You are on page 1of 12

VỢ CHỒNG A PHỦ

PHẦN MỘT: KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

I. TÌM HIỂU CHUNG


1. Tác giả: Nhà văn Tô Hoài (Hơn cả một nhà văn)
- Tiểu sử: Tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh ra và lớn lên tại Hà Nội.
- Vị trí và đóng góp:
+ Ông là một nhà văn lớn, xuất sắc, thuộc thế hệ vàng của văn học Việt Nam hiện đại với bút lực khoẻ
và dồi dào.
+ Ông đi nhiều, viết nhiều, miệt mài sáng tác với đủ các thể loại - một trong những nhà văn có nhiều
đầu sách nhất từ xưa tới nay.
+ Được mệnh danh là nhà văn của Hà Nội và miền núi, nhà văn của mọi lứa tuổi.
- Phong cách:
+ Có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng miền, nhà thơ Trần
Đăng Khoa đã ví “Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống” ® ông cống hiến cho văn chương
một bức tranh đẹp và đa sắc màu.
+ Lối trần thuật (kể chuyện): sinh động, thông minh, hóm hỉnh, tinh tế, thiên về phản ánh những sự
thật của đời sống trong những trang viết bình dị, tinh tế và đầy chất thơ.
® Một cây đại thụ văn chương, một đời cần cù đi và viết.

2. Tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác:
+ Vợ chồng A Phủ (1952) là một trong ba tác phẩm in trong tập Truyện Tây Bắc.
+ Tác phẩm là kết quả chuyến đi cùng bộ đội lên giải phóng Tây Bắc (1952) và ông đã có 8 tháng
sống gắn bó tình nghĩa với đồng bào các dân tộc Thái, Mường, Mông.
+ Tác phẩm có hai phần: phần đầu viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài; phần sau viết về
cuộc sống nên vợ nên chồng, tham gia cách mạng của Mị và A Phủ ở Phiềng Sa.
- Đề tài: miền núi, mang hơi thở và bản sắc vùng cao.
- Chủ đề: VCAP giống như một cuốn phim ghi lại một cách chân thực, xúc động về cuộc sống cơ cực, tủi
nhục của đồng bào các dân tộc thiểu số dưới ách thống trị của bọn thực dân và chúa đất, đồng thời phản ánh
quá trình giác ngộ cách mạng và tự vùng lên giải phóng cuộc đời của những người lao động nghèo miền núi.
- Cấu trúc:
B. CHI TIẾT TÁC PHẨM
1. NHÂN VẬT MỊ - NGƯỜI CON GÁI CÓ SỨC SỐNG TIỀM TÀNG, MÃNH LIỆT
1.1. Những ấn tượng ban đầu về nhân vật (qua đoạn mở đầu tác phẩm)
- Cách Tô Hoài kể chuyện: bắt đầu từ hiện tại, sau đó trở ngược lại quá khứ, rồi lại trở lại thực tại ® tạo nên
những mảng sáng tối trong cuộc đời nhân vật.
- Thủ pháp vật hoá: Mị sống âm thầm, lẻ loi, sống bất biến, sống lẫn vào những vật vô tri vô giác bởi chính
cô cũng là người đang chết ngay khi còn sống: không cảm nhận, không buồn vui ® hé lộ thân phận của nhân
vật.
- Thủ pháp tương phản đối lập: sống trong nhà TLPT - giàu có nhất vùng > < vùi đầu vào công việc, sống
âm thầm, mặt buồn rười rượi ® mâu thuẫn nảy sinh để hé lộ cuộc hôn nhân đầy sóng gió với A Sử.
- Ban đầu người ta cứ tưởng là con gái nhà thống lí quyền thế giàu sang nhất vùng nhưng hỏi ra mới biết đó
là con dâu gạt nợ ® những câu văn dẫn dụ để thế giới nhân vật bắt đầu được khơi màn.
® Hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với cái gia đình mà Mị ở, báo hiệu một cuộc đời không bằng
phẳng, một số phận nhiều ẩn ức và một bi kịch ở cõi nhân thế nơi miền núi cao Tây Bắc.
