You are on page 1of 23

Đề luyện: Hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung của Vợ chồng A Phủ

Những ý chính cần có

1. Hoàn cảnh ra đời


+ Mùa thu năm 1952, Tô Hoài đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc.
Chuyến đi dài tám tháng này đã giúp ông hiểu biết sâu sắc hơn về cuộc sống của
người dân miền núi. Chuyến đi cũng để lại cho nhà văn nhiều kỉ niệm tình cảm sâu
sắc, thắm thiết với con người và thiên nhiên Tây Bắc.
+ Tô Hoài tâm sự: Thiên nhiên và con người miền Tây đã để thương để nhớ
cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Hình ảnh Tây Bắc đau thương và
dũng cảm lúc nào cũng thành việc thành người trong tâm trí tôi. Vì thế tôi viết
“Truyện Tây Bắc”. Tập Truyện Tây Bắc (1953) là kết quả của chuyến đi đó. Tập
truyện này gồm 3 truyện: Cứu đất cứu mường, Mường Giơn, và Vợ chồng A Phủ
Tác phẩm đã đạt giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1954- 1955
+ Vợ chồng A Phủ gồm có 2 phần viết về 2 giai đoạn cuộc đời của Mị và A
Phủ: giai đoạn ở Hồng Ngài trong nhà thống lý Pá Tra và giai đoạn ở Phiềng Sa
gặp gỡ CM và đã trở thành du kích.
+ Như vậy, cảm hứng sáng tác của Tô Hoài trong Vợ chồng A Phủ là cảm
hứng hồi sinh, cảm hứng ngợi ca và cảm hứng nhân đạo. Cụ thể là nhà văn đã lên
án XH giam hãm trói buộc tuổi xuân, sinh lực con người, tước đoạt khát vọng sống
và yêu của con người miền núi, thông cảm với nguyện vọng đau đáu, thiết tha của
họ muốn được vươn lên làm người, tin vào sức sống bất diệt của họ hướng đến tình
yêu, tự do và hạnh phúc..

2. Giá trị nội dung


2.1. Giá trị hiện thực
+ Qua những trang viết miêu tả cuộc đời số phận nhân vật Mị và A Phủ,
truyện ngắn Vợ chồng A Phủ phản ánh một cách sinh động và chân thực tình cảnh
khốn khổ của của những người nông dân dưới chế độ thống lý ở miền núi phía Bắc
trước CM. Từ số phận của nhân vật trong truyện, có thể thấy được giai cấp thống
trị miền núi đã không từ một thủ đoạn nào để bóc lột sinh lực của những người trẻ
tuổi.
+ Tác phẩm cũng cho người đọc thấy phần nào quá trình giác ngộ của những
người dân miền núi, đứng lên, chống lại sự áp bức bóc lột giành lấy tự do cũng như
cho người đọc thấy con đường đi đến với cách mạng để thay đổi số phận mình của
những con người nghèo khổ ấy.
2.2. Giá trị nhân đạo
+ Qua việc miêu tả nỗi thống khổ của hai nhân vật Mị và A Phủ, tác phẩm
thể hiện niềm cảm thông thương xót sâu sắc của nhà văn Tô Hoài đối với số phận
khổ đau của những người nông dân nghèo miền núi dưới ách áp bức của giai cấp
thông trị miền núi trước CM: bị đày đoạ về thể xác, bị trói buộc giam hãm về tinh
thần, sống không khác gì loài vật…
+ Nhà văn cũng phát hiện ra sức sống tiềm tàng bất diệt của những con
người đó, đó chính là những khát vọng đẹp đẽ dù bị vùi dập cũng không thể mất đi.
Nhà văn cũng khẳng định vào khả năng tích cực và con đường đi tới cách mạng
của người dân miền núi Tây Bắc. Đặc biệt nhà văn đề cao tình hữu ái giai cấp, sự
đồng cảm sẻ chia của những người cùng cảnh ngộ.
+ Tác phẩm tố cáo tội ác của lũ người cai trị vùng cao với một niềm khinh
ghét căm phẫn tột độ…Bộ mặt giai cấp thống trị hiện lên qua gương mặt của hai
cha con nhà thống lý Pá Tra: thủ đoạn nham hiểm, tàn bạo, độc ác…
+ Chủ nghĩa nhân đạo trong VCAP là chủ nghĩa nhân đạo kiểu mới. Nó
không chỉ dừng lại ở sự xót thương, thông cảm với nỗi đau khổ của con người như
trong tác phẩm hiện thực phê phán Trước CM. Nó luôn đặt lòng tin ở sự trỗi dậy
của con người chống lại ách áp bức để hướng về chân trời tươi sáng. Mị và A Phủ
cũng chạy vào bóng đêm như chị Dậu ngày bào nhưng tiền đồ của họ không “tối
đen như mực” bởi họ có hai người bên nhau và phía trước cách mạng đang chờ đón
họ để nâng đỡ họ. Tư tưởng nhân đạo này thể hiện cái nhìn lạc quan của nhà văn
về số phận của con người. Có được điều này, là nhờ các nhà văn viết sau Cách
mạng nên được trang bị tư tưởng cách mạng nhìn nhận sự vật hiện tượng theo
chiều hướng đi lên, tích cực. Số phận của nhân vật vận động đi từ bóng tối ra ánh
sáng, gian khổ đến sướng vui, không bế tắc như những nhân vật trong văn học hiện
thực phê phán trước đây…
Đề luyện: (2 điểm)
Nêu ý nghĩa chi tiết “tiếng sáo gọi bạn tình” trong truyện ngắn Vợ chồng A
Phủ của nhà văn Tô Hoài.

Những ý chính cần có

1. Giới thiệu tác giả tác phẩm và chi tiết


+ Vợ chồng A Phủ là tác phẩm thể hiện rõ phong cách Tô Hoài trên nhiều
khía cạnh trong đó có khả năng mô tả tinh tế nội tâm con người cũng như vẻ đẹp
của thiên nhiên, phong tục vùng cao…
+ Để làm được điều đó, Tô Hoài đã xây dựng được nhiều chi tiết đặc sắc,
một trong số đó là chi tiết tiếng sáo gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân. Chi tiết
này có nhiều ý nghĩa.

2. Ý nghĩa của chi tiết đối với việc thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân vật Mị
+ Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” – nhà văn Tô Hoài đã miêu tả âm
thanh của tiếng sáo đêm xuân rất với các cung bậc rất phong phú. Nhà văn đã hơn
sáu lần miêu tả các trường độ âm thanh của tiếng sáo. Có lúc “tiếng sáo gọi bạn
đầu làng”văng vẳng từ xa, có khi “tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi” mỗi lúc một
gần hơn, có lúc tưởng như sắp nắm bắt được thì tiếng sáo lại tuột khỏi tầm tay Mị
và “lửng lơ” bay ngoài đường có khi nó “rập rờn” trở thành trong sâu thẳm tâm
hồn. Khi đầy khát khao: Ta không có con trai con gái, ta đi tìm người yêu; khi da
diết với những lỗi hẹn đáng tiếc: Anh ném pao em không bắt, em không yêu quả
pao rơi rồi…Từng thanh âm của tiếng sáo với những cường độ và cao độ khác
nhau khi trầm bổng, khi xa khi gần, khi là tiếng gọi của cuộc sống bên ngoài, khi
lại là tiếng đời, khi là tiếng lòng cứ không thôi thổn thức trong Mị.
+ Để làm nổi bật sức sống tiềm tàng trỗi dậy trong Mị, Tô Hoài đã mượn
tiếng sáo. Tiếng sáo là biểu tượng của quá khứ tươi đẹp, là âm hưởng của “một thời
xa vắng” đã bị Mị lãng quên trong những mùa đông dài nơi địa ngục trần gian nhà
thống lý Pá Tra. Từng tiếng sáo như rót tâm sự vào lòng Mị. Nó bồi hồi, quyến rũ,
nó réo rắt mời Mị thoát khỏi hiện tại cay đắng về lại ngày xưa – cái thời: “có biết
bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Như vậy, có thể nói tiếng sáo đã
trở thành nhịp cầu nối giữa hiện tại đau khổ với quá khứ tươi đẹp, là con thuyền
đưa Mị về với bến xưa dẫu chỉ là trong tâm tưởng.
+ Nhớ về quá khứ, Mị đồng thời nhận thức được hiện tại, thấm thía thân
phận và cảnh ngộ của mình. Cùng với cảnh sắc Hồng Ngài khi xuân về và men
rượu, âm thanh tiếng sáo đã làm thức dậy trong Mị ý thức về tình yêu, hạnh phúc
và lòng khát khao cuộc sống tự do, tiếng sáo đã cộng hưởng, làm thức tỉnh ý niệm
về sự sống, sự tồn tại trong Mị. Nhà văn Tô Hoài đã rất tài tình khi dung các
trường độ, độ cao thấp của âm thanh tiếng sáo để diễn tả các cung bậc tâm trạng,
sự xáo trộn trong tâm tư Mị và giúp người đọc khám phá chiều sâu nội tâm nhân
vật.
+ Tiếng sáo da diết ở bên ngoài tác động đến tâm lí và đồng thời dắt dẫn Mị
đi từ hành động này đến hành động khác: Mị thấy mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi,
lấy cái váy hoa ở phía trong vách, soi gương vấn lại tóc và xắn miếng mỡ bỏ vào
đĩa đèn dầu cho sáng…Lúc này đây, Mị cũng như đang sống trong mộng du cứ
vùng bước đi theo tiếng sáo và tiếng sáo kia đã trở thành tiếng gọi của tình người,
tình đời, tiếng gọi của sự sống réo gọi ngoài kia…

