You are on page 1of 11

Vợ chồng A Phủ

MỞ BÀI chung:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu”
Tây bắc là mảnh hồn thiêng của núi sông, là miền đất hứa đã truyền cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn
để họ viết nên những trang văn, vần thơ bất hủ. “Người mẹ của hồn thơ ấy” đã đi vào bao vần thơ đẹp của Chế Lan
Viên, đã lấp lánh “chất vàng mười” trong hình tượng Người lái đò của Nguyễn Tuân, và giờ đây còn thổi hồn vào
trang viết của Tô Hoài sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người lao động qua tập “Truyện Tây Bắc”. Trong tập
truyện ấy, nổi tiếng nhất phải kể đến là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không
chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc (với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo)(với đêm mùa
đông của khát vọng tự do) mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật
Mị – người con gái Mèo đã dám đứng lên đấu tranh, thoát khỏi kiếp đời nô lệ, qua đó thể hiện * VẾ B * của nhà văn.

GIỚI THIỆU CHUNG hoàn cảnh stác, xuất xứ:


Tô hoài hiện diện trên văn đàn, là một cây bút đại thụ của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sau cách mạng, với
giọng văn bay bổng, tài hoa, ông tập trung viết và viết rất hay về đề tài miền núi cùng vốn am hiểu sâu sắc các
phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc. Nổi bật cho phong cách sáng tác này là truyện ngắn VCAP với đầy
công phu và thấm đẫm tình yêu thương. Tác phẩm được sáng tác năm 1952, là kết quả của chuyến đi thực tế dài ngày
cùng bộ đội chủ lực giải phóng vùng núi cao Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” dựa trên câu chuyện có thật của 2 người
dân tộc H’Mông, là nguyên mẫu chính để tác giả xây dựng nhân vật Mị và A Phủ sau này. Truyện được in trong tập
“Truyện Tây Bắc”, sau này được tặng giải nhất giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Đoạn trích giảng
thuộc 1 phần của tác phẩm, kể về quãng đời nô lệ của Mị trong nhà thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài

TÓM TẮT:
Câu chuyện diễn ra ở Hồng ngài, một làng Mèo trên rẻo cao trên Tây Bắc. Mị là một cô gái trẻ đẹp con nhà
nghèo. Cha con thống lý Pá Tra đã lấy cớ cha Mị không trả được nợ nên đã bắt Mị về làm dâu gạt nợ cho nhà chủ.
Tại đây, Mị chìm vào kiếp sống cơ cực, bị đầy đọa đến mức tâm hồn cô tưởng như hoàn toàn tê liệt. Nhà văn đã phát
hiện cái sức sống vẫn ẩn sâu trong con người cam chịu nhẫn nhục kia, và nó đã náo nức trở về trong đêm tình mùa
xuân nồng nàn tiếng gọi của tình yêu, sức sống. Nhưng ngay khi sức sống vừa hồi sinh trong mị thì lại bị A Phủ dập
tắt phũ phàng. Mị một lần nữa bị đẩy vào kiếp sống tăm tối, sau đêm tình mùa xuân ấy, Mị rơi vào cái chết tinh thần
còn nặng nè hơn trước.

ĐÁNH GIÁ nội dung, nghệ thuật:


“Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc
đáo”. Thành công làm nên phong cách nghệ thuật rất riêng của Tô Hoài trong tác phẩm “VCAP” chính là thông qua
việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật độc đáo đầy phức tạp. Ngòi bút Tô Hoài như mổ xẻ, luồn lách tinh vi vào các
ngõ ngách để tìm “vẻ đẹp kín đáo ở chỗ không ai ngờ tới, đem đến cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng
thức”. Nghệ thuật trần thuật uyển chuyển, dẫn dắt tình tiết khéo léo cùng lối xây dựng tình huống truyện độc đáo, lời
văn bay bổng, tuân theo phép “biện chứng tâm hồn” để miêu tả tâm lí nhân vật đa dạng nhưng vẫn nằm trong vòng
tình lí của sự sống. Đọc “VCAP”, ta cũng thấy thấm đẫm trong mỗi trang viết của nhà văn là tấm lòng nhân ái,
là niềm đồng cảm sâu sắc với số phận con người. Qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị và Aphủ, Tô Hoài đã
tố cáo hùng hồn những thế lực phong kiến, thực dân, chúa đất bạo tàn bóc lột dân nghèo, đồng thời khẳng định
và bênh vực cho những khát vọng tự do và hạnh phúc bền bỉ của con người lao động Tây Bắc.

KẾT BÀI chung:


“Văn chương Tô Hoài sẽ còn mãi, xanh biếc theo thời gian. Vì nó lưu giữ lại cho chúng ta đời sống. Nó phả
lại nhịp đập của lịch sử. Vì nó nói lên câu chuyện muôn đời của muôn kiếp nhân sinh”. Qủa đúng là như thế. Nhà văn
Tô Hoài với đôi mắt tinh tế và trái tim giàu tình yêu thương nhân đạo đã thổi hồn vào tác phẩm “VCAP” một sức
sống bền bỉ. Qua diễn biến tâm trạng của nhận vật Mị trong (đêm đông/xuân), nhà văn 1 lần nữa khẳng định về sức
sống mãnh liệt, khát vọng tự do và vẻ đẹp phẩm chất của con người lao động dưới sự áp bức của lãnh chúa miền núi.
Bắt nguồn từ chính hiện thực cuộc sống “đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”, nên dù đã hơn nửa thế kỉ
trôi qua, “VCAP” vẫn vẹn nguyên vẻ đẹp nhân đạo và giá trị của một tác phẩm nghệ thuật chân chính trong làng văn
học Việt Nam.
VuQuynhTrangxinggaihocgioidoNV1
*** VẾ B ***: Nhận xét về giá trị hiện thực
Trong truyện ngắn "Giăng sáng", Nam Cao đã từng viết: "Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ
thuật không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than". Quả
thực, văn chương luôn bắt đầu từ điểm xuất phát là cuộc đời. Tác phẩm nghệ thuật sẽ chẳng thể nào tồn tại mãi nếu
nó xa rời thực tế. Hiện thực cuộc sống được người nghệ sĩ lựa chọn đưa vào trong tác phẩm qua cái nhìn, quan điểm
và ngòi bút của mình, đem đến với bạn đọc, để từ đó mở ra bức tranh đời rộng lớn.
Qua tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" (hoặc qua đoạn trích trên – đoạn vừa phân tích), ta sẽ bắt gặp ở đó giá trị
hiện thực sâu sắc, bức tranh đời đớn đau của những người dân miền núi. Thứ nhất, tác phẩm đã tố cáo chế độ phong
kiến, chúa đất đã bóc lột con người dưới hình thức cho vay nặng lãi, buộc người lao động nghèo khổ vào vòng nô lệ;
tố cáo sự chà đạp lên tình yêu, hạnh phúc và phẩm giá con người, gắn con người vào vòng mê tín thần quyền làm cho
họ phải bất lực, cam chịu. Không chỉ dừng ở chỗ tố cáo sự áp bức, bóc lột mà sâu hơn, Tô Hoài còn nói lên sự thực
có tính quy luật: con người bị áp bức cứ nhẫn nhục chịu đựng kéo dài đến lúc nào đó thì dường như bị tê liệt tinh thần
phản kháng và mặt khác, đến lúc nào đó, khi sự ý thức về quyền sống trỗi dậy, thì sức sống tiềm tàng cũng mạnh mẽ,
kỳ diệu. Tác phẩm còn miêu tả một cách cô đọng nhưng sinh động quá trình trưởng thành, vấn đề khát vọng tự do,
hạnh phúc của nhân dân miền núi và con đường giải phóng của họ. Bức tranh thiên nhiên và những phong tục, tập
quán được nhà văn tái hiện chân thật; ngôn ngữ giàu chất tạo hình…

