nghèo. Chưa có truyện nào có ý nghĩa xã hội rõ nét như các tác phẩm của các nhà văn hiện thực phê
phán. "Theo giòng" là một thiên tiểu luận viết kiểu tuỳ bút, ghi lại suy nghĩ của ông về nghệ thuật tiểu thuyết, có
những ý kiến hay, nhưng chưa đi sâu vào khía cạnh nào. Cuốn "Hà Nội ba sáu phố phường" có phong vị đậm đà của
quê hương xứ sở, lại rất gợi cảm. Văn Thạch Lam nhẹ nhàng, giàu chất thơ, sâu sắc, thâm trầm, thường để lại một ấn
tượng ngậm ngùi, thương xót."

-Trong "Lời nhà xuất bản Văn học" (khi in lại tác phẩm "Gió đầu mùa" năm 1982) cũng có đoạn viết như sau:
"Giới thiệu tập truyện ngắn "Gió đầu mùa" xuất bản trước Cách mạng tháng Tám, Thạch Lam viết: "Đối với tôi văn
chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới
thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người
được thêm trong sạch và phong phú hơn".

Có thể coi đoạn văn ngắn nói trên như là "Tuyên ngôn văn học" của Thạch Lam. Và quả thật, trong toàn bộ gia tài
sáng tạo của Thạch Lam, hầu như không một trang viết nào lại không thắm đượm tinh thần đó. Là thành viên của
nhóm Tự Lực văn đoàn, song trước sau văn phong Thạch Lam vẫn chẩy riêng biệt một giòng. Đề tài quen thuộc của
nhóm Tự Lực văn đoàn là những cảnh sống được thi vị hóa, những mơ ước thoát ly mang mầu sắc cải lương, là những
phản kháng yếu ớt trước sự trói buộc của đạo đức phong kiến diễn ra trong các gia đình quyền quý. Thạch Lam, trái
lại, đã hướng ngòi bút về phía lớp người lao động bần cùng trong xã hội đương thời. Khung cảnh thường thấy trong
truyện ngắn Thạch Lam là những làng quê bùn lầy nước đọng, những phố chợ tồi tàn với một bầu trời ảm đạm của tiết
đông mưa phùn gió bấc, những khu phố ngoại ô nghèo khổ, buồn, vắng... Trong khung cảnh ấy, các nhân vật cũng
hiện lên với cái vẻ heo hút, thảm đạm của số kiếp lầm than - Đó là mẹ Lê, người đàn bà nghèo khổ, đông con, góa bụa
ở phố chợ Đoàn Thôn, là bác Dư phu xe ở phố Hàng Bột, là Thanh, Nga với bà nội và cây hoàng lan trong một làng
quê vùng ngoại ô, là cô Tâm hàng xén với lối đường quê quen thuộc trong buổi hoàng hôn...Tất cả những cảnh, những
người ấy đều được mô tả bằng một số đường nét đơn sơ, thưa thoáng nhưng vẫn hết sức chân thực...
Tác phẩm của Thạch Lam vì thế có nhiều yếu tố hiện thực tuy nhân vật không dữ dội như Chí Phèo, lão Hạc của Nam
Cao, hay bị đày đọa như chị Dậu của Ngô Tất Tố...Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam, chính là ở lòng
nhân ái, và vẻ đẹp tâm hồn quán xuyến trong mọi tác phẩm của ông. Nhân vật Thạch Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào,
vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân ái Việt Nam...Đọc truyện ngắn Thạch Lam rõ ràng ta thấy yêu con người, quý
trọng con người hơn. Và cũng từ đó ta thương cảm, nâng niu, chắt gạn từng chút tốt đẹp trong mỗi một con người."
Trích thêm nhận xét của:
• Nhà văn Nguyễn Tuân:
"Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và sâu sắc…Văn Thạch Lam
đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và tầng trải về sự đời. Thạch Lam có những nhận
xét tinh tế về cuộc sống hàng ngày. Xúc cảm của Thạch lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối
với tầng lớp dân nghèo thành thị và thôn quê. Thạch Lam là nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước cuộc sống
của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch lam, vẫn thấy đầy đủ cáo dư vị và cái nhã thú của những tác
phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học."
• Nhà văn Vũ Ngọc Phan:
"Ngay trong tác phẩm đầu tay (Gió đầu mùa), người ta đã thấy Thạch Lam đứng vào một phái riêng...Ông có một ngòi
bút lặng lẽ, điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút chuyên tả tỷ mỷ những cái rất nhỏ và rất đẹp... Phải là người giàu tình cảm
lắm mới viết được như vậy...''
• GS. Phạm Thế Ngũ:
"Thạch Lam là một nhà văn có khuynh hướng xã hội...Đối với ông, nhân vật thường là những người tầm thường trong
xã hội: mẹ Lê trong xóm nghèo, cô hàng xén ở phố huyện, cậu học trò đi ở trọ, hai cô gái giang hồ trơ trọi…Và ông
thường để ý vạch vẽ cuộc đời, tình cảm cùng ý nghĩ của họ, chớ không bận tâm lắm đến việc tuyên truyền tư tưởng
cách mạng xã hội như trong các tác phẩm của Nhất Linh hay Hoàng Đạo…Ta thấy Thạch Lam, luôn hòa đồng trong
cái xã hội nhỏ bé mà ông thương xót với tất cả tâm hồn đa cảm của ông... "
• GS. Phong Lê:
"Thạch Lam có quan niệm dứt khoát về thiên chức của văn chương: "Đối với tôi, văn chương không phải một cách
đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng
ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và
phong phú hơn".
Có lẽ cả hai phương diện, vừa tố cáo, vừa xây dựng, đều được Thạch Lam chú ý; và trong phần thành công của nó, các
dấu ấn hiện thực và lãng mạn trong văn Thạch Lam đều tìm được sự gắn nối ở chính quan niệm này.
Ở tư cách nhà văn, Thạch Lam đòi hỏi rất cao phẩm chất trung thực của người nghệ sĩ. Ông viết: "Sự thành thực chưa
đủ cho nghệ thuật. Có thể, nhưng một nhà văn không thành thực không bao giờ trở nên một nhà văn giá trị. Không
phải cứ thành thực là trở nên một nghệ sĩ. Nhưng một nghệ sĩ không thành thực chỉ là một người thợ khéo tay thôi"
• PGS. Nguyễn Hoành Khung:
...Tình cảm của Thạch Lam chân thành, tuy nhiên, ông chỉ mới băn khoăn, thương cảm đối với số phận người nghèo
qua những câu chuyện mang một dư vị ngậm ngùi, tội nghiệp.
Về bút pháp, có thể nói Thạch Lam là nhà văn mở đầu cho một giọng điệu riêng: trữ tình hướng nội trong truyện ngắn.
Ngòi bút của ông thường khơi sâu vào thế giới bên trong của cái “tôi”, với sự phân tích cảm giác tinh tế.
Sáng tác của Thạch Lam giàu chất thơ, và đọc ông, đời sống bên trong có phong phú hơn, tế nhị hơn; chúng “đem đến
cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm tho và mát dịu” (Nguyễn Tuân).
Ông là cây bút có biệt tài về truyện ngắn. Nhiều truyện ngắn của ông dường như không có cốt truyện, song vẫn có sức
lôi cuốn riêng. Truyện dài "Ngày mới" của ông không có gì đặc sắc về tư tưởng và nghệ thuật."
• Khúc Hà Linh (Hiệu trưởng Trường Văn hóa nghệ thuật Hải Dương):
"Thạch Lam có những tháng năm sống nơi thôn dã, nên trong tác phẩm ông chất chứa nhiều hình bóng con người và
đời sống làng quê...Ông tả nội tâm nhân vật tài tình, nhuần nhị, tinh tế. Văn ông hài hòa giữa lãng mạn và chân thực,
mà vẫn nồng nàn tình quê, nặng lòng với dân tộc.
Thạch Lam không chỉ nổi tiếng về truyện ngắn, ông còn thành công trong thể loại bút ký. "Hà Nội băm mươi sáu phố
phường" gồm nhiều mẩu văn ngắn mà sinh động, thể hiện vốn sống phong phú và tài hoa của ông..."

Nhận xét khác


 dù là một thành viên của Tự lực văn đoàn và chịu những ảnh hưởng nhất định của trường phái lãng mạn nhưng
Thạch Lam chọn cho mình một lối đi hoàn toàn riêng biệt trong văn chương. Không chọn phong cách lãng mạn,
thoát ly hiện thực như những tác giả trong nhóm văn Tự lực, cũng không chọn lối đi đầy dữ dội như Ngô Tất Tố hay
trào lộng như Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam viết về những điều hết sức bình dị và tinh tế.

Văn chương của ông nhẹ nhàng và trong trẻo nhưng vẫn bám sát vào hiện thực cuộc sống. Thông qua những điều
hết sức giản dị, Thạch Lam không chỉ muốn khẳng định vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của con người mà còn bày tỏ
một cái nhìn đầy lạc quan vào cuộc sống. Dưới cái nhìn tinh tế của nhà văn, người đọc phát hiện ra lẩn khuất giữa
những tăm tối và khắc nghiệt không thể trốn chạy của hiện thực vẫn còn những vẻ đẹp đầy lấp lánh.