Tiểu kết: Tô Hoài đã giới thiệu nhân vật Mị theo kết cấu đồng tâm, đi từ điểm nhấn trong cuộc đời mà ra
chứ không đi theo trình tự thời gian để những ẩn ức và khổ đau trong cuộc đời Mị đã được hé lộ ngay từ đầu
và giá trị tố cáo cũng xuất hiện ngay từ đầu trang văn. Từ đó, tác giả bắt đầu làm một cuộc hành trình xuyên
suốt cuộc đời nhân vật để làm sáng tỏ dụng ý nghệ thuật của mình. Người đọc ngược dòng thời gian tìm hiểu
cuộc đời của Mị theo để thấy những mảng tối, sáng và những bước thăng trầm trong cuộc đời nhân vật.
1.2. Mị là người con gái tài năng, xinh đẹp, giàu nhân phẩm nhưng lại có cuộc sống đầy bất hạnh
a. Trước khi về làm dâu nhà thống lí: Mị là cô gái tài năng, xinh đẹp, giàu nhân phẩm
- Tài năng, xinh đẹp: “thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”.
- Giàu sức sống, tự do, yêu đời: Mị sống trong những tháng ngày tươi đẹp của tuổi thanh xuân, tràn trề cơ
hội được hưởng thụ tình yêu và hạnh phúc, Mị cũng đã có người yêu, một tình yêu đẹp với ngón tay đeo
nhẫn và tín hiệu gõ vách hẹn hò.
- Mị giàu nhân phẩm: khi biết cha con thống lí Pá Tra có ý đinh bắt cô về làm dâu gạt nợ, Mị đã rất gay gắt
phản đối:
+ Cầu xin bố: “con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng
bán con cho nhà giàu” ® Mị là người yêu lao động, yêu tự do; có ý thức lựa chọn hạnh phúc cho đời mình.
+ Nhưng dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến, Mị vẫn ngang nhiên bị bắt về làm dâu gạt nợ: “đau
đớn đến tận cùng, Mị chỉ muốn chết”.
+ Mị không đành lòng chết, vì nếu “Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa. Mị đành quay
trở lại nhà thống lí” ® cam chịu và chấp nhận, luôn đặt chữ hiếu lên đầu.
® Mị là một hình tượng đẹp về người thiếu nữ Tây Bắc, có những phẩm chất đáng trân trọng và xứng đáng
được hưởng hạnh phúc.
b. Khi về làm dâu nhà thống lí: Mị chịu một cuộc sống đầy bất hạnh, khổ đau
* Mị sống trong thân phận của một nàng dâu gạt nợ
- Bề ngoài Mị là vợ của A Sử, là con dâu của thống lí Pá Tra, nhưng bên trong, Mị chỉ là một thứ gán nợ để
bù đắp cho khoản tiền mà bố mẹ Mị đã vay của nhà thống lí.
- Nếu chỉ là con nợ, Mị có thể hi vọng một ngày nào đó sẽ được giải thoát, nhưng Mị lại là con dâu bị cướp
về, đã cúng trình ma ở nhà thống lí, linh hồn của Mị bị con ma nhà ấy cai quản, đến hết đời Mị cũng sẽ không
bao giờ được giải thoát. Đây chính là bi kịch trong cuộc đời của Mị.
* Mị bị chà đạp về thể xác và tinh thần
- Chân dung Mị hiện lên một cách đầy thương xót: lúc nào cũng “cúi mặt, cái mặt buồn rười rượi”; rồi câm
lặng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” và buông xuôi “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”…
- Cuộc sống thống khổ, sống như một công cụ lao động: làm việc cả ngày đêm “Tết xong lên núi hái thuốc
phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp…”, không bằng trâu, ngựa “con trâu con ngựa làm
còn có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ”…
- Mị với A Sử “không có lòng mà vẫn phải sống với nhau”, A Sử chưa bao giờ coi Mị là vợ, nó đánh đập
Mị hết sức dã man.
- Mị là nạn nhân của chế độ vay nặng lãi, bị cường quyền và thần quyền tước quyền tự do và hạnh phúc cá
nhân: mặc dù không đồng ý nhưng cô vẫn ngang nhiên bị bắt (cường quyền) về “cúng trình ma” nhà thống
lý (thần quyền) và bị con ma theo ám suốt đời.