*** VẾ B ***: Nhận xét về giá trị nhân đạo của tác phẩm
"Một nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy", T. Sekhop đã từng khẳng định như vậy. Nhà
văn, bên cạnh việc phải phản ánh chân thực bức tranh cuộc sống và con người, còn cần phải đưa vào trong tác phẩm
của mình, tình cảm, suy nghĩ và quan điểm của mình về cuộc đời, về con người. Đó là giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Qua tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" (hoặc qua đoạn trích trên – đoạn vừa phân tích), ta sẽ thấy được ở đó giá trị
nhân văn, tấm lòng nhân đạo của nhà văn. Điều đó được thể qua lòng cảm thương sâu sắc của Tô Hoài dành cho số
phận những người dân bị áp bức. Đó là lòng xót thương, cảm thông vô hạn của Tô Hoài đối với nhân dân lao động
miền núi, đặc biệt là người phụ nữ, những kiếp đời bi kịch đang chết dần, chết mòn vì đau khổ. Nhà văn hướng ngòi
bút vào sự ảm đạm, đen tối nhưng để hướng vào phía sự sống và ánh sáng tâm hồn của con người, ca ngợi vẻ đẹp và
sức mạnh tinh thần của họ. Hiện thực dù đen tối nhưng không thể huỷ diệt được mầm sống tiềm tàng. Từ thương
cảm, nhà văn đã lên tiếng tố cáo chế độ phong kiến miền núi tàn ác, những hủ tục lạc hậu đã đẩy con người vào tình
cảnh khốn khổ (cúng trình ma, bắt vợ, xử kiện phạt vạ, cho vay nặng lãi). Đồng thời, ngòi bút Tô Hoài thấm nhuần
tinh thần nhân đạo thể hiện trong niềm tin, sự trân trọng đối với khát vọng sống trong sạch, lương thiện, giàu tình
người của những con người bị đoạ đày, lăng nhục, khát khao tìm đến ánh sáng của cuộc đời mới; Tô Hoài đã thấy
được bước chuyển biến sâu sắc trong con người Mỵ và A Phủ xuất phát từ lòng nhân ái và sự đồng cảm số phận để
vươn lên hành động tự cứu mình, cứu người, tự giải phóng mình khỏi ách nô lệ.
Giá trị nhân đạo sâu sắc ấy đã mang đến cho người đọc những ấn tượng đậm nét và mang đến sức sống lâu
bền cho tác phẩm.

*** VẾ B ***: Nhận xét về nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật của tác giả qua đoạn: "Ở lâu trong cái
khổ, Mị quen.. đến bao giờ chết thì thôi".
Đoạn trích thể hiện những nét đặc sắc trong nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật Mị của nhà văn Tô
Hoài. Để khắc họa nhân vật Mị với những nỗi thống khổ trong kiếp sống nô lệ nhà thống lí, với sự chai sạn, vô cảm
trong cảm xúc tâm hồn, nhà văn đã miêu tả nhân vật chủ yếu qua ý nghĩ và hành động lặp đi lặp lại. Mặt khác, chuỗi
hình ảnh so sánh tăng cấp, từ so sánh ngang bằng (Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, như con
rùa lùi lũi) đến so sánh hơn (Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn
bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày).. cũng mang lại hiệu quả biểu đạt cao trong khắc họa chân
dung nhân vật. Đặc biệt, chi tiết căn buồng Mị với cái ô cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay còn mang lại những ám ảnh
sâu sắc trong lòng độc giả về nhân vật Mị với cuộc sống như ngục tù, tăm tối, quẩn quanh, bế tắc.

*** VẾ B ***: Nhận xét về sự chuyển biến của nhân vật Mị qua đoạn: "Lần lần, mấy năm qua.. Mị sẽ ăn cho
chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa"
Đoạn văn mở ra hai trạng thái tâm lí của cô Mị, một là "quen khổ rồi", hai là "phơi phới trở lại", "muốn đi
chơi". Nếu ở phần đầu đoạn văn người đọc nhận ra một cô Mị thụ động, cam chịu số phận thì đến phần sau của đoạn,
dấu ấn về sự "nổi loạn", bứt phá bắt đầu xuất hiện trong cô gái này. Đó là sự trỗi dậy của Mị, tiền đề cho những phản
kháng để giải thoát thân phận ở những diễn biến kế tiếp.
Như vậy đoạn văn đã cho ta thấy sự chuyển biến của nhân vật Mị trong suy nghĩ, nhận thức và cả hành động.
Từ đây ta nhận ra cô Mị của Tô Hoài không giống kiểu người hiền hậu khốn khổ như trong cổ tích đã từng dựng xây.
Tô Hoài đã thổi vào trang văn của mình cảm hứng của con người hiện đại, không cam chịu đã vùng lên khát khao tìm
hạnh phúc, tìm cuộc sống tự do. Ngọn lửa tình yêu cuộc sống, khát vọng về hạnh phúc tự do vẫn âm ỉ cháy trong sâu
VuQuynhTrangxinggaihocgioidoNV1
thẳm tâm hồn ấy. Khi có điều kiện thuận lợi, ngọn lửa đó đã được khơi dậy và bùng lên mạnh mẽ, đưa Mị trượt ra
khỏi trạng thái thờ ơ, vô cảm thường ngày.
Miêu tả sự chuyển biến ấy của Mị, nhà văn đã gửi vào trang viết tấm lòng đồng cảm, yêu thương sâu sắc của
mình dành cho nhân vật. Nhà văn đã không để cho nhân vật của mình chìm đắm trong đau khổ triền miên, ông mang
đến cho Mị những phút giây rạo rực trong khát khao hạnh phúc, tình yêu để làm sống dậy một cô Mị trẻ trung, yêu
đời thuở mười tám, đôi mươi.

*** VẾ B ***: đánh giá về Phong vị miền núi trong tác phẩm:
Đề tài miền núi là đề tài đã đem lại nhiều vinh quang cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài, đồng thời
còn mở ra một giai đoạn mới cho văn học viết về đời sống của những người lao động nơi rẻo cao Tây Bắc. Bằng vốn
hiểu biết về đời sống của đồng bào các dân tộc miền núi qua chuyến đi thực tế và tài năng văn chương của mình, Tô
Hoài đã tạo nên những tác phẩm vô cùng đặc sắc, mang đậm màu sắc dân tộc. Tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" cũng ghi
nhận những nét đặc sắc ấy của Tô Hoài khi viết về đề tài này. Tác phẩm đã mang đến những thông tin phong phú về
phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt, nếp sống nếp nghĩ... với những nét rất riêng của đồng bào Tây Bắc như
khung cảnh đón xuân với trai gái trẻ con ra sân tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn, nhảy múa... cảnh đêm
tình mùa xuân với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt, cảnh uống rượu ngày Tết, cảnh xử kiện ngập trong khói thuốc phiện,
tục cướp vợ, tục cúng trình ma...
Phong vị miền núi còn gợi lên từ nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh đặc
trưng của miền rẻo cao: Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ
em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi
gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng
Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ,
những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ...
Ngoài ra, ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật, lời bài hát xen kẽ... cũng góp phần tạo nên phong vị Tây
Bắc rất riêng cho những trang văn Tô Hoài.

LIÊN HỆ NÂNG CAO:


Đêm mùa xuân:
Nghệ thuật “vị nhân sinh” là giá trị nhân văn cao cả trong nghệ thuật. VCAP và “Chí phèo” là tác phẩm điển
hình thành công cho tư tưởng vĩ đại này. Qua việc so sánh sự hồi sinh của nhân vật Mị trong VCAP và nhân vật Chí
trong CP, chúng ta có thể thấy được sự thức tỉnh của 2 nhân vật. Nếu như Mị hồi sinh nhân cách trong đêm tình mua
xuân tràn ngập yêu thương thì Chí lại thức tỉnh sau đêm gặp Thị Nở tại vườn chuối, với bát cháo hành ấm áp. Nếu
như Mị chịu sự tác động của cảnh vật, sự vật để hồi sinh thì Chí lại thức tỉnh nhờ tình người để đánh thức “phần
người” đã ngủ quên bấy lâu trong anh. “Một người nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy.”
Nam Cao và Tô Hoài chính là hai nhà nhân đạo lớn. Cả 2 nhà văn không chỉ tố cáo xã hội bất công chà đạp lên quyền
sống của con người mà còn bày tỏ niềm thương xót và sự chân trọng với những con người lao động.

