Professional Documents
Culture Documents
VỢ CHỒNG A PHỦ
Tô Hoài
Phần I. Kiến thức cơ bản
1. Khái quát về tác giả, tác phẩm
- Tác giả:
+ Là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỷ lục trong nền văn học Việt Nam hiện đại;
+ Có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về các phong tục, tập quán...
+ Đặc biệt, có tình cảm sâu nặng với người đồng bào miền núi Tây bắc. Chính nhà văn từng thốt lên “Đất nước
và con người miền tây để thương để nhớ cho tôi nhiều quá”. Tình cảm ấy đã giúp nhà văn viết thành công tác phẩm
Vợ chồng A Phủ.
- Tác phẩm:
+ Hoàn cảnh sáng tác: Vợ chồng A Phủ là kết quả của chuyến đi thực tế kéo dài 8 tháng của nhà văn Tô Hoài
cùng bộ đội vào giải phóng Tây bắc năm 1952;
+ Xuất xứ: Rút trong tập “Truyện Tây bắc” (gồm ba truyện: “Cứu đất cứu Mường”, “Mường Giơn”, “Vợ chồng
A Phủ”)
+ Bố cục: gồm 2 phần => Phần 1: Mị và A Phủ ở Hồng Ngài;
=> Phần 2: Mị và A Phủ ở Phiềng Sa.
+ Vị trí đoạn trích thuộc phần 1 của tác phẩm.
2. Tóm tắt:
Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo (Mị và A Phủ)
- Mị xinh đẹp, yêu đời, hiếu thảo, có tài năng, có khát vọng tự do, ... con dâu gạt nợ
- Lúc đầu Mị phản kháng, khóc, định ăn lá ngón tự tử. Về sau, Mị chai sạn, không còn cảm giác về sự sống “lùi
lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”
- Mùa xuân Mị muốn đi chơi Tết, bị A Sử trói đứng vào cột nhà.
- Còn A Phủ là một chàng trai mồ côi, nghèo, có sức sống mãnh liệt, mùa xuân A Phủ đi chơi, vì bất bình A Sử
=> đánh => bị bắt, bị phạt vạ => người ở gạt nợ.
- Một lần A Phủ mải bẫy nhím, để hổ vồ mất một con bò => A Phủ bị đánh, trói đứng đến gần chết.
- Mị cắt dây trói cho A Phủ => Phiềng Sa
- Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, giác ngộ, đi theo cách mạng ... làm chủ cuộc đời...
3. Chủ đề: Qua số phận của nhân vật Mị và A Phủ, Tô Hoài đã phản ánh cuộc sống khổ cực của những người
nghèo bị áp bức ở miền núi Tây Bắc trước cách mạng tháng Tám, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh
liệt, khả năng vùng dậy đấu tranh từ tự phát đến tự giác để thay đổi cuộc đời, tìm đến với tự do dưới ánh sáng của
cách mạng.
4. Đặc sắc nghệ thuật: Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những
giá trị nghệ thuật:
- Truyện có lối trần thuật hấp dẫn, linh hoạt, lôi cuốn người đọc, tác giả kể chuyện không theo tính tuyến tính mà
hiện tại, ngược về quá khứ trở lại hiện tại,...
- Giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế đượm màu sắc và phong vị dân tộc, khi kể số phận nhân vật nhà văn kể với giọng
trầm buồn, thấm đẫm tình cảm và lòng yêu thương.
- Ngôn ngữ vừa giàu tính tạo hình, vừa giàu chất thơ.
- Đặc biệt thành công nhất là nghệ thuật miêu tả tâm lý và hành động nhân vật. Tác giả đã miêu tả nội tâm của
nhân vật bằng thủ pháp đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa bên ngoài và bên trong theo phép biện chứng tâm hồn.
- Ngoài ra Tô Hoài còn chú ý lựa chọn những chi tiết tiêu biểu, đặc sắc.
=> Giải nhất giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1954-1955.
Phần II. Luyện đề cơ bản
A. Kiểu bài phân tích, cảm nhận nhân vật
1. Một số dạng bài
- Phân tích nhân vật trong tác phẩm, đoạn trích
Ví dụ: Anh/ chị hãy phân tích nhân vât Mị trong đoạn trích “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.
- Phân tích một đặc điểm của nhân vật theo định hướng của đề
Ví dụ: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà
văn Nguyễn Minh Châu.
- Phân tích nhân vật (đặc điểm nhân vật) từ đó rút ra nhận xét về nội dung/ nghệ thuật/ cái nhìn của nhà văn
Ví dụ: Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật người mẹ trong tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân. Từ đó rút
ra nhận xét về tấm lòng và tài năng của nhà văn Kim Lân trong khám phá và miêu tả con người.
2. Hướng dẫn làm bài
a. Tìm hiểu đề
- Xác định vẫn đề nghị luận: vẫ đề trọng tâm, vẫn đề nâng cao (nếu có)
KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12
- Xác định thao tác lập luận cần vận dụng
- Phạm vi kiến thức cần huy động
b. Dàn ý
MB:
- Gợi dẫn (nếu mở bài gián tiếp)
- Đưa vấn đề nghị luận: nội dung phân tích (nội dung trọng tâm, nội dung nâng cao nếu có)
- Thông báo nội dung sẽ viết ở phần thân bài
TB
1. Khái quát
- Tác giả (nếu mở bài chưa giới thiệu), hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, ...
