Professional Documents
Culture Documents
Tô Hoài
“Sông Tô một thoáng mây mờ
Phủ Hoài lặng tiếng vẫn chờ đợi ai
“Truyện Tây Bắc” mãi nguôi ngoai
“Vợ chồng A Phủ” nhớ ai bên trời”
Tiến trình bài học
Năm 1938, ông chịu ảnh hưởng của Mặt trận Bình dân và tham gia hoạt động trong tổ chức Hội ái
hữu thợ dệt và Thanh niên dân chủ Hà Nội. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội văn hóa cứu quốc và bắt
đầu viết bài cho báo Cứu quốc và Cờ giải phóng. Ông bước vào nghề bằng một số bài thơ có tinh chất
lãng mạn và một số truyện vừa, viết theo dạng võ hiệp, nhưng rồi ông nhanh chóng chuyển sang văn
xuôi hiện thực và được chú ý ngay từ những sáng tác đầu tay, trong đó có Dế mèn phiêu lưu kí.
Sau cách mạng tháng Tám, Tô Hoài làm chủ nhiệm báo “Cứu quốc”, ông là một trong số nhà văn đầu
tiên Nam tiến và tham dự một số mặt trận ở phía Nam (Nha Trang, Tây Nguyên,...). Năm 1946, Tô
Hoài được kết nạp vào Đảng.
Môi trường hoạt động của nhà văn
Trước CM, Tô Hoài hoạt động chủ yếu ở Nghĩa Đô, Cầu Giấy nơi ông sinh ra. Sau CM, môi trường hoạt
động văn học của Tô Hoài mở rộng và phong phú hơn, nhà văn có điều kiện tiếp xúc với nhiều miền quê
khác nhau, nhưng có một mảnh đất đã “để thương để nhớ” cho ông chính là Tây Bắc. Ở đây, ông đã gặt
được một lúc cả hai mùa: Mùa tình dân và mùa văn học. Có mùa tình dân thì mới có mùa văn học, như
ông đã chân tình ghi lại: “Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành
người, thành việc trong tâm trí tôi đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ trong tôi nhiều quá,
tôi không thể bao giờ quên”.
Balzac cho rằng: Trước khi viết một quyển sách, nhà văn phải phân tích hết mọi tính cách, thâm nhập
vào mọi tính tình, chạy vòng khắp trái đất, cảm hiểu hết được mọi say mê. Gorky thì khẳng định: Nhà
văn bắt buộc phải hiểu biết, phải biết tất cả các dòng cuộc sống và tất cả những nhánh của dòng, tất cả
những mâu thuẫn của hiện thực.
=> Vì tầm quan trọng của vốn sống mà nhà văn phải là người lịch lãm, từng trải, người tham gia tích cực
vào cuộc sống.Tất cả những điều trình bày ở trên hội tụ đầy đủ ở nhà văn Tô Hoài, tạo cho nhà văn một
vốn sống thật sự phong phú, đa dạng, sâu sắc và đầy đủ chính điều này đã góp phần tạo nên giá trị cho
những sáng tác của Tô Hoài. Nói riêng về tập truyện Tây Bắc (1953) ra đời là do nhà văn đã có những
năm tháng trải nghiệm, sống gắn bó nghĩa tình với đồng bào các dân tộc thiểu số nơi đây.
Đóng góp của tác giả Tô Hoài
Đóng góp nổi bật về nội dung:
- Đề tài: Chủ yếu viết về 2 vùng quê là Hà Nội và Tây Bắc. Hai vùng không gian trở thành nguồn cảm
hứng không bao giờ vơi cạn trong nhà văn
- Cảm hứng chủ đạo: Cảm hứng nhân văn đời thường:
+ Sự quan tâm đến số phận những con người bé nhỏ, bất hạnh, nghèo khó.
+ Thiên hướng khai thác phương diện đời thường: Những chuyện thường của những con người thường,
thậm chí khi viết về những người có địa vị xã hội, những người anh hùng, Tô Hoài cũng tiếp cận bằng
những góc độ đời thường, ít lý tường hóa những con người này: “Xưa nay tôi chỉ quen với cái gì vụn vặt”
(Tô Hoài)/ “Tô Hoài là nhà văn của người thường, đời thường, chuyện thường” (Nguyễn Đăng Mạnh)
Đóng góp về nghệ thuật:
- Một cây bút có biệt tài miêu tả loài vật: Những con vật rất tầm thường xung quanh ta, qua ngòi bút Tô
Hoài hiện lên sống động, đầy sức hấp dẫn vì nó mang bộ dạng riêng, có tập quán riêng của mỗi loài.
