You are on page 1of 12

Vợ Chồng A Phủ (Mở Bài + Giới Thiệu + Liên Hệ + Kết Bài)

Mở bài : Mối quan hệ giữa văn học, đời sống và con người phải chăng từ lâu đã được các nghệ sĩ
chân chính thừa nhận và xem nó như lẽ sinh tồn của tác phẩm. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tâm niệm
: “Văn học và đời sống là vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm của nó là con người”. Đúng thật là như vậy,
đời sống của nhân dân được xem là nguồn sinh dưỡng quan trọng nhất của văn học. Song, văn học phải
bắt rễ từ hiện thực trần trụi của đời sống, phải từ cuộc đời của con người mà phản ánh. Với Tô Hoài –
cây bút xuất sắc trong nền văn học hiện đại, những nỗi thống khổ của những số phận ấy đã thôi thúc trái
tim nhà văn, khiến nó rung lên từng nhịp đập để xót thương da diết, đúc kết thành thiên truyện bất hủ
“Vợ chồng A Phủ”. Trong tác phẩm là tất cả sự cảm thương,trân trọng và ngợi ca mà Tô Hoài dành cho
người lao động nghèo Tây Bắc đã được khắchọa thông qua những trang văn miêu tả ... ( vế chính của đề
bài ). Đằng sau ... ( vế chính ), độc giả cảm nhận sâu sắc tư tưởng nhân đạo của nhà văn dành cho Mị ( vế
phụ ). Tất cả tinh túy đó được ngòi bút Tô Hoài chứng cất qua đoạn trích : ... ( trích dẫn đoạn văn )

Giới thiệu tác phẩm : “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm in trong tập truyện Tây
Bắc, tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tiễn cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952. Đây là
chuyến đi dài 8 tháng sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi cao đến những bản
làng mới giải phóng của nhà văn. Tô Hoài đã cùng ăn, cùng ở với những người dân nơi đây, càng thấu
hiểu rõ hơn sự cơ cực và vẻ đẹp tâm hồn của những người dân lao động nghèo nơi đây.

Giới thiệu nhân vật : Là nhân vật trung tâm của đoạn trích lẫn thiên truyện “Vợ chồng A Phủ”,
Mị mang vẻ đẹp “hồng nhan”, hiếu thảo, yêu đời, yêu cuộc sống, có tài thổi sáo nhưng lại phải chịu
quãng đời “bạc phận” dưới ngôi nhà lạnh lẽo của thống lí Pá Tra. Nếu ta bắt gặp một nàng Kiều vì hiếu
bán mình chuộc cha trong những trang thơ của Đại thi hào Nguyễn Du từ 2 thế kỉ trước. Khoảng hai
trăm năm sau, trên miền cao Tây Bắc, ta lại gặp bi kịch tương tự, cũng vì chữ hiếu của cô gái người Mèo
đáng thương. Đó là bi kịch làm con dâu gạt nợ của Mị do món nợ truyền kiếp mà bố, mẹ Mị để lại. Từ khi
mang thân phận ấy, Mị bị nhà thống lí Pá Tra đày đọa về cả thể xác lẫn tinh thần, làm Mị Kiệt quệ “ở cái
buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay.” Để rồi khiến cô ngày ngày trở nên ít
nói hơn, chai lì với cảm xúc “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Tuy nhiên, dường như ẩn sâu trong
tâm hồn cô gái ấy chính là một sức sống tiềm tàng, một sức phản kháng mãnh liệt chỉ chờ đợi một mồi
lửa để có thể trỗi dậy, bùng nổ. Sức sống ấy được Tô Hoài trải dài trên trang văn miêu tả diễn biến, tâm
lý, hành động của nhân vật và ngòi bút trần thuật sắc sảo của nhà văn.

Liên hệ đoạn cái buồng Mị nằm vs Thúy Kiều : Miêu tả cái buồng Mị nằm, ngòi bút Tô Hoài có
dịp bung xả hết thảy những tài năng xây dựng chi tiết nghệ thuật phản ánh hiện thực tăm tối mà thân
phận con dâu gạt nợ như Mị nói riêng và người dân nghèo Tây Bắc nói chung. Tác giả đã làm “ám ảnh”
tâm trí bạn đọc khi miêu tả cái buồng Mị nằm như một ngục thất tinh thần, giam hãm cuộc sống, khóa
chặt tuổi xuân của Mị, điều đó làm ta liên tưởng đến Lầu Ngưng Bích – nơi giam cầm thanh xuân của
Thúy Kiều được đại thi hào Nguyễn Du điêu khắc qua những vần thơ :
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia ”

Tuy đều bị giam cần nhưng Thúy Kiều vẫn được giam hãm trong khoảng không gian rộng rãi, thoáng
đãng thì Mị như bị trói buộc nơi căn buồng ngột ngạt, thiếu ánh sáng. Nó đen tối như chính cuộc đời của
Mị, nó khiến cô gái Mèo đáng thương dần trở nên mất đi ý chí, mất đi hết ý niệm về không gian, thời
gian, khiến cho cô trở nên rã rời, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Chất liệu hiện thực đắng cay đã
được ngòi bút của Tô Hoài vẽ nên đó đã chảy vào tâm hồn người đọc với biết bao xúc cảm đan xen.