- Giới thiệu khái quát về nhân vật: vị trí, hoàn cảnh xuất hiện nhân vật, dẫn dắt từ nội dung tác phẩm đến nhân
vật.
2. Cảm nhận về nhân vật
a. Số phận, lai lịch, ngoại hình, ...
b. Phẩm chất, tính cách, vẻ đẹp của nhân vật, ...
3. Đánh giá chung
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật và miêu tả nhân vật
- Ý nghĩa của hình tượng nhân vật trong việc thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm và quan điểm nghệ thuật của
nhà văn.
- Nâng cao nếu có: trình bày thành một đoạn văn ngắn gọn.
KB:
- Khẳng định lại vấn đề nghị luận
- Liên hệ mở rộng: với đời sống văn học, với các hình tượng văn học cùng đề tài, chủ đề. Với độc giả, bản thân
người học.
B. Giải đề cơ bản
Đề 1. Phân tích nhân vật Mị
MB: Tô Hoài là nhà văn có hiểu biết phong phú, sâu sắc về các phong tục tập quán của nhiều vùng miền trên đất
nước ta. Đặc biệt, ông có tình cảm sâu nặng với đồng bào miền núi Tây Bắc. Chính nhà văn từng thốt lên “Đất nước
và con người miền tây để thương để nhớ cho tôi nhiều quá”. Tình cảm ấy đã giúp nhà văn viết thành công tác phẩm
“Vợ chồng A Phủ”. Trong phần một của tác phẩm, khi Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, nhà văn đã xây dựng thành công
hình tượng nhân vật Mị. Một cô gái có số phận đau khổ nhưng có sức sống tiềm tàng vô cùng mãnh liệt.
TB
1. Khái quát chung
- Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, ...
- Vị trí, hoàn cảnh xuất hiện nhân vật
+ Mị là nhân vật chính, trung tâm, là linh hồn của tác phẩm
+ Mị xuất hiện ngay từ những dòng đầu tiên của tác phẩm với cách kể chuyện trầm buồn.
+ Trong không gian: Nhà thống lý Pá Tra, bên tảng đá trước cửa bên cạnh tàu ngựa.
+ Với dáng vẻ: “cúi mặt”, “mặt buồn rười rượi”, hình ảnh cô đối lập với sự giàu có của nhà thống lý Pá Tra “Nhà
Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều
thuốc phiện nhất làng”.
=> Chỉ bằng một vài lời giới thiệu ngắn gọn, Tô Hoài đã tạo ra được một tình huống có vấn đề, lôi cuốn hấp dẫn
người đọc. Đọc xong đoạn văn giới thiệu đầu tiên chắc chắn người đọc sẽ đặt ra nhiều câu hỏi: cô gái ấy là ai? Tại
sao sống trong nhà giàu nhất làng lại có một cô giái buồn như vậy? Và những dòng tiếp theo của truyện cuộc đời
đau khổ của cô Mị dần được hé mở, người đọc sẽ đau đớn, phẫn nộ, thương cảm theo từng trang văn.
=> Như vậy, ngay ở đoạn văn đầu tiên đọc Tô Hoài đã để lại được ấn tượng cho người đọc và một cô Mị với nỗi
buồn héo hắt, câm lặng như đá và thân phận không bằng trâu ngựa.
2. Phân tích, cảm nhận
2.1. Quãng đời đau khổ
*Trước khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lý: Mị là một bông hoa rực rỡ của núi rừng Tây bắc, có nhiều phẩm chất
đẹp, đáng trân trọng của người miền núi:
- Xinh đẹp: nhà văn Tô Hoài không miêu tả trực tiếp cô Mị xinh đẹp như thế nào nhưng chỉ qua chi tiết “trai đến
đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị” người đọc cũng phần nào thấy được sự cuốn hút của cô gái Mèo xinh đẹp.
- Tài năng: Mị có tài thổi sáo, thổi lá khiến bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị, đây là tài năng hé lộ
một đời sống nội tâm phong phú, mạnh mẽ.
- Vẻ đẹp nổi bật ở Mị chính là sự chăm chỉ, cần cù, yêu lao động, yêu tự do. Mị chấp nhận cuộc sống vất vả,
công việc cực nhọc, chấp nhận làm nương để trả nợ thay cha chứ không chịu làm dâu gạt nợ nhà giàu.
KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12
- Đặc biệt Mị còn có trái tim giàu sức sống, thanh xuân cô đã yêu và được yêu với những kỷ niệm hẹn hò thời
thiếu nữ.
- Ngoài ra nhân vật Mị còn khiến người đọc thực sự xúc động về sự hiếu thảo của mình. Mặc dù luôn khao khát
tự do, không chấp nhận cuộc sống tù túng, giam hãm trong nhà thống lý Pá Tra nhưng cuối cùng Mị đã từ bỏ ý định
ăn lá ngón tự tử vì thương cha già không có tiền trả nợ. Hành động vứt nắm lá ngón để quay về với cuộc sống trâu
ngựa trong nhà thống lý Pá Tra đã lám ánh lên vẻ đẹp của lòng hiếu thảo. Mị đã chấp nhận cuộc sống bị đày đoạ,
đau khổ đến tận cùng để đổi lấy bình yên cho cha.