- Hình ảnh căn buồng Mị nằm kín mít – chốn địa ngục trần gian: chỉ có một “lỗ vuông bằng bàn tay lúc nào
trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” ® giam cầm tuổi thanh xuân và tự do,
làm cạn khô nhựa sống, làm lụi tàn ngọn lửa sống trong Mị, khiến Mị mất hết tri giác về cuộc sống.
Mị trước khi về Mị trong những ngày đầu Mị sau khi về làm dâu
làm dâu về làm dâu một thời gian sau
- Tài sắc vẹn toàn, được bao Đêm nào Mị cũng khóc, nghẹn ngào, Mị cam chịu, chấp nhận số phận để
nhiêu chàng trai say đắm; uất ức, khổ sở, khổ tâm: rồi trở nên tha hoá:
- Yêu tự do, khát khao tự - Bị chồng đánh đập, hành hạ: bị trói - Ngoại hình: lúc nào cũng cúi
chủ, hăng say lao động; đứng khi Mị muốn đi chơi, bị đạp vào mặt, mặt buồn rười rượi, lầm lũi
- Nhân ái, vị tha, giàu lòng mặt khi Mị bôi thuốc cho chồng, thậm như một con người không còn linh
hi sinh, yêu thương cha mẹ. chí không làm gì Mị cũng bị đánh; hồn;
- Bị giam cầm bởi con ma vô hình - Ý thức: mất đi những mơ ước,
khiến Mị không bao giờ dám thoát rakhông còn khát khao, tê liệt về thời
được; gian, chỉ nhớ những công việc mà
- Chịu cuộc hôn nhân không tình yêu;
Mị phải làm như một cỗ máy;
- Từng nghĩ đến cái chết - điều cùng
- Tâm hồn: sống trong cái khổ, mị
cực nhất mà Mị cũng không làm được quen rồi, Mị bị chai sạn và vô cảm
vì thương cha ® Mị có ý thức phản với tất cả mọi người, kể cả cuộc đời
kháng mạnh mẽ. mình.
® Mị như bông hoa ban ® Dưới sự bóc lột, chà đạp của cường quyền, thần quyền đã khiến Mị
ngát hương giữa núi rừng không còn chút sức sống, trở nên tê liệt, lãnh cảm, chai sạn cả ý thức và
Tây Bắc, xứng đáng được tâm hồn; không khát vọng, buông xuôi phó mặc cho hoàn cảnh và số
hưởng cuộc sống hạnh phận.
phúc, an yên.
Tiểu kết:
- Tô Hoài đã phản ánh chân thực đời sống của người dân lao động miền núi Tây Bắc, họ bị chà đạp một cách
tàn nhẫn.
- Nhà văn tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn chúa đất phong kiến: dưới ách thống trị của cường quyền và thần
quyền đã huỷ diệt ý thức sống của con người (giá trị hiện thực của tác phẩm).
1.3. Mị là người ẩn chứa một sức sống tiềm tàng (trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài)
a. Những tác nhân đánh thức tâm hồn đã chết của Mị
- Cảnh sắc, không khí mùa xuân: Không khí xuân rộn rã trên khắp bản Mèo, “những chiếc váy hoa đã đem
ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ”; những cơn “gió rét thổi vào cỏ gianh vàng ửng”, “tiếng
trẻ con nô đùa”, trai gái tụ tập ném pao, thổi sáo, thổi khèn và nhảy, đặc biệt là đêm tình mùa xuân - đêm
của tình yêu đã đến.
- Chất men của rượu: Yếu tố ngoại cảnh đã tác động đến Mị, “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát”,
Mị uống như nuốt cay nuốt đắng, nuốt mọi ấm ức vào lòng, “một khi rượu đã không còn đủ sức làm người
ta quên thì nó lại đánh thức cả con tim lẫn lí trí”, nó làm mờ đi thực tại, dẫn Mị về với những kí ức xưa cũ.
- Tiếng sáo thổi: cứ lặp đi lặp lại như một ám ảnh. Tiếng sao từ xa, ngoài đầu núi vọng lại như một tín hiệu
của mùa xuân, rồi nó xuất hiện trong âm thanh văng vẳng khi Mị uống rượu như một dư vang trong lòng Mị
khiến Mị “tha thiết bồi hồi”, tiếng sáo là tiếng ca của hạnh phúc, là biểu tượng của tình yêu lứa đôi, là sự
hiện thân của một phần tươi trẻ và những kí ức tươi đẹp, Mị như được thăng hoa và ngập tràn trong cảm xúc
để nhớ về ngày xưa.