3. Ý nghĩa của chi tiết đối với việc thể hiện tư tưởng chủ đề tác phẩm
+ Chi tiết tiếng sáo cho thấy tấm lòng yêu thương trân trọng của Tô Hoài đối
với con người. Ông đã không dừng lại ở chỗ xót thương cho số phận tủi nhục của
con người mà còn khám phá ra những khát vọng nhân văn đẹp đẽ trong họ, đó là
khát vọng được sống có ý nghĩa, sống với những ước mơ về tình yêu, về tự do,
hạnh phúc…Sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng trong Mị bắt đầu từ việc Mị lắng
nghe tiếng sáo ở bên ngoài đánh thức nỗi khát khao được đi chơi và khi tiếng sáo
đã nhập hẳn vào nội tâm Mị, cô cũng bắt đầu có những hành động để thực hiện ước
muốn ấy…Cho nên chi tiết tiếng sáo là chi tiết thể hiện tư tưởng nhân đạo của nhà
văn.

4. Ý nghĩa của chi tiết đối với việc thể hiện tài năng, phong cách của nhà văn
+ Chi tiết tiếng sáo thể hiện rõ tài năng, phong cách của Tô Hoài: khả năng
miêu tả tâm lý nhân vật, nhất là diễn tả những trạng thái chập chờn trong tiềm thức
nhân vật. Chi tiết tiếng sáo cho thấy Tô Hoài rất tinh tế khi miêu tả những sự biến
đổi tinh vi trong tâm trạng nhân vật Mị.
+ Miêu tả sinh động vẻ đẹp đặc trưng của văn hoá vùng cao với những nét
phong tục độc đáo: những đêm tình mùa xuân, không khí ngày Tết ở vùng cao…

5. Ý nghĩa của chi tiết đối với việc thể hiện vẻ đẹp nghệ thuật của tác phẩm
+ Chi tiết tiếng sáo tạo nên màu sắc độc đáo cho thiên truyện: gợi không khí
Tây Bắc; tạo chất nhạc, chất hoạ, chất thơ, chất trữ tình cho tác phẩm…
Đề luyện:
Cảm nhận về hai nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ và người vợ nhặt trong
Vợ nhặt của nhà văn Tô Hoài.

Những ý chính cần có

1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm


+ Số phận con người nhất là số phận người phụ nữ luôn là niềm trăn trở lớn
đối với những nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Trong văn học Việt Nam, Tô Hoài và
Kim Lân là hai nhà văn cùng thời, đã miêu tả thật ám ảnh nỗi đau khổ của những
người phụ nữ trong xã hội cũ, đồng thời đã khám phá và trân trọng những vẻ đẹp
tâm hồn của họ.
+ Mị trong Vợ chồng A Phủ và người vợ nhặt trong Vợ nhặt là những nhân
vật như vậy. Qua hai nhân vật này, người đọc có thể thấy được tư tưởng nhân đạo
mang màu sắc mới mẻ…

2. Khái quát về điểm chung


+ Cả hai nhân vật đều có số phận éo le, cuộc sống lay lắt, đáng thương do
cái đói nghèo, cái khổ, do những thế lực thù địch trong xã hội đẩy tới…
+ Nhưng cũng từ trong hoàn cảnh éo le, bất hạnh, kém may mắn ấy, họ vẫn
bộc lộ, toả sáng những vẻ đẹp của tâm hồn, của khát vọng sống mãnh liệt…
+ Hai nhân vật được 2 nhà văn khắc họa bằng bút pháp điển hình hoá sắc
sảo, nhân vật hiện lên sinh động, có sức ám ảnh lớn…
+ Hai tác phẩm đều được viết sau cách mạng, các nhà văn đã được trang bị
tư tưởng cách mạng nên nhìn cuộc sống con người bằng cái nhìn lạc quan, sự vận
động của cuộc đời nhân vật đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ khổ đau đến hạnh phúc…

3. Phân tích lần lượt hai nhân vật


3.1. Nhân vật Mị
a. Số phận
+ Phân tích sự xuất hiện chứa đựng nhiều éo le…
+ Số phận chứa đựng nhiều nghịch lý: Xinh đẹp, giỏi giang, chăm chỉ nhưng
bất hạnh: Nạn nhân của cường quyền, thần quyền: bị đày đọa, đánh đập, bị giam
hãm trói buộc tuổi xuân, ước mơ bị vùi dập, quyền con người bị tước đoạt…Thể
xác và tinh thần đều bị chà đạp, tổn thương…
+ Trở nên trơ lì, vô cảm, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa…
b. Vẻ đẹp
+ Có khát vọng sống mãnh liệt, ở Mị là sức sống tiềm tàng dù bị vùi dập vẫn
không thể mất đi…(Đêm tình mùa xuân)
+ Sức mạnh, sự phản kháng táo bạo và mạnh mẽ… (đêm cứu A Phủ)
c. Nghệ thuật
+ Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật…
d. Tư tưởng của nhà văn
+ Tư tưởng nhân văn: đòi quyền được sống hạnh phúc, sống có ý nghĩa cho
con người.

3.2. Nhân vật người vợ nhặt


a. Số phận
+ Phân tích sự xuất hiện để thấy được tình cảnh của thị: tiều tụy về thân thể,
méo mó về nhân cách…
+ Nạn nhân của cái đói khủng khiếp năm Ất Dậu, cuộc sống mong manh
giữa ranh giới sự sống và cái chết…
+ Tự rơi vào tình cảnh éo le, buồn tủi, bi hài, vì muốn được sống mà theo
không một người đàn ông về nhà…
b. Vẻ đẹp
+ Bản năng ham sống mãnh liệt
+ Thiên tính nữ bộc lộ khi về làm vợ Tràng: đảm đang, dịu dàng, nữ tính, ý
tứ…
+ Là người phụ nữ Việt nam điển hình…
c. Nghệ thuật
+ Đặt nhân vật vào tình huống éo le…
+ Không miêu tả nội tâm mà miêu tả hành động, cử chỉ, nét mặt…
+ Không đặt tên, tạo tính chất phổ biến điển hình…
d. Tư tưởng của nhà văn
+ Tư tưởng nhân đạo: Ca ngợi tình người trong hoạn nạn; khám phá vẻ đẹp
của con người trong những tình cảnh éo le, tăm tối…

4. Điểm khác của hai nhân vật


+ Cùng khám phá số phận con người trong những hoàn cảnh éo le nhưng ở
Mị, nhà văn chú ý đến việc khám phá nỗi thống khổ của con người dưới chế độ
thực dân - phong kiến miền núi trước CM. Đặc biệt tố cáo thế lực thống trị tàn bạo
đã cướp đoạt đi quyền được sống của con người; ngoài ra Tô Hoài còn sâu sắc chỉ
ra sự nô lệ thần quyền ăn sâu vào trí óc của con người cũng chính là nguyên nhân
dẫn con người đến nỗi bất hạnh…Còn Kim Lân, qua số phận một con người, muốn
khẳng định sự lựa chọn tất yếu của lịch sử trong thời điểm khủng khiếp nhất của
lịch sử là nạn đói năm 1945…
+ Nhân vật Mị được miêu tả trong gần suốt cuộc đời, từ tuổi thanh xuân đến
những năm làm dâu gạt nợ đến khi gặp A Phủ và chạy trốn khỏi Hồng Ngài…Nhà
văn muốn phản ánh phần nào con đường giác ngộ đến với cách mạng của người
dân miền núi, ca ngợi cách mạng đã đem đến sự đổi đời cho biết bao thân phận tủi
nhục…Nhân vật vợ nhặt chỉ được nhà văn miêu tả qua hai lần gặp gỡ với Tràng,
thời gian xuất hiện chỉ là một ngày đêm nhưng qua đó lại khái quát được hiện thực
xã hội trong thời khắc ngột ngạt nhất của lịch sử…Số phận cá nhân phản ánh số
phận lịch sử..
+ Nghệ thuật: Mị thiên về miêu tả tâm lí, người vợ nhặt chỉ miêu tả hành
động, cử chỉ bên ngoài…

+ Tư tưởng: Vợ chồng A Phủ thiên về tư tưởng nhân văn/ Vợ nhặt thiên về


tư tưởng nhân đạo …

Đề luyện: Phân tích những đặc sắc nghệ thuật của ngòi bút Tô Hoài trong truyện
ngắn Vợ chồng A Phủ. (Tham khảo các đề đã học)

Những ý chính cần có

1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm


+ Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ nằm trong tập Truyện Tây Bắc- két quả của
chuyến đi thực tế 8 tháng cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc 1952.
+ Vốn sống và tình yêu với miền đất Tây Bắc đã thôi thúc Tô Hoài viết đề
miền đất này. Song để dựng lại một cách chân thực và sinh động bức tranh về cuộc
sống và con người Tây Bắc với những sắc thái riêng của vùng đất này phải kể đến
những biện pháp nghệ thuật đặc sắc ở ngòi bút Tô Hoài.

