You are on page 1of 14

“Trên con đường dẫn tới thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”

VỢ CHỒNG A PHỦ (Tô Hoài)


A. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
I. TÁC GIẢ
- Vị trí: Tô Hoài được coi là cây đại thụ của nền văn xuôi VN hiện đại.
- Con người: TH có vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc về cuộc sống, đặc biệt là đối với những
phong tục, tập quán độc đáo của nhiều vùng đất khác nhau. -> TH là nhà văn của người nghèo
ven đô và là nhà văn của vùng rẻo cao Tây Bắc.
- Đặc điểm sáng tác: Ông sáng tác theo xu hướng hiện thực, thiên về phản ánh những sự thật
của đời sống trong những trang viết bình dị, tinh tế, đậm đà màu sắc dân tộc và đầy chất thơ, chất
trữ tình đằm thắm, với ngôn ngữ giàu tính tạo hình và một lối trần thuật sinh động, hóm hỉnh.
- Nhận định văn học tiêu biểu về TH:
1. Nhìn lại toàn bộ cuộc đời văn học của nhà văn Tô Hoài, Giáo sư Phong Lê khẳng định: “Tô
Hoài là một trong những tác gia lớn nhất của thế kỉ 20.”; “ Ông thuộc thế hệ vàng của văn
chương hiện đại, làm nên mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học thế kỉ XX”.
2. “ [...] Hơi thở cuộc sống luôn đầy ắp và hiện rõ trên từng trang viết của nhà văn Tô Hoài, đưa
ông cùng nhiều nhà văn, nhà thơ tên tuổi khác làm nên “mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học
Việt Nam thế kỉ XX”. (- Trích bài viết “ Nhà văn Tô Hoài nặng lòng với những trang văn về Tây
Bắc”, Báo Mới.)
3. "Đất và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên… Hình
ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm
trí tôi". (Tô Hoài)
4. "Tô Hoài là một nhà văn lớn của Văn học Việt Nam hiện đại, người có 95 năm tuổi đời nhưng
đã dành hơn 70 năm đóng góp cho văn học. Ông là nhà văn chuyên nghiệp, bền bỉ sáng tác và
có khối lượng tác phẩm đồ sộ". (Phạm Xuân Nguyên).
5. Tô Hoài Sống gắn bó nghĩa tình cùng mảnh đất Tây Bắc, với sở trường quan sát những nét
riêng về phong tục văn hóa của những con người nơi cao nguyên đá mờ sương.
B. TÁC PHẨM
- Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1952
Là 1 trong 3 tác phẩm in trong tập Truyện Tây Bắc (Vợ chồng A Phủ, Mường Giơn,
Cứu đất cứu mường).
Tập truyện là kết quả đẹp đẽ, đầy xúc động của chuyến đi cùng bộ đội giải phóng Tây
Bắc năm 1952. Trong chuyến đi thực tế dài 8 tháng này, TH đã sống cùng đồng bào thiểu số từ
khu du kích trên núi cao đến những bản làng mới giải phóng. Nhà văn đã cùng ăn, cùng ở, cùng
làm với người lao động vùng núi cao nơi đây. Để rồi, ông có cơ hội hiểu sâu sắc về số phận,
cuộc đời và vẻ đẹp tâm hồn của họ khi chịu ách áp bức của thực dân và phong kiến chúa đất
miền núi.
 Tình cảm sâu đậm cùng lòng biết ơn đã thôi thúc nhà văn muốn làm một điều gì đó
để tri ân những con người nơi cao nguyên đá mờ sương nghèo khổ mà ân tình. ->
Truyện Tây Bắc ra đời. Chính nhà văn từng bồi hồi chia sẻ: . "Đất và người miền
Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên… Hình ảnh Tây Bắc
đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm
trí tôi".
- Trong Truyện TB, VCAP được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất, là linh hồn của tập truyện đã
từng vinh dự nhận giải nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ này.
……………………………………………………………………………………………...
B. TÌM HIỂU TÁC PHẨM
“Trên con đường dẫn tới thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”

I. PHẦN ĐỜI CỦA MỊ TRƯỚC KHI VỀ NHÀ THỐNG LÍ LÀM DÂU GẠT NỢ
II. NHỮNG BẤT HẠNH TRONG KIẾP LÀM DÂU GẠT NỢ
(Xem lại trong vở học đã cho ghi chép kĩ)

III. PHÂN TÍCH SỨC SỐNG TIỀM TÀNG CỦA MỊ TRONG ĐÊM TÌNH MÙA XUÂN Ở
HỒNG NGÀI
CÁC ĐỀ:
ĐỀ 1:
Phân tích nhân vật Mị (diễn biến tâm lí và hành động) / Phân tích đoạn trích: trong
đoạn văn: “Ngày tết Mị cũng uống rượu …. Đi ra khép cửa buồng lại”. Từ đó nhận xét về:
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
- Sức sống tiềm tàng, âm ỉ của nhân vật.
GỢI Ý:
A. MỞ BÀI
Có 1 nhà văn mà mỗi lần đọc tác phẩm của ông là ta bước vào thế giới đa dạng sắc màu
của cuộc sống, con người, của ngôn từ và của những cảm xúc rất đỗi chân thực đời thường. Đó là
nhà văn Tô Hoài – cây bút thuộc thế hệ vàng của văn chương hiện đại, làm nên mùa gặt ngoạn
mục nhất của văn học thế kỉ XX”(GS. Phong Lê). Không chỉ là nhà văn của người nghèo ven đô,
Tô Hoài của là nhà văn của vùng rẻo cao Tây Bắc, của những con người nơi cao nguyên đá mờ
sương. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là 1 trong những truyện ngắn tiêu biểu nhất cho đời văn
Tô Hoài. Truyện đã khắc họa xuất sắc hình ảnh cô Mị có số phận nhiều đau khổ nhưng luôn tiềm
tàng một sức sống mãnh liệt bên trong. Điều này được thể hiện ấn tượng qua đoạn trích bắt đầu
từ câu…. Đến câu + nêu vấn đề nâng cao.

B. THÂN BÀI:
1. LUẬN ĐIỂM 1: Giới thiệu chung
a. Tác giả: Khái quát phong cách nghệ thuật TG
b. Tác phẩm: Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ (đọc vở)
c. Bối cảnh đoạn trích: (Phần đời nv Mị trước đêm tình mùa xuân)
“Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện kể về những con người lao động vùng cao Tây Bắc
dưới thời chúa đất phong kiến và thực dân. Truyện chia làm 2 phần với 2 kgian nghệ thuật: Hồng
Ngài và Phiềng Sa. Trong phần truyện ở Hồng Ngài, Mị là nhân vật trung tâm, thuộc kiểu nhân
vật số phận, tâm trạng
- <1> Trước khi về nhà thống lí Ptra:
Mị là 1 cô gái đẹp người, đẹp nết: xinh đẹp, có tài thổi sáo, thổi đàn môi; có tính cách
mạnh mẽ, tự chủ; có trái tim vị tha, nhân hậu… => hội tụ đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp để có
1 cuộc sống bình yên, hạnh phúc
- <2> Khi về nhà thống lí Ptra: Vì món nợ của cha mẹ, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lí
Pá Tra. Ở chốn địa ngục trần gian ấy, Mị bị đày đọa, hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần.
+ Về thể xác:
 Mị phải chịu cảnh áp bức, bóc lột nặng nề như 1 người ở ko công. Cô phải làm việc
liên miên, vùi mặt vào việc cả đêm, cả ngày.
 Bất cứ lúc nào Mị cũng có thể bị đánh 1 cách dã man, bị trói đứng 1 cách vô lí
“Trên con đường dẫn tới thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”