Liên hệ đoạn tiếng sáo trong ĐTMX : Khi nhắc đến tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân, đâu đó lại
vọng về trong tâm trí ta những vẫn thơ trong thi phẩm “Tiếng sao của Herman Hesse”:
“Tiếng sáo hắt hiu giãi tỏa với đêm trường

Những bí ẩn sâu xa nơi trần thế

Tháng năm trôi bỗng hiện về lặng lẽ

Tiếng sáo u hoài, lòng lữ khách bâng khuâng”

Có thể nói, tâm hồn con người từ bao đời nay vẫn luôn tìm thấy sự đồng điệu của mìnhvới âm nhạc. Có
lẽ vì lẽ đó mà đối với các đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là dân tộc Mèo ở vùng cao Tây Bắc xa vút
mờ thì âm thanh ấy chính là tiếng lòng của họ. Nhờ có tiếng sáo miên man gọi bạn tình mà tâm hồn Mị
đã thức tỉnh những xúc cảm từ lâu đã dập tắt. Cô gái đáng thương với trái tim đã chai sạn, với một tâm
hồn đã héo úa đã được dịp sống lại trong cảm giác thiết tha bồi hồi. Chi tiết tiếng sáo trong đêm tình
mùa xuân còn là điểm sáng nghệ thuật ẩn chứa tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn Tô Hoài, nócòn
là nghệ thuật “làm nên bụi vàng” (Pauxtopki) cho cả thiên truyện, mang ý nghĩa bước ngoặt lớn, tác
động mạnh mẽ trong tâm trí Mị. Tiếng sáo đã “dìu dắt” tâm hồn Mị băng qua rào chắn thực tại để có
thêm ý chí tự quyết định cho cuộc đời của chính mình.

Liên hệ Mị thắp sáng ngọn đèn: Mị muốn tự tay thắp sáng cho cuộc đời tự do của mình. Thứ
ánh sáng ấy xua tan đi bao đêm tối triền miên, chiếu rọi vào sâu trong tâm khám như đã chết của Mị, để
khao khát hạnh phúc, khao khát tự do tìm đường giải thoát cho Mị khỏi sự trói buộc của cuộc sống thực
tại. Thứ ánh sáng ấy làm tôi nhớ đến ngọn đèn trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam.
Ngọn đèn con dưới ngòi bút của Thạch Lam cũng hiện lên với sức sống yếu ớt, leo lét, chẳng thể đủ sức
xoá tan bóng tối nơi phố huyện tối tân. Nhưng lạ thay ánh đèn ấy tuy nhỏ bé nhưng lại chưa bao giờ tắt,
chưa bao giờ thôi làm một "quầng sáng thân mật" của chị em Liên. Bởi lẽ ánh đèn ấy cũng biểu tượng
cho tỉnh người, cho khát vọng sống của những trái tim khốn khó.

Liên hệ đoạn khát vọng sống của Mị trong ĐTMX : Mị khổ sở, buồn phiền đan xen khi bị chính
chồng mình là A Sử bắt trói đứng vào cột nhà, chỉ vì cô muốn được đi chơi xuân, như bao người bình
thường khác. Ấy vậy mà khát vọng muốn được đi chơi,được sống tiếp trong cô vẫn hiện lên một cách rõ
rệt. Điều đó làm ta liên tưởng đến nhân vật Liên trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch
Lam. Liên là một cô bé hồn nhiên, có tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, luôn hướng về một cuộc sống tươi
đẹp, khao khát ánh sáng, âm thanh rộn rã, luôn chờ đợi chuyến tàu tấp nập xa hoa từ Hà Nội về với một
niềm vui hân hoan. Dù cho hiện thực có bị nhuộm bởi những gam màu trầm buồn đi chăng nữa, cô bé ấy
vẫn tin tưởng và hy vọng. Mị cũng thế, hồn Mị đi theo tiếng sáo, đi về những tháng ngày tươi đẹp,...
(ptich thêm) để quên rằng mình đag bị trói. Cô quên đi thực tại đau đớn và vẫn hướng về tiếng sáo,
những cuộc chơi và bạn bè ngoài kia. Cả Thạch Lam và Tô Hoài đều không tô hồng hóa hiện thừ mà ở họ
có những cái nhìn hiện thực đượm buồn nhưng đầy chất thơ, từ đó để lại cho độc giả bài học quý báu về
cuộc sống : dù cho cuộc đời này có thế nào đi chăng nữa thì chúng ta vẫn phải sống tiếp, hy vọng về một
tương lai tốt đẹp hơn.

Liên hệ đoạn Mị chạy theo A Phủ : Nếu Ngô Tất Tố để chị Dậu chạy theo cái tiền đồ tối đen như
mực, Nam Cao đã đẩy Chí Phèo vào con đường bế tắc, giết Bá Kiến rồi tự sát, thì Tô Hoài đã mở ra cho
nhân vật của mình một hướng đi mới, một kết thúc có hậu, đó chính là con đường Cách mạng. Cảm
hứng nhân đạp của nhà văn đã được bừng sánglên bởi ngọn lửa Cách mạng, những trang viết của nhà
văn luôn thấm đượm niềm tin và hy vọng ở cô gái người Mèo đáng thương, tác giả đã đưa nhân vật đến
với ánh sáng củaCách mạng chứ không để cô lâm vào tình cảnh bế tắc, không biết làm gì như chị Dậu và
Chí Phèo. Rõ ràng, hành động cắt dây cứu và chạy theo A Phủ của Mị đã phản ánh quá trình đấu tranh tự
phát đến tự giác dưới sự cổ vũ mạnh mẽ của nội tại sức sống tiềm tàng. Mị tự giải phóng bản thân mình
khỏi sự ràng buộc của thần quyền và cường quyền, để rồi có thể tự mình quyết định cuộc sống, tìm đến
hạnh phúc. Từ đó, ta lại nhớ đến triết lý của victor Hugo : “Con người ta sinh ra không phải để mang xích
xiềng, con người ta sinh ra để tung cánh trên bầu trời.”