Cảnh Mị cùng A phủ chạy trốn:


“Chí phèo” và “Tắt đèn” ra đời trong những năm tháng u uất trước cách mạng, còn tác phẩm VCAP lại ra đời
khi cách mạng tháng 8 thành công, các bản làng Tây Bắc đang dần được giải phóng. Đây là lạc quan có cơ sở hiện
thực. Tác phẩm văn học là tấm gương soi phản ánh hiện thực cuộc sống, và nhà văn chính là người thư kí trung thành
của thời đại.

Cảnh Mị đứng lặng trong đêm:


Khoảnh khắc “Mị đứng lặng trong bóng tối” là những giây phút cô phải đấu tranh với không chỉ là áp lực bên
ngoài mà còn là bão tố bên trong. Giây phút “đứng lặng” những tưởng là một hành động “tĩnh”, nhưng thực chất lại
là một trạng thái “động”. Bởi khi ấy, Mị đang phải đối diện với quyết định đi hay ở. Nếu ở lại, Mị sẽ vẫn là một cô
con dâu gạt nợ, ngoan ngoãn như một người ở và sống chẳng khác gì con trâu, con ngựa ở trong chuồng, thậm chí là
tệ hơn thế nữa. Nhưng nếu đi mà bị bắt lại, Mị sẽ phải chịu đựng một sự giày vò về cả thể xác lẫn linh hồn khi thứ mà
Mị đang tranh đấu để vượt qua không chỉ là cường quyền, là sự áp bức từ nhà Thống lý Pá Tra, từ những đòn roi vụt
lên cơ thể của cô. Mà còn là sức mạnh của thần quyền khi linh hồn của Mị đã bị trói chặt với địa ngục trần gian nơi

VuQuynhTrangxinggaihocgioidoNV1
ngôi nhà ấy cư ngụ. Chính vì thế mà “trong bóng tối”, Mị đã phải suy ngẫm rất kỹ càng. Vì bóng tối ở đây không chỉ
là sự đen đặc từ không gian xung quanh mà còn là sự nhếch nhác, đê hèn từ xã hội bên ngoài.
Sự tách ra thành một đoạn văn riêng đã thể hiện một dụng ý quan trọng của Tô Hoài, đó là khoảnh khắc hiện
sinh của con người khi họ đứng giữa những lằn ranh chọn lựa. Đó phải chăng cũng là một quá trình mà nhà văn
đứng trước một pháp trường tư tưởng, khi anh chứng kiến một xã hội với quá nhiều biến động. Ở đó, thân phận
con người như bị đóng đinh vào đau khổ, và như một lẽ nghiễm nhiên, người phụ nữ lại một lần nữa trở thành công
cụ, hay tệ hơn là một món hàng đổi chác. Sự chiêm nghiệm và hoá thân trong cách cư xử của nhân vật cũng như cách
ông đi sâu vào nét văn hoá của từng vùng miền đã tạo ra một hình ảnh Mị cùng khổ mà quật cường. Giống như một
bông hoa rừng giữa miền đại ngàn xa xôi nhưng vẫn tỏa hương thơm ngát. Sự lựa chọn của Tô Hoài cũng chính là
tôn chỉ của rất nhiều nhà văn khi anh bước trên cung đường sáng tạo và quyết tâm có được cho mình một chỗ đứng
vững chắc trên văn đàn hiện thời và văn đàn mọi thời.

TRÍCH DẪN HAY:

“Bản chất của văn chương Tô Hoài là phong cách, bút pháp đậm đà bản sắc dân tộc. Phẩm chất ấy là sự tích
tụ của cả một đời gắn bó với đất nước và nhiều miền quê hương, trân trọng và yêu thương những con người lao động
mang tâm hồn và tính cách của người Việt Nam” (Hà Minh Đức).
“Thật khó để tìm được một nhà văn thứ hai vừa có thể miêu tả chân thật, tinh tế những cung bậc cảm xúc của
cô Mị yêu sống nhưng bị giam cầm trong cảnh tù túng của “Vợ chồng A Phủ”. “Thành trì chữ nghĩa” của Tô Hoài
chạm đến đỉnh cao của văn chương, luồn lách vào nội tâm nhân vật, thì mới thấy được sức sống tiềm tàng và niềm
khát vọng sống vẫn âm thầm cháy bỏng trong cái con người nhỏ bé ấy.
“Nghệ thuật chỉ đạt đến đỉnh cao của nó khi được chắt lọc từ những nỗi đau đích thực của cuộc đời”. Văn
học có thể đồng cảm với những vẻ đẹp từ những giọt nước mắt, xoa dịu vết thương, tạo nên động lực để con người có
thể vượt qua những khó khăn, uất ức của bản thân để vươn lên sống mạnh mẽ, sống ý nghĩa.
“Chao ôi! Nghệ thuật không thể là màn sương mờ ảo màu sữa pha ánh màu hồng ban mai che lấp đi những
đau thương của kiếp người.”. Thế giới thực tại đen tối của cô Mị được phơi bày trần trụi không làm lu mờ đi kiếp
con người mà giữa cái hoàn cảnh khốn cùng đau thương ấy, trong Mị lại sáng bừng lên cái vẻ đẹp tâm hồn của một
người con gái đẹp và sức sống tiềm tàng âm ỉ.
“Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai” – Lỗ Tấn.
“Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không thể giết được sức sống
của con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt.” - Tô Hoài

Cảnh đêm tình mùa xuân trong “Vợ chồng A Phủ” trước hết là “bức tranh đất trời Tây Bắc vào xuân” tuyệt
đẹp, đầy sức sống. Mùa xuân xưa nay đã luôn là mùa gợi nhiều cảm hứng cho các thi nhân, văn nhân sáng tạo nghệ
thuật. Đó là một mùa xuân trong sáng, nhẹ nhàng với tiết trời thanh mát, với sắc cỏ non mơn mởn và màu trắng tinh
khôi của vài bông hoa lê trong “Truyện Kiều” – Nguyễn Du:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Nguyễn Du tả cảnh buổi sớm tiết thanh minh, còn Tô Hoài, ông lại lựa chọn viết về đêm xuân. Nhà văn mượn cái
thanh xuân tươi trẻ của đất trời Tây Bắc để gợi ra cái thanh xuân của lòng người, ở đây chính là Mị…
Cảnh Mị cắt dây cởi trói cho A phủ: Có thể, Mị đã chết rục xương vì bị trói đứng hay vì làm việc quá sức ở
nhà thống lí, nếu đây là trang văn trước Cách mạng. Nhưng không, mạch truyện đã có sự thay đổi, có một bước ngoặt
lớn. Kết cấu tác phẩm đi từ bóng tối ra ánh sáng, “từ thung lũng đau thương sang cánh đồng vui” (Chế Lan Viên),
cũng là lối kết cấu truyện quen thuộc của thời đại này. Nhưng con người chủ động làm một điều gì đó để cuộc sống
này tốt đẹp hơn, từ việc cắt dây cởi trói cho A Phủ, cởi trói cho chính mình…

