Professional Documents
Culture Documents
1. VỢ CHỒNG A PHỦ
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt
Nam, là nhà văn có biệt tài nắm bắt rất nhanh nhạy những nét riêng trong phong tục, tập
quán của những miền đất mà ông đã đi qua. Ông có giọng văn kể chuyện hóm hỉnh, rất
có duyên và đầy sức hấp dẫn; có vốn ngôn ngữ bình dân phong phú và sử dụng nó rất
linh hoạt, đắc địa.
- Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc –
tập truyện được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Tập
Truyện Tây Bắc gồm ba truyện: Mường Giơn, viết về dân tộc Thái; Cứu đất cứu mường,
viết về dân tộc Mường; Vợ chồng A Phủ, viết về dân tộc Mèo (Mông) – mỗi truyện có
một dáng vẻ, sức hấp dẫn riêng, nhưng đọng lại lâu bền trong kí ức của nhiều người đọc
là truyện Vợ chồng A Phủ.
2 lần trỗi dậy của nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”
𝟏. Mị trở thành nô lệ nhà thống lí Pá Tra, bị đọa đày tới mức u uất, vô vọng về cuộc đời
mình:
Trở về nhà ăn lá ngón không thành, Mị quay lại nhà thống lí chấp nhận kiếp sống nô lệ.
Mị đành chôn vùi tuổi thanh xuân, thời con gái đẹp đẽ của mình. Ngày Mị càng không
nói, sống như cái xác không hồn, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Người đọc những
tưởng Mị sẽ chết tàn chết rụi trong căn buồng u tối chỉ có một lỗ cửa vuông bằng bàn tay,
ngày hay đêm chỉ thấy một màu trăng trắng mờ đục không biết là sương hay là nắng,
nhưng tiềm ẩn trong con người yếu đuối ấy vẫn chất chứa một sức sống tiềm tàng, như
hòn than còn hôi hổi dưới lớp tro tàn, chỉ chờ ngọn gió mùa xuân thổi tới…
𝟐. Lần trỗi dậy thứ nhất - Đêm tình xuân trở về đã đánh thức niềm yêu sống và khát vọng
tự do trong Mị:
𝟐.𝟏. Ngoài đầu núi tiếng sáo gọi bạn đi chơi mà lòng Mị thấy bổi hổi bồi hồi. Hòn than bị
vùi lấp dưới lớp tro tàn bấy lâu nay giờ bùng lên ngọn lửa yêu sống và khát khao tự do.
+ Mị nhẩm theo bài hát: “Mày có con trai con gái rồi / Mày đi làm nương/ Ta không có
con trai con gái / Ta đi tìm người yêu”.
+ Mị uống rượu, uống ừng ực từng bát để mong cuốn đi bao nỗi đồi cay đắng ư? Không!
Tiếng sáo và hơi men đã đưa Mị về với quá khứ đẹp đẽ. Mị nhớ lại khi xưa… rồi Mị
buồn bực lại uống… rồi lại thổi sáo bên bếp lửa… rồi lại lịm đi để quên tất cả. Nhưng
thật trớ trêu lòng Mị cứ phơi phới trở lại như bao ngày trước Mị được đi chơi, thổi kèn
thổi sáo, nhảy múa, ném còn cùng đám bạn… Mị thấy mình còn trẻ.
+ Khát vọng bùng lên, Mị muốn đi chơi, bao nhiêu người phụ nữ có chồng còn đi chơi
ngày tết huống chi Mị với A sử chẳng có lòng với nhau. Thật vô lí!
+ Quá khứ đẹp đẽ, hiện tại phũ phàng khiến Mị lại muốn ăn lá ngón mà chết ngay đi để
khỏi phải nghĩ, khỏi bị dằn vặt, khổ đau.
+ Nhưng tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn réo rắt ngoài đường, xoáy sâu vào trái tim đầy thổn
thức của Mị: “Anh ném pao, em không bắt / Em không yêu, quả pao rơi rồi”. Tiếng sáo
như một thứ âm thanh kì lạ len lỏi vào tận sâu thẳm tâm hồn vốn câm lặng của Mị để
khám phá, cứu vớt, thức tỉnh Mị ra khỏi cõi u mê. Tiếng sáo như một ma lực cứ rập rờn,
bay bổng, thôi thúc Mị khao khát được đi chơi, thôi thúc Mị bùng ra thành hành động:
+ Mị xắn thêm mỡ vào đĩa đèn khơi thêm ngọn lửa sáng…
+ Búi lại tóc, với tay lấy cái váy hoa.
+ Chẳng cần biết A sử đã bước vào buồng và hỏi: “Mày muốn đi chơi à?”, trong lòng Mị
chỉ còn tiếng sáo và khát vọng tự do…
=> Tô Hoài cảm nhận thấy ý thức đang sống dậy một cách mãnh liệt trong Mị. Mị nhận
ra mình còn trẻ đẹp, nhận ra thực trạng mất tự do bị đè nén bấy lâu nay, nhận ra quyền
làm người của mình. Tất cả đẩy Mị đến hành động quyết liệt không gì ngăn cản nổi: đi
chơi. Mị muốn thoát ra khỏi cái địa ngục tăm tối để được tự do đón gió xuân, hơi xuân,
tìm lại những ngày đẹp tươi đã mất…
𝟐.𝟐. Sức sống tiềm tàng trong Mị, mặc dù bị chà đạp, hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần:
Đau đớn thay! Khát vọng vừa bùng lên đã bị A sử chặn đứng lại. Sợi dây tàn bạo đã cuốn
chặt Mị vào cây cột trong căn buồng u tối cho tới sáng hôm sau. Nhưng A sử có thể trói
được thể xác, làm sao có thể trói được tinh thần Mị!
+ Hơi rượu nồng nàn nâng tâm hồn, tinh thần Mị bay theo tiếng sáo, mộng du theo tiếng
sáo. “Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”.
+ Mị quên là mình đang bị trói, thân xác đang đau đớn, tê dại “Mị vùng bước đi”. Chi tiết
diễn tả thật quyết liệt lòng ham sống của Mị bất chấp hiện tại bi đát, khổ đau: muốn bước
đi, muốn bay lên thoát khỏi địa ngục này.
