You are on page 1of 40

KIẾN THỨC TỔNG QUÁT CÁC TÁC PHẨM VĂN XUÔI

1. VỢ CHỒNG A PHỦ
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt
Nam, là nhà văn có biệt tài nắm bắt rất nhanh nhạy những nét riêng trong phong tục, tập
quán của những miền đất mà ông đã đi qua. Ông có giọng văn kể chuyện hóm hỉnh, rất
có duyên và đầy sức hấp dẫn; có vốn ngôn ngữ bình dân phong phú và sử dụng nó rất
linh hoạt, đắc địa.
- Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc –
tập truyện được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Tập
Truyện Tây Bắc gồm ba truyện: Mường Giơn, viết về dân tộc Thái; Cứu đất cứu mường,
viết về dân tộc Mường; Vợ chồng A Phủ, viết về dân tộc Mèo (Mông) – mỗi truyện có
một dáng vẻ, sức hấp dẫn riêng, nhưng đọng lại lâu bền trong kí ức của nhiều người đọc
là truyện Vợ chồng A Phủ.

Về nàng Mị nơi rẻo cao Tây Bắc


“Quen biết nhiều, từng trải lắm, Tô Hoài đã trở thành một cuốn từ điển sống của nghề
văn. Thời gian sẽ sàng lọc để chọn ra những gì tinh hoa mà Tô Hoài đã viết, làm giàu cho
văn học Việt Nam” - nhà phê bình Vương Trí Nhàn nhận định. Trong những tháng năm
dằng dặc niềm vui và nỗi buồn từ nhân thế nhiễu thương, Tô Hoài đã đến Tây Bắc, đã
hoà mình với cuộc sống của người lao động vùng núi cao để quan sát, lắng nghe và thấu
hiểu những chặng đường mà họ đã đi qua. Có lẽ vì thế mà khi viết về nhân vật Mị trong
truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nhà văn lại dành nhiều tình cảm và tỉ mỉ miêu tả từng diễn
biến tâm lí, từng chuyển biến nội tâm trong hành trình đi tìm tự do của Mị đến như thế.
Truyện ngắn xuất sắc “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài viết về đề tài miền núi Tây Bắc
được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (năm 1953) là một tác phẩm nổi tiếng khác mà mỗi
khi nhắc đến nhà văn, người đọc không thể không nhắc tới. Tác phẩm được giải Nhất về
truyện, ký (đồng hạng với tác phẩm “Đất Nước đứng lên” của nhà văn Nguyên Ngọc) -
giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955. “Vợ chồng A Phủ” cũng được
chuyển thể thành kịch bản điện ảnh.

Mị vốn là cô gái có những phẩm chất tốt đẹp


- Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra:
+ Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo “thổi lá cung hay như thổi
sáo có biết bao nhiêu người mê”
+ Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.+ Hiếu
thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ
thay cho bố.
- Mị là nạn nhân của những áp bức bất công:
+ Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: bị “cúng trình ma” nhà thống lí, làm con dâu gạt
nợ, bị bóc lột sức lao động, “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này
chỉ biết vùi đầu vào công việc” , bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị
trói, ...
+ Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ
ngựa, ... đều cúi mặt “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian “lỗ vuông bằng
bàn tay ...không biết là sương hay nắng”.
+ Mị sống lầm li “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khỏ Mị quen rồi”.

2 lần trỗi dậy của nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”
𝟏. Mị trở thành nô lệ nhà thống lí Pá Tra, bị đọa đày tới mức u uất, vô vọng về cuộc đời
mình:
Trở về nhà ăn lá ngón không thành, Mị quay lại nhà thống lí chấp nhận kiếp sống nô lệ.
Mị đành chôn vùi tuổi thanh xuân, thời con gái đẹp đẽ của mình. Ngày Mị càng không
nói, sống như cái xác không hồn, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Người đọc những
tưởng Mị sẽ chết tàn chết rụi trong căn buồng u tối chỉ có một lỗ cửa vuông bằng bàn tay,
ngày hay đêm chỉ thấy một màu trăng trắng mờ đục không biết là sương hay là nắng,
nhưng tiềm ẩn trong con người yếu đuối ấy vẫn chất chứa một sức sống tiềm tàng, như
hòn than còn hôi hổi dưới lớp tro tàn, chỉ chờ ngọn gió mùa xuân thổi tới…
𝟐. Lần trỗi dậy thứ nhất - Đêm tình xuân trở về đã đánh thức niềm yêu sống và khát vọng
tự do trong Mị:
𝟐.𝟏. Ngoài đầu núi tiếng sáo gọi bạn đi chơi mà lòng Mị thấy bổi hổi bồi hồi. Hòn than bị
vùi lấp dưới lớp tro tàn bấy lâu nay giờ bùng lên ngọn lửa yêu sống và khát khao tự do.
+ Mị nhẩm theo bài hát: “Mày có con trai con gái rồi / Mày đi làm nương/ Ta không có
con trai con gái / Ta đi tìm người yêu”.
+ Mị uống rượu, uống ừng ực từng bát để mong cuốn đi bao nỗi đồi cay đắng ư? Không!
Tiếng sáo và hơi men đã đưa Mị về với quá khứ đẹp đẽ. Mị nhớ lại khi xưa… rồi Mị
buồn bực lại uống… rồi lại thổi sáo bên bếp lửa… rồi lại lịm đi để quên tất cả. Nhưng
thật trớ trêu lòng Mị cứ phơi phới trở lại như bao ngày trước Mị được đi chơi, thổi kèn
thổi sáo, nhảy múa, ném còn cùng đám bạn… Mị thấy mình còn trẻ.
+ Khát vọng bùng lên, Mị muốn đi chơi, bao nhiêu người phụ nữ có chồng còn đi chơi
ngày tết huống chi Mị với A sử chẳng có lòng với nhau. Thật vô lí!
+ Quá khứ đẹp đẽ, hiện tại phũ phàng khiến Mị lại muốn ăn lá ngón mà chết ngay đi để
khỏi phải nghĩ, khỏi bị dằn vặt, khổ đau.
+ Nhưng tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn réo rắt ngoài đường, xoáy sâu vào trái tim đầy thổn
thức của Mị: “Anh ném pao, em không bắt / Em không yêu, quả pao rơi rồi”. Tiếng sáo
như một thứ âm thanh kì lạ len lỏi vào tận sâu thẳm tâm hồn vốn câm lặng của Mị để
khám phá, cứu vớt, thức tỉnh Mị ra khỏi cõi u mê. Tiếng sáo như một ma lực cứ rập rờn,
bay bổng, thôi thúc Mị khao khát được đi chơi, thôi thúc Mị bùng ra thành hành động:
+ Mị xắn thêm mỡ vào đĩa đèn khơi thêm ngọn lửa sáng…
+ Búi lại tóc, với tay lấy cái váy hoa.
+ Chẳng cần biết A sử đã bước vào buồng và hỏi: “Mày muốn đi chơi à?”, trong lòng Mị
chỉ còn tiếng sáo và khát vọng tự do…
=> Tô Hoài cảm nhận thấy ý thức đang sống dậy một cách mãnh liệt trong Mị. Mị nhận
ra mình còn trẻ đẹp, nhận ra thực trạng mất tự do bị đè nén bấy lâu nay, nhận ra quyền
làm người của mình. Tất cả đẩy Mị đến hành động quyết liệt không gì ngăn cản nổi: đi
chơi. Mị muốn thoát ra khỏi cái địa ngục tăm tối để được tự do đón gió xuân, hơi xuân,
tìm lại những ngày đẹp tươi đã mất…
𝟐.𝟐. Sức sống tiềm tàng trong Mị, mặc dù bị chà đạp, hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần:
Đau đớn thay! Khát vọng vừa bùng lên đã bị A sử chặn đứng lại. Sợi dây tàn bạo đã cuốn
chặt Mị vào cây cột trong căn buồng u tối cho tới sáng hôm sau. Nhưng A sử có thể trói
được thể xác, làm sao có thể trói được tinh thần Mị!
+ Hơi rượu nồng nàn nâng tâm hồn, tinh thần Mị bay theo tiếng sáo, mộng du theo tiếng
sáo. “Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”.
+ Mị quên là mình đang bị trói, thân xác đang đau đớn, tê dại “Mị vùng bước đi”. Chi tiết
diễn tả thật quyết liệt lòng ham sống của Mị bất chấp hiện tại bi đát, khổ đau: muốn bước
đi, muốn bay lên thoát khỏi địa ngục này.
+ Bước chân vùng đi đã đánh thức Mị trở lại với hiện tại, sợi dây siết chặt vào da thịt như
dứt ra từng mảng, đau nhức. Mị nhận ra sự thật tàn khốc. Giấc mơ đẹp vụt tan biến, Mị
“thổn thức nghĩ mình không bằng con trâu con ngựa”. Hai biểu tượng của ước mơ, tự do
và thực tại hiện ra trong hai âm thanh đối nghịch: tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng
chân ngựa đạp vào vách khan! Thực tại phũ phàng trở về lấn át, bóp nghẹt trái tim Mị.
Đau đớn, xót xa Mị nhận ra kiếp một con người mà không bằng kiếp vật. “Đời người đàn
bà lấy chồng ở Hồng Ngài một đời chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”, nhưng với
Mị đi theo đuôi con ngựa của chồng cũng chẳng bao giờ được.
+ Suốt đêm hôm ấy, Mị bị trói đứng trong hơi men nồng nàn, trong tiếng sáo tình tứ đầy
ai oán. Nhưng một điều kì lạ sức sống tiềm tàng luôn ẩn chứa trong con ngươi Mị, tiếp
cho Mị một sức mạnh, quên đi nỗi đau thể xác để tâm hồn được bay lên, giải phóng theo
tiếng sáo. Tiếng sáo cứ lặp đi lặp lại như một bài ca về sức sống bất diệt của con người,
Nhà văn diễn tả tâm trạng Mị thật xác thực: “lúc lại nồng nàn tha thiết. Hơi rượu toả.
Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa, Mị lúc mê, lúc tỉnh”… khiến người đọc không khỏi xúc
động, thương cảm cho người phụ nữ bất hạnh.
=> Khép lại khát vọng được đi chơi, được sống tự do trong những đêm tình xuân, Mị lại
rơi vào tình cảnh bi đát còn hơn cả trước đó. Kết cục ấy cũng là lời lên án, tố cáo đốì với
hành động tàn độc của cha con thống lí, đại diện cho giai cấp thống trị ở miền núi đã áp
bức con người tối mức không còn nhân tính.
𝟑. Lần trỗi dậy thứ hai - Trong đêm mùa đông, khi A Phủ bị trói:
+ Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.
+ Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị đồng cảm, cô chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình
trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày
mai người kia sẽ chết, chết đau, ... phải chết”. Tình thương, niềm đồng cảm giữa những
con người cùng cảnh ngộ ấy đã lấn át nỗi sợ và lớn hơn cái chết, nó đã dẫn đến hành
động táo bạo: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ, cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài.
+ Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ.
+ Mị sợ cái chết, sợ nỗi khổ sẽ phải gánh chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm
lối thoát vượt ra khỏi địa ngục trần gian.
=> Đây là hành động tuy tự phát nhưng là kết quả của một quá trình, nó minh chứng sức
sống tiềm tàng, âm ỉ không ngừng trong con người Mị. Nó là một bước ngoặt trong tính
cách và cuộc đời Mị. Ý thức được nỗi khổ của kiếp sống tủi nhục của mình, Mị đã vượt
qua nhà ngục thống lí Pá Tra với biết bao thế lực hà khắc của cường quyền, hủ tục, lễ
giáo phong kiến. Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động
của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.
- Nghệ thuật: Ngôn ngữ đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển
điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.
- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của
những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca
vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.
Những năm tháng kháng chiến anh dũng, hào hùng của dân tộc chính là đề tài thu hút sự
quan tâm của tất cả các tác giả văn học. Tô Hoài không nằm ngoài mạch chảy chung của
thời đại, nhưng cái riêng của ông chính là tìm đến những cái rất mới, rất lạ để phán ảnh
hiện thực cuộc sống. Ngòi bút của ông hướng về những người nông dân miền núi, tìm
kiếm và phát hiện vẻ đẹp của họ. Vợ chồng A Phủ chính là tác phẩm nghệ thuật thành
công nhất, đánh dấu bước chuyển mình của tác giả, thấm đẫm tinh thần nhân đạo và chất
hiện thực sâu sắc.
2. VỢ NHẶT

Tình huống truyện trong “Vợ nhặt”