VuQuynhTrangxinggaihocgioidoNV1
Người lái đò sông Đà
MỞ BÀI chung:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu”
Tây bắc là mảnh hồn thiêng của núi sông, là miền đất hứa đã truyền cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn để họ
viết nên những trang văn, vần thơ bất hủ. “Người mẹ của hồn thơ ấy” đã đi vào bao vần thơ đẹp của Chế Lan Viên, đã và
thổi hồn vào trang viết của Tô Hoài sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người lao động qua tập “Truyện Tây Bắc”, và
giờ đây, nó trao gửi con sông Tây Bắc cho tập tùy bút của Nguyễn Tuân, tập tùy bút Sông Đà. Tập tùy bút ấy chính là
thành quả lao động của nhà văn trong công cuộc tìm kiếm cái “chất vàng mười đã qua thử lửa” của thiên nhiên và con
người trên vùng núi cao Tây Bắc, phát hiện ra cái vẻ đẹp của người nghệ sĩ tài hoa ngay trong cả những người lao động
bình thường. Điều đó đã được thể hiện rõ nét trong thiên tùy bút “NLĐSĐ”. Tác phẩm đã thành công xây dựng hình tượng
(con sông đà với những nét tính cách khác nhau: vừa hùng vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình, để qua đó ta thấy được vẻ
đẹp của hình sông thế núi nước non ta) (người lái đò với vẻ đẹp lao động rất riêng, qua đó ta thấy được…) cũng như
ngòi bút tài hoa điêu luyện của tác giả. Điều đó được thể hiện rõ qua đoạn trích sau: “…”

GIỚI THIỆU CHUNG hoàn cảnh stac, xuất xứ:


NT hiện diện trên văn đàn, là một cây bút đại thụ của nền văn học Việt Nam hiện đại. Là một người coi cái đẹp là
phương tiện phản ánh chuẩn mực đạo đức cao nhất, NT đã dành cả đời để đi tìm cái đẹp. Nếu như trước CM, ông luôn
hướng lòng mình để tìm cái đẹp của “một thời vang bóng” còn vương lại, thì sau CM, 15 bài tùy bút trong tập tùy bút
“Sông Đà” nói chung và thiên tùy bút NLĐSĐ nói riêng, đã cho ta thấy một diện mạo mới mẻ của NT, tài hoa nhưng
không phải là một NT “ưa xê dịch” mà tha thiết gắn bó với quê hương đất nước. Xuất bản năm 1960, NLĐSĐ là thành quả
nghệ thuật đẹp đẽ của ông trong chuyến đi thực tế dài ngày gian khổ mà hào hứng lên vùng núi cao Tây Bắc, nơi ông đã
khám phá ra “chất vàng” của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn người lao động đang ngày
đêm xây dựng tổ quốc. Để rồi sau này, dù có bao người đã kể, đã hát về sông Đà cũng không ai vượt được NT trong việc
biến dòng sông ấy trở thành một hình tượng nghệ thuật bất hủ, mang bóng dáng của thời đại.

ĐÁNH GIÁ nội dung – nghệ thuật:


NLĐSĐ là áng văn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.“Tác phẩm nghệ thuật được xây dựng
từ chất liệu mượn ở thực tại”, nhưng người nghệ sĩ không muốn ghi cái đã có mà muốn một điều gì đó mới mẻ hơn.
Những hình ảnh so sánh cùng liên tưởng độc đáo, mới lạ, kết hợp với vốn tri thức am hiểu phong phú về nhiều lĩnh vực đã
tạo nên một dấu ấn riêng trong văn chương của tác giả. Ngôn ngữ phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh cùng câu văn
biến đổi linh hoạt lúc thì hối hả gân guốc, lúc lại, chậm rãi, trữ tình, co duỗi nhịp nhàng… tất cả đã tạo nên một NT tinh tế,
tài hoa, với một trái tim nhạy cảm đong đầy tình thương, để từ đó tạc lên một người lái đò sông đà và một Đà giang rất đời
và rất độc. Sông Đà qua ngòi bút của NT, không chỉ là một dòng sông với cá tính độc đáo mà còn trở thành một công
trình kì vĩ tuyệt vời của thiên nhiên đất nước, vừa mang cái tráng lệ của đại ngàn Tây Bắc, vừa mang cái hoang sơ dữ
dội của chốn thâm nghiêm. Khắc họa hình tượng con sông Đà, nhà văn tạo nên bức phông nền để tôn lên tầm vóc con
người lao động đang ngày đêm xây dựng tổ quốc. Từ đó, thể hiện vẻ đẹp ngợi ca, say mê với vẻ đẹp của non sông đất
nước, thể hiện tình cảm yêu thương gắn bó với con người, với cách mạng, thể hiện sự đổi mới trong quan niệm Nghê
thuật của Nguyễn Tuân.

KẾT BÀI chung:


Văn chương NT như một thứ men rượu khiến người ta phải mê mải say sưa, say đến độ ngất ngây, say lửng lơ
không thể nào thoát ra được. Hôm nay khi ta đọc lại Sông Đà, cũng là khi ta bắt gặp lại một Nguyễn Tuân kiêu bạc, hào
hoa đã in bóng khắc hình vào trong văn học. Sông Đà vẫn còn đó, năm năm tháng tháng làm mình làm mẩy với con người
Tây Bắc, lại cùng con người sinh sôi nảy nở, cùng trải qau thống khổ đạn bom, cùng ngân vang khúc ca khải hoàn. Bởi lẽ
đó, NLĐSĐ sẽ mãi là dấu ấn đặc sắc trong sự nghiệp cầm bút của ông. Đã hơn nửa thế kỉ qua đi kể từ khi mạch Đà giang
chảy trôi trên trang viết của NT, hậu thế hôm nay đọc lại tập tùy bút “Sông Đà” vẫn không khỏi thán phục, quả thực: “Chỉ
người ưa suy xét đọc NT mới thấy thú vị, vì văn NT không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức” (Vũ Ngọc Phan)

*** VẾ B ***: nét đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả hình tượng con sông Đà:
Đoạn trích đã cho thấy nét đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả hình tượng sông đà của nhà văn Nguyễn tuân. Hình tượng
con sông đà được miêu tả đầy sống động qua ngòi bút tài hoa, uyên bác, độc đáo. Trước hết ngòi bút của Nguyễn
Tuân tài hoa trong dựng cảnh, trong những so sánh liên tưởng tài hoa và đầy bất ngờ, và trong những hình ảnh đẹp,
gợi cảm thể hiện tâm hồn tinh tế và trí tưởng tượng vô cùng phong phú của nhà văn. Sự uyên bác trong nghệ thuật
miêu tả hình tượng con sông đà là vốn ngôn từ giàu có: ông có khả năng tổ chức vận động ngôn từ, cùng với nhạc
VuQuynhTrangxinggaihocgioidoNV1
điệu trầm bổng để góp phần tạc lên vùng thiên nhiên hoang Tây Bắc. Nét đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả con sông
Đà của Nguyễn Tuân còn là sự độc đáo trong việc lựa chọn thể loại tùy bút độc đáo trong cách dùng từ và những so
sánh liên tưởng mới lại bất ngờ. Đặc sắc trong nghệ thuật tạo hình tượng dòng sông đà là nét đặc sắc trong phong
cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Nó còn khắc họa hình tượng con sông đà với cá tính mạnh mẽ, độc đáo với 2 nét
tính cách hung bạo, trữ tình. Nét đặc sắc nghệ thuật ấy còn làm nét giá trị của tác phẩm, để tác phẩm trở thành một
thiên tùy bút sống mãi với thời gian. Qua đây rất đặc sắc nghệ thuật khi miêu tả dòng sông quê hương còn thể hiện
tình cảm yêu thương, gắn bó, thái độ tự hào của tác giả. Đặc sắc trong nghệ thuật tạo hình tượng con sông đà chính là
đóng góp của tác giả trong văn học hiện đại.