Đánh giá ND + NT : Nhà văn Tô Hoài đã thâm nhập đến từng ngõ ngách trong đáy sâu mê cung tâm
trạng nhân vật Mị để rồi khơi nguồn cho những chuyển biến tích cực trong từng hành động phù hợp với
tâm lý ở cô gái đáng thương này. Suy cho cùng,tâm trạng và hành động của Mị từ trước đến sau khi cắt
dây trói cho A Phủ thoạt nhìn có sự tương phản gay gắt và không thống nhất, nhưng lối rẽ táo bạo đầy
bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của một sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt. Có thể nói, sức
phản kháng ấy như đóm than hồng ngự trị trong tận đáy sâu tâm hồn nhân vật, chỉ chờ tác động của
ngọn gió sự sống thì trỗi dậy nồng nàn, xót xa. Nhờ sức sống ấy, Mị tự thức tỉnh nhanh chóng, giác ngộ
và có thể tự làm chủ cuộc đời của mình sau này. Miêu tả sự trỗi dậy của Mị, nhà văn Tô Hoài đem đến
cho tác phẩm giá trị nhân đạo mới mẻ, vươn xa hơn trước đây. Ngoài ra, đoạn trích còn bộc lộ tài năng
của Tô Hoài trong việc xây dựng khắc họa nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý và
hành động của nhân vật một cách tỉ mỉ, tinh tế, thấm đượm chất thơ. Có những lúc, dòng trần thuật
tưởng chừng như mơ hồ của tiềm thức, những lộn xộn chồng chéo của tâm tư mà nhờ vậy cốt truyện
biến đổi sinh động nhưng vẫn mạch lạc và phù hợp với chủ đề của thiên truyện.Thật vậy “Nghệ thuật
miêu tả tâm lý con người là thước đo tài năng của người nghệ sĩ”.Tô Hoài đã minh chứng cho quan niệm
đó.

Kết bài: Hạ ngòi bút trần thuật sắc sảo, thấm đượm chất thơ trong thiên truyện “Vợ chồng A Phủ” để
rồi nâng tầm sự thành công trong việc miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong (
đề bài ). Nhân vật Mị được nhà văn khắc họa vô cùng tinh tế trong từng cung bậc cảm xúc và lối rẽ bất
ngờ trong từng hành động phù hợp với tâm lý con người để làm nổi bật của vẻ đẹp tiềm tàng, sức sống
mãnh liệt. Điểm đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả tinh tế diễn biến tâm lý nhân vật đã làm đoạn trích
thấm đẫm lòng nhân ái và bừng sáng khát vọng sống tự do, tô đậm tính cách nhân vật Mị, đồng thời
giúp độc giả cảm nhận sâu sắc tư tưởng nhân đạo của văn nhân Tô Hoài ( vế phụ ). Đó là kết tinh từ niềm
xót thương vô hạn của nhà văn dành cho Mị nói riêng và cả nhân dânnghèo nói chung. Ngoài ra ông còn
lên tiếng tố cáo tội ác của giai cấp thống trị cầm quyền, đồng thời trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn
của Mị để rồi mở ra cho cô một hướng đi mới : con đường Cách mạng. Thiên truyện “Vợ chồng A Phủ”
sẽ mãi sống trong lòng người đọc như những lời nhận xét của phó giáo sư – tiến sĩ Phạm Thị Thanh Xuân
:“Văn chương của ông sẽ còn mãi và xanh biếc theo thời gian vì nó lưu giữ cho chúng ta đời sống, những
nhịp đập của lịch sử, nói lên câu chuyện muôn đời của kiếp nhân sinh.”.

Tiếng sáo lần thứ 5,6: Tiếng sáo thứ 5 xuất hiện, không có từ ngữ miêu tả tượng hình hay cảm xúc:
“Tiếng sáo vẫn đưa đi theo những cuộc chơi, những đám chơi." Mị vẫn không hề biết mình bị trói. Mị
đang sống trong thế giới của ảo giác và tưởng tượng mà tiếng sáo vẽ ra. Trong thế giới ấy không có đau
đớn, không có ngục tù, chỉ có tự do, chỉ có những mùa xuân hạnh phúc của tỉnh yêu, chỉ có những âm
thanh bay bổng dìu dặt. Mị mải miết băng lòng mình đi cùng tiếng sáo. Tiếng sáo dẫn cô vượt qua những
ngọn đồi, những đỉnh núi, những bản làng đang bừng nở sắc xuân. Tiếng sáo dẫn cô hòa vào những cuộc
chơi, những đám chơi mà ở đó mùa xuân là bất tận. Mị cứ thế vui sướng và hạnh phúc hòa mình cùng
tiếng sáo mà quên hết thực tại xung quanh. Nhưng ở thời điểm đó cung bậc của tiếng sáo có sự đổi
thay. "Em không yêu, quả pao rơi rồi, em yêu người nào, em bắt pao nào". Tiếng sáo nỉ non, tiếng sáo
trách móc, tiếng sáo giận hờn vì cô đơn lẻ bạn.Vì thế, Mị cần phải thanh minh. Mị cần phải giãi bày. Mị
vẫn đang "1 lòng 1 dạ” thiết tha đồng hành cùng tiếng sáo đây mà. Tiếng sáo kia đừng vội giận Mị mà
bay về triền núi khác. Sự thôi thúc của ý nghĩa, mong ước ấy đã dẫn đến hành động mạnh mẽ: "Mị vùng
bước đi". Câu văn ngắn, chủ ngữ hiện ra chủ động, các động từ sắp xếp tăng tiến thể hiện cái quyết liệt,
sự bứt phá như muốn băng mình đi của nhân vật Mị, dẫn đến sự thức nhận đau đớn về thực tế trần trụi:
Mị đang bị thít chặt bởi những vòng dây trói. Thế giới của mộng mơ khép lại và thực tế hiện ra. Sự đau
đớn về thể xác ra đưa Mị trở về với thực tại "Chân tay đau không cựa được, không nghe tiếng sáo, chỉ
nghe tiếng chân ngựa gỗ vào vách." Mị dân tỉnh, men rượu tan, tiếng sáo cũng biến mất, Mị trở về với
hiện tại phũ phàng, với sợi dây trói đau đớn mà mình đang gánh chịu. Vậy là âm vang của cuộc sống đã
tắt lịm; giai điệu của tình yêu của, hạnh phúc đã bị bóp nghẹt, chỉ còn lại hiện tại. Vậy là Mị lại bước vào
vùng bóng đêm âm u quen thuộc của cô, bước vào tiếp vào thế giới trâu ngựa chứ không còn được sống
trong thế giới lấp lánh của con người. Mị sống trong một sự giằng xé giữa hiện thực và khát vọng, ý thức
làm người với thân phận trâu ngựa. Vậy là Mị đã vùng lên nhưng không thể chiến thắng mà ngược lại cô
còn bị nhân chìm sâu hơn. Hình ảnh những tầng dây trói hay là hình ảnh thế giới tàn bạo vẫn vậy chặt lấy
cô và cô không đủ sức mạnh để phá vây ra. "Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại đau rút từng mảnh
thịt". Cũng có lẽ chưa bao giờ Mị lại chịu đựng nỗi đau đến tột cùng như vậy. Cũng có lẽ vì thế mà từ đây
Mị lại trở về với thế giới cầm lặng và trái tim cô lại một lần nữa tê dại trong đau đớn. Mị trở về với hiện
thực nguội lạnh, ngọn lửa khát vọng vùi sâu vào những hòn than ẩm nông, chờ đợi một ngày "hồi sinh" -
như đêm mùa đông định mệnh sẽ tới. Nhà văn Tô Hoài nhập vào thế giới tâm hồn dân tộc một cách tài
tình. Ngòi bút của ông lĩa sâu vào tận nội tâm thầm kín khi náo nức, khi bâng khuâng, khi tủi hờn, khi
đau khổ của Mị, làm vang lên tiếng nói sâu thẳm tâm hồn nhân vật. Đó là khát vọng sống trong tâm hồn
Mị được khơi lên bằng nhiều cảm xúc và hành động phản kháng với ngục tù. Chính sự tỉ mỉ và tình të ấy
đã làm sáng tỏ vẻ người cầm bút. "Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại
ấy lại là cuộc sống, trường đại học chân chính của những thiên tài. Họ đã biết đời sống xã hội của thời
đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những nỗi lo âu, bực bội, tủi hổ và những ước mong tha thiết
nhất của loài người."