+ Về tinh thần: Từ đây, dần dần MỊ có những biến đổi xót xa về tâm lí, tính cách.
 Từ 1 cô gái có ý thức tự chủ mạnh mẽ nay Mị đã ko còn sức phản kháng. Cuộc sống
của Mị giờ chỉ vật vờ như sự tồn tại của cỏ cây với chuỗi ngày mòn mỏi, buông xuôi.
Trong nhà thống lí, Mị sống cô đơn, thầm lặng trong căn buồng chỉ có 1 chiếc cửa sổ
lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, ko biết là sương
hay nắng -> căn buồng như ngục thất giam cầm người tù chung thân, như nấm mồ
chôn vùi tuổi thanh xuân của MỊ. Căn buồng là biểu tượng cho cuộc đời của Mị nơi
đây.
 Từ 1 cô gái nhân hậu, giàu lòng vị tha, Mị dần trở nên vô cảm, chai lì, tê liệt. Thậm
chí, Mị còn vô cảm với nỗi đau thể xác và tinh thần của chính mình. Nếu trước đây,
khi mới sống trong nhà th lí, Mị giãy giụa, phản kháng, dùng đến cả cái chết để chống
lại số phận thì giờ đây, sau những năm tháng bị đày đọa, khổ ải, ngay cả khi cha đã
chết, ko còn gì ràng buộc, Mị cũng chẳng còn tưởng đến sự chết nữa.
<3> Mùa xuân năm ấy: Những tác động bên ngoài khiến Mị thức dậy SSTTàng (viết kĩ
hơn)
Bức tranh TN, con người Hồng Ngài khi xuân đến
- Sắc vàng ửng của cỏ gianh trong gió và rét dữ dội
- Những cái váy hoa đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như những con bướm sặc sỡ
- Những đứa trẻ con đi hái bí đỏ tinh nghịch đốt những lều canh nương để sưởi lửa
- Những đám trai gái đánh pao, chơi quay, thổi kèn, thổi sáo say sưa, cười ầm trước sân
- Đặc biệt là âm thanh tiếng sáo gọi bạn tình lửng lơ đầu núi.
=> Những sắc màu, hình ảnh, âm thanh ấy đã tạo nên bức tranh mùa xuân đẹp thơ mộng, nồng
nàn, rạo rực TY, tràn trề sức sống. Đó là những tác động ngoại cảnh góp phần gọi dậy những
khát vọng TY, hạnh phúc vẫn âm ỉ đâu đó trong Mị.
(Dung lượng: 1 mặt)
LUẬN ĐIỂM 2: PHÂN TÍCH
- Hành động uống rượu:
Ngày tết năm ấy, Mị uống rượu. Mị lén lấy rượu ra uống….
+ Cô uống ực từng bát – uống như 1 người chết khát. (chứ ko phải là ừng ực = nhiều hơi 1 bát) -
> TH sd từ ngữ hết tinh tế, sắc sảo.
+ Mị uống như muốn dùng men say của rượu đề dìm đi những khát khao và phẫn uất đột ngột
bùng cháy trong lòng; như muốn mượn cái đắng cay của rượu để làm vơi đi cái đắng cay trong
lòng. (Chén rượu hương đưa say lại tỉnh)
- CÂU 3: Cảnh Mị uống rượu được miêu tả tinh tế, đã thể hiện chân thực những biến đổi âm
thầm mà dữ dội trong tâm hồn người đàn bà tưởng đã nguội lạnh sức sống.Men rượu say đã đưa
Mị sống trong những ảo giác của quá khứ. Chính quá khứ tươi đẹp đã làm bừng dậy trong Mị
SSTTàng tưởng đã lịm tắt hoàn toàn ở hiện tại. Cách uống rượu của Mị chứa đựng sự phản
kháng, Mị uống rượu như nuốt hờn, nuốt tủi, nén giận vào lòng, Mị uống rượu như muốn dồn
men say của rượu để dịu đi những nuối tiếc khát khao, đau khổ, phẫn uất. Mị uống rượu mà như
uống những cay đắng của phần đời đã qua và những khát khao của phần đời chưa tới. Men rượu
“Trên con đường dẫn tới thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”

và hơi xuân khiến người đàn bà không còn liên hệ gì với cuộc sống, không còn liên hệ gì với quá
khứ nay bỗng “lịm mặt ngồi đấy... nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước”.
…………………………………………………………………………………………………….
TIẾNG SÁO:
- Song, có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bồng bềnh về với nỗi khát khao của hạnh
phúc, yêu thương có lẽ vẫn là tiếng sáo. Mị nghe tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài đường, tiếng sáo
vọng lại thiết tha bồi hồi. Người đàn bà lâu nay dửng dưng, âm thầm giờ đây đã thoát khỏi trạng
thái vô cảm, thờ ơ. Mị không chỉ nghe tiếng sáo, Mị còn hình dung ra: “Ngoài đầu núi lấp ló đã
có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Mị cảm nhận được sắc thái thiết tha, bồi hổi của tiếng sáo,
nhận ra sự rạo rực, đắm say của người thổi sáo, thậm chí Mị còn ngồi nhẩm thầm bài hát của
người đang thổi, bằng cách ấy Mị đã trở về với quá khứ.Tiếng sáo đã làm thức tỉnh con người
tâm linh trong Mị. Mị nhớ lại kỉ niệm đẹp ngày xưa, uống rượu bên bếp và thổi sáo, Mị thấy
phơi phới trở lại, đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước.
Từ văng vẳng ko chỉ gợi tiếng sáo ở xa, mà đó còn là tiếng sáo của hoài niệm quá khứ. Mị nhớ
lại ngày xưa mình thường uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có bao nhiêu
người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.
…………………………………………………………………………………….
Những câu đầu tiên: hành động của MỊ rõ ràng, dứt khoát.
 Con người hiện tại – hành động hiện tại
>< Nghĩ suy của quá khứ
-> Rất thành công khi sử dụng thủ pháp nghệ thuật đồng hiện thời gian trong cùng 1
đoạn văn. ĐHTG được hiểu là cùng lúc thời gian của qk, hiện tại, có thể thời gian của
TL sẽ cùng xuất hiện 1 lúc.
-> Ý nghĩa: con người Mị có thể vẫn ở đây (trong địa ngục trần gian), trong lúc này
(chuỗi tháng ngày đen tối, ù lì) >< Tâm hồn Mị, suy nghĩ của Mị đang rập rờn, phới
phới trở về với những xưa tươi đẹp, c.s tự do, phóng khoáng, hồn nhiên như núi rừng.
- Ảo giác của quá khứ mãnh liệt đến mức xóa mờ cả những ý thức của hiện tại. Người về, người
đi chơi Mị đều ko hay biết bởi lòng Mị đang trở về với những khát vọng TY, hạnh phúc của tuổi
trẻ năm xưa. Mị thâý phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng.
- Mị đột ngột sống dậy ý thức về hiện tại của bản thân:
+ Mị nhận ra Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ.
.NT: Điệp từ “trẻ” + Câu văn ngắn -> âm hưởng, âm điệu nhanh, dồn dập
 Những nghĩ suy của MỊ về bản thân đến 1 cách nhanh chóng, dồn dập. Ý thức được mình
vẫn còn trẻ, do đó lòng cũng như trẻ lại, Mị bỗng muốn đi chơi, được tới những đám vui,
những cuộc vui; muốn được hòa mình vào ko khí rạo rực của mùa xuân, tuổi trẻ và TY.
+ MỊ cũng chợt nhận thức sâu sắc tình trạng phi lí trong cuộc hôn nhân của mình. Rõ ràng A Sử
với Mị ko có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Điều này bấy lâu cô mặc nhiên chấp nhận,
cũng như bấy lâu A Sử ko cho Mị đi chơi tết mà Mị cũng chẳng thiết đi. Nhưng đến nay bỗng
nhiên tất cả trở nên phi lí, ko thể chấp nhận đc.
- MỊ đột ngột muốn chết: trở lại hình ảnh cô Mị ngày xưa
“Trên con đường dẫn tới thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”

+ Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay… chết để ko phải nhớ lại những
ước mơ, khao khát cảu mình, nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra.
+ Muốn chết là biểu hiện mãnh liệt nhất, dữ dội nhất của sự thức tỉnh lòng ham sống, lòng khao
khát hạnh phúc. Mị dần cảm thấy ko thể tiếp tục kiếp sống tủi cực, đau đớn và muốn thoát khỏi

- Chi tiết tiếng sáo: (Tài liệu) – phân tích kĩ
- Mị lấy ống mỡ, xắn 1 miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng rồi quấn lại tóc, với cái váy hoa, rút
thêm cái áo… chuẩn bị đi chơi.
-> Đây là những chi tiết có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đó vừa là niềm ước mong được sống 1
cuộc sống tươi sáng, đẹp đẽ hơn; vừa là những hành động đấu tranh lặng lẽ, tự phát nhưng quyết
liệt của Mị với số phận.
IIII. LUẬN ĐIỂM 3.
- GIÁ TRỊ NT: NT KHẮC HỌA NHÂN VẬT (TỔNG HỢP)
+ Miêu tả nhân vật thông qua diễn biến tâm lí, hành động, cử chỉ. (bằng khả năng, biệt tài am
hiểu tâm lí nhân vật sâu sắc, tôn trọng hiện thực logic khách quan của tâm lí -> dùng ngòi bút
khắc họa thành công những diễn biến tâm lí tinh tế, tế vi, những khúc quanh tâm lí đột ngột, bất
ngờ nhưng hợp lí của nhân vật).
+ Chi tiết mang ý nghĩa biểu tượng để gián tiếp miêu tả tâm lí nhân vật (tiếng sáo)
+ Thủ pháp nghệ thuật đồng hiện thời gian -> nhắc lại
+ Ngôn ngữ: trần thuật:
. Sinh động, tự nhiên, mang màu sắc dân tộc
. bàng bạc chất thơ (cảm xúc nội tâm nhân vật; lời bài hát của người thổi sáo vào)
 Làm cho diễn biến tâm lí nhân vật trở nên sinh động hơn, gần gũi với trường tiếp nhận.
……………………………………………………………………………………………………...
ĐỀ 2:
Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đoạn: “Bây giờ Mị cũng không
nói….không biết sáng từ bao giờ”. Từ đó, nhận xét về tài năng và tấm lòng của nhà văn
trong việc miêu tả và khám phá con người.
GỢI Ý
TÌM HIỂU ĐỀ:
- Vấn đề cần NL:
+ Diễn biến: Tâm trạng và hành động của Mị trong 1 đoạn văn
+ Tài năng và tấm lòng của nhà văn trong miêu tả + khám phá con người.
( - Tài năng nghệ thuật của nhà văn
Giá trị nhân đạo của tp)

- Phạm vi dẫn chứng: 1 đoạn trong trường đoạn


- Thao tác NL: Tổng hợp các TTNL
“Trên con đường dẫn tới thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”

II. LẬP DÀN Ý:


I. MỞ BÀI: Viết

[9:15 PM] Pham Thi Phuong Ly ổn


Nhìn lại toàn bộ cuộc đời văn học của nhà văn Tô Hoài, giáo sư Phong Lê khẳng định:” Tô Hoài là
một trong những tác gia lớn nhất của thế kỉ XX.”, “ Ông thuộc thế hệ vàng của văn chương hiện đại,
làm nên mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học thế kỉ XX”. Cây đại thụ của nền văn xuôi Việt Nam
hiện đại - Tô Hoài đã để lại cho kho tàng văn học những tác phẩm đi vào lòng người, trong đó đặc
biệt là “Vợ chồng A Phủ”. Để lại nỗi ám ảnh, dư âm trong lòng độc giả rõ nét nhất có lẽ là những
diễn biến tâm trạng của Mị trong  đoạn trích từ “bây giờ mị cũng không nói” đến “cho tới khi trời
tang tảng không bt sáng từ bao giờ”. Từ đó, tác giả thể hiện tài năng bà tấm lòng nhân đạo sâu sắc
của mình trong việc miêu tả và khám phá con người nhân vật.

II. THÂN BÀI


1. LUẬN ĐIỂM 1
(Tương tự đề 1)
(- Chặng 1: thoát khỏi tình trạng sống câm lặng, băng giá (Tình cảm)
- Chặng 2: Sống lại những hồi ức tươi đẹp
- chặng 3: sự bừng tỉnh về nhận thức (Nhận thức)
- chặng 4: Hành động sửa soạn đi chơi (Hành động)
- Chặng 5: Khát vọng bị chặn đứng và những giằng xé đau đớn về thân phận.
* HÀNH ĐỘNG SỬA SOẠN ĐI CHƠI: (sự phát triển của 1 nhân vật bao giờ cũng bắt đầu từ
tình cảm – ý thức – hành động. Nhà văn đã tôn trọng sự vận động khách quan, logic trong tâm lí
nhân vật này)
- Bây giờ Mị cũng không nói. Trong tp, Mị nói rất ít. (có 2 lần Mị nói). Thậm chí, trong những
ngày ở địa ngục trần gian, bị tê liệt, chai lì Mị còn được vật hóa “lùi lũi như con rùa nuôi trong
xó cửa”, “mỗi ngày Mị càng ko nói”. Bây giờ Mị cũng ko nói như biết bao đêm mùa xuân khác.
Nhưng cái “không nói” của đêm mùa xuân năm nay khác với cái “ko nói” của những đêm mùa
xuân trước. Ngày trước, ko nói vì Mị thờ ơ với cuộc đời, Mị tê liệt ý thức sống. Đêm nay, ko nói
vì hồn Mị, lòng Mị đang bồng bềnh ở 1 không gian khác – ko phải địa ngục trần gian này, 1 thời
gian khác – ko phải hiện tại đau khổ này.
- Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn 1 miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng: Hành động đầu tiên
này là hành động mang nhiều ý nghĩa. Trước hết đó là hành động Mị thắp sáng căn buồng, thắp
sáng kgian sống tăm tối, ngột ngạt của mình lên. Đó ko phải chỉ là mong muốn được sống trong
ánh sáng, mà hình như nó còn là hi vọng quãng đời sắp tới của mình tươi sáng hơn chăng? Từ
trong tiềm thức, Mị đang muốn thắp sáng phần đời tăm tối của mình. Và trong giờ phút này,
trong lòng Mị cũng chan hòa ánh áng. (LH với nhân vật Tràng mua 2 hào dầu ngay giữa những
ngày đói thê thảm)- > điểm chung!!!
-> Đây là những chi tiết có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đó vừa là niềm ước mong được sống 1
cuộc sống tươi sáng, đẹp đẽ hơn; vừa là những hành động đấu tranh lặng lẽ, tự phát nhưng quyết
liệt của Mị với số phận.
“Trên con đường dẫn tới thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”

- Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo: (Phân tích chi tiết tiếng sáo từ trước đó – đến đây)
- Mị muốn đi chơi… đi chơi: bao năm Mị ko đi chơi. A Sử ko cho Mị đi, Mị cũng ko muốn đi.
- Mị quấn lại tóc, với cái váy hoa, rút thêm cái áo… chuẩn bị đi chơi: Sau bao năm tháng, cô Mị
nghĩ mình là kiếp ngựa trâu của nhà thống lí, giờ đây ý thức làm đẹp, thiên tính nữ đã trở về với
Mị => Sức sống trỗi dậy trong Mị. (Phản đề)
+ Với cái váy hoa: Lần thứ 2 hình ảnh chiếc váy hoa xuất hiện trong TP (lần 1: phơi trên mỏm
đá…). Chiếc váy hoa với các thiếu nữ Mèo bao giờ cũng có ý nghĩa quan trong, nó ko chỉ là
trang phục truyền thống của người con gái Mèo, là biểu cho những cuộc đi chơi trong đêm tình
mùa xuân. Và có lẽ từ khi về làm dâu ở nhà PT, chiếc váy hoa này chưa bao giờ được mặc, có lẽ
đã bị bỏ quên trong vách rồi. Đêm nay, nghe tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết, Mị với cái váy hoa,
muốn mặc để đi chơi -> Mị đã thức dậy được khát vọng của thời thanh xuân đẹp đẽ, sôi nổi.
-> Đoạn văn được viết bởi những câu văn ngắn, dồn dập như trái tim của người con gái đang trở
về với tuổi thanh xuân của chính mình.
-> Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật: phơi trải những ngóc ngách trong tâm lí nhân vật -> có một
nước suối mát lạnh len lỏi vào từng ngóc ngách trong tâm hồn tưởng chừng đã khô cằn của Mị.
Viết được những dòng văn như thế, TH ko chỉ cần tài năng mà còn biết hiểu, trân trọng và yêu
quý nhân vật của mình đến nhường nào.
* Khát vọng bị chặn đứng và những giằng xé đau đớn về thân phận.
- Nhưng sự hồi sinh của Mị nhanh chóng bị vùi dập thật độc ác, tàn nhẫn. A Sử xuất hiện. Hành
động của A Sử được nhà văn miêu tả trong thế đối lập gay gắt với hành động của Mị:
+ A Sử thản nhiên, lạnh lùng trói đứng Mị vào cột nhà bằng sợi dây trói tàn bạo.
Nếu Mị vừa thắp ngọn đèn lên >< A Sử tắt phụt ngọn đèn đi – biểu tượng
Nếu Mị vừa quấn lại tóc, làm đẹp cho mình >< A Sử dùng chính mái tóc thanh xuân ấy trói Mị
vào cột
Nếu Mị định đi chơi, đinh bước ra khỏi căn buồng âm u bao năm >< A Sử đi ra và khép của
buồng lại để Mị đứng trong căn buồng giam đầy bóng tối. -> biểu tượng
=> Sự khủng bố về tinh thần. Bởi vì hắn muốn dìm Mị vào bóng tối tuyệt đối để Mị chỉ 1 lần này
cho đến chết, Mị mãi ko dám đi chơi nữa.
- Nhưng ảo giác rạo rực về TY, tuổi trẻ cùng tiếng sáo vẫn rập rờn đưa Mị đi theo những cuộc
chơi, những đám chơi. Mị ko biết mình đang bị trói. Mị quên cả thực tại. A Sử chỉ trói đc thân
xác mà ko trói đc tâm hồn Mị lúc này.
- Mị bị giằng xé giữa hồi ức, khát vọng sống và hiện thực nghiệt ngã
- Mị đứng im lặng trong bóng tối, như ko biết mình bị trói. Tại sao 1 người bị trói đứng ở cột nhà
lại ko biết mình bị trói? Vì lòng Mị lúc này đang sống về ngày trước. Tâm trí Mị không ở trong
hiện tại. Hồn Mị đang được tiếng sao dìu đi bồng bềnh theo những cuộc chơi, những đám chơi.
Khát vọng vẫn còn cháy bỏng khiến Mị vẫn như đang sống trong những ảo giác mà tạm thời
quên đi hiện tại.
- Nhưng đúng lúc khát vọng trào dâng lên mãnh liệt, Mị vùng bước đi, sợi dây trói thắt vào tay
chân đau ko cựa đc. => Khát vọng sống mâu thuẫn gay gắt với thực tại phũ phàng. Tay chân đau
ko cựa được, sợi dây trói chính là biểu hiện của hiện thực tàn khốc mà Mị phải đối mặt.
“Trên con đường dẫn tới thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”

- Mị mới tỉnh lại và trở về với hiện tại phũ phàng. Tiếng sáo – biểu tượng cho khát vọng TY,
hạnh phúc đột ngột biến mất. Mị ko nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa, tiếng
chân ngựa đạp vào vách, nhai cỏ, gãi chân… Tiếng chân ngựa -> biểu tượng cho hiện thực khắc
nghiệt. Mị lại trở lại với liên tưởng đau đớn rằng kiếp đời mình, thân phận mình ko bằng con
ngựa. Vì
- Mị tỉnh dần ra, đau đớn dần lên, tê dại dần đi.
- Dù đã trở lại với thực tại nhưng suốt đêm mùa xuân ấy, quá khứ vẫn nồng nàn, tha thiết trong
nỗi nhớ của Mị. Hơi rượu tỏa, tiếng sáo rập rờn, tiếng chó sủa xa xa… Mị đang sống trong sự
giằng xé giữa những khát khao cháy bỏng vừa hồi sinh với thực tại phũ phàng đc hiện hữu qua
căn buồng giam đầy bóng tối và sợi dây trói. Sau bao năm tháng, Mị đã nhận ra thân phận trâu
ngựa của mình, thổn thức nghĩ mình ko bằng con trâu con ngựa nhà thống lí.
=> Tiểu kết:
Dù những khát khao ấy có bị vùi dập tàn nhẫn nhưng nó sẽ còn ám ảnh, thao thức mãi trong lòng
Mị. SSTTàng của cô như đám cháy âm ỉ đang chờ 1 ngọn gió thổi bùng lên lần nữa.
3. Tổng hợp, đánh giá
- TH Nội dung:….
- TH Nghệ thuật:
+ Nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí tinh tế, sâu sắc
+ Ngôn ngữ sinh động, giàu tính biểu cảm
-> Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật Mị nhất là diễn biến tâm trạng và hành động trong
đêm tình mùa xuân
- Đánh giá:
+Đoạn miêu tả SSTT của Mị trong ĐTMXuân đã thể hiện sinh động, khá trọn vẹn tư tưởng của
truyện: Mị chính là điển hình sinh động cho sức sống tiềm tàng, sức vươn lên mạnh mẽ của con
người từ trong hoàn cảnh tăm tối hướng tới ánh sáng của nhân phẩm và tự do.
+ Trường đoạn miêu tả này cũng đc xem là những linh hồn của truyện ngắn
……………………………………………………………………………………………
PHÂN TÍCH SÂU Ý NGHĨA CHI TIẾT TIẾNG SÁO:
Khái niệm: Chi tiết hay chi tiết nghệ thuật là các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa
lớn về cảm xúc và tư tưởng. Các truyện ngắn hay thường có những chi tiết phát sáng. “Chi tiết
phát sáng” được đề cập ở trên có thể hiểu chính là những chi tiết hay, chi tiết quan trọng trong
một truyện ngắn.
Vai trò của chi tiết trong tác phẩm:
- “Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm” (Pautopxki):
Cũng như nhãn tự trong một bài thơ, chi tiết nghệ thuật có vị trí nghệ thuật vô cùng quan
trọng đối với tác phẩm văn xuôi, nó có thể thâu tóm linh hồn của tác phẩm. Nó chứa đựng cái
hồn, cái cốt, cái hay, cái đẹp của cả truyện ngắn.
“Trên con đường dẫn tới thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”