+ Bước chân vùng đi đã đánh thức Mị trở lại với hiện tại, sợi dây siết chặt vào da thịt như
dứt ra từng mảng, đau nhức. Mị nhận ra sự thật tàn khốc. Giấc mơ đẹp vụt tan biến, Mị
“thổn thức nghĩ mình không bằng con trâu con ngựa”. Hai biểu tượng của ước mơ, tự do
và thực tại hiện ra trong hai âm thanh đối nghịch: tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng
chân ngựa đạp vào vách khan! Thực tại phũ phàng trở về lấn át, bóp nghẹt trái tim Mị.
Đau đớn, xót xa Mị nhận ra kiếp một con người mà không bằng kiếp vật. “Đời người đàn
bà lấy chồng ở Hồng Ngài một đời chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”, nhưng với
Mị đi theo đuôi con ngựa của chồng cũng chẳng bao giờ được.
+ Suốt đêm hôm ấy, Mị bị trói đứng trong hơi men nồng nàn, trong tiếng sáo tình tứ đầy
ai oán. Nhưng một điều kì lạ sức sống tiềm tàng luôn ẩn chứa trong con ngươi Mị, tiếp
cho Mị một sức mạnh, quên đi nỗi đau thể xác để tâm hồn được bay lên, giải phóng theo
tiếng sáo. Tiếng sáo cứ lặp đi lặp lại như một bài ca về sức sống bất diệt của con người,
Nhà văn diễn tả tâm trạng Mị thật xác thực: “lúc lại nồng nàn tha thiết. Hơi rượu toả.
Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa, Mị lúc mê, lúc tỉnh”… khiến người đọc không khỏi xúc
động, thương cảm cho người phụ nữ bất hạnh.
=> Khép lại khát vọng được đi chơi, được sống tự do trong những đêm tình xuân, Mị lại
rơi vào tình cảnh bi đát còn hơn cả trước đó. Kết cục ấy cũng là lời lên án, tố cáo đốì với
hành động tàn độc của cha con thống lí, đại diện cho giai cấp thống trị ở miền núi đã áp
bức con người tối mức không còn nhân tính.
𝟑. Lần trỗi dậy thứ hai - Trong đêm mùa đông, khi A Phủ bị trói:
+ Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.
+ Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị đồng cảm, cô chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình
trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày
mai người kia sẽ chết, chết đau, ... phải chết”. Tình thương, niềm đồng cảm giữa những
con người cùng cảnh ngộ ấy đã lấn át nỗi sợ và lớn hơn cái chết, nó đã dẫn đến hành
động táo bạo: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ, cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài.
+ Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ.
+ Mị sợ cái chết, sợ nỗi khổ sẽ phải gánh chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm
lối thoát vượt ra khỏi địa ngục trần gian.
=> Đây là hành động tuy tự phát nhưng là kết quả của một quá trình, nó minh chứng sức
sống tiềm tàng, âm ỉ không ngừng trong con người Mị. Nó là một bước ngoặt trong tính
cách và cuộc đời Mị. Ý thức được nỗi khổ của kiếp sống tủi nhục của mình, Mị đã vượt
qua nhà ngục thống lí Pá Tra với biết bao thế lực hà khắc của cường quyền, hủ tục, lễ
giáo phong kiến. Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động
của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.
- Nghệ thuật: Ngôn ngữ đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển
điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.
- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của
những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca
vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.
Những năm tháng kháng chiến anh dũng, hào hùng của dân tộc chính là đề tài thu hút sự
quan tâm của tất cả các tác giả văn học. Tô Hoài không nằm ngoài mạch chảy chung của
thời đại, nhưng cái riêng của ông chính là tìm đến những cái rất mới, rất lạ để phán ảnh
hiện thực cuộc sống. Ngòi bút của ông hướng về những người nông dân miền núi, tìm
kiếm và phát hiện vẻ đẹp của họ. Vợ chồng A Phủ chính là tác phẩm nghệ thuật thành
công nhất, đánh dấu bước chuyển mình của tác giả, thấm đẫm tinh thần nhân đạo và chất
hiện thực sâu sắc.
2. VỢ NHẶT
Cô bị trói gô như súc nô, bắt về nhà thống lí Pá Tra “cũng trình ma” như một món hàng.
Người ta làm gì cuộc đời cô, thực sự lúc đó cô không biết, mãi cho đến lúc A Sử đứng
trước mặt bố cô tuyên bố đã cúng trình ma, thôi thì cô đã là người nhà thống lí mất rồi!
Một cú đánh ngã tự do, một cái roi thật sự thẳng. Mị đi từ cuộc đời đẹp như trong tranh
xuống hố sâu của địa ngục – nơi mà kẻ khác sống bằng âm thanh của tiếng than và hít thở
mùi máu, mà mỗi bước đi là một nỗi tủi nhục đến tột cùng. Mị sống không bằng chết,
sống như một xác người trong kiếp cầm súc và rồi “có áp bức có đấu tranh”. Cô tìm về
cha già, tay cầm nắm lá ngón. “Lá ngón” xuất hiện lần đầu tiên như một lối thoát đen.