- Nghệ thuật kể chuyện sinh động với cách kể chuyện khéo léo, cách trần thuật từ nhiều điểm nhìn khác
nhau, kho từ vựng giàu có, đậm chất thơ, hồn nhiên.
- Người nghệ sĩ có khả năng miêu tả tâm lí nhân vật chân thực thông qua những chi tiết hình ảnh đầy ý
nghĩa và những độc thoại nội tâm.
QUAN NIỆM VĂN CHƯƠNG CỦA TÔ HOÀI:
• “Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo, phải là hạt ngọc mới nhất của mình
tìm được, do phong cách văn chương của mình mà có. Trang sách mà không có ngọc, trang bản
thảo mà không có chữ thần, không có tinh hoa, thì cái hồn tác phẩm, từ tư tưởng đến nhân vật, tất
cả bao nhiêu ước vọng và khát khao mà ta gửi gắm vào sáng tác biết lấy gì cho sống được.”
• “Muốn viết được, nhất thiết phải biết quan sát để ấn sâu thêm trí nhớ, giúp sức cho trí tưởng
tượng. Cái cách, cái lối quan sát ấy không có gì đặc biệt và bí ẩn. Đó chỉ là thói quen mài giũa cái
nhìn, cái nghe, cái nghĩ, đó là việc bắt sức óc chăm chú tìm tòi ra sự chuyển động của mọi vật”
• “Tôi thường dè chừng một thói quen dễ mắc: sáng tạo trên cở sở tiếng nói của quần chúng nhưng
tuyệt nhiên không phải là bắt chước, là nhại quần chúng. Học tinh hoa tiếng nói, đưa tinh hoa
tiếng nói quần chúng thành phong cách văn mình”
• “Đối trước cuộc sống muôn màu muôn vẻ quanh ta, nếu biết làm việc thu lượm chăm chỉ liên tục,
biết năng nhặt chặt bị. Người viết văn cũng như ông lang, như nhà bào chế, càng có sẵn đầu vị
thuốc tốt trong ô, càng dễ pha chế được như ý”
02
NHÂN VẬT VĂN HỌC
Nhân vật văn học
Khái niệm: nhân vật văn học là hình tượng cụ thể được khắc
họa trong tác phẩm văn học bằng các phương tiện, phương thức
nghệ thuật.
Đọc một tác phẩm văn học cái động lại sâu sắc trong tâm hồn
người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của
những con người được nhà văn thể hiện. Chính Tô Hoài đã từng
phát biểu: “Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hét thảy, giải
quyết hết thảy mọi sáng tác”.
- Tư thế: ngồi quay sợi gai bên cạnh tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa
- Tâm thế: lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.
=> Thủ pháp đồng nhất: Mị hiện diện trong nhà thống lí giống như một mảng sống im lìm, câm lặng
dù là một người còn rất trẻ. Diện mạo hé lộ một thế giới nội tâm có gì đó cam chịu và u uất. Hình ảnh
của Mị ở đầu tác phẩm như là sự báo trước số phận nô lệ, kiếp nô lệ của những con người trên vùng
cao xa tít dưới chế độ thực dân phong kiến.
Cuộc sống của Mị
1. Trước khi về nhà thống lí Pá Tra
- Mị là cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tài giỏi, chăm chỉ, hiếu thảo, yêu đời, nhiều người yêu quý.
- Bị bắt về làm dâu: Vì món nợ truyền kiếp do cha mẹ để lại khiến Mị trở thành con dâu gạt nợ cho
nhà thống lí Pá Tra
- Cha con thống lí lợi dụng hủ tục bắt Mị về làm dâu và cúng trình ma cho nên Mị luôn nghĩ mình là
con ma nhà thống lí và vì thương cha, vì món nợ cho nên Mị chấp nhận cuộc sống đó
2. Sau khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra
*Cuộc sống khổ cực của Mị: đày đọa cả thể xác và tinh thần:
+ Ban đầu: Đêm nào cũng khóc
=> giọt nước mắt khởi đầu cho một quãng đời đau khổ. Mị thấm thía nỗi bất hạnh của đời mình. Món
nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ đã khiến Mị bị cha con thống lí bắt về làm dâu gạt nợ. Nếu như làm nô
lệ có ngày được thoát ra ngoài, thì việc Mị làm con dâu nhà thống lí là một sự khẳng định cuộc đời
của một cô gái nghèo đang tươi trẻ phơi phới đang đi vào những ngày tháng nô lệ, tối tăm và bi thảm.