- “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn” (M. Gorki):
Việc sáng tạo ra những chi tiết hay thể hiện cái tầm, khả năng bao quát và quá trình lao
động sáng tạo của nhà văn.
Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết: Chi tiết tiếng sáo nằm ở phần giữa tác phẩm. Ngòi bút Tô
Hoài đã rất dụng công để miêu tả những thanh âm của tiếng sáo vùng núi cao Tây Bắc trong đêm
tình mùa xuân. Sau những chuỗi ngày sống chỉ mang ý nghĩa của sự tồn tại, tê liệt, chai lì cái
nồng nàn của lửa, của men rượu, cái tươi vui chộn rộn của mùa xuân Hồng Ngài đã đánh thức
tâm hồn Mị, tiếng sáo đã vọng đến đôi tai Mị.
Tiếng sáo xuất hiện 5 lần. Nó được miêu tả từ xa đến gần, với những cung bậc khác nhau:
khi tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếng sáo văng vẳng gọi bạn đầu làng, tiếng sáo lửng lơ bay
ngoài đường, trong đầu Mị , rập rờn tiếng sáo, tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi.
Ý nghĩa:
* Ý nghĩa tả thực: Trước hết, đây là chi tiết có ý nghĩa tả thực về nét đẹp văn hóa của
miền núi cao Tây Bắc, khiến người ta liên tưởng đến âm thanh quen thuộc, gần gũi của núi rừng
trong những đêm xuân ở Hồng Ngài. Nếu Tây Nguyên có tiếng cồng, tiếng chiêng âm vang khắp
bản làng, rừng núi, nếu miền quê đồng bằng Bắc Bộ có tiếng trống chèo, tiếng hát giao duyên,
tiếng đàn bầu thánh thót thì với những người dân Tây Bắc, họ vốn ít nói, kiệm lời, họ gửi lòng
mình vào tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng kèn môi, thổi lá để trao gửi tâm tình, để mời gọi bạn yêu.
Tiếng sáo vang lên với những cung bậc khác nhau, khi xa khi gần, khi trầm bổng khoan thai, khi
rập rờn, khi lấp ló âm thanh tiếng sáo vang lên những ca từ mộc mạc thể hiện lẽ sống hồn nhiên,
yêu đời, phóng khoáng của những con người nơi đây “ Mày có con trai, con gái ta đi tìm người
yêu...”. Tiếng sáo mang đến chất thơ, làm dịu mát cuộc sống trăm đắng ngàn cay với nỗi đời cơ
cực của con người nơi đây, khiến mảnh đất Tây Bắc vốn xa lạ, hoang vu trở nên gần gũi, thơ
mộng.
* Ý nghĩa biểu tượng: Không dừng lại ở ý nghĩa tả thực, chi tiết tiếng sáo góp phần diễn
tả vẻ đẹp tâm hồn Mị trong đêm tình mùa xuân. Tiếng sáo lay thức tâm hồn Mị, khiến lòng Mị
thiết tha, bổi hồi, nhẩm thầm bài hát của người đang thổi và những kí ức đẹp đẽ nồng nàn của
người con gái đã trở về. Tiếng sáo đã làm bừng lên khát vọng sống, Mị ý thức hiện tại mình vẫn
còn trẻ, Mị ý thức về quyền hạnh phúc “ Mị muốn đi chơi”, Mị sửa soạn vào nhà...Tiếng sáo
khiến Mị quên đi thực tại khổ đau: khi Mị định ăn lá ngón để chết ngay chứ không muốn nghĩ về
ngày trước nữa thì tiếng sáo lửng lơ ngoài đường lại đưa Mị trở về với niềm khát sống, khi bị trói
đứng cả đêm, tâm hồn Mị vẫn bay bổng cùng tiếng sáo, tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi.
Nếu căn buồng Mị nằm biểu tượng cho thứ ngục thất tinh thần giam hãm đời Mị, thì hình tượng
tiếng sáo trở thành biểu tượng đẹp đẽ cho khát vọng tự do, khát vọng sống, khát vọng tình yêu
trong tâm hồn Mị.
-> Chi tiết góp phần thể hiện tư tưởng, thái độ của nhà văn và thành công của ngòi bút Tô
Hoài. Đó là tấm lòng nâng niu trân trọng của nhà văn đối với nét đẹp văn hóa của và vẻ đẹp tâm
hồn con người Tây Bắc. Chi tiết giàu chất thơ, lai láng dư vị trữ tình có sức sống lâu bền trong
tâm hồn người đọc.
…………………………………………………………………………………
ĐỌC THAM KHẢO BÀI: PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN TÂM TRẠNG MỊ TRONG ĐÊM TÌNH
MÙA XUÂN để biết thêm 1 số cách diễn đạt.
Tô Hoài là một trong những cây bút viết văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt
Nam, là nhà văn có biệt tài nắm bắt rất nhanh nhạy những nét riêng trong phong tục, tập quán
của những miền đất mà ông đã đi qua. Ông có giọng văn kể chuyện hóm hỉnh, rất có duyên và
“Trên con đường dẫn tới thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”

đầy sức hấp dẫn; có vốn ngôn ngữ bình dân phong phú và sử dụng nó linh hoạt, đắc địa. Tô Hoài
yêu chữ và cố công tích cóp chữ của cõi nhân sinh để làm giàu cho trang viết của mình. Ông tâm
sự: “ Suốt đời tôi chỉ làm một người nhặt chữ. Văn chương nghệ thuật thì vô cùng nhưng suy cho
cùng phải là người giỏi chữ. Anh có tư tưởng lớn lao đến đâu mà không giỏi chữ, anh không thể
trở thành nhà văn”.
“Vợ chồng A Phủ”được in trong tập truyện Tây Bắc, là kết quả của chuyến đi thâm nhập
thực tế năm 1952 của nhà văn đến vùng núi Tây Bắc. Đây là tác phẩm mộc mạc và vô cùng gần
gũi với độc giả. Truyện ngắn vô cùng thành công khi tác giả miêu tả diễn biến tâm lý của nhân
vật, đặc biệt là nhân vật Mị- một cô gái xinh đẹp tài hoa. Bằng tài nghệ của mình, Tô Hoài đã
khắc họa lên một cô gái không những xinh đẹp, tài giỏi, có những đức tính tốt đẹp mà còn có
khát vọng, sức sống tiềm tàng mãnh liệt.
Mở đầu tác phẩm, độc giả đã được gặp Mị ngay ở những dòng đầu của trang văn. Tô Hoài giới
thiệu nhân vật Mị bằng thủ pháp phác họa ngoại hình để gợi mở nội tâm nhân vật. Tác giả đã đặt
Mị vào một khung cảnh đối lập chật ních sự xa hoa của nhà Thống lí “nhiều nương, nhiều bạc,
nhiều thuốc phiện nhất làng” thì lại bắt gặp hình ảnh cô gái âm thầm, lẻ loi, sống một kiếp người
nhưng cả cuộc đời dường như chỉ “dính”vào những vật vô tri, vô giác: “ Ai ở xa về, có việc vào
nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa cạnh
tàu ngựa”. Chân dung Mị hiện lên với vẻ úa màu, thiếu sức sống: “lúc nào cũng vậy, dù quay sợi,
thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cuối mặt, mặt buồn
rười rượi”. Nhà văn đã rất khéo léo khi phác họa lên chân dung Mị ảm đạm với một mảng sống
tối tăm, cực nhọc, nhẫn nhục, chịu đựng. Điều đó hoàn toàn trái ngược với hình ảnh giàu sang
mà một cô con dâu nhà giàu được hưởng. Sự tương phản ấy đã tạo ra mị lực khơi gợi trí tò mò
nơi người đọc. Nó giúp ta liên tưởng đến một cuộc đời tràn ngập nỗi đau, bất hạnh, là những tăm
tối, mờ mịt của cuộc đời đang nuốt chửng cô gái nhỏ bé vùng Tây Bắc.
Mị là một cô gái dân tộc miền núi. Cô có ngoại hình vô cùng xinh đẹp, đến nỗi mà “trai đến
đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”. Một câu nói mang đậm dấu ấn văn hóa miền núi đã chứng
tỏ rằng Mị là một nàng thơ, là niềm ao ước cháy bỏng trong lòng những chàng trai. Không chỉ
đẹp người, Mị còn có tài năng và những phẩm chất vô cùng cao quý, tiêu biểu của người phụ nữ
Việt Nam. Khi xưa đã có Thúy Kiều tài sắc “mười phân vẹn mười” thì ở vùng núi cao Tây Bắc
lại có Mị cũng chẳng hề kém cạnh bởi cô có tài “thổi lá hay như thổi sáo”, chỉ cần “uốn nhẹ
chiếc lá trên môi”, cô có thể tạo ra thanh âm của những bài ca tình yêu nồng nàn, làm say mê bất
kỳ ai. Thế nhưng, khả năng cảm âm nhạc, giàu chất nghệ sĩ ấy giống như điềm báo về cuộc đời
nhuốm màu u tối của Mị. Ở Mị còn toát lên vẻ đẹp nhân cách, cô là một con người có hiếu khi
lớn lên muốn giúp cha lao động trả nợ. Chữ hiếu luôn được cô gái này đặt lên hàng đầu. Mị cũng
có ý thức sâu sắc hoàn cảnh của mình nên nhất quyết nói rằng “bố đừng bán con cho nhà giàu”.
Cô là một cô gái chịu thương chịu khó, cần cù lao động và hơn hết có trái tim khao khát tình yêu,
tự do. Thử hỏi, một người con gái đẹp người đẹp nết giống như cô Tấm bước ra từ trong truyện
cổ tích như Mị, đáng ra phải sống một cuộc đời hạnh phúc, cớ sao lại có một cuộc sống như địa
ngục đày đọa cô như vậy ? Có lẽ “hồng nhan bạc phận”, sống trong một xã hội đã mục rữa, thối
nát, bị chi phối bởi thần quyền và cường quyền thì ngay cả bông hoa đẹp nhất cũng sẽ bị vùi dập
không thương tiếc.
Samuel Johnson đã từng nói: “Sự nghèo túng là kẻ thù lớn nhất đối với hạnh phúc con
người” và khi cái nghèo được đặt trong một xã hội đầy rẫy tối tăm, mù mịt thì đất nước càng
nghèo và kém phát triển, trở nên lạc hậu vô cùng. Mị là một minh chứng cho điều đó khi cô là
nạn nhân của cái nghèo, là con nợ dưới hình thức cho vay nặng lãi nhà thống lí Pá Tra để rồi Mị
trở thành nô lệ chung thân dưới cái vỏ bọc danh giá “con dâu nhà thống lí”. Nguyên do là món
nợ truyền kiếp từ hồi ba mẹ cô cưới nhau vẫn chưa trả xong hết. Thế là Mị phải mang món nợ ấy
như một thứ “tội tổ tông” của người nghèo, từ lúc ra đời! Nếu chỉ là kẻ làm thuê để trả nợ cho bố
mẹ thì có lẽ, một ngày nào đó hết nợ, Mị lại sẽ có cuộc sống tự do, hạnh phúc như trước. Nhưng
không, xã hội ấy lại nhẫn tâm vùi dập và kìm hãm tuổi xuân của Mị bằng hủ tục “ cướp vợ” và
“cúng trình ma”. Chính Mị cũng hiểu rằng: ngay cả khi chết đi, linh hồn của Mị cũng bị coi là
“Trên con đường dẫn tới thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”