=> Bằng tấm lòng yêu thương, trân trọng Tô Hoài đã dùng mật ngọt của ngôn ngữ để tạo nên chân dung một cô
gái đẹp người, đẹp nết. Những phẩm chất này mở ra cơ hội để Mị có thể được hưởng một cuộc sống hạnh phúc và
trên thực tế cơ hội này cũng đã chớm nở bằng việc Mị đã có người yêu. Một tình yêu đẹp với chàng trai cùng bản.
Nhưng hạnh phúc chưa kịp mở ra thì cánh cửa của nó đã đóng sầm lại đẩy Mị vào cuộc sống tối tăm, đau khổ, tủi
nhục.
* Khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra
- Nguyên nhân:
+ Trực tiếp: => Gia đình Mị nghèo, có món nợ truyền kiếp với nhà thống lý Pá Tra, cha mẹ Mị nghèo, lấy nhau
phải vay tiền của thống lý, mỗi năm phải trả lãi một nương ngô, nhiều đến khi mẹ Mị chết vẫn chưa trả xong nợ.
=> Lợi dụng hủ tục cướp vợ của người Mèo, A Sử đã bắt Mị về làm vợ.
+ Sâu xa: do bản chất dã man, vô nhân đạo của giai cấp thống trị miền núi trước cách mạng tháng Tám 1945.
Chế độ ấy điển hình là cha con thống lý Pá Tra, đã coi rẻ giá trị con người không bằng súc vật, đồ vật, chế độ ấy đã
dùng thủ đoạn cho vay nặng lãi để trùm bóng đen lên số phận của người nông dân từ đời này qua đời khác.
=> con dâu gạt nợ: Mị mang tiếng là con dâu nhà giàu nhưng Mị còn khổ hơn con nợ, nếu con nợ còn có cơ hội
được giải thoát khi trả hết nợ, còn Mị phải trả nợ hết cuộc đời mình đến khi chết thì thôi.
- Lúc đầu khi mới về làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra:
+ Mị phản kháng số phận: đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử => Đây là lần thứ nhất Mị định ăn lá
ngón tự tử. Đó là một hành động tiêu cực nhưng không thể nào khác của một cô Mị yêu đời, ham sống. Khi cô Mị
không được sống cuộc đời tự do, phải sống chịu đựng bất hạnh, không được coi là con người thì cô muốn chấm dứt
sự sống ấy nghĩa là cô vẫn còn có sức phản kháng, vẫn còn muốn khao khát cuộc sống tốt đẹp hơn.
+ Vì thương cha nên Mị đã ném nắm lá ngón đi và tiếp tục sống 1 cuộc đời bị chà đạp cả về thể xác lẫn tinh thần.
- Về sau, Mị đã tê liệt hoàn toàn sức sống, chai sạn, trơ lì, vô cảm và không còn tinh thần phản kháng.
+ Bị chà đạp về thể xác: Mị trên danh nghĩa là con dâu nhưng thực chất là nô lệ không công, Mị trở thành công
cụ lao động cho nhà thống lý. Nhà văn Tô Hoài đã liệt kê công việc Mị phải làm quanh năm: “Tết xong thi lên núi
hái thuốc phiện, giữa năm thì gặt đay, xe dây, đến mùa thì đi nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô lúc
nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi”. Câu văn dài cùng với việc liệt kê hàng loạt các công
việc hàng năm khiến cho người đọc có thể hình dung được về vòng quay triền miên, liên tiếp, nặng nề mà Mị phải
thực hiện. Mị đã trở thành công cụ câm lặng để làm giàu cho nhà thống lý”.
=> Tiếp theo nhà văn còn sử dụng lối so sánh vừa tương đồng vừa giáng cấp để diễn tả nỗi đau thân phận Mị. Mị
tưởng mình là con trâu, con ngựa, thậm chí không bằng con trâu, con ngựa vì trâu ngựa ngày làm còn có lúc, đêm
nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Còn Mị phải vùi đầu vào công việc cả ngày lẫn đêm.
+ Bị chà đạp về tinh thần: nỗi khổ về tinh thần còn đau đớn hơn về thể xác. Mị không chỉ phải làm nô lệ về mặt
thể xác mà cô còn bị nô lệ hoá về mặt tinh thần. Ngay khi bị bắt về làm dâu Mị đã phải trải qua một nghi lễ hết sức
khủng khiếp đó là bị đem cúng trình ma. Đối với những người dân nơi đây, hành động này khiến họ tin rằng mình
đã trở thành ma nhà thống lý không thể thoát ra được.
++ Cô Mị ở nhà thống lý dần trở nên cam chịu, câm lặng, cúi đầu chấp nhận tất cả đau khổ. Điều đó được nhà
văn Tô Hoài thể hiện qua hình ảnh so sánh: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
Con rùa trong quan niệm dân gian, vốn là một loài vật tượng trưng cho sức chịu đựng, nhẫn nại, tầng bị áp bức, đè
nén. Vì vậy ông cha vẫn thường nói: “Thương thay thân phận con rùa / Lên đình cõng hạc xuống chùa đội bia”. Do
đó hình ảnh so sánh cô Mị với con rùa càng tô đậm thêm thân phận nhỏ bé, đáng thương cùng thái độ cam chịu,
chấp nhận cúi đầu sống trong đau khổ của Mị.