® Tất cả đã vọng vào miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị và đánh thức cái sức sống vẫn tiềm tàng trong người
thiếu nữ Tây Bắc.
b. Sự trỗi dậy mãnh liệt của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc tự do
Trong ý thức Trong hành động
- Mị nhận ra mình còn trẻ. Từ trong cái chết chai lì, vô cảm, - “Mị nhẩm theo lời bài hát của người đang
Mị bỗng thấy “phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui thổi. Mị thấy thiết tha bồi hồi”, dù chỉ là
sướng như những đêm tết ngày trước”. Rồi cô nhận ra “Mị nhẩm thầm nhưng đó cũng là một sự đổi
còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi” ® sự ý thức được về bản thân, thay.
ngoại hình, nhan sắc và nhu cầu đòi hỏi về mặt tinh thần. - Mị lén lấy hũ rượu, “uống ừng ực từng
- Mị ý thức được số phận của mình - đó là hôn nhân trừ nợ, bát” như để quên đi cái phần đời cay đắng
Mị so sánh mình với bao người phụ nữ khác: “bao nhiêu vừa qua để sống lại cái phần đời tươi trẻ đã
người có chồng muốn đi chơi ngày tết” ® Mị ý thức về thực có.
tại và sự bất công của cuộc đời mình, cũng là sự đòi hỏi về - “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một
mặt quyền lợi. miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng” ®
- Mị thấy rõ cái vô nghĩa lí của cuộc sống thực tại: “A Sử với Mị khát khao thắp sáng cuộc đời mình, chờ
Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.” mong một cái gì hi vọng, tươi sáng hơn.
- Ý thức phản kháng trong Mị trỗi dậy mạnh mẽ: “nếu có - Mị sửa soạn đi chơi, “Mị quấn lại tóc, Mị
nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ với tay lấy chiếc váy hoa vắt ở phía trong
không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra” vách” ® Mị đã bước đi theo tiếng gọi của
® Mị muốn chết, (sự xung đột gay gắt giữa khát vọng sống tiếng sáo, của lòng mình (nhu cầu của bản
và thực tại) tức là Mị ý thức được những nỗi thống khổ của thân muốn vượt qua những ràng buộc: làm
bản thân, khát khao được giải thoát, được tự do. đẹp và đi chơi).
c. Sức sống tiềm tàng được đẩy lên cao trào (qua sự xuất hiện của A Sử - nó trói đứng, không cho
Mị đi chơi)
- A Sử - đại diện cho cường quyền, thần quyền đã lầm lì trói đứng Mị vào cột nhà ® hành động tàn bạo ấy
đã chặn đứng khát vọng vừa mới nhen nhóm trong lòng người phụ nữ tội nghiệp:
+ Sợi dây trói là sự hiện thân hung tợn của một lối hành xử dã man thời trung cổ, hiện thân của sự vùi
dập quyền sống chính đáng của con người.
+ Hành động A Sử tắt đèn, “khép cửa buồng lại” một cách lạnh lùng tàn nhẫn như dập tắt luôn sự
sống vừa mới bùng lên trong Mị, phong kín cánh cửa tâm hồn mà Mị vừa mới hé mở.
+ Câu văn trần thuật chậm rãi, bình thản như chính sự thản nhiên, vô cảm của A Sử, đó chính là hiện
thực tàn bạo mà người dân miền núi Tây Bắc đã phải gánh chịu.
- Thế nhưng A Sử không thể trói được tâm hồn Mị, Mị vẫn tự do sống với khát vọng của lòng mình:
+ Dù bị trói bằng cả thúng sợi đay nhưng Mị “như không biết mình đang bị trói” ® khát vọng tự do
đã khiến Mị như tạm thời quên đi nỗi đau thể xác ấy.
+ “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi: Anh ném pao… Em bắt
pao nào” ® sự quyến rũ của tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân đã khiến cho tâm hồn Mị được sống lại
trong ảo giác hạnh phúc. Chứng tỏ, nhà thống lí Pá Tra chỉ có thể trói Mị về thể xác mà không thể trói nổi
khát vọng tự do, khát vọng hạnh phúc và sức sống tiềm tàng của Mị.