– Mở bài:
+ Giới thiệu tác giả Kim Lân, tác phẩm “Vợ nhặt”: Kim Lân thuộc hàng những cây bút
truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông là cây bút “một lòng đi về với
đất với người, với thuần hậu nguyên thủy ở nông thôn Việt Nam”.
Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê, lam lũ hồn hậu, chất phác mà
giàu tình yêu thương. “Vợ nhặt” là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông.
+ Giới thiệu vấn đề nghị luận: Trong truyện ngắn vợ nhặt nhà văn Kim Lân đã xây dựng
được một tính huống bất thường để nói lên khát vọng bình thường mà chính đáng của con
người.
– Thân bài:
+ Khái quát truyện “Vợ nhặt”: “Vợ nhặt” được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim
Lân. Tiền thân của truyện vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” (cuốn tiểu thuyết được viết
ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo).
Hoà bình lập lại, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này. “Vợ
nhặt” mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm
nghiệm kỹ lưỡng về nghệ thuật.
Với “Vợ nhặt”, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát
hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kỳ hoàn
cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn
yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Tiêu biểu cho những con người đó là nhân vật
Tràng.
+ Tình huống nghệ thuật bất thường trong truyện ngắn:
~ Tình huống xuất hiện ngay từ nhan đề: Nhan đề ấn tượng sâu sắc, kích thích trí tò mò,
chú ý của người đọc, hé mở tình huống đặc sắc của tác phẩm.
Nhặt là một động từ chỉ những hành động ngẫu nhiên, thờ ơ, không chủ tâm để lấy một
vật gì đó thường là từ dưới đất lên, một vật hoặc quá nhỏ bé nên không ai để ý hoặc
không còn giá trị nên bị người ta vứt bỏ.
Vợ là một phần quan trọng của cuộc đời người đàn ông, lấy vợ là một trong những việc
lớn của đời người, một việc thường được thực hiện theo phong tục truyền thống của
người Việt với các bước mai mối, dạm hỏi, cưới xin… trang trọng.
Nhưng với từ nhặt làm định ngữ vợ nhặt đã khiến người đọc phần nào suy đoán được giá
trị của người vợ khi được nhặt về chẳng khác nào cỏ rác; cũng đồng thời hình dung được
tình cảnh của người chồng khi một việc lớn lao, trọng đại của đời người lại được thực
hiện bởi một hành động ngẫu nhiên, thờ ơ và không chủ tâm như vậy.
Tóm lại, nhan đề hàm chứa sự mâu thuẫn, éo le đã góp phần thể hiện những giá trị hiện
thực và nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm, giúp nhà văn phản ánh tình cảnh thê thảm và thân
phận tủi nhục của những người nông dân nghèo trong nạn đói năm 1945.
~ Tình huống được tạo dựng trên cơ sở những mâu thuẫn, trớ trêu được đẩy đến tận cùng
giới hạn. Sự trớ trêu đầu tiên xuất hiện ở nhân vật Tràng – chủ thể của hành động nhặt
vợ.
Tràng là người mà ngay trong hoàn cảnh bình thường cũng ít có khả năng lấy được vợ –
hắn là dân ngụ cư với địa vị lép vế trong làng xã, lại nghèo khổ, xấu xí, thô kệch và hơi
dở tính. Vậy mà Tràng lại lấy được vợ, thậm chí chóng vánh, dễ dàng đến mức chính hắn
cũng không tin nổi. Sự trớ trêu thứ hai đặt ra ở hoàn cảnh nhặt vợ của Tràng.
Hôn nhân là biểu tượng của cuộc sống gia đình, của sự sinh con đẻ cái, của sự sống. Vậy
mà việc nhặt vợ của Tràng lại diễn ra vào thời điểm khủng khiếp nhất của nạn đói Ất
Dậu, khi xóm ngụ cư của Tràng bao trùm không khí chết chóc lạnh lẽo.
Tình huống éo le đã được tạo ra bởi sự đối đầu khốc liệt giữa sự sống và cái chết, giữa
hạnh phúc và đau khổ, giữa hy vọng và tuyệt vọng, giữa ấm áp của tình người với lạnh
lẽo thê lương của chết chóc…
Tình huống trớ trêu ấy đã gây ngạc nhiên cho tất cả mọi người dân: xóm ngụ cư thì thầm
phỏng đoán, bà cụ Tứ không tin nổi vào mắt và tai mình; và ngay cả Tràng cũng ngờ ngợ,
bàng hoàng như đang trong một giấc mơ.
+ Giá trị của tình huống:
~ Khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn và góp phần thúc đẩy cốt truyện phát triển.
~ Giúp nhà văn phản ánh chân thực bức tranh hiện thực của làng quê: cảnh xóm ngụ cư
ngập tràn âm khí là hình ảnh thu nhỏ của xã hội Việt Nam trong nạn đói 1945.
Bề sâu của hiện thực là cái đói khiến giá trị của con người trở nên rẻ rúng, những điều
đẹp đẽ thiêng liêng như hạnh phúc gia đình – một đám cưới trở nên bi hài, chua chát.
Đói khát khiến con người thay đổi và bị hủy hoại từ hình hài đến nhân cách, con người
không được sống cho ra con người. Tràng và thị nên vợ nên chồng chỉ bằng một câu hò
vu vơ và bốn bát bánh đúc
~ Giá trị của tình huống truyện đặc biệt đã thể hiện những nét sâu đậm nhất của tư tưởng
nhân đạo trong việc khẳng định, ngợi ca, trân trọng những khát vọng bình thường mà
chính đáng của con người. Điều này được bộc lộ được vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật
qua diễn biến tâm trạng và hành động của họ trước việc Tràng nhặt vợ:
* Tình huống truyện đã cho thấy cái đói và cái chết không làm con người ta mất đi lòng
nhân ái: thể hiện trong việc nhặt vợ của Tràng – chia sẻ miếng ăn với người xa lạ, đói
khát; trong cách Tràng đối xử và suy nghĩ về người phụ nữ đi theo mình đầy yêu thương
không hề rẻ rúng.
Đặc biệt là sự ứng xử và nỗi niềm của bà cụ Tứ với người con dâu. Chấp nhận người đàn
bà xa lạ, coi là dâu là con, lo lắng, yêu thương, chia sẻ với người khác trong hoàn cảnh
khốn cùng là biểu hiện cao nhất của tinh thần lá lành đùm lá rách.
* Tình huống truyện giúp người đọc nhận ra khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của
con người không bị mất đi mà mãnh liệt hơn bao giờ hết: Tràng quyết định nhặt vợ sau
một thoáng phân vân do dự, cảm giác mới mẻ hạnh phúc, trạng thái êm ái lửng lơ trong
lòng Tràng sau khi có được vợ.
Khuôn mặt rạng rỡ chung vui của người dân xóm ngụ cư. Nét mặt nhẹ nhõm, tươi tỉnh
của bà cụ Tứ. Thị theo Tràng về nhà lúc đầu vì miếng ăn nhưng khi biết gia cảnh thực sự
của Tràng, thị đã không hề chạy trốn mà ở lại và mang lại sinh khí cho gia đình đó, bản
thân thị cũng trở lại hình ảnh một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, vợ hiền dâu thảo…
Tất cả là biểu hiện rõ nhất của niềm khát khao hạnh phúc mang tính bản năng, thường
trực bị khuất lấp bởi cái đói đã xuất hiện một cách đầy bất ngờ. Chính khát vọng hạnh
phúc lại mang đến cho họ sức mạnh vượt lên trên cái đói và cái chết.
* Tình huống truyện đã khẳng định đói, khát không làm con người mất đi hi vọng vào
một tương lai tươi sáng, tốt đẹp: Những câu nói đầy lạc quan của bà cụ Tứ với đôi vợ
chồng trẻ; Tràng mua hai hào dầu thắp sáng gian nhà trong đêm tân hôn nhưng cũng là
sua tan bóng tối ngập đầy trong truyện ngắn; cảnh thu dọn nhà cửa vào sáng hôm sau…
là những chi tiết cho thấy những người lao động đói khổ không bao giờ bị quan tuyệt
vọng mà tràn đầy lạc quan tin tưởng để sống và yêu thương.
* Đặc biệt, hình ảnh là cờ bay phấp phới trong tâm trí Tràng ở cuối truyện đã khẳng định
chắc chắn những khát vọng bình thường mà chính đáng của con người trong tình huống
bất thường không hão huyền, viển vông, là tín hiểu chắc chắn đã và sẽ hiện hữu.
+ Khái quát lại: Khẳng định ý kiến đã chỉ rõ những ý nghĩa sâu sắc của tình huống
truyện.
– Kết bài:
“Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực,
nhân đạo; là bài ca về khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc ở những người nghèo khổ,
ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người.
Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ
mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn
truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lý tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm
động và hấp dẫn.

Nhân vật Tràng:


* Lai lịch, ngoại hình:
– Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng
như lưng gấu. Hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra,
rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ
vừa lý thú vừa dữ tợn…
– Tính khí lại thất thường: Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con đường
khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào bên trong bến. Hắn có cái
tật vừa đi vừa tủm tỉm cười. Nhiều lúc, hắn cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch.
* Tràng là người dân lao động nghèo, “nhặt” được vợ trong thời buổi đói khát:
– Bản thân anh là dân ngụ cư, bị khinh khi và coi thường.
– Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà xiêu vẹo trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn
những búi cỏ dại.
– Hoàn cảnh xuất thân: khó lấy được vợ.
– Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên “nhặt” được
vợ.Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thât chóng vánh chỉ qua
hai lần gặp mà chỉ gặp ở đường và chợ để rồi “nên vợ, nên chồng”:
+ Lần gặp thứ nhất : Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt
“Muốn….”. Không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích
lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến
như thế.
+ Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ: Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá,
trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời đáp “ăn gì
thì ăn, chả ăn giầu” Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối cảnh mà người ta
lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng vực thẳm của cái chết hành động mà Tràng
đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một người khá tốt bụng và cởi mở. Chính
sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng hạnh phúc, Tràng nói đùa với thị
“Này … rồi cùng về”, nhưng thị đã theo Tràng về thật. Khi quyết định “đèo bòng” Tràng
cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ”
* Niềm hạnh phúc của Tràng khi có vợ :
– Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư : tâm trạng của anh hôm nay phớn phở, cười tủm
tỉm, hai con mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò và ngạc nhiên của
người dân trong xóm, trước những lời xì xào bàn tán của người dân trong xóm, Tràng rất
hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người Tràng đã có vợ.
– Tràng khi đưa vợ về đến nhà : Hành động: xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu nói
“Không có người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông ăn nói
cục cằn kia bỗng văn hóa hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt và thắc mắc
với lòng mình “Quái, sao nó lại buồn thế nhỉ?” Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để còn
ra mắt cô vợ nhặt.Khi mẹ về, sau lời giới thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo lắng đợi chờ câu
trả lời của mẹ, và chỉ khi người mẹ nói “Các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng
mừng lòng” Tràng mới thở đánh phào một cái.
– Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ.
Có rất nhiều lần Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát khao
hạnh phúc, khát khao mái ấm gia đình để thách thức với cái đói đang tung lưới bủa vây.
* Tâm tặng của Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau :
+ Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”.
+ Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước
sạch sẽ; mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong;
hai cái ang nước vẫn để khô cong dưới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp. Rõ ràng
những cảnh tượng rất đỗi bình thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động, hạnh phúc với
anh thật giản dị.
+ Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi
nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng.
+ Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm – đó là một người đàn bà hiền
hậu, đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.
+ Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình.
Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một
nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người,
hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Nguồn vui ấy như tia nắng,
như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của
cái đói tung lưới bủa vây.
+ Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn
ngập sự đầm ấm, hoà hợp.
– Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi
trên đê Sộp, gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về sự
vùng dậy của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành lại
sự sống cho bản thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác phẩm
đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống hi vọng mãnh liệt
vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta.
⇒ Tràng là một người lao động nghèo, tốt bụng và cởi mở (giữa lúc đói anh sẵn lòng đãi
người đàn bà xa lạ), luôn khát khao hạnh phúc và có ý thức xây dựng hạnh phúc.

Thị – người vợ “nhặt”:


+ Là nạn nhân của nạn đói. Cái tên cũng không có, ngoại hình tiều tụy, xác xơ vì đói
“hôm nay thị rách quá…con mắt”. Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho
nhân vật này xuất hiện là một không gian tối sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người
khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Chị không có tên, không
tuổi tác, không cha mẹ, không gia đình… môt con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên
lá số tử vi của chị. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả.
– Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình và
tính cách của chị:
+ Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn
đấy! “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy”
+ Lần gặp thứ 2: chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy… Thị cong cớn trong
lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh… cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh
đúc… ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: “Hà ngon! Về chị thấy hụt tiền thì bỏ
bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát vọng về hạnh phúc và sự
sống.
– Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ nữ
không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức hủy hoại khủng khiếp của
cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong
cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi cả sĩ
diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo không một người đàn ông về làm vợ trong
khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân, đánh liều với
hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy của thị,
người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt.
– Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên trong
mà Kim Lân chú ý nhiều đến hành động. Sâu thẳm trong thị vẫn khao khát một mái ấm
gia đình và niềm tin ở tương lai:
+ Thị bước sau Tràng chừng 3 – 4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa
mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân,
cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận
+ Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp
nhận bước vào cuộc đời của Tràng.
+ Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng
thương.
– Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia
đình thực sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ trong
gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đanh đá bỗng
trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh làm
thay đổi một con người.
– Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân:
+ Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Nạn đói
do chúng gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ
đồ rẻ rúng có thể nhặt được
+ Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên
cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc đời không
thể chịu được nữa. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau
vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.
⇒ Người vợ nhặt là nạn nhân của nạn đói. Những xô đẩy dữ dội của hoàn cảnh đã khiến
“thị” chao chát, thô tục và chấp nhận làm “vợ nhặt”. Sâu thẳm trong con người này vẫn
khao khát một mái ấm. “Thị” là một người hoàn toàn khác khi trở thành người vợ trong
gia đình.

Nhân vật bà cụ Tứ:


– Nhà văn Kim Lân tâm sự: “ Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện ngắn
Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ- mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật về bản chất nhân
đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân thể hiện
thành công qua diến biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy chị vợ nhặt xuất
hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau.
– Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ
ngõ vào nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu, nhất
định là phải chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng bà đang
phấp phỏng. Rồi “đứng sững lại” khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường
con trai bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm
giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải. Nhưng thực sự mắt bà
không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà
chưa thể tin, không thể tin rằng con mình lại có người theo và lại chưa bao giờ hình dung
nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế.
– Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là
cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không chỉ
biết sự việc “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi mà bà
còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của con trai
mình.
– Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ gả chồng cho con
những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì…”. Bà lão chua chát, tự trách bản thân mình,
càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão đã khóc, những giọt
nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào lòng
người đọc biết bao thương xót, tủi buồn. Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng
tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của
người cùng giới, cùng là phụ nữ. Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ
thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của bà như trút đi
biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết
cho giá trị của cô vợ nhặt.
– Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau
ở đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình người quả
thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng
hơn khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà
động viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ trước mắt mà
lòng đầy thương xót.
– Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về
với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo
không phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người mẹ
ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ về
cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu,
thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng.
– Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về
một tương lai tươi sáng phía trước:
+ Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy
những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời
sẽ có cơ khấm khá.
+ Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối thái
rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán
– Ăn cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con – những
nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại.
+ Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau.
Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem.
Câu chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung mười cái trứng.
Cũng giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà
niềm lạc quan, niềm tin và hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay
cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất “Chớ than phận khó ai ơi. Còn da lông mọc, còn chồi
nảy cây”.
– Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng
trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả
hơi thở dài trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất
này không chắc đã sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc, tình thương con
lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.
– Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ – người mẹ
thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay
đón nhận người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng
các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.
⇒ Bà cụ tứ là một người mẹ nghèo khổ, rất mực thương con, một người phụ nữ Việt
Nam nhân hậu, bao dung và giàu lòng vị tha, một con người lạc quan, có niềm tin vào
tương lai, hạnh phúc tươi sáng. Bà đã thắp sáng niềm tin vào tương lai cho con và dâu
của mình.
⇒ Ba nhân vật có niềm khát khao sống và hạnh phúc, niềm tin, hy vọng vào tương lai
tươi sáng ở cả những thời khắc khó khăn nhất, ranh giới mong manh giữa sự sống và cái
chết. Qua các nhân vật, nhà văn muốn thể hiện tư tưởng: “dù kề bên cái đói, cái chết,
người ta vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hy
vọng ở tương lai”
3. Ý NGHĨA NHỮNG CHI TIẾT QUAN TRỌNG QUA 2 TÁC PHẨM