Đây là lối thoát ngắn và hữu hiệu nhất. Nhưng lại là lối thoát cho những ai muốn chấm
dứt hiện tại nghiệt ngã chứ không phải lối thoát cho người muốn sang trang mới. Rõ ràng,
đây là sự phản kháng quyết liệt nhưng vô vọng – một hình thức phản kháng bị động. Và
sự xuất hiện của “lá ngón” lúc này mang tầm ý nghĩa tố cáo cao độ: Sự dã man của xã hội
ép buộc con người lương thiện đi tìm cái chết. Nó – lá ngón, cũng là hiện thân cho nỗi
thống khổ của nhân dân, cho những tích tụ đắng cay, đầy đau đớn và uất hận. Cô ném
phịch xuống đất nắm lá ngón mình tự tìm hái trong rừng như một sự chuẩn bị sẵn sàng
trước đó, ném trong nước mắt. Tự mình tìm đến lá ngón – độc dược của rừng xanh – đã
là sự can đảm của người con gái. Nhưng ném đi độc dược để tiếp tục sống khổ lại càng
can đảm hơn. Đối với Mị, thà chết đi hơn sống nhục, nhưng rồi lại thà sống nhục còn hơn
bất hiếu. Chính chữ hiếu là bản lĩnh cao đẹp nơi người con gái trẻ. Đây cũng chính là
nguyên nhân cốt yếu cho sự can đảm bán mình chuộc cha của Vương Thuý Kiều trong
“Đoạn trường tân thanh” của đại thi hào Nguyễn Du. Cả hai người con gái tài năng, sắc
diện và nhân phẩm tuyệt vời, điều đó kết cục chung vì chế độ xấu xa mục rữa, những
thiên hương vô phúc sinh nhầm thời, những cánh hoa trôi dạt trong bão dữ. “Lá ngón”
như vậy, đã mang một tầng ý nghĩa nhân sinh tuy bản thân tượng trưng cho cái chết. Ta
có thể nhìn thấy sự kiên quyết và chút gì đó vụt sáng trong lòng Mị khi cô tìm đến lá
ngón với ý nghĩ đã tìm ra lối thoát. Nhưng đồng thời cũng nhận ra nỗi đớn lòng của cô
khi thấy rằng chưa phải lúc và lối thoát ấy một lần nữa tuột khỏi tầm tay. Nhưng rồi cơn
đau nào cũng phải qua đi đi sau thời hạn định. Mị trở về, tiếp tục sống cho hết kiếp cùng
mạt nhục nhã.
Nhiều năm trôi qua, cha già – người thân duy nhất cũng qua đời nhưng cái thôi thúc giải
thoát trong lồng ngực son nay đã tắt. Mị không còn nghĩ đến
đấu tranh bởi lẽ sống hay chết đối với cô lúc này không quan trọng nữa và đương nhên
“lá ngón” cũng chẳng còn lảng vảng trong tâm trí đã ngủ quên. Đó chính là sự xuất hiện
lần thứ hai của “lá ngón” vì ở lần này, “lá ngón” xuất hiện bằng cách ra đi. Lá ngón phai
mờ tượng trưng cho sự ham sống đã nguội lạnh. Nỗi ám ảnh về cái chết giờ đây không
còn gặm nhấm tâm hồn cho sự tự do của lí trí. Nhưng đối với Mị, đó lại là nỗi đáng sợ!
“Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Dần thay thế cho “phản kháng” là “chấp nhận
chịu đựng”.
Một cô gái với bản lĩnh tự hái thuốc độc cho mình nay buông xuôi chấp thuận. Cô buông
xuôi không bởi cô chấp thuận, cô đông thuận mà sự thả trôi kia là kết cục của cuộc tự đấu
tranh trong đơn độc, dai dẳng cuối cùng kết thúc bằng sự mỏi mệt và tuyệt vọng đổ ập
xuống đôi bờ vai yếu ớt. Vậy ra, “lá ngón” kia đang ngầm kêu thay tiếng đồng bào hướng
về Cách mạng. Chẳng biết tự bao giờ, Mị quay cuồng vào công việc nhà Pá Tra như một
cái máy và cho tới khi trâu ngựa đã về chuồng, cô vẫn còn đứng đó tiếp tục mãi không
thôi. Lúc nào cũng vậy, ngồi một mình trong căn buồng tối trông ra lôc vuông trắng đục
chẳng biết “của sương hay nắng”, Mị luôn đăm đắm một ánh nhìn. Ánh nhìn ấy vừa khát
khao, vừa hồi tưởng. Nếu như xem lỗ vuông nơi căn phòng là vách ngăn giữa lao tù và tự
do, thì ít ra mỗi khi nhìn vào đó, Mị vẫn còn chút gì khao khát sống. Còn đối với “lá
ngón”, nghĩ đến nó là nghĩ đến cái chết và chỉ khi Mị muốn kết liễu đời mình thì lá ngón
lại là hình ảnh mặc định đầu tiên hiện ra. Rồi đêm nay, đêm tình mùa xuân lại kéo đến –
cái đêm tình tứ lứa đôi ngọt ngào, đêm của những xúc cảm yêu thương được chuẩn bị
trước bởi “những chiếc váy hoa phơi trên mõm đá” hay đêm được tượng hình bởi tiếng
sáo mê li. Đêm hội mùa xuân vẫn đến và đi như hằng năm vẫn thế. Và năm nay, đến hẹn
lại lên, đêm được chờ mong lại đến. Nó đến vẫn với diện mạo xinh tươi và bản chất ngọt
ngào. Vẫn rừng xanh đó, vẫn triền núi xưa nhưng người đưa đã khác. Đêm xuân ny vắng
bóng má đào. Tiếng sáo cũ vẫn cứ vô tư bay đi cùng gió với mây, đi tìm người tình ngày
nào lâu nay vắng bóng. Rồi như trách oán, như không muốn đi, tiếng sáo ấy cứ réo mãi
bên tai người con gái như lưu luyến, tần ngần. Như một phép tiên, đôi môi tưởng chừng
đã bị phong kín bởi thời gian nay mấp máy điều gì! Gì thế kia? Hỡi ôi bài hát cũ – bài hát
thiết tha dạo cùng khúc nhạc rừng vàng. Hình ảnh ấy ôi thật xót xa. Người con gái làm
say đắm biết bao chàng trai, bông hoa của núi rừng hùng vĩ ngày nào biến mất đi trong
đêm oan nghiệt. Để giờ đây chỉ còn tiếng hát nhẩm ngày xưa. Mị đang hát, đang cố hát
để kéo về những kí ức xúc cảm vàng son. Sau không biết bao ngày sống kiếp nô lệ, Mị