+ “Mị vùng bước đi”, đó là cả một sức sống tiềm tàng trỗi dậy, một nội lực lớn lao được gói gọn trong
bốn chữ, một hành động nhỏ biểu hiện của sự phản kháng, dù lúc này chưa đủ sức phá tan nhưng cũng là
một tín hiệu đáng mừng.
® Tiếng sáo là một chi tiết đặc sắc được coi là hay nhất, độc đáo của tác phẩm. Đúng như Tô Hoài
nhận định: “Tiếng sáo kia quá tha thiết, quá mạnh mẽ, nó dìu hồn Mị bay lên trên hoàn cảnh, nó là biểu
tượng của niềm khao khát sống, khát khao yêu, ở đây còn là lòng khao khát tự do nữa”.
- Men rượu tan, tiếng sáo cũng mất, dây trói thít lại đau nhức kéo Mị trở lại với thực tại, trở về với ô cửa lỗ
vuông bằng bàn tay, vẫn tảng đá cạnh tàu ngựa, vẫn những công việc đầu năm, giữa năm, cuối mùa. Mị thổn
thức nghĩ mình không bằng con ngựa, Mị cựa quậy xem mình còn sống không, và rồi ngọn lửa bùng lên
trong lòng Mị đêm mùa xuân nguội dần, nhưng những hòn than ấm nóng vẫn còn, nó chỉ chìm sâu trong lớp
tàn tro, chờ đợi đêm đông bùng cháy, đó là “một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai” (Lỗ
Tấn).
- Nhận xét: Sự trỗi dậy của tâm hồn Mị trong đêm tình mùa xuân chưa thể thay đổi cuộc đời và số phận
nhưng đó chính là những biểu hiện tích cực thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của Mị.
Tiểu kết: Nhà văn đã thể hiện niềm tin mãnh liệt vào khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người
lao động ở mảnh đất Tây Bắc. Dù thế lực bạo tàn có chà đạp thì sức sống của con người không bao giờ mất
đi, chúng giống như ngọn lửa âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn chỉ cần một xúc tác nhỏ là thổi bùng lên mãnh liệt.
1.4. Mị là người có sức phản kháng mạnh mẽ (qua hành động cắt dây cởi trói cứu A Phủ trong đêm)
Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục vùi mình vào công việc với thân phận làm dâu gạt nợ. Cuộc
sống ấy tiếp tục che lấp, chôn vùi sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Trước khi đi đến hành động táo bạo cắt
dây cởi trói cứu A Phủ, lòng mị đã trải qua những trạng thái giằng xé, phức tạp.
a. Ban đầu Mị thản nhiên, dửng dưng và vô cảm
Cuộc đời Mị đã chịu quá nhiều khổ cực, đắng cay, cho nên tất cả mọi thứ xung quanh, Mị
đều mảy may, lãnh cảm, không quan tâm bất kì điều gì:
- Mị vô cảm với chính mình: lúc ra sưởi lửa, Mị bị “A Sử đánh ngã xuống cửa bếp, hôm
sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước” mà không đau đớn cũng không sợ hãi.
- Mị vô cảm với đồng loại, thản nhiên đến lạnh lùng, vô tâm đến tàn nhẫn: “Nếu A Phủ là
cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”.
b. Sau đó: b1. Sự đồng cảm b1 + b2 + b3 + b4 =
Hành động Khi thấy dòng nước mắt của A Phủ - “một dòng nước mắt lấp lánh Hành động cắt dây
cắt dây cởi bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”: cởi trói cứu A Phủ
trói cứu A - Đó là dòng nước mắt của kẻ đang hấp hối, của thân phận nô lệ - Để đi đến hành động
Phủ đang bất lực trước bờ vực của sự sống, cái chết đang ở rất gần với cứu A Phủ, Mị đã phải
A Phủ, là thứ duy nhất để biết A Phủ còn sống. trải qua một quá trình
- Dòng nước mắt ấy đã chạm đến trái tim Mị, đánh thức và làm hồi diễn biến tâm lí đầy
sinh lòng thương cảm với người cùng cảnh ngộ, “trông người lại phức tạp.
ngẫm đến mình”, Mị đã cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng chính - Cởi trói cứu A Phủ
nỗi đau của mình. đồng nghĩa với việc
b2. Sự căm thù - cuộc lội ngược dòng của ý thức Mị cũng đã tự cởi trói
- Từ thương mình, thương A Phủ, Mị trỗi dậy lòng căm thù cha sợi dây vô hình để tự
con nhà thống lí: “trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết”, giải thoát cho chính
“chúng nó thật độc ác”. mình.