*** VẾ B ***: Hãy cắt nghĩa vì sao trong con mắt của tác giả, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con
người Tây Bắc mới thật xứng đáng là vàng mười của đất nước ta.
Từ việc làm rõ sức mạnh, sự ngoan cường, chí quyết tâm, kinh nghiệm đò giang của người lái đò-một người
lao động bình thường trên mảnh đất Tây Bắc nước ta – qua cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên, chúng ta hiểu
rằng, chẳng phải tình cờ khi, để nói về màu sắc của núi sông, Nguyễn Tuân chỉ dùng một chữ vàng. Để rồi sau đó,
ông sẽ dùng chữ vàng mười để gọi tên vẻ đẹp và giá trị quý báu của con người lao động. Điều đó chứng tỏ, trong cảm
xúc thẩm mĩ của tác giả Người lái đò sông Đà, con người đẹp hơn tất cả và quý giá hơn tất cả.
Người lái đò sông Đà chính là khúc hùng ca ca ngợi con người, ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao động
vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng trước sức mạnh tựa thánh thần của dòng sông hung dữ. Đấy
chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc và của những người lao động nói chung.

*** VẾ B ***: Nhận xét vẻ đẹp con người trong văn của Nguyễn Tuân sau Cách mạng.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho rằng: "Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ". Ông
luôn tìm mọi cách để tìm kiếm và phát hiện cái mới lạ, độc đáo "xưa nay chưa từng có" trong hành trình sáng tạo.
Đọc văn Nguyễn Tuân, bất cứ ai cũng nhận thấy rằng nhà văn Nguyễn Tuân rất ưa quan sát và diễn tả con người ở
phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
Nếu trước cách mạng con người trong tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là những con người xuất chúng thuộc
thời trước còn vương sót lại, những người đặc tuyển như Huấn Cao (Chữ người tử tù) thì đến người lái đò sông Đà
nhà văn đã có sự thay đổi trong cách khám phá, thể hiện con người.
Nhân vật chính trong người lái đò sông Đà không còn thuộc lớp người sinh lầm thế kỷ, bơ vơ, lạc lõng trong
thời hiện đại mà là một người lao động hết sức bình thường, bình dị, thậm chí là vô danh. Đây chính là cách Nguyễn
Tuân tôn vinh, ca ngợi ý chí con người, ngợi ca lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng trước
sức mạnh của thiên nhiên hung dữ. Đây cũng chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc và của
những người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đi tìm vẻ đẹp của con người trong lao
động, Nguyễn Tuân đã thể hiện sự hòa nhập đầy hứng khởi, mến yêu với cuộc đời mới và chúng ta không còn thấy
một Nguyễn Tuân cô độc luôn muốn xê dịch cho khuây đi cảm giác thiếu quê hương.

*** VẾ B ***: Nhận xét về ngòi bút tài hoa của nhà văn Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân là nhà văn của núi cao, thác dữ, dốc đèo hiểm trở; là nhà văn của cảm giác dữ dội, của cái phi
thường nhưng khi ông đặt bút viết về cái trữ tình, thơ mộng cũng không kém phần ấn tượng và đặc sắc. Văn Nguyễn
Tuân là sự hiện thân cho cái đẹp, cho sự hoàn mỹ; văn giàu hình ảnh và gợi cảm; giàu liên tưởng so sánh mới mẻ, độc
đáo.
Trước hết, nó biểu hiện một cảm quan thẩm mĩ độc đáo trong cách nhìn và quan sát sự vật, sự tỉ mỉ và chi tiết
làm cho người ta có cảnh giác sự vật đang sống dậy từ những trang văn bước ra cuộc đời.
Độc đáo thôi chưa đủ, vốn hiểu biết sâu rộng mới là chìa khóa để Nguyễn Tuân khai thác chất xám trong bộ
não của chính mình. Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt các tri thức liên ngành từ quân sự, âm nhạc đến thể thao,
quân sự, hội họa tạo nên một môn nghệ thuật thứ bảy lung linh dưới ánh hào quang chiếu sáng chói lọi… Từ đó có
thể khẳng định rằng Nguyễn Tuân xứng đáng là “Người thầy kim hoàn của chữ”

*** VẾ B ***: Nhận xét nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.
Có thể tóm gọn phong cách của Nguyễn Tuân trong những ý sau: Nguyễn Tuân ưa cảm giác mãnh liệt, dữ dội;
ông thường tả gió, bão, núi đèo, tả thác ghềnh; luôn khám phá đối tượng ở phương diện tài hoa thẩm mỹ; tài hoa uyên
bác trong hiểu biết về văn hóa; không ngừng thay đổi trong hành trình lao động nghệ thuật để không lặp lại chính
mình.
Như thế, qua đoạn … ta thấy Nguyễn Tuân là người luôn hướng đến cái phi thường, dữ dội; của dốc cao, đèo
thẳm, của cái tạo nên cảm giác mạnh. Đằng sau hình tượng con sông Đà lắm thác nhiều ghềnh là một nhà văn ham
cảm giác lạ, và không ngại làm mới mình. Điều này ít nhiều do ảnh hưởng từ thú “thích xê dịch” của ông. Để thỏa

VuQuynhTrangxinggaihocgioidoNV1
mãn “thú ham cái mới lạ”, Nguyễn Tuân không chịu nổi cái bình thường, nhạt nhẽo, bình dị, phẳng lặng như “ao hồ
mùa thu”.
Nguyễn Tuân quan niệm: “Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật,
và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo”. Với tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, ngòi bút Nguyễn Tuân đã
mang đến cho người đọc một hình dung mới mẻ, độc đáo trong chất vàng của thiên nhiên, đồng thời là chất vàng
mười đã qua thử lửa nơi tâm hồn con người Tây Bắc.
Trong “Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân đã thể hiện “cái tôi” tài hoa qua những rung động, say mê của
nhà văn trước vẻ đẹp hùng vĩ và mĩ lệ của thiên nhiên đất nước; ở sự phát hiện và ngợi ca phẩm chất tài hoa nghệ sĩ
của những con người lao động; ở những trang văn đẹp như thơ, như nhạc, như hoạ. Nhà văn đã phát hiện và miêu tả
sông Đà như một sinh thể sống, với tính cách hung bạo và trữ tình. Từ đó, nhà văn đã tạc dựng hình ảnh người lái đò
trong cuộc vượt thác đầy kịch tính và cũng thật ngoạn mục.

Đất Nước
MỞ BÀI chung:
Không biết tự bao giờ, hai tiếng gọi thiêng liêng “Đất nước” đầy cảm mến tự hào đã nghiêng mình trong thi ca
nghệ thuật như một điểm hẹn tâm hồn cho rất nhiều văn nghệ sĩ. Xuân Diệu đã từng viết:
“Tổ quốc tôi như một con tàu
Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau”
Hay Chế Lan Viên đã không kìm được lòng mà thốt lên: “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng”. Đất nước là đề tài không hề
mới nhưng chưa bao giờ cũ, vẫn luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong văn học. Viết về đề tài này, Nguyễn Khoa Điềm -
con người của vùng đất Huế nặng nghĩa nặng tình lại có những phát hiện vô cùng mới mẻ, đầy bất ngờ, được thể hiện qua
chương thơ “Đất nước”. Viết về đất nước với những khía cạnh hết sức bình dị, gần gũi, thân quen, đoạn thơ đã thể hiện
một cái nhìn mới mẻ, sâu sắc của tác giả về tổ quốc, làm sáng lên tư tưởng đất nước của nhân dân. Điều đó được thể hiện
rõ hơn cả qua đoạn trích sau, từ đó làm sáng lên tư tưởng đất nước của nhân dân và *** VẾ B ***

GIỚI THIỆU CHUNG hoàn cảnh stac, xuất xứ:


Là một trong những tên tuổi nổi bật hiện diện trên trong nền thơ ca kháng chiến chống Mĩ, ngòi bút của NKĐ đã
góp vào dàn đa điệu của thơ trẻ tiếng nói đồng thanh của một thế hệ thanh niên xuống đường tranh đấu. Trong đó, các tác
phẩm NKĐ để lại dấu ấn bởi phong cách trữ tình chính luận, cùng cảm xúc nồng nàn hòa quyệt với suy tư sâu lắng, trường
ca “MĐKV” kết tinh tất thảy những điều ấy. Bản trường ca được ra đời năm 1971 nơi chiến khu Trị-Thiên đầy khói lửa,
trong bối cảnh phong trào học sinh sinh viên Việt Nma đang diễn ra vô cùng sôi nổi. Đoạn trích “Đất nước” nằm ở phần
đầu chương V, chương thơ hay nhất, thể hiện sâu sắc nhất tư tưởng của cả trường ca: tư tưởng đất nước của nhân dân, do
nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời trên cả 3 bình diện: chiều rộng của không gian địa lý chiều dài của lịch sử và chiều
sâu văn hóa. Tác phẩm đã thể hiện sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam về non sông và sứ mệnh của mình với đất nước, từ
đó nhằm khơi gợi tinh thần dân tộc, tinh thần đấu tranh, đưa họ đến với phong trào đấu tranh của dân tộc.