ma cai quản, không được giải thoát. Đây chính là bi kịch tinh thần đau đớn khiến Mị trở thành nô
lệ cho nhà thống lí Pá Tra.
Quãng thời gian làm dâu nhà thống lí là quãng thời gian khoác lên màu u tối của sự nhục
nhã, khổ đau đè nén lên đôi vai của cô gái miền núi. Mị trở thành công cụ lao động bị bóc lột tàn
nhẫn tột cùng: “Tết xong thì lên núi hái thuốc viện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi
nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để
tước thành sợi”. Hồi tưởng lại khoảng thời gian đầu đặt chân vô căn nhà là địa ngục trần gian
này, “có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc” nhưng chính hành động khóc ấy, cho dù
chỉ là phản ứng thụ động nhưng ít ra Mị vẫn còn “sống”, vẫn còn nhận thức được nỗi đau của
mình. Hay lúc Mị trốn về với ý định lạy bố lần cuối sau đó ăn lá ngón tự tử thì ta vẫn thấy tia
sáng mong manh của khát vọng sống trong sâu thẳm tâm hồn Mị. Đối với cô giờ đây, chết là
cách duy nhất để giải thoát mình khỏi cuộc sống khốn quẫn này. Nhưng vì cha, vì chữ hiếu, Mị
đã chấp nhận cuộc sống lấy thân mình làm công cụ lao động phục vụ cho những kẻ có tiền, có
quyền. Có thể đã khổ cực lâu quá rồi nên cô cũng trở nên miễn nhiễm với mọi thứ xung quanh,
cách ly cuộc đời: “ ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Cái tài của Tô Hoài là sử dụng thủ
pháp liệt kê cùng nghệ thuật so sánh “ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”.
Nhưng rồi, Mị lại thấy thân phận của mình còn không bằng loài động vật thấp kém ấy: “ con
ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà
này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”. Thật thương tiếc cho số mệnh của một cô gái tài sắc
vẹn toàn! Mị không chỉ phải ngậm đắng nuốt cay chịu những đòn roi tàn bạo trong nhà chồng mà
còn phải chứng kiến cảnh trói đứng đến chết đã trở thành lẽ tất yếu trong cái địa ngục quái gở
này. Có thể nói, Mị chỉ tồn tại chứ không sống, cô như một cái xác không hồn.
Ít ra trên cõi nhân sinh này, nếu ta không có được đời sống vật chất phong phú thì có thể
lựa chọn một cuộc sống an yên, hạnh phúc từ trong tâm. Nhưng đời Mị, cô không được chọn, mà
nói đúng hơn, sự lựa chọn của cô đã bị tước đoạt, Mị bị đày đọa về mặt tinh thần: cô sống bên
người chồng không có tình cảm, cô không được đi chơi, không được hưởng thụ nhu cầu giao tiếp
bình thường của con người, cô bị ràng buộc bởi cái gọi là thần quyền “mình đã bị cúng trình ma
nhà nó rồi thì chỉ đợi ngày rũ xương ở đây”. Mị bị giam lỏng như một tù nhân của địa ngục quỷ
dữ, cô bị kìm hãm trong căn buồng “kín mít, có một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào
trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Giờ đây, Mị như bông hoa
hướng dương sống mà không có hơi ấm của mặt trời, sống đến quen với tối tăm của nỗi cùng
khổ vô tận, để rồi Mị bị tê liệt về sức sống, héo mòn về tinh thần. Ở lâu trong cái khổ Mị đã dần
quen, đến chết Mị cũng chẳng thèm đoái hoài, Mị chỉ có ý niệm thân phận “trâu, ngựa” của
mình.
Bị vùi dập, bị đày đọa xuống kiếp sống “người không ra người, ma không ra ma”, Mị
biến đổi hoàn toàn. Cô mất đi ý niệm thời gian, mất hết cảm nhận về cuộc sống. Ngày ngày, Mị
cam chịu cuộc sống phẫn uất của mình, quen với gông xiềng của nhà thống lí, không buồn phản
kháng. Qua đoạn đời thê thảm của Mị ở nhà thống lí Pá Tra, ta thấy được sự xót thương, đồng
cảm của nhà văn trước số phận bi kịch của Mị. Đồng thời còn lên án, tố cáo gay gắt thế lực tàn
bạo không chỉ bóc lột người dân Tây Bắc mà còn nhẫn tâm chà đạp lên tinh thần họ khiến họ mất
đi tri giác về cuộc sống, cuộc đời. Họ- những con người khát khao hạnh phúc với sức sống mãnh
liệt dần biến thành vật vô tri vô giác. Chính xã hội đương thời tàn độc với những hủ tục lạc hậu
đã hủy hoại con người một cách đáng sợ.
Vốn dĩ bản chất Mị không phải là một cô gái vô cảm hay chịu đầu hàng trước cuộc đời
nghiệt ngã. Ngay từ những ngày đầu ta phần nào thấy được sức sống tiềm tàng của cô khi cô
chọn cách ăn lá ngón tự tử để giải thoát cho kiếp người éo le của mình. Dù đó là phản ứng tiêu
cực thì nó vẫn thể hiện niềm khao khát, ham sống của một con người rất đỗi bình thường. Trong
thâm tâm, Mị không chấp nhận cuộc sống địa ngục trần gian, sức sống của cô gái này như một
hạt mầm bị chôn vùi dưới tầng đất đau khổ chẳng thể vươn lên được. Chính đêm tình mùa xuân
trên dẻo cao đã bào mòn những khổ đau ấy, làm mầm sống trong Mị vươn lên mãnh liệt.
Người ta luôn nói rằng, yếu tố ngoại cảnh có ảnh hưởng rất nhiều đến tâm trạng cũng như hành
động của con người. Quả thực như vậy! Để tạo tiền đề cho sự đột phá của Mị, Tô Hoài đã dụng
“Trên con đường dẫn tới thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”