2. Phân tích chi tiết


2.1 Nghệ thuật tả cảnh
a. Mục đích: Làm nổi bật chất Tây Bắc. Ở bề nổi, chất Tây Bắc bộc lộ rõ nhất qua
những nét đặc sắc của thiên nhiên, của cuộc sống sinh hoạt với những phong tục,
tập quán vừa mang đậm bản sắc văn hoá vùng cao vừa không ít những dấu hiệu
của lối sống còn lạc hậu, mông muội…
b. Đối tượng và cách thức miêu tả
- Cảnh sắc thiên nhiên
+ Chọn thời điểm: thời điểm Tết đến, xuân về là lúc Tây Bắc đẹp nhất với sự
gặp gỡ của cái bừng nở ở thế giới tự nhiên với cái bừng nở trong tâm hồn con
người.
+ Nghệ thuật miêu tả: Kết hợp giữa tả và gợi, xây dựng quan hệ tương
đồng , hài hoà giữa cảnh thiên nhiên và cảnh sinh hoạt của con người đã tạo nên
sức hấp dẫn của bức tranh thiên nhiên Tây Bắc: sắc màu của thiên nhiên và sắc
màu của cuộc sống đã hoà quyện vào nhau (khi cỏ gianh đồi núi vàng ửng, hoa
thuốc phiện nở đỏ, nở tím trên núi cao cũng là khi những chiếc váy hoa sặc sỡ
được đem ra phơi trên các mỏm đá như những cánh bướm rực rỡ…)
- Cảnh sinh hoạt , phong tục:
+ Cảnh sinh hoạt ngày Tết: Nhà văn chọn những chi tiết tiêu biểu nhất cho
nét sinh hoạt của người dân miền núi để miêu tả (uống rượu, nhày đồng, sân chơi
chung với các trò đánh pao, đánh quay, thổi sáo…). Những chi tiết được chọn và
dựng lại bằng một thứ ngôn ngữ miêu tả giản dị như đời sống tự nhiên chảy vào
trong tác phẩm.
+ Cảnh đêm tình mùa xuân: Nhà văn chọn được hai chi tiết đặc sắc nhất
trong nét sinh hoạt văn hoá độc đáp này và dựng lại một cách sinh động tự nhiên:
Đó là cảnh trai gái rủ nhau đi chơi mùa xuân (thời gian là nửa đêm tín hiệu là tiếng
gõ vách, hành động là dỡ cửa bước ra rừng chơi) và cảnh trai gái hẹn hò, ngỏ lời
yêu thương bằng quả pao, quả yến, tiếng sáo, tiếng khèn và những bài hát tỏ tình
rất độc đáo. Tất cả làm nên màu sắc trữ tình độc đáo cho bức tranh sinh hoạt và
chất trữ tình thấm thía cho trang văn Tô Hoài.
+ Cảnh xử kiện: Đây là một biểu hiện đậm nét của tập tục dã man trong chế
độ phong kiến miền núi. Tính chất dã man được dựng lại thông qua những nghịch
lý: Xử kiện là thực hiện công lí song trong cuộc xử kiện ấy, công lí đã bị bóp méo
nghiêm trọng để mang một bộ mặt bất công đến đáng kinh sợ. Bản án đưa ra đáng
lẽ để răn đe, trừng phạt kẻ có tội lại trở thành tai hoạ giáng xuống đầu những kẻ
thân cô thế cô khiên họ không thể kháng cự, không có cách nào để được giải thoát.
c. Nhận xét
+ Cái tài của nhà văn là tìm ra những chi tiết có ý nghĩa, khéo léo tổ chức
chúng để làm nổi bật đặc điểm chính của cảnh, của vật, của việc mà mình miêu tả.
+ Giá trị của những trang văn tả cảnh này là không chỉ dựng lại một cách
sinh động cảnh trí nếp sinh hoạt, phong tục vùng cao Tây Bắc mà còn tạo ra một
cảnh nền thích hợp để bộc lộ nét bi thảm của số phận và vẻ đẹp của sức sống tiềm
tàng của con người trên vùng đất đó.
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
a. Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí:
- Sử dụng rộng rãi thủ pháp tương phản: nhà thống lí Pá Tra giàu có và cô Mị cúi
mặt, mặt buồn rười rượi, giữa vẻ bề ngoài cam chị nhẫn nhục, trơ lạnh với sức
sống mãnh liệt, nồng nàn bên trong…; phòng giam Mị chật hẹp và không gian bên
ngoài phóng khoáng, tự do; cảnh u ám, chết lặng trong buồng Mị và sự rộn ràng
của những ngày xuân, những đêm tình mùa xuân…
- Đi sâu vào đời sống nội tâm để khắc họa tính cách. Nội tâm nhân vật được khắc
hoạ bằng những cách thức cụ thể:
+ Mượn hình tượng thiên nhiên để miêu tả tâm trạng (mùa xuân của thiên
nhiên khơi gợi được sức sống thanh xuân trong tâm hồn Mị, ngọn lửa hơ tay trong
đêm đông gợi ngọn lửa âm ỉ trong tâm hồn…)
+ Trực tiếp miêu tả diễn biến tâm lí một cách hợp lí và tinh tế với từng tình
huống cụ thể: trong đêm tình mùa xuân, tiếng sáo bên ngoài đã đánh thức khát
khao tình yêu, khát khao sống trong Mị. Âm thanh tiếng sáo càng gần gũi thì khát
vọng trong Mị càng mạnh mẽ. Cho đến khi tiếng sáo bên ngoài đã nhập hẳn vào
trong lòng, trong đầu Mị thì Mị bắt đầu có những hành động để thực hiện khát
khao ấy. Trong đêm mùa xuân, giọt nước mắt A –Phủ gợi nhắc giọt nước mắt chảy
xuống không tự lau đi được khi Mị bị trói, điểm chung trong số phận của những
con ngườiluôn có thể bị trói đến chết đã khơi dậy lòng căn phẫn và ý thức về sự bất
công, hành động cứu người đã thúc đẩy hành động cứu mình…(tham khảo thêm
kiến thức đã được học)
+ Giọng kể của nhà văn nhập vào dòng tâm tư nhân vật, làm nổi lên ý nghĩ,
tâm trạng và cả những trạng thái chập chờn của tiềm thức nhân vật.
- Nghệ thuật xây dựng tính cách
+ Xây dựng nét tính cách ổn định thống nhất mà cũng phong phú với những
vận động, đổi thay vừa bất ngờ vừa tất yếu. Mị là cô gái có sức sống tiềm tàng
mạnh mẽ: khi buộc phải sống như một con vật đã dám chết như một con người; khi
bên ngoài câm lặng là khi sức sống âm ỉ đã dồn vào bên trong chờ có cơ hội là
bùng phát; khi sẵn sàng chết thay cho người khác cũng là khi quyết tâm sống trào
lên mạnh mẽ nhất…
+ Làm nổi bật sự khác nhau giữa các tính cách: Mị và A Phủ có sức sống
mạnh mẽ song ở Mị, sức mạnh đã dồn vào bên trong nên Tô Hoài chủ yếu miêu tả
nội tâm nhân vật. Ở A Phủ, sức sống lại bộc lộ ra thành vẻ nam tính trong những
hành động dữ dội quyết liệt và lời nói dứt khoát…
2.3. Ngôn ngữ và cách kể:
a. Ngôn ngữ: đậm chất miền núi, biểu hiện ở lối tư duy gắn liền với thiên nhiên,
hoà quyện và đồng nhất với thiên nhiên. Nét đặc sắc là ở chỗ đó, Tô Hoài đã vận
dụng cách nói hồn nhiên, giàu hình ảnh của người miền núi song không sa vào sự
sao chép tự nhiên chủ nghĩa mà có chọn lọc, nâng cao đến trình độ chuẩn mực của
ngôn ngữ văn học.
b. Cách kể: Xây dựng lối trần thuật linh hoạt sáng tạo với sự dịch chuyển của điểm
nhìn trần thuật (khi đặt bên ngoài để quan sát khách quan, khi đặt bên trong để thể
hiện thấm thía những suy nghĩ, tình cảm trong lòng nhân vật)

3. Đánh giá tổng quát


+ Tô Hoài đã kết hợp và vận dụng tài tình những phương tiện, biện pháp
nghệ thuật khác nhau để làm nổi bật một bức tranh sinh động về cuộc sống và con
người Tây Bắc.
+ Những thành công về nghệ thuật góp phần thể hiện thành công ý đồ tư
tưởng của nhà văn trong tác phẩm. Đó là cơ sở để tác phẩm cũng như cả tập
Truyện Tây Bắc được đánh giá là thành công đột xuất của văn xuôi kháng chiến
chống Pháp.

