You are on page 1of 12

KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12

VỢ CHỒNG A PHỦ
Tô Hoài
Phần I. Kiến thức cơ bản
1. Khái quát về tác giả, tác phẩm
- Tác giả:
+ Là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỷ lục trong nền văn học Việt Nam hiện đại;
+ Có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về các phong tục, tập quán...
+ Đặc biệt, có tình cảm sâu nặng với người đồng bào miền núi Tây bắc. Chính nhà văn từng thốt lên “Đất nước
và con người miền tây để thương để nhớ cho tôi nhiều quá”. Tình cảm ấy đã giúp nhà văn viết thành công tác phẩm
Vợ chồng A Phủ.
- Tác phẩm:
+ Hoàn cảnh sáng tác: Vợ chồng A Phủ là kết quả của chuyến đi thực tế kéo dài 8 tháng của nhà văn Tô Hoài
cùng bộ đội vào giải phóng Tây bắc năm 1952;
+ Xuất xứ: Rút trong tập “Truyện Tây bắc” (gồm ba truyện: “Cứu đất cứu Mường”, “Mường Giơn”, “Vợ chồng
A Phủ”)
+ Bố cục: gồm 2 phần => Phần 1: Mị và A Phủ ở Hồng Ngài;
=> Phần 2: Mị và A Phủ ở Phiềng Sa.
+ Vị trí đoạn trích thuộc phần 1 của tác phẩm.
2. Tóm tắt:
Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo (Mị và A Phủ)
- Mị xinh đẹp, yêu đời, hiếu thảo, có tài năng, có khát vọng tự do, ... con dâu gạt nợ
- Lúc đầu Mị phản kháng, khóc, định ăn lá ngón tự tử. Về sau, Mị chai sạn, không còn cảm giác về sự sống “lùi
lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”
- Mùa xuân Mị muốn đi chơi Tết, bị A Sử trói đứng vào cột nhà.
- Còn A Phủ là một chàng trai mồ côi, nghèo, có sức sống mãnh liệt, mùa xuân A Phủ đi chơi, vì bất bình A Sử
=> đánh => bị bắt, bị phạt vạ => người ở gạt nợ.
- Một lần A Phủ mải bẫy nhím, để hổ vồ mất một con bò => A Phủ bị đánh, trói đứng đến gần chết.
- Mị cắt dây trói cho A Phủ => Phiềng Sa
- Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, giác ngộ, đi theo cách mạng ... làm chủ cuộc đời...
3. Chủ đề: Qua số phận của nhân vật Mị và A Phủ, Tô Hoài đã phản ánh cuộc sống khổ cực của những người
nghèo bị áp bức ở miền núi Tây Bắc trước cách mạng tháng Tám, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh
liệt, khả năng vùng dậy đấu tranh từ tự phát đến tự giác để thay đổi cuộc đời, tìm đến với tự do dưới ánh sáng của
cách mạng.
4. Đặc sắc nghệ thuật: Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những
giá trị nghệ thuật:
- Truyện có lối trần thuật hấp dẫn, linh hoạt, lôi cuốn người đọc, tác giả kể chuyện không theo tính tuyến tính mà
hiện tại, ngược về quá khứ trở lại hiện tại,...
- Giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế đượm màu sắc và phong vị dân tộc, khi kể số phận nhân vật nhà văn kể với giọng
trầm buồn, thấm đẫm tình cảm và lòng yêu thương.
- Ngôn ngữ vừa giàu tính tạo hình, vừa giàu chất thơ.
- Đặc biệt thành công nhất là nghệ thuật miêu tả tâm lý và hành động nhân vật. Tác giả đã miêu tả nội tâm của
nhân vật bằng thủ pháp đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa bên ngoài và bên trong theo phép biện chứng tâm hồn.
- Ngoài ra Tô Hoài còn chú ý lựa chọn những chi tiết tiêu biểu, đặc sắc.
=> Giải nhất giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1954-1955.
Phần II. Luyện đề cơ bản
A. Kiểu bài phân tích, cảm nhận nhân vật
1. Một số dạng bài
- Phân tích nhân vật trong tác phẩm, đoạn trích
Ví dụ: Anh/ chị hãy phân tích nhân vât Mị trong đoạn trích “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.
- Phân tích một đặc điểm của nhân vật theo định hướng của đề
Ví dụ: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà
văn Nguyễn Minh Châu.
- Phân tích nhân vật (đặc điểm nhân vật) từ đó rút ra nhận xét về nội dung/ nghệ thuật/ cái nhìn của nhà văn
Ví dụ: Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật người mẹ trong tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân. Từ đó rút
ra nhận xét về tấm lòng và tài năng của nhà văn Kim Lân trong khám phá và miêu tả con người.
2. Hướng dẫn làm bài
a. Tìm hiểu đề
- Xác định vẫn đề nghị luận: vẫ đề trọng tâm, vẫn đề nâng cao (nếu có)
KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12
- Xác định thao tác lập luận cần vận dụng
- Phạm vi kiến thức cần huy động
b. Dàn ý
MB:
- Gợi dẫn (nếu mở bài gián tiếp)
- Đưa vấn đề nghị luận: nội dung phân tích (nội dung trọng tâm, nội dung nâng cao nếu có)
- Thông báo nội dung sẽ viết ở phần thân bài
TB
1. Khái quát
- Tác giả (nếu mở bài chưa giới thiệu), hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, ...
- Giới thiệu khái quát về nhân vật: vị trí, hoàn cảnh xuất hiện nhân vật, dẫn dắt từ nội dung tác phẩm đến nhân
vật.
2. Cảm nhận về nhân vật
a. Số phận, lai lịch, ngoại hình, ...
b. Phẩm chất, tính cách, vẻ đẹp của nhân vật, ...
3. Đánh giá chung
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật và miêu tả nhân vật
- Ý nghĩa của hình tượng nhân vật trong việc thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm và quan điểm nghệ thuật của
nhà văn.
- Nâng cao nếu có: trình bày thành một đoạn văn ngắn gọn.
KB:
- Khẳng định lại vấn đề nghị luận
- Liên hệ mở rộng: với đời sống văn học, với các hình tượng văn học cùng đề tài, chủ đề. Với độc giả, bản thân
người học.
B. Giải đề cơ bản
Đề 1. Phân tích nhân vật Mị
MB: Tô Hoài là nhà văn có hiểu biết phong phú, sâu sắc về các phong tục tập quán của nhiều vùng miền trên đất
nước ta. Đặc biệt, ông có tình cảm sâu nặng với đồng bào miền núi Tây Bắc. Chính nhà văn từng thốt lên “Đất nước
và con người miền tây để thương để nhớ cho tôi nhiều quá”. Tình cảm ấy đã giúp nhà văn viết thành công tác phẩm
“Vợ chồng A Phủ”. Trong phần một của tác phẩm, khi Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, nhà văn đã xây dựng thành công
hình tượng nhân vật Mị. Một cô gái có số phận đau khổ nhưng có sức sống tiềm tàng vô cùng mãnh liệt.
TB
1. Khái quát chung
- Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, ...
- Vị trí, hoàn cảnh xuất hiện nhân vật
+ Mị là nhân vật chính, trung tâm, là linh hồn của tác phẩm
+ Mị xuất hiện ngay từ những dòng đầu tiên của tác phẩm với cách kể chuyện trầm buồn.
+ Trong không gian: Nhà thống lý Pá Tra, bên tảng đá trước cửa bên cạnh tàu ngựa.
+ Với dáng vẻ: “cúi mặt”, “mặt buồn rười rượi”, hình ảnh cô đối lập với sự giàu có của nhà thống lý Pá Tra “Nhà
Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều
thuốc phiện nhất làng”.
=> Chỉ bằng một vài lời giới thiệu ngắn gọn, Tô Hoài đã tạo ra được một tình huống có vấn đề, lôi cuốn hấp dẫn
người đọc. Đọc xong đoạn văn giới thiệu đầu tiên chắc chắn người đọc sẽ đặt ra nhiều câu hỏi: cô gái ấy là ai? Tại
sao sống trong nhà giàu nhất làng lại có một cô giái buồn như vậy? Và những dòng tiếp theo của truyện cuộc đời
đau khổ của cô Mị dần được hé mở, người đọc sẽ đau đớn, phẫn nộ, thương cảm theo từng trang văn.
=> Như vậy, ngay ở đoạn văn đầu tiên đọc Tô Hoài đã để lại được ấn tượng cho người đọc và một cô Mị với nỗi
buồn héo hắt, câm lặng như đá và thân phận không bằng trâu ngựa.
2. Phân tích, cảm nhận
2.1. Quãng đời đau khổ
*Trước khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lý: Mị là một bông hoa rực rỡ của núi rừng Tây bắc, có nhiều phẩm chất
đẹp, đáng trân trọng của người miền núi:
- Xinh đẹp: nhà văn Tô Hoài không miêu tả trực tiếp cô Mị xinh đẹp như thế nào nhưng chỉ qua chi tiết “trai đến
đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị” người đọc cũng phần nào thấy được sự cuốn hút của cô gái Mèo xinh đẹp.