1. Chi tiết “Nắm lá ngón” trong “Vợ chồng A Phủ” - Tô Hoài


Tô Hoài là một trong những nhà văn ưu tú của văn đàn Việt Nam. Có lẽ do sự trải
nghiệm và dồi dào vốn sống mà ông có thể viết nên những trang văn hay dù chỉ mới học
hết bậc tiểu học. Nhưng tác phẩm của ông thường là truyện ngắn và bút kí viết về thiên
nhiên và đời sống thôn quê. Năm 1952, trong chuyến đi dài tám tháng sống cùng đồng
bào Tây Bắc, Tô Hoài đã cho ra tập truyện “Tây Bắc”, đặc sắc với tác phẩm “Vợ chồng
A Phủ” để rồi từ đó, hình tượng “lá ngón”trở thành một trong những chi tiết nghệ thuật
đặc trưng, mang nhiều tầng ý nghĩa và để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm tưởng độc giả
Việt Nam.
Cũng như nhãn tự trong một bài thơ, chi tiết nghệ thuật có vị trí nghệ thuật vô cùng quan
trọng đối với tác phẩm văn xuôi, nó có thể thâu tóm linh hồn của tác phẩm. Và dù thời
gian trôi qua, tác giả không còn nữa thì khi nhắc đến chi tiết nghệ thuật liền nhớ lại nội
dung tác phẩm. Điều đó kể như không bỏ công người nằm xuống. Truyện ngắn “Vợ
chồng A Phủ” được sáng tác khi Tô Hoài tham gia kháng chiến, căn cứ hoạt động ở miền
cao Tây Bắc. Câu chuyện là cuộc đời tủi nhục của Mị và A Phủ - hai mảnh đời có số
phận bất hạnh gần như nhau, đại diện cho những kiếp đời lầm than dưới ách thống trị tàn
ác của bọn thực dân phong kiến. Họ gặp nhau, tự giải thoát và tìm đến Cách mạng như
một lẽ hiển nhiên, biểu trưng cho con đường tìm đến Cách mạng, tìm đến giải phóng và
tự do của đồng bào miền cao Tây Bắc. Hình ảnh “lá ngón” xuất hiện ba lần trong tác
phẩm và chỉ gắn liền với nhân vật Mị - người con gái miền cao lương thiện, xinh đẹp, tài
hoa nhưng cuộc đời nhiều bất hạnh. Mị xuất hiện với hình ảnh mở đầu u ám: “Ai ở xa
về...có một cô con gái. Lúc nào cũng vậy,...mặt buồn rười rượi”. Đó cũng chính là phong
cách của Tô Hoài: Đi thẳng vào vấn đề, nêu ngay nhân vật. Sự xuất hiện ủ dột báo hiệu
một thực tại không tươi sáng. Sự hiện diện song song giữa “cô gái – tàu ngựa – tảng đá”
cho thấy sự ngang tầm giữa các chủ thể: “người và súc vật, súc vật và vô tri”. Hay đó
cũng chính là ngầm ý của tác giả muốn nói đến cái xã hội đương thời. Cái thực tại xám
xịt này là hệ luỵ của chế độ thực dân phong kiến thối tha, là kết cục bi thương của con
người lành tính. Mị - một cô gái miền cao đang tràn bung sức trẻ - ngay trong đêm tình
hội xuân nồng nàn thì cuộc đời màu hồng chấm dứt.

Cô bị trói gô như súc nô, bắt về nhà thống lí Pá Tra “cũng trình ma” như một món hàng.
Người ta làm gì cuộc đời cô, thực sự lúc đó cô không biết, mãi cho đến lúc A Sử đứng
trước mặt bố cô tuyên bố đã cúng trình ma, thôi thì cô đã là người nhà thống lí mất rồi!
Một cú đánh ngã tự do, một cái roi thật sự thẳng. Mị đi từ cuộc đời đẹp như trong tranh
xuống hố sâu của địa ngục – nơi mà kẻ khác sống bằng âm thanh của tiếng than và hít thở
mùi máu, mà mỗi bước đi là một nỗi tủi nhục đến tột cùng. Mị sống không bằng chết,
sống như một xác người trong kiếp cầm súc và rồi “có áp bức có đấu tranh”. Cô tìm về
cha già, tay cầm nắm lá ngón. “Lá ngón” xuất hiện lần đầu tiên như một lối thoát đen.
Đây là lối thoát ngắn và hữu hiệu nhất. Nhưng lại là lối thoát cho những ai muốn chấm
dứt hiện tại nghiệt ngã chứ không phải lối thoát cho người muốn sang trang mới. Rõ ràng,
đây là sự phản kháng quyết liệt nhưng vô vọng – một hình thức phản kháng bị động. Và
sự xuất hiện của “lá ngón” lúc này mang tầm ý nghĩa tố cáo cao độ: Sự dã man của xã hội
ép buộc con người lương thiện đi tìm cái chết. Nó – lá ngón, cũng là hiện thân cho nỗi
thống khổ của nhân dân, cho những tích tụ đắng cay, đầy đau đớn và uất hận. Cô ném
phịch xuống đất nắm lá ngón mình tự tìm hái trong rừng như một sự chuẩn bị sẵn sàng
trước đó, ném trong nước mắt. Tự mình tìm đến lá ngón – độc dược của rừng xanh – đã
là sự can đảm của người con gái. Nhưng ném đi độc dược để tiếp tục sống khổ lại càng
can đảm hơn. Đối với Mị, thà chết đi hơn sống nhục, nhưng rồi lại thà sống nhục còn hơn
bất hiếu. Chính chữ hiếu là bản lĩnh cao đẹp nơi người con gái trẻ. Đây cũng chính là
nguyên nhân cốt yếu cho sự can đảm bán mình chuộc cha của Vương Thuý Kiều trong
“Đoạn trường tân thanh” của đại thi hào Nguyễn Du. Cả hai người con gái tài năng, sắc
diện và nhân phẩm tuyệt vời, điều đó kết cục chung vì chế độ xấu xa mục rữa, những
thiên hương vô phúc sinh nhầm thời, những cánh hoa trôi dạt trong bão dữ. “Lá ngón”
như vậy, đã mang một tầng ý nghĩa nhân sinh tuy bản thân tượng trưng cho cái chết. Ta
có thể nhìn thấy sự kiên quyết và chút gì đó vụt sáng trong lòng Mị khi cô tìm đến lá
ngón với ý nghĩ đã tìm ra lối thoát. Nhưng đồng thời cũng nhận ra nỗi đớn lòng của cô
khi thấy rằng chưa phải lúc và lối thoát ấy một lần nữa tuột khỏi tầm tay. Nhưng rồi cơn
đau nào cũng phải qua đi đi sau thời hạn định. Mị trở về, tiếp tục sống cho hết kiếp cùng
mạt nhục nhã.

Nhiều năm trôi qua, cha già – người thân duy nhất cũng qua đời nhưng cái thôi thúc giải
thoát trong lồng ngực son nay đã tắt. Mị không còn nghĩ đến
đấu tranh bởi lẽ sống hay chết đối với cô lúc này không quan trọng nữa và đương nhên
“lá ngón” cũng chẳng còn lảng vảng trong tâm trí đã ngủ quên. Đó chính là sự xuất hiện
lần thứ hai của “lá ngón” vì ở lần này, “lá ngón” xuất hiện bằng cách ra đi. Lá ngón phai
mờ tượng trưng cho sự ham sống đã nguội lạnh. Nỗi ám ảnh về cái chết giờ đây không
còn gặm nhấm tâm hồn cho sự tự do của lí trí. Nhưng đối với Mị, đó lại là nỗi đáng sợ!
“Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Dần thay thế cho “phản kháng” là “chấp nhận
chịu đựng”.

Một cô gái với bản lĩnh tự hái thuốc độc cho mình nay buông xuôi chấp thuận. Cô buông
xuôi không bởi cô chấp thuận, cô đông thuận mà sự thả trôi kia là kết cục của cuộc tự đấu
tranh trong đơn độc, dai dẳng cuối cùng kết thúc bằng sự mỏi mệt và tuyệt vọng đổ ập
xuống đôi bờ vai yếu ớt. Vậy ra, “lá ngón” kia đang ngầm kêu thay tiếng đồng bào hướng
về Cách mạng. Chẳng biết tự bao giờ, Mị quay cuồng vào công việc nhà Pá Tra như một
cái máy và cho tới khi trâu ngựa đã về chuồng, cô vẫn còn đứng đó tiếp tục mãi không
thôi. Lúc nào cũng vậy, ngồi một mình trong căn buồng tối trông ra lôc vuông trắng đục
chẳng biết “của sương hay nắng”, Mị luôn đăm đắm một ánh nhìn. Ánh nhìn ấy vừa khát
khao, vừa hồi tưởng. Nếu như xem lỗ vuông nơi căn phòng là vách ngăn giữa lao tù và tự
do, thì ít ra mỗi khi nhìn vào đó, Mị vẫn còn chút gì khao khát sống. Còn đối với “lá
ngón”, nghĩ đến nó là nghĩ đến cái chết và chỉ khi Mị muốn kết liễu đời mình thì lá ngón
lại là hình ảnh mặc định đầu tiên hiện ra. Rồi đêm nay, đêm tình mùa xuân lại kéo đến –
cái đêm tình tứ lứa đôi ngọt ngào, đêm của những xúc cảm yêu thương được chuẩn bị
trước bởi “những chiếc váy hoa phơi trên mõm đá” hay đêm được tượng hình bởi tiếng
sáo mê li. Đêm hội mùa xuân vẫn đến và đi như hằng năm vẫn thế. Và năm nay, đến hẹn
lại lên, đêm được chờ mong lại đến. Nó đến vẫn với diện mạo xinh tươi và bản chất ngọt
ngào. Vẫn rừng xanh đó, vẫn triền núi xưa nhưng người đưa đã khác. Đêm xuân ny vắng
bóng má đào. Tiếng sáo cũ vẫn cứ vô tư bay đi cùng gió với mây, đi tìm người tình ngày
nào lâu nay vắng bóng. Rồi như trách oán, như không muốn đi, tiếng sáo ấy cứ réo mãi
bên tai người con gái như lưu luyến, tần ngần. Như một phép tiên, đôi môi tưởng chừng
đã bị phong kín bởi thời gian nay mấp máy điều gì! Gì thế kia? Hỡi ôi bài hát cũ – bài hát
thiết tha dạo cùng khúc nhạc rừng vàng. Hình ảnh ấy ôi thật xót xa. Người con gái làm
say đắm biết bao chàng trai, bông hoa của núi rừng hùng vĩ ngày nào biến mất đi trong
đêm oan nghiệt. Để giờ đây chỉ còn tiếng hát nhẩm ngày xưa. Mị đang hát, đang cố hát
để kéo về những kí ức xúc cảm vàng son. Sau không biết bao ngày sống kiếp nô lệ, Mị
vẫn nhớ từng khúc nhạc từng lời ca. Chứng tỏ trong cô, vàng son không khép. Quá khứ
và thực tại là hai đỉnh trái chiều và sống về quá khứ giữa thực tại tài nhẫn, Mị đang khao
khát vô cùng, con tim cô vẫn còn thổn thức. Kí ức kéo về tiếp theo cho Mị lòng can đảm,
lòng can đảm tồn tại khiến Mị muốn sống về kí ức và cô tìm đến rượu để tiếp tục lối đi
trái chiều với thời gian. Người ta uống rượu thì say, còn Mị càng uống càng tỉnh. Mị tỉnh
bởi Mị nhớ lại mình ngày xưa và đem so với mình hiện tại như chợt giật mình cho những
gì bấy lâu xảy ra với bản thân. Mị tỉnh bởi Mị nhớ lại những đối xử dã man của những kẻ
đón mạt ấy dành cho cô. Rồi cái ý thức cá nhân dâng lên mạnh mẽ mà một khi ý thức ấy
đỉnh điểm thì Mị lại càng không thể chấp nhận nhục nhã đớn đau trong cái cảnh “sống
không ra người” này đây. Sao Mị có thể?! Giải thoát! Tự do! Mị không thể tự do thể xác
và... cô sẽ tự do tâm hồn, và ... lá ngón một lần nữa xuất hiện. Ai cần cho ai và ai phụ
thuộc ai?! Khi Mị muốn giải thoát, Mị tìm tới lá ngón hay là khi Mị muốn chết, lá ngón
lại hiện về? “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không
buồn nhớ lại nữa”. Càng nhớ càng buồn, càng buồn càng khổ. Thà chết đi cho xong chứ
nhớ lại làm chi khi mình bất khả kháng! Như vậy, lá ngón lại lần nữa xuất hiện với tầng ý
nghĩa giải thoát, giải thoát khỏi địa ngục trần gian. Địa ngục trần gian ở đây không đơn
giản là nỗi đau xác thịt và linh hồn khi bị hành hạ, mà địa ngục thật sự khi phải sống
trong lầm than với những hồi ức ngọt ngào cứ hiện hữu.Và “lá ngón” lại nâng tầm ý
nghĩa lên một nấc nữa, đó là “sự tự ý thức”. Đánh dấu sự trở lại của ý thức sống, đánh
dấu sự thức tỉnh của một tâm hồn tưởng chừng như đã “chết đi trong cõi sống”. Có lẽ lần
xuất hiện này của lá ngón là quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất. Bởi lẽ, Mị nghĩ đến lá ngón
với sự cương quyết tột cùng, trạng thái phẫn nộ và ý thức rõ nhất vì giờ đây, cô không
còn cái gì để hối tiếc, để luyến lưu. Tuổi xuân đầu đời – thời gian đẹp nhất – nay đã hết,
cha già – nguồn yêu thương vô tận cũng không còn. Lòng Mị nay là cõi chết. Lá ngón đối
với nàng không là liều thuốc độc, mà trở thành thứ phương tiện, hình thức, con đường để
đi đến một bến bờ khác không còn đớn đau, để phản kháng lại cái xã hội đương thời mạt
hạn. Mị tìm đến lá ngón là tìm đến cái chết như một sự tự cứu và phản kháng. Ta bắt gặp
trong văn học những cảnh ngộ bi thương tương tự: Thuý Kiều trong “Đoạn trường tân
thanh” đã tự vẫn, dù không thành, để bảo quản chữ “tiết”, không chấp nhận nhơ nhuốc
tấm thân, không thể tiếp tục tồn tại với xã hội bẩn thỉu; Chí Phèo, có lẽ vì là bậc nam
nhân nên cái chết của Chí diễn ra có phần chủ động và tác động lớn. Vì anh tự tay đâm
chết bá Kiến – tượng trưng cho việc kết thúc cuộc đời dưới đáy xã hội mục ruỗng và tự
tay kết liễu đời mình – như thể làm con người đúng nghĩa, dù cái “bắt đầu” đó cũng là
dấu chấm hết của anh. Cùng thuộc mô típ nhân vật mang số phận bi đát, những con người
đáng quý trọng nhưng “sinh bất phùng thời”, Mị là hình ảnh của đồng bào miền cao Tây
Bắc sống kiếp nô cầm trong xã hộ của bọn thực dân phong kiến, cũng như đồng bào miền
xuôi hay khắp mọi miền đất nước khi ánh sáng cách mạng chưa kịp soi sáng. Mị cũng có
sự tự tôn của mình, nhưng để bảo vệ sự tự tôn ấy, cô đã chọn lá ngón. Và có lẽ, đó là lẽ
đương nhiên đối với một cô gái đơn độc có tâm hồn quá sáng trong nhưng vị thế lại quá
nhỏ nhoi, nhất là khi ánh sáng cách mạng chưa thể rọi đến Hồng Ngài xa xăm.