- Cô đã sống cùng tiếng sáo gọi bạn yêu lơ lừng bay ngoài đường. Để rồi kết thúc âm vang ấy đâụ lại
"trong đầu Mi." Nhà văn đã rất tinh tế khi miêu tả sự hồi sinh tâm hồn Mị, quá trình ấy diễn ra chậm rãi
theo từng tiếng động khách quan của cuộc sống giống như như một đồng tro tàn được nhen dần những
đốm lửa. Từ tiếng sáo của cuộc sống, chuyển dân thành tiếng sáo của tâm hồn Mị. Từ tiếng sáo của
ngoại cảnh thành tiếng sao của tâm thức. Và đến khi ấy chúng ta hoàn toàn có thể tin rằng một cô Mị
của ngày xưa đã trở về. Sở dĩ tiếng sáo có sức mạnh kì vĩ, lớn lao đến thế là bởi đây là chiếc cầu nối giữa
hiện tại và quá khứ để Mị bước trên cây cầu ấy, để tìm lại chính mình, tìm lại một có Mi có một thời thổi
sáo giỏi đã gửi gắm trong tiếng sáo những khát vọng đẹp đẽ, đã từng ôm ấp những giấc mộng về tự do,
hạnh phúc, tình yêu. Trong khoảnh khắc này, thế gới ấy ùa về với cô khiến cho trái tim cô không còn chịu
nô lệ của khổ đau, của đè nén áp bức mà đã là một trải tìm tự do. Thân xác Mị vẫn phải ở trong căn nhà
của thống lý nhưng trái tim đã tìm thấy con đường đi của nó đã trở về với cuộc sống. Hành trình trở về
ấy đã được nhà văn miêu tả độc đáo và rất tài hoa, khẳng định được biệt tài của mình trong nghệ thuật
miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật. Khi sự sống tâm hồn đã được hồi sinh thì nguồn sống dào dạt ấy đã
chảy trào trong trái tim Mị để rồi người đọc ngỡ ngàng khi đứng trước một cô Mị hoàn toàn khác. Mị đã
lắng nghe và hòa nhập vào giai điệu của cuộc sống. Mị đã bước ra khỏi thế giới cầm tù Mị để hòa với thế
giới tự do theo cách riêng của có. Lúc này không còn là một "con rùa lùi lũi trong xó cửa", cũng không
còn là hình ảnh một cô Mị thốn thức xao xuyến với men say của cuộc sống. Cha con thống lý Pá Tra
muốn biến cô thành trâu ngựa, nhưng lúc này cô đang vẫy vùng để thoát khỏi kiếp hèn mọn ấy để trở về
với cuộc sống con người. Các nhà nghiên cứu gọi đó là bước đầu nổi loạn của Mị. Đó là một cuộc nổi
loạn tinh thần mạnh mẽ bởi dường như sức sống tâm hồn âm ỉ bấy lâu đã bùng cháy đốt tan tro tàn của
quá khứ, mở đường cho cô đến với thế giới đẹp đẽ.

- Đêm tình mùa xuân rồi sẽ qua đi. Mị lại trở về với vẻ ngoài lặng lẽ vô cảm nhưng nó bảo hiệu cho người
đọc: đã có những thay đổi lớn lao xảy ra trong tâm hồn ấy. Nó hứa hẹn 1 sự bứt phá, nổi loạn trong
tương lai. Nó chờ đợi 1 cơ hội khi sức sống đủ mạnh, khát vọng đủ chín, bản năng sống trỗi dậy. Đêm
tình mùa xuân là 1 trong số những cảnh thể hiện đặc sắc của ngòi bút Tô Hoài. Tác giả đã tả cảnh, tả
phong tục tập quán để tả nội tâm con người. Ngòi bút của nhà văn đã thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với
nhân vật. Ngôn ngữ của tác giả rất giàu chất thơ chất tạo hình và biểu cảm. Các hình ảnh, chỉ tiết vừa
mang nghĩa thực nghĩa biểu tượng, điểm nhìn di chuyển vào bên trong nhân vật, đã tạo ra những dòng
độc thoại nội tâm, những câu văn nửa trực tiếp. Nhờ đó, toàn bộ sự bí ẩn phức tạp của thế giới tâm hồn
con người đã được phơi trải và đồng cảm trên trang văn.

Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình của Tô Hoài:

Tô Hoài đã dùng yếu tố ngoại cảnh để khơi dậy sức sống nội tâm của nhân vật để thông qua đó diễn tả
sự vận động tâm trạng, tâm lí của nhân vật hoàn toàn phù hợp, tịnh tiến với tính cách của nhân vật Mị.
Cách dùng ngôn ngữ của Tô Hoài vừa giản dị, tự nhiên, thể hiện lối tư duy bộc trực, hồn nhiên của người
miền núi. Đoạn văn giàu chất thơ, bút pháp trữ tình; lối trần thuật sinh động, linh hoạt, dùng ngôi thứ ba
để kể nhưng lại đem đến điểm nhìn của chính nhân vật Mị, đồng thời nhập thân vào nhân vật để nói lên
những suy nghĩ bên trong nhân vật

Một số ý cần ghi vào bài


II. Giới thiệu chung

Giới thiệu tác giả (3-4 dòng)

Hoàn cảnh ra đời tác phẩm Giới thiệu nhân vật chính

Giới thiệu yêu cầu của đề thì với câu hỏi phụ của đề thi

•Áp dụng

Nhận định về sự nghiệp văn học của Tô Hoài, nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên có viết: "Ông (Tô Hoài)
ra đi vì tuổi trời nhưng văn chương của ông vẫn còn nguyên giá trị”. Với sức sáng tạo mãnh liệt, Tô Hoài
đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ số ở nhiều thể loại màng đề tài. TÔ HOÀI CŨNG CHÍNH LÀ
NGƯỜI KHAI MỞ LẠI ĐỀ TÀI BỊ LÃNG QUÊN TRONG VĂN HỌC GIAI ĐOẠN TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG
TÁM: SỐ PHẬN VÀ VẺ ĐẸP TÂM HỒN CỦA ĐỒNG BÀO VÙNG CAO.

Năm 1952, ông có chuyến đi thực tế ở Tây Bắc cùng bộ đội vào giải phóng vùng đất này. SỰ GẮN BÓ VỚI
MÀNH ĐẤT VÀ CON NGƯỜI NƠI ĐÂY KHIẾN ÔNG TỪNG THỐT LÊN "Tây Bắc để thương, để nhờ cho tôi
nhiều quá, tôi không thể nào quên". Tập "truyện Tây Bắc" ra đời là kết quả đẹp đề của chuyến đi, “vợ
chồng A Phủ là tác phẩm xuất sắc nhất của tập truyện, là món quà ân tình Tô Hoài gửi lại cho mảnh đất
Rẻo Cao Tây Bắc.
Trong tác phẩm, Mị là nhân vật trung tâm, là linh hồn của truyện ngắn, số phận và sức vươn lên mạnh
mẽ của Mị là vẫn đề trọng tâm được nhà vẫn tập trung bút lực để khắc họa. Đoạn văn được trích nằm
ở... (phần đầu giữa/cuối)

Mị bị chà đạp cả về thể xác lẫn tinh thần (MỊ KHỔ) - trang 6

•Lý do

Nhưng tại bởi Mị là con nhà nghèo, vì món nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ, Mị đã bị A Sử - con trai thống
lý Pá Tra cướp về làm vợ. Sau khi cướp được Mị, A Sử đem về cúng trình ma ngay. HÀNH ĐỘNG CỦA A
SỬ NHANH NHẸN NHƯ QUẢNG MỘT VẬT PHẨM VÀO CÁI HÒM THIÊNG NHỜ THẦN LINH KHÓA CHẶT, A
SỬ ĐÃ TẠO RA HAI GỌNG KÌM CƯỜNG QUYỀN VÀ THÂN QUYỀN ĐỂ BIẾN MỊ TỪ MỘT CÔ GÁI TỰ DO,
HẠNH PHÚC ĐẾN ĐỘ BỊ CHÀ ĐẠP ĐẾN ĐÁY CÙNG CỦA NỖI ĐAU CẢ VỀ THỂ XÁC LẪN TINH THẦN. Đây là
cơ hội để Tô Hoài dựng lên bản cáo trạng tố cáo bọn chúa đất phong kiến vùng cao mà đại diện là cha
con thống lý Pá Tra, dưới ngòi bút của nhà văn hình tượng người nô lệ hiện ra thật chua sót.

Nỗi đau thể xác

Mị vào nhà thống lý, mang danh là con dâu nhưng thực chất là sống đời nô lệ, MỊ PHẢI LÀM VIỆC QUÂN
QUẬT "Tết xong thì lên núi hải thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp
và dù lúc đi hái củi, lúc bụng ngô, lúc nào cũng gải một bó đay trong cảnh tay để tước thành sợi". Nghệ
thuật liệt kê của nhà vẫn cho thấy Mi đã bị nhà thống lý Pá Tra biển thành một công cụ lao động với một
vòng tuần hoàn những công việc lặp đi lặp lại không có phút ngừng nghị, không có hồi kết. Đó là hình
ảnh của một người nô lệ khổ sai. Thân phận của Mị được vì với thần trầu, thân ngựa, thân rùa "MI lùi lùi
như con rùa nuôi trong xó cửa”. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Tô Hoài lại so sánh thân phận Mị với
thân rùa

+ Bởi hình tượng con rủa trong văn học dân gian mang biểu tượng của sự ấp bức đè nén:

"Thương thay thân phận con rùa

Lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia"

Hơn nữa con rùa trong xó cửa lùi lũi gợi ra sự câm lặng, lãng quên. NHƯ VẬY NGHỆ THUẬT SO SÁNH
ĐẶC BIỆT CỦA TÔ HOÀI ĐÃ CỰC TÀ NỖI ĐAU KHỔ CỦA MỊ, Mị sống có khác nào kiếp sống của con vật.