- Tài năng: Mị có tài thổi sáo, thổi lá khiến bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị, đây là tài năng hé lộ
một đời sống nội tâm phong phú, mạnh mẽ.
- Vẻ đẹp nổi bật ở Mị chính là sự chăm chỉ, cần cù, yêu lao động, yêu tự do. Mị chấp nhận cuộc sống vất vả,
công việc cực nhọc, chấp nhận làm nương để trả nợ thay cha chứ không chịu làm dâu gạt nợ nhà giàu.
KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12
- Đặc biệt Mị còn có trái tim giàu sức sống, thanh xuân cô đã yêu và được yêu với những kỷ niệm hẹn hò thời
thiếu nữ.
- Ngoài ra nhân vật Mị còn khiến người đọc thực sự xúc động về sự hiếu thảo của mình. Mặc dù luôn khao khát
tự do, không chấp nhận cuộc sống tù túng, giam hãm trong nhà thống lý Pá Tra nhưng cuối cùng Mị đã từ bỏ ý định
ăn lá ngón tự tử vì thương cha già không có tiền trả nợ. Hành động vứt nắm lá ngón để quay về với cuộc sống trâu
ngựa trong nhà thống lý Pá Tra đã lám ánh lên vẻ đẹp của lòng hiếu thảo. Mị đã chấp nhận cuộc sống bị đày đoạ,
đau khổ đến tận cùng để đổi lấy bình yên cho cha.
=> Bằng tấm lòng yêu thương, trân trọng Tô Hoài đã dùng mật ngọt của ngôn ngữ để tạo nên chân dung một cô
gái đẹp người, đẹp nết. Những phẩm chất này mở ra cơ hội để Mị có thể được hưởng một cuộc sống hạnh phúc và
trên thực tế cơ hội này cũng đã chớm nở bằng việc Mị đã có người yêu. Một tình yêu đẹp với chàng trai cùng bản.
Nhưng hạnh phúc chưa kịp mở ra thì cánh cửa của nó đã đóng sầm lại đẩy Mị vào cuộc sống tối tăm, đau khổ, tủi
nhục.
* Khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra
- Nguyên nhân:
+ Trực tiếp: => Gia đình Mị nghèo, có món nợ truyền kiếp với nhà thống lý Pá Tra, cha mẹ Mị nghèo, lấy nhau
phải vay tiền của thống lý, mỗi năm phải trả lãi một nương ngô, nhiều đến khi mẹ Mị chết vẫn chưa trả xong nợ.
=> Lợi dụng hủ tục cướp vợ của người Mèo, A Sử đã bắt Mị về làm vợ.
+ Sâu xa: do bản chất dã man, vô nhân đạo của giai cấp thống trị miền núi trước cách mạng tháng Tám 1945.
Chế độ ấy điển hình là cha con thống lý Pá Tra, đã coi rẻ giá trị con người không bằng súc vật, đồ vật, chế độ ấy đã
dùng thủ đoạn cho vay nặng lãi để trùm bóng đen lên số phận của người nông dân từ đời này qua đời khác.
=> con dâu gạt nợ: Mị mang tiếng là con dâu nhà giàu nhưng Mị còn khổ hơn con nợ, nếu con nợ còn có cơ hội
được giải thoát khi trả hết nợ, còn Mị phải trả nợ hết cuộc đời mình đến khi chết thì thôi.
- Lúc đầu khi mới về làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra:
+ Mị phản kháng số phận: đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử => Đây là lần thứ nhất Mị định ăn lá
ngón tự tử. Đó là một hành động tiêu cực nhưng không thể nào khác của một cô Mị yêu đời, ham sống. Khi cô Mị
không được sống cuộc đời tự do, phải sống chịu đựng bất hạnh, không được coi là con người thì cô muốn chấm dứt
sự sống ấy nghĩa là cô vẫn còn có sức phản kháng, vẫn còn muốn khao khát cuộc sống tốt đẹp hơn.
+ Vì thương cha nên Mị đã ném nắm lá ngón đi và tiếp tục sống 1 cuộc đời bị chà đạp cả về thể xác lẫn tinh thần.
- Về sau, Mị đã tê liệt hoàn toàn sức sống, chai sạn, trơ lì, vô cảm và không còn tinh thần phản kháng.
+ Bị chà đạp về thể xác: Mị trên danh nghĩa là con dâu nhưng thực chất là nô lệ không công, Mị trở thành công
cụ lao động cho nhà thống lý. Nhà văn Tô Hoài đã liệt kê công việc Mị phải làm quanh năm: “Tết xong thi lên núi
hái thuốc phiện, giữa năm thì gặt đay, xe dây, đến mùa thì đi nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô lúc
nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi”. Câu văn dài cùng với việc liệt kê hàng loạt các công
việc hàng năm khiến cho người đọc có thể hình dung được về vòng quay triền miên, liên tiếp, nặng nề mà Mị phải
thực hiện. Mị đã trở thành công cụ câm lặng để làm giàu cho nhà thống lý”.
=> Tiếp theo nhà văn còn sử dụng lối so sánh vừa tương đồng vừa giáng cấp để diễn tả nỗi đau thân phận Mị. Mị
tưởng mình là con trâu, con ngựa, thậm chí không bằng con trâu, con ngựa vì trâu ngựa ngày làm còn có lúc, đêm
nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Còn Mị phải vùi đầu vào công việc cả ngày lẫn đêm.
+ Bị chà đạp về tinh thần: nỗi khổ về tinh thần còn đau đớn hơn về thể xác. Mị không chỉ phải làm nô lệ về mặt
thể xác mà cô còn bị nô lệ hoá về mặt tinh thần. Ngay khi bị bắt về làm dâu Mị đã phải trải qua một nghi lễ hết sức
khủng khiếp đó là bị đem cúng trình ma. Đối với những người dân nơi đây, hành động này khiến họ tin rằng mình
đã trở thành ma nhà thống lý không thể thoát ra được.
++ Cô Mị ở nhà thống lý dần trở nên cam chịu, câm lặng, cúi đầu chấp nhận tất cả đau khổ. Điều đó được nhà
văn Tô Hoài thể hiện qua hình ảnh so sánh: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
Con rùa trong quan niệm dân gian, vốn là một loài vật tượng trưng cho sức chịu đựng, nhẫn nại, tầng bị áp bức, đè
nén. Vì vậy ông cha vẫn thường nói: “Thương thay thân phận con rùa / Lên đình cõng hạc xuống chùa đội bia”. Do
đó hình ảnh so sánh cô Mị với con rùa càng tô đậm thêm thân phận nhỏ bé, đáng thương cùng thái độ cam chịu,
chấp nhận cúi đầu sống trong đau khổ của Mị.
++ Cùng với hình ảnh con rùa là hình ảnh của cửa sổ nơi căn buồng Mị nằm “một chiếc cửa sổ một lỗ vuông
bằng bàn tay” lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, nghĩa là không phân biệt được ngày hay đêm, nghĩa là khi
ở trong căn buồng ấy Mị không còn có cảm nhận về thời gian, sự sống, mất hết tri giác về sự sống. Đây chính là nhà
tù ngột ngạt, tăm tối giam hãm tuổi thanh xuân của Mị. Ở trong căn buồng ấy Mị đã mất hết cảm xúc, ý thức. Biểu
hiện cao nhất của sự tê liệt cảm xúc đó là Mị không còn nghĩ đến cái chết như trước đây nữa. Mặc dù cha cô đã
chết, cô không còn điều gì ràng buộc nữa, ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi, sống hay chết không còn có ý nghĩa
gì.
=> Cuộc sống ở nhà thống lý đã làm cho Mị biến đổi sâu sắc: Mị từ một cô gái có lòng ham sống mãnh liệt, trở
thành một người sống mà như đã chết, tẻ nhạt, vô thức như đồ vật trong nhà.
KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12
Phản ánh cuộc sống đau khổ, đoạ đầy tủi nhục của Mị ở nhà thống lý Pá Tra trước hết Tô Hoài đã đem
đến cho tác phẩm của mình giá trị hiện thực sâu sắc. Qua nhân vật Mị, nhà văn đã khát quát số phận đau khổ,
bi thương của người nông dân miền núi trước 1945. Đó cũng là lý do cùng với Mị, Tô Hoài còn xây dựng các
nhân vật khác trong truyện như chị dâu chưa già lưng đã còng xuống và nỗi ám ảnh về câu chuyện đã từng có
người đàn bà bị trói đứng cho đến chết trong nhà thống lý.
Số phận của Mị còn mang ý nghĩa tố cáo, phê phán mạnh mẽ bản chất độc ác, tham lam của giai cấp
thống trị ở miền núi.