ĐÁNH GIÁ nội dung, nghệ thuật:


“Một nhà văn có phong cách nghệ thuật chưa chắc đã là một nhà văn lớn nhưng một nhà văn lớn luôn cần có
phong cách nghệ thuật”. NKĐ với một phong cách sáng tác độc đáo đã trở thành một nhà văn đặc biệt đến như thế giữa
một rừng kỳ hoa dị thảo trong văn đàn thời bấy giờ. Ở chương thơ Đất nước, tác giả lựa chọn thể thơ tự do phóng túng,
không bị bó buộc về số chữ, số câu, vừa tạo ra nét độc đáo về hình thức cho bài thơ, vừa là cơ hội để dòng chảy cảm xúc
được phát triển một cách tự nhiên. Sử dụng các chất liệt văn hóa dân gian: lúc thì đậm đà sắc màu của phong tục tập quán
các vùng miền, khi thì thấp thoáng bóng dáng của những câu ca dao, truyện cổ tích, truyền thuyết,… tạo nên một đất nước
gần gũi thân quen, góp phần thể hiện sâu sắc tư tưởng đất nước của nhân dân. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình -
chính luận cùng cảm xúc nồng nàn hòa quyện với suy tư sâu lắng làm nên màu sắc rất riêng trong thơ ông. Đất nước được
cảm nhận từ nhiều phương diện: văn hóa, lịch sử, địa lí, thời gian đến không gian, thể hiện những khám phá bất ngờ mà
sâu sắc về một đất nước bình dị, gần gũi với mỗi người trong sự thống nhất giữa cá nhân và đất nước. Đoạn thơ còn
thể hiện sự thống nhất giữa cá nhân và dân tộc, bộc lộ những nhận thức thấm thía về trách nhiệm với đất nước, khơi
lên ngọn lửa đấu tranh cống hiến, qua đó thể hiện niềm tự hào và biết ơn với nhân dân, tình cảm yêu và gắn bó với đất
nước. Đó là sự chuyển biến trong tình cảm và nhận thức của cả một thế hệ trẻ những con người tri thức về đất nước .
Chương thơ đã đúc kết tình cảm và khát vọng của cả một thế hệ trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ, qua đó thể
hiện tập trung những giá trị tiêu biểu của trường ca MĐKV.

VuQuynhTrangxinggaihocgioidoNV1
KẾT BÀI chung:
Nhà thơ Chế Lan Viên trong cuốn sổ tay của mình từng nói về sự ngưng đọng của thơ : “Cái kết tinh của mỗi vần
thơ và muối bể / Muối lắng ở u nề, thơ đọng ở bề sâu”, và bài thơ Đất nước cũng như muối bể. Nó lắng ở trong lòng người
đọc và cứ thế mặn mòi qua bao năm tháng. Ngòi bút cảm xúc nồng nàn, cùng chất liệu văn hóa dân gian khiến ai cũng cảm
nhận được đất nước có trong mỗi con người, để rồi bộc lộ những nhận thức thấm thía về trách nhiệm của mình với đất
nước. Chương thơ đất nước còn là kết tinh của tình cảm khát vọng, của nghĩa tình sáng ngời còn mãi với những con người
đã xả thân vì tổ quốc, cho dù đã nhiều năm qua đi kể từ những tháng ngày đau thương, nhưng tình cảm ấy mãi luôn
nguyên vẹ ắp đầy, và đó cũng chính là giá trị sâu sắc nhất của tác phẩm. “Các anh đi,
Bao giờ trở lại
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong”
*** VẾ B ***: chất trữ tình chính luận:
Đoạn thơ đã làm sáng lên chất trữ tình chính luận trong sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm ở cả phương diện,
nội dung lẫn nghệ thuật. Trước hết về nội dung, đoạn trích đã gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc về không gian
đất nước: Đó là một không gian với bao danh lam thắng cảnh, đằng sau mỗi hình hài núi non ấy là một số phận, một
cuộc đời của nhân dân. Đoạn thơ thể hiện một tưởng đầy màu sắc chính luận: đất nước của nhân dân. Đồng thời còn
thể hiện cảm xúc chân thành, nồng nhiệt xuất phát từ tình yêu đất nước và tình cảm gắn bó với nhân dân. Về nghệ
thuật mạch thơ mang tính chất lập luận thể hiện mạch suy tưởng ngôn ngữ thơ giản dị mà thâm trầm sâu sắc, chứa
đựng những chiêm nghiệm kết hợp với giọng thơ tâm tình, trò chuyện ngôn ngữ giàu màu sắc, biểu cảm, chất chứa
tình chính luận, là nét đặc sắc trong sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Chất trữ tình chính luận còn đóng góp, làm nên
những hình ảnh của một đất nước do nhân dân làm ra, đất nước của nhân dân. Đồng thời cảm xúc trữ tình và suy tư
sâu lắng còn cho thấy niềm say mê tình yêu đất nước và lòng biết ơn với nhân dân của tác giả. Chất trữ tình chính
luận còn góp phần thể hiện giá trị đặc sắc của tác phẩm để tác phẩm sáng mãi với thời gian, chất trữ tình, chính luận
chính là đóng góp riêng của tác giả trong thời kỳ văn học những năm tháng kháng chiến chống Mỹ.

THÊM:
Nhà thơ đã vận dụng vốn ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý tứ và
hình ảnh của ca dao, vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng lại trở thành một câu thơ, một ý thơ gắn bó trong mạch chung của
toàn bài để từ đó khẳng định: Con người Việt Nam say đắm trong tình yêu.
Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính là là sự vận dụng những yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn
đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian
được sử dụng tối đa đã tạo nên không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng: vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện
thực, lại vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và cách diễn đạt
bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm
nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.