Xuất sắc chấm màu xanh lá ngón vào bức tranh xô bồ của thời cuộc, Tô Hoài đã đưa “lá
ngón” t ừ chỗ độc dược ngàn đời của núi rừng, là cái chết từ thiên nhiên, nay bỗng nhiên
lại là sự giải thoát. Lá ngón xuất hiện ba lần với ba tầng ý nghĩa ngày càng sâu sắc hơn,
dữ dội hơn. Cái độc của lá ngón vậy ra vẫn còn thua cái độc của xã hội. Lá càng độc là
đớn đau đồng bào chịu càng nhiều. Lá ngón trở thành dấu hiệu báo động cho sự khẩn
thiết, cầu cứu của đồng bào miền cao đối với Cách mạng còn quá xa và cũng chính là tư
tưởng nhân đạo cao đẹp mà tác giả muốn gửi gắm đến chúng ta qua hồn thiêng gió núi
của đại ngàn Tây Bắc xa xăm!

2. Chi tiết “căn buồng Mị nằm” và chi tiết “tiếng sáo đêm xuân” trong Vợ chồng A
Phủ
Tô Hoài Sống gắn bó nghĩa tình cùng mảnh đất Tây Bắc, với sở trường quan sát những
nét riêng về phong tục văn hóa của những con người nơi cao nguyên đá mờ sương ấy, Tô
Hoài đã khắc họa được những chi tiết nghệ thuật đặc sắc góp phần thể hiện chủ đề của tác
phẩm và góp thêm nét vẽ riêng vào bức tranh Tây Bắc.
Với gam màu xám lạnh, u tối, Tô Hoài đã cho người đọc cảm nhận được không gian sống
của Mị: “Mỗi ngày, Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Căn buồng
Mị nằm kín mít, chỉ có ô vuông bằng bàn tay trông ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là
sương hay là nắng. Mị cứ ngồi đấy mà trông ra ngoài, đến khi nào chết thì thôi”. Đây là
chi tiết nằm ở phần giữa tác phẩm, miêu tả không gian sống của Mị ở nhà thống lí Pa Tra.
Sau ý định tìm lá ngón tự tử không thành vì thương cha, Mị dập tắt ngọn lửa lòng về nhà
thống lí và tiếp tục chôn vùi tuổi xuân của mình trong địa ngục trần gian đó. Căn buồng
ấy kín mít, có ô vuông bằng bàn tay. Hình ảnh đó giàu sức gợi, khiến người ta liên tưởng
đến nhà tù, một thứ ngục thất đang giam hãm đời Mị. Đó là một không gian nhỏ bé, trơ
trọi đối lập với cái mênh mông, rộng lớn của đất trời Tây Bắc. Cái ngột ngạt, tù túng
trong căn buồng Mị nằm đối lập với một thế giới bên ngoài lồng lộng của mây trời, gió
núi, của hương hoa rừng Tây Bắc, nó đối lập với cái giàu có, tấp nập của nhà thống Lí Pá
Tra. Nó không phải là căn buồng của cô con dâu nhà giàu có nhiều tiền nhiều thuốc phiện
nhất vùng mà đó là chỗ ở của con ở, thậm chí không bằng con ở. Căn buồng ấy giống
như một miền đời bị quên lãng Trong căn buồng ấy, chân dung số phận khổ đau của đời
Mị được nhà văn khắc họa thật rõ nét: Mị sống câm lặng như đá núi “ không nói”, lầm
lụi, chậm chạp trơ lì như “ con rùa” quẩn quanh nơi xó cửa. Nếu ở trên, Mị có lúc tưởng
mình là “con trâu con ngựa” - nhưng hình ảnh đó mới chỉ gợi nỗi khổ cực vì lao động vất
vả thì hình ảnh “ con rùa” có sức ám ảnh mang ý nghĩa về thân phận bị đè nén, bị bỏ
quên. Mị mất hết ý niệm về không gian, thời gian: chỉ thấy trăng trắng không biết là
sương hay là nắng. Cuộc sống của Mị không có sắc màu, âm thanh, không có cả ngắn dài
thời gian, không chia biệt đêm ngay. Không chỉ có thể, Mị còn không có ý thức về sự
sống đợi đến bao giờ chết thì thôi. Phải chăng thứ ngục thất tinh thần ấy đã làm héo mòn,
tàn úa từng ngày từng tháng tâm hồn Mị. Mị sống như loài thảo mộc cỏ cây không hương
không sắc, lay lắt, dật dờ, vô hồn, vô cảm. Không còn nữa một cô Mị đẹp như đóa ban
trắng của núi rừng Tây Bắc vừa thắm sắc, đượm hương, một người cô Mị khao khát tình
yêu và tự do có ý thức sâu sắc về quyền sống, từng thiết tha xin cha “đừng gả con cho
nhà giàu”, từng có ý định ăn lá ngón là kết thúc chuỗi ngày sống mà như chết. Như vậy,
vượt lên trên nghĩa tả thực về không gian sống của MỊ, căn buồng ấy là biểu tượng cho
ngục thất tinh thần, địa ngục trần gian giam cầm khát vọng sống, khát vọng tự do của đời
Mị. Chi tiết đó đã góp phần thể hiện tư tưởng, thái độ của nhà văn.
Nhà văn đã tố cáo sâu sắc chế độ cai trị miền núi đã đầy đọa con người, làm tê liệt quyền
sống, quyền khao khát hạnh phúc của họ. Đồng thời, Tô Hoài bày tỏ tấm lòng xót xa
thương cảm cho số phận người phụ nữ vùng núi cao Tây Bắc khi Cách mạng chưa về. Đó
cũng là cảm hứng nhân đạo quen thuộc trong văn học Nếu hình ảnh căn buồng Mị nằm là
một trong những chi tiết có sức ám ảnh ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ nhất thì hình
tượng tiếng sáo đêm tình mùa xuân lại có sức quyến rũ lòng người nhất.
Hình tượng tiếng sáo nằm ở phần giữa tác phẩm, ngòi bút Tô Hoài đã rất dụng công để
miêu tả những thanh âm của tiếng sáo vùng núi cao Tây Bắc trong đêm tình mùa xuân.
Sau những chuỗi ngày sống chỉ mang ý nghĩa của sự tồn tại,tê liệt, chai lì cái nồng nàn
của lửa, của men rượu, cái tươi vui chộn rộn của mùa xuân Hồng Ngài đã đánh thức tâm
hồn Mị, tiếng sáo đã vọng đến đôi tai Mị. Tiếng sáo được miêu tả từ xa đến gần, với
những cung bậc khác nhau: khi tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếng sáo văng vẳng gọi
bạn đầu làng, tiếng sáo lửng lơ bay ngoài đường, trong đầu Mị , rập rờn tiếng sáo, tiếng
sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi Trước hết, đây là chi tiết có ý nghĩa tả thực về nét
đẹp văn hóa của miền núi cao Tây Bắc, khiến người ta liên tưởng đến âm thanh quen
thuộc, gần gũi của núi rừng trong những đêm xuân ở Hồng Ngài. Nếu Tây Nguyên có
tiếng cồng, tiếng chiêng âm vang khắp bản làng, rừng núi, nếu miền quê đồng bằng Bắc
Bộ có tiếng trống chèo, tiếng hát giao duyên, tiếng đàn bầu thánh thót thì với những
người dân Tây Bắc, họ vốn ít nói, kiệm lời, họ gửi lòng mình vào tiếng khèn, tiếng sáo,
tiếng kèn môi, thổi lá để trao gửi tâm tình, để mời gọi bạn yêu. Tiếng sáo vang lên với
những cung bậc khác nhau, khi xa khi gần, khi trầm bổng khoan thai, khi rập rờn, khi lấp
ló... m thanh tiếng sao vang lên những ca từ mộc mạc thể hiện lẽ sống hồn nhiên, yêu đời,
phóng khoáng của những con người nơi đây “ Mày có con trai, con gái ta đi tìm người
yêu...”. Tiếng sáo mang đến chất thơ, làm dịu mát cuộc sống trăm đắng ngàn cay với nỗi
đời cơ cực của con người nơi đây, khiến mảnh đất Tây Bắc vốn xa lạ, hoang vu trở nên
gần gũi, thơ mộng. Không dừng lại ở ý nghĩa tả thực, chi tiết tiếng sáo góp phần diễn tả
vẻ đẹp tâm hồn Mị trong đêm tình mùa xuân. Tiếng sáo lay thức tâm hồn Mị, khiến lòng
Mị thiết tha, bổi hồi, nhẩm thầm bài hát của người đang thổi và những kí ức đẹp đẽ nồng
nàn của người con gái đã trở về. Tiếng sáo đã làm bừng
lên khát vọng sống, Mị ý thức hiện tại mình vẫn còn trẻ, Mị ý thức về quyền hạnh phúc “
Mị muốn đi chơi”, Mị sửa soạn vào nhà...Tiếng sáo khiến Mị quên đi thực tại khổ đau:
khi Mị định ăn lá ngón để chết ngay chứ không muốn nghĩ về ngày trước nữa thì tiếng
sáo lửng lơ ngoài đường lại đưa Mị trở về với niềm khát sống, khi bị trói đứng cả đêm,
tâm hồn Mị vẫn bay bổng cùng tiếng sáo, tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi. Nếu
căn buồng Mị nằm biểu tượng cho thứ ngục thất tinh thần giam hãm đời Mị, thì hình
tượng tiếng sáo trở thành biểu tượng đẹp đẽ cho khát vọng tự do, khát vọng sống, khát
vọng tình yêu trong tâm hồn Mị. Chi tiết góp phần thể hiện tư tưởng, thái độ của nhà văn
và thành công của ngòi bút Tô Hoài. Đó là tấm lòng nâng niu trân trọng của nhà văn đối
với nét đẹp văn hóa của và vẻ đẹp tâm hồn con người Tây Bắc. Chi tiết giàu chất thơ, lai
láng dư vị trữ tình có sức sống lâu bền trong tâm hồn người đọc.

TTS - CÁC CHI TIẾT NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU TRONG TÁC PHẨM VỢ
NHẶT

Chi tiết “nụ cười và nước mắt”, chi tiết “nồi cháo cám” trong Vợ nhặt - Kim Lân
Chọn nạn đói năm 1945 – trang sử bi thương nhất của lịch sử dân tộc làm bối cảnh của
câu chuyện, Kim Lân đã kể cho ta nghe một câu chuyện lạ lùng nhất trong cuộc sống:
chuyện anh Tràng bỗng nhiên có người đàn bà về trong những ngày tối sầm vì đói khát
ấy. Chính tình huống độc đáo và éo le ấy đã nảy sinh bao nét tâm lí ngổn ngang, bao
niềm vui, nỗi buồn. Và hình ảnh nụ cười, nước mắt trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm
được coi là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc góp phần thể hiện tài năng của Kim Lân
trong việc khắc họa tâm lí nhân vật và thể hiện tư tưởng nhà văn, chủ đề tác phẩm.

Hình ảnh nụ cười được nhà văn nhắc đến nhiều lần khi khắc họa chân dung nhân vật
Tràng. Khi đẩy xe bò thóc hắn vuốt mồ hôi trên mặt cười, trên đường dẫn người vợ nhặt
về: hắn tủm tỉm cười, hai con mắt sáng lên lấp lánh,khi trẻ con trêu chọc Tràng bật cười
Bố ranh. Khi người vợ nén tiếng thở dài trước quang cảnh của nhà Tràng, hắn “ quay lại
nhìn thị cười cười”. Bà cụ Tứ về, Tràng tươi cười mời mẹ ngồi lên giường... Nụ cười của
Tràng đã góp phần khắc họa tính cách, tâm lí tính cách thuần phác, nhân hậu, yêu đời của
gã trai quê mùa, thô kệch; nói cùng ta niềm hạnh phúc, sung sướng của con người trong
tận cùng đói khát vẫn không thôi khao khát tình yêu, tổ ấm gia đình.Đặt trong bối cảnh
của câu truyện viết về nạn đói thảm thương 1945, hình ảnh nụ cười của Tràng (lặp lại 8
lần) giống như cơn gió mát lành làm dịu đi cái căng thẳng ngột ngạt, cái trăm đắng ngàn
cay của con người ngày đói, thể hiện cái nhìn lạc quan, niềm hi vọng của nhà văn vào
cuộc sống. Phải chăng, nhà văn đã gửi gắm một thông điệp giản dị: chỉ có tình yêu
thương mới có thể mang đến niềm vui, nụ cười hạnh phúc cho con người. Bên cạnh việc
khắc họa tâm lí của Tràng qua nụ cười, Kim Lân cũng chú ý nét tâm lí của nhân vật bà cụ
Tứ qua chi tiết giọt nước mắt. Khi hiểu ra cơ sự nhặt vợ của con “ kẽ mắt kèm nhèm của
bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”.Khi lo lắng cho cảnh ngộ đói khát của chúng: bà cụ
nghẹn lời không nói, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Khi nghe thấy tiếng trống thúc
thuế, bà vội ngoảnh mặt đi, bà không muốn để con dâu nhìn thấy bà khóc. Giọt nước mắt
của bà cụ Tứ góp phần thể hiện nỗi xót xa của người mẹ trước cảnh ngộ của con lấy vợ
giữa “tao đoạn” và số phận không được bằng người. Việc lấy vợ của con là vui nhưng vì
cái cái đói, cái chết mà khiến bà xót xa, tủi thân, tủi phận. Giọt nước mắt khổ đau ấy như
lời kết án sâu sắc thực dân Pháp, phát xít Nhật đẩy dân ta đến thảm cảnh cùng cực đó.
Giọt nước mắt cho thấy tấm lòng chan chứa yêu thương con của người mẹ, những giọt
nước mắt như cố kìm nén (rỉ ra hai dòng nước mắt, ngoảnh vội ra ngoài). Thương con,
mừng lòng trước hạnh phúc của con, bà đào sâu chôn chặt, dấu đi nỗi lo lắng, bà khóc
thầm, khóc vụng, để rồi chỉ nói những lời yêu thương, động viên con.