Đó là vẻ đẹp của bình dị thôn quê với đường gạch, hàng cây, với tiếng gió xào xạc hay ngay cả trong ánh đèn của
đoàn tàu vụt qua nơi phố huyện nghèo và hơn hết là vẻ đẹp đầy sáng ngời của tâm hồn con người. Đó là: Tiếng
trống thu không trên cái chợ huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy
và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rơ rệt trên nền trời.
Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa
vào” ("Hai đứa trẻ"). Là những lời lẽ nhẹ nhàng, thủ thỉ nhưng lại gợi ra biết bao xúc cảm đầy mạnh mẽ, thiên nhiên
dưới con mắt của Thạch Lam bao giờ cũng là mặt hồ phản chiếu tâm trạng của con người:

Văn Thạch Lam nhẹ nhàng, thủ thỉ nhưng có sức ám ảnh lớn. Là lối truyện tâm tình, không có cốt truyện, toàn truyện
không hề có hành động phát triển xung đột mà chỉ toát lên một tâm trạng, một không khí nhưng lại rất thực, rất đời.
Truyện ngắn Thạch Lam như một tấm gương sáng mà ai soi vào đó cũng thấy có mình, thấy ưu điểm, nhược điểm
để hiểu mình hơn, hiểu người hơn, để cảm thông hơn và sống đẹp hơn: “
TƯ LIỆU VỀ THẠCH LAM VÀ TÁC PHẨM HAI ĐỨA TRẺ.
I) Lời bình của Nguyễn Tuân: Thạch Lam và truyện ngắn Thạch Lam.

- Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và sâu sắc.
Dưới cái hình thức không những thoát khỏi khuôn sáo cũ của cách hành văn đương thời mà lại có rất
nhiều đức tính sáng tạo ấy, văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn
nhạy cảm và từng trải về sự đời. Thạch Lam có những nhận xét tinh tế về cuộc sống hàng ngày.

- “Xúc cảm của Thạch lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với tầng lớp dân
nghèo thành thị và thôn quê. Thạch Lam là nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước cuộc sống
của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch lam, vẫn thấy đầy đủ cáo dư vị và cái nhã thú của
những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học."

- Có những truyện ngắn Thạch Lam, ở cái thời bấy giờ, đọc xong thấy nó đọng lại trong người ta như
một câu hỏi bức thiết của tác giả, như là một lời trách móc kín đáo của nhân vật truyện.

- Truyện Hai đứa trẻ có một hương vị thật man mác. Nó gợi lên một nỗi niềm thuộc về quá vãng, đồng
thời cũng gióng lên một cái gì ở trong tương lai.

- Nơi cái thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã thành một
thói quen của cảm xúc và của ước vọng.

II) Lời bình của Tân Chi: Chủ nghĩa hiện thực trong tác phẩm của Thạch Lam.

- Thạch Lam mô tả những nét hiện thực của cuộc đời lại xuất phát từ lòng thương xót con người nghèo
khổ hơn là từ lòng căm ghét bọn thống trị.

- Nét hiện thực rõ nhất trong tác phẩm Thạch Lam là đời sống của những người dân nghèo thành thị
và nông thôn, là những dằn vặt đấu tranh và đời sống tình cảm rất phong phú nhưng cũng vô cùng
phức tạp của những con người  tiểu tư sản.

- Cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của Thạch Lam là biểu hiện tấm lòng nhân đạo trước những mảnh
đời đau xót.

- Cái nhìn hiện thực qua “ lăng kính Thạch Lam”.

III) Lời bình của Lê Quang Hưng: Thế giới nhân vật trong sáng tác Thạch Lam.

- Thế giới nhân vật của Thạch Lam phần lớn là những con người ở địa vị thấp bé, có cuộc sống nghèo
khổ, vất vả, thường ở trong nhịp sống đơn điệu, nhàm tẻ.

- Đặc điểm của nhân vật được biểu hiện ở:

+ Vẻ đẹp của lòng thương yêu, đức hy sinh: bao giờ họ cũng sống, cũng nghĩ vì người khác, cho người
khác. Có lúc ngậm ngùi tủi phân, có lúc chán chường nhưng rồi họ lại lặng lẽ tiếp tục cái đời hi sinh,
tần tảo của mình.
+ Vẻ đẹp của sự đùm bọc, chia sẻ: Hai đứa trẻ vừa gợi trong ta nỗi cảm thương đối với những kiếp
người nhỏ bé bị vây bọc trong môi trường sống tù đọng, vừa gieo vào ta niềm tin yêu trước tấm lòng
gắn bó yêu thương nhau của họ.

+ Vẻ đẹp của lòng thủy chung, của tình nghĩa:

+ Vẻ đẹp của sự ăn năn, ý thức làm người và khao khát hoàn lương: Khác với nhân vật của Nam Cao,
thường ở trong hoàn cánh nghiệt ngã, tình huống gay cấn đe dọa hủy hoại, tha hóa nhân cách, nhân
vật của Thạch Lam hầu như chỉ gặp những thử thách thông thường, vừa tầm.

- Phải có tấm lòng yêu thương, trân trọng con người đến mức nào, phải là nhà văn tinh tế, biết sống
với tâm trạng, cảm giác nhân vật sâu sắc chừng nào mới viết được những trang văn như thế.

IV) Lời bình của Hà Văn Đức: Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Thạch Lam.

- Trái tim Thạch Lam đã không biết bao lần đã thổn thức trước những thân phận nhỏ bé, khổ

đau ở cõi đời này.

-  Xuất hiện trên văn đàn cùng thời với rất nhiều nhà văn khác, Thạch Lam mang một dấu ấn rất riêng.
Không trào lộng như Vũ Trọng Phụng, không hài hước như Nguyễn Công Hoan, không triết lý như
Nam Cao. Thạch Lam nhẹ nhàng và tinh tế.

- Mỗi truyện ngắn của ông như một bài thơ về những cuộc đời, những thân phận nhỏ bé, côi cút và bất
hạnh, gợi sự thương cảm, xót xa sâu sắc của tình người.

- Giản dị mà sâu sắc chứa chan tình nhân ái, Thạch Lam hướng người đọc tới sự thanh cao của cái đẹp,
cái thiện. Ông luôn đi sâu vào khám phá đời sống tâm linh của nhân vật bằng một ngòi bút rất tinh tế,
rất hiểu sự đời - đó là những vẻ đẹp lẩn khuất bên trong tâm hồn con người: tình thương, sự cảm
thông, lòng vị tha giữa người với người, giữa người với vật..

- Truyện ngắn Thạch Lam với những lời văn nhẹ nhàng và kín đáo, như những khúc tâm tình giúp
người ta sáng suốt để lựa chọng cho mình lối đi đẹp nhất cho cuộc đời.

- Thuở sinh thời, Thạch Lam luôn tâm niệm: “Văn chương không phải là một cách đem đến cho người
đọc sự thoát ly hay sự quên..., văn chương là một thứ khí lớn thanh cao và đắc lực làm cho lòng người
thêm trong sạch và phong phú hơn.”

- Văn Thạch Lam nhẹ nhàng, thủ thỉ nhưng có sức ám ảnh lớn. Là lối truyện tâm tình, không có cốt
truyện, toàn truyện không hề có hành động phát triển xung đột mà chỉ toát lên một tâm trạng, một
không khí nhưng lại rất thực, rất đời.

- Thạch Lam là vậy đó, luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu lòng mình để hiểu về người khác. Ông
đã đặt mình vào vị trí nhân vật để nói lên cảm nghĩ về số phận những kiếp người nhỏ bé trong xã hội
và để từ đó toát lên sự cảm thông sâu sắc với những cảnh đời nghiệt ngã, khổ đau.

- Thạch Lam đã từng nói: “ Nhà văn cốt nhất định phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những tính
tình và cảm giác thành thực; tức tìm thấy tâm hồn của mọi người qua tâm hồn của chính mình, đi đến
chỗ bất tử mà không tự biết và qua tâm hồn ta, chúng ta có thể đoán biết được tâm hồn mọi người. Và
chỉ khi nào chúng ta hiểu biết được những trạng thái tâm lý người ngoài.”

- Song trong cái lãng mạn của Thạch Lam có vẻ tươi sáng của ngày mai tốt đẹp hơn ngày hôm nay, nó
thức tỉnh sâu trong sâu thẳm con người một chút mơ mộng, một niềm vui sống.

- Giọng văn Thạch Lam có sức sôi cuốn kỳ diệu là vì vậy. Càng đọc lại càng say, càng đọc càng bị cuốn
hút. Nó kiểu “ lạt mềm buộc chặt”, càng đi sâu vào người đọc càng không thể dứt ra.

- Bằng giọng văn nhẹ nhàng, thủ chỉ, Thạch Lam đã đánh thức miền ký ức của mỗi người, đánh thức
những xúc cảm thầm kín nhất, sâu xa nhất về những kỷ niệm yêu dấu đã qua trong tâm hồn mỗi
người.

- Thạch Lam lặng lẽ âm thầm phản ánh đời sống hết sức khốn khó của con người đối với cái nhìn đôn
hậu và đầy thương cảm.

- Ông đã tạo ra những trang văn đẹp, giản dị nhưng vô cùng nhân đạo. Những con người dù bị chà
đạp vẫn cố gắng vươn tới vẻ đẹp thanh cao, những con người dù khốn khó vẫn tự đấu tranh để vươn
tới cái đẹp trong cuộc sống.

- Và giọng điệu buồn trầm gợi niềm xót xa thương vảm về số phận bấp bênh của con người dưới xã
hội cũ là nét đặc trưng của phong cách truyện ngắn Thạch Lam. Một nỗi buồn man mác nhè nhẹ phủ
lên và thấm vào đời sống của các nhân vật, nỗi buồn xa xôi, nỗi buồn mơ hồ

- Thạch Lam đã từng quan niệm: “Cái thực tài của nhà văn, nguồn gốc chính là ở tâm hồn nhà văn, một
nghệ sĩ phải có một tâm hồn phong phú, những tình cảm dồi dào. Nếu không, nghệ sĩ đó chỉ là thợ
văn khéo thôi.”