vẫn nhớ từng khúc nhạc từng lời ca. Chứng tỏ trong cô, vàng son không khép. Quá khứ
và thực tại là hai đỉnh trái chiều và sống về quá khứ giữa thực tại tài nhẫn, Mị đang khao
khát vô cùng, con tim cô vẫn còn thổn thức. Kí ức kéo về tiếp theo cho Mị lòng can đảm,
lòng can đảm tồn tại khiến Mị muốn sống về kí ức và cô tìm đến rượu để tiếp tục lối đi
trái chiều với thời gian. Người ta uống rượu thì say, còn Mị càng uống càng tỉnh. Mị tỉnh
bởi Mị nhớ lại mình ngày xưa và đem so với mình hiện tại như chợt giật mình cho những
gì bấy lâu xảy ra với bản thân. Mị tỉnh bởi Mị nhớ lại những đối xử dã man của những kẻ
đón mạt ấy dành cho cô. Rồi cái ý thức cá nhân dâng lên mạnh mẽ mà một khi ý thức ấy
đỉnh điểm thì Mị lại càng không thể chấp nhận nhục nhã đớn đau trong cái cảnh “sống
không ra người” này đây. Sao Mị có thể?! Giải thoát! Tự do! Mị không thể tự do thể xác
và... cô sẽ tự do tâm hồn, và ... lá ngón một lần nữa xuất hiện. Ai cần cho ai và ai phụ
thuộc ai?! Khi Mị muốn giải thoát, Mị tìm tới lá ngón hay là khi Mị muốn chết, lá ngón
lại hiện về? “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không
buồn nhớ lại nữa”. Càng nhớ càng buồn, càng buồn càng khổ. Thà chết đi cho xong chứ
nhớ lại làm chi khi mình bất khả kháng! Như vậy, lá ngón lại lần nữa xuất hiện với tầng ý
nghĩa giải thoát, giải thoát khỏi địa ngục trần gian. Địa ngục trần gian ở đây không đơn
giản là nỗi đau xác thịt và linh hồn khi bị hành hạ, mà địa ngục thật sự khi phải sống
trong lầm than với những hồi ức ngọt ngào cứ hiện hữu.Và “lá ngón” lại nâng tầm ý
nghĩa lên một nấc nữa, đó là “sự tự ý thức”. Đánh dấu sự trở lại của ý thức sống, đánh
dấu sự thức tỉnh của một tâm hồn tưởng chừng như đã “chết đi trong cõi sống”. Có lẽ lần
xuất hiện này của lá ngón là quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất. Bởi lẽ, Mị nghĩ đến lá ngón
với sự cương quyết tột cùng, trạng thái phẫn nộ và ý thức rõ nhất vì giờ đây, cô không
còn cái gì để hối tiếc, để luyến lưu. Tuổi xuân đầu đời – thời gian đẹp nhất – nay đã hết,
cha già – nguồn yêu thương vô tận cũng không còn. Lòng Mị nay là cõi chết. Lá ngón đối
với nàng không là liều thuốc độc, mà trở thành thứ phương tiện, hình thức, con đường để
đi đến một bến bờ khác không còn đớn đau, để phản kháng lại cái xã hội đương thời mạt
hạn. Mị tìm đến lá ngón là tìm đến cái chết như một sự tự cứu và phản kháng. Ta bắt gặp
trong văn học những cảnh ngộ bi thương tương tự: Thuý Kiều trong “Đoạn trường tân
thanh” đã tự vẫn, dù không thành, để bảo quản chữ “tiết”, không chấp nhận nhơ nhuốc
tấm thân, không thể tiếp tục tồn tại với xã hội bẩn thỉu; Chí Phèo, có lẽ vì là bậc nam
nhân nên cái chết của Chí diễn ra có phần chủ động và tác động lớn. Vì anh tự tay đâm
chết bá Kiến – tượng trưng cho việc kết thúc cuộc đời dưới đáy xã hội mục ruỗng và tự
tay kết liễu đời mình – như thể làm con người đúng nghĩa, dù cái “bắt đầu” đó cũng là
dấu chấm hết của anh. Cùng thuộc mô típ nhân vật mang số phận bi đát, những con người
đáng quý trọng nhưng “sinh bất phùng thời”, Mị là hình ảnh của đồng bào miền cao Tây
Bắc sống kiếp nô cầm trong xã hộ của bọn thực dân phong kiến, cũng như đồng bào miền
xuôi hay khắp mọi miền đất nước khi ánh sáng cách mạng chưa kịp soi sáng. Mị cũng có
sự tự tôn của mình, nhưng để bảo vệ sự tự tôn ấy, cô đã chọn lá ngón. Và có lẽ, đó là lẽ
đương nhiên đối với một cô gái đơn độc có tâm hồn quá sáng trong nhưng vị thế lại quá
nhỏ nhoi, nhất là khi ánh sáng cách mạng chưa thể rọi đến Hồng Ngài xa xăm.
Xuất sắc chấm màu xanh lá ngón vào bức tranh xô bồ của thời cuộc, Tô Hoài đã đưa “lá
ngón” t ừ chỗ độc dược ngàn đời của núi rừng, là cái chết từ thiên nhiên, nay bỗng nhiên
lại là sự giải thoát. Lá ngón xuất hiện ba lần với ba tầng ý nghĩa ngày càng sâu sắc hơn,
dữ dội hơn. Cái độc của lá ngón vậy ra vẫn còn thua cái độc của xã hội. Lá càng độc là
đớn đau đồng bào chịu càng nhiều. Lá ngón trở thành dấu hiệu báo động cho sự khẩn
thiết, cầu cứu của đồng bào miền cao đối với Cách mạng còn quá xa và cũng chính là tư
tưởng nhân đạo cao đẹp mà tác giả muốn gửi gắm đến chúng ta qua hồn thiêng gió núi
của đại ngàn Tây Bắc xa xăm!
2. Chi tiết “căn buồng Mị nằm” và chi tiết “tiếng sáo đêm xuân” trong Vợ chồng A
Phủ
Tô Hoài Sống gắn bó nghĩa tình cùng mảnh đất Tây Bắc, với sở trường quan sát những
nét riêng về phong tục văn hóa của những con người nơi cao nguyên đá mờ sương ấy, Tô
Hoài đã khắc họa được những chi tiết nghệ thuật đặc sắc góp phần thể hiện chủ đề của tác
phẩm và góp thêm nét vẽ riêng vào bức tranh Tây Bắc.