Đằng sau câu chuyện, người đọc còn thấy trái tim nhân đạo cao cả của Tô Hoài bởi nhà văn đã trải
mình ra để đồng cảm, xót thương cho số phận nhân vật.
2.2. Sức sống tiềm tàng
Khi viết về quãng đời đau khổ, bi thảm của Mị, người đọc đã có thể nhận thấy giá trị hiện thực, giá trị nhân
đạo của tác phẩm. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đây thì “Vợ chồng A Phủ” chưa có điểm gì khác so với các tác
phẩm trước cách mạng như “Tắt đèn”, “Lão Hạc”, “Chí Phèo”,... Trong tác phẩm, bên cạnh việc khắc hoạ cuộc
sống cực khổ của người nông dân miền núi, Tô Hoài còn có cái nhìn mới mẻ khi đi sâu khai thác sức sống tiềm
tàng, mãnh liệt ở những con người nhỏ bé, đáng thương mà điển hình là Mị, sức sống của Mị đã được nhà văn khai
thác trong hai đoạn đặc sắc là đêm tình mùa xuân và đêm đông cắt dây trói cứu A Phủ.
* Sức sống tiềm tàng:
+ Là sức sống tiềm ẩn bên trong con người không dễ nhận ra, nếu có điều kiện thuận lợi nó sẽ trỗi dậy mạnh mẽ
trở thành hành động và khao khát.
+ Nhà văn Tô Hoài đã nhận ra Mị có sức sống tiềm tàng, mãnh liệt: Bề ngoài Mị lạnh lùng, dửng dưng vô cảm
do bị áp bức quá nặng nề nhưng bên trong con người Mị vẫn tiềm ẩn 1 sức sống mạnh mẽ, sức sống ấy nó giống
như một hòn than âm ỉ dưới lớp tro tàn để đến khi có ngoại cảnh tác động nó bùng cháy dữ dội. Mãnh liệt nhất là
vào đêm mùa xuân nghe tiếng sáo và đêm mùa đông cắt dây trói cứi A Phủ.
a) Đêm mùa xuân trên núi Hồng Ngài:
Tô Hoài là nhà văn bậc thầy trong việc phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật, bởi vậy, để dễn tả sự thay đổi của nhân
vật không gây ra sự đột ngột, bất ngờ, Tô Hoài đã có sự chuẩn bị kĩ lưỡng. Ông đã khéo léo chọn được các chi tiết
đặc sắc để tác động vào tâm lí của nhân vật Mị.
Trong đêm mùa xuân, có ba yếu tố quan trọng tác động đến Mị: Không khí ngày xuân, tiếng sáo, men rượu
=> Mị thay đổi.
*Không khí ngày xuân
- Mùa xuân xuất hiện qua màu sắc rực rỡ, đó là màu của cỏ gianh vàng ửng, của những chiếc váy hoa đem ra
phơi trên mỏm đá xoè như những con bướm sặc sỡ.
- Âm thanh tiếng cưới đùa của trẻ con, âm thanh tiếng sáo trai gái tụ tập đánh pao, đánh quay.
- Thời tiết: gió và rét rất dữ dội.
=> Không gian ngày Tết vùng cao đông vui nhộn nhịp đầy xuân tình là yếu tố ngoại cảnh tác động làm sống dậy
sức sống tiềm tàng mạnh mẹ trong con người Mị. Đặc biệt, Tô Hoài đã dụng công xây dựng hai chi tiết độc đáo là
tiếng sáo và mẹn rượu. Đó là hai chi tiết đắt giá dẫn dắt sự hồi sinh của Mị để giúp cho người đọc thấy một linh hồn
cựa quậy dưới lớp xác đã băng.
*Diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị
Trước khi bị trói
- Biểu hiện đầu tiên của sự hồi sinh sức sống trong lòng Mị là chi tiết: nghe tiếng sáo rủ bạn đi chơi lấp ló ngoài
đầu núi, Mị nghe tiếng sáo vọng lại “thiết tha bổi hổi”, Mị đã ngồi “nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”.
=> Chứng tỏ tâm hồn Mị không còn lạnh giá, tê liệt mà cảm xúc đã bắt đầu thức dậy, cô Mị sau bao ngày câm
lặng đã cất tiếng nói dù đó chỉ là “lời thì thầm mùa xuân” một bản tình ca Tây Bắc của những kẻ yêu nhau: “Mày có
con trai con gái rồi/ Mày đi làm nương/ Tao không có con trai con gái/ Tao đi tìm người yêu”.
- Cùng với tiếng sáo là men rượu, tiếng sáo đã làm cho Mị mạnh mẽ hơn và có một hành động nổi loạn: uống
rượu. Mị “lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát” => cách uống rượu của Mị không phải là để thưởng thức mà
uống như để đã khát, đã thèm, như nuốt cay nuốt đắng vào lòng, uống để quên đi những ngày tháng khổ cực đã qua.
Mị uống như thể muốn mượn cay mượn đắng của rượu để làm với đi cay đắng trong lòng mình.
- Khi say, rượu và tiếng sáo chính là chất men đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây tình trạng sống như đã
chết của Mị đã được cởi bỏ, Mị đã hồi sinh.
+ Men rượu đã đưa Mị từ cõi quên về cõi nhớ, cô đã thoát khỏi thực tại bằng việc nhớ về quá khứ đẹp đẽ. Mị nhớ
lại tài thổi sáo của mình, nhớ lại quãng đời hạnh phúc trước kia => khiến tâm hồn Mị phơi phới niềm vui “ Mị thấy
phơi phới trở lại” “trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước rồi Mị ý thức về tuổi trẻ “Mị trẻ
lắm” “Mị vẫn còn trẻ” => Khi ý thức sống, khát vọng tự do hạnh phúc trỗi dậy mạnh mẽ, ý nghĩ về cái chết lại xuất
hiện “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay” đây là lần thứ hai trong cuộc đời Mị nghĩ đến
cái chết.
KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12
+ Liên hệ mở rộng: Phải chăng cũng giống như Chí Phèo của Nam Cao, khi nhân tính trở lại Chí không còn
muốn sống độc ác, sống kiếp của con quỷ dữ nữa, nhưng cũng không thể quay lại làm người lương thiện do đó Chí
chọn cái chết. Cô Mị cũng vậy, khi sự ham sống, khát khao hạnh phúc, tự do trong con người Mị đã hồi sinh, Mị
không chấp nhận thực tại cay đắng nên đã tìm đến với cái chết nghĩa là Mị đã lại ý thức được nỗi khổ của bản thân,
Mị muốn chấm dứt cuộc sống trâu ngựa, muốn sống cho ra sống.
=> Sức sống trỗi dậy trong tâm hồn cô Mị tựa như những đợt sóng ào ạt, đợt sau mạnh mẽ hơn đợt trước. Từ
những cảm xúc, ý muốn Mị đã đi đến hành động
- Hành động: Tô Hoài đã miêu tả hàng loạt phản ứng của Mị giống như phản ứng dây chuyền, đầu tiên Mị thắp
đèn: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Mị sửa soạn đi chơi: “Mị quấn
lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa vắt ở phía trong vách, Mị rút thêm cái áo”.
=> Bằng những câu văn ngắn, nhịp gấp, Tô Hoài đã cho người đọc thấy sức sống mạnh mẽ đang trỗi dậy, ý
muốn đi chơi và sửa soạn đi chơi là biểu hiện rõ nét nhất cho khát vọng tự do, tình yêu, hạnh phúc của Mị (cô hành
động như một con người tự do đang chuẩn bị, sửa soạn để vượt ngục)
Khi bị A Sử trói:
- Hành động trói: Giữa lúc hoạt động sống trong Mị trào sôi thì cũng là lúc nó bị vùi dập dã man bởi A Sử. Cả A
Sử và Mị đều thản nhiên, A Sử chỉ hỏi đúng một câu “mày muốn đi chơi à”, sau đó A Sử không hỏi thêm nữa, trói
đứng Mị vào cột nhà, sau đó tắt đèn, khép cửa đi ra => A Sử thản nhiên khi hành động bởi đây là một việc bình
thường, quen thuộc diễn ra trong nhà thống lý Pá Tra, thậm chí có một người trói vợ ba ngày..., Mị không chống cự
vì lúc này có thể tâm hồn Mị đang đi theo những tiếng sáo, đang sống với những khao khát tuổi trẻ nên Mị không ý
thức được thực tại.
- Hình ảnh Mị khi bị trói: Mị bị trói đứng vào cột nhà suốt cả đêm, Tóc bị cuốn lên cột làm cho Mị không cúi,
không nghiêng được đầu nữa.
=> Đây là hình ảnh đáng thương của đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài. Mị là một nhân chứng
sống có ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ tội ác của giai cấp thống trị vùng cao. Mị phải chịu nỗi đau đớn về mặt thể xác, nỗi
đau đớn này rất dễ kéo Mị trở lại với thực tại với cảnh ngộ đầy éo le của Mị.
- Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị khi bị trói:
+ Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói.
+ Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi: “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em
yêu người nào, em bắt pao nào...”
+ Mị vùng bước đi.
=> Như vậy hành động của A Sử chỉ trói được thể xác, không cầm tù được tâm hồn Mị. Nó chỉ ngăn cản được
hành động đi chơi của Mị chứ không thể dìm xuống cái sức sống mãnh liệt đang trào dâng lên trong tâm hồn người
phụ nữ Tây bắc này.
Tâm hồn Mị vẫn đi theo những cuộc chơi, đám chơi. Chỉ đến khi Mị vùng bước đi, Mị mới biết mình đang
bị trói. Điều này chứng tỏ, Mị không hề biết mình đang bị trói hoặc có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống
của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác.
=> Khi bị trói sức sống ở Mị không bị lụi tàn. Nhà văn Tô Hoài đã có niềm tin vào khát vọng của tuổi trẻ, sức
sống tiềm tàng mạnh mẽ của tuổi trẻ lao động miền núi, không dây trói nào buộc được, không thế lực tàn ác nào tiêu
diệt được. Chính vì vậy, ông Tô Hoài đã nhận xét: “Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực
của tội ác cũng không giết được sức sống con người, lay lắt, đói khổ, nhục nhã Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng,
mãnh liệt”.
- Tiếp theo, nỗi đau về thể xác khi bị trói cùng với tiếng chân ngựa đạp vào vách trở về với thực tại đầy đau đớn
của mình. Mị ý thức rất rõ về thân phận “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” => đây là một cảm nhận
chua xót, cay đắng về thân phận chẳng khác nào súc vật khi Mị ở nhà thống lý Pá Tra.
- Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng hành động của Mị trong đêm mùa xuân. Đó là
chi tiết: “Mị tỉnh dậy và mới lại chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này và Mị đã sợ chết” “Mị
cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết”.
=> Khi ý thức trở lại với Mị, Mị lại nghĩ đến cái chết, chi tiết này không có gì mâu thuẫn với chi tiết Mị nghĩ
muốn ăn lá ngón tự tử. Bởi: muốn chết, sợ chết với cô Mị đều là biểu hiện của khát vọng sống cho ra sống. Mị
muốn chết vì Mị muốn chấm dứt cuộc sống thân trâu ngựa, còn sợ chết đồng nghĩa với khát vọng sống mãnh liệt.
Tâm trạng độc lập, muốn chết, sợ chết của nhân vật Mị một mặt là để phản ánh tâm trạng phức tạp trong Mị, mặt
khác là để làm nổi bật sự sống mạnh mẽ trong cô Mị trong đêm mùa xuân.
- Sau đêm bị trói đứng, Mị trở lại nhẫn nhục, cam chịu, câm lặng như một kiếp rùa. Mị đi hái thuốc, xoa thuốc
cho chồng, lúc nào thiếp đi lại bị A Sử đạp chân vào mặt.
Tiểu kết:
Bằng sự am hiểu về phong tục tập quán đặc biệt là thế giới nội tâm nhân vật, Tô Hoài đã miêu tả sinh động,
tinh tế diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm mùa xuân để làm nổi bật sức sống tiềm ẩn, hồi sinh
trong Mị. Mị không còn là con ruà lùi lũi nuôi trong xó cửa nữa mà Mị trở thành cánh én phơi phới giữa trời xuân.
KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12
Mị không phải là ngọn đèn leo lét chỉ chờ giây phút chợt tắt mà là một hòn than hồng âm ỉ dưới lớp tro tàn, chỉ cần
một ngọn gió thổi qua là bùng thành ngọn lửa. Mị cũng giống như cây hoa đào khẳng khiu nhưng bên trong âm
thầm dòng chảy nhựa sống, để đến khi xuân về bật lên sức sống mãnh liệt.
Phát hiện và miêu tả sức sống tiềm tàng của Mị, Tô Hoài đã thể hiện lòng yêu thương trĩu mến khi ông nhận
ra bên trong con người bị đoạ đầy vẫn ẩn chứa những phẩm chất tốt đẹp, sức sống mãnh liệt, để sau này họ có thể
thay đổi cuộc đời mình => giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Như vậy, sự quẫy đạp lần này không đủ lớn để thay đổi số phận Mị nhưng nó là tiền để quan trọng để Mị có
những hành động mãnh liệt, táo bạo trong đêm đông cắt dây trói cứu A Phủ.
Nhà văn đã miêu tả cụ thể từng bước diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân. Từ
đó cho thấy sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ trong tâm hồn nhân vật, sức sống ấy gắn với tự do, tình yêu và hạnh phúc,
nó chỉ tạm thời bị cái khổ lấn át chứ không thế lực tàn bạo nào tiêu diệt được.
b. Đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ.
Hoàn cảnh thức tỉnh:
- Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Những đêm ấy Mị thường dậy sớm thổi lửa, hơ tay. Mỗi đêm
Mị thổi lửa hơ tay không biết bao nhiêu lần.
- Mị trông thấy A Phủ bị trói đứng ở cột
Diễn biến tâm trạng và hành động
* Ban đầu khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng Mị vẫn thản nhiên, cảm thấy bình thường
- Lối viết văn của nhà văn Tô Hoài đã tạo được ra những khoảng trống, chỗ trắng để người đọc tự lấp đầy, cụ thể
hoá những điểm chưa xác định. Sở dĩ khi nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay là vì:
+ Khách quan: đây là cảnh thường gặp trong nhà thống lý Pá Tra, Mị cũng đã từng bị trói, thậm chí còn có người
bị trói đến chết.
+ Chủ quan: Mị cũng đã từng bị trói và có thể Mị ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi, không nhận ra nỗi khổ của
người khác, không đủ sức quan tâm đến nỗi khổ của người khác.
=> Mị và A Phủ gặp nhau trong hoàn cảnh khốc liệt và éo le. Mị và A Phủ là những số phận con người đau khổ
cùng chung giai cấp, chung cảnh ngộ, thân phận, cùng một nỗi đau như nhau nhưng vì đã quá quen với hiện thực
trong nhà thống lý Pá Tra, cộng với nỗi khổ của bản thân mình và trạng thái tâm hồn lúc này nên nếu “A Phủ có là
cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi lửa hơ tay, chỉ biết đến ngọn lửa.
* Về sau, khi nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má xạm đen lại của A Phủ, Mị đã thay
đổi.
- Trước hết, dòng nước mắt của A Phủ:
+ Hình ảnh dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xạm đen lại của A Phủ là một hình ảnh rất thực, có
ý nghĩa tố cáo tội ác của giai cấp thống trị vùng cao.
+ Dòng nước mắt lấp lánh bởi có ánh lửa chiếu vào. Từ “bò xuống” miêu tả nước mắt chảy chậm không phải
dòng dòng. Phải chăng A Phủ đã cố kìm nén nước mắt nhưng trước cảnh ngộ hiện tại của bản thân, một người như
A Phủ đã phải nhỏ nước mắt. Hình ảnh này rất phù hợp với tính cách của A Phủ.
+ Nước mắt là biểu tượng của nỗi đau, A Phủ khóc cho cảnh ngộ của mình, đau đớn cho tình cảnh cùng đường
của mình. Đây là tiếng khóc của một con hổ bị sa bẫy, khóc vì ý thức được tình cảnh cùng đường của mình. Dòng
nước mắt của A Phủ đã có tác động rất lớn đến tâm hồn Mị, dẫn đến sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực.
- Tâm trạng và hành động của Mị:
+ Mị thương mình, nhớ lại quá khứ đau đớn, tủi nhục của chính mình, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói
Mị “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được”.
+ Mị thương A Phủ, nhớ đến người đàn bà bị trói đến chết, Mị nhận thấy rõ sự độc ác của cha con thống lý Pá
Tra “nó thật độc ác”.
+ Mị nghĩ đến tương lai gần của A Phủ, Mị lo A Phủ sẽ cầm chắc cái chết “cơ chừng này chỉ đêm mai là người
kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị ý thức rất rõ thân phận, cảnh ngộ éo le của mình: “chỉ còn biết
đợi ngày rũ xương ở đây”.
+ Mị nhận thấy cái chết của A Phủ là bất công, nghịch lý “ta là.....người kia việc gì phải thế”.
+ Ngay cả khi Mị hình dung nếu A Phủ trốn đi được, Mị sẽ bị trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy, Mị
cũng không thấy sợ => Lòng nhân hậu đã giúp cho Mị quên đi bản thân mình để nghĩ đến sự sống của A Phủ, lòng
thương ấy lớn hơn cả nỗi thương thân, đã dẫn đến hành động táo bạo, bất ngờ làm thay đổi cả cuộc đời Mị và A
Phủ.