Đau khổ về tinh thần

Không chỉ bị chà đạp về thể xác, Mị còn bị giày vò cả về tinh thần, Tô Hoài tỏ ra đồng cảm với nỗi đau
khổ này khi ông tạo ra một tương phản nghiệt ngã giữa một bên là núi rừng Tây Bắc bắt ngắt, hùng vĩ và
nhà thống lý Pá Tra giàu có với một bên là căn buồng chật chội, kin mit của Mị "Ở cái buồng Mị nằm, kin
mít, có một chiếc cửa số một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không
biết là sương hay là năng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ
chết thì thôi."

+ "Sương" là ban đêm, "nắng" là ban ngày. Vậy mà ở đây, Mị không phân biệt được "là sương hay là
nắng", NGHĨA LÀ MỊ KHÔNG PHÂN BIỆT ĐƯỢC NGÀY HAY ĐÊM, MỊ ĐÃ MẤT HẾT Ý NIỆM NHẬN THỨC VỀ
THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN. Từ đây, ta thấy được tội ác của giai cấp thống trị, nó biến MỊ

• từ một cô gái tự do thành một người đàn bà nô lệ

•từ một cô gái trẻ đẹp tràn đầy khát vọng tình yêu hạnh phúc thành một người đàn bà cầm lặng, quên
lăng.

•từ một cô gái tự do ý thức được thời gian, không gian thành một người đàn bà chôn vùi tuổi xuân và
mất hết ý niệm về thời gian, không gian.

+"Căn buồng" ấy chưa từng đem đến cho Mị một giây phút hạnh phúc nào cả, căn buồng chật chội chỉ
có một lỗ vuông bằng bàn tay, nó là ẩn dụ tuyệt hay CHO MỘT THỨ NGỤC THẤT TINH THẦN. Nó không
phải là căn buồng hạnh phúc mà nó giống như phòng giam giam cầm tuổi thanh xuân của Mị, nó giống
như nhà mồ chôn sống Mị, một cô Mị trẻ đẹp yêu đời không còn nữa, thay vào đó là người đàn bà phó
thác cho số phận "cử chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi." Nhưng đỉnh
điểm nỗi đau của Mị là khi Tô Hoài miêu tả "ở lâu trong cái khổ, MỊ quen khổ rồi.”. CHÍNH THÓI QUEN
NÔ LỆ NÀY ĐÃ TƯỚC ĐOẠT Ở MỊ TẤT CẢ, CÁ PHẢ NĂNG PHẢN KHÁNG VỐN CÓ CỦA CON NGƯỜI, CHO
THẤY MỊ BỊ TÊ LIỆT SỨC SỐNG.

Suy nghĩ đến việc chết lần thứ 2

Khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong Mị đó là "Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc
này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra."

+ Nếu ta đánh giá ở góc độ SỰ SỐNG CHO THỂ XÁC thì đây là một bước thụt lùi tiêu cực,

+ Nếu ta quan sát ở PHƯƠNG DIỆN TINH THẦN, NHÌN Ở SỰ SỐNG ĐÚNG NGHĨA thì đây là một tín hiệu
đáng mừng, là sự thức tỉnh đây tình nhân văn bởi Mị đã nhận thức được tình trạng thê thảm của đời
mình, sống không bằng kiếp trâu ngựa. Muốn ăn nằm lá ngón là chống lại một cuộc sống không ra sống,
xét đến cũng là Mị còn tha thiết với sự sống chân chính.

+ Nhà thơ Văn Cao trong "Chọn" đã từng đúc kết

"Giữa sự sống và cái chết

Tôi chọn sự sống

Để bảo vệ sự sống
Tôi chọn sự chết."

Điều đó ở đây hoàn toàn phù hợp với nhân vật Mị, lâu nay Mị sống được là vì Mị quên mất mình là
người, Mị tường Mị là con trâu con ngựa nhưng nay sức sống trong Mị đã trỗi dậy, Mi muốn sống cuộc
sống thực sự của một con người. MỊ MUỐN ĂN NĂM LÀ NGÓN CHÍNH LÀ ĐỂ BẢO TOÀN CHO PHẦN
NHÃN TÍNH, CHO SỨC SỐNG ĐANG TRÔI DẬY, CHO NÊN MUỐN ĂN NĂM LÁ NGÓN CŨNG CHÍNH LÀ BIỂU
HIỆN CỦA SỨC SỐNG TIỀM TÀNG.

Tác nhân khiến tâm lý và hành động của Mị thay đổi trong đêm giải cứu cho A Phủ (Chuyển ý bằng lý
luận văn học) Đốt-xtôi-ép-xki có viết: "Cái đẹp cứu vớt con người". Xét đến cùng cái đẹp của văn chương
nghệ thuật ĐÓ CHÍNH LÀ CON NGƯỜI VỚI VẺ ĐẸP TÂM HỒN CỦA HỌ. Cho dẫu cuộc đời họ còn đắng cay
túi cực nhưng các nhà văn bằng ngòi bút tài năng và tấm lòng nhân hậu đã khám phá ra được "Hạt ngọc
ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn người" để khơi dậy ở họ khát vọng sống, sức sống mãnh liệt, từ đó đem
đến niềm tin vào sự tốt đẹp cho con người. Tô Hoài ở đây cũng thế, DÂU CHO CUỘC ĐỜI MI CÓ LAY LẬT,
CÓ BỊ CHÀ ĐẠP CẢ VỀ THỂ XÁC LẪN TINH THẦN, thì nhà văn vẫn cứ nhận ra SỨC SỐNG CỦA MI CHỈ TẠM
THỜI BỊ KHUẤT LẤP TÊ LIỆT CHỨ KHÔNG HỀ BỊ HỦY DIỆT. Chỉ cần một cơn gió nhẹ thổi qua thì sẽ bùng
cháy thành ngọn lửa sông nồng nàn.