- Mị còn tưởng tượng ra cảnh A Phủ trốn thoát, còn cô sẽ bị trói ® Hành động tự
đứng vào cột nhà để thế mạng, “nghĩ đến đấy Mị vẫn không thấy phát táo bạo, liều
sợ”, có lẽ lòng thương người và sự căm thù đã chiến thắng nỗi sợ lĩnh, thể hiện sự
hãi trong con người cô. phản kháng quyết
b3. Sự vô ví: Mị hiểu A Phủ chết là điều vô lí liệt, là kết quả tất yếu
Mị nhận ra giá trị của con người, giá trị được sống nhưng lại bị bắt của sức sống tiềm
chết, mạng người quý thế, lại chỉ đánh đổi ngang giá với một con tàng.
bò.
b4. Sự cấp bách về mặt thời gian
Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, người kia sẽ phải chết: “cơ chừng
này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét,
phải chết”.
c. Cuối - Từ sức mạnh tiềm tàng, giờ đây nó bung toả thành sức mạnh vùng lên giải phóng, từ sức
cùng: Chạy mạnh nội tâm, chỉ diễn ra trong suy nghĩ, giờ đây nó đã trở thành hành động: “A Phủ cho
theo A Phủ tôi đi, ở đây thì chết mất”.
- Bước đi ấy đã phá tan chế độ cường quyền - cha con nhà thống lí Pá Tra, đạp đổ chế độ
thần quyền - con ma vô hình cai quản, kiểm soát cuộc đời Mị, từ đây, Mị được tự do để tự
quyết định cuộc đời mình.
Tiểu kết & nhận xét:
- Sức sống mãnh liệt của Mị tiêu biểu cho sức sống và khát vọng tự do của người lao động nghèo miền núi
Tây Bắc. Qua nhân vật Mị, ta thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn:
+ Đồng cảm với số phận bất hạnh của con người, nhất là người phụ nữ;
+ Căm phẫn lên án tố cáo sự tàn bạo của giai cấp thống trị phong kiến miền núi;
+ Ca ngợi những vẻ đẹp của người dân lao động: sức sống tiềm tàng, dù thế lực thống trị có tàn bạo
đến đâu cũng không thể giết chết sức sống tiềm tàng của con người lao động.
- Cách kết thúc của tác phẩm thể hiện giá trị nhân văn mới mẻ: cách mạng sẽ thay đổi cuộc đời của những
kiếp lầm than.

2. NHÂN VẬT A PHỦ - CHÀNG TRAI CỦA NÚI RỪNG, SỰ HIỆN THÂN CỦA LÒNG HAM SỐNG
VÀ KHÁT VỌNG SỐNG.
2.1. Giới thiệu nhân vật
- A Phủ xuất hiện ở phần giữa của tác phẩm với hành động ném con quay rất to vào mặt A Sử.
- Hành động này cho thấy tính cách mạnh mẽ của A Phủ, đồng thời báo hiệu một sự xung đột gay gắt giữa
giai cấp thống trị và bị trị.
2.2. Số phận đau khổ, bất hạnh của A Phủ
a. A Phủ phải chịu một số phận thiệt thòi
* A Phủ có một tuổi thơ bất hạnh
- Là một đứa trẻ mồ côi khi mới mười tuổi: bố mẹ, anh em của A Phủ đều chết trong một trận dịch đậu mùa,
A Phủ phải trải qua nỗi đau mất người thân, trở thành kẻ không nương tựa.
- Bị người làng bắt bán xuống cánh đồng thấp cho người Thái, trở thành một món hàng hoá nhưng A Phủ đã
trốn lên cánh đồng cao và lưu lạc ở Hồng Ngài.