Với gam màu xám lạnh, u tối, Tô Hoài đã cho người đọc cảm nhận được không gian sống
của Mị: “Mỗi ngày, Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Căn buồng
Mị nằm kín mít, chỉ có ô vuông bằng bàn tay trông ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là
sương hay là nắng. Mị cứ ngồi đấy mà trông ra ngoài, đến khi nào chết thì thôi”. Đây là
chi tiết nằm ở phần giữa tác phẩm, miêu tả không gian sống của Mị ở nhà thống lí Pa Tra.
Sau ý định tìm lá ngón tự tử không thành vì thương cha, Mị dập tắt ngọn lửa lòng về nhà
thống lí và tiếp tục chôn vùi tuổi xuân của mình trong địa ngục trần gian đó. Căn buồng
ấy kín mít, có ô vuông bằng bàn tay. Hình ảnh đó giàu sức gợi, khiến người ta liên tưởng
đến nhà tù, một thứ ngục thất đang giam hãm đời Mị. Đó là một không gian nhỏ bé, trơ
trọi đối lập với cái mênh mông, rộng lớn của đất trời Tây Bắc. Cái ngột ngạt, tù túng
trong căn buồng Mị nằm đối lập với một thế giới bên ngoài lồng lộng của mây trời, gió
núi, của hương hoa rừng Tây Bắc, nó đối lập với cái giàu có, tấp nập của nhà thống Lí Pá
Tra. Nó không phải là căn buồng của cô con dâu nhà giàu có nhiều tiền nhiều thuốc phiện
nhất vùng mà đó là chỗ ở của con ở, thậm chí không bằng con ở. Căn buồng ấy giống
như một miền đời bị quên lãng Trong căn buồng ấy, chân dung số phận khổ đau của đời
Mị được nhà văn khắc họa thật rõ nét: Mị sống câm lặng như đá núi “ không nói”, lầm
lụi, chậm chạp trơ lì như “ con rùa” quẩn quanh nơi xó cửa. Nếu ở trên, Mị có lúc tưởng
mình là “con trâu con ngựa” - nhưng hình ảnh đó mới chỉ gợi nỗi khổ cực vì lao động vất
vả thì hình ảnh “ con rùa” có sức ám ảnh mang ý nghĩa về thân phận bị đè nén, bị bỏ
quên. Mị mất hết ý niệm về không gian, thời gian: chỉ thấy trăng trắng không biết là
sương hay là nắng. Cuộc sống của Mị không có sắc màu, âm thanh, không có cả ngắn dài
thời gian, không chia biệt đêm ngay. Không chỉ có thể, Mị còn không có ý thức về sự
sống đợi đến bao giờ chết thì thôi. Phải chăng thứ ngục thất tinh thần ấy đã làm héo mòn,
tàn úa từng ngày từng tháng tâm hồn Mị. Mị sống như loài thảo mộc cỏ cây không hương
không sắc, lay lắt, dật dờ, vô hồn, vô cảm. Không còn nữa một cô Mị đẹp như đóa ban
trắng của núi rừng Tây Bắc vừa thắm sắc, đượm hương, một người cô Mị khao khát tình
yêu và tự do có ý thức sâu sắc về quyền sống, từng thiết tha xin cha “đừng gả con cho
nhà giàu”, từng có ý định ăn lá ngón là kết thúc chuỗi ngày sống mà như chết. Như vậy,
vượt lên trên nghĩa tả thực về không gian sống của MỊ, căn buồng ấy là biểu tượng cho
ngục thất tinh thần, địa ngục trần gian giam cầm khát vọng sống, khát vọng tự do của đời
Mị. Chi tiết đó đã góp phần thể hiện tư tưởng, thái độ của nhà văn.
Nhà văn đã tố cáo sâu sắc chế độ cai trị miền núi đã đầy đọa con người, làm tê liệt quyền
sống, quyền khao khát hạnh phúc của họ. Đồng thời, Tô Hoài bày tỏ tấm lòng xót xa
thương cảm cho số phận người phụ nữ vùng núi cao Tây Bắc khi Cách mạng chưa về. Đó
cũng là cảm hứng nhân đạo quen thuộc trong văn học Nếu hình ảnh căn buồng Mị nằm là
một trong những chi tiết có sức ám ảnh ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ nhất thì hình
tượng tiếng sáo đêm tình mùa xuân lại có sức quyến rũ lòng người nhất.
Hình tượng tiếng sáo nằm ở phần giữa tác phẩm, ngòi bút Tô Hoài đã rất dụng công để
miêu tả những thanh âm của tiếng sáo vùng núi cao Tây Bắc trong đêm tình mùa xuân.