- Thế Lữ đã rất xúc động khi nhớ về Thạch Lam diễn trong văn chương phức tạp nhiều hình, hình vẻ,
nhưng bao giờ cũng đằm thắm, thân mật, cũng thân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của
tình thương.”

V) Lời bình của Nguyễn Phượng: Dấu ấn của chủ nghĩa hiện đại trong truyện ngắn “Hai đứa
trẻ”.

- Ông hướng ngòi bút về phía những người lao động bần cùng sống trong những làng quê bùn lầy
nước đọng, những người dân nghèo thành thị lay lắt chốn phồn hoa, những kiếp người kiếm sống
bằng những nghề vất vả, tủi cực trong những khu hành lạc lắm bùn nhơ hay khu ngoại ô nghèo khổ,
buồn và vắng.

- Sáng tác của Thạch Lam không tập trung vào việc tạo dựng cốt truyện do đó thường ít sự kiện, biến
cố và hành động nhưng vẫn đầy hấp dẫn bởi thiên hướng đi vào thế giới nội tâm nhân vật qua việc ghi
lại những cảm giác mơ hồ, mong manh và thể hiện bằng một lối viết nhẹ nhàng, kín đáo, tế nhị.

- Thạch Lam từng khao khát dùng văn chương như một vũ khí thanh cao và đắc lực nhằm làm thay đổi
một thế giới giả dối và tàn ác.
- Thạch Lam không kêu gọi cải cách cũng không chủ trương chỉ trích hay giáo huấn, đối với ông, cõi đời
dẫu phong phú và phức tạp, thiện ác chen nhau, nhưng con người sinh ra không ai vốn thiện sẵn hay
vốn ác sẵn. Con người rất có thể sa ngã, sai lầm, thậm chí gây nên tội ác vì ranh giới giữa cái thiện và
ác thực chất chỉ cách nhau một sợi tóc...

- Liên ngắm cảnh phố huyện vào đêm như thể trong vô thức cô muốn xoa đi cái tâm trạng buồn xâm
chiếm tâm hồn mình lúc hoàng hôn về.

VI) Lời bình của Phan Cự Đệ: Hai đứa trẻ.

- Thời gian như một cái bình lọc kỳ diệu, nó chỉ để lại trong tâm hồn đa cảm và tinh tế của Thạch Lam
những chi tiết điển hình, những cảm giác sâu lắng, những ấn tượng không thể phai mờ.

- Câu chuyện của Thạch Lam để lại trong tâm hồn ta những dư vị đằm thắm của quê hương và một sự
cảm thương man mác những cuộc đời thầm lặng như những chấm sáng lù mù bị nhòe đi trong bóng
tối dầy đặc của một vùng quê tù đọng.

- Mạch văn, ý văn, hơi văn Thạch Lam là một minh chứng cho nguyện ý cầm bút của ông: “Đối với tôi,
văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn
chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế
giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn.” ( Thạch Lam)

VII) Lời bình của Lê Tâm Chính: Thế giới trẻ thơ qua đôi mắt Thạch Lam.

- Các nhân vật trẻ thơ của Thạch Lam có những khuôn mặt riêng: đẹp nhưng buồn.

- Biệt tài của Thạch Lam là ở đó - dựng truyện từ những chi tiết tưởng như khó thành truyện.

- Thì ra, cái gánh nặng về cơm áo đâu chỉ đè nặng lên vai người lớn, nó còn len vào tuổi thơ của những
đứa trẻ vốn sinh ra không được biết đến tuổi thơ.

- Nhưng người đọc nhận thấy: đã có biết bao buổi chiều như thế! Sự gặm nhấm của nhịp điệu này đã
nhấn chìm biết bao ước vọng của con người.

- Thiết nghĩ sự xót xa thực sự của thiên truyện này là ở chỗ: những đứa trẻ ngây thơ kia, làm sao lại
phải quen và chịu đựng nỗi buồn sớm đến thế? Nỗi buồn chán ở người lớn khiến ta động lòng trắc ẩn.
Vậy nên, với trẻ thơ khi những gánh nặng buồn chán dồn lên vai chúng quá sớm, ai lại chẳng nhói
lòng?

- Nếu nói truyện của Thạch Lam là thứ truyện giàu chất thơ, thì chi tiết đợi tàu của hai đứa trẻ chính là
điểm đỉnh của chất thơ ấy trong hồn người.

- Nhưng dư âm của khát vọng thì còn vang vọng mãi bởi nó là yếu tố cơ bản để “ Gióng lên cái gì đó
còn ở trong tương lai” như Nguyễn Tuân nhận xét. Trong bóng tối này, có một thứ ánh sáng lạ. Đó
không phải là ánh sáng của đoàn tàu mà chính là ánh sáng được đốt lên từ khát vọng da diết của
những đứa trẻ.
- Cố nhiên, để có những trang văn xúc động đến thế, Thạch Lam phải tạo được một lối đi riêng. Không
nghiêng về những sự kiện, biến cố hay những tình tiết ly kỳ, Thạch Lam chủ trương “Không bắt chước
Tàu, không bắt chước Tây... Cứ việc diễn tả tâm hồn An Nam của chúng ta!”

- Văn Thạch Lam rõ ràng là thứ văn của sự quan sát bên trong: nhìn thấy bản chất của sự vật và miêu
tả nó trong chiều sâu tâm lý.

- Văn Thạch Lam giản dị, tự nhiên, nhưng rất giàu sức gợi.

- Nhưng chắc chắn Thạch Lam đã thành công trong “ hành trình phát hiện những bí mật của tâm hồn
thơ trẻ”, trong việc khắc chạm vẻ đẹp và thân phận của chúng.

* Một số nhận định khác:

-  “Sức hấp dẫn chủ yếu của những trang viết Thạch Lam là ở tâm hồn dân tộc. Cái ngữ điệu nhỏ nhẹ
mà man mác thi vị, những cảm xúc tinh tế của một tâm hồn dễ rung động như cánh bướm non” ( Văn
Tâm)

 “Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng
biết bao tình cảm mến yêu chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước những biến thái của cảnh vật
và lòng người. Văn Thạch Lam trong sáng, giản dị mà sâu sắc”.

Bằng ngòi bút tinh tế, Thạch Lam đã dẫn dắt người đọc đến với phố huyện nghèo dưới bầu trời tĩnh lặng của
buổi chiều buông qua đôi mắt ráo hoảnh của Liên, một đứa trẻ mười bốn tuổi.

Mạch kể của truyện ngắn chậm rãi và nhẹ nhàng đưa độc giả đến với mọi ngóc ngách của phố huyện, câu
chuyện mở đầu bằng tiếng trống thu vang động giữa không trung như một hồi chuông báo hiệu ngày dài đã
tàn, mở ra cuộc sống về đêm ảm đạm.

“Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ
đưa vào.”

Cái buồn của đêm tối dần bao trùm lên mọi cảnh vật, những hoạt động quen thuộc lại sắp diễn ra trước mắt
Liên, khiến trong lòng cô luôn âm ỉ một nỗi buồn mơ hồ không rõ dạng.

“Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi
chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị: Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác
trước cái giờ khắc của ngày tàn.”

Nỗi buồn ấy càng lớn hơn nữa theo sự chuyển biến của thời gian, khi Liên nhìn thấy những con người và
hoạt động mà mình đã quen thuộc từ lâu.

Từ gánh hàng của chị Tí, xe phở của bác Siêu hay đôi vợ chồng đánh đàn bầu hát xẩm, những hình ảnh ấy lại
gợi Liên nhớ về ngày tháng gia đình vẫn còn ở Hà Nội, khi ấy nhà cô vẫn còn khá giả và hai chị em chẳng
thiếu thốn thứ gì.

Giờ đây, những điều đẹp đẽ đã nằm lại với quá khứ, chỉ còn nghèo đói và mệt mỏi bám riết lấy gia đình Liên
và cả những con người bất hạnh xung quanh trong cái phố huyện nghèo này.

“Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ.”
Tuy nhiên, những mảnh đời ấy từ tận sâu trong bóng tối vẫn luôn mong mỏi một điều gì đó sẽ đến và thay
đổi cuộc đời họ, như vầng dương rực rỡ thắp lên đêm đen để cứu họ ra khỏi vũng lầy tuyệt vọng.

Hai đứa trẻ gần như không có cốt truyện, những tình tiết nhỏ đan xen lẫn nhau tạo thành một mạch kể hoàn
chỉnh hàm chứa những tín hiệu thẩm mỹ tuyệt diệu.

Câu chuyện là sự kết hợp hoàn hảo giữa hiện thực và lãng mạn, bóng tối và ánh sáng, tuyệt vọng và hy
vọng, tất cả được dung hòa với nhau để làm nên một áng văn chương hoàn mỹ nhất.

Ánh sáng đến từ tận cùng của bóng tối

Hai đứa trẻ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách viết độc đáo của Thạch Lam, tác phẩm đã truyền tải
đến người đọc rất nhiều cảm xúc trân quý và gợi lên trong tâm tưởng độc giả niềm say mê sâu sắc với câu
chữ thông qua những tín hiệu thẩm mỹ tuyệt diệu.

Ánh sáng và bóng tối là những yếu tố được Thạch Lam đặc tả nhiều nhất, những chi tiết ấy đã mở ra cánh
cửa đến với xứ sở cái đẹp trong văn chương và cũng chính nó gợi lên vô vàn hình ảnh chua xót của hiện thực
cuộc sống.