=> Như vậy, chi tiết giọt nước mắt là một chi tiết đắt giá đã thay đổi tâm hồn cô Mị, khiến cô từ vô cảm đến
đồng cảm, từ đồng cảnh đến đồng cảm. Vợ chồng A Phủ đến nay vẫn còn sức sống mạnh mẽ phải chăng bởi những
chi tiết nhỏ ấy.
- Hành động cắt dây trói cứu A Phủ
+ Nhà văn miêu tả hành động cắt dây trói cứu A Phủ: “Mị rón rén bước lại.....Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút
dây mây”.
KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12
+ Nguyên nhân dẫn tới hành động: Sự đồng cảm giai cấp, tình yêu thương đồng loại, nhận thức tỉnh táo của lòng
căm thù đã dẫn tới hành động táo bạo, dũng cảm, bất ngờ mà hợp lý, logic với tính cách nhân vật. Đây là hành động
được xem như tất yếu, một biểu hiện của sức sống mạnh mẽ.
+ Ý nghĩa: Hành động này đã cởi bỏ xiềng xích cho Vợ chồng A Phủ và cũng là cởi bỏ xiềng xích cho Mị. Cùng
một lúc Mị đã có sức mạnh để chiến thắng ba nhà tù: nhà tù của cường quyền, sức mạnh của thần quyền và lễ giáo
phong kiến. Hành động này của Mị phù hợp với quy luật phát triển của cuộc sống: có áp bức => có đấu tranh, tức
nước thì vỡ bờ.
- Những lời nói và hành động sau khi cắt dâu trói cứu A Phủ:
+ “Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng” đây là nét tâm lý bình thường, dễ
hiểu. Trong hốt hoảng Mị giục A Phủ “đi ngay...” rồi Mị “nghẹn lại”. Có lẽ lúc này cô mới nhận ra thực sự nhận ra
mình đã làm một việc ghê gớm.
+ “Mị đứng lặng trong bóng tối” -> câu văn rất đặc biệt, đứng riêng thành một dòng. Mị đang đứng lặng nhưng
bên trong con người Mị đang chứa đầy bão giông. Mị đang có sự đấu tranh để lựa chọn và rất nhanh chóng, Mị
quyết định chạy theo A Phủ.
+ Tô Hoài đã miêu tả hành động của Mị trong những câu văn ngắn cùng những động từ mạnh mẽ, gấp gáp “Mị
cũng vụt chạy ra....Mị vẫn băng đi.....Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy....” Chính khát khao sống bùng lên đã thôi
thúc bước chân Mị.
+ Lời nói: “A Phủ cho tôi đi” cho thấy không còn những dòng độc thoại nội tâm, lần đầu tiên Mị lên tiếng và đó
là tiếng nói của khát khao sống. Mị đã....thực sự kinh hoàng trước cái chết cận kề “ở đây thì chết mất” => cứu A
Phủ và chạy theo A Phủ là cách tự cứu mình, là hành động phản kháng lại những áp bức, bất công ở đời, là một biểu
hiện cao nhất của sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.
Như vậy, Tô Hoài không chỉ nhìn thấy nét đẹp trong tâm hồn của người lao động Tây bắc mà còn thấy được con
đường tự giác của người dân Tây bắc trước số phận khổ đau. Những người lao động nô lệ chỉ thực sự thoát khỏi
xiềng xích khi họ đứng lên cởi trói cho chính mình.
- Liên hệ: Cùng chạy ra ngoài trời trong đêm tối, nhưng Mị khác hẳn chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Nếu
chị Dậu chạy ra ngoài “trời tối đen như mực, tối như cái tiền đồ của chị” thì Mị chạy ra ngoài trời tối để thoát khỏi
bóng tối đến với ánh sáng. Mị đã thoát khỏi thung lũng đau thương để đến với cánh đồng vui, thoát khỏi đêm đen nô
lệ để đến với ánh sáng tự do. Đây là hướng vận độngkhác nhau của văn học hiện thực cách mạng sau 1945 với văn
học hiện thực trước 1945. Đây cũng là giá trị nhân đạo mới mẻ của tác phẩm.
3. Đánh giá chung
- Nghệ thuật: kiến thức cơ bản.
+Mị là một nhân vật nội tâm nên nhà văn ít chú ý vào lời nói và hành động của nhân vật, mà tập trung miêu tả
diễn biến tâm lí.
+ Tô Hoài đã sử dụng thủ pháp đối lập để tái hiện thế giới nội tâm của nhân vật. Đối lập giữ bên ngoài dửng
dưng vô cảm và bên trong tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Đối lập giữa hai đoạn đời Mị: trước và khi làm dâu gạt
nợ nhà thống lí.
+ Ngoài ra, tác giả còn sử dụng lối đồng hiện giữa quá khứ và hiện tại để soi chiếu nhân vật từ nhiều góc độ. Sử
dụng ngôn ngữ miêu tả tâm lí khi trực tiếp, khi gián tiếp để tái hiện chân thực, sinh động thế giới nội tâm nhân vật.
- Ý nghĩa:
+ Qua nhân vật Mị, Tô Hoài đã phản ánh chân thực cuộc sống khổ cực của người lao động nghèo bị áp bức ở
miền núi trước Cách mạng tháng Tám. Từ đó tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, Đồng thời, phát hiện và khẳng định
sức sống tiềm tàng mãnh lieetjbeen trong con người bị áp bức, để họ vùng dậy phản kháng từ tự phát đến tự giác, để
tìm đến với cuộc sống tự do dưới ánh sáng của Đảng. Đây là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ
của tác phẩm.
+ Tô Hoài đã thổi vào số phận của người phụ nữ Việt Nam trong văn học một luồng sinh khí mới. Số phận của
Mị khác hẳn những người phụ nữ người đọc đã gặp trong văn học quá khứ: Kiều, người chinh phụ, Vũ Nương,
người cung nữ, ...
KB: “Vợ chồng A Phủ” là bài ca về sức sống kì diệu của con người ngay trong hoàn cảnh khốn cùng và bị thảm
nhất. Qua hình tượng nhân vật Mị, tôi càng trân trọng cuộc sống và càng thấm thía hơn câu nói “người ta cần phải
sống ngay cả khi cuộc đời trở nên không thể chịu đựng”.

Đề 2. Phân tích nhân vật A Phủ


Hướng dẫn:
MB: ... Trong đoạn trích “Vợ chồng A Phủ “ của nhà văn Tô Hoài, bên cạnh một cô Mị yêu đời, là linh hồn của
tác phẩm, thì nhà văn còn xây dựng thành công hình tượng nhân vật A Phủ. Đó là một chàng trai có số phận bất
hạnh nhưng khoẻ khoắn, yêu đời và có sức sống vô cùng mãnh liệt.
TB.
1. Khái quát
KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12
- Tác giả, hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, ...
- Vị trí: A Phủ là một trong hai nhân vật chính của tác phẩm, có vai trò quan trọng trong việc thể hiện chủ đề,
góp phần làm hoàn thiện chủ đề của tác phẩm này.
- A Phủ không xuất hiện ngay từ đầu truyện mà xuất hiện ở giữa phần một khi những đêm tình mùa xuân đến. A
Phủ hiện lên trong cảnh ngộ bị bắt, bị trói, ném xuống nhà thống lí Pá Tra như súc vật vì đánh A Sử trong đêm tình
mùa xuân.
- Từ hoàn cảnh ấy, nhà văn quay trở về quá khứ, kể lại cuộc đời nghèo khổ của A Phủ. A Phủ là cũng là nạn nhân
của chế độ phong kiến miền núi giống như Mị và cũng mang những phẩm chất cao đẹp của người miền núi.
a. Tuổi thơ và lai lịch
- A Phủ có một tuổi thơ bơ vơ và đau khổ
- A Phủ là người Háng Bla nhưng dịch đậu mùa đã cướp đi người thân của A Phủ và A Phủ bị người làng bán
cho người Thái dưới cánh đồng. Nhưng A Phủ không chịu đã trốn đi là lưu lạc đến Hồng Ngài.
=> Ngay từ nhỏ A Phủ đã là một mầm sống mãnh liệt, không chịu khuất phục số phận.
b. Trưởng thành: A Phủ trở thành một chàng trai người Mèo có những phẩm chất đẹp của người lao động
- Lao động giỏi, khoẻ mạnh: Ở Hồng Ngài đi làm cho nhà người, từ mùa này sang mùa khác, chẳng bao lâu A
Phủ đã lớn lên và trở thành một chàng trai khỏe mạnh, tài giỏi (biết làm nhiều việc). Biết “đục lưỡi cày, biết đục
cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. A Phủ “khoẻ, chạy nhanh như ngựa” “con gái trong làng nhiều người
mê” nhiều người nói: “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”.
- Tâm hồn: yêu đời, tự tin, vượt lên hoàn cảnh: mùa xuân đến, dù biết mình nghèo, không cha, không mẹ, không
ruộng nương tiền bạc, khó mà lấy được vợ nhưng A Phủ vẫn mang con pao, con yến cùng trai bản đi tìm người yêu.