Sau những chuỗi ngày sống chỉ mang ý nghĩa của sự tồn tại,tê liệt, chai lì cái nồng nàn
của lửa, của men rượu, cái tươi vui chộn rộn của mùa xuân Hồng Ngài đã đánh thức tâm
hồn Mị, tiếng sáo đã vọng đến đôi tai Mị. Tiếng sáo được miêu tả từ xa đến gần, với
những cung bậc khác nhau: khi tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếng sáo văng vẳng gọi
bạn đầu làng, tiếng sáo lửng lơ bay ngoài đường, trong đầu Mị , rập rờn tiếng sáo, tiếng
sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi Trước hết, đây là chi tiết có ý nghĩa tả thực về nét
đẹp văn hóa của miền núi cao Tây Bắc, khiến người ta liên tưởng đến âm thanh quen
thuộc, gần gũi của núi rừng trong những đêm xuân ở Hồng Ngài. Nếu Tây Nguyên có
tiếng cồng, tiếng chiêng âm vang khắp bản làng, rừng núi, nếu miền quê đồng bằng Bắc
Bộ có tiếng trống chèo, tiếng hát giao duyên, tiếng đàn bầu thánh thót thì với những
người dân Tây Bắc, họ vốn ít nói, kiệm lời, họ gửi lòng mình vào tiếng khèn, tiếng sáo,
tiếng kèn môi, thổi lá để trao gửi tâm tình, để mời gọi bạn yêu. Tiếng sáo vang lên với
những cung bậc khác nhau, khi xa khi gần, khi trầm bổng khoan thai, khi rập rờn, khi lấp
ló... m thanh tiếng sao vang lên những ca từ mộc mạc thể hiện lẽ sống hồn nhiên, yêu đời,
phóng khoáng của những con người nơi đây “ Mày có con trai, con gái ta đi tìm người
yêu...”. Tiếng sáo mang đến chất thơ, làm dịu mát cuộc sống trăm đắng ngàn cay với nỗi
đời cơ cực của con người nơi đây, khiến mảnh đất Tây Bắc vốn xa lạ, hoang vu trở nên
gần gũi, thơ mộng. Không dừng lại ở ý nghĩa tả thực, chi tiết tiếng sáo góp phần diễn tả
vẻ đẹp tâm hồn Mị trong đêm tình mùa xuân. Tiếng sáo lay thức tâm hồn Mị, khiến lòng
Mị thiết tha, bổi hồi, nhẩm thầm bài hát của người đang thổi và những kí ức đẹp đẽ nồng
nàn của người con gái đã trở về. Tiếng sáo đã làm bừng
lên khát vọng sống, Mị ý thức hiện tại mình vẫn còn trẻ, Mị ý thức về quyền hạnh phúc “
Mị muốn đi chơi”, Mị sửa soạn vào nhà...Tiếng sáo khiến Mị quên đi thực tại khổ đau:
khi Mị định ăn lá ngón để chết ngay chứ không muốn nghĩ về ngày trước nữa thì tiếng
sáo lửng lơ ngoài đường lại đưa Mị trở về với niềm khát sống, khi bị trói đứng cả đêm,
tâm hồn Mị vẫn bay bổng cùng tiếng sáo, tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi. Nếu
căn buồng Mị nằm biểu tượng cho thứ ngục thất tinh thần giam hãm đời Mị, thì hình
tượng tiếng sáo trở thành biểu tượng đẹp đẽ cho khát vọng tự do, khát vọng sống, khát
vọng tình yêu trong tâm hồn Mị. Chi tiết góp phần thể hiện tư tưởng, thái độ của nhà văn
và thành công của ngòi bút Tô Hoài. Đó là tấm lòng nâng niu trân trọng của nhà văn đối
với nét đẹp văn hóa của và vẻ đẹp tâm hồn con người Tây Bắc. Chi tiết giàu chất thơ, lai
láng dư vị trữ tình có sức sống lâu bền trong tâm hồn người đọc.
TTS - CÁC CHI TIẾT NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU TRONG TÁC PHẨM VỢ
NHẶT
Chi tiết “nụ cười và nước mắt”, chi tiết “nồi cháo cám” trong Vợ nhặt - Kim Lân
Chọn nạn đói năm 1945 – trang sử bi thương nhất của lịch sử dân tộc làm bối cảnh của
câu chuyện, Kim Lân đã kể cho ta nghe một câu chuyện lạ lùng nhất trong cuộc sống:
chuyện anh Tràng bỗng nhiên có người đàn bà về trong những ngày tối sầm vì đói khát
ấy. Chính tình huống độc đáo và éo le ấy đã nảy sinh bao nét tâm lí ngổn ngang, bao
niềm vui, nỗi buồn. Và hình ảnh nụ cười, nước mắt trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm
được coi là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc góp phần thể hiện tài năng của Kim Lân
trong việc khắc họa tâm lí nhân vật và thể hiện tư tưởng nhà văn, chủ đề tác phẩm.
Hình ảnh nụ cười được nhà văn nhắc đến nhiều lần khi khắc họa chân dung nhân vật
Tràng. Khi đẩy xe bò thóc hắn vuốt mồ hôi trên mặt cười, trên đường dẫn người vợ nhặt
về: hắn tủm tỉm cười, hai con mắt sáng lên lấp lánh,khi trẻ con trêu chọc Tràng bật cười
Bố ranh. Khi người vợ nén tiếng thở dài trước quang cảnh của nhà Tràng, hắn “ quay lại
nhìn thị cười cười”. Bà cụ Tứ về, Tràng tươi cười mời mẹ ngồi lên giường... Nụ cười của
Tràng đã góp phần khắc họa tính cách, tâm lí tính cách thuần phác, nhân hậu, yêu đời của
gã trai quê mùa, thô kệch; nói cùng ta niềm hạnh phúc, sung sướng của con người trong
tận cùng đói khát vẫn không thôi khao khát tình yêu, tổ ấm gia đình.Đặt trong bối cảnh
của câu truyện viết về nạn đói thảm thương 1945, hình ảnh nụ cười của Tràng (lặp lại 8
lần) giống như cơn gió mát lành làm dịu đi cái căng thẳng ngột ngạt, cái trăm đắng ngàn
cay của con người ngày đói, thể hiện cái nhìn lạc quan, niềm hi vọng của nhà văn vào
cuộc sống. Phải chăng, nhà văn đã gửi gắm một thông điệp giản dị: chỉ có tình yêu
thương mới có thể mang đến niềm vui, nụ cười hạnh phúc cho con người. Bên cạnh việc
khắc họa tâm lí của Tràng qua nụ cười, Kim Lân cũng chú ý nét tâm lí của nhân vật bà cụ
Tứ qua chi tiết giọt nước mắt. Khi hiểu ra cơ sự nhặt vợ của con “ kẽ mắt kèm nhèm của
bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”.Khi lo lắng cho cảnh ngộ đói khát của chúng: bà cụ
nghẹn lời không nói, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Khi nghe thấy tiếng trống thúc
thuế, bà vội ngoảnh mặt đi, bà không muốn để con dâu nhìn thấy bà khóc. Giọt nước mắt
của bà cụ Tứ góp phần thể hiện nỗi xót xa của người mẹ trước cảnh ngộ của con lấy vợ
giữa “tao đoạn” và số phận không được bằng người. Việc lấy vợ của con là vui nhưng vì
cái cái đói, cái chết mà khiến bà xót xa, tủi thân, tủi phận. Giọt nước mắt khổ đau ấy như
lời kết án sâu sắc thực dân Pháp, phát xít Nhật đẩy dân ta đến thảm cảnh cùng cực đó.