Vợ nhặt
LIÊN HỆ: Chí Phèo:
Cùng viết về đề tài người nông dân nghèo vùng nông thôn, phải chịu nhiều thiệt thòi, sống cơ cực, lầm than
dưới chế độ phong kiến, thực dân, Nam Cao đã gây được tiếng vang lớn với hình tượng điển hình Chí Phèo trong tác
phẩm cùng tên ra đời năm 1941, tức trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chí là một người hiền hậu, chất phác
được dân làng Vũ Đại cưu mang. Anh cũng ước mơ có một cuộc sống bình dị như bao người “một cuộc sống nho
nhỏi, chồng cày thuê, vợ dệt vải”. Chỉ vì cường quyền của chế độ phong kiến khi chưa có Đảng lãnh đạo mà đứa con
tinh thần của tác phẩm đã bị chà đạp không thương tiếc. Chí Phèo là nhân vật điển hình cho người nông dân bần cùng
dẫn đến lưu manh hóa – quy luật có tính phổ biến trong xã hội trước Cách mạng. Còn Tràng lại tiêu biểu cho người
nông dân vùng nông thôn trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945). Nhìn chung, số phận của Chí Phèo đáng
thương, đau khổ hơn Tràng: bị cự tuyệt quyền làm người.
Ngoài những yếu tố chi phối như đề tài, cảm hứng, phong cách, quan niệm nghệ thuật, tư tưởng, khuynh
hướng sáng tác của mỗi nhà văn có khác nhau thì có lẽ bối cảnh ra đời của hai tác phẩm là yếu tố quyết định đến sự
khác nhau trong số phận của hai người nông dân này. Tác phẩm Chí Phèo ra đời trước Cách mạng tháng Tám, đồng
nghĩa với việc, số phận và cuộc đời người nông dân hoàn toàn bế tắc, không lối thoát. Không phải vậy mà Chí Phèo
với bản chất vốn lương thiện đã không thể tồn tại trong xã hội ấy đó sao? Anh phải tìm đến cái chết để được làm
người… lương thiện. Còn với Vợ nhặt thì khác, dù lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu (1945) nhưng tác phẩm
được viết lại vào năm 1955, tức sau Cách mạng tháng Tám. Văn học thời kỳ này phải gắn liền và phục sự cho sự

VuQuynhTrangxinggaihocgioidoNV1
nghiệp cách mạng. Do vậy, số phận của người nông dân, mà chủ yếu qua nhân vật Tràng có nhiều điểm khác biệt: Có
lối thoát với kết thúc có hậu.
Với Tràng, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một người nông dân với những nét phẩm chất, tính cách, trí
tuệ, ngôn ngữ tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam. Với Chí Phèo, Nam Cao đã xây dựng được một nhân vật điển
hình cho một tầng lớp của xã hội. Đặc biệt, thông qua hai nhân vật này, người đọc cảm nhận được tấm lòng nhân đạo
cũng như sự nhìn nhận đa chiều để trân trọng vẻ đẹp con người của hai nhà văn.
*** VẾ B ***: khái quát biểu hiện của giá trị hiện thực trong tác phẩm (Cụ thể qua tình huống truyện, không
gian hiện thực nạn đói 1945)
Xây dựng tình huống nhặt vợ của nhân vật Tràng, tác phẩm "Vợ Nhặt" (hoặc đoạn văn) đã phản ánh chân thực
cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám - nạn đói khủng khiếp năm 1945 khiến bao người phải chịu
cảnh sổ sở. Người chết như "ngả rạ", "ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường", người sống mặt hốc hác u tối "đi
lại dật dờ như những bóng ma", "xanh xám như những bóng ma". Không gian thê lương, não nuột với những tiếng hờ
khóc, tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết. Hiện thực thê thảm ấy còn hiện lên qua mùi gây của xác người, mùi ẩm mốc
của rác rưởi, mùi khét của những đống rấm. Không gian xóm ngụ cư không khác biệt nhiều với nghĩa địa.
Đặc biệt, không gian năm đói đã tạo thành khung cảnh nền để Kim Lân kể lại câu chuyện nhặt vợ cười ra
nước mắt của Tràng. Câu chuyện bi hài được miêu tả trong truyện (đoạn văn trên) góp phần hoàn chỉnh bức tranh
chân thực về tình cảnh thảm khốc của người nông dân: Vì đói quá mà chị vợ nhặt đã phải đánh đổi cả lòng tự trọng
để được ăn, để theo không người đàn ông xa lạ; vì nghèo mà bà cụ Tứ phải dằn vặt bởi không lo nổi dăm ba mâm cho
đám cưới của con; vì khổ mà bữa cơm mừng dâu mới chỉ toàn cháo loãng, ăn với muối và món chè khoán đắng chát
thực ra chỉ là cháo cám...

*** VẾ B ***: Nhận xét về giá trị nhân đạo


- Ví dụ: Phân tích tâm trạng nhân vật Tràng buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ, từ đó nhận xét về tấm lòng nhân đạo
của nhà văn.
Qua nhân vật Tràng, nhà văn Kim Lân không chỉ đồng cảm sâu sắc với số phận cùng khổ của người nông dân
nghèo Việt Nam trước cách mạng tháng Tám mà còn phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của họ. Đó là vẻ đẹp của tình
người, của khát vọng hạnh phúc. Đoạn trích đã diễn tả thành công sự đổi thay trong tâm trạng của nhân vật Tràng: Từ
bất ngờ, bỡ ngỡ đến hạnh phúc tột cùng; từ ngờ nghệch, vô tâm trở thành người đàn ông trưởng thành, có trách
nhiệm. Sự đổi thay ấy nói lên sức mạnh của tình yêu thương, sức mạnh của khát vọng hạnh phúc.. có thể biến những
điều không thể thành có thể, biến đau khổ thành ngọt ngào. Xây dựng hình tượng nhân vật Tràng, nhà văn đã thể hiện
thái độ đồng cảm, trân trọng với khát vọng hạnh phúc của con người để từ đó khẳng định: Dù trong tình huống bi
thảm tới đâu, dù kề bên cái chết, con người vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và
vẫn hi vọng vào tương lai, vẫn muốn sống cho ra người. Đây cũng chính là chiều sâu tư tưởng nhân đạo của tác
phẩm.

*** VẾ B ***: Nhận xét về sự chuyển biến của nhân vật người vợ nhặt (trước và sau khi làm vợ Tràng)
Tác phẩm (hoặc đoạn văn) đã miêu tả sự chuyển biến của nhân vật người vợ nhặt trước và sau khi làm vợ
Tràng.
Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh, chủ động làm
quen và "liếc mắt cười tít" với Tràng ngay trong lần gặp dầu tiên. Thậm chí lần gặp thứ hai, thị còn "sầm sập chạy
tới", "sưng sỉa nói" và lại còn "đứng cong cớn" trước mặt Tràng, chủ động đòi ăn, trơ trẽn biền đùa làm thật để theo
không Tràng. Nhưng khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền
thục, e lệ, lễ phép, đảm đang. Thị bẽn lẽn đi cạnh Tràng, lễ phép chào hỏi mẹ chồng, thị còn dậy sớm, quét tước, dọn
dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình –
hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo. Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, thị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu
về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính thị đã làm
cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.
Miêu tả sự thay đổi của nhân vật Thị, Kim Lân đã thể hiện được sự trân trọng và niềm tin vào những phẩm
chất, giá trị tốt đẹp của con người, đó là những vẻ đẹp mà nạn đói không thể nào hủy diệt được. Chính điều đó đã tạo
nên ý nghĩa nhân văn sâu sắc của ngòi bút Kim Lân.

*** VẾ B ***: Nhận xét về vẻ đẹp của khát vọng, vẻ đẹp của tình người
Đoạn trích nói riêng, tác phẩm nói chung không chỉ giàu giá trị hiện thực mà còn giàu giá trị nhân đạo. Xây
dựng tình huống nhặt vợ của Tràng, đoạn văn nói lên tình cảnh thê thảm của người nông dân trong cảnh đói, gián tiếp
tố cáo tội ác của bọn thực dân phong kiến đã đẩy con người đến tình cảnh phải bán rẻ cả nhân phẩm để được sống.
Đồng thời, nhà văn cũng thể hiện sự trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc cũng như vẻ

VuQuynhTrangxinggaihocgioidoNV1
đẹp của tình người trong nạn đói. Dưới sự thể hiện của ngòi bút giàu lòng nhân ái Kim Lân, ta thấy sự túng đói quay
quắt, hoàn cảnh khốn khổ không làm con người từ bỏ lòng yêu thương, nhân hậu, không ngăn cản được con người hy
vọng vào cuộc sống, hy vọng vào hạnh phúc ngày mai. Họ vẫn vượt lên trên cái chết, cái thảm đạm để sống với nhau
bằng tình người đẹp đẽ, để hướng đến sự sống, hạnh phúc và ngày mai tươi sáng hơn. Phát hiện và miêu tả vẻ đẹp ấy
trong tâm hồn nhân vật, Kim Lân đã đem đến cho tác phẩm tình cảm nhân đạo sâu sắc, mới mẻ.