++ Cùng với hình ảnh con rùa là hình ảnh của cửa sổ nơi căn buồng Mị nằm “một chiếc cửa sổ một lỗ vuông
bằng bàn tay” lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, nghĩa là không phân biệt được ngày hay đêm, nghĩa là khi
ở trong căn buồng ấy Mị không còn có cảm nhận về thời gian, sự sống, mất hết tri giác về sự sống. Đây chính là nhà
tù ngột ngạt, tăm tối giam hãm tuổi thanh xuân của Mị. Ở trong căn buồng ấy Mị đã mất hết cảm xúc, ý thức. Biểu
hiện cao nhất của sự tê liệt cảm xúc đó là Mị không còn nghĩ đến cái chết như trước đây nữa. Mặc dù cha cô đã
chết, cô không còn điều gì ràng buộc nữa, ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi, sống hay chết không còn có ý nghĩa
gì.
=> Cuộc sống ở nhà thống lý đã làm cho Mị biến đổi sâu sắc: Mị từ một cô gái có lòng ham sống mãnh liệt, trở
thành một người sống mà như đã chết, tẻ nhạt, vô thức như đồ vật trong nhà.
KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12
Phản ánh cuộc sống đau khổ, đoạ đầy tủi nhục của Mị ở nhà thống lý Pá Tra trước hết Tô Hoài đã đem
đến cho tác phẩm của mình giá trị hiện thực sâu sắc. Qua nhân vật Mị, nhà văn đã khát quát số phận đau khổ,
bi thương của người nông dân miền núi trước 1945. Đó cũng là lý do cùng với Mị, Tô Hoài còn xây dựng các
nhân vật khác trong truyện như chị dâu chưa già lưng đã còng xuống và nỗi ám ảnh về câu chuyện đã từng có
người đàn bà bị trói đứng cho đến chết trong nhà thống lý.
Số phận của Mị còn mang ý nghĩa tố cáo, phê phán mạnh mẽ bản chất độc ác, tham lam của giai cấp
thống trị ở miền núi.
Đằng sau câu chuyện, người đọc còn thấy trái tim nhân đạo cao cả của Tô Hoài bởi nhà văn đã trải
mình ra để đồng cảm, xót thương cho số phận nhân vật.
2.2. Sức sống tiềm tàng
Khi viết về quãng đời đau khổ, bi thảm của Mị, người đọc đã có thể nhận thấy giá trị hiện thực, giá trị nhân
đạo của tác phẩm. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đây thì “Vợ chồng A Phủ” chưa có điểm gì khác so với các tác
phẩm trước cách mạng như “Tắt đèn”, “Lão Hạc”, “Chí Phèo”,... Trong tác phẩm, bên cạnh việc khắc hoạ cuộc
sống cực khổ của người nông dân miền núi, Tô Hoài còn có cái nhìn mới mẻ khi đi sâu khai thác sức sống tiềm
tàng, mãnh liệt ở những con người nhỏ bé, đáng thương mà điển hình là Mị, sức sống của Mị đã được nhà văn khai
thác trong hai đoạn đặc sắc là đêm tình mùa xuân và đêm đông cắt dây trói cứu A Phủ.
* Sức sống tiềm tàng:
+ Là sức sống tiềm ẩn bên trong con người không dễ nhận ra, nếu có điều kiện thuận lợi nó sẽ trỗi dậy mạnh mẽ
trở thành hành động và khao khát.
+ Nhà văn Tô Hoài đã nhận ra Mị có sức sống tiềm tàng, mãnh liệt: Bề ngoài Mị lạnh lùng, dửng dưng vô cảm
do bị áp bức quá nặng nề nhưng bên trong con người Mị vẫn tiềm ẩn 1 sức sống mạnh mẽ, sức sống ấy nó giống
như một hòn than âm ỉ dưới lớp tro tàn để đến khi có ngoại cảnh tác động nó bùng cháy dữ dội. Mãnh liệt nhất là
vào đêm mùa xuân nghe tiếng sáo và đêm mùa đông cắt dây trói cứi A Phủ.
a) Đêm mùa xuân trên núi Hồng Ngài:
Tô Hoài là nhà văn bậc thầy trong việc phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật, bởi vậy, để dễn tả sự thay đổi của nhân
vật không gây ra sự đột ngột, bất ngờ, Tô Hoài đã có sự chuẩn bị kĩ lưỡng. Ông đã khéo léo chọn được các chi tiết
đặc sắc để tác động vào tâm lí của nhân vật Mị.
Trong đêm mùa xuân, có ba yếu tố quan trọng tác động đến Mị: Không khí ngày xuân, tiếng sáo, men rượu
=> Mị thay đổi.
*Không khí ngày xuân
- Mùa xuân xuất hiện qua màu sắc rực rỡ, đó là màu của cỏ gianh vàng ửng, của những chiếc váy hoa đem ra
phơi trên mỏm đá xoè như những con bướm sặc sỡ.
- Âm thanh tiếng cưới đùa của trẻ con, âm thanh tiếng sáo trai gái tụ tập đánh pao, đánh quay.
- Thời tiết: gió và rét rất dữ dội.