Giọt nước mắt cho thấy tấm lòng chan chứa yêu thương con của người mẹ, những giọt
nước mắt như cố kìm nén (rỉ ra hai dòng nước mắt, ngoảnh vội ra ngoài). Thương con,
mừng lòng trước hạnh phúc của con, bà đào sâu chôn chặt, dấu đi nỗi lo lắng, bà khóc
thầm, khóc vụng, để rồi chỉ nói những lời yêu thương, động viên con.
Nụ cười – nước mắt là biểu hiện của hai trạng thái cảm xúc đối lập nhau nhưng cùng lấp
lánh ánh sáng của tình người, của tình yêu thương giữa những ngày đói khát, chúng góp
phần thể hiện sự éo le của tình huống truyện, làm nên giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo
sâu sắc. Khắc họa hình ảnh giàu ý nghĩa đó, Kim Lân chứng tỏ là nhà văn thấu hiểu tâm
lí nhân vật, biệt tài xây dựng những chi tiết nghệ thuật nhỏ nhưng hàm chứa tầng ý nghĩa
sâu sa, thể hiện quan niệm sáng tác “ quý hồ tinh, bất quý hồ đa” Không chỉ thành công ở
chi tiết nụ cười, nước mắt, Kim Lân cũng để lại trong ấn tượng đạm nét trong tâm trí
người đọc ở hình tượng nồi cháo cám. Nhà văn đã để cho cái đói quay quắt se duyên cho
một mối tình nhưng cũng đẩy họ đến bên bờ vực: liệu có nuôi nổi nhau qua cái thì tao
đoạn này không. Bữa cơm đón nàng dâu mới minh họa rõ nét hơn cho cái thực trạng
thảm thương của những con người khốn khó đó: giữa cái mẹt rách chỉ có niêu cháo loãng,
một lùm rau chuối thái rối, đĩa muối trắng và nồi cháo cám. Cháo cám dẫu được mẹ già
sang trọng gọi là chè khoán nhưng vẫn không sao xua được cảm giác đắng ngắt, chát xít
nơi cổ họng, không sao nén được nỗi tủi hờn dâng lên trong tâm trí mỗi người. Bát cháo
cám như đập tan cái không khí vui tươi ở phần đầu bữa ăn. Hiện thực về cái đói vô cùng
khốc liệt và ám ảnh một lần nữa xuất hiện, đe dọa hạnh phúc của con người. Thứ hạnh
phúc bé nhỏ, mong manh vừa mới nhen nhúm ngay lập tức bị đe dọa bởi cái đói. Nỗi xót
xa, buồn tủi thấm trong trang văn của Kim Lân như lan sang người đọc. Nhưng vượt lên
trên nghĩa tả thực, bát cháo cám còn làm ngời sáng trước mắt ta tấm lòng, tình cảm của
người mẹ già khốn khó. Bà cụ Tứ vừa múc cháo, vừa đùa vui: “Chè khoán đây, ngon đáo
để cơ”. Nào phải bà không thấu cái vị đắng ngắt, chát xít của cháo cám, đâu phải bà
không hay về tương lai mù xám của những đứa con mình? Người mẹ già ấy đã có nén lại
nỗi lo lắng thắt lòng cho tương lai đôi trẻ, đã vượt qua mọi sượng sùng, ngần ngại với
người con dâu về gia cảnh nhà mình để khơi dậy chút nguồn vui cho không khí gia đình.
Bên tận cùng nỗi xót xa, ta lại cảm động vô cùng trước mênh mông tấm lòng người mẹ.
Hơn nữa, chẳng phải ngẫu nhiên Kim Lân lại để cho người mẹ già nua tuổi tác, xế bóng
ngả chiều lại là người khơi niềm vui trong thảm cảnh ngày đói. Là Kim Lân thấy lửa,
khơi lửa và tin rằng có lửa ngay trong đống tro tưởng sắp lụi tàn, thấy mầm xanh sự sống
chẳng những vươn lên từ thân non hay một đời cây cường tráng mà còn khỏe khoắn vươn
lên từ chính một gốc cây sắp tròn cổ thục.
Không nghi ngờ gì nữa, món chè khoán của bà cụ Tứ làm một chi tiết Kim Lân trọn vẹn
gởi trao niềm tin và khát vọng sống của con người. Chi tiết bát cháo cám cũng thể hiện
khát khao hạnh phúc gia đình của người đàn bà vô danh. Ta hiểu thị liều lĩnh không đơn
thuần vì miếng ăn, thị không bỏ đi khi chứng kiến gia cảnh bần hàn của Tràng, nay ta
càng thấu hiểu sâu sắc hơn cái khát vọng có một bến đỗ cho con thuyền phiêu dạt, một tổ
ấm dừng chân nơi thị trong cái cử chỉ “ điềm nhiên và vào miệng miếng cháo cám”. Cái
cử chí và thái độ ấy cho thấy thị thật ý tứ, sẵn sàng đồng cam cộng khổ với gia đình
Tràng. Hạnh phúc mong manh vừa nhen nhóm ấy, phải chăng cần lắm những đôi bàn tay
nâng niu như vậy. Lời nói của bà cụ Tứ và hành động của người con dâu chính là cách
những người phụ nữ giữ gìn, bảo vệ và vun đắp cho niềm hạnh phúc vừa mới chớm nở.
Sáng tạo chi tiết bát cháo cám, Kim Lân không chỉ gợi lại sinh động thảm trạng ngày đói
năm nào mà nhà văn còn muốn ca ngợi tình người nồng thắm nơi những tấm lòng thuần
hậu, chất phác. Trong cảnh đói bi thương ấy, họ vẫn không thôi yêu thương, vẫn nương
tựa vào nhau cùng sẻ chia và cùng hi vọng
4. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
- Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn
học Việt Nam hiện đại.
- Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường, Nguyễn
Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám
phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thuật
của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn tìm kiếm hạnh
phúc và hoàn thiện nhân cách.
- Ông là một trong số những “nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta
hiện nay” (Nguyên Ngọc)
- Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc
độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Cái nhìn hiện thực đa chiều đã giúp
cho nhà văn nhận ra đời sống con người cả ở những sự kiện bể nổi lẫn những khuất lấp
trong bể sâu của nó, nhận ra cả những quy luật tất yếu lẫn những ngẫu nhiên, may rủi đẩy
bất trắc và khó lường hết của đời sống. Ông luôn day dứt về việc con người phải chịu
đựng, phải chấp nhận những nghịch lí mà lẽ ra không đáng có trong một cuộc sống vốn
đã tốt hơn.