Ai đã đặt tên cho dòng sông


*** VẾ B ***: Nhận xét tính trữ tình trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Tính trữ tình trong kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường đẫm chất thơ, được gợi lên từ sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa chất trí tuệ và cảm xúc nồng nàn, tha thiết; giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều cùng vốn kiến thức
phong phú.
- Thể hiện ở sự kết hợp giữa kể và tả, quan sát và tưởng tượng, lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài
hoa.
Từ những cảm nhận về dòng sông Hương, có thể thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận sông Hương từ nhiều
góc độ, và ở mỗi góc độ đều được nhà văn thể hiện bằng những cảm nghĩ thật sâu sắc và mới mẻ. Chính điều đó, đã
làm nên tính trữ tình trong bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhà văn đã “ca” về vẻ đẹp của sông Hương trong cái nhìn
mê đắm của mình. Ta nhìn thấy cái vẻ đẹp đầy nữ tính của nàng Hương xinh đẹp, dịu dàng, uyển chuyển và kín đáo
khi ở trong lòng thành phố. Và đó cũng là một cô nàng thật cá tính, thật sâu sắc. Sông Hương biết khi nào dâng hiến
cho Huế, khi nào được là chính mình. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ nên những nét đẹp đặc biệt cho dòng sông văn
học, để dòng sông Hương trở thành một “bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm”. Nhà văn đã mang tới những vùng
thẩm mỹ mới mẻ, toàn vẹn về vẻ đẹp của sông Hương trong mối quan hệ với kinh thành Huế. Qua đó thể hiện tình
yêu tha thiết sự gắn bó của Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Hương của xứ Huế đẹp đẽ, dịu hiền.
Sự chuyển biến này giúp ta, nhận ra phong cách độc đáo tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi lẽ
“phong cách là người”. Phong cách của Hoàng Phủ Ngọc tường là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính
trữ tình. Hiểu biết sâu rộng, am tường trên nhiều lĩnh vực đã thể hiện một tầm nhìn, tri thức dày dặn trong việc khám
phá hành trình của sông Hương. Nét trữ tình trong phong cách của Hoàng Phủ Ngọc Tường được nhà văn khéo léo
lồng ghép, đan cài trong cả nội dung và nghệ thuật. Và điều đó đã làm cho văn ông cứ sống mãi trong lòng độc giả
“hôm qua, hôm nay và mãi tận về sau”. Chúng ta cứ tìm đến văn Hoàng Phủ Ngọc Tường mà nghiền ngẫm triết lý,
sống mãi trong sự tha thiết về dòng sông quê hương xứ mình!

*** VẾ B ***: Nhận xét tình yêu tha thiết của Hoàng Phủ Ngọc Tường với xứ Huế
- Tình yêu xứ Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường được chưng cất lên từ quá trình gắn bó và trải nghiệm của ông
ở mảnh đất này.
- Đó là tình yêu được kết tinh từ chất trí tuệ, cảm xúc nồng nàn, tha thiết xuất phát từ trái tim nhà văn.
Nếu xem “Ai đã đặt tên cho dòng Sông” là một “sự thể nghiệm” của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông tâm
tình xứ Huế thì dường như “Tất cả những tư tưởng, tình cảm và con người đều in dấu vào trang sách, hắt sáng lên
những trang đời mới mẻ” (Phạm Phú Phong). Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng Sông” trở thành một tác phẩm kí mang
đậm chất tự sự. Qua bàn tay của người nghệ sĩ ngôn từ ấy, những nét sinh động và tươi mới nhất của sông Hương xứ
Huế đã dần hiện ra với đầy đủ những trạng thái cá tính, từ vẻ hoang sơ man dại tới vẻ trữ tình, đằm thắm nhẹ nhàng,
mang theo tiếng nói vang xa sâu sắc của nghệ thuật. Chất tự sự được tạo nên từ sự phản ánh hiện thực trong tính
khách quan. Qua cái nhìn và lăng kính của mình, ông đã cho người đọc thấy một giọng điệu riêng biệt “không thể tìm
thấy trong cổ họng của bất kì người nào khác”. Giọng điệu ấy thể hiện qua cách nhìn, cách cảm thụ, phương thức tư
duy, năng lực trí tuệ, tình cảm, bộc lộ qua ngôn ngữ đậm chất tự sự.

Quan trọng hơn cả, nếu như không phải là người sâu sắc và am hiểu sông Hương xứ Huế, dành trọn trái tim nhạy
cảm và tình yêu của mình cho xứ Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì có lẽ “Ai đã đặt tên cho dòng Sông” không thể
chạm sâu vào trái tim người đọc đến thế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chèo lái con thuyền của ngôn ngữ dẫn đường
cho người đọc khám phá, phát hiện vẻ đẹp của dòng sông Hương, sông Hương chính là đối tượng là trung tâm của
cảm xúc, điểm tựa và phát sáng ngôn từ. Đọc “Ai đã đặt tên cho dòng Sông” ta dễ dàng nhận ra chất tự sự hòa quyện
trong chất trữ tình là ở đó.

*** VẾ B ***: Bình luận về cái tôi tài hoa uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Thứ nhất, đó là một cái tôi dạt dào cảm xúc. Cái tôi ấy là cái tôi của một người trí thức yêu nước vừa bước ra
từ trong khói lửa chiến tranh, vừa bừng bừng khí thế chống giặc ngoại xâm, vừa hào hứng ngợi ca chủ nghĩa anh
hùng,một tư thế tự do, tự tin và tự hào để mà nhìn vào mối quan hệ và dòng chảy của lịch sử dân tộc để khẳng định
VuQuynhTrangxinggaihocgioidoNV1
sức sống, sức mạnh của nó. Cái tôi ấy là cái tôi của một người nghệ sĩ giàu rung động và lãng mạn, say sưa tìm kiếm
vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút riêng của con sông xứ Huế ở các phương diện không gian và thời gian, lịch sử và văn hoá.
Rõ ràng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm thắm lắng sâu và những cảm xúc sôi nổi say sưa phổ vào trang
viết để rồi mỗi dòng văn như một nốt nhạc trong bản đàn lòng để tôn vinh vẻ đẹp của sông Hương.
Thứ hai, đó là một cái tôi nghiêm túc cẩn trọng trong tìm kiếm và phát hiện. Có thể nói trong bài bút ký pha
tuỳ bút này, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã huy động vốn kiến thức tổng hợp nhiều mặt về con sông Hương từ địa lý,
lịch sử, văn hoá, văn chương và đời sống, tự nhiên và khảo cổ, cái hiện sinh và những gì thuộc về xa xưa… Các mặt
kiến thức này không tách rời nhau, không độc lập tồn tại mà hoà quyện, hỗ trợ nhau tạo thành một điểm tựa vững
chắc cho ngòi bút nhà văn khi miêu tả con sông của xứ Huế.
Và đó còn là một cái tôi tài hoa và lãng mạn. Trí tưởng tượng mạnh mẽ và phong phú khi kết hợp với cái kho
vốn cảm xúc, cảm giác rất dồi dào mà cũng vô cùng tinh tế sâu sắc đã tạo nên một chất thơ chan chứa trên mỗi trang
văn và một sức lôi cuốn khó cưỡng lại đối với người thưởng thức. Thông thường người ta chỉ nói “Thi trung hữu
hoạ” “Thi trung hữu nhạc”. ở đây ta có thể hoàn toàn tự tin mà nói về chất nhạc, chất họa, thậm chí là sự hòa quyện lý
tưởng giữa chất nhạc, chất họa và chất thơ trong chữ nghĩa của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

VuQuynhTrangxinggaihocgioidoNV1

You might also like