+ Về sau: Trốn- lá ngón- lạy cha
=> Sự đau khổ đến mức độ không thể sống được, cũng như không thể chấp nhận được. Dấu hiệu toan
tự tử cùng lá ngón là phản ứng tiêu cực của một con người yêu sống, quyết định chọn cái chết khi rơi
vào cuộc sống vô nghĩa.
Cuộc sống của Mị
+ “Con rùa trong xó cửa”: không gian tối, nhỏ, thuộc về miền quên lãng
Tô Hoài đã tái sinh một hình ảnh quen thuộc trong ca dao về người lao động:
“ Thương thay thân phận con rùa
Lên đình cõng hạc, xuống chùa đội bia”
=> Cách nói vật hóa của Tô Hoài đã cho thấy được tình trạng sống mất ý thức, sự tồn tại như chiếc bóng
vô hồn của cô gái nghèo yêu đời và ham sống tha thiết nay đã mất, thay vào đó, là số phận đau khổ của
những con người chịu cảnh nô lệ, áp bức. (Liên hệ Chí Phèo)
+ Căn buồng – kín mít – ô vuông nhỏ bằng bàn tay
=> Dường như đây không phải là không gian sống của con người, đó là thứ ngục thất trần gian, là nấm
mồ chôn chặt tuổi xuân của người thiếu nữ. Nó biến Mị thành một con người mất đi ý niệm về thời gian,
không còn ý thức được mình đã đi đến chặng nào của cuộc đời.
=> Đoạn văn trần thuật với nhịp điệu chậm rãi, giọng văn lắng sâu, bởi chính tiếng nói bên trong của
nhân vật cùng hệ thống chi tiết được chắt lọc giàu ý nghĩa đã khắc họa nhân vật trong trạng thái sống vô
thức, vô cảm, vô nghĩa. Cuộc sống bị đày đọa thể xác, bị áp bức tinh thần khiến Mị tê liệt ý thức về bản
thể, tê liệt khả năng phản kháng cuộc sống phi nhân tính. -> chấp nhận cuộc sống đau khổ, tuyệt vọng và
cam chịu.
=> Tấm lòng cảm thông xót thương tha thiết của Tô Hoài với số phận đau thương, bi thảm của nhân vật.
Đêm ìh
mùa â
- Hồng Ngài vào mùa xuân:
*Khung cảnh:
• Thiên nhiên: Cỏ gianh vàng ửng/ Gió rét dữ dội/ Tiếng chó sủa
• Cuộc sống con người: Chiếc váy hoa/ Tiếng cười ầm của lũ trẻ đánh pao
=> Hồng Ngài vào mùa xuân được tái hiện bằng một thứ ngôn ngữ đậm chất thơ, qua đó làm hiện lên bức
tranh thiên nhiên cuộc sống rộn ràng, sự sống đang dần được tái sinh. Cách chọn chi tiết của Tô Hoài biểu
hiện cảm quan triết học: tràn ngập màu sắc và âm thanh là cách biểu hiện sự sống dâng trào. Đằng sau
bức tranh tả ngoại cảnh, mục đích chính là để hướng tới nội tâm con người.
"Chẳng có nơi nào trên thế gian này là nơi trú ngụ bình an thực sự, đó là bản chất tự nhiên của thế
gian. Hãy nương tựa vào chính mình để tìm một chỗ trú ngụ an toàn. Đừng tìm cầu nơi nào khác bên
ngoài" ( Chỉ là một cội cây thôi)
Chỉ có thể dựa vào động lực bên trong, dựa vào chính mình để tiếp tục sống. Phải chăng chính vì
thế mà hình ảnh nhân vật Mị trong trang văn " Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài ngày hôm nay vẫn còn
sức quyến rũ lạ thường đối với mỗi độc giả chúng ta? Trong lay lắt khổ đau, Mị vẫn sống âm thầm tiềm
tàng mãnh liệt. Những khát vọng của một bản thể ham sống, thiết tha với cuộc đời được thể hiện rõ nét
qua đêm mùa xuân ở Hồng Ngài....
Đêm đông
cứu A Phủ
- Lúc đầu nhìn thấy A Phủ bị trói đứng vào cột, Mị không mảy may mủi lòng, không cảm xúc
“Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”.