* Nỗi bất hạnh vì nghèo đói
- Một mình không nơi nương tựa, A Phủ sớm phải tự lập.
- Mặc dù khoẻ mạnh, con gái trong làng nhiều người mê nhưng A Phủ vẫn không lấy được vợ vì không có
cha mẹ, “không có bạc, không có ruộng nương”. Tình cảnh của A Phủ tiêu biểu cho tình cảnh của những
con người dưới đáy xã hội thời bấy giờ.
b. A Phủ phải sống trong thân phận của một nô lệ
- A Phủ bị bắt do đánh A Sử - con trai nhà quan thống lí Pá Tra. Trong mắt của bọn quan thống lí, A Phủ
không khác gì thân phận của một con vật bị chà đạp.
- Cảnh xử kiện, phạt vạ: mỗi lần bọn tay chân nhà thống lí hút thuốc phiện xong A Phủ lại phải quỳ giữa nhà
cho bọn chúng đánh, cứ thế, “mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu”; đồng thời phải nộp tiền
phạt là một trăm bạc trắng, A Phủ không có tiền nên phải vay nhà thống lí rồi đi ở để trừ nợ.
- Sau khi trở thành đầy tớ trả nợ, A Phủ bị bóc lột sức lao động, phải làm những công việc vất vả, nặng nhọc
như đốt rừng, săn bò tót, bẫy hổ, quanh năm chỉ có một mình ở ngoài bìa rừng. A Phủ phải đem sức lực và
tính mạng của mình để làm giàu cho nhà quan.
- Một lần, A Phủ để mất một con bò và phải bị trói đứng vào cột chịu đói chịu rét. Nếu không có Mị cứu
sống thì A Phủ chắc chắn phải chết.
Nhận xét: Tô Hoài đã phản ánh chân thực số phận của A Phủ - một con người chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh.
Số phận của A Phủ tiêu biểu cho số phận của những người lao động miền núi Tây Bắc.
2.3. Vẻ đẹp tâm hồn của A Phủ
a. Là con người khoẻ mạnh, tháo vát trong lao động
- Trải qua một cuộc sống bất hạnh, A Phủ sớm có nghị lực vững vàng, đức tính tự lập đã hun đúc cho A Phủ
những phẩm chất của người lao động: khoẻ mạnh, lao động giỏi, biết đúc lưỡi cày, đục cuốc, săn bò tót rất
giỏi.
- A Phủ chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê, “đứa nào có được A Phủ cũng bằng được
con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”.
- Khi làm người ở cho nhà thống lí, việc gì A Phủ cũng làm phăng phăng.
b. Là con người gan góc, dũng cảm
- Ngay từ nhỏ, khi bị bắt đem bán cho người Thái, A Phủ đã chạy trốn lên cánh đồng cao.
- Càng trưởng thành, phẩm chất của A Phủ càng được bộc lộ thể hiện rõ nhất qua cảnh đánh nhau với A Sử:
“A Phủ ném con quay rất to vào mặt A Sử, A Phủ sộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống xé vai áo
đánh tới tấp. Dù biết A Sử là con nhà quan, nhưng A Phủ vẫn trừng trị A Sử vì đã quấy rối cuộc chơi của
đám bạn. Hành động đó thể hiện tinh thần phản kháng, tính cách dũng cảm, gan góc, không sợ cường quyền
của A Phủ.
c. Là con người có sức sống và khát vọng sống mãnh liệt
- Mặc dù phải trải qua nhiều mất mát nhưng A Phủ vẫn luôn lạc quan, yêu đời: nhà nghèo ngày tết không có
quần áo mới nhưng A Phủ vẫn mang khèn, mang quay đi tìm người yêu.
- Là người ở trừ nợ nhưng A Phủ vẫn luôn ham sống, rất phóng khoáng và hồn nhiên: vẫn bẫy nhím khi đi
chăn bò.
- A Phủ đã đứng bên bờ vực của cái chết “cơ chừng chỉ đêm mai là chết, chết đau, chết rét, phải chết”. A
Phủ đã khóc “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hia hõm má đã xám đen lại”.
- Sức sống của A Phủ thể hiện rõ nhất trong đêm Mị giải thoát cho A Phủ: lúc đầu, “A Phủ ngã khuỵu xuống,
không bước nổi. Nhưng cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy”.