Nụ cười – nước mắt là biểu hiện của hai trạng thái cảm xúc đối lập nhau nhưng cùng lấp
lánh ánh sáng của tình người, của tình yêu thương giữa những ngày đói khát, chúng góp
phần thể hiện sự éo le của tình huống truyện, làm nên giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo
sâu sắc. Khắc họa hình ảnh giàu ý nghĩa đó, Kim Lân chứng tỏ là nhà văn thấu hiểu tâm
lí nhân vật, biệt tài xây dựng những chi tiết nghệ thuật nhỏ nhưng hàm chứa tầng ý nghĩa
sâu sa, thể hiện quan niệm sáng tác “ quý hồ tinh, bất quý hồ đa” Không chỉ thành công ở
chi tiết nụ cười, nước mắt, Kim Lân cũng để lại trong ấn tượng đạm nét trong tâm trí
người đọc ở hình tượng nồi cháo cám. Nhà văn đã để cho cái đói quay quắt se duyên cho
một mối tình nhưng cũng đẩy họ đến bên bờ vực: liệu có nuôi nổi nhau qua cái thì tao
đoạn này không. Bữa cơm đón nàng dâu mới minh họa rõ nét hơn cho cái thực trạng
thảm thương của những con người khốn khó đó: giữa cái mẹt rách chỉ có niêu cháo loãng,
một lùm rau chuối thái rối, đĩa muối trắng và nồi cháo cám. Cháo cám dẫu được mẹ già
sang trọng gọi là chè khoán nhưng vẫn không sao xua được cảm giác đắng ngắt, chát xít
nơi cổ họng, không sao nén được nỗi tủi hờn dâng lên trong tâm trí mỗi người. Bát cháo
cám như đập tan cái không khí vui tươi ở phần đầu bữa ăn. Hiện thực về cái đói vô cùng
khốc liệt và ám ảnh một lần nữa xuất hiện, đe dọa hạnh phúc của con người. Thứ hạnh
phúc bé nhỏ, mong manh vừa mới nhen nhúm ngay lập tức bị đe dọa bởi cái đói. Nỗi xót
xa, buồn tủi thấm trong trang văn của Kim Lân như lan sang người đọc. Nhưng vượt lên
trên nghĩa tả thực, bát cháo cám còn làm ngời sáng trước mắt ta tấm lòng, tình cảm của
người mẹ già khốn khó. Bà cụ Tứ vừa múc cháo, vừa đùa vui: “Chè khoán đây, ngon đáo
để cơ”. Nào phải bà không thấu cái vị đắng ngắt, chát xít của cháo cám, đâu phải bà
không hay về tương lai mù xám của những đứa con mình? Người mẹ già ấy đã có nén lại
nỗi lo lắng thắt lòng cho tương lai đôi trẻ, đã vượt qua mọi sượng sùng, ngần ngại với
người con dâu về gia cảnh nhà mình để khơi dậy chút nguồn vui cho không khí gia đình.
Bên tận cùng nỗi xót xa, ta lại cảm động vô cùng trước mênh mông tấm lòng người mẹ.
Hơn nữa, chẳng phải ngẫu nhiên Kim Lân lại để cho người mẹ già nua tuổi tác, xế bóng
ngả chiều lại là người khơi niềm vui trong thảm cảnh ngày đói. Là Kim Lân thấy lửa,
khơi lửa và tin rằng có lửa ngay trong đống tro tưởng sắp lụi tàn, thấy mầm xanh sự sống
chẳng những vươn lên từ thân non hay một đời cây cường tráng mà còn khỏe khoắn vươn
lên từ chính một gốc cây sắp tròn cổ thục.
Không nghi ngờ gì nữa, món chè khoán của bà cụ Tứ làm một chi tiết Kim Lân trọn vẹn
gởi trao niềm tin và khát vọng sống của con người. Chi tiết bát cháo cám cũng thể hiện
khát khao hạnh phúc gia đình của người đàn bà vô danh. Ta hiểu thị liều lĩnh không đơn
thuần vì miếng ăn, thị không bỏ đi khi chứng kiến gia cảnh bần hàn của Tràng, nay ta
càng thấu hiểu sâu sắc hơn cái khát vọng có một bến đỗ cho con thuyền phiêu dạt, một tổ
ấm dừng chân nơi thị trong cái cử chỉ “ điềm nhiên và vào miệng miếng cháo cám”. Cái
cử chí và thái độ ấy cho thấy thị thật ý tứ, sẵn sàng đồng cam cộng khổ với gia đình
Tràng. Hạnh phúc mong manh vừa nhen nhóm ấy, phải chăng cần lắm những đôi bàn tay
nâng niu như vậy. Lời nói của bà cụ Tứ và hành động của người con dâu chính là cách
những người phụ nữ giữ gìn, bảo vệ và vun đắp cho niềm hạnh phúc vừa mới chớm nở.
Sáng tạo chi tiết bát cháo cám, Kim Lân không chỉ gợi lại sinh động thảm trạng ngày đói
năm nào mà nhà văn còn muốn ca ngợi tình người nồng thắm nơi những tấm lòng thuần
hậu, chất phác. Trong cảnh đói bi thương ấy, họ vẫn không thôi yêu thương, vẫn nương
tựa vào nhau cùng sẻ chia và cùng hi vọng
4. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
- Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn
học Việt Nam hiện đại.
- Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường, Nguyễn
Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám
phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thuật
của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn tìm kiếm hạnh
phúc và hoàn thiện nhân cách.
- Ông là một trong số những “nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta
hiện nay” (Nguyên Ngọc)
- Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc
độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Cái nhìn hiện thực đa chiều đã giúp
cho nhà văn nhận ra đời sống con người cả ở những sự kiện bể nổi lẫn những khuất lấp
trong bể sâu của nó, nhận ra cả những quy luật tất yếu lẫn những ngẫu nhiên, may rủi đẩy
bất trắc và khó lường hết của đời sống. Ông luôn day dứt về việc con người phải chịu
đựng, phải chấp nhận những nghịch lí mà lẽ ra không đáng có trong một cuộc sống vốn
đã tốt hơn.

1. Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng.