Đề luyện
Cảm nhận về nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài

Những ý chính cần có


1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm, nhân vật
+ Trong tác phẩm VCAP chúng ta thấy nổi lên hai tuyến nhân vật. Đó là
nhân vật phản diện thuộc tầng lớp thống trị và tầng lớp chính diện thuộc tầng lớp
bị trị.
+ Nếu tuyến thứ nhất chỉ sắm vai phụ thì vai chính thuộc về tuyến thứ 2.
Tuy câu chuyện có tên “Vợ chồng A Phủ” nhưng giữa hai nhân vật này, Mị mới
chính là nhân vật quan trọng, là linh hồn của tác phẩm. Song, A Phủ không phải
là không có một ý nghĩa riêng. Nếu Mị là hình tượng điển hình cho người phụ nữ
thì A Phủ là hình tượng điển hình của người đàn ông. Cả hai hợp lại sẽ cho chúng
ta một hình ảnh toàn cảnh về kiếp sống ngày xưa của người nông dân dưới ách
thống trị của bọn lang đạo chúa đất.
+ Trong phần đầu của tác phẩm, AP là nhân vật phụ, nhưng góp phần tạo
nên tình huống độc đáo cho tác phẩm và tô đậm thêm sức tố cáo cho truyện.
2. Phân tích nhân vật
2.1. Khái quát về nhân vật
+ Nếu Mị là con dâu gạt nợ thì A Phủ là đứa ở trừ nợ. A Phủ cũng là một
thành công của nhà văn TH. AP được xây dựng gần gũi với các chàng trai trong
truỵện cổ miền núi ngày trước. AP cũng là một chàng trai mồ côi, xuất thân nghèo
hèn khốn khó, nhưng nhờ những phẩm chất tốt, có tài có đức mà dần dần vươn lên
cuộc sống tự do, sung túc, tất nhiên là không thiếu sự trợ giúp. A Phủ cũng thế, tuy
chỉ khác một điều là không phải là yếu tố thần kì mà chính là cách mạng đã dẫn dắt
những người như A Phủ và Mị từ một cuộc sống bất hạnh đến cuộc sống hạnh
phúc.

2.2. Các phương diện của nhân vật


- Lai lịch và tính cách:
+ AP là đứa con mồ côi, nạn nhân của bệnh dịch và nạn đói làm chết người
hàng loạt: mới 14 tuổi AP đã bị bán xuống vùng người Thái , nhưng lại trốn để lưu
lạc đến Hồng Ngài. Trong xã hội phong kiến miền núi với một bản lí lịch như thế
để vào đời, AP khó mà tìm được chỗ đứng trong xã hội. Rốt cuộc quanh năm AP
chỉ làm thuê làm mướn để kiếm sống mà thôi.
+ Tuy nhiên, lớn lên giữa núi rừng hoang dã, A Phủ thành chàng trai Mông
khoẻ mạnh: Chạy nhanh như ngựa, biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, cày giỏi và
săn bò tót rất bạo, mọi công việc cứ làm phăng phăng...
+ Vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ sống tất hồn nhiên, yêu đời,
yêu cuộc sống bình yên, chính nghĩa. Ngày Tết dù chẳng có quần áo đẹp như nhiều
chàng trai khác trên cổ vẫn lằn một chiếc vòng vía đeo từ nhỏ, nhưng A Phủ vẫn
hoà cùng đám bạn thổi kèn thổi sáo tìm người yêu. A Phủ trở thành niềm mơ ước
của bao cô gái Mèo. Họ kháo nhau: Đứa nào có được A Phủ cũng như có con trâu
tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu.
+ Ngay từ nhỏ, A Phủ đã có cá tính rất đặc biệt: gan góc, có ý thức phản
kháng mỗi khi không chịu nổi điều gì vô lí...
- Số phận
+ AP cũng là một điển hình cho số phận bi đát của người dân miền núi hồi
ấy. Vốn bản tính phóng khoáng tự do, AP đã đánh con quan. Nhưng cũng vì hành
động ấy mà anh phải rơi vào nhà thống lí Pá Tra làm đứa ở trừ nợ. Nếu như Mị là
nạn nhân của món nợ truyền kiếp, của phong tục tập quán và của thần quyền, thì
AP là nạn nhân của một xã hội không có luật pháp, hay đúng hơn là một thứ luật
rừng. Cách xử tội của bọn chức việc ở Hồng Ngài mới thật lạ lùng: sinh mạng con
người nằm trong tay kẻ mạnh. Nhà văn đã lột trần cái gọi là công lí của xã họi
phong kiến miền núi qua cách xử kiện A Phủ: “Cứ mỗi đợt hút thuốc phiện
xong….càng đánh, càng chửi, càng hút”. Câu văn miêu tả của Tô Hoài như bị xé
ra, hơi văn đứt từng khúc, từng đoạn, khiến người đọc như nghe, như thấy được
cái cảnh xử kiện lạ lùng, quaí đản. Và nghe đựoc cả tiếng lòng thổn thức, sôi giận
đến tắt nghẹn của nhà văn trước tội ác của lũ chúa đất vùng cao thời phong kiến
thực dân.
+ Bị đánh đập chửi bới, A Phủ chỉ quỳ chịu trận trong làm mưa roi và khói
thuốc phiện, không được nói, không được thanh minh. Suốt chiều, suốt đêm vẫn im
như tượng đá...
+ Sau cảnh xử kiện. A Phủ lại như Mị, ngày ngày làm việc cực nhọc: cày
ruộng, săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa, một mình cô độc, rong ruổi ngòai gò bãi,
nương rừng...
+ Cũng như số phận của Mị, trói chặt AP vào địa ngục trần gian ấy còn có
lực luợng thần quyền. Con ma nhà thống lí đã nhận mặt AP thì có nghĩa là AP đã
chấp nhận làm con trâu, con ngựa nhà thống lí đời đời mãn kiếp. Đặc biệt những
chi tiết khi AP ngoan ngoãn tự đi chôn cọc, đi lấy dây mây và nhẫn nhục bị trói
đứng bên cột, hoặc chi tiết đến lúc không phải quỳ, tập tễnh chân đau đi làm thịt
lợn hầu hạ những kẻ đã đánh mình, hầu hạ những kẻ từ nay làm cho mình trở thành
nô lệ của chúng khiến chúng ta không khỏi rùng mình bởi sự tàn bạo thâm độc của
chế độ cai trị của bọn chúa đất phong kiến vùng cao.
-Vẻ đẹp của nhân vật
+ Thế nhưng AP cũng biểu hiện một khát vọng tự do mãnh liệt. Mọi khát
vọng của AP đều được bộc lộ ra bên ngoài. AP sinh ra giữa núi rừng nên yêu tự do
như con chim trên trời như con thú trong rừng. Nhu cầu tự do như là bản năng.
Tuy nhiên không chỉ dừng lại ở bản năng mà khát vọng tự do ở AP còn trở thành ý
thức. Một loạt những dẫn chứng đã cho thấy khát vọng tự do của AP thật tràn trề
như sinh lực của AP vậy: thủa bé, trốn khỏi nhà chủ để tìm về quê quán; không
chịu được sự ức hiếp của con nhà quan, khẳng khái, cương trực kiểu “anh hùng
tiếng đã gọi rằng, giữa đường dầu thấy bất bằng mà tha”; AP nhay đứt hai vòng
dây mây, rồi khi đối diện với cái chết, đã bất lực uất ức khóc; quật dậy dùng sức
tàn của mình chạy trốn vào bóng tối….Tất cả những điều đó, chúng tỏ AP đã thấm
thía tận cùng nỗi đau của người bị mất tự do, nên khát vọng tự do đã cho AP sức
mạnh để giải phóng chính mình. Đó cũng là ý thức làm người, là tinh thần phản
kháng dù tự phát nhưng nó là cơ sở tốt để sau này A Phủ làm du kích.
- Sự thống nhất hai tính cách trong con người A Phủ: phản kháng và cam chịu
+ Ở nhân vật AP, Tô Hoài đã nhìn ra vấn đề, trong con người AP có hai nét
đối lập: AP cường tráng, bất khuất và A Phủ cam phận tôi đòi. A Phủ biểu trưng
cho sức mạnh con người và A P biểu trưng cho sự nhục mạ con người. Đây là sự
vận động, phát triển nội tại của hình tượng nhân vật.
+ Có những ý kiến băn khoăn, A Phủ có tính cách tự do, ngang bướng, luôn
phản kháng mỗi khi không chịu nổi điều gì nhưng vì sao, sau khi bị đánh đập, xử
tội phải ở nợ cho nhà thống lí, A Phủ vẫn tự tay cầm dao, lê bước chân tập của
mình đi giết lợn phục dịch chính những kẻ đã hành hạ, đánh đập biến mình thành
con nợ? Hoặc khi để hổ vồ mất một con bò, A Phủ cãi lại thống lí nhưng vẫn phải
vác cọc, đóng cọc, mang dây mây đến cho tên ác bá trói mình vào đó?
+ Những chi tiết ấy có gì mâu thuẫn với tính cách của một con người vốn
mãnh liệt, can trường. Tuy nhiên, Tô Hoài đã nhận rõ hai mặt đối lập ấy trong mỗi
con người: mâu thuẫn mà thống nhất. Một con người cường tráng, bất khuất và
một con người thân phận tôi đòi đều có trong A Phủ...Cam chịu chấp nhận, nhẫn
nhục vì thân cô thế cô, vì ý thức được sự bất lực...Đấy chính là giai đoạn chưa giác
ngộ của những người dân nghèo miền núi khi phải sống trong tăm tối, chưa có ánh
sáng của Đảng...Họ chưa biết kết lại với nhau để tạo nên sức mạnh phản kháng nên
cuối cùng vẫn chỉ là thân phận đơn độc nô lệ dưới tay bọn ác bá...Sau này khi được
giác ngộ, A Phủ là một du kích dũng cảm trở về giải phóng quê hương...