Chân thực và mờ ảo, ánh sáng xuất hiện trong từng thước phim quay chậm của truyện ngắn, từ ánh chiều tà
nơi bầu trời phía Tây đến ngọn đèn của gánh hàng chị Tí và cả ánh sáng vụt đi trong đêm của chuyến tàu
muộn.

Tuy nhiên, giữa vô vàn màu sắc lung linh hiện trên trang văn thì tâm lồn Liên và An lại là ánh sáng rực rỡ
nhất, ấy là vẻ đẹp của những tấm lòng trẻ thơ đầy ắp tình thương và niềm tin vào cuộc sống được Thạch Lam
gợi lên từ những chi tiết nhỏ nhất.

Ngoài tâm hồn trong trẻo của hai đứa trẻ, ánh sáng nổi bật thứ hai trong tác phẩm là tấm lòng tinh tế của
nhà văn, Thạch Lam bằng tâm hồn sâu sắc và trái tim ấm nóng tình thương đã nhìn thấy được ước mơ từ tận
sâu bên trong của trẻ thơ.Hai đứa trẻ là tác phẩm thăng hoa từ hiện thực cuộc sống

Nhà văn từ những chi tiết bé nhỏ của tác phẩm đã thể hiện rõ khát vọng và nỗ lực hướng đến ánh sáng của
những kiếp người cùng khổ trong bóng tối, ông trân trọng và nâng niu những mơ ước ấy bằng những hình
ảnh và ngôn từ bình dị nhất.

Ít ai biết được, hai đứa trẻ trong tác phẩm cùng tên lại là tấm gương phản chiếu cho hình ảnh của chị em
Thạch Lam thuở bé khi còn ở quê ngoại là phố huyện Cẩm Giang.

Nhà văn là người sống nội tâm và luôn hoài niệm về quá khứ, có lẽ vì vậy mà những nhân vật Liên và An
mới hiện lên trong trang văn một cách chân thực và có hồn như thế, với cách viết mộc mạc và dung dị của
mình, Thạch Lam đã nhận được đánh giá rất cao của giới chuyên môn ở truyện ngắn này.

“Truyện có một hương vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng, đồng thời cũng dóng lên
một cái gì còn ở trong tương lai… Đọc Hai đứa trẻ, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát
và sâu kín.”

– Nhận xét của Nguyễn Tuân về tác phẩm

Những nhân vật trong truyện hiện lên rất đỗi nhẹ nhàng, gợi lên trong tâm tưởng người đọc cảm xúc bình
lặng mà sâu lắng khiến cho hồn người giữa nhiễu nhương của cuộc sống lại tìm thấy được sự thanh tĩnh của
phố quê, dẫu cho điều bình yên ấy hiện diện giữa đói nghèo và cơ cực.

“Sức hấp dẫn chủ yếu của những trang viết Thạch Lam là ở tâm hồn dân tộc. Cái ngữ điệu nhỏ nhẹ mà man
mác thi vị, những cảm xúc tinh tế của một tâm hồn dễ rung động như cánh bướm non”
– Nhận xét của nhà nghiên cứu Văn Tâm về truyện ngắn

Thạch Lam là một vân chữ độc đáo của văn đàn Việt Nam lúc bấy giờ, những tác phẩm của ông, đặc biệt là
truyện ngắn Hai đứa trẻ đã góp phần thêu dệt nên sự rực rỡ của dải lụa văn học nước nhà và tạo ra nhiều con
sóng ngầm trong cảm xúc của độc giả khiến bao thế hệ về sau vẫn mãi luôn khắc ghi phong cách viết của
nhà văn.

Hai đứa trẻ là vì tinh tú trên bầu trời văn học nước nhà, tác phẩm vừa soi sáng hình ảnh của hiện thực đương
thời vừa thắp lên hy vọng cùng sự lạc quan cho độc giả, truyện ngắn là cảm xúc tinh tế được thêu dệt từ tấm
lòng thơm thảo của người nghệ sĩ và luôn ở mãi trong trái tim người đọc.

VI. VỀ NGUYỄN TUÂN và "Chữ người tử tù", "Người lái đò Sông Đà":
1. Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi
thưởng thức.
(Vũ Ngọc Phan)
2. Ðây là một nhà văn "suốt đời đi tìm cái Ðẹp, cái Thật" (Nguyễn Ðình Thi), tự nhận mình là người "sinh ra để thờ
Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa".
3. "Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là
ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa"
(Nguyễn Ðăng Mạnh)
4. Tác phẩm gần đạt đến độ "toàn thiện toàn mỹ" ấy (Vũ Ngọc Phan) góp phần đưa nghệ thuật văn xuôi Việt Nam phát
triển thêm một bước mới trên con đường hiện đại hóa. "Vang bóng một thời" vẽ lại những cái "đẹp xưa" của thời
phong kiến suy tàn, thời có những ông Nghè, ông Cống, ông Tú thích chơi lan chơi cúc, thích đánh bạc bằng thơ hoặc
nhấm nháp chén trà trong sương sớm với tất cả nghi lễ thành kính đến thiêng liêng. [...] "Vang bóng một thời", vì thế, có
thể được xem như một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.
5. Giáo sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận định : "Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong
một chữ ngông. Cái ngông vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những Nguyễn
Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà,... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn ; vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh
hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người
cao đẳng, thuyết hiện sinh...”
6. Ông xứng đáng được mệnh danh là "chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là "người thợ kim hoàn của chữ" (Ý của Tố
Hữu), Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì cái Ðẹp là biểu hiện sinh động của một nhân cách văn hóa lớn.
Nhà văn Nguyễn Tuân "đặc Việt Nam"(chữ dùng của Vũ Ngọ
8. "Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là
ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa." (Nguyễn Ðăng Mạnh)
VIII. VỀ THẠCH LAM và "Hai đứa trẻ":
1. Nguyễn Tuân viết: "Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với
những con người ở tầng lớp dân nghè. Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của
mọi người xung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị mà nhã thú của những tác phẩm có cốt
cách và phẩm thất văn học". (Theo tuyển tập Nguyễn Tuân, tập III, NXB văn học Hà Nội, 1996, trang 375)
X. VỀ VŨ TRỌNG PHỤNG và "Số đỏ”:
1. Lưu Trọng Lư nhận xét về con người Vũ Trọng Phụng: "Trên trang viết Vũ Trọng Phụng sắc sảo bao nhiêu thì trong
cuộc đời VTP càng chân thành bấy nhiêu.Con người ấy không giết quá một con muỗi .Nhưng thật kì diệu,văn chương
của con người ấy làm cho kẻ trọc phú phải giật mình,kẻ trưởng giả phải cáu kỉnh.”
2. Đọc “Số đỏ” nhiều nhà nghiên cứu nhận xét: "Đây là cái bi của người chết ,cái hài của xã hội ,cái vô phúc của gia
đình giàu sang lắm tiền nhiều của nhưng thiếu tình người”
3. Đáp lời báo Ngày nay, Vũ Trọng Phụng có nói: "Các ông muốn cuốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn
có cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là thực sự ở đời (...) Các ông muốn theo tiểu thuyết tuỳ thời, chỉ nói cái
thiên hạ thích nghe, nhât là sự giả dối. Chúng tôi chỉ muốn nói cái gì đúng sự thực, thành ra nguy hiểm, vì sự thực mất
lòng"
4. "Văn chương chỉ là một thứ tiêu khiển nếu nó than mây khốc gió. Tôi quan niệm văn chương là phương tiện đấu
tranh của những người cầm bút muốn loại khỏi xã hội con người những bất công, nhen lên trong lòng người nỗi xót
thương đối với kẻ bị chà đạp lên nhân phẩm, kẻ yêu, kẻ bị đày đoạ vào cảnh ngu tối, kẻ bị bóc lột, mỗi ngày kiếm ra đủ
bữa ăn tối để nhịn sáng hôm sau. Tôi sẽ cố gắng nhìn và nỗi đau của xã hội, may ra tìm được những thuốc khiến những
cái ung đó có thể hàn miệng, lên da."
(Quan niệm của tôi về phóng sự và tiểu thuyết)
5. "Hắc ám, có! Vì tôi vốn là người bi quan, căm hờn cũng có vì tôi cho rằng xã hội nước nhà mà không đáng căm hờn,
mà lại cứ "vui vẻ trẻ trung, trưởng giả, ăn mặc tân thời, khiêu vũ..." như các ông chủ trương thì một là không muốn cải
cách gì xã hội, hai là ích kỷ một cách đáng sỉ nhục"
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
Nêu luận đề “Nguyễn Tuân là người đi tìm cái đẹp”, hoặc “Nguyễn Tuân là người đi tìm cái đẹp và cái thật” là để
nhấn mạnh mỹ cảm  mãnh liệt như đam mê một đời của ông. Tuy nhiên, khi phân tích kỹ hơn, ta có thể thấy rằng, khi
cầm bút, tuy còn có phần chưa thật đầy đủ và sâu sắc, nhưng nhà văn đã thể hiện được trách nhiệm nhất là lương tâm
của người viết.
Chữ người tử tù (Tạp chí Tao đàn  số 1, 1/3/1939) có lúc đã được coi là một ví dụ điển hình của cảm xúc duy mỹ, tập
trung miêu tả cái đẹp của hoa tay – tức cái đẹp thiên về hình thức. Khi đọc kỹ, ta sẽ thấy điều gần như ngược lại. Ở
đây, nhà văn ca ngợi cái đẹp của lòng người. Nổi bật trên tất cả là hai chữ thiên lương. Ý tưởng viết rất rõ.
Qua con mắt “biệt nhỡn” của viên quản ngục, Huấn Cao hiện rõ là thuộc hạng người khí phách: “chọc trời khuấy
nước”, những dòng chữ đẹp “nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Hầu như tất cả đất trời
tôn “một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn tụt xuống phía chân giời không định”. Và mọi âm thanh phức tạp của
cuộc đời như “bay cao lần  lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị, muốn từ biệt vũ trụ”.
Quả là những lời ca ngợi tuyệt vời về sự ra đi của một con người chính nhân quân tử, một chính khách hiệp sĩ. Chúng
ta đều biết – Huấn Cao, đây cũng chính là bóng dáng tượng hình của Cao Bá Quát – một bậc Thánh Văn, và người
hùng tham gia vào khởi nghĩa nông dân, chống lại triều đình đương thời với chính sách hà khắc, gây bất công xã hội
làm con người đau  khổ.
Lời khuyên nhủ như bừng sáng, soi rọi con đường giải thoát cho những tâm hồn còn u mê: “Ở đây lẫn lộn... Ở đây,
khó giữ thiên lương cho lành vững, và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.
Đam mê và sống chết với nghề - đó là nét chung của rất nhiều người chọn nghề viết, chứ không riêng Nguyễn Tuân. Nhưng với
Nguyễn Tuân, đây mới thật là riêng, sáng tạo văn chương phải là một nghề sang trọng. Xem cách Nguyễn Tuân ứng xử với văn
chương, trên từng quyển, từng bài, từng câu, từng chữ, từng dấu chấm dấu phẩy, viết hoa hoặc xuống dòng… mới thấy nghề
văn là công phu như thế nào. Tuyệt không một thô vụng. Tuyệt không một sơ suất hoặc cẩu thả. Bởi khi đã đến với cách nghĩ
văn chương là nghệ thuật ngôn từ thì ngôn từ phải cùng lúc đảm nhận cả hai trọng trách, hoặc một trọng trách kép - thì cũng
thế: một - đó là tinh hoa tiếng Việt của cha ông và hai là bản sắc riêng của cá nhân mình. Một ngôn ngữ rất Việt Nam và rất
Nguyễn Tuân, đó là cái đích cao nhất mà Nguyễn Tuân đã đến được, ngay từ những tác phẩm đầu tay cho đến trang viết cuối
cùng.
Có ý kiến cho rằng, Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa về người sĩ.(Nguyễn Đăng Mạnh)[ai?] Đối với ông, văn chương
trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo.
Nhưng Nguyễn Tuân, xét từ bản chất, không phải là người theo chủ nghĩa hình thức. Tài phải đi đôi với tâm. Ấy là "thiên
lương"[5] trong sạch, là lòng yêu nước thiết tha, là nhân cách cứng cỏi trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục.
Người đọc mến Nguyễn Tuân về tài, nhưng còn trọng ông về nhân cách ấy nữa. Văn Nguyễn Tuân, tuy thế, không phải ai
cũng ưa thích. Vả lại một số bài viết của ông cũng có nhược điểm: mạch văn quá phóng túng theo lối tùy hứng, khó theo
dõi; nhiều đoạn tham phô bày kiến thức và tư liệu khiến người đọc cảm thấy nặng nề...