Tác nhân khiến Mị trỗi dậy sức sống

+ Nêu ở đêm tình mùa xuân, Tô Hoài đã sử dụng tiếng sảo của hạnh phúc, tình yêu, tự do như một thứ
thuốc gọi hồn nhân vật Mị thì nơi đêm đông Rẻo Cao ở Hồng Ngài, nhà văn lại để cho Mị bắt gặp dòng
nước mắt của A Phủ "Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lẻ mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa
mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hồm má đã xám đen lại."

Trong văn học ta đã từng được biết đến giọt nước mắt của nhân vật Hộ trong truyện ngắn "Đời thừa"
của Nam Cao khi ông miêu tả ấn tượng "nhưai đó bóp mạnh một quả chanh", đó là DÒNG NƯỚC MẬT
BIỂU TƯỢNG CHO SỰ XÓT XA, ÂN HẬN CỦA NHÀ VĂN HỘ khi coi tỉnh thường là lẽ sống thì bản thân lại
chà đạp lên lẽ sống tình thương. Hay ta nhớ đến hình ảnh Chí Phèo ôm mặt khóc rưng rức "lần đầu tiên
từ sau khi đi ở tù về Chí đã khóc bằng giọt nước mắt của một con người lương thiện" cho nên người ta
gọi đó là GIỌT NƯỚC MẶT - GIỌT NHÂN TỈNH THÀNH THIỆN CÒN SÓT LẠI TRONG CON QUỶ DỮ CHÍ
PHÈO. Còn ở đây là giọt nước mắt của A Phủ - giọt nước mắt của người đàn ông VÕN TRẦN ĐÂY SỨC
SỐNG, TRỞ THÀNH NIỀM MƠ ƯỚC CỦA NHỮNG CÔ GÁI HMONG, vậy mà đang bất lực, hấp hối chờ
chết, không làm thể nào thay đổi được số phận. Vì vậy GIỌT NƯỚC MẶT NÓNG HỎI CỦA A PHỦ KHÔNG
CHỈ RƠI TRÊN HÔM MÁ ĐÃ XÁM ĐEN LẠI MÀ CÒN RƠI TRÚNG VÀO CÕI LÒNG BẰNG GIẢ CỦA MI, LÀM
TAN DI SỰ LẠNH LẼO VÀ KHI BẰNG TẠN THÌ CẢM XÚC VÀ SỨC SỐNG LẠI ĐƯỢC HỒI SINH. Hay nói như
nhà giáo Đỗ Kim Hồi, giọt nước mật của A Phủ ĐÃ ĐƯA MỊ TỪ "CÔI QUÊN" TRỞ VỀ VỚI "CÔI NHỎ".

Một số chi tiết


.“Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa suốt đêm...Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn
thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”.

Từ một cô gái Mèo xinh đẹp, nhạy cảm với những tiếng sáo, tha thiết cuộc sốngtự do với chiếc váy hoa
xòe giữa đêm xuân Hồng Ngài, Mị dần hóa chai sạn, lạnh lùng, bàng quan. Ta không gọi sự "thản nhiên"
của Mị là nhẫn tâm, mà đúng hơn, nó là trơ lì. Bởi lẽ, sống trong nhà thống lý Pá Tra quá lâu, chứng kiến
quá nhiều oan khiên, tội ác, Mị trở nên lãnh đạm trước mọi diễn biến của đời sống. Lúc này đây, "mấy
đêm" rồi, Mị tìm lửa hơ tay cho ấm, mà lòng lại nguội lạnh như băng. Mị mặc kệ sống chết của A Phủ,
như kệ chính cuộc đời của mình.

“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói... Mị vùng bước đi... Mị thổn thức
nghĩ mình không bằng con ngựa”.

Giữa đoạn văn là một câu văn rất ngắn “Mị vùng bước đi”, như một cái bản lề khép mở hai thế giới, hai
tâm trạng: Thế giới của tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân đang dập dìu ngoài sân, thế giới của tiếng
chân ngựa đạp vách. Nhưng cũng chính tiếng chân ngựa ấy đã kéo Mị về với hiện thực. Cái dây trói kia
chỉ làm đau thể xác. Nhưng tiếng chân ngựa mới thực sự xoáy sâu vào nỗi đau tinh thần của Mị khi nó
gợi lên một sự so sánh thật nghiệt ngã, xót xa: thân người mà không bằng thân trâu ngựa? Tiếng chân
ngựa đá vào vách như một biểu trưng giàu ý nghĩa cho hiện thực và số phận của Mị.

“Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”.

Hành động xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng cho thấy khát vọng mãnh liệt trỗi dậy đã biến ý thức thành
động. Đây là hành động vô cùng ý nghĩa, bởi khi con người ý thức được bóng tối mới có khát vọng vươn
ra ánh sáng. Mị đã không còn chìm đắm trong cuộc sống màu đen, Mị muốn thắp ánh sáng lên cho căn
phòng của mình, thứ ánh sáng ấy cũng giống như ngọn lửa đang cháy âm ỉ trong ý thức của Mị, hứa hẹn
những cuộc giải thoát sắp tới. Có thể nói, hành động Mị thắp đèn là một bước chuyển quan trọng đánh
dấu sự thức tỉnh trong tâm hồn Mị. Cô đang thắp lên ánh sáng của niềm tin, hi vọng về những điều tươi
đẹp sẽ tới.