=> Không gian ngày Tết vùng cao đông vui nhộn nhịp đầy xuân tình là yếu tố ngoại cảnh tác động làm sống dậy
sức sống tiềm tàng mạnh mẹ trong con người Mị. Đặc biệt, Tô Hoài đã dụng công xây dựng hai chi tiết độc đáo là
tiếng sáo và mẹn rượu. Đó là hai chi tiết đắt giá dẫn dắt sự hồi sinh của Mị để giúp cho người đọc thấy một linh hồn
cựa quậy dưới lớp xác đã băng.
*Diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị
Trước khi bị trói
- Biểu hiện đầu tiên của sự hồi sinh sức sống trong lòng Mị là chi tiết: nghe tiếng sáo rủ bạn đi chơi lấp ló ngoài
đầu núi, Mị nghe tiếng sáo vọng lại “thiết tha bổi hổi”, Mị đã ngồi “nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”.
=> Chứng tỏ tâm hồn Mị không còn lạnh giá, tê liệt mà cảm xúc đã bắt đầu thức dậy, cô Mị sau bao ngày câm
lặng đã cất tiếng nói dù đó chỉ là “lời thì thầm mùa xuân” một bản tình ca Tây Bắc của những kẻ yêu nhau: “Mày có
con trai con gái rồi/ Mày đi làm nương/ Tao không có con trai con gái/ Tao đi tìm người yêu”.
- Cùng với tiếng sáo là men rượu, tiếng sáo đã làm cho Mị mạnh mẽ hơn và có một hành động nổi loạn: uống
rượu. Mị “lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát” => cách uống rượu của Mị không phải là để thưởng thức mà
uống như để đã khát, đã thèm, như nuốt cay nuốt đắng vào lòng, uống để quên đi những ngày tháng khổ cực đã qua.
Mị uống như thể muốn mượn cay mượn đắng của rượu để làm với đi cay đắng trong lòng mình.
- Khi say, rượu và tiếng sáo chính là chất men đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây tình trạng sống như đã
chết của Mị đã được cởi bỏ, Mị đã hồi sinh.
+ Men rượu đã đưa Mị từ cõi quên về cõi nhớ, cô đã thoát khỏi thực tại bằng việc nhớ về quá khứ đẹp đẽ. Mị nhớ
lại tài thổi sáo của mình, nhớ lại quãng đời hạnh phúc trước kia => khiến tâm hồn Mị phơi phới niềm vui “ Mị thấy
phơi phới trở lại” “trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước rồi Mị ý thức về tuổi trẻ “Mị trẻ
lắm” “Mị vẫn còn trẻ” => Khi ý thức sống, khát vọng tự do hạnh phúc trỗi dậy mạnh mẽ, ý nghĩ về cái chết lại xuất
hiện “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay” đây là lần thứ hai trong cuộc đời Mị nghĩ đến
cái chết.
KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12
+ Liên hệ mở rộng: Phải chăng cũng giống như Chí Phèo của Nam Cao, khi nhân tính trở lại Chí không còn
muốn sống độc ác, sống kiếp của con quỷ dữ nữa, nhưng cũng không thể quay lại làm người lương thiện do đó Chí
chọn cái chết. Cô Mị cũng vậy, khi sự ham sống, khát khao hạnh phúc, tự do trong con người Mị đã hồi sinh, Mị
không chấp nhận thực tại cay đắng nên đã tìm đến với cái chết nghĩa là Mị đã lại ý thức được nỗi khổ của bản thân,
Mị muốn chấm dứt cuộc sống trâu ngựa, muốn sống cho ra sống.
=> Sức sống trỗi dậy trong tâm hồn cô Mị tựa như những đợt sóng ào ạt, đợt sau mạnh mẽ hơn đợt trước. Từ
những cảm xúc, ý muốn Mị đã đi đến hành động
- Hành động: Tô Hoài đã miêu tả hàng loạt phản ứng của Mị giống như phản ứng dây chuyền, đầu tiên Mị thắp
đèn: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Mị sửa soạn đi chơi: “Mị quấn
lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa vắt ở phía trong vách, Mị rút thêm cái áo”.
=> Bằng những câu văn ngắn, nhịp gấp, Tô Hoài đã cho người đọc thấy sức sống mạnh mẽ đang trỗi dậy, ý
muốn đi chơi và sửa soạn đi chơi là biểu hiện rõ nét nhất cho khát vọng tự do, tình yêu, hạnh phúc của Mị (cô hành
động như một con người tự do đang chuẩn bị, sửa soạn để vượt ngục)
Khi bị A Sử trói:
- Hành động trói: Giữa lúc hoạt động sống trong Mị trào sôi thì cũng là lúc nó bị vùi dập dã man bởi A Sử. Cả A
Sử và Mị đều thản nhiên, A Sử chỉ hỏi đúng một câu “mày muốn đi chơi à”, sau đó A Sử không hỏi thêm nữa, trói
đứng Mị vào cột nhà, sau đó tắt đèn, khép cửa đi ra => A Sử thản nhiên khi hành động bởi đây là một việc bình
thường, quen thuộc diễn ra trong nhà thống lý Pá Tra, thậm chí có một người trói vợ ba ngày..., Mị không chống cự
vì lúc này có thể tâm hồn Mị đang đi theo những tiếng sáo, đang sống với những khao khát tuổi trẻ nên Mị không ý
thức được thực tại.