PHONG CÁCH NGUYỄN TUÂN qua CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ


 Nhà văn Nguyên Ngọc quan niệm : “ Đã là văn chương thì phải đẹp, đẹp là chức năng hàng đầu, là đạo đức của văn
chương “. Nhưng cái đẹp của văn chương cũng như cái đẹp của cuộc sống hằng ngày phong phú và đa dạng nên khi
bàn về cái đẹp của văn chương tiến sĩ Đoàn Cẩm Thi cho rằng : “ Cái đẹp của văn chương chính là cái mang nhiều dấu
ấn của chủ thể sáng tạo, là cái riêng, cái độc đáo”. Thật vậy, văn chương là “ lĩnh vực của cái độc đáo “ nên nó đòi hỏi
người cầm bút phải có nét bút mới mẻ, ngòi bút sáng tạo và một giọng điệu riêng biệt. Chính những dấu ấn sáng tạo
độc đáo đã làm nên cái đẹp của văn chương. Trong lịch sử văn học dân tộc, đặc biệt là giai đoạn từ năm 1900 đến
1945 đã ghi lại nhiều dấu chân của những con người mang trong mình phong cách mới lạ, độc đáo. Nổi bật trong số ấy
phải kể đến nhà văn Nguyễn Tuân - một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Mỗi lời văn của Nguyễn
Tuân “ đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc sắc sảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ “ ( Tạ Tụy). Một
trong những nét bút trác tuyệt ấy là tác phẩm “ Chữ người tử tù “. Nổi bật trong tác phẩm là hình tượng nhân vật Huấn
Cao và cảnh cho chữ - một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.
Nguyễn Tuân ( 1910 - 1987 ) sinh ra trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn. Quê ông ở làng Mọc, phường
Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông học đến cuối bậc Thành Chung ( tương đương cấp trung học cơ sở hiện
nay ) ở Nam Định rồi về Hà Nội viết văn làm báo. Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân tìm đến Cách
mạng, tự nguyện dùng ngòi bút phục vụ hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Từ năm 1948 - 1958 ông giữ chức Tổng
thư ký hội văn nghệ Việt Nam. Nguyễn Tuân là một nhà văn gắn liền với trào lưu văn học lãng mạn. Thực tại cuộc
sống khiến Nguyễn Tuân cảm thấy cô đơn, chán chường, tuyệt vọng, bế tắc, luôn tìm cách thoát li hiện thực bằng
những chuyến đi vô định hay vùi đầu vào cuộc sống truỵ lạc, lãng quên. Thái độ bất hoà với thực tại của Nguyễn
Tuânđược thể hiện qua mấy mảng đề tài
quen thuộc của ông đó là chủ nghĩa xê dịch, lý tưởng hoá quá khứ và đề tài truỵ lạc. “Vang bóng một thời “ là tác
phẩm tiêu biểu cho đề tài lý tưởng hoá quá khứ của Nguyễn Tuân. Có thể nói trong “Vang bóng một thời” Nguyễn
Tuân dường như cố quên đi cái thực tại ông đang sống để say sưa tỉa tót, tô đậm cho những nét đẹp đã phai mờ, những
nét vẽ của những ngày đã qua, một thời đã tàn. Ông đã làm sống dậy những nét đẹp của xã hội xưa từ cách uống trà,
ăn kẹo, đánh bạc bằng thơ. Nguyễn Tuân luôn khao khát đi tìm cái đẹp với một niềm tin bất diệt, cái đẹp bao giờ cũng
có sức cảm hóa đối với cái xấu và cái ác. Đọc “Chữ Người Tử Tù” ta sẽ thấy rõ được điều đó.
“ Chữ người tử tù “ lúc đầu có tên là “ dòng chữ cuối cùng “ in trên tạp chí Tao Đàn năm 1939 sau đó được tuyển in
trong “ Vang bóng một thời “ và đổi tên thành “ Chữ người tử tù “. “ Vang bóng một thời “ in lần đầu vào năm 1940
gồm 11 truyện ngắn, là tác phẩm kết tinh tài năng của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan
nhận xét là “ một văn phẩm đạt gần tới sự toàn thiện, toàn mỹ “. Nhân vật chính trong “ Vang bóng một thời “ phần
lớn là những con người tài hoa, bất đắc chí. Gặp lúc Hán học suy vi, sống giữa buổi “ Tây Tàu nhố nhăng “ những con
người này mặc dù buông xuôi bất lực nhưng vẫn mâu thuẫn sâu sắc với hiện thực. Họ không chịu a dua theo thời,
không chạy theo danh lợi mà cố giữ cái “ thiên lương “ và “ sự trong sạch của tâm hồn “.
Họ dường như cố ý lấy cái tôi tài hoa, ngông nghênh của mình để đối lập với xã hội phàm tục, phô diễn lối sống đẹp,
thanh cao như một thái độ phản ứng trước trật tự xã hội. Trong số những người tài hoa ấy nổi bật lên hình tượng ông
Huấn Cao tài hoa, không chỉ tài hoa mà còn có “ thiên lương “ trong sáng, chí lớn không thành nhưng tư thế vẫn hiên
ngang bất khuất. Một trong những khâu quan trọng nhất của nghệ thuật truyện ngắn là sáng tạo tình huống truyện độc
đáo. Tình huống truyện là tình thế xảy ra trong truyện, tạo cho câu chuyện thêm đặc sắc. Tình huống truyện biểu hiện
mối quan hệ giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa nhân vật với hoàn cảnh sống, qua đó bộc lộ tâm trạng tính cách
suy nghĩ của nhân vật.
Vốn là một nhà văn có chất ngông độc đáo, Nguyễn Tuân đã xây dựng một tình huống truyện đặc sắc, giàu kịch tính
cho hai tuyến nhân vật trong tác phẩm của mình. Hai nhân vật đó là Huấn Cao — người tử tù phạm tội đại nghịch
đang bị giam chờ ngày thụ hình, người tài hoa nổi tiếng viết chữ đẹp và nhân vật viên quản ngục - người quản lí tù
nhân, thi hành pháp luật, duy trì bảo vệ trật tự xã hội phong kiến thối nát đại diện cho triều đình nhưng lại rất yêu cái
đẹp, hâm mộ người tài và có tấm lòng lương thiện. Trên bình diện xã hội, họ hoàn toàn đối lập nhau nhưng họ lại có
cùng điểm chung là say mê cái đẹp tao nhã và đều có tâm hồn thanh khiết, lương thiện, có tấm lòng “ biệt nhỡn liên tài
”. Như vậy, trên bình diện nghệ thuật, họ lại là tri kỉ của nhau. Hoàn cảnh gặp gỡ của họ thật éo le. Đó là nơi tù ngục
tối tăm, nhơ bẩn, nơi người này quản lí người kia.
Tình huống này dẫn đến xung đột dữ dội trong nội tâm của viên quản ngục: làm thế nào để vừa làm tròn phận sự của
một người canh tù lại vừa giữ trọn tấm lòng đối với một người tài hoa mà mình từng quý trọng và ao ước gặp mặt ? Từ
đây nảy sinh nhiều kịch tính. Người tử tù thành người mà viên quản ngục nhờ vả muốn xin chữ, đồng thời lại là người
mở đường hướng thiện cho cuộc sống về sau của viên quản ngục. Chính tình huống độc đáo này đã giúp làm nổi bật
trọn vẹn, tự nhiên vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao và làm sáng tỏ tấm lòng biệt đãi người tài của viên quản
ngục.
Huấn Cao là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Chúng ta đều biết văn học lãng mạn thường miêu tả theo
những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà văn thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn
hảo nhất. Bởi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Nó là biểu hiện cho những gì mà nhà văn mơ
ước, khao khát. Huấn Cao là một nhân vật như thế. Từ đầu đến cuối, ông hiện ra như một con người phi thường. Từ tài
hoa đến thiên lương, từ thiên lương đến khí phách, nhất nhất đều có tầm vóc phi thường. Có thể nói Huấn Cao là một
giấc mơ đầy tính nhân văn của ngòi bút Nguyễn Tuân.
Nhân vật Huấn Cao được xây dựng với bao tâm huyết và ngưỡng mộ của nhà văn. Trước hết Huấn Cao là một người
nghệ sĩ tài hoa.
Thiêntruyện được mở đầu bằng cuộc đối thoại của hai nhân vật quản ngục và thầy thơ lại. Ở đây tuy Huấn Cao hiện
lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông nổi tiếng với cái tài viết chữ đẹp đồn khắp vùng tỉnh Sơn “ Huấn Cao ?
Hay là người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không ? “ “ Huấn Cao ngoài cái tài
viết chữ tốt lại còn có tài bẻ khoá vượt ngục “. “ Thế ra y văn võ đều có tài cả “. Nghệ thuật khắc hoạ tính cách gián
tiếp nên nhận định, đánh giá của quản ngục về tài năng, nhân cách Huấn Cao mang tính khách quan. Huấn Cao được
xem là người nghệ sĩ lớn - người sáng tạo và truyền bá cái đẹp - một nghệ sĩ thư pháp được tôn kính và được xem như
một danh hoạ. Mỗi lần nhà thư pháp hạ bút là một lần sáng tạo, mỗi nét bút là sự gửi gắm, kí thác toàn bộ những tâm
nguyện sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của
người viết. Mỗi con chữ là hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách
Huấn Cao. Nó quý giá không chì vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm, vuông lắm, mà trước hết vì đó là những con
chữ thể hiện khát vọng tung hoành của một đời con người. Chính vì thế mà có được chữ của ông Huấn Cao đã trở
thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục.
Huấn Cao không chỉ là một đấng tài hoa mà còn là một trang anh hùng tuấn kiệt, khí phách hiên ngang, bất khuất.
Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát,
một con người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát trước khi trở
thành lãnh tụ nông dân cũng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu để xây dựng nhân
vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao,
Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối
tàn bạo lúc bấy giờ. Căm ghét xã hội thối nát, ông đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, sự nghiệp không
thành, ông bị khép vào tội phản nghịch và phải chịu án tử hình song ông không hề rung sợ hay hối tiếc. Đối với Huấn
Cao, mọi sự trói buộc, tra khảo, giam cầm đều vô nghĩa. Trước những trò “ tiểu nhân thị oai “ của bọn lính ngục “
Huấn Cao lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gong xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh
một cái “. Hành động ấy bộc lộ sức mạnh phi phàm, làm toát ra tư thế hiên ngang, tinh thần bất khuất, ngạo nghễ trước
lao lung. Hình bóng Huấn Cao trở nên lồng lộng trong thế giới tăm tối chốn ngục tù. Và khi viên quản ngục đến thăm
hỏi : “ Vậy ngài có cần gì thêm xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất “. Huấn Cao khinh bỉ đến điều : “ Ngươi hỏi ta
muốn gì ? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây “. Khi nói ra những lời như vậy có thể Huấn
Cao sẽ phải hứng chịu “ một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục “. Nhưng một
khi đã nói nghĩa là ông không hề run sợ, không hề quy phục trước cường quyền và bạo lực “ bần tiện bất năng di, phú
quý bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất “.
Raxun Gamzatop từng nói : “ Giống như ngọn lửa thần bốc lên từ những cành khô, tài năng bắt nguồn từ những tình
cảm mạnh mẽ của con người “. Thì ra gốc của tài năng là ở trái tim, gốc của cái tài là cái tâm. Như đại thi hào Nguyễn
Du viết trong truyện Kiều : “ Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài “. Nhân cách cao quý là gốc rễ tài năng của Huấn Cao.
Huấn Cao tâm sự : “ Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới
viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”. Ông cho chữ vì tình vì nghĩa chứ
không vì tiền bạc hay uy quyền, cách xử thế này bộc lộ tính cách cương trực, trọng nghĩa, khinh tài, cuộc sống không
hề gợn chút bả công danh. Huấn Cao cũng giống như Nguyễn Bỉnh Khiêm coi vinh hoa phú quý trên đời chỉ là giấc
chiêm bao có rồi lại mất: “ Rượu đến cội cây ta sẽ uống - Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao “. Huấn Cao cũng đồng
tình với quan niệm của Nguyễn Du là không tham danh lợi mà chấp nhận “ vào lòn ra cúi “ người khác. Hơn thế, Huấn
Cao là một người yêu cái đẹp, luôn hướng tới cái đẹp và ông yêu mến luôn cả những người biết quý trọng cái đẹp. Lúc
đầu còn nhầm tưởng, Huấn Cao khinh bỉ quản ngục nhưng khi hiểu được sở thích cao quý của ông ta. Huấn cao rất
trân trọng và cảm động nói : “ Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản lại có những sở thích cao quý như vậy.
Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ “. Một con người sống tung hoành ngang dọc bốn phương “
chọc trời quấy nước “ đến chết chém còn chả sợ thế nhưng ông lại sợ phụ mất một tấm lòng nhỏ bé mà trong sáng của
quản ngục. Vậy cái mà Huấn Cao tôn thờ là thiện tâm, là bản tính tốt đẹp của con người: “ Nhất sinh đề thủ bái hoa
mai “. Lòng yêu quý người hiền càng làm cho tâm hồn của Huấn Cao trong sáng hơn, cao cả hơn.
Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ đó là viên quản ngục. Quản ngục
không phải là một hung thần với đôi bàn tay vấy máu mà là “ một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà mọi
nhạc luật đều xô bồ, hỗn loạn “ là “ cái thuần khiết giữa đống cặn bã” là “ người có tâm điền tốt và thẳng thắn “ nhưng
phải “ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt “.
Nếu như sở thích của những viên quan tầm thường là vàng bạc hư danh, quyền quý an nhàn thì viên quản ngục trong
tác phẩm này thì lại hoàn toàn ngược lại. Ông là một người có những sở thích và sở nguyện cao quý. Sở nguyện của
ông là một ngày kia có một bức tranh chữ của Huấn Cao viết mà treo trong nhà là có một “ vật báu trên đời “. Thiết
nghĩ trên cõi đời này đã có chúa ngục nào có "cái sở nguyện" cao quý như hắn ? Cái sở nguyện yêu chuộng những giá
trị văn hóa truyền thống ấy cho thấy được cái tâm hồn trong trẻo của ông. Mặc dù làm một tên quan cai ngục nhưng
ông không đánh mất đi cái sự lương thiện trong bản thân mình.
Ông không hề phụ thuộc vào triều đình. Khi biết Huấn Cao đến thì ông đã tìm mọi cách để xin chữ của ông dẫu biết
rằng một khi bại lộ ra thì ông sẽ phải rơi đầu. Nỗi "khổ tâm" của hắn là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới
quyền mình mà không dám giáp lại mặt vì quản ngục cảm thấy nhân cách tử tù xa cách ông nhiều quá ! Hơn thế nữa,
hắn càng "khổ tâm" lo lắng, mai mốt đây, Huấn Cao bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ thì ông "ân hận
suốt đời". Ta cảm nhận được ở con người ông những giá trị tôn vinh cái đẹp, tâm hồn ông không bị nhà ngục kia vấy
đen. Trong cái nơi chỉ có sự đánh đập trả thù tra tấn đến dã man ấy mà tâm hồn ông vẫn sáng lấp lánh như một viên
ngọc quý trong đêm. Có biết đến viên quản ngục chúng ta mới có thể hiểu hết được con người chúng ta. Nhiều khi cái
chức vụ hay thân phận kia không quyết định đến lối sống và tâm hồn của họ.
Không chỉ là một người yêu chuộng cái đẹp và có sở nguyện cao quý mà viên quản ngục còn là một người rất trân
trọng những con người tài giỏi như Huấn Cao. Lần đầu gặp Huấn Cao trong cảnh nhận tù, ngục quan có “ lòng kiêng
nể “ “ lại còn có biệt nhỡn đối riêng với Huấn Cao”. Suốt nửa tháng trời, ngục quan bí mật sai thầy thơ lại dâng rượu
và đồ nhắm cho người tử tù Huấn Cao và các đồng chí của ông. Rồi đến một hôm quản ngục đích thân xuống hỏi thăm
tên tù ngục ta lại càng thêm thấy rõ tấm chân tình của hắn dành cho Huấn Cao. Viên quản ngục nhẹ nhàng và khiêm
tốn : “ Đối với những người như ngài phép nước ngặt lắm. Nhưng biết ngài là người có nghĩa khí tôi muốn châm
chước ít nhiều. Miễn là ngài giữ kín cho. Sợ đến tai lính tráng họ biết thì phiền lụy riêng cho tôi nhiều lắm. Vậy ngài
có cần gì thêm xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất “. Thế nhưng trước những lời lẽ kính cẩn , tôn trọng của hắn, Huấn
Cao lại miệt thị nặng lời, gần như xua đuổi : “ Ngươi hỏi ta muốn gì ? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt
chân vào đây “. Trước tình huống ấy, người nắm quyền uy trong tay rất bình tĩnh, không nổi trận lôi đình để trả thù,
không giở trò tiểu nhân thị oai. Ngục quan chỉ lui ra lễ phép với một câu: "Xin lĩnh ý". Và từ hôm ấy, cơm
rượu vẫn đưa đến lại có phần "hậu hơn trước". Tại sao ngục quan lại xử sự như thế? về vị thế, hắn chỉ tự coi mình là
"là kẻ tiểu lại giữ tù", còn Huấn Cao là một anh hùng tài tử "chọc trời quấy nước", nổi danh trong thiên hạ về cái tài
"viết chữ rất nhanh và rất đẹp". Vả lại, quản ngục còn hi vọng chờ cho Huấn Cao "dịu bớt tính nết" để xin chữ. Nếu
được tử tù cho chữ thì hắn ta "mãn nguyện". Qua đó, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật bao phẩm chất của ngục quan: bình
tĩnh, lễ độ, nhẫn nhục, sẵn sàng quỳ gối trước hoa mai. Thật may mắn là Huấn Cao đã kịp hiểu ra tấm lòng “ biệt nhỡn
liên tài “ yêu quý cái đẹp của quản ngục. Và tấm lòng này đã khiến cho Huấn Cao cảm động. Sự cảm động này của
Huấn Cao là cội nguồn dẫn
đến cảnh cho chữ. Ông đã dành đêm cuối cùng của mình tại nhà giam tỉnh Sơn để cho chữ quản ngục. Vậy là việc
Huấn Cao cho chữ không giống như việc trả nợ một cách tầm thường, không giống việc một kẻ sắp bị tử hình đang
đem tài sản cuối cùng cho người sống, cũng không phải là cơ hội cuối cùng để Huấn Cao trình diễn tài năng. Về bản
chất việc cho chữ này là sự xúc động của một tấm lòng trước một tấm lòng. Và Huấn Cao đã dùng tấm lòng mình đáp
lại một tấm lòng.
Cảnh ông Huấn cho chữ trong nhà giam được khắc họa bằng chi tiết gây ấn tượng, cảm hứng mãnh liệt trước cảnh
tượng cho chữ xưa nay khó có đã khiến Nguyễn Tuân say sưa sáng tạo bằng các ngôn từ sắc sảo, bút pháp dựng người,
dựng cảnh đạt tới độ điêu luyện. Và cảnh cho chữ được Nguyễn Tuân gọi đó là cảnh xưa nay chưa từng có. Vì sao
Nguyễn Tuân lại nói đây là một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”? Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì
trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối
chật hẹp, bần thỉu, hôi hám. Chi tiết này cho thấy sự bất diệt của cái đẹp. Cái đẹp tồn tại ở mọi nơi nói như Thạch Lam
“ Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi từng hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng trong mọi vật tầm thường “ và “ công việc
của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chính những chỗ không ai ngờ tới”. Với tác phẩm “ Chữ người tử tù “ Nguyễn
Tuân đã hoàn thành xuất sắc công việc của một nhà văn.
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi
vào cõi bất tử. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang
dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông
vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ mãi còn đó. Đặc biệt ở đây còn diễn
ra một sự đổi ngôi xưa nay chưa từng có. Kẻ cầm quyền hành trong tay thì bị tước hết quyền uy, khúm núm trước
Huấn Cao. Kẻ bị mất cả quyền sống là ông Huấn Cao lại trở nên đầy quyền uy khi chăm chú tô đậm từng nét chữ và
cho quản ngục những lời khuyên. Và quản ngục vái lạy Huấn Cao như vái lạy một bậc thánh nhân: “ Kẻ mê muội này
xin bái lĩnh “. Cảnh cho chữ là sự khẳng định chiến thắng của cái đẹp, của thiên lương trước cái xấu, cái ác. Trong căn
phòng giam ẩm thấp đó, ánh sáng rực rỡ của bó đuốc đã đẩy lùi bóng tối, mùi thơm của chậu mực đã xua đuổi mùi
phân chuột, phân gián, màu trắng của tấm lụa bạch đã xóa tan sự u ám cửa nhà tù. Lúc này cái đẹp đang lên ngôi, cái
đẹp đang đăng quang, lấn át hoàn toàn cái xấu. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không
còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt
ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên
lương và khí phách. Tuy không trực tiếp chống lại triều đình nhưng qua tác phẩm Nguyễn Tuân đã hạ bệ triều đình, đề
cao, ca ngợi, ngưỡng mộ và cho những người chống lại triều đình chiến thắng, cho thấy tấm lòng yêu nước thầm kín
của tác giả.
Đọc chữ người tử tù ta càng thấm thía điều mà Vũ Ngọc Phan đã nói: “ Văn Nguyễn Tuân không phải là thứ văn để
người nông nổi thưởng thức “. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Huấn Cao rất đặc sắc. Hầu như không có chi tiết m nghệ
thuật nào thừa. Tiếng đồn đại, lai lịch, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động... của nhân vật được tác giả lựa chọn rất "đắt" làm
hiện lên một Huấn Cao hiên ngang bất khuất, tài tử tài hoa, quý trọng bằng hữu và trân trọng những tấm lòng biệt
nhỡn liên tài trong Thiên hạ. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán việt rất đắt như : “ pháp trường, tử tù, tử hình,
nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương…” tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng.
Câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn phim quay chậm, tác giả đã “phục chế” cái cổ xưa bằng kỹ thuật
hiện đại như bút pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật.
Nhận xét về Nguyễn Tuân nhà văn, nhà thơ Nguyễn Đình Thi cho rằng : “ Nguyễn Tuân là nghệ sĩ bậc thầy của tiếng
Việt Nam, ông có công trong việc sáng tạo ra cái mới. Sự sáng tạo này là do sự tự học, tự tìm tòi trong chính trường
đời, ngay trong chính nội tâm mình và trong văn hoá dân tộc ta và các dân tộc khác “. Chữ người tử tù có thể coi là
một bằng chứng khẳng định tính xác đáng của ý kiến trên. Qua truyện ngắn “ Chữ người tử tù “ người đọc có thể dễ
dàng thấy được quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân : cái đẹp gắn với cái thiện và cái tài phải đi liền với cái tâm.
Tác phẩm đã kết thúc nhưng vẫn còn đó những nét chữ vuông vắn, tươi tắn của Huấn Cao, hội tụ tài hoa thiên lương
trong sáng. Hai câu văn: "Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ" và "kệ mê muội này xin bái lĩnh" -
đẹp như một bức tranh trong các thư hoạ nghìn xưa lưu lại, cũng là bài học làm người sáng giá.

CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
Ông giữ riêng một ngọn cờ tiểu thuyết mà chính tay ông đã dệt xong”
. Nhà văn Văn Chinh nhận xét: “Một khi hình tượng của nhà văn trở thành chân lý nghệ thuật, thì
sức sống của nó sẽ vang xa vào mọi ngóc ngách của đời sống, chẳng những giúp cắt nghĩa
chuyện đã xa xưa, mà còn giúp phòng ngừa, động chạm tái phát cho cả mai sau.”
Nhưng khác hẳn lối hiện thực phê phán của những người cùng thời như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan hay
Nguyên Hồng - Vũ Trọng Phụng không dùng ngòi bút để chống lại một thành phần, một giai cấp, cũng không trực
tiếp chỉ trích sự mục nát, thối rữa của xã hội Việt Nam dưới ách thống trị thực dân, mà ông mô tả sự tha hoá của con
người trên toàn diện xã hội, dưới chiều sâu, qua nhiều từng lớp, nhiều hạng người, mỗi người có một cách tha hoá
khác nhau trước thế lực của dục vọng và tiền bạc, như lời ông từng nói: "Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết,
tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thật ở đời".

Với giọng văn trào phúng châm biếm đặc trưng, một số người đã so sánh ông như Balzac của Việt Nam, một "kiện
tướng" của các nhà văn tả chân. Ông là người “gặp thời” - thời mà sự thành thị hóa đang xâm nhập, len lỏi vào
những lề thói cũ kỹ của xã hội phong kiến Việt Nam, mà "Số đỏ” - tác phẩm xuất sắc nhất, nổi bật nhất của nhà văn,
đã truyền tải chân thật và trần trụi nhất những kệch cỡm, lố lăng của thời kỳ này.