a. Phát hiện thứ nhất: Bức danh hoạ mực Tàu thời cổ.
Đoạn văn : Lúc bấy giờ… mang lại.
Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng tìm đến vùng ven biển miền
Trung (Trung trung bộ), nơi vốn là chiến trường cũ của anh, để chụp những tấm ảnh phục
vụ cho chủ đề thuyền và biển của bộ lịch năm sau. Về lại mảnh đất một thời gắn bó trong
cuộc sống đời thường, người nghệ sỹ đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của cuộc sống của người dân
làng chài. Sau bao ngày săn ảnh, Phùng đã chớp được một cảnh kì diệu về chiếc thuyền
ngoài xa đang thu lưới trong biển sớm mờ sương: ” mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe
nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa…đang hướng mặt vào bờ”. Với Phùng đây là
khoảnh khắc kì diệu trong đời cầm máy của mình. Bởi từ khung cảnh sông nước đến con
người ngư phủ, từ đường nét, màu sắc, ánh sáng tất cả đều hài hòa tuyệt đẹp. Trong con
mắt Phùng, cảnh tượng đó giống như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ.
Cảnh đẹp bất ngờ xuất hiện trước mắt Phùng như một phần thưởng cao quý trời cho để
thưởng cho người nghệ sĩ kiên trì dày công mai phục.
Ngòi bút đặc tả vẻ đẹp vừa cổ kính vừa mơ màng đúng như mong ước trong tưởng tượng
của nghệ sĩ về cảnh thuyền và biển trong sương mù nhạt nhoà. Vẻ đẹp giản dị và toàn
bích của thiên nhiên mà người nghệ sĩ may mắn chớp được khoảnh khắc hiếm hoi.
Cảm xúc của người nghệ sĩ sáng tạo: bối rối, trong tim như có cái gì bóp thắt vào, cảm
thấy niềm vui của sự khám phá chân lí toàn thiện, khọảnh khắc trong ngần của tâm hồn.
Tất nhiên là anh vội, không tiếc phim, bấm máy liên tục để vĩnh cửu hoá cảnh tuyệt vời
Ý nghĩa chi tiết: với nhà nghệ sĩ chân chính, không niềm vui nào bằng khám phá được vẻ
đẹp bất ngờ của thiên nhiên nhiên và cuộc sống. Nhưng để có được khoảng khắc hiếm
hoi ấy, phải kiên trì, phải vượt khó, phải ham mê, hết mình vì nghệ thuật. Và cái đẹp kì
diệu có khi lại đến với người nghệ sĩ vào lúc không ngờ nhất. Đó là cái đẹp tự nhiên, hoà
hợp kì lạ giữa cảnh vật và con người đơn giản và hoàn mĩ.
b. Phát hiện thứ hai: Cảnh bạo hành gia đình người đàn bà hàng chài.
Nhưng đó mới là vẻ đẹp bên ngoài của bức tranh chiếc thuyền ngoài xa. Tình cờ, Phùng
lại phát hiện được một bức tranh sinh hoạt của con người xảy ra bên bờ biển ấy.
Đoạn từ: Ngay lúc ấy… thuyền lưới vó đã biến mất.
Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng thật bất ngờ, lí thú nhưng phát hiện thứ
hai ngay sau đó còn bất ngờ hơn nhưng chẳng lí thú chút nào mà khó hiểu và buồn đau,
căm giận. Phát hiện bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Từ trong con
thuyền đẹp như mơ ấy bước ra hai người đàn ông và đàn bà quái lạ. Và tiếp theo là cảnh
bạo hành trong gia đình thuyền chài xảy ra vô tình trước sự chứng kiến từ đầu đến cuối
của nhà nghệ sĩ – người lính chiến năm xưa.
Gã đàn ông thô lỗ, hung bạo, vũ phu, cục súc, với sức khoẻ như gấu, hình dáng cổ quái,
hắn trút sự căm giận điên cuồng vào việc đánh đập người vợ của mình bằng chiếc thắt
lưng to bận như đánh kẻ thù, hàm răng nghiên ken két, vừa đánh vừa chửi, nguyền rủa
rên rỉ, đau đớn.
Chúng ta đồng cảm với sự ngạc nhiên cao độ và hành động cứu ứng kịp thời của nghệ sĩ
Phùng, khi “anh há mồm ra nhìn rồi vứt máy ảnh lao tới định cứu người đàn bà nạn nhân
của sự bạo hành man rợ”.
Nhưng trong cách tả của tác giả đã hé ra phần nào cái nguyên nhân sâu xa khiến gã đàn
ông nọ trở nên thô bạo tàn ác đến thế với vợ mình: gã gịân dữ và đau đớn vì bế tắc, hay vì
một cái gì đó mà chính gã cũng không hiểu.
Còn người đàn bà, hành động và cử chỉ của mụ càng làm Phùng ngạc nhiên, khó hiểu
hơn, khi mụ nhẫn nhịn chịu đánh, lại chắp tay vái lạy con trai vừa cứu mẹ bằng cách giật
cái thắt lưng trong tay bố và chịu hai cái tát của người bố hung bạo.
Người mẹ sợ con, xin con đừng chống lại cha mình? Người mẹ sợ con bị cha đánh chết?
Người me quá thương con, lo cho con, sợ con phạm tội với người đã sinh ra mình? Tất cả
đều mới chỉ là ức đoán, chưa có căn cứ làm sáng tò nhưng đã hiện ra trước mắt người đọc
một chú bé vùng biển gan góc, lầm lì, dũng cảm, hết lòng thương mẹ.
Và đó là là mặt trái của bức ảnh mơ màng, lãng mạn đẹp tuyệt vời kia. Nhưng đó cũng
mới là một phần bên ngoài của sự thật. Tình cờ, lại tình cờ mà may mắn, Phùng có dịp
chứng kiến và tham gia vào câu chuyện để tự mình khám phá thêm chiều sâu và bản chất
của sự thật đau buồn mà dữ dội ấy. Là người lính cũ, Phùng không thể làm ngơ trước sự
bạo hành của cái ác. Phùng cay đắng nhận ra những ngang trái, xấu xa, bi kịch gia đình
nhà chài kia lại chính là thứ thuốc rửa quái đản lộn trái những thước phim anh đã dày
công mới chụp được.
Qua phát hiện thứ hai này Nguyễn Minh Châu cho chúng ta thấy đằng sau bức tranh
thuyền và biển tuyệt diệu là cuộc đời đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp.
Nhà văn muốn thể hiện cái đẹp của nghệ thuật dễ nắm bắt hơn cái đẹp của cuộc sống. Vì
cái đẹp của cuộc sống cần có thêm hạnh phúc và tình thương. Và đôi cánh khi cái đẹp của
ngoại cảnh làm khuất lấp cái xấu tồn tại ở đời sống. Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều
mà chứa đựng nhiều nghịch lí với những mảng sáng tối, xấu đẹp, thiện ác, thật giả…
Quan trọng là chúng ta đừng nhầm lẫn giữa hình thức bên ngoài và bản chất bên trong,
chúng ta phải có cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống. Nghệ thuật vốn nảy sinh từ
cuộc đời nhưng cuộc đời không phải bao giờ lúc nào cũng đẹp như nghệ thuật.
2. Câu chuyện ở toà án huyện.
+ Cuộc gặp gỡ giữa vị chánh án và người đàn bà làng chài.
Tác giả cố ý không đặt tên cho nhân vật của mình để tỏ rằng mụ cũng là một trong bao
nhiêu người phụ nữ vùng biển khác mà thôi. Đây không phải là một số phận, một cá tính
quá cá biệt. Người đàn bà trung niên, lam lũ, vất vả, thầm lặng, tự nguyện chịu đựng đòn
đánh của chồng như một lẽ đương nhiên, tất yếu đến vồ lí với người ngoài nhưng lại vì lí
do thật đơn giản: bà cần sức mạnh của một người đàn ông trong cuộc mưu sinh và tồn tại
gia đình đánh cá trên biển. Bà sẵn sàng chịu đựng tất cả vì đàn con đông đúc, bà chỉ
mong chúng được ăn no, khoẻ mạnh và lớn lên. Vì thế bà cay đắng và tự nguyện để lão
chồng ba ngày, năm ngày hai trận đòn nhục nhã, chỉ để hắn không bỏ đi, không rời bỏ gia
đình. Đó là sự cam chịu nhẫn nhục đầy hi sinh, đáng cảm thông, chia sẻ. Thấp thoáng
trong người đàn bà ấy là bóng dáng của người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, vị tha, giàu
đức hi sinh cao cả.
Đó là câu chuyện về sự thật cuộc đời, giúp Đẩu và Phùng hiểu nguyên nhân thật sự
những điều tưởng chừng như vô lí vừa xảy ra. Và họ – một đại diện cho công lí, một đại
diện cho lương tâm nghệ sĩ mới nhận rõ điều này: Không thể dễ dãi, đơn giản khi nhìn
nhận, đánh giá mọị sư việc, hiện tượng cuộc sống. \
Với tư cách là một chánh án toà án nhân dân huyện, đại diện cho chính quyền và pháp
luật, một cựu binh thời đánh Đẩu có quan điểm dứt khoát, rõ ràng, bênh vực nạn nhân,
giúp chị tìm con đường giải thoát, răn đe và trừng trị kẻ ác phạm tội. Quan điểm đó là
đúng, nhưng trong trường hơp cụ thể này lại tỏ ra cực đoan và rõ ràng chưa được người
bị hại tán thành chứ đừng nói gì đến tâm phục khẩu phục. Khi nghe tâm sự thật lòng của
người đàn bà, khi hiểu ra vấn đề, phức tạp hơn anh tưởng, nhiều, Đẩu thấy hiện tại chỉ có
cách theo cách của nạn nhân, vẫn đề họ sống với nhau, và gọi lão chồng lên huyện răn đe
nghiêm khắc. Nhưng với gã đàn ông thô bạo, cục súc, đánh vợ như trò giải trí ấy, mấy lời
thuyết giáo của vị chánh án oai nghiêm nhưng xa vời kia liệu có phải như nước đổ lá
khoai? Đó là cái khó của vị quan toà chân chính thời nay.
LÃO ĐÀN ÔNG:
Cuộc sống nghèo đói, quanh năm vất vả đã biến chàng trai biển lành nhưng cục thành gã
đằn ông vũ phu, lão chồng độc ác, coi vợ như cái bao tải, để trút
nỗi bực dọc, đau khổ, buồn phiền của riêng mình. Lạ, lão lại không nghiện rượu như
nhiều người đàn ông khác! Tự cho mình cái quyền được hành hạ người khác để thoả mãn
lòng ích kỉ, bản thân lão vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân gây nên nỗi khổ cho vợ con
mình, gia đình mình. Đối xử vói loại người này, cần phải kết hợp nhiều biện pháp lí tình,
cương nhu, tác động từ nhiều phía mới hi vọng cải tạo y từ gốc để trở lại là người chồng,
người cha tốt như xưa.
NHÂN VẬT THẰNG PHÁC
Trong những gia đình như thế này, đáng thương nhất là những đứa con. Chúng bị đẩy vào
tình thế thật khó xử: làm thế nào để trọn đạo hiếu? đứng về phía ai? Thương mẹ nhưng
không thể ngăn được bố, càng không thể chống lại bố… Với tính cách giống cha như lột,
phản ứng của thằng Phác là dữ dội, quyết liệt kiểu trẻ con xốc nổi, nghĩ sao làm vậy hết
mình. Nó hết sức xông thẳng .vào người cha hung bạo, giật được cái thắt lưng từ tay gã,
nghiến răng chịu hai cái tát nảy lửa. Và lần sau còn thủ sẵn một con dao găm để đâm bố,
cứu mẹ. Tình thương mẹ vô hạn đã khiến đứa con trai quyết lòng bảo vệ mẹ. Trong mắt
thằng Phác, bố nó đâu còn là một người cha mà chỉ là lão già độc ác, lúc nào cũng chỉ
muốn hành hạ mẹ nó. Chị thằng Phác là đứa con gái can đảm mà biết nghĩ hơn nhiều. Nó
vật nhau với em để tước con dao găm, tránh cho em một việc làm hết sức dại dột, Nó
chăm sóc mẹ khi lên toà án huyện… Nguyễn Minh Châu không hướng trọng tâm vào các
nhân vật trẻ con, nhưng hai đứa bé này vẫn để lại trong người đọc không chỉ lòng thương
cảm mà còn mến yêu và xúc động.
NGHỆ SĨ PHÙNG
Là nhân vật, là người kể chuyện xưng tôi, là người chứng kiến trực tiếp và trực tiếp tham
gia vào câu chuyện, nhân vật Phùng là nơi gửi gắm quan điểm và suy tư của chính tác
giả. Đó là một nghệ sĩ có tài, say mê nghề nghiệp vẫn còn mang trong mình dòng máu
người lính chiến sôi nổi, chân thành. Qua chuyến đi săn tìm ảnh lịch theo yêu cầu của
vị trưởng phòng tinh khôn và khó tính, anh đã đạt kết quả mĩ mãn về chuyên môn, nhưng
sâu sắc hơn anh hiểu
biết thêm được bao nhiêu sự thật cay đắng, nghịch lí của cuộc sống đời thường. Hơn nữa
anh còn thức nhận sâu sắc hơn một điều, rằng, trước khi là một nghệ sĩ biết rung động
trước cái đẹp hãy là người biết yêu ghét, buồn vui, đồng cảm chia sẻ và đấu tranh bằng
hành động chống lại cái ác, cái xấu để có cuộc sống xứng đáng với con người. Và cuộc
sống bao giờ cũng cần được khám phá, lí giải với tất cả nhận thức và tình cảm, cái nhìn
đa diện, nhiều chiều mới mong hiểu thấu diện mạo muôn màu và bản chất thực của nó.
3. Người đàn bà hàng chài
+ Về tên gọi : Cũng giống như nhân vật người vợ nhặt ( truyện ngắn Vợ Nhặt- Kim Lân
), người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh châu cũng không được đặt
tên. Nhân vật được gọi bằng những cái tên phiếm chỉ : Người đàn bà, chị ta, mụ ,…Đây
là nhân vật tiêu biểu cho những người đàn bà vô danh ở những vùng biển khác nhau
nhưng cùng chung số phận đau thương.
+ Ngoại hình: xấu xí , thô kệch, mặt rỗ vì hồi nhỏ bị đậu mùa, mụ trạc ngoài 40, khuôn
mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, quần áo rách rưới bạc phếch, thân người
ướt sũng …
- Hoàn cảnh gia đình, số phận
+ Nghèo khổ lam lũ, đông con, gia đình làm nghề chài lưới, sống chen chúc trên cái
thuyền chật hẹp.
+ Mụ xấu xí từ nhỏ, lại bị rỗ mặt.
+ Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc
sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả.
+ Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngàymột trận
nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, nhưlà để trút giận, như đánh 1
con thú, với lời lẽ cay độc” Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông
nhờ”. Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy
trốn mà coi đólà một lẽ đương nhiên. Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng
chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con.
– Phẩm chất, tính cách:
+ Nhẫn nhục, chịu đựng: Bị chồng trút dây thắt lưng quật tới tấp , chị vẫn nhẫn nhịn,
không hề khóc lóc kêu van, không chạy trốn, không tìm cách chống trả. Chị coi việc
mình bị đánh đó như 1 phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Khi được Phùng và
Đẩu góp ý, đề nghị giúp đỡ thì : “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được
nhưng đừng bắt con bỏ nó” Chị cam chịu đến tội nghiệp.
Được mời lên tòa án để giải quyết chuyện gia đình, lúc đầu chị ta lúng túng, rụt rè tìm
một góc tường để ngồi. Chị thấy sợ hãi Khi đến một không gian lạ và cảm thấy mình thật
nhỏ bé giữa chốn công đường. Cái thế ngồi của chị như cố thu mình lại để tự vệ, cho dù
đã được Đẩu, Phùng chia sẻ và cảm thông.
Nguyên nhân nỗi cam chịu : Vì con cái, vì hạnh phúc gia đình. Chị hiểu cơ cực của của
cuộc sống mưu sinh trên biển không có người đàn ông.
+ Người đàn bà ấy cũng rất tự trọng. Sau khi biết hành động vũ phu của chồng mình đã bị
đứa con trai và người khách lạ (nghệ sĩ Phùng) chứng kiến, chị thấy đau đớn, vừa đau
đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã. Chắc chắn đây không chỉ là sự đau đớn về thể xác.
Giọt nước mắt đau khổ của người đàn bà đã ứa ra. Đó là giọt nước mắt của nhọc nhằn và
chịu đựng. Chị không muốn bất cứ ai chứng kiến và thương xót cho tình cảnh trớ trêu của
mình, kể cả thằng Phác, đứa con trai mà chị quý nhất. Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị
xúc phạm nhưng người đàn bà ấy không hề để ý, không hề bận tâm. Đúng là sự nhẫn
nhục của một người có nhân cách, có lòng tự trọng và thấu hiểu lẽ đời.
+ Yêu thương con tha thiết ("phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”)
Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị. Sự cần
thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp, cùng
nuôi dạy các con ” Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho
mình như trên đất được”.
Vì thương con, chị gửi nó lên rừng, chị đau xót khi thấy nó vì thương mẹ mà hận
bố,….Chị không muốn các con nhìn thấy cảnh bạo hành gia đình. Và niềm hạnh phúc lớn
nhất của chị là nhìn những đứa con chúng được ăn no,…
=> Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của 1 cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót
xa.
+ Người đàn bà vị tha, lạc quan:
Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt chiu niềm hạnhphúc nhỏ nhoi trong
cuộc đời bình dị (“…nhìn con được ăn no, có khi vợ chồng, con cái sống vui vẻ, hoà
thuận”) .Chị tự động viên mình, và sống vì các con. Đặc biệt, chị không hề hận chồng
mặc dù thường xuyên bị chồng đánh đạp chửi rủa, trái lại, chị còn biết ơn lão. Chỉ Phùng,
Đẩu, và người đọc cảm thấy ngột ngạt trước cuộc sống quá ư khổ cực của chị, còn bản
thân chị thì thấy đó là sự việc rất đỗi bình thường. Chị lí giải nguyên nhân dẫn đến tính
khí hung bạo của chồng và cảm thông, tha thứ cho lão.Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu
nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ,
lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập
tôi”.Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc
sống của chồng trở nên khốn khổ. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều,
bao dung, độ lượng với chồng.
+ Người đàn bà thất học nhưng lại rất sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời.
Ý thức được thiên chức của người phụ nữ (“Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và
nuôi con cho đến khi khôn lớn”). Chị lí giải nguyên nhân dẫn tới nỗi khổ của gia đình
mình, lí giải vì sao mình không thể, và không muốn li hôn. Câu chuyện của chị đã khiến
Phùng và Đẩu đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Sau khi nghe câu chuyện của
chị, Phùng và Đẩu mới vỡ lẽ , và rút ra bài học sâu sắc về cách nhìn đời, nhìn người. Qua
câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: Không thể dễ dãi,đơn giản trong việc nhìn
nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống,không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện
với con người và cuộc sống.
4. Nghệ thuật
- Cách xây dựng cốt truyện độc đáo:
Trong tác phẩm, đó là sự kiện Phùng chứng kiến lão đàn ông đánh vợ một cách tàn bạo.
Trước đó, anh nhìn đời bằng con mắt người nghệ sĩ, rung động, say mê trước vẻ đẹp
huyền ảo, thơ mộng của thuyền biển. Trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc
lãng mạn, Phùng phát hiện ra hiện thực nghiệt ngã của đôi vợ chổng bước ra từ con
thuỵển “thơ mộng”.
Tình huống đó được lặp lại lần nữa: Bên cạnh người đàn bà nhẫn nhục, chịu đựng “đòn
chồng”, Phùng còn được chứng kiến phản ứng của chị em thằng Phác trước sự hung bạo
của người cha đối với mẹ. Từ đó, trong người nghệ sĩ đã có sự thay đổi cách nhìn đời.
Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài, hiểu sâu thêm về người đàn
bà, chị em thằng Phác, hiểu thêm người đồng đội Đẩu và hiểu thêm chính mình.
Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc
lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư
tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống truyện mang ý nghĩa khám
phá, phát hiện đời sống.
- Ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm
+ Ngôn ngữ người kể chuyện: Thể hiện qua nhân vật Phùng, sự hoá thân của tác giả.
Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả
năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chần thật, giàu sức thuyết phục.
+ Ngôn ngữ nhân vật: Được cá thể hóa, phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người.
(Ngôn ngữ của người đàn bà: lóng ngóng, van lơn khi mới đối diện với “quý toà”; chững
chạc, thấu trải khi tự kể câu chuyện đời mình; dịu dàng, xót xa khi nói với con; lời lẽ của
người đàn ông: tàn nhẫn, cục cằn,..
=> (Cốt truyện đơn giản, tình huống bất ngờ, dẫn dắt khéo léo, càng về sau càng bất ngờ
và hấp dẫn: bất ngờ khi thấy cảnh lạ, đẹp —» bất ngờ chứng kiến chuyện lạ nghịch lí —>
bất ngờ hiểu cái lí buồn của nghịch lí; Xây dựng nhân vật chọn lấy vài nét ngoại hình lạ,
ngôn ngữ và hành động phù hợp tính cách, nhưng vẫn gây sự khó hiểu và bất ngờ (người
đàn bà, thằng Phác)…)
Lối kết cấu vòng tròn: Mở đầu là đi tìm ảnh, kết là nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ, nhấn mạnh
tính triết lí của truyện
5. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?
Ý nghĩa nhan đề: Ai đã đặt tên cho dòng sông? Câu hỏi tu từ đặt ra “với trời, với đất” đưa
nhà văn và độc giả về với hành trình lịch sử, tìm vê’ cội nguồn văn hoá dân tộc. Từ đó
dòng sông Hương hiện ra trên nhiều phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá, thơ ca… Kết
thúc tuỳ bút là một huyền thoại rất đẹp, bộc lộ cái tôi trữ tình suy tư: “Con người ở hai bờ
đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống sông, để làn nước thơm tho mãi”. Tác giả gửi gắm
vào đó tất cả ước vọng muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn ho á lịch sử.
Nhan đề và kết thúc tác phẩm thể hiện rõ chủ đề và phong cách bút kí của tác giả: giàu
sức gợi cảm, thấm đẫm chất thơ. Qua đó tác giả ca ngợi sông Hương – con sông gắn bó
với lịch sử, văn hoá Huế của dân tộc ta. Tác phẩm thể hiện lòng yêu mến say mê cảnh
vật, văn hoá đất nước. Hình ảnh dòng sông đất nước được thể hiện bằng tài năng của một
cây bút giàu chất trí tuệ, chất văn hoá và ngôn ngữ trong sáng, chọn lọc, tinh tế.