- Hình ảnh Mị khi bị trói: Mị bị trói đứng vào cột nhà suốt cả đêm, Tóc bị cuốn lên cột làm cho Mị không cúi,
không nghiêng được đầu nữa.
=> Đây là hình ảnh đáng thương của đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài. Mị là một nhân chứng
sống có ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ tội ác của giai cấp thống trị vùng cao. Mị phải chịu nỗi đau đớn về mặt thể xác, nỗi
đau đớn này rất dễ kéo Mị trở lại với thực tại với cảnh ngộ đầy éo le của Mị.
- Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị khi bị trói:
+ Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói.
+ Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi: “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em
yêu người nào, em bắt pao nào...”
+ Mị vùng bước đi.
=> Như vậy hành động của A Sử chỉ trói được thể xác, không cầm tù được tâm hồn Mị. Nó chỉ ngăn cản được
hành động đi chơi của Mị chứ không thể dìm xuống cái sức sống mãnh liệt đang trào dâng lên trong tâm hồn người
phụ nữ Tây bắc này.
Tâm hồn Mị vẫn đi theo những cuộc chơi, đám chơi. Chỉ đến khi Mị vùng bước đi, Mị mới biết mình đang
bị trói. Điều này chứng tỏ, Mị không hề biết mình đang bị trói hoặc có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống
của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác.
=> Khi bị trói sức sống ở Mị không bị lụi tàn. Nhà văn Tô Hoài đã có niềm tin vào khát vọng của tuổi trẻ, sức
sống tiềm tàng mạnh mẽ của tuổi trẻ lao động miền núi, không dây trói nào buộc được, không thế lực tàn ác nào tiêu
diệt được. Chính vì vậy, ông Tô Hoài đã nhận xét: “Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực
của tội ác cũng không giết được sức sống con người, lay lắt, đói khổ, nhục nhã Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng,
mãnh liệt”.
- Tiếp theo, nỗi đau về thể xác khi bị trói cùng với tiếng chân ngựa đạp vào vách trở về với thực tại đầy đau đớn
của mình. Mị ý thức rất rõ về thân phận “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” => đây là một cảm nhận
chua xót, cay đắng về thân phận chẳng khác nào súc vật khi Mị ở nhà thống lý Pá Tra.
- Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng hành động của Mị trong đêm mùa xuân. Đó là
chi tiết: “Mị tỉnh dậy và mới lại chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này và Mị đã sợ chết” “Mị
cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết”.
=> Khi ý thức trở lại với Mị, Mị lại nghĩ đến cái chết, chi tiết này không có gì mâu thuẫn với chi tiết Mị nghĩ
muốn ăn lá ngón tự tử. Bởi: muốn chết, sợ chết với cô Mị đều là biểu hiện của khát vọng sống cho ra sống. Mị
muốn chết vì Mị muốn chấm dứt cuộc sống thân trâu ngựa, còn sợ chết đồng nghĩa với khát vọng sống mãnh liệt.
Tâm trạng độc lập, muốn chết, sợ chết của nhân vật Mị một mặt là để phản ánh tâm trạng phức tạp trong Mị, mặt
khác là để làm nổi bật sự sống mạnh mẽ trong cô Mị trong đêm mùa xuân.
- Sau đêm bị trói đứng, Mị trở lại nhẫn nhục, cam chịu, câm lặng như một kiếp rùa. Mị đi hái thuốc, xoa thuốc
cho chồng, lúc nào thiếp đi lại bị A Sử đạp chân vào mặt.
Tiểu kết:
Bằng sự am hiểu về phong tục tập quán đặc biệt là thế giới nội tâm nhân vật, Tô Hoài đã miêu tả sinh động,
tinh tế diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm mùa xuân để làm nổi bật sức sống tiềm ẩn, hồi sinh
trong Mị. Mị không còn là con ruà lùi lũi nuôi trong xó cửa nữa mà Mị trở thành cánh én phơi phới giữa trời xuân.
KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12
Mị không phải là ngọn đèn leo lét chỉ chờ giây phút chợt tắt mà là một hòn than hồng âm ỉ dưới lớp tro tàn, chỉ cần
một ngọn gió thổi qua là bùng thành ngọn lửa. Mị cũng giống như cây hoa đào khẳng khiu nhưng bên trong âm
thầm dòng chảy nhựa sống, để đến khi xuân về bật lên sức sống mãnh liệt.
Phát hiện và miêu tả sức sống tiềm tàng của Mị, Tô Hoài đã thể hiện lòng yêu thương trĩu mến khi ông nhận
ra bên trong con người bị đoạ đầy vẫn ẩn chứa những phẩm chất tốt đẹp, sức sống mãnh liệt, để sau này họ có thể
thay đổi cuộc đời mình => giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Như vậy, sự quẫy đạp lần này không đủ lớn để thay đổi số phận Mị nhưng nó là tiền để quan trọng để Mị có
những hành động mãnh liệt, táo bạo trong đêm đông cắt dây trói cứu A Phủ.