Tác giả:
+ Tiểu sử
- Sinh ra, nhiều năm sống và hoạt động cách mạng, công tác tại Huế > gắn bó với đất và
người nơi đây, am hiểu sâu sắc cội nguồn và linh hồn văn hóa xứ sở.
+ Con người:
- Trí thức yêu nước.
- Vốn hiểu biết sâu rông trên nhiều lĩnh vực.
+ Sáng tác:
- Sở trường: bút kí, tùy bút.
- Phong cách nghệ thuật:
+ Sự kết hợp nhuần nhuyễn
Giữa chất trí tuệ và chất trữ tình.
Nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều trên nền tảng hiểu biết sâu rộng về triết học, văn
hoá, lịch sử…
+ Hành văn: hướng nội (hướng vào bên trong, vào thế giới nội tâm nhiều trăn trở, thâm
trầm, sâu lắng), súc tích, mê đắm, tài hoa.
Tác phẩm
+ Xuất xứ:
- Viết tại Huế, 1981.
- In trong tập sách cùng tên > lấy tác phẩm làm nhan đề cho một tập bút kí => vị trí văn
học sử: tác phẩm bút kí tiêu biểu của nhà văn.
Sông Hương nhìn từ nguồn cội.
+ Nhìn từ cội nguồn: có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn: như một “bản trường
ca của rừng già” với nhiều tiết tấu trầm bổng.
- Rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn > hùng tráng.
- Mãnh liệt vượt qua ghềnh thác > ào ạt.
- Cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực sâu > dữ dội.
- Dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng > nên thơ,
tình tứ, mê đắm.
+ Biện pháp nhân hoá: Sông Hương như “cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”, với
“bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” > nữ tính, vừa dịu dàng vừa mãnh liệt
hoang sơ > không chỉ ngắm nghía “khuôn mặt kinh thành”, nhà văn còn khơi về nguồn
cội để khám phá vẻ đẹp tâm hồn thăm thẳm mà chính dòng sông cũng không muốn bộc
lộ.
+ Hé mở một phát hiện mới của tác giả về vẻ dẹp của Sông Hương: Người ta hay nghe
tới sông Hương gắn với Huế “dịu dàng pha lẫn trầm tư”, êm đềm, trong trẻo nay lại biết
tới phần dữ dội, mê hoặc, khó cưỡng của dòng sông.
Về nhà văn Nguyễn Tuân và phong cách sáng tác của ông
Nguyễn Tuân (1910 -1987) sinh ra trong một gia đình truyền thống lâu đời ở đất Hà
thành. Ông là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, là nhà văn có cá tính và có
phong cách nghệ thuật độc đáo. Trước cách mạng, Nguyễn Tuân là nhà văn lãng mạn
cuối cùng. Sau cách mạng, ông là người đi nhiều, viết nhiều. Ông sáng tác truyện ngắn và
tùy bút nhưng nổi tiếng với thể loại tùy bút. Khi nhắc đến Nguyễn Tuân, người ta thường
nghĩ đến chữ “ngông”, không chỉ trong cuộc sống mà cả trong văn chương.
Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như để chơi “ngông” với thiên hạ. “Ngông” là một sự
chống trả với mọi thứ nền nếp, phép tắc, mọi thứ “đạo lí” thông thường của xã hội bằng
cách làm ngược lại với thái độ ngạo đời. Nhu cầu “chơi ngông” buộc Nguyễn Tuân phải
đẩy mọi cái thông thường tới cực đoan, thậm chí tới kì thuyết, nghịch thuyết. Chủ nghĩa
độc đáo trong sinh hoạt tất dẫn đến lối sống lập dị, trong sáng tác tất dẫn đến bất chấp nội
dung ý nghĩa nghiêm túc, tha hồ phóng bút để ném những gì kì lạ, oái oăm, cầu kì, rắc
rối. Cái “ngông” đó không phải do chủ nghĩa cá nhân bế tắc mà do “thiên lương” của một
trí thức yêu nước, biết coi trọng nhân cách, muốn tách mình ra và đặt mình lên trên
những cái tầm thường của những kẻ thỏa mãn với thân phận nô lệ.
Tuy nhiên cái “ngông” với một số biểu hiện nghệ thuật của nó vẫn để lại những thói
quen, những kinh nghiệm có thể dùng được để phục vụ cách mạng. Chẳng hạn giọng
khinh bạc của Nguyễn Tuân được phát huy trên lập trường mới là vũ khí lợi hại để đánh
vào những kẻ thù của dân tộc và cách mạng. Cái độc đáo, nếu không đẩy tới mức “chủ
nghĩa”, là một yêu cầu không thể thiếu của nghệ thuật chân chính.
Nguyễn Tuân mỗi khi cầm bút dường như lại đặt mình trong yêu cầu: phải chứng tỏ được
cái tài hoa, uyên bác hơn đời của mình. Ông có thói quen nhìn sự vật ở mặt mĩ thuật của
nó, cố tìm cho ra ở đấy những gì nên họa, nên thơ. Đồng thời mỗi đối tượng quan sát của
ông là một đối tượng khảo sát đến kì cùng […] Về cái vốn văn liệu, thi liệu của ông đã sử
dụng theo tinh thần mới, thường để phát hiện và diễn tả vẻ đẹp tuyệt vời của Tổ quốc
mình.
(Nguyễn Đăng Mạnh, Trích bài tựa Tuyển tập Nguyễn Tuân)
4. Tóm lại, hình tượng Sông Đà được tác giả khắc họa độc đáo, nổi bật với hai đặc
điểm: vừa hung vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình. Qua hình tượng con Sông Đà, nhà
văn ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, thể hiện tình cảm tha thiết của mình với đất
nước. Hình tượng con Sông Đà trong bài tùy bút gợi lên ở người đọc suy nghĩ về trách
nhiệm bảo vệ môi trường cho những dòng sông, bởi đó là quà tặng vô giá của thiên nhiên
giành cho con người.