công chuẩn bị những yếu tố khác đặc biệt là những yếu tố về thiên nhiên, về cảnh sắc cuộc sống
của những người miền núi. Mở đầu là khung cảnh mùa xuân tươi vui, nhộn nhịp, vạn vật đua
nhau khoe màu áo mới phơi phới sắc xuân: “có gianh vàng ửng”, “ trong cái làng Mèo Đỏ,
những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sắc sỡ”, rồi hình ảnh “ đám
trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm ầm trên sân trước nhà”. Hay “ tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”,
từng lời hát giản dị, mộc mạc ấy lại có sức gợi to lớn đối với Mị. Còn bữa cơm hàng ngày nay đã
thành “bữa cơm Tết cúng ma”, rộn rã tiếng “chuông đánh ầm ĩ”, “ vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay
bữa rượu bên bếp lửa”. Những sự kiện ngày Tết đã tạo thành cơn mưa đánh thức hạt mầm sự
sống mãnh liệt trong Mị, đặc biệt là tiếng lấp ló ngoài đầu núi rủ bạn đi chơi- tiếng ca của hạnh
phúc lứa đôi, biểu tượng của tình yêu trai gái như đánh một hồi lớn vào tâm khảm nơi Mị. Nó
sưởi ấm và kéo Mị vùng dậy sau bao ngày sống im lặng, đánh thức Mị khỏi giấc ngủ của bi kịch
đau thương.
Phản ứng đầu tiên của Mị là lắng nghe tiếng sáo, nhẩm theo lời bài hát của người đang
thổi:
“ Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”
Cảm xúc cô được thể hiện qua ngôn ngữ đầy gợi cảm của Tô Hoài như là“bổi hổi”, “thiết
tha”, dường như tâm hồn của cô đang dần hé mở để đón lấy ánh sáng của cuộc đời. Sau bao
tháng ngày sống “lầm lũi như một con rùa” thì Mị đã cất tiếng nói đầu tiên, cũng chính là tiếng
hát mùa xuân. Những ngôn từ mộc mạc, giản dị lại chất chứa cả một vùng trời tự do, không có
xiềng xích, khổ đau vọng vào tâm hồn Mị, cô hát những lời ca của đôi lứa yêu nhau, của những
con người khát khao hạnh phúc tỉnh yêu nam nữ. Hành động này đánh dấu bước trở lại của
người con gái yêu đời- thổi sáo rất hay ngày trước.
Hương vị của mùa xuân, không chỉ là hương vị của trăm hoa, của núi đồi, của thiên nhiên
mà tâm trạng Mị cũng thay đổi: Trong cái nồng nàn của ngày Tết, không khí thấm đượm vị rượu,
Mị cũng uống “ Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cách uống rượu của cô không như
bao người, Mị uống rượu như uống lấy bao đắng cay của phần đời đã qua, uống lấy bao khát
khao của phần đời chưa tới. Cô uống như nuốt hồn nuốt tửu, nhờ men rượu đưa cô sống lại
những kỉ niệm tươi đẹp ngày trước. Chính men rượu làm tinh thần Mị say nhưng tâm hồn cô lại
bừng tỉnh sau bao tháng ngày làm trâu làm ngựa. Cũng là lúc này đây, Mị lãng quên thực tại
đang diễn ra trước mắt mình, “chén rượu hương đưa say lại tỉnh” (Hồ Xuân Hương), cô dường
như đang bước trên lằn ranh nhập nhằng giữa quá khứ và thực tại. Cùng với men rượu ngà ngà
của buổi cúng ma nhà thống lí là tiếng sáo gọi bạn đầu làng văng vẳng bên tai Mị:
“ Anh ném pao,em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi”
Ngày xưa, Mị cũng là một cô gái trẻ, tràn đầy sức sống, cũng là con người tài hoa với
việc thổi kèn lá, kèn môi rất giỏi. Vì thế, ta không ngạc nhiên gì khi tiếng sáo văng vẳng nơi xa
kia, cùng với hơi rượu nồng nàn đã khơi dậy nơi Mị những bổi hổi, bồi hồi về những ngày trước
kia. Dường như cô Mị mượn rượu để giải tỏa nỗi lòng, tâm tư của mình, tựa như Lãng Du Khách
đã viết trong “Tửu sầu”:
“Ta buồn mượn rượu để say
Giọt chua giọt đắng giọt cay giọt nồng
Rượu tan, khung cảnh và con người vãn dần, Mị ngồi trơ ra giữa nhà rồi một lúc lâu sau
mới từ từ bước vào căn buồn nhỏ bé bởi lẽ vì đã sống quá lâu trong cái địa ngục này, nên cô làm
điều đó theo quán tính, như một thói quen khó bỏ. Không còn là cô gái bị giam hãm trong buồng
tối u sầu những ngày trước mà giờ đây, “ Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui
sướng”, “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Rượu là tác nhân đặc biệt mà Tô Hoài
đã dùng rất khéo léo, rất đúng lúc khi nó cởi trói cho Mị khỏi những gông xiềng, làm thức dậy
những cảm xúc con người, hồi sinh Mị một lần nữa. Mị không cam chịu mà sống đúng với mình,
“Trên con đường dẫn tới thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”