2.3. Ý nghĩa của nhân vật


+ Xét về ý nghĩa nghệ thuật, nhân vật AP xuất hiện đặc biệt làm đứa ở trong
nhà thống lí Pá Tra là một tình huống độc đáo. Nó vừa nói rằng trong xã hội ấy,
sớm hay muộn những con người khoẻ mạnh như AP cũng sẽ bị biến thành nô lệ.
Và nhân vật A Phủ cũng cho thấy một trong rất nhiều thủ đoạn, cách thức của giai
cấp thống trị biến những người lao động khoẻ mạnh tự do thành nô lệ cho chúng...
+ Mặt khác, sự xuất hiện của AP đã giúp Mị bộc lộ những tiềm năng sức sống
trong tâm hồn mình. Nếu không có AP và những giọt nước mắt trong đêm gió rét
bị trói đứng bên cọc, thì không thể có sự chuyển biến lạ lùng trong tâm hồn Mị và
kết cục hai người tháo cũi sổ lồng giải phóng cho mình khỏi địa ngục trần gian.

2.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật


+ Dù Mị và A Phủ có số phận giống nhau, nhưng nhà văn đã xây dựng nhân
vật có cá tính, sinh động khác nhau.
+ Nếu nhân vật Mị chủ yếu được xây dựng bằng một số nét chân dung lặp lại,
bằng những dòng ý nghĩa chập chờn, mà rất ít hành động thì ngược lại, A Phủ
được thể hiện chủ yếu bằng hành động và chỉ một vài lời đối thoại ngắn giản đơn
mà chắc nịch. Vì thế, A Phủ hiện lên với tính cách gan góc, bộc trực và táo bạo…

3. Kết luận
+ Thông qua nhân vật AP ta vừa có điều kiện hiểu thêm mảng đời sống xã hội
mà Tô Hoài đã lựa chọn để miêu tả, đồng thời thấy được cái nhìn nhân đạo sâu sắc
của nhà văn.
Đề luyện:
Về nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) , có ý kiến cho rằng: Nét
nổi bật ở người phụ nữ này là sự nhẫn nhục và ý thức đầu hàng hoàn cảnh.
Ý kiến khác khẳng định: Nét nổi bật ở Mị chính là sự phản kháng mạnh mẽ và
khát vọng sống mãnh liệt.
Qua việc phân tích nhân vật Mị, anh chị hãy bình luận những ý kiến trên.

Dàn ý chi tiết

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhân vật


+ Nhân vật trong truyện ngắn là phương tiện để nhà văn khái quát hiện thực
và thể hiện những quan niệm về con người. Con người trong văn học hiện lên với
tất cả những gì tinh vi, phức tạp, mâu thuẫn nhất của nó. Nhà văn tài năng thường
xây dựng được những nhân vật có tính điển hình cao, ở nhân vật ấy thường có sự
hài hoà, thống nhất giữa các đối cực.
+ Nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một nhân vật như thế.
Về nhân vật này, có ý kiến cho rằng: Nét nổi bật ở người phụ nữ này là sự nhẫn
nhục và ý thức đầu hàng hoàn cảnh. Ý kiến khác khẳng định: Nét nổi bật ở Mị
chính là sự phản kháng mạnh mẽ và khát vọng sống mãnh liệt.
+ Hai ý kiến đối lập nhưng không hề loại trừ nhau, thể hiện hai đặc điểm
mâu thuẫn nhưng tương tác qua lại tạo nên tính cách nổi bật của nhân vật Mị.