=> Với lối so sánh mộc mạc, cụ thể, Tô Hoài đã làm nổi bật vẻ đẹp và phẩm chất của A Phủ theo quan điểm
người lao động.
c. Bước ngoặt khổ đau
*Nguyên nhân:
- Đánh A Sử: Do tính tình phóng khoáng, bướng bỉnh và yêu lẽ phải, chính nghĩa nên A Phủ đã dám đánh lại con
nhà quan khi hắn phá đám chơi ngày Tết. “A Phủ đã xông tới, nắm cái vòng cổ đập đầu xuống xé vai áo đánh tới
tấp”.
=> bị bắt, bị trói và ném giữa nhà thống lí.
- A Phủ đã trải qua một cảnh xử kiện vô lí, dã man, đậm màu sắc trung cổ.
+ Nơi xử kện: nhà thống lí, quanh mấy cái bàn đền thuốc phiện.
+ Người xử kiện: chính là cha của nạn nhân, thống lí Pá tra – ng đi kiện.
+ Cách xử kiện: thống lí hút xong một đợt thuốc phiện => gọi A Phủ, bắt A Phủ phải ra quỳ giữa nhà để bọn trai
làng xô đến đánh.
+ Tô Hoài đã diễn tả cảnh xử kiện diễn ra trong suốt một thời gian dài chỉ bằng một câu văn ngắn: “Cứ như thế,
suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”
=> Các vế câu nối tiếp, điệp từ “càng” trở đi trở lại đã gợi ra nỗi đau thể xác A Phủ phải chịu đựng suốt chiều,
suốt đêm, suốt sáng hôm sau.
=> Dưới ách thống trị tàn bạo và khắc nghiệt của lũ chúa đất, cuộc sống của người dân nghèo miền núi thật thảm
thương, họ bị đánh đạp, hành hạ như một con vật.
=> Tuy vậy, A Phủ không hề khóc lóc, van xin mà trái lại vẫn bất khuất, cứng rắn, gan dạ “A Phủ quỳ chịu đòn
chỉ im như tượng đá”
+ Kết quả xử kiện: đầu gối A Phủ sưng bạnh lên, “môi và đuôi mắt dập chảy máu”. A Phủ bị phạt vạ, phải vay
thống lí 100 đồng bạc, trở thành người ở gạt nợ, làm nô lệ cho nhà thống lí Pá Tra. A Phủ bị cũng trình mà và kèm
theo lời nguyền độc ác của thống lí: “Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.
=> Vậy là kể từ đây, cuộc đời tự do của A Phủ chấm dứt. Thống lí Pá Tra không chỉ tuyên một bản án chung
thân cho A Phủ mà còn là một món nợ truyền kiếp. Vậy là, cũng như Mị, A Phủ trở thành một tên nô lệ chung thân
bị khinh rẻ, bị ngược đãi.
* A Phủ ở nhà thống lí
- Bị bóc lột sức lao động: A Phủ phải làm nhiều việc: “Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ,
chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”
- AP có thể bị trói bất cứ lúc nào, tính mạng phụ thuộc vào bàn tay tàn bạo của thống lí: một lần để hổ bắt mất
một con bò AP bị trói đứng vào cột đến chết nếu như không có Mị giải thoát.
=> A Phủ phải chịu đau khổ cả về thể chất lẫn tinh thần. Phản ánh số phận đau khổ của A Phủ, Tô Hoài cũng bộ
lộ niềm cảm thông, xót thương cho những người lao động nghèo ở miền núi Tây Bắc trước Cách mạng tháng Tám.
Đồng thời nhà văn cũng góp thêm tiếng nói phê phán, tố cáo tội ác của bọn chúa đất, chúa Mường.
- Khi bị trói đứng trong đêm đông, A Phủ đã tuyệt vọng khi thấy cái chết đến gần mà không thể thay đổi nên hai
dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen. A Phủ chưa từng rơi nước mắt ngay cả khi bị đánh đau
đớn nhưng lại khóc khi cảm nhận cái chết đang đến gần.
KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12
- Liên hệ: Người đọc đã từng bắt gặp dòng nước mắt của Chí Phèo trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao. Chí
Phèo ôm mặt khóc “rưng rức” khi bị thị Nở cự tuyệt. Qua đau đớn, bế ắc khi sợi dậy nối kết của Chí để trở về thế
giới của người lương thiện đã bị cắt đứt. Hắn đã khóc. Nhưng thật may mắn, nếu giợt nước mắt của Chí Phèo là
dòng nước mắt rơi vào bế tắc thì giọt nước mắt của A Phủ lại tìm được sự đồng điệu, cảm thông. Chính điều này đã
tạo nên sự khác biệt của những sáng tác được viết sau 1945. Khi các nhà văn được cách mạng soi sáng, họ nhìn đời
bằng cái nhìn lạc quan mở ra hướng đi mới, cuộc sống tốt đẹp cho người nông dân.
- Khi được Mị cởi trói: lúc đầu khuỵu xuống vì kiệt sức nhưng trước cái chết có thể đến gần, A Phủ quật lên tìm
cuộc sống tự do.
- Tại khu du kích Phiềng Sa, được cán bộ A Châu giác ngộ, A Phủ đã trở thành tiểu đội trưởng du kích cùng
đồng đội đứng lên bảo vệ quê hương.
=> A Phủ là một chàng trai có sức sống mãnh liệt. Ngợi ca sức sống mãnh liệt của A Phủ, dụng ý của Tô Hoài
muốn khẳng định. Những con người bị áp bức mang trong mình một sức sống như thế, khi được cách mạng khơi
nguồn, từ thân phận nạn nhân họ sẽ vươn lên thành chủ nhân, tự quyết định lấy cuộc đời mình. Vì thế, tuy cùng
phản ánh số phận đau khổ của những người lao động nhưng “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài nói riêng và những
sáng tác của nền văn học Cách mạng nói chung đều có kết thúc lạc quan, tươi sáng không giống như “Chí Phèo” của
Nam Cao hay “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố.
3. Đánh giá chung
Để tạo được nên thành công của tác phẩm như trên, không thể không nói đến những nét đặc sắc về nghệ thuật.
- Nghệ thuật: chung (phần kiến thức cơ bản) +
+ Bên cạnh đó, A Phủ là nhân vật hành động nên nhà văn không chú ý miêu tả nội tâm mà tập trung khắc hoạ
ngoại hình, miêu tả cử chỉ, hành động, sử dụng ngôn ngữ để làm nổi bật một tính cách chất phác, hồn nhiên mang
đậm dấu ấn của người miềm núi.
+ Nhờ có A Phủ, nghệ thuật xây dựng nhân vật trở nên linh hoạt. Mị và A Phủ có thân phận giống nhau nhưng
tính cách rất khác nhau. Mị chủ yếu được khắc hoạ nội tâm nhiều khi qua tiềm thức chập chờn. Nhân vật A Phủ nhà
van lại sử dụng bút pháp ngoại hiện, chủ yếu qua cử chỉ, hành động bên ngoài.
- Ý nghĩa:
+ Nhân vật A Phủ đã góp phần hoàn thiện bức tranh hiện thực về thân phận người lao động dưới chế độ phong
kiến miền núi: Không chỉ những người phụ nữ bé nhỏ, yếu đuối như Mị mà ngay cả những đứa con ngang tàng của
núi rừng tự do như A Phủ đều có thể trở thành nô lệ cho bọn chúa đất, chứa Mường.
+ Có A Phủ, bộ mặt của giai cấp thống trị trở nên sinh động, rõ nét với trăm ngàn kiểu hành hạ, bóc lột con
người.
=> Với những thành công như trên, truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” xứng đáng là một trong những truyện ngắn
xuất sắc của văn học Việt Nam, được tặng giải nhất – giải thưởng hội văn nghệ VN 1954 – 1955.
KB: “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài là một bài ca về sức sống mãnh liệt của con người dù trong bất cứ
hoàn cảnh nào. Qua cuộc đời, số phận, phẩm chất của nhân vật A Phủ tôi càng hiểu sâu sắc hơn về giá trị của cuộc
sống. Con người cần phải biết vượt lên hoàn cảnh, vươn đến những điều tốt đẹp “khó khăn không trường tồn chỉ có
con người cứng rắn mới trường tồn”.
Đề số 3. Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài
A. Giá trị hiện thực và nhân đạo trong một tác phẩm văn học
- Giá trị hiện thực: là một trong hai giá trị cơ bản của một tác phẩm văn học. Đây là chức năng đầu tiên của văn
học, bởi văn học là tấm gương phản ánh đời sống.
+ Giá trị hiện thực của tác phẩm văn học là toàn bộ hiện thực được nhà văn phản ánh trong tác phẩm văn học.