“Mị đứng lặng trong bóng tối

Khi gỡ được hết dây trói ở người A Phủ, Mị cũng hốt hoảng, Mị đứng lặng trong bóng tối, choàng tỉnh
khỏi sự vô thức và nhận thức rõ hơn ai hết rằng: Ngay lúc này đây, Mị khát khao được sống, được sống
một cuộc đời đáng sống, Mị nhận ra nếu mình ở lại, mình sẽ chết. Câu văn được tách thành một dòng
riêng. Nó như cái bản lề khép lại quãng đời tủi nhục của Mị, đồng thời mở ra một tương lai hạnh phúc.
Nó chứng tỏ tâm trạng vẫn còn lo sợ của Mị.Hành động của Mị vừa có tính tự giác (xuất phát từ động cơ
muốn cứu người), vừa có tính tự phát (không có kế hoạch, tính toán cụ thể), nói cách khác là vì lòng
thương người, thương mình, căm thù bọn chúa đất. Nhưng lòng khao khát sống, khao khát tự do đã trỗi
dậy, đã chiến thắng sự sợ hãi, để Mị tiếp tục băng đi, chạy theo A Phủ. Đây là một câu văn ngắn, thể hiện
dụng công nghệ thuật đầy bản lĩnh và tài năng của Tô Hoài.

“Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay”.
Trong kiến trúc và thiết kế nội thất, cửa sổ thường được ví như “đôi mắt” của tâm hồn. Thế nhưng, “cửa
sổ” trong Vợ chồng A Phủ lại mang một màu sắc khác. Ô cửa - đời người, nói như thế cũng không sai vì ô
cửa ấy gắn chặt với cuộc đời đầy tối tăm, tủi nhục của những người con gái H-Mông trên vùng núi cao
Tây Bắc. “ Chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay”- phương tiện để Mị tiếpxúc với cuộc sống. Nhưng
giờ đây, Mị cũng không còn cảm nhận được ngoài kia là “ sương” hay “ nắng” nữa rồi. Chính sự cô lập
con người với thế giới sống, sự tàn bạo của bọn phong kiến miền núi đã làm cho Mị bị chai sạn về cả thể
xác lẫn tinh thần.

“Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên
tảng trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng
nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

Chỉ với hai câu văn giản dị ấy thôi, bản chất sự vật đã hiện lên khá rõ nét. Câu văn cũng như dài thêm ra
để đọc giả lĩnh hội một cách thấu đáo. Vị trí của Mị xuất hiện đã nói lên tất cả “ ngồi quay sợi bên tảng
đá, cạnh tàu ngựa”. Còn hình ảnh nào đắt hơn chi tiết đó? Con người ngang hàng với những vật vô tri,
thậm chí gắn liền với chúng. Với cái cúi mặt và nét buồn rười rượi chứa đựng nhiều nỗi vất vả, người
đọc như xót xa, cảm thông cho nhân vật nhưng cũng không khỏi tò mò về cuộc đời của người phụ nữ ấy.

– Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mở đầu bằng những giọng văn đượm buồn phác họa chân dung Mị khi
làm dâu nhà thống lí Pá Tra. Lời văn vừa cụ thể, vừa gợi cảm rất ám ảnh. Ai ở xa về, có việc vào nhà
thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa.
Lúc nào cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi, cô ấy là vợ A Sử.– Chân dung Mị là một mảng màu đối
nghịch tương phản gay gắt với khung cảnh thế lực nhà thống lí Pá Tra. Nhà thống lí Pá Tra tấp nập đông
vui bao nhiêu thì Mị cô đơn thui thủi bấy nhiêu. Nhà thống lí Pá Tra giàu có sang trọng bao nhiêu thì Mị
cơ cực bấy nhiêu. Nhà thống lí danh gái, quyền lực bao nhiêu thì Mịkhổ sở bấy nhiêu. Là con dâu nhà
thống lí Pá Tra nhưng vây quanh Mị là một núi công việc nặng nhóc: quay sợ, thái cỏ ngựa, dệt vả, cõng
nước, chẻ củi. Mị lúc nào cũng cúi mặt buổn rười rượi. Mị không muốn hay không được phép ngẩng mặt
lên.

– Đặc tả vẻ mặt cùng chân dung của Mị trong thế đối nghịch với gia cảnh nhà thống lí Pá Tra, Tô Hoài đã
hé mở thân phận bất hạnh, éo lê ngang trái đầy bất hạnh, bi kịch của Mị. Tiếng là con dâu nhà quan
nhưng Mị lại mang thân phận của đứa con ở, kẻ nô lệ, suốt đời chỉ biết cúi mặt, cam chịu.

– Hình bóng của Mị chìm dần vào những vật vô tri, vô giác lẫn vào thân trâu ngựa. Lặng câm ôm nỗi
buồn, nỗi nhục của kiếp nô lệ chung thân phải chăng /Mị cũng đang hóa đá và thân phận của Mị cũng tủi
nhục có khác nào kiếp ngựatrâu.Đối với việc phản ánh hiện thực:

– Từ góc quay rất hẹp, từ một chi tiết của cuộc sống thường nhật, Tô Hoài dã khát quát bức tranh rộng
lớn của Tây Bắc với những gam màu đen tối, đau thương. p nơi đó, lũ chúa đất, thực dân luôn đè đầu
cưỡi cổ, đọa đày cả thể xác và tinh thần của những người lao động nghèo. Dưới ách áp bức tầng tầng
lớp lớp đó, những người nghèo chỉ biết cúi đầu cam chịu nhẫn nhục thân phận đau đớn. Xót thương cho
những thân phận người cùng khổ bao nhiêu nhà văn càng căm phẫn thế lực thống trị bạo tàn bấy nhiêu.
Đoạn văn mở đầu hấp dẫn người đọc bởi lối miêu tả sinh động, cách kết cấu chuyện đảo ngược thời gian
linh hoạt.“Cuộc sống của Mị cứ thể lầm lũi trôi qua ngày này sang tháng khác, những tưởng con người
thật sự của Mị đã chết đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia đang còn một con người, có
khao khát sống đến mãnh liệt. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quên trong đáy sâu của một
tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên.
Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp
tiếng gọi của tình yêu.”

You might also like