2. Giải thích ý kiến


+ Ý kiến 1: Ý kiến này cho thấy một nét tính cách nổi bật của Mị khi về làm
dâu nhà thống lý Pá Tra một thời gian. Lúc này, sống lâu với cái khổ Mị không còn
thấy khổ nữa, cô trở thành con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa, câm lặng với cuộc
đời, tê liệt mọi xúc cảm con người. Đó chính là biểu hiện của sự nhẫn nhục, chịu
đựng và buông xuôi trước hoàn cảnh.
+ Ý kiến 2: Ý kiến này đề cập đến vẻ đẹp sâu xa của nhân vật, đó chính là
sức sống tiềm tàng, là khát vọng sống mãnh liệt của nhân vật Mị. Đó là khát vọng
được sống một cuộc sống tự do, có nhân phẩm, có tình yêu, hạnh phúc. Khát vọng
ấy vẫn tồn tại âm thầm trong sâu thẳm con người Mị, có lúc bị hoàn cảnh vùi dập
nhưng chưa bao giờ mất đi, chỉ cần có cơ hội là bùng lên dữ dội.
+ Tính cách của Mị là sự tương tác của hai đặc điểm ấy. Nó vừa tranh chấp
với nhau, vừa kết hợp với nhau tạo nên nét sinh động nổi bật của nhân vật, vừa thể
hiện bản lĩnh của một nhà văn am hiểu lôgic tâm lí của con người. Sự tranh chấp -
kết hợp đó được thể hiện qua diễn biến hành động, tâm lí của nhân vật Mị trong
suốt tác phẩm.
3. Phân tích chi tiết
3.1. Sự xuất hiện của nhân vật Mị
+ Ngay từ lần xuất hiện đầu tiên trong truyện, Mị đã có những biểu
hiện của hai nét đặc điểm đó. Không phải ngẫu nhiên mà Tô Hoài đã để nhân vật
Mị xuất hiện ngay ở những dòng đầu tiên của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ với
nhiều điều bất thường, nghịch lý: Ai ở xa về có việc vào nhà thống lý Pá Tra
thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu
ngựa. Mị xuất hiện trong dáng vẻ lẻ loi, cô độc trong sự đối lập với không khí ồn
ào của người qua, kẻ lại, kẻ hầu người hạ trong gia đình thống lí Pá Tra; giữa tư
cách là vợ A Sử, con trai thống lí - gia đình được biết đến là ăn của dân nhiều, đồn
Tây lại cho muối về bán, giầu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc nhiều thuốc
phiện nhất làng và những việc làm, dáng vẻ của cô: Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi,
thái cỏ ngựa, dệt vải, che củi, hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi
mặt, mặt buồn rười rượi. Đó là sự đối lập giữa danh phận – thân phận, giữa vị thế
- tâm thế, giữa vị thế chủ nhân- tâm thế nô lệ, giữa địa vị cao sang, quyền quý -
dáng vẻ hèn kém, tội nghiệp…
+ Với một vài chi tiết, giọng điệu có phần tưng tửng, khách quan, Tô Hoài
đã làm hằn lên chân dung nhân vật Mị, không chỉ là ở dáng vẻ bề ngoài mà đã hé
mở rất nhiều điều về số phận, cõi lòng nhân vật. Trước hết, Tô Hoài đã để cho Mị
xuất hiện bên cạnh những đồ vật: bên tảng đá, trước cửa, cạnh tàu ngựa. Như đã
nói, nó đã làm toát lên sự lẻ loi, âm thầm của nhân vật. Sự tồn tại của cô như lẫn
vào những đồ vật vô tri. Nhưng hình như không chỉ có thế, sự xuất hiện ấy còn báo
hiệu sự vô cảm, câm lặng trong tâm hồn. Phải chăng có những trói buộc về tâm
hồn, sự hành hạ về thể xác có thể khiến cho con người trở nên chai sạn với nỗi đau
của chính mình, tê liệt cảm xúc vốn có của một con người, trở thành kiểu người
“vật hoá”. Khi đó, con người không phải đang sống mà chỉ như đang tồn tại mà
thôi, hoặc chấp nhận một cuộc sống không đáng sống, sống không được như con
người thực sự. Ở trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Cô không ý thức được sự sống
nữa, sống chẳng qua chỉ là kéo dài những ngày chưa chết mà thôi.
+ Trong lời văn nghệ thuật, không chỉ là một thông báo thuần tuý khách
quan mà còn bao hàm một đánh giá: lúc nào cũng thế. Như vậy, dáng điệu cúi mặt,
mặt buồn rười rượi của Mị không phải là biểu hiện nhất thời, ngẫu nhiên nữa mà
đã trở thành dáng diệu quen thuộc, nó là dáng điệu của thân phận, đổ bóng xuống
toàn bộ tác phẩm. Tuy nhiên cũng từ dáng vẻ đó lại cho thấy ở Mị một tính cách
đặc biệt, đó là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Một mặt, Mị có vẻ nhẫn nhục chịu
đựng, buông xuôi đến mức yếu đuối, mặt khác, người ta lại thấy Mị là người cứng
cỏi, mạnh mẽ đến mức bướng bỉnh. Bên trong cái bề ngoài lặng lẽ, câm lặng, có vẻ
ý thức đầu hàng hoàn cảnh ấy lại chứa đựng một sức sống mãnh liệt ở bên trong.
Điều này còn được thể hiện xuyên suốt ở những hành động, tâm lí của Mị ở trong
truyện.
3.2. Cuộc sống làm dâu ở nhà thống lí Pá Tra
+ Trước khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ, Mị đã sống cuộc sống thanh xuân
tươi đẹp. Xinh đẹp, tài hoa và đức hạnh, đó là những giá trị con người Mị có thể
khiến Mị xứng đáng được hưởng một số phận hạnh phúc. Với tất cả khát vọng
mãnh liệt của mình, Mị đã lên tiếng từ chối cuộc hôn nhân với A Sử một cách tự
tin: Con đã biết cuốc nương làm ngô, con làm nương ngô giả nợ thay cho bố, bố
đừng bán con cho nhà giàu. Câu nói là sự lên tiếng của một khát vọng sống tự do,
nó cho thấy với Mị, thà làm việc khổ cực trên nương rẫy mà được tự do còn hơn
làm dâu cho nhà giàu mà nô lệ.
+ Không cưỡng lại được số phận, bị bắt về nhà thống lí, bị đem cúng trình
ma nhà thống lí, chấp nhận làm vợ A Sử cũng là biểu hiện của thái độ không dám
phản kháng, của ý thức đầu hàng hoàn cảnh. Nhưng mấy tháng đầu, ngày nào Mị
cũng khóc, cũng héo hon. Có lần còn toan tự tử. Đây là hành vi có vẻ tiêu cực
nhưng thực ra vẫn là biểu hiện tích cực, nó cho thấy Mị vẫn còn ham sống, khát
khao cuộc sống tốt đẹp nên mới muốn chết. Như thế Mị không đầu hàng hoàn
cảnh, không buông xuôi.
+ Tuy nhiên vài năm sau, khi bố chết rồi, Mị không còn vướng bận, nhưng
Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa. Đây lại là biểu hiện của ý thức đầu hàng
hoàn cảnh. Cô không còn ý thức về sự tủi nhục của mình nữa. Kiếp sống tôi đòi ở
nhà thống lí không những vắt kiệt sức lực của Mị mà còn khiến Mị trở nên tê dại
về tinh thần. Từ cô gái trẻ trung xinh đẹp, giờ đây lúc nào Mị cũng buồn rười rượi.
Mị như lẫn vào thế giới của những đồ vật vô tri: những tảng đá, cạnh tàu ngựa, lùi
lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Chỗ ở của cô là một buồng gian chỉ có một lỗ
vuông bằng bàn tay “lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là
sương hay là nắng”. Nỗi khổ triền miên và sự lặp lại của những công việc nặng nề
đơn điệu làm cho Mị mất cả ý niệm về thời gian, mọi ước mơ dường như tắt lịm,
mọi khát vọng như đã bị lụi tàn. Cuộc sống của Mị bây giờ chẳng qua là sự kéo dài
những ngày chưa chết mà thôi.
+ Trói chặt Mị vào cái nhà tù ấy còn có lực lượng thần quyền mà kẻ thống trị
đã lợi dụng để khống chế con người một cách triệt để. Khi đã bị trình cũng ma nhà
thống lí thì coi như cuộc đời Mị đã được sắp đặt. Không thể cựa quậy, không mong
giải thoát. Hình ảnh con ma nhà thống lí rồi sẽ bám riết lấy Mị suốt đời. Đó là sợi
dây trói tinh thần ghê gớm và nghiệt ngã của những tư tưởng cổ hủ và lạc hậu. Nó
khiến cả thể xác và tinh thần con người đều bị cầm tù một cách hoàn toàn. Như vậy
sự nhẫn nhục, cam chịu của Mị đã làm nên dáng điệu cố hữu của cô trong toàn bộ
tác phẩm. Tuy nhiên khát vọng bên trong vẫn luôn cựa quậy, có cơ hội là lại bùng
lên.
3.3. Đêm tình mùa xuân
+ Trước đó, sau nhiều năm làm trâu ngựa nhà thống lí, Mị đã mất đi hạnh
phúc đang có, Mị không thiết tha bất cứ điều gì. Năm nào cũng có những đêm tình
mùa xuân, nhưng Mị không có nhu cầu gì nữa cả. Chiếc váy hoa vẫn vắt tít ở trong
vách chứng tỏ từ ngày về nhà thống lí, cô chưa mặc một lần. Nó chứng tỏ cô cũng
chẳng có nhu cầu làm đẹp. Cô cũng chẳng thiết đi chơi hội, cũng vì A Sử chưa bao
giờ cho Mị đi chơi. Được đi chơi là nhu cầu giao lưu, là khao khát được vui, muốn
làm đẹp là biểu hiện của nữ tính . Ở Mị tất cả dường như đã đã bị dập tắt, cũng như
sự tắt ngúm của ngọn lửa lòng, của khát vọng sống.
+ Nhưng mùa xuân năm nay khác hẳn. - Mùa xuân về ở Hồng Ngài đã có
những tác động tích cực đối với cuộc đời tăm tối và giá lạnh của Mị.
+ Trước hết là khung cảnh mùa xuân tươi vui, tràn đầy sức sống và đầy màu
sắc, âm thanh: trên đồi núi những nương thuốc phiện với sắc màu rập rờn biến ảo,
trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như
con bướm sặc sỡ …Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà;
Mùa đông năm đó Hồng Ngài cũng giá rét hơn, sự lạnh lẽo bên ngoài đánh thức
nhu cầu hơi ấm ở bên trong con người… Rồi tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi- tiếng
sáo gọi bạn tình “vọng” vào tâm hồn Mị thiết tha bổi hổi. Từng lời hát giản dị, mộc
mạc những lại có sức mời gọi lớn lao đối với Mị “ ta không có con trai con gái- ta
đi tìm người yêu”. Và bay theo tiếng sáo, những đêm tình mùa xuân đã tới…
- Những biểu hiện của ngoại cảnh ấy không thể không tác động đến Mị, nhất
là tiếng sáo. Bởi vì ngày trước Mị thổi sáo giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm đã
thổi sáo đi theo Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình, “tiếng sáo rủ bạn đi chơi” chính là
tiếng ca của hạnh phúc, là âm thanh của tình yêu đôi lứa. Nó đã xuyên qua cái hàng
rào lạnh giá bên ngoài để “vọng” vào miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức
cái sức sống vẫn tiềm ẩn trong cõi lòng của người thiếu nữ Tây Bắc này.
+ Và đặc biệt, khi uống rượu vào, Mị ý thức được mình còn trẻ, mà rất trẻ.
Đó là khoảnh khắc đau đớn nhất của người đàn bà, là giây phút phẫn uất nhất, nhận
ra những oái ăm, ngang trái của cuộc đời, những oan ức mà mình phải gánh chịu.
Đó là những cay cực không đáng có..Thấm thía cảnh tình tủi nhục của mình, Mị
chỉ muốn chết quách đi cho xong “ Nếu có nắm lá ngón lúc này, Mị sẽ ăn cho chết
ngay”. Lúc chán đời nhất thì k chết, nhưng khi muốn chết chính là khi khát khao
sống mãnh liệt nhất. Đây là biểu hiện lộn ngược vẫn xảy ra ở Mị. Tuy nhiên nhiệt
tình sống vẫn mạnh mẽ hơn.
+ Một loạt sự biến đổi bên trong tâm lí dẫn đến những hành động kế tiếp
nhau là biểu hiện minh chứng cho sức sống tiềm tàng trỗi dậy, sự sống quay về. Mị
thấy mình còn trẻ, đó là ý thức về sự tồn tại của mình trên đời. Mị thắp đèn lên cho
sáng, lòng yêu đời đã trở về, nó muốn mượn ngọn đèn kia để toả sáng. Mị muốn đi
chơi đó lại là nhu cầu được giao lưu được vui đuợc chia sẻ. Mị soi gương vấn lại
tóc, lấy cái váy hoa dắt tít ở trong vách ra để mặc đi chơi, nhu cầu làm đẹp trở lại,
nữ tính quay về(….)…Như vậy, Mị quyết định đi chơi đêm hội, cô thấy mình
không thể buông xuôi như trước nữa. Ý thức đâù hàng hoàn cảnh giờ đây đang bị
khát khao sống chất vấn.
+ Thế nhưng, A Sử lại dập tắt ngọn đèn mới sáng trong Mị, A Sử trói Mị
đứng bên cột suốt đêm. Sau đêm ấy, Mị lại bị hoàn cảnh dúi đạp xuống. Lần này
cô gần như bị tê liệt hoàn toàn. Ý thức đầu hàng hoàn cảnh lại chiến thắng.