Tác giả:
+ Tiểu sử
- Sinh ra, nhiều năm sống và hoạt động cách mạng, công tác tại Huế > gắn bó với đất và
người nơi đây, am hiểu sâu sắc cội nguồn và linh hồn văn hóa xứ sở.
+ Con người:
- Trí thức yêu nước.
- Vốn hiểu biết sâu rông trên nhiều lĩnh vực.
+ Sáng tác:
- Sở trường: bút kí, tùy bút.
- Phong cách nghệ thuật:
+ Sự kết hợp nhuần nhuyễn
Giữa chất trí tuệ và chất trữ tình.
Nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều trên nền tảng hiểu biết sâu rộng về triết học, văn
hoá, lịch sử…
+ Hành văn: hướng nội (hướng vào bên trong, vào thế giới nội tâm nhiều trăn trở, thâm
trầm, sâu lắng), súc tích, mê đắm, tài hoa.

Tác phẩm
+ Xuất xứ:
- Viết tại Huế, 1981.
- In trong tập sách cùng tên > lấy tác phẩm làm nhan đề cho một tập bút kí => vị trí văn
học sử: tác phẩm bút kí tiêu biểu của nhà văn.
Sông Hương nhìn từ nguồn cội.
+ Nhìn từ cội nguồn: có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn: như một “bản trường
ca của rừng già” với nhiều tiết tấu trầm bổng.
- Rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn > hùng tráng.
- Mãnh liệt vượt qua ghềnh thác > ào ạt.
- Cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực sâu > dữ dội.
- Dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng > nên thơ,
tình tứ, mê đắm.
+ Biện pháp nhân hoá: Sông Hương như “cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”, với
“bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” > nữ tính, vừa dịu dàng vừa mãnh liệt
hoang sơ > không chỉ ngắm nghía “khuôn mặt kinh thành”, nhà văn còn khơi về nguồn
cội để khám phá vẻ đẹp tâm hồn thăm thẳm mà chính dòng sông cũng không muốn bộc
lộ.
+ Hé mở một phát hiện mới của tác giả về vẻ dẹp của Sông Hương: Người ta hay nghe
tới sông Hương gắn với Huế “dịu dàng pha lẫn trầm tư”, êm đềm, trong trẻo nay lại biết
tới phần dữ dội, mê hoặc, khó cưỡng của dòng sông.

Sông Hương trong mối quan hệ với kinh thành Huế


+ Quan hệ giữa sông Hương và có đô: “người tình mong đợi” >hành trình về cố đô được
hình dung như “một cuộc tìm kiếm có ý thức” một người tình trong mộng của người con
gái.
+ Hành trình về xuôi tìm “người tình mong đợi”
- Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại: là “cô gái đẹp ngủ mơ màng” > gợi nhớ truyện
cổ tích “Công chúa ngủ trong rừng” > vẻ đẹp lãng mạn của câu chuyện cổ.
- Khi ra khỏi vùng núi: “chuyển dòng liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột’", “vẽ
một hình cung thật tròn, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, vượt qua, đi giữa âm vang, trôi di
giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột” > linh hoạt,
rạo rực sức trẻ và sự khao khát.
- Qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo: “mềm như tấm lụa”
- Qua những dãy đồi tây nam thành phố: ánh lên “những mảng phản quang nhiều màu
sắc” “ sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
- Qua lăng tẩm đền đài: “vẻ đẹp trầm mặc nhất” “như triết lí, như cổ thi” > so sánh độc
đáo, giàu sức gợi > tả mặt nước phẳng lặng và không gian bờ bãi u tịnh bằng liên tưởng
tới triết học, thơ cổ > nổi bật vẻ thâm nghiêm, bao nhiêu thăng trầm lịch sử, bao nhiêu
dời đổi của các triều đại đã tạo thành trầm tích văn hóa lặn vào vẻ đẹp ngàn năm không
suy xuyển của dòng nước > thấp thoáng hình ảnh một “cái tôi” giàu suy tư.
- Khi gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ: tươi tắn và trẻ trung
Nhận xét:
• Sông Hương chảy qua nhiều địa danh khác nhau, mỗi địa danh mà chỉ nhắc thôi ngưòi
ta đã thấy bao tầng sâu văn hiến > nhiều dáng vẻ Sông Hương được khám phá ở nhiều
góc nhìn.
• Diện mạo: vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng.
• Bút pháp: kể và tả, sự liệt kê được thơ hoá bằng thụ cảm tài hoa, tinh tế.
+ Sông Hương khi chảy vào thành phố:
- Giữa những biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long: Vui tươi hẳn lên > tâm trạng của
một người đi xa “tìm đúng đường về”, nao nức bồi hồi giữa bờ bãi than thuộc của quê
hương.
- Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên: uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến > làm
cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu > so sánh lạ,
dùng tiếng “vâng” vốn trừu tượng, e ấp, ngập ngừng, ý vị, thiêng liêng trên bờ môi cô gái
đang yêu để tả hình dáng mềm mại nơi cánh cung của dòng sông > cái nhìn tình từ, thống
nhất, đem lại cho người đọc những khoái cảm thẩm mĩ độc đáo.
- Liên tưởng và suy tư của nghệ sĩ:
• So sánh sông Hương với sông Xen của Paris, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét > những tên
sông đã trở thành linh hồn của thủ đô các nước, thành biểu tượng văn hóa của quốc gia >
ngầm thể hiện lòng tự hào về sông Hương và kinh thành Huế. (Liên hệ với Nguyễn Trãi
trong “Bình Ngô đại cáo”: đặt các triều đại Việt Nam sánh ngang với các triều đại Trung
Hoa)
• Liên tưởng khi từ khói lửa miền Nam tới Lê –nin-grát, đứng nhìn sông Nê-va, lâu năm
xa Huế:
+ Sống dậy giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại: muốn hóa làm một con chim nhỏ đứng co một
chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển.
+ Cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói
một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo > Hai nghìn năm trước:
triết gia Hi Lạp “khóc suốt đời vì dòng sông trôi đi quá nhanh”.
+ Nhớ lại con sông Hương: “quý điệu chảy lững lờ của nó khi đi ngang thành phố”> điệu
slow tình cảm dành riêng cho Huế.
+ Khám phá vả cảm nhận sâu sắc đặc trưng riêng của dòng sông khi chảy qua kinh thành
Huế: điệu chảy êm đềm, chậm mềm, lặng lẽ, như không vương vấn chút nào cái xô bồ
của thời gian, sự nuối tiếc của con người vì mọi thứ một đi không trở lại > Sông Hương
nguyên sơ, trăm năm không đổi thay, như mang thần thái, quan niệm vũ trụ tuần hoàn
của Phương Đông, như điệu chảy thời gian bất di bất dịch trong thơ ca cổ điển Việt Nam
và Trung Hoa > Sông Hương mang cảm nghiệm thời gian và niềm tự hào của nhà thơ.
- Sông Hương “trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước”: người tài nữ đánh đàn lúc
đêm khuya > liên tưởng:
• Nền âm nhạc cổ điển Huế: “được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này” > Sông
Hương gắn với lịch sử âm nhạc lâu đồi của Huế, là cái nôi hình thành nền âm nhạc truyền
thống > gợi nhắc đến sông Nile, sông Hắng, sông Hoàng Hà – cũng là những cái nôi hình
thành những nền văn hóa lớn trên thế giới > nhà văn cảm nhận dòng sông ở góc độ văn
hóa.
• Nguyễn Du và Truyện Kiều > linh hồn, niềm tự hào của quốc văn Việt Nam > dòng
sông mang những thổn thức của cha ông, gắn bó với các giá trị văn hóa, văn học kinh
điển của dân tộc > là dòng chảy vắt từ quá khứ, mang bao phù sa, trầm tích văn hóa hiện
diện trong ngày hôm nay.
+ Nỗi lưu luyến khi rời khỏi kinh thành:
- Rời khỏi kinh thành, chếch về hướng chính bắc.
- Sực nhớ điều gì chưa kịp nói > đột ngột đổi dòng dể gặp lại thành phố lần cuối
- Liên tưởng:
• Rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người ở đây > nỗi vương vấn, chút lẳng lơ kín
đáo của tình yêu
• So sánh: sông Hương, kinh thành Huế – nàng Kiều, Kim Trọng > Tấm lòng người dân
Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở
+ Có 3 so sánh bắc cầu: sông Hương trong khúc ngoặt chia tay kinh thành Huế -Thúy
Kiều trong đêm tình tự gửi lời nguyện thề cùng Kim Trọng – người Châu Hóa mãi thủy
chung với xóm làng > từ dòng chảy khác lạ của dòng sông liên tưởng tới mối tình kín
đáo, e ấp, trước sau như nhất của Kim – Kiều, so sánh với tình yêu quê hương xứ sở của
người Huế > mượn tình cảm riêng để khái quát mối tình chung, làm cho tình yêu đất, yêu
nước không chung chung, to tát mà mềm mại, ý vị, tinh tế, mà đằm thắm, thiêng liêng,
sâu sắc.
Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử. với cuộc đời và thi ca
+ Trong mối quan hệ với lịch sử:
- Điểm lại dấu ấn dòng sông trong lịch sử dân tộc: thế kỉ XV ở “Dư địa chí” của Nguyễn
Trãi, thế kỉ XVIII qua chiến thắng của anh hùng Nguyễn Huệ, thế kí XIX với máu của
các cuộc khởi nghĩa, đi vào thời đại của cách mạng tháng Tám bằng những chiến công
rung chuyển > tham gia, trải nghiệm cùng những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc.
- Khái quát: Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết
giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến
công, để rồi nó trở vè với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất
nước.
+ Nếu như ở đoạn 1 và 2, sông Hương được cảm nhận chủ yếu trên bề rộng của không
gian địa lí với những liên tưởng độc đáo thì ở đoạn này, sông Hương được bố cục theo
chiều sâu của lịch sử. Nó ghi dấu những chiến công, lặng khóc cho những hi sinh âm
thầm, vùng lên quật khởi…> giống như một tấm gương soi vào lịch sử. Sông Hương như
biết bao chiến sĩ vô danh trên dải đất hình chữ S. (Sinh ra không phải cầm súng cầm mác
nhưng kẻ thù buộc ta phải đấu tran. Khi bình yên, họ lại trở về với cuộc sống bình
thường, trở về bản tính tự nhiên muôn thủa , như sông Hương “làm một người con gái dịu
dàng của đất nước”)
+ Trong mối quan hệ với thi ca:
- Có một dòng sông thi ca về sông Hương mà nước luôn đổi màu.(thơ Tản Đà, Cao Bá
Quát, Bà huyện Thanh Quan, Tố Hữu).
- Nhà thơ hỏi với trời, với đất: Ai đã đặt tên cho dòng sông?
• Đối tượng hỏi: đất, trời.
• Nội dung hỏi: ai đã đặt tên cho dòng sông? > câu hỏi dường như không thể có một lời
đáp cụ thể
• Mục đích:
+ Không phải để hỏi nguồn gốc của một danh xưng địa lý thong thường mà là một sự
nhấn mạnh, ẩn chứa niềm tự hào sâu sắc về dòng sông quê hương.
+ Gợi mở cho người đọc những hướng trả lời khác nhau bằng trải nghỉệm văn hóa của
bản thân.
+ Tên riêng của một dòng sông có thể do một cá nhân nào đó đặt ra, qua năm tháng, danh
xưng của tác giả bị mai một, nó trở thành tài sản chung của cộng đồng, Tuy nhiên, cái tên
đích thực của dòng sông phải là danh từ gắn với biểu tượng văn hóa, tinh thần, chiều sâu
lịch sử của một dân tộc. Ở khía cạnh này, chính những người dân bình thường – những
người sáng tạo ra văn hóa, văn học, lịch sử là những người “ đã đặt tên cho dòng sông”

Đặc sắc nghệ thuật:


+ Ngôn ngữ: phong phú, giàu hình ảnh, gợi cảm.
+ Hình ảnh: so sánh độc đáo bằng liên tưởng lãng mạn, đậm chất trữ tình.
+ Thủ pháp: nhân hóa > Sông Hương được cảm nhận như một sinh thể sống động (là
người con gái dịu dáng đằm thắm với tất cả các cung bậc cảm xúc) > thuận lợi để đan cài
những suy tưởng về văn hóa, lịch sử, về truyền thống con người và đất nước Việt Nam
6. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Về nhà văn Nguyễn Tuân và phong cách sáng tác của ông
Nguyễn Tuân (1910 -1987) sinh ra trong một gia đình truyền thống lâu đời ở đất Hà
thành. Ông là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, là nhà văn có cá tính và có
phong cách nghệ thuật độc đáo. Trước cách mạng, Nguyễn Tuân là nhà văn lãng mạn
cuối cùng. Sau cách mạng, ông là người đi nhiều, viết nhiều. Ông sáng tác truyện ngắn và
tùy bút nhưng nổi tiếng với thể loại tùy bút. Khi nhắc đến Nguyễn Tuân, người ta thường
nghĩ đến chữ “ngông”, không chỉ trong cuộc sống mà cả trong văn chương.
Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như để chơi “ngông” với thiên hạ. “Ngông” là một sự
chống trả với mọi thứ nền nếp, phép tắc, mọi thứ “đạo lí” thông thường của xã hội bằng
cách làm ngược lại với thái độ ngạo đời. Nhu cầu “chơi ngông” buộc Nguyễn Tuân phải
đẩy mọi cái thông thường tới cực đoan, thậm chí tới kì thuyết, nghịch thuyết. Chủ nghĩa
độc đáo trong sinh hoạt tất dẫn đến lối sống lập dị, trong sáng tác tất dẫn đến bất chấp nội
dung ý nghĩa nghiêm túc, tha hồ phóng bút để ném những gì kì lạ, oái oăm, cầu kì, rắc
rối. Cái “ngông” đó không phải do chủ nghĩa cá nhân bế tắc mà do “thiên lương” của một
trí thức yêu nước, biết coi trọng nhân cách, muốn tách mình ra và đặt mình lên trên
những cái tầm thường của những kẻ thỏa mãn với thân phận nô lệ.
Tuy nhiên cái “ngông” với một số biểu hiện nghệ thuật của nó vẫn để lại những thói
quen, những kinh nghiệm có thể dùng được để phục vụ cách mạng. Chẳng hạn giọng
khinh bạc của Nguyễn Tuân được phát huy trên lập trường mới là vũ khí lợi hại để đánh
vào những kẻ thù của dân tộc và cách mạng. Cái độc đáo, nếu không đẩy tới mức “chủ
nghĩa”, là một yêu cầu không thể thiếu của nghệ thuật chân chính.
Nguyễn Tuân mỗi khi cầm bút dường như lại đặt mình trong yêu cầu: phải chứng tỏ được
cái tài hoa, uyên bác hơn đời của mình. Ông có thói quen nhìn sự vật ở mặt mĩ thuật của
nó, cố tìm cho ra ở đấy những gì nên họa, nên thơ. Đồng thời mỗi đối tượng quan sát của
ông là một đối tượng khảo sát đến kì cùng […] Về cái vốn văn liệu, thi liệu của ông đã sử
dụng theo tinh thần mới, thường để phát hiện và diễn tả vẻ đẹp tuyệt vời của Tổ quốc
mình.
(Nguyễn Đăng Mạnh, Trích bài tựa Tuyển tập Nguyễn Tuân)

Về thể loại tùy bút


Tùy bút là một thể thuộc loại hình kí, gắn với bút kí, kí sự. Nét nổi bật của tùy bút là qua
việc ghi chép sự vật, sự việc, con người và sự kiện cụ thể có thực, tác giả chú trọng đến
viẹc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá của mình về con người và cuộc sống
hiện đại. So với các tiểu loại khác, tùy bút giàu chất trữ tình hơn cả, tuy vẫn không ít
những yếu tố chính luận và chất suy tưởng triết lí. Cấu trúc tùy bút nói chung không bị
ràng buộc, câu thúc bởi một cốt truyện cụ thể, song nội dung của nó vẫn được triển khai
theo cảm hứng chủ đạo, một tư tưởng chủ đề nhất định. Ngôn ngữ tùy bút giàu chất thơ.
(Từ điển thuật ngữ văn học)

Hình tượng con sông Đà.