“Số Đỏ” tập trung đề cập và phê phán tầng lớp tiểu tư sản Hà Thành đầu thế kỉ XX, nhưng cái hay là nhà văn không
đi vào đối tượng chính mà mượn ngay Xuân - cái thằng “lươn lẹo”, lại có thói “trưởng giả học làm sang” - để dựa vào
nó mà đào sâu phê phán sự rởm đời của giới thượng lưu thành thị. Từ những bước tiến đáng kinh ngạc của một
thằng lưu manh đầu đường, câu chuyện đã chuyển hướng nói về “tấn trò đời” của những diễn viên đại tài, những
bậc thượng lưu, tri thức của xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, như bà Phó Đoan - dì của Văn Minh, cụ cố Hồng, cậu
Tú Tân, cô Hoàng Hôn, cô Tuyết, nhà mỹ thuật TYPN, ông đốc tờ Trực Ngôn,… Họ diễn trong cuộc sống, diễn với
những người thân, và diễn cả với chính bản thân mình. Họ nói chuyện với nhau thật văn hoa “một cách liến thoắng,
trôi chảy như nước suối, sốt sắng như những người không thành thực chút nào cả”, mà người nghe thì “tuy chẳng
hiểu cái quái gì, nhưng cũng thấy êm tai, và nhất là sung sướng.” Bấy nhiêu con người góp mặt trong một bức tranh
hết sức chân thật về cuộc sống của lớp thị dân Việt Nam, quay cuồng trong cái công cuộc "cách tân", "âu hóa".

Bằng ngòi bút trào phúng, lối viết ngấu nghiến, nhịp điệu dồn dập, giọng văn phảng phất thái độ khinh miệt, thể hiện
bất đồng quan điểm với hệ thống nhân vật cũng như bối cảnh xã hội đương thời, Số Đỏ lên án gay gắt xã hội tư sản
thành thị Việt Nam đang dần tha hóa, bỏ quên lớp văn hoá trọng đạo truyền thống. Không hổ danh là bậc thầy trong
mảng văn học hiện thực phê phán, từng con chữ đến câu từ dưới bàn tay ma thuật của Vũ Trọng Phụng đều thấm
đẫm cá tính sáng tạo, một thứ ngôn ngữ vừa gai góc, sắc nhọn, lại vừa mỉa mai, chua chát.

Tư tưởng cách mạng đã ăn sâu trong chính bản chất con người Vũ Trọng Phụng, từ cách sống đến cảm và viết đều
hướng về một xã hội tương lai tốt đẹp. Như lời của Giáo sư Phong Lê: “Vượt qua khỏi giới hạn lịch sử, văn phẩm Vũ
Trọng Phụng mang trong nó giá trị thế kỷ bởi sự nhận diện sắc nét gương mặt xã hội; bởi sự soi sáng vấn đề lớn
của dân tộc và số phận nhân dân, trên một hành trình dài hướng tới sự thật, gắn bó với sự thật, không có gì khác
ngoài sự thật, ngoài chân lý nhằm mục tiêu nhân đạo hóa hoàn cảnh và thúc đẩy sự tiến bộ xã hội”.
“Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn
tiểu thuyết thực sự là ở đời… Các ông muốn theo tiểu thuyết tuỳ thời, chỉ nói cái gì thiên hạ thích
nghe nhất là sự giả dối. Chúng tôi chỉ muốn nói cái gì cũng đúng sự thực.” (Vũ Trọng Phụng, Báo
Tương Lai, 25/03/1937).
 “Số Đỏ tập trung cao độ thể hiện sự dị dạng của con người trong một xã hội đang tư sản hóa cuối mùa.”

Số đỏ là một tác phẩm của sự phi lí và mâu thuẫn. Nhưng chỉ có những sự phi lí và mâu thuẫn
đó, Vũ Trọng Phụng mới có đất dụng tài, lấy ngòi viết của mình rồi làm nổi bật lên sự thật của
những điều phi lí đó.

IX. VỀ NAM CAO và "Chí Phèo", "Đời thừa"


1. - “Nam Cao lạnh lùng quá, kéo mép lên mới nở được một nụ cười khó nhọc(…)thật ra mặt anh ta lạnh nhưng lòng
anh ta sôi nổi”
(Nhận xét của nhà văn Tô Hoài)
- "Con người Nam Cao mảnh khảnh, thư sinh, ăn nói ôn tồn nhiều khi đến rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt mà kì thực mang
trong lòng một sự phản kháng mãnh liệt"
(Nguyễn Đình Thi)
- Nam Cao "biến mình thành kẹp chả dưới tay mình, tự đem mình ra quạt dưới than hồng "
(Nguyễn Minh Châu)
- "Nam Cao thường lấy bản thân mình ra để mà kiểm nghiệm"
(Nguyễn Minh Châu)
- "Năm năm cho một sự nghiệp không lẫn với ai, năm năm trung thành với hướng đi không nghiêng ngả... năm năm
cày xới để tự biếm họa, tự khẳng định, để có Nam Cao như hiện nay ta có"
(GS Phong Lê)

-Là nhà văn hiện thực lớn, cũng đã có biết bao nhà phê bình và cũng đã tốn biết bao bút giấy để viết về ông. Nhân đây
giới thiệu với mọi người một vài nhận định về con người này và văn chương của ông.

2. - “Dù viết về đề tài nào, truyện của Nam Cao cũng thể hiện một tư tưởng chung: nổi băn khoăn đến đau đớn trước
thực trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm do cuộc sống đói nghèo đẩy tới” - “Viết về người trí thức tiểu tư sản
nghèo, Nam Cao đã mạnh dạn phân tích và mổ xẻ tất cả, không né tránh như Thạch Lam; không cực đoan, phiến diện
như Vũ Trọng Phụng, cũng không thi vị hóa như Nhất Linh, Khái Hưng, ngòi bút của Nam Cao luôn luôn tỉnh táo đúng
mực”
( Hà Minh Đức)
- “Nam Cao đã mạnh dạn đi theo một lối đi riêng, nghĩa là không đếm xỉa gì đến sở thích của độc giả. Nhưng tài năng
của ông đã đem đến cho văn chương một lối văn mới sâu xa, chua chát và tàn nhẫn, thứ tàn nhẫn của con người biết tin
ở tài năng của mình, thiên chức của mình”
(Hà Minh Đức)
- “Trong các trang truyện của Nam Cao, trang nào cũng có những nhân vật chính hoặc phụ đang đối diện với cái chỗ kiệt
cùng với đời sống con người để rồi từ đó bắt buộc người ta phải bộc lộ mình ra, trước hết là tâm lí, nhân cách rồi tiếp
đến sau cùng là cái nỗi đau khôn nguôi của con người”
(Nguyễn Minh Châu)
-“Trong văn xuôi trước cách mạng, chưa có ai có được ngòi bút sắc sảo, gân guốc soi mói như của Nam Cao”
( Nhà văn Lê Định Kỵ)
bất chấp những điều người ta đã cho là đã được biết trở thành phổ biến trong suy suy nghĩ của hầu hết
mọi người (gọi là định kiến xã hội), Nam Cao vẫn tìm được lối đi riêng cho ông, ông đã phát hiện ra
cái bản chất người sâu xa vẫn khắc khoải dưới lớp vỏ Quỷ dữ của Chí Phèo. Điều đó thực sự cho
chúng ta thêm tin yêu với những con người bị đẩy xuống đáy xã hội và đồng cảm với họ.
Chí Phèo là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân và là một kiệt tác trong nền văn
xuôi trước Cách mạng. Khác với đa số truyện ngắn khác,Chí Phèo vừa phản ánh xã hội nông thôn trên bình
diện đấu tranh giai cấp vừa thể hiện vấn đề con người bi tha hóa. Qua hình tượng Chí Phèo một hình tượng
nông dân lưu manh hóa, Nam Cao không những đã miêu tả sâu sắc, cảm động cuộc sống đày đọa của
 người nông dân bị đè nén bóc lột đến cùng cực, mà còn dõng dạc khẳng định nhân phẩm của họ trong khi bị
xã hội vùi dập đến mất cả hình người, tính người
Nhưng giá trị độc đáo của Chí Phèo không phải chỉ ở đó. Vẽ nên hình ảnh người nông dân lưu manh đầythú
tính, Nam Cao không hề bôi nhọ nông dân mà trái lại, đã đi sâu vào đời sống tâm hồn của nhân vật để
khẳngđịnh nhân phẩm đẹp đẽ của người nông dân ngay trong khi họ bị rạch nát cả bộ mặt người, giết chết
tâm hồn người
“Nam Cao đã không hạ mình xuống bắt chước ai, không nói những cái người ta đã nói, không tả theo cái lối người ta
đã tả. Ông đã dám bước chân vào làng văn với những cạnh sắc của riêng mình. Những cạnh sắc ấy, nếu ông cứ giữ
cho nó sắc mãi thì chúng ta có thể tin ở tương lai văn nghiệp ông. Vườn văn Việt Nam thiếu những bông hoa lạ, thiếu
những nghệ sĩ táo bạo, thiếu những bản thể đặc biệt.” – Trích lời tựa tuyển tập “Đôi lứa xứng đôi”, nhà văn Lê Văn
Trương viết.

Với “Chí Phèo”, Nam Cao không chỉ viết về một cuộc đời bị lưu manh hóa và quá trình cưỡng lại
sự phi nhân hóa đó, mà còn vẽ lại cả một thế hệ, một xã hội với những tầng lớp, những đau khổ
mà người dân Việt Nam phải chịu đựng dưới ách thống trị thực dân, thấu được những điểm mù
lịch sử

Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có
thể chỉ là những tiếng đau khổ kia thốt ra từ những kiếp lầm than.” – Trích “Giăng sáng” (1942) –
Nam Cao.

Một sự thám hiểm thật sự không cần những vùng đất mới mà cần những đôi mắt mới

Nguyễn Đình Thi cho rằng tác phẩm văn học lớn, hấp dẫn người ta bởi cách nhìn nhận một tình cảm mới về những
điều, những việc ai cũng biết cả rồi.

You might also like