=> Thản nhiên: thờ ơ dửng dưng, vô cảm với người cùng cảnh ngộ với mình. Khi Mị vô cảm với
chính mình cũng là lúc mà Mị chẳng còn thiết tha đến mọi thứ xung quanh. Mị vô cảm luôn với cả
đồng loại của mình.
- Lé mắt trông sang: Mị thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại.
Người đàn ông đầy sức mạnh đang đi đến tận cùng của sự tuyệt vọng và tiều tụy. Điều đó đã tác động
tạo nên những biến chuyển tinh vi trong Mị:
+ Khơi dậy trong kí ức đầy đau khổ của Mị cảnh bị trói ở đêm tình mùa xuân năm trước.
+ Mị cảm nhận thấm thía hơn sự tuyệt vọng của Mị ở đêm tình mùa xuân -> Ý thức về bản thân
hồi sinh trông người mà nghĩ đến mình: “Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm
trước…lau đi được ”. Và thương mình rồi đến thương người: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến
chết,… Mị phảng phất nghĩ vậy”
+ Mị nhận thức những sâu sắc những bất công độc ác, tàn bạo của thống lí.
+ Nhà văn đã để nhân vật ném vào bóng tối một loạt câu hỏi và điệp khúc của độc thoại nội tâm.
Chất vấn đầy bất bình, phẫn nộ trước những bất công xung quanh.
• Rút dao cắt dây trói cứu A Phủ: Cắt dây trói cứu A Phủ nhưng cũng là cắt đi cái dây trói cuộc
đời mình. Đối mặt với hiểm nguy Mị cũng hốt hoảng “Mị đứng lặng trong bóng tối”: hành động
ấy của Mị hình như là cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội bên trong giữa: sống hay là chết; tự do hay
nô lệ; đi hay ở ?
• Chạy trốn theo A Phủ: “A Phủ cho tôi đi, ở đây thì chết mất” => Lựa chọn của tiếng gọi yêu
sống trong trái tim, được sống trong tự do và không phải chết trong nô lệ. Tác giả đã cho ta thấy
vẻ đẹp tinh thần tiềm ẩn và sức sống tiềm tàng mãnh liệt, khát vọng cháy bỏng về một sự sống tự
do, đó là một ngọn lửa chưa bao giờ vụt tắt chỉ chờ gặp ngọn gió lành mà bùng lên.
=> Chiều sâu giá trị nhân đạo cảm động mới mẻ: Tô Hoài đã có những khám phá đầy trân
trọng về những vẻ đẹp mang dấu ấn thời đại của người lao động Tây Bắc. Trong hoàn cảnh nghiệt
ngã đến đâu cũng không bao giờ hủy diệt được khát vọng của con người. Chừng nào còn trái tim
của con người là chừng đó còn bảo toàn được khát vọng cao đẹp
Liên hệ: Chị Dậu của Ngô Tất Tố và Mị của Tô Hoài đều chạy ra ngoài đêm tối với cùng một mục
đích là để thoát khỏi kiếp sống khốn cùng, nhục nhã. Nhưng nếu chị Dậu một mình chạy ra ngoài
trời khuya và không biết sẽ đi về đâu, tương lai mịt mờ như bóng đêm, thoát khỏi chốn tăm tối này
rồi nhưng rất có thể chị lại rơi vào một chốn đau khổ khác. Thì Mị, dù cũng không biết mình sẽ đi
đâu, nhưng cùng với A Phủ, Mị biết rằng phải rời khỏi chốn này trước hết, thoát khỏi chốn này là
thoát khỏi địa ngục trần gian, ra khỏi chốn này là sẽ tìm được cho mình đường sống.
Tổng kết - Ghi nhớ
1. Nội dung:
- Tác phẩm cho thấy cuộc sốị đè nén và áp bức nặng nề của người dân miền núi Tây Bắc
dưới ách thống trị hà khắc của bọn địa chủ và phong kiến kết cấu với thực dân Pháp. Tiêu
biểu cho thân phận những con người khốn khổ bị vùi dập ấy chính là Mị và A Phủ
- Thể hiện tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với người dân lao động miền núi trước
CM
- Tố cáo lên án phơi bày bản chất xa tàn bạo của thế lực PK miền núi chà đạp lên quyền
sống của con người.
- Ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn sức sống mãnh liệt tiềm tàng của con người
2. Nghệ thuật:
- NT xây dựng nhân vật, miêu tả nhân vật có tâm lí sinh động, có cá tính đậm nét
- Lối kể chuyện tự nhiên sinh động
- Miêu tả phong tục tập quán đặc sắc, ngôn ngữ màu sắc dân tộc miền núi.