với ước vọng của mình: Mị muốn đi chơi. Giờ phút này, Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo gọi bạn yêu
lơ lửng ngoài đường.
Tâm hồn Mị sau giai đoạn ngủ yên nay đã bừng tỉnh, như một lẽ tự nhiên, Mị cảm nhận rõ từng
hồi của đắng cay, đau đớn của cuộc sống thực tại. Mị nhận ra bi kịch tâm hồn của chính bản thân
mình với A Sử: “không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Giờ đây, “nếu có nắm lá ngón
trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa” bởi lẽ “nhớ lại, chỉ thấy
nước mắt ứa ra”. Khi lòng ham sống của cô gái này trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay
đi. Ý muốn tự tử của Mị là ranh giới đếu tranh gay gắt giữa một khát vọng sống đang mãnh liệt
trỗi dậy với một thực tại đầy chua xót, thảm thương hiện hữu. Dòng nước mắt của Mị là khóc
cho những ngày mất đi ý niệm về cuộc đời mình.
Tiếng sáo giờ đây được phen bước vào tâm hồn Mị khiến “đầu Mị rập rờn tiếng sáo”,
từng nốt từng nốt như chất xúc tác mạnh mẽ thôi thúc hành động đi chơi của Mị diễn ra nhanh
hơn. Hàng loạt các hành động được Tô Hoài diễn tả dồn dập: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn
một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”, “Mị quấn lại tóc”, “Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở
phía trong vách”. Đây là chuỗi hành động nổi loạn thể hiện sự trỗi dậy của một khát vọng sống
mãnh liệt nơi tâm hồn Mị.
Qua ngòi bút tài hoa của tác giả đã phác họa sức sống ấy lớn đến nỗi Mị không hề chú tâm đến
sự xuất hiện của A Sử. Mị thắp ngọn đèn như thắp lên lẽ sống của cuộc đời mình, thứ ánh sáng
ấy xua tan bao đêm tối triền miên, chiếu rọi vào thẳm sâu linh hồn như đã chết của Mị để linh
hồn với khao khát hạnh phúc, tự do của cô tìm ra con đường giải thoát mình khỏi sự trói buộc
đau đến thương tâm của thực tại. Hành động nhỏ ấy đã cho ta thấy được biết bao điều: Mị đã dần
nhận thức được không gian mình đang sống, đang cần một chút ánh sáng- dù chỉ hiu hắt để soi
sáng con đường, soi sáng cả cuộc sống tối tăm mù mịt của mình nơi địa ngục trần gian ấy. Qua
chi tiết đầy ý nghĩa này, tác giả bộc lộ sự trân trọng dành cho Mị đồng thời thể hiện nét bút làm
rung động tâm can người đọc.
Tiếc thay, khát vọng sống của người con gái đáng thương vừa nhen nhóm đã bị dập tắt
bởi sự tàn nhẫn của A Sử một cách phũ phàng. A Sử trói Mị đứng vào cột nhà “ nó xách cả một
thúng sợi đay ra trói đứng Mị”, “tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị
không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Hành động của hắn là minh chứng đầy thuyết phục
cho sự sống lại của Mị, Mị “như không biết mình bị trói”, cô không cảm thấy đau. Mị vẫn nghe
thấy tiếng sáo, ngửi thấy hơi rượu đượm nồng. Dù A Sử có trói Mị nhưng hồn cô vẫn men theo
tiếng sáo- thứ âm nhạc sống trong Mị từ lâu, nó dẫn lối “đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những
đám chơi ngày Tết”. Mị như kẻ mộng du lạc đường, chính tiếng sáo như một tiếng gọi thân
thương của một người từng quen giúp Mị bấu víu vào mà tìm thấy lối về.
Brihadaranya Upanishad từng nói: “Khát khao sâu thẳm và mãnh liệt trong bạn chính là
con người bạn. Khát khao sẽ hình thành ý chí. Ý chí sẽ hình thành hành động. Hành động sẽ
hình thành vận mệnh”. Giống như Mị, khi cái niềm khao khát cháy bỏng của cô đã đạt đến đỉnh
điểm, “Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được”. Lúc này, “Mị không nghe tiếng
sáo nữa. Chỉ còn tiếng chân ngựa đạp vào vách”. Hồn Mị đã trở về với thực tại, nếm trải đau xót,
đắng cay của thân phận mình. Nhưng Mị, như một đóa hoa hoang dại giữa rừng, dù có bị vùi dập
bởi nắng mưa sương gió, bão táp bốn phương thì hoa dại vẫn có một sức sống mãnh liệt mà
không phải những loại hoa trong vườn, trong kính có được. Chỉ cần cho đóa hoa ấy ánh sáng của
niềm tin, hy vọng, nó không ngại ngần vươn lên một lần nữa để khoe sắc dưới bình minh.
Xuyên suốt truyện ngắn, độc giả có thể dễ dàng nhận ra rằng tiếng sáo là chi tiết được lặp
đi lặp lại trong tác phẩm, đặc biệt là trong đêm tình mùa xuân. Phải chăng đây là dụng ý của nhà
văn Tô Hoài ? Tiếng sáo là một trong những tác nhân quan trọng nhất đánh thức tâm hồn chai
sạn của Mị sau những tháng ngày tăm tối ở nhà thống lí. Tiếng sao xuất hiện từ xa đến gần, từ
bên ngoài tới bên trong nhận thức của Mị, chiếm lấy tâm hồn cô gái. Tiếng sáo mở ra một không
gian xa xôi của núi rừng Tây Bắc, tiếng sáo gọi bạn, gọi người yêu là nét đẹp truyền thống của
người dân nơi đây. Tiếng sáo còn là sự thể hiện tài năng của con người- cụ thể là Mị có tài “thổi
lá hay như thổi sáo”. Nó còn khơi gợi quá khứ tươi đẹp, ước mơ về cuộc sống hạnh phúc, đồng
thời tiếng sáo là chất xúc tác trực tiếp khơi gợi sức sống tiềm tàng của Mị. Đặc biệt, tiếng sáo là
“Trên con đường dẫn tới thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”

chi tiết nghệ thuật tố cáo bản chất giai cấp thống trị thực dân phong kiến miền núi, cự tuyệt
quyền sống, quyền làm người của con người.
Nhà văn đã thành công trong xây dựng một tình huống truyện đặc sắc làm nổi bật lên tâm
lí và cảm xúc nhân vật. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật cực kì tinh tế và khéo léo bằng ngôn
ngữ mang đậm dấu ấn miền núi cũng đã góp phần làm nên lực hút của tác phẩm này. Qua đó,
chúng ta còn thấy được vẻ đẹp thiên nhiên miền núi Tây Bắc sống động qua những trang văn
cùng với những phong tục, tập quán của nhân dân vùng này. Hình tượng nhân vật Mị là tiêu biểu
cho số phận và vẻ đẹp tâm hồn của người lao động miền núi Tây Bắc, góp phần tô đậm giá trị
hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn.
“ Nhà văn trước hết phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy” (Sê-khốp). Điều này được
thể hiện rõ nét dưới ngòi bút tài hoa của Tô Hoài. Đó là niềm cảm thương sâu sắc đối với số
phận bất hạnh bị tước mất quyền tự do, quyền làm chủ cuộc đời, tiêu biểu là nhân vật Mị và A
Phủ,trân trọng ngợi ca những giá trị tốt đẹp của cuộc sống con người, những giá trị văn hóa các
dân tộc. Hơn nữa đó còn là sự thấu hiểu đồng cảm với số phận các nhân vật. Nhà văn đã lên án
kết tội gay gắt mọi thế lực tàn bạo của chế độ thực dân phong kiến mà điển hình là cha con nhà
thống lí Pá Tra, lên án những hủ tục tàn bại đã tước đi cuộc sống, quyền khát khao hạnh phúc
mưu cầu hạnh phúc của con người .Ngòi bút của Tô Hoài thấm nhuần tinh thần nhân đạo mới.
Thể hiện tấm lòng yêu thương, niềm cảm thông đối với thân phận đau khổ của người lao động
nghèo miền núi, nhận ra vẻ đẹp của họ ở phẩm chất và khát vọng tự do. Những trang văn của tác
giả phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người để rồi chỉ ra số phận đau khổ, con
đường tự giải thoát, làm chủ vận mệnh của mình.Tinh thần giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện tài
năng của Tô Hoài, đưa tác phẩm tới sâu hơn trong trái tim người đọc, để lại cho độc giả những
bài học nhận thức và hành động ý nghĩa, sâu xa.
Trải qua hơn một nửa thế kỉ, những lời văn câu chữ trong truyện ngắn vợ chồng A Phủ đã
vượt qua biết bao lớp bụi thời gian để in sâu, bám rễ vào tâm tưởng biết bao thế hệ độc giả người
Việt. Gấp lại những trang sách của Tô Hoài mà dư âm về cuộc sống, về số phận của những người
dân nghèo dưới chế độ chủ nô phong kiến miền núi vẫn in đậm trong tâm khảm người đọc. Đủ
để thấy, ngòi bút Tô Hoài, đặc biệt qua truyện ngắn trên có sức lay động tuyệt đối tới trái tim của
mọi người, để lại những day dứt, những ám ảnh khó phai.
…………………………………………………………………………………….

You might also like