Tuỳ vào ý đồ sáng tạo mà hiện thực đó có thể đồng nhất với thực tại cuộc sống hoặc có sự khúc xạ ở những mức độ
khác nhau.
+ Một tác phẩm có giá trị hiện thực thường có các biểu hiện chính sau:
Phản ánh trung thực đời sống xã hội, lịch sử
Phản ánh số phận của người lao động
Phản ánh bộ mặt của giai cấp thống trị
- Giá trị nhân đạo: là một trong hai giá trị cơ bản của một tác phẩm văn học chân chính. “Nói tới giá trị nhân đạo
là nói tới thái độ của người nghệ sĩ dành cho con người mà hạt nhân cơ bản là lòng yêu thương con người”.
- Biểu hiện:
+ Thể hiện sự cảm thông, thương xót của nhà văn đối với số phận của người lao động nghèo khổ.
+ Lên án, tố cáo những thế lực đã chà đạp lên quyền sống của con người.
+ Phát hiện, ngợi ca, trân trọng những giá trị tốt đẹp của con người.
+ Niềm tin vào khả năng đổi đời của nhân vật, chỉ ra con đường đấu tranh để giải phóng cho những số phận bị áp
bức. (Giá trị nhân đạo mới mẻ, chỉ có ở những tác phẩm được viết sau 1945)
B. Giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”
KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12
MB: “Nhà văn là thư kí trung thành của thời đại” và “Nhà văn là người cho máu”. Đúng vậy, sáng tạo nghệ thuật
là một qua trình đòi hỏi nhà văn phải dốc hết bầu máu nóng trong trái tim để giao cảm với đời. Họ khóc nỗi đau của
thời đại, mỉm cười cùng những hân hoan của thời đại. Và hơn ai hết, họ hiểu thấu những ước mơ tha thiết, khát
vọng cháy bỏng của con người. Với tấm lòng ấy, Tô Hoài đã viết “Vợ chồng A Phủ”. Một tác phẩm có giá trị hiện
thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, độc đáo, mới mẻ.
TB:
1. Khái quát
- Tác giả, hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, ...
- Nêu nhưng hiểu biết về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của một tác phẩm văn học nói chung.
=> “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh chân thực về cuộc sống đau thương, bi thảm của người lao động miền núi, và
là bài ca về sức sống kì diệu của con người trong những hoàn cảnh khốn cùng và bi thảm nhất: “Nhưng điều kì diệu
là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ,
nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt”. (Tô Hoài)
2. Phân tích
a. Giá trị hiện thực
Giá trị hiện thực của tác phẩm chủ yếu thể hiện ở hai đặc điểm: phản ánh bộ mặt của giai cấp thống trị và
phản ánh đời sống của những con người lao động miền núi.
*Tác phẩm phản ánh bộ mặt của giai cấp thống trị miền núi trước Cách mạng.
Dưới ngòi bút của nhà văn Tô Hoài, chế độ thực dân phong kiến trước Cách mạng tháng Tám ở miền núi
còn khắc nghiệt, tàn ác hơn nhiều so với chế độ phong kiến thực dân ở miền xuôi mà người đọc từng thấy trong các
sáng tác của Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, ... Hiện thân của chế độ thực dân phong
kiến miền núi là cha con thống lí Pá Tra. Bọn chúng đã dùng cả cường quyền, thần quyền và hủ tục phong kiến
miền núi để biến những người lao động thành nô lệ không công, lao động khổ sai như trâu ngựa để làm giàu cho
chúng.
- Mở đầu tác phẩm nhà văn miêu tả: nhà thống lí “giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện
nhất làng”. Qua số phận của Mị và A Phủ, Tô Hoài đã lí giải nguồn gốc của sự giàu có đó.
+ Chế độ cho vay nặng lãi, đẩy người nông dân thành con nợ truyền kiếp.
++ Nạn nhân đầu tiên phải kể đến là cha mẹ Mị. Thời trẻ, cha mẹ Mị lấy nhau, vì không có tiền cưới phải vay
nhà thống lí Pá Tra. Mỗi năm phải trả lãi một nương ngô, thế nhưng đến khi cha mẹ Mị già, mẹ Mị chết vẫn chưa
trả xong nợ. Và đến lượt Mị phải trả nợ thay.
++ Nạn nhân tiếp theo là A Phủ, vì đánh A Sử con trai thống lí để bảo vệ cuộc chơi của trai bản. A Phủ đã bị bắt,
bị trói, bị đánh, bị pạt vạ 100 đồng bạc trắng. A Phủ không có tiền nên mất tự do, trở thành người ở gạt nợ truyền
kiếp cho nhà thống lí.
++ Liên hệ mở rộng: Đúng là dồng tiền trong bất kì xã hội nào cũng đều có sức mạnh to lớn trong việc chi phối
các mối quan hệ của con người. Trong xã hội có bất công, sức mạnh của nó càng ghê gớm hơn. Ngay từ thế kỉ XVI,
nhà nho Nguyễ Bỉnh Khiêm đã phải than thở: “Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử/ Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi”.
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du cũng nói đến sức mạnh khủng khiếp của đồng tiền: “Trong tay đã sẵn đồng tiền/
Dẫu rằng đổi trắng thay đen khó gì?”.
=> Ở miền núi Tây Bắc trong những năm trước Cách mạng tháng Tám, người dân lao động nghèo cũng phải chịu
biết bao cay đắng vì thế lực đồng tiền.
+ Bóc lột sức lao động
++ Mị là con dâu gạt nợ nhưng thực chất là một công cụ lao động biết nói, bị bóc lột sức lạo động đến tận cùng:
“Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì gặt đạy, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái
củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong tay để tước thành sợi”. Vì thế Mị tưởng mình là con trâu, con
ngựa. Thậm chí, không bằng con trâu, con ngựa vì trâu, ngựa ngày làm, đêm nó còn được đứng gãi chân, nhai cỏ
còn “đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm lẫn ngày”. Do đó, chị dâu của Mị tuy chưa già nhưng lưng
đã còng rạp xuống vì phải đeo thồ quá nặng.
++ A Phủ khi trở thành người ở gạt nợ, phải làm mọi việc. “Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ,
chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”.
+ Nhà thống lí còn được Tây cho muối về bán. Câu kết với thực dân để đè nén, bóc lột những người dân lao động
nghèo.
- Giai cấp thống trị còn dùng hủ tục cúng trình ma để trói buộc người lao động
+ Nhà thống lí Pá Tra khi bắt Mị về làm dâu gạt nợ đã cũng trình ma. Vì vậy, Mị sợ con ma nhà thống lí Pá tra,
Mị đành cam chịu “chờ đến ngày rũ xương ở đây thôi”.
+ Còn A Phủ, khi bị phạt vạ phải vay tiền thống lí. A Phủ cũng bị cugs tringf ma để con ma nhà thống lí “nhận
mặt” không thể thoát ra được.
=> Để củng cố chính sách cai trị, bọn chúa đất chúa Mường dùng tư tưởng mê tín dị đoan, tạo thành một thế lực
vô hình trói buộc và hù doạ người dân lao động miền núi, làm cho họ sợ hãi, cam chịu trong vòng kìm kẹp.
KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12
=> Phản ánh sự giàu có, chính sách cai trị bằng cả cường quyền, thần quyền của thống lí Tô Hoài đã phơi bày tội
ác của chúng. Chúng đã biến những con người tự do thành người ở không công, đày đoạ họ cả về thể chất lẫn tinh
thần. Nhất là còn lợi dụng hủ tục cúng trình ma để bắt những con người bị áp bức phải sống cam chịu, không có ý
định giải thoát cho số phận của mình.
* Phản ánh đời sống của người lao động nghèo
- Giá trị hiện thực của tác phẩm còn được qua cuộc sống bi kịch của người lao động nghèo miền núi Tây Bắc,
điển hình là hai nhân vật Mị và A Phủ.
+ Số phận cực nhục, khổ đau của Mị (đề 1)...: Từ một cô gái tự do, yêu đời trở thành một người trai lì, không cồn
cảm giác về sự sống.
+ Sự xuất hiện của nhân vật A Phủ cũng bị bắt làm người ở trừ nợ đã hoàn chỉnh thêm bức tranh hiện thực và giá
trị tố cáo của tác phẩm.
=> Mị và A Phủ là hiện thân của kiếp người nô lệ dưới chế dộ phong kiến. Qua hai nhân vật, tác giả đã gián tiếp
khắc hoạ đời sống của người dân lao động miền núi trước Cách mạng .
- Bên cạnh đó, ngòi bút hiện thực của nhà văn Tô Hoài còn cung cấp cho độc giả những trang miêu tả về cảnh
trói người, đánh người tàn nhẫn hơn cả thời trung cổ.
+ A Sử, chồng Mị không coi Mị là người. Mị muốn đi chơi Tết – trói lại. Khi bóp thuốc cho A Sử, mệt qua thiếp
đi, A Sử lền “đạp chân vào mặt Mị” một cách tàn nhẫn, phũ phàng, ... Trong nhà thống lí, còn có một cô con dâu bị
trói đến chết.