3.4. Đêm cứu A Phủ


+ Lần này, cô không những mất đi khao khát sống, mà cô mất đi nhưng cảm
xúc người. Mất lòng trắc ẩn, mất đi tình thương đối với đồng loại- tính người đầu
tiên và cũng là cuối cùng của con người. Nó là sự mất mát đáng sợ nhất trong cuộc
đời.
+ Biểu hiện: A Phủ bị hành hạ, trói đứng bên cột hàng tuần lễ ở những ngày
mùa sương muối, thân xác tiều tuỵ đi. Ngày nào, đêm nào Mị cũng ra hơ tay sưởi
lửa, cũng nhìn thấy những biểu hiện khổ sở của A Phủ nhưng không hề động lòng.
Mị đã tê liệt, lòng trắc ẩn đã lịm tắt. Ý thức đầu hàng hoàn cảnh đã chế ngự con
người Mị. Mị đã buông xuôi tuyệt đối.
+ Nhưng khi nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ, giọt nước mắt cay đắng,
bất lực, giọt nước mắt yếu đuối của phái mạnh, thậm chí là của người có sức mạnh
nhất bản Hồng Ngài, lòng trắc ẩn của Mị đã được đánh thức. Đó là dòng nước mắt
của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt
lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị nhớ đến
những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho
thân phận của mình: “…Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó
rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi… Còn người kia việc gì phải chết
thế?”
+ Ngay trong lời độc thoại này cũng cho thấy sự tương khắc lẫn nhau giữa
hai ý thức: ý thức đầu hàng hoàn cảnh, cam chịu thân phận và ý thức nổi loạn phản
kháng trong nhân vật Mị. Ý nghĩ về số kiếp thân phận mình sẽ bị trói chặt ở cái
nhà này và chết rũ xương khiến cho Mị không còn le lói bất cứ sự phản kháng nào
nữa. Với cô, cuộc sống chỉ là kéo dài những ngày chưa chết, và sẽ chết như trâu
ngựa ở nhà này, không khao khát gì hơn.
+ Nhưng khi trong Mị nhận thấy sự vô lý của sự việc: Người kia việc gì mà
phải chết thế? Chúng nó thật độc ác…thì đây lại là dấu hiệu của sự nổi loạn. Hơn
nữa, thấy cảnh A Phủ khóc, Mị lại nhớ đến đêm bị A Sử trói đứng bên cột. Thương
mình, đồng cảm với A Phủ, rồi đến thương người, lòng trắc ẩn đã tạo nên sức
mạnh cho Mị. Ý nghĩ cứu A Phủ xẩy đến rất nhanh nhưng lại hợp tâm lí nhân vật
Mị. Giây phút chứng kiến A Phủ chạy đi, Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối với sự
nghẹn ngào. Cứ tưởng Mị sẽ cam tâm chết thay cho A Phủ, nhưng khát khao sống
đã bùng lên mãnh liệt vào cái giấy phút mệnh hệ ấy. Mị đuổi theo A Phủ và cất lên
tiếng nói sau bao nhiêu năm câm nín: A Phủ. Cho tôi đi. Ở đây thì chết mất. Đó là
tiếng nói khát khao sống, và khao khát tự do bấy lâu nay vị đè nén, giày xéo, chà
đạp. Tiếng nói ấy cho thấy Mị đã phá bỏ được sức nặng của cường quyền, của thần
quyền vẫn trói buộc đày đoạ Mị. Cắt dây trói cho A Phủ, Mị đồng thời cắt luôn sợi
dây trói tinh thần ấy để giải phóng chính mình.
+ Như vậy, đến đây, sức sống tiềm tàng của Mị đã không chỉ dừng ở dạng
tinh thần nữa, nó đã biến thành hành động, hành động cuối cùng, quyết lịêt để
chấm dứt cuộc sống nô lệ, lặng câm. Nói cách khác, đến cuối cùng, ý thức phản
kháng đã hoàn toàn chiến thắng sự cam chịu nhẫn nhục của Mị.
+ Vài nét về nghệ thuật xây dựng nhân vật. (…)

4. Bình luận
+ Như vậy, nét nổi bật ở con người Mị không chỉ là một trong hai ý kiến. Nó
là sự kết hợp vừa tương giao vừa tương khắc của hai ý thức: cam chịu nhẫn nhục
và sức sống mãnh liệt, phản kháng hoàn cảnh.
+ Xây dựng nhân vật Mị với hai đặc điểm như thế, Tô Hoài một mặt phản
ánh được số phận cay cực, thống khổ của người nông dân nghèo miền núi trước
CM, tố cáo được sự bóc lột chèn ép ghê gớm của giai cấp thống trị phong kiến
thực dân. Đặc điểm ấy cũng phản ánh sự bế tắc, sự hạn chế trong tư tưởng, nhận
thức của những người nghèo chất phác khi chưa được giác ngộ. Mặt khác, Tô Hoài
cũng thể hiện đuợc cảm hứng nhân văn khi phát hiện ra được vẻ đẹp tiềm tàng
trong nhân vật, niềm tin vào sức mạnh phản kháng với hoàn cảnh để giải phóng
chính mình của họ…
Đề luyện: Phân tích diễn biến tâm lý, hành động của nhân vật Mị trong đêm tình
mùa xuân trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (đoạn trích)- Nhận xét nghệ
thuật miêu tả tâm lý của nhà văn Tô Hoài.

Những ý chính cần có


1.Những tác động của ngoại cảnh
- Mùa xuân về ở Hồng Ngài đã có những tác động tích cực đối với cuộc đời tăm
tối và giá lạnh của Mị.
+ Trước hết là khung cảnh mùa xuân tươi vui, tràn đầy sức sống và đầy màu
sắc, âm thanh: trên đồi núi những nương thuốc phiện với sắc màu rập rờn biến ảo,
trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như
con bướm sặc sỡ …Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà..
+ Mùa đông năm đó Hồng Ngài cũng giá rét hơn, sự lạnh lẽo bên ngoài đánh
thức nhu cầu hơi ấm ở bên trong con người…
+ Tiếp đó là tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi- tiếng sáo gọi bạn tình “vọng”
vào tâm hồn Mị thiết tha bổi hổi. Từng lời hát giản dị, mộc mạc những lại có sức
mời gọi lớn lao đối với Mị “ ta không có con trai con gái- ta đi tìm người yêu”. Và
bay theo tiếng sáo, những đêm tình mùa xuân đã tới…
+ Bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới rộn rã “chiêng đánh ầm ĩ” và bữa
rượu tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa
- Những biểu hiện của ngoại cảnh ấy không thể không tác động đến Mị, nhất là
tiếng sáo. Bởi vì ngày trước Mị thổi sáo giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm đã
thổi sáo đi theo Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình, “tiếng sáo rủ bạn đi chơi” chính là
tiếng ca của hạnh phúc, là âm thanh của tình yêu đôi lứa. Nó đã xuyên qua cái hàng
rào lạnh giá bên ngoài để “vọng” vào miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức
cái sức sống vẫn tiềm ẩn trong cõi lòng của người thiếu nữ Tây Bắc này…