Con sông Đà trên trang văn của Nguyễn Tuân hiện lên như một “nhân vật” có hai tính
cách trái ngược: hùng vĩ, hung bạo và trữ tình, thơ mộng.

1. Con sông Đà hùng vĩ, hung bạo:


– Con sông Đà hũng vĩ, hung bạo được tác giả khắc họa theo trình tự không gian, bằng
nhiều chi tiết đặc sắc. Trước hết Sông Đà hùng vĩ ở cảnh “đá bờ sông dựng vách thành”,
mặt sông chỗ ấy chỉ lúc “đúng ngọ” (lúc giữa trưa) mới có mặt trời. Có vách đá chẹt lòng
sông “như một cái yết hầu”, có quãng con nai, con hổ có lần vọt từ bờ này sang bờ kia.
Vì lòng sông hẹp, bờ sông là vách đá cao, nên ngồi trong khoang đò ở quãng sông ấy
“đang mùa hè mà cũng thấy lạnh.”
– Cảnh hùng vĩ của Sông Đà còn thể hiện ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng với hàng cây số
“nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Đây là
nơi nguy hiểm, người lái đò nào đi qua khúc sông này mà không thận trọng tay lái thì “dễ
lật ngửa bụng thuyền ra”.
– Sông Đà hùng vĩ còn ở những cái “hút nước” trên sông ở quãng Tà Mường Vát. Đó là
những xoáy nước khổng lồ, được tác giả so sánh “giống như cái giếng bê tông thả xuống
sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Nước ở đây “thở và kêu như của cống cái bị sặc”. Đây
là nơi rất nguy hiểm, không có thuyền nào dám men gần những cái “hút nước” ấy. Có
những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay “cây chuối ngược” rồi vụt
biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy “tan xác” ở
khuỷnh sông dưới. Tác giả đã tưởng tượng: có người quay phim táo tợn, ngồi trên chiếc
thuyền thúng, rồi xuống đáy “cái hút” Sông Đà mà thu hình thì sẽ có những thước phim
ấn tượng, gây cảm giác sợ hãi cho người xem.
– Nhưng hùng vĩ nhất, hung bạo nhất là thác Sông Đà. Thác Sông Đà có âm thanh dữ dội,
nhiều vẻ, được tác giả miêu tả: Còn xa lắm mới đến cái thác dưới mà đã nghe thấy tiếng
nước “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, so sánh độc đáo: tiếng nước thác nghe như là “oán
trách”, như là “van xin”, như là “khiêu khích”, rồi rống lên “như tiếng một ngàn con trâu
mộng” gầm thét khi bị cháy rừng.
– Hình ảnh thác Sông Đà là cả một “chân trời đá”. Mỗi hòn đá mang một dáng vẻ, nhưng
mặt hòn đá nào trong cũng “ngỗ ngược… nhăn nhúm, méo mó”. Sông Đà hình như đã
giao nhiệm vụ cho mỗi hòn đá và bày ra “thạch trận” để gây khó khăn, nguy hiểm cho
những con thuyền. “Thạch trận” Sông Đà có ba vòng vây. Vòng thứ nhất, thác Sông Đà
mở ra “năm cửa trận”, có bốn “cửa tử”, một “cửa sinh” nằm lập lờ ở phía tả ngạn. Vòng
thứ hai, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền”, cũng chỉ có
một “cửa sinh” nhưng lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn
nhưng bên phải, bên trái đều là “luồng chết” cả, cái “luồng sống” ở ngay giữa bọn đá hậu
vệ của con thác.
– Thác Sông Đà quả thực đã trở thành một loài thủy quái khổng lồ với tâm địa độc ác.
Với đặc điểm này, trong cái nhìn của tác giả, Sông Đà có nhiều lúc đã trở thành “kẻ thù
số một” của con người.

2. Con sông Đà trữ tình, thơ mộng.


– Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Sông Đà được tác giả quan sát và miêu tả ở nhiều góc
độ, điểm nhìn, không gian và thời gian khác nhau. Quan sát từ trên cao, Sông Đà có dòng
chảy uốn lượn, con sông như mái tóc người thiếu nữ Tây Bắc kiều diễm. Sông Đà “tuôn
dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
Nước Sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng: mùa xuân “dòng xanh
ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Những chi tiết miêu tả của tác giả gợi lên một liên
tưởng thú vị: giữa khung cảnh ngày xuân thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, Sông Đà
hiện lên như một mĩ nhân tràn đầy xuân sắc, một thiếu nữ đương độ xuân thì.
– Sau chuyến đi rừng dài ngày, từ bờ sông, tác giả đã thấy Sông Đà thật gợi cảm “như
một cố nhân”. Nhìn mặt nước Sông Đà thấy “loang loáng như như trẻ con nghịch chiếu
gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Đó là “màu nắng tháng ba Đường thi”, cùng với hình
ảnh bờ Sông Đà, bãi Sông Đà đầy những “chuồn chuồn bươm bướm” tạo nên một cảnh
sắc hấp dẫn. Nhà văn đã bộc lộ cảm xúc khi nhìn con sông bằng những so sánh tài hoa:
“Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại
chiêm bao đứt quãng”.
– Khi đi trên thuyền, tác giả thấy cảnh vật hai bên bờ Sông Đà vừa hoang sơ nhuốm màu
cổ tích vừa trù phú, tràn trề nhựa sống. Ven sông có những nương ngô “nhú lên mấy lá
ngô non đầu mùa”, có cỏ gianh đồi núi “đang ra những nõn búp”, có “đàn hươu cúi đầu
ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Nhà văn đã có một liên tưởng độc đáo: “Bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Dòng sông quãng này “lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên
thượng nguồn Tây Bắc”.

3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng:


– Tác giả đã miêu tả Sông Đà bằng những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc
đáo, bất ngờ và rất thú vị. Từ ngữ trong bài tùy bút thật phong phú, sống động, giàu hình
ảnh và có sức gợi cảm cao.
– Câu văn của tác giả rất đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi
thì chậm rãi, trữ tình. Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành một
sinh thể có tâm hồn, tâm trạng.

4. Tóm lại, hình tượng Sông Đà được tác giả khắc họa độc đáo, nổi bật với hai đặc
điểm: vừa hung vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình. Qua hình tượng con Sông Đà, nhà
văn ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, thể hiện tình cảm tha thiết của mình với đất
nước. Hình tượng con Sông Đà trong bài tùy bút gợi lên ở người đọc suy nghĩ về trách
nhiệm bảo vệ môi trường cho những dòng sông, bởi đó là quà tặng vô giá của thiên nhiên
giành cho con người.

Hình tượng người lái đò


1. Tác giả giới thiệu chung về người lái đò:
– Cuộc sống của người lái đò là “cuộc chiến đấu” hằng ngày với thiên nhiên Tây Bắc, có
nhiều lúc trông nó ra thành diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một của con người.
Trong cuộc mưa sinh đày gian khổ ấy, phẩm chất của người lái đò được bộc lộ một cách
rõ nét, thể hiện qua “cuộc chiến đấu gian lao” trên chiến trường Sông Đà, trên một quãng
thủy chiến ở mặt trận Sông Đà.
2. Người lái đò trí dũng, tài ba, giàu bản lĩnh và kinh nghiệm:
– Phẩm chất của người lái đò được thể hiện qua cuộc vượt tác sông Đà. Thác Sông Đà
bày ra “thạch trận” với ba vòng vây để tiêu diệt con thuyền. Nhưng người lái đò dũng
cảm, bình tĩnh, hiên ngang vượt qua từng vòng vây của thác.
– Ở vòng vây thứ nhất: Thác Sông Đà mở ra “năm của trận”, có bốn “cửa tử”, một “cửa
sinh”. Cửa sinh nằm “lập lờ ở phía tả ngạn”. Khi con thuyền xuất hiện, phối hợp với đá,
nước thác reo hò làm “thanh viện” cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Có hòn
đá trông nghiêng thì y như là đang hỏi cái thuyền “phải xưng tên tuổi trước khi giao
chiến”. Hòn đá khác thì lùi lại một chút và “thách thức” cái thuyền có giỏi thì tiến gần
vào. Không một chút nao núng, ông đò hai tay giữ mái chèo để khỏi bị hất lên khi sóng
trận địa phóng thẳng vào mình. Nhìn thấy con thuyền và người lái đò, mặt nước “hò la
vang dậy”, ùa vào mà “bẻ gãy cán chèo”, võ khí của người lái đò. Sóng nước thì như thể
quân liều mạng, vào sát nách mà “đá trái mà thúc gối” vào bụng và hông thuyền, có lúc
chúng “đội cả thuyền lên”. Nước bám lấy thuyền như đô vật “túm lấy thắt lưng ông đò
đòi lật ngửa mình ra”… Ông đò đã bị thương, nhưng ông “cố nén vết thương”, hai chân
vẫn “kẹp chặt lấy cuống lái”. Cuộc chiến đã đến hồi quyết liệt, sóng nước “đánh hồi lùng,
đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ hiểm. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe
rõ tiếng chỉ huy “ngắn gọn tỉnh táo” của người cầm lái. Và ông lái đò đã phá xong cái
“trùng vi thạch trận” vòng thứ nhất của thác Sông Đà.
– Không một chút nghỉ tay, ông lái đò tiếp tục phá luôn vòng vây thứ hai của thác Sông
Đà. Ở vòng thứ hai này, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử” để đánh lừa con
thuyền. Vẫn chỉ có một cửa sinh. Nếu ở vòng thứ nhất, cửa sinh nằm “lập lờ phía tả
ngạn”, thì ở vòng thứ hai này, cửa sinh lại “bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Đó chính
là khó khăn, thách thức đối với người lái đò. Nhưng ông lái đò đã “thuộc qui luật phục
kích” của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Ông hiểu rằng cưỡi lên thác Sông Đà phải “cưỡi
đến cùng như là cưỡi hổ”. Cuộc chiến của ông lái đò ở vòng thứ hai đã bắt đầu. Nắm chặt
cái bờm sóng đúng luồng, ông đò ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà
“phóng nhanh vào cửa sinh” rồi “lái miết một đường chéo” về phía cửa đá ấy. Thấy con
thuyền tiến vào, bốn năm bọn thủy quân bên bờ trái liền “xô ra” định níu con thuyền “lôi
vào tập đoàn cửa tử” mà tiêu diệt. Nhưng ông lái đò vẫn “nhớ mặt” bọn này, đứa thì ông
tránh mà “rảo bơi chèo lên”, đứa thì ông “đè sấn lên mà chặt đôi ra” để mở đường tiến.
Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền, chỉ còn vẳng tiếng reo hò của của sóng thác
luồng sinh. Tuy vậy, bọn chúng vẫn “không ngớt khiêu khích”, dù cái thằng đá tướng
đứng ở cửa vào đã “tiu nghỉu cái mặt xanh lè” vì bị thua cái thuyền du kích nhỏ bé.
– Vượt qua vòng thứ hai, ông lái đò còn phải vượt qua vòng thứ ba nữa. Ở vòng vây thứ
ba này, thác Sông Đà ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái đều là “luồng chết” cả. Cái
“luồng sống” ở chặng thứ ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Ông lái đò đã hiểu điều
đó. Ông cứ “phóng thẳng thuyền” chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền của ông đò “vút qua”
cổng đá cánh mở cánh khép với ba tầng cửa: cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng.
Con thuyền của ông đò “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa
tự động lái lượn được”. Vượt qua vòng vây thứ ba cũng là vượt qua hết thác Sông Đà.
Ông lái đò như một người chỉ huy lão luyện, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm. Ông là một
nghệ sĩ tài hoa với nghề vượt thác leo ghềnh.
3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng:
– Khắc họa hình tượng người lái đò Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã sử dụng nhiều
biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Miêu tả ông lái đò vượt thác, tác giả đã sử dụng tri thức của
nhiều lĩnh vực như thể thao, quân sự, võ thuật…, với những câu văn đa dạng, nhiều tầng,
giàu nhịp điệu, hối hả, gân guốc; với từ ngữ sống động, giàu hình ảnh, mới lạ, độc đáo.
4. Tóm lại, bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa thành
công hình ảnh người lái đò Sông Đà dũng cảm, tài năng, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm.
Qua hình tượng người lái đò, tác giả ngợi ca người lao động Tây Bắc với những phẩm
chất cao quí.
Hình tượng người lái đò, cũng thể hiện quan niệm của nhà văn: người anh hùng không
chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày. Hình tượng
người lái đò trong bài tùy bút của Nguyễn Tuân gợi ra ở mỗi chúng ta suy nghĩ về nhiệm
vụ của mình trong công cuộc xây dựng Tổ quốc Việt Nam yêu quí.

Nghệ thuật đoạn trích:


Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và thú vị. Từ ngữ sống
động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao. Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu,
lúc thì hối hả, gân guốc khi thì chậm rãi, trừ tình,

You might also like