Nhà văn đã miêu tả cụ thể từng bước diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân. Từ
đó cho thấy sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ trong tâm hồn nhân vật, sức sống ấy gắn với tự do, tình yêu và hạnh phúc,
nó chỉ tạm thời bị cái khổ lấn át chứ không thế lực tàn bạo nào tiêu diệt được.
b. Đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ.
Hoàn cảnh thức tỉnh:
- Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Những đêm ấy Mị thường dậy sớm thổi lửa, hơ tay. Mỗi đêm
Mị thổi lửa hơ tay không biết bao nhiêu lần.
- Mị trông thấy A Phủ bị trói đứng ở cột
Diễn biến tâm trạng và hành động
* Ban đầu khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng Mị vẫn thản nhiên, cảm thấy bình thường
- Lối viết văn của nhà văn Tô Hoài đã tạo được ra những khoảng trống, chỗ trắng để người đọc tự lấp đầy, cụ thể
hoá những điểm chưa xác định. Sở dĩ khi nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay là vì:
+ Khách quan: đây là cảnh thường gặp trong nhà thống lý Pá Tra, Mị cũng đã từng bị trói, thậm chí còn có người
bị trói đến chết.
+ Chủ quan: Mị cũng đã từng bị trói và có thể Mị ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi, không nhận ra nỗi khổ của
người khác, không đủ sức quan tâm đến nỗi khổ của người khác.
=> Mị và A Phủ gặp nhau trong hoàn cảnh khốc liệt và éo le. Mị và A Phủ là những số phận con người đau khổ
cùng chung giai cấp, chung cảnh ngộ, thân phận, cùng một nỗi đau như nhau nhưng vì đã quá quen với hiện thực
trong nhà thống lý Pá Tra, cộng với nỗi khổ của bản thân mình và trạng thái tâm hồn lúc này nên nếu “A Phủ có là
cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi lửa hơ tay, chỉ biết đến ngọn lửa.
* Về sau, khi nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má xạm đen lại của A Phủ, Mị đã thay
đổi.
- Trước hết, dòng nước mắt của A Phủ:
+ Hình ảnh dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xạm đen lại của A Phủ là một hình ảnh rất thực, có
ý nghĩa tố cáo tội ác của giai cấp thống trị vùng cao.
+ Dòng nước mắt lấp lánh bởi có ánh lửa chiếu vào. Từ “bò xuống” miêu tả nước mắt chảy chậm không phải
dòng dòng. Phải chăng A Phủ đã cố kìm nén nước mắt nhưng trước cảnh ngộ hiện tại của bản thân, một người như
A Phủ đã phải nhỏ nước mắt. Hình ảnh này rất phù hợp với tính cách của A Phủ.
+ Nước mắt là biểu tượng của nỗi đau, A Phủ khóc cho cảnh ngộ của mình, đau đớn cho tình cảnh cùng đường
của mình. Đây là tiếng khóc của một con hổ bị sa bẫy, khóc vì ý thức được tình cảnh cùng đường của mình. Dòng
nước mắt của A Phủ đã có tác động rất lớn đến tâm hồn Mị, dẫn đến sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực.
- Tâm trạng và hành động của Mị:
+ Mị thương mình, nhớ lại quá khứ đau đớn, tủi nhục của chính mình, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói
Mị “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được”.
+ Mị thương A Phủ, nhớ đến người đàn bà bị trói đến chết, Mị nhận thấy rõ sự độc ác của cha con thống lý Pá
Tra “nó thật độc ác”.
+ Mị nghĩ đến tương lai gần của A Phủ, Mị lo A Phủ sẽ cầm chắc cái chết “cơ chừng này chỉ đêm mai là người
kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị ý thức rất rõ thân phận, cảnh ngộ éo le của mình: “chỉ còn biết
đợi ngày rũ xương ở đây”.
+ Mị nhận thấy cái chết của A Phủ là bất công, nghịch lý “ta là.....người kia việc gì phải thế”.
+ Ngay cả khi Mị hình dung nếu A Phủ trốn đi được, Mị sẽ bị trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy, Mị
cũng không thấy sợ => Lòng nhân hậu đã giúp cho Mị quên đi bản thân mình để nghĩ đến sự sống của A Phủ, lòng
thương ấy lớn hơn cả nỗi thương thân, đã dẫn đến hành động táo bạo, bất ngờ làm thay đổi cả cuộc đời Mị và A
Phủ.
=> Như vậy, chi tiết giọt nước mắt là một chi tiết đắt giá đã thay đổi tâm hồn cô Mị, khiến cô từ vô cảm đến
đồng cảm, từ đồng cảnh đến đồng cảm. Vợ chồng A Phủ đến nay vẫn còn sức sống mạnh mẽ phải chăng bởi những
chi tiết nhỏ ấy.
- Hành động cắt dây trói cứu A Phủ
+ Nhà văn miêu tả hành động cắt dây trói cứu A Phủ: “Mị rón rén bước lại.....Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút
dây mây”.
KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12
+ Nguyên nhân dẫn tới hành động: Sự đồng cảm giai cấp, tình yêu thương đồng loại, nhận thức tỉnh táo của lòng
căm thù đã dẫn tới hành động táo bạo, dũng cảm, bất ngờ mà hợp lý, logic với tính cách nhân vật. Đây là hành động
được xem như tất yếu, một biểu hiện của sức sống mạnh mẽ.