+ A Phủ: phải trải qua một cảnh xử kiện đậm mãu sắc trung cổ ... Vì để mất một con bò mà bị trói đứng đến chết
nếu không có Mị cứu.
=> Chưa thấy ở đâu, mạng sống và phẩm giá của con người bị coi rẻ như thế.
- Quá trình đấu tranh của người lao động: Tô Hoài cũng nhìn ra một hiện thực về con đường đấu tranh của người
lao động miền núi. Họ có khả năng cải tạo hoàn cảnh, tự giải phóng. Mị và A Phủ đã cùng giải thoát cho nhau, cùng
tới Phiền Sa trở thành những con người tự do, làm chủ cược đời và cầm súng bảo vệ quê hương.
(Lưu ý, tuỳ cách hỏi của đề mà có cách làm phù hợp, để bài viết không quá dài, loãng, kể lể dài dòng, chỉ chọn
những chi tiêt đặc sắc nhất để phân tích làm rõ cho các luận điểm)
b. Giá trị nhân đạo
* Sự xót thương, đồng cảm với nỗi khổ đau của con người
Có một nhà văn đã viết: “Con hãy lắng nghe nỗi buồn của cành cây héo khô, của chim muông què quặt, của
hành tinh lạnh ngắt. Nhưng trước hết con hãy lắng nghe nỗi buồn của con người”. Tô Hoài thực sự đã “lắng nghe”,
nhìn ra và cảm thông sâu sắc với nỗi thống khổ của con người để viết lên những trang văn cảm động về họ.
- Hiện thân tiêu biểu nhất cho nỗi thống khổ của những người nông dân miền núi trước Cách mạng chính là cuộc
đời, số phận, cảnh ngộ bi thảm của Mị.
+ Vì món nợ của cha mẹ, Mị trở thành dâu gạt nợ nhà giàu. Mị phải chịu cuộc sống đoạ đày cả về thể xác lẫn
tinh thần khi ở nhà thống lí Pá Tra (đề 1).
=> Dưới ngòi bút của Tô Hoài, cuộc đời Mị là chuỗi dài nối tiếp những đau khổ, bất hạnh cả về thể xác lẫn tinh
thần.
+ Liên hệ mở rộng: Số phận và cảnh ngộ khốn cùng của Mị khiến cho người đọc nhớ đến thân phận người con
gái Thái trong “Tiễn dặn người yêu”:
Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa
Bằng thân con chẫu chuộc thôi!”
Nhớ đến nàng Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguễn Du, người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim
Lân. Họ đều là những người phụ nữ phải chịu bao bất công ngang trái do xã hội. Tưởng rằng, chỉ những người phụ
nữ yếu đuối mới phải chịu bất công, áp bức, nhưng không.
- Nỗi thống khổ của người dân lao động miền núi còn được nhân lên qua hình tượng A Phủ. Vì đánh con quan,
A Phủ bị trói, bị phạt vạ, phải trải qua một cuộc xử kiện đậm màu sắc trung cổ (phân tích kĩ chi tiết này đề 2) và trở
thành người ở trừ nợ. Vì mải mê bẫy nhím, để hổ bắt mất một con bò ... phân tích kĩ chi tiết dòng nước mắt.
- Cùng với Mị và A Phủ, trong tác phẩm nhà văn còn đồng cảm với bao kiếp người khác: chị dâu chưa già ...của
Mị, người đàn bà bị chồng trói đến chết.
=> Chính niềm cảm thương dành cho những con người bị áp bức đã khiến Tô Hoài sử dụng một giọng kể chậm,
buồn. Chắc chắn ông đã rất đau đớn, xót xa cho những tủi nhục, đau khổ mà nhân vật phải trải qua.
* Lên án, tố cáo tội ác của giai cấp thống trị miền núi trước Cách mạng
- Đây là giá trị hiện thực của tác phẩm
- Nhưng cũng là một biểu hiện của tinh thần nhân đạo. Bởi duy cho cùng, “vì chưng hay ghét cũng là hay
thương”, tố cáo hiện thực cũng bắt nguồn từ tấm long nhân đạo, yêu thương con người của nhà văn.
(Đã viết ở phần giá trị hiện thực)
*Trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp và khát vọng chính đáng của con người
KHÓA VĂN THẦY LỘC TÀI LIỆU NGỮ VĂN 12
Với thái độ trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp của con người, Tô Hoài đã khoác lên những nhân vật ông yêu
quý trong truyện một vầng hào quang lấp lánh những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động miền núi.
- Trước hết, Mị là một cô gái đẹp cả về hình thức và tâm hồn... xem đề 1
+ Xinh đẹp
+ Tài năng
+ Hiếu thảo
+ Chăm chỉ lao động
...
+ Điều đáng quý nhất ở Mị là sức sống tiềm tàng mãnh liệt dù phải chịu muôn vàn khổ ải trong nhà thống lí.
- Còn A Phủ, dù mồ côi, bị bán như một món hàng, dần dần đi ở cho nhà người A Phủ vẫn lớn lên với những
phẩm chất đáng quý của người lao động. .. đề 2.
=> Qua nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã cho thấy ngay trong những hoàn cảnh khốn cùng và bi thảm
nhất. Những người dân lao động bị áp bức như Mị Và A Phủ vẫn luôn khát khao tự do, hạnh phúc. Chính tình yêu,
trái tim dành cho mảnh đất Tây Bắc của Tổ quốc đã khiến Tô Hoài tạo nên những trang văn thấm đượm tinh thần
nhân đạo.
* Niềm tin vào khả năng đổi đời của nhân vật, chỉ ra con đường đấu tranh để giải phóng cho những số phận bị áp
bức. (Giá trị nhân đạo mới mẻ, chỉ có ở những tác phẩm được viết sau 1945)
- “Vợ chồng A Phủ” viết về đề tài cuộc sống nghèo khổ, tủi nhục của những con người bị áp bức trong xã hội cũ,
một đề tài không mới trong văn học. Trước đó, Ngô Tất Tố đã có “Tắt đèn”, Nam Cao đã có “Chí Phèo”. Thế
nhưng, cả hai tác phẩm này đều có kết thúc bi quan. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về với con đường lương
thiện. Còn chị Dâu chạy ra khỏi nhà cụ Cố, trời tối đen như mực giống như cái tiền đồ của chị. Họ đều bị xã hội dồn
đến chân tường, không có lối thoát, cuộc sống không có tương lai.
- Kết thúc tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” lại đầy lạc quan tươi sáng. Mị và A Phủ cùng chạy trốn khỏi nhà thống lí
Pá Tra, đến khu du kích Phiếng Sa, dưới ánh sáng của cách mạng, cuộc đời họ đã thay đổi. Từ thân phận là nạn
nhân, họ trở thành chủ nhân của cuộc sống, cùng đồng đội cầm súng để bảo vệ quê hương. Đây là kết thúc thường
thấy của những tác phẩm văn học được viết sau năm 1945 bởi các nhà văn đã nhận ra vai trò to lớn của nhân dân
trong cuộc Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến chống Pháp. Vì vậy, họ tin vào khả năng đổi đời, vào tương
lai tươi sáng của những con người bị áp bức.
3. Nhận xét, đánh giá
- Tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu săc, mới mẻ, độc đáo. Giá trị đó được truyền tải thông qua những thủ pháp
nghệ thuật: kiến thức cơ bản.
- Ý nghĩa:
+ Với việc đề cao con người, tin vào con người có khả năng cải tạo hiện thực và thay đổi số phận của mình bằng
con đường đấu tranh cách mạng, Tô Hoài đã tạo nên điểm khác biệt cho văn học giai đoạn văn học 1945 – 1975.
Nếu văn học giai đoạn 1930 – 1945 coi con người là nạn nhân của hoàn cảnh, nhà văn khao khát thay đổi số phận
con người nhưng bất lực. Thì đến văn học giai đoạn này, nhà văn vừa là chiến sĩ nên họ có cái nhìn lạc quan, niềm
tin vào tương lai.
+ Cảm hứng nhân đạo là nguồn mạch xuyên suốt tiến trình văn học Việt Nam. “Vợ chồng A Phủ” đã góp phần
tạo nên sự phong phú, đa dạng cho nền văn học Việt Nam trên cả bình diện nội dung và tư tưởng.
KB: “Vợ chồng A Phủ” là bài ca về sức sống kì diệu của con người ngay trong hoàn cảnh khốn cùng và bị thảm
nhất. Tình yêu mà Tô Hoài dành cho con người sẽ còn lan toả mãi trong nền văn học Việt Nam. Phải chăng vì thế,
mà bụi thời gian có thể phủ lên những đền đài đồ sộ, nhưng lại không thể phá huỷ được những tác phẩm nghệ thuật.
Bởi nghệ thuật là đời sống, là cái đẹp!

You might also like