2. Diễn biến tâm lí, hành động của Mị


+ Đầu tiên Mị “ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Cô Mị sau
bao ngày lặng câm, đã cất tiếng, dù đó chỉ là những lời thầm thì nhưng đó dầu sao
cũng là âm thanh của tiếng lòng khát khao hạnh phúc, khát khao tự do đang trỗi
dậy, đã cất lên thành lời hát trên môi Mị, đánh dấu một bước trở lại con đường làm
người con gái yêu đời, yêu sống ngày nào.
+ Trong không khí của một đêm tình mùa xuân, trong cái nồng nàn của bữa
rượu ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cái
cách uống rượu của Mị khiến người đọc ngạc nhiên nhưng không cảm thấy vô lý.
Bởi sau bao tháng ngày đau đớn, tủi nhục, giờ là lúc Mị được sống với con người
chính mình, cô như không phải đang uống rượu mà đang uống tất cả nỗi hận đời.
Uống để quên đi cái phần đời cay đắng vừa qua, uống để sống lại mạnh mẽ cái
phần đời tươi trẻ đã có. Chẳng phải thế mà trong Mị lúc này đang sống lại những
kỉ niệm của ngày trước- những ngày tươi đẹp, hạnh phúc và đầy kiêu hãnh của tuổi
trẻ.
+ Việc sống lại những kí ức tươi đẹp của quá khứ đã khiến Mị tiến thêm một
bước nữa trên hành trình tìm lại chính mình, tìm lại niềm vui sống và khát vọng
hạnh phúc. Tình trạng sống mà như đã chết ở Mị được cởi bỏ, Mị thấy “phơi phới
trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước ”. Lần đầu
tiên sau những tháng ngày mất ý niệm về không gian, thời gian, về bản thân, Mị
cảm thấy “mình trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Rõ ràng, lòng ham
sống trong Mị đã trỗi dậy, khát vọng hạnh phúc thuở nào trong Mị đã bừng tỉnh.
Mị ý thức rất rõ quyền được sống, được đi chơi ngày Tết của mình như bao nhiêu
người phụ nữ có chồng khác.
+ Như một lẽ tự nhiên, khi ý thức sống đã trỗi dậy thì cũng là lúc Mị cảm
thấy rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa lý của cuộc sống thực tại. Nếu trước đây, Mị
quen khổ đến mức chai sạn, không còn tưởng đến việc ăn lá ngón tự tử thì giờ đây
“Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn
nhớ lại nữa”. Đây chính là biểu hiện của sự phản kháng với hoàn cảnh, của sự
xung đột gay gắt giữa một bên là khát vọng sống chân chính đã được thức tỉnh với
một bên là thực tại đáng chán vẫn đang hiện hữu. Những giọt nước mắt của Mị chỉ
càng chứng tỏ rằng Mị đã thực sự hồi sinh và ý thức rất rõ tình trạng thê thảm, đau
xót của kiếp sống mình.
+ Tiếng sáo vẫn đang lửng lơ bay ngoài đường, những giai điệu tình yêu, cả
những lỗi hẹn đáng tiếc “Anh ném pao, em không bắt - em không yêu, quả pao rơi
rồi” vẫn vang lên đâu đây. Từ chỗ là một thanh âm bên ngoài, tiếng sáo đã trở
thành những “nốt nhạc” trong tâm hồn Mị: Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo.
Và tiếng sáo nội tâm ấy giống như chất xúc tác để phản ứng đi chơi của Mị diễn ra
nhanh hơn. Trước đó, Mị đã “đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào
đĩa đèn cho sáng” (như Mị đang ý thức được sự tối tăm của cuộc sống này, như
đang cố gắng thắp lên ánh sáng cuộc đời vậy) nay tiếng sáo rập rờn hối thúc Mị
“quấn lại tóc”, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách (nhu cầu làm đẹp, ý
thức về nữ tính trỗi dậy). Có thể thấy, những chuyển động mạnh mẽ trong tâm hồn
Mị đã dẫn đến những hành động nối tiếp nhau.
+ Giữa lúc những hoạt động sống trong Mị trào sôi thì cũng là lúc nó
bị vùi dập một cách dã man bởi A Sử. Hắn đã trói đứng Mị vào cột nhà, quấn tóc
Mị lên cột khiến Mị không cúi không nghiêng được đầu. Tuy nhiên, hành động ấy
của A Sử chỉ có thể trói buộc thân xác Mị, ngăn cản hành động đi chơi của Mị chứ
không thể dìm xuống cái sức sống mãnh liệt vẫn đang dâng lên trong người con
gái Tây Bắc này. Dù đang bị trói đứng nhưng Mị như quên mình đang bị trói,
quên những đau đớn về thể xác, trong Mị hơi rượu vẫn nồng nàn và nhất là tiếng
sáo gọi bạn tình vẫn đưa Mị đi theo những cuộc chơi…
+ Mị tỉnh dậy trong một không gian im ắng xa lạ bao trùm lên là một
không khí lạnh ngắt của cõi chết (không nghe tiếng lửa, không một tiếng động,
không biết...không biết tất cả. Mị không thể biết...). Con người từ cõi chết trở về
như lạc lõng, chơi vơi, trơ trọi.
+ Không khí lạnh chết đó có sức khơi gợi Mị trơ về với chính mình. Bản
năng tự vệ bừng dậy và Mị “sợ quá”. Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay đã
chết...và trong vô thức cũng chợt nhớ lại đời một người vợ trẻ trước đây cũng bị
trói ba ngày rồi chết đi.
+ Tác giả dựng phông cảnh không gian thích hợp cho sự chuyển biến bước
đầu một cách mong manh trong tâm lí nhân vật, mơ màng cảm nhận thân phận bản
thân và liên tưởng tới thân phận những người cùng cảnh. Đây là mầm mống cho
sự phát triển hành động của nhân vật trong hoàn cảnh mới...

3. Đánh giá về vẻ đẹp tâm hồn nhân vật Mị, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
của nhà văn và giá trị nhân đạo của tác phẩm
+ Qua diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị, ta thấy vẻ đẹp con
người bên trong nhân vật vẫn không mất đi. Đặc biệt là khát vọng sống, niềm khao
khát hạnh phúc vẫn tiềm ẩn trong sâu thăm tâm hồn nhân vật. Nó giống như ngọn
lửa vẫn đang âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một cơn gió mát lành
thổi tới là nó có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động của ngoại cảnh
là không nhỏ nhưng cái sức mạnh bên trong không thể nào dập tắt của con người
mới là điều mấu chốt quyết định sức sống của Mị, của mỗi cá nhân. Đó là sức sống
tiềm tàng của nhân vật Mị.
+ Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài là một lần sức sống ấy trỗi dậy, nó cho
ta thấy những bí ẩn trong cuộc đời và con người Mị nói riêng và đời sống tâm hồn
tình cảm của con người nói chung. Sức sống ấy là sự phản kháng mạnh mẽ và táo
bạo của con người đối với nghịch cảnh, nó còn diễn ra lần nữa trong đêm cứu A
Phủ ở đoạn sau.
+ Đoạn văn cho thấy nghệ thuật miêu tả tâm lí và phát triển tính cách nhân
vật đặc sắc của nhà văn Tô Hoài: ít miêu tả hành động mà chủ yếu khắc hoạ tâm
tư, nhiều khi mới chỉ là các ý nghĩ chập chờn trong tiềm thức nhân vật; thể hiện sự
am hiểu tâm lí con người, nên miêu tả sự phát triển của tính cách, cũng như hành
động một cách lô gíc, hợp lí; giọng kể của nhà văn có lúc hoà vào dòng tâm tư
nhân vật, vẽ lên đủ loại cung bậc tình cảm của nhân vật: lúc tự tin, lúc ai oán lúc
giận dỗi, lúc uất ức….
+ Với đoạn văn này, Tô Hoài thể hiện một cái nhìn đầy cảm thương, đồng
cảm và một niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh
phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con
ngưòi cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc.
+ Đoạn văn cũng đưa đến một thông điệp: Con người cần được sống cho ra
sống, không thể sống mà như đã chết. Vấn đề tưởng như đơn giản, nhưng không
phải dễ dàng thực hiện với tất cả mọi người. Vẫn còn có những con người chưa
được sống một cuộc sống có ý nghĩa, chưa được hưởng thụ những giá trị tinh thần
mà con người có quyền được hưởng. Đây là vấn đề nhân sinh nhân bản cho đến
hôm nay vẫn còn nguyên giá trị của nó.

You might also like