+ Ý nghĩa: Hành động này đã cởi bỏ xiềng xích cho Vợ chồng A Phủ và cũng là cởi bỏ xiềng xích cho Mị. Cùng
một lúc Mị đã có sức mạnh để chiến thắng ba nhà tù: nhà tù của cường quyền, sức mạnh của thần quyền và lễ giáo
phong kiến. Hành động này của Mị phù hợp với quy luật phát triển của cuộc sống: có áp bức => có đấu tranh, tức
nước thì vỡ bờ.
- Những lời nói và hành động sau khi cắt dâu trói cứu A Phủ:
+ “Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng” đây là nét tâm lý bình thường, dễ
hiểu. Trong hốt hoảng Mị giục A Phủ “đi ngay...” rồi Mị “nghẹn lại”. Có lẽ lúc này cô mới nhận ra thực sự nhận ra
mình đã làm một việc ghê gớm.
+ “Mị đứng lặng trong bóng tối” -> câu văn rất đặc biệt, đứng riêng thành một dòng. Mị đang đứng lặng nhưng
bên trong con người Mị đang chứa đầy bão giông. Mị đang có sự đấu tranh để lựa chọn và rất nhanh chóng, Mị
quyết định chạy theo A Phủ.
+ Tô Hoài đã miêu tả hành động của Mị trong những câu văn ngắn cùng những động từ mạnh mẽ, gấp gáp “Mị
cũng vụt chạy ra....Mị vẫn băng đi.....Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy....” Chính khát khao sống bùng lên đã thôi
thúc bước chân Mị.
+ Lời nói: “A Phủ cho tôi đi” cho thấy không còn những dòng độc thoại nội tâm, lần đầu tiên Mị lên tiếng và đó
là tiếng nói của khát khao sống. Mị đã....thực sự kinh hoàng trước cái chết cận kề “ở đây thì chết mất” => cứu A
Phủ và chạy theo A Phủ là cách tự cứu mình, là hành động phản kháng lại những áp bức, bất công ở đời, là một biểu
hiện cao nhất của sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.
Như vậy, Tô Hoài không chỉ nhìn thấy nét đẹp trong tâm hồn của người lao động Tây bắc mà còn thấy được con
đường tự giác của người dân Tây bắc trước số phận khổ đau. Những người lao động nô lệ chỉ thực sự thoát khỏi
xiềng xích khi họ đứng lên cởi trói cho chính mình.
- Liên hệ: Cùng chạy ra ngoài trời trong đêm tối, nhưng Mị khác hẳn chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Nếu
chị Dậu chạy ra ngoài “trời tối đen như mực, tối như cái tiền đồ của chị” thì Mị chạy ra ngoài trời tối để thoát khỏi
bóng tối đến với ánh sáng. Mị đã thoát khỏi thung lũng đau thương để đến với cánh đồng vui, thoát khỏi đêm đen nô
lệ để đến với ánh sáng tự do. Đây là hướng vận độngkhác nhau của văn học hiện thực cách mạng sau 1945 với văn
học hiện thực trước 1945. Đây cũng là giá trị nhân đạo mới mẻ của tác phẩm.
3. Đánh giá chung
- Nghệ thuật: kiến thức cơ bản.
+Mị là một nhân vật nội tâm nên nhà văn ít chú ý vào lời nói và hành động của nhân vật, mà tập trung miêu tả
diễn biến tâm lí.
+ Tô Hoài đã sử dụng thủ pháp đối lập để tái hiện thế giới nội tâm của nhân vật. Đối lập giữ bên ngoài dửng
dưng vô cảm và bên trong tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Đối lập giữa hai đoạn đời Mị: trước và khi làm dâu gạt
nợ nhà thống lí.
+ Ngoài ra, tác giả còn sử dụng lối đồng hiện giữa quá khứ và hiện tại để soi chiếu nhân vật từ nhiều góc độ. Sử
dụng ngôn ngữ miêu tả tâm lí khi trực tiếp, khi gián tiếp để tái hiện chân thực, sinh động thế giới nội tâm nhân vật.
- Ý nghĩa:
+ Qua nhân vật Mị, Tô Hoài đã phản ánh chân thực cuộc sống khổ cực của người lao động nghèo bị áp bức ở
miền núi trước Cách mạng tháng Tám. Từ đó tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, Đồng thời, phát hiện và khẳng định
sức sống tiềm tàng mãnh lieetjbeen trong con người bị áp bức, để họ vùng dậy phản kháng từ tự phát đến tự giác, để
tìm đến với cuộc sống tự do dưới ánh sáng của Đảng. Đây là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ
của tác phẩm.
+ Tô Hoài đã thổi vào số phận của người phụ nữ Việt Nam trong văn học một luồng sinh khí mới. Số phận của
Mị khác hẳn những người phụ nữ người đọc đã gặp trong văn học quá khứ: Kiều, người chinh phụ, Vũ Nương,
người cung nữ, ...
KB: “Vợ chồng A Phủ” là bài ca về sức sống kì diệu của con người ngay trong hoàn cảnh khốn cùng và bị thảm
nhất. Qua hình tượng nhân vật Mị, tôi càng trân trọng cuộc sống và càng thấm thía hơn câu nói “người ta cần phải
sống ngay cả khi cuộc đời trở nên không thể chịu đựng”.