- Ngọn lửa khát khao sống, khát khao tự do đã bùng cháy trong cả A Phủ và Mị, hai con người họ đã nương
tựa vào nhau để chạy trốn khỏi Hồng Ngài, có cuộc sống mới đầy tươi đẹp ở mảnh đất Phiềng Sa.
3. NHÂN VẬT CHA CON THỐNG LÝ PÁ TRA, A SỬ - SỰ HIỆN THÂN CỦA CÁI ÁC, TAY SAI
CỦA BỌN THỰC DÂN PHONG KIẾN MIỀN NÚI
3.1. Lai lịch
- Từ đời bố Pá Tra đã làm thống lý, đến Pá Tra bây giờ cũng làm thống lý – người cai quản một vùng bản
làng miền núi của người dân tộc Mèo.
- Uy quyền nhất đất Hồng Ngài: “Nhà ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có
nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”.
3.2. Những tội ác
* Cho vay nặng lãi
Tội ác này được truyền từ đời bố thống lý Pá Tra đến đời thống lý Pá Tra:
- Đó là món nợ từ đời bố mẹ Mị vay để lấy nhau “mỗi năm đem nộp lãi một nương ngô, đến khi người vợ
chết vẫn chưa trả hết nợ”.
- Thống lý Pá Tra bắt phạt vạ A Phủ bằng cách cho vay một trăm lạng bạc.
* Thu nợ một cách dã man
- Bắt người để gạt nợ: bắt Mị về làm dâu gạt nợ, “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xoá hết nợ
cho”.
- Bắt người đi ở để trừ nợ: bắt A Phủ để trừ nợ, “Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì
tao bắt mày vay để mày ở nợ làm con trâu con ngựa cho nhà tao”.
* Dùng những hủ tục để cai trị
- Cường quyền, dùng quyền lực của thống lý bắt người một cách vô lý: mặc cho Mị không đồng ý về làm
dâu nhưng vẫn ngang nhiên bắt cô về cúng trình mà; A Phủ dù đánh A Sử vì chính nghĩa, vẫn ngang nhiên
bị bắt về xử phạt.
- Thần quyền, dùng hủ tục cúng trình ma: gọi con ma về nhận mặt con dâu gạt nợ; nhận mặt người nô lệ trừ
nợ.
* Bóc lột sức lao động một cách triệt để, tàn ác, vô nhân tính
- Đàn bà thì luôn tay luôn chân, thân phận không bằng khiếp con trâu, con ngựa. Đàn ông thì phải ngày đêm
làm những công việc nguy hiểm.
- Trói người, đánh người bất cứ đâu, bất cứ khi nào: Mị bị trói đứng bằng dây đay; A Phủ bị trói bằng dây
mây; người đàn bà đời trước cũng bị trói đứng đến chết.
Kết luận: Với nhân vật cha con thống lý: thống lý Pá Tra và A Sử, nhà văn Tô Hoài đã vạch trần bộ
mặt tàn ác của giai cấp thống trị miền núi lúc bấy giờ, góp phần làm nên thành công của giá trị hiện
thực thông qua đoạn trích.

4. GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO


4.1. Niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với những số phận bất hạnh, bị tước đoạt quyền sống,
quyền tự do, bị đày đoạ, lăng nhục
- Mị, cô gái trẻ đẹp, yêu đời yêu cuộc sống nhưng lại bị bắt về làm dâu gạt nợ:
+ Dưới áp bức của cường quyền, thần quyền cùng những hủ tục phong kiến đã khiến Mị ngày càng
“lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
+ Mị làm nô lệ cho nhà thống lí, phải làm quần quật cả ngày lẫn đêm “mình cũng là con trâu, con
ngựa”.
+ Mị bị chôn vùi, tước đoạt tuổi xuân và hạnh phúc cá nhân “căn buồng Mị nằm, chỉ có một ô cửa,
lỗ vuông bằng bàn tay”.
- A Phủ, chàng trai của núi rừng, yêu tự do, yêu lao động:
+ Vì tội đánh con quan cũng trở thành kẻ trừ nợ suốt đời cho nhà thống lí.
+ Khi để hồ vồ mất một con bò, A Phủ cũng bị trói đứng đến chết nếu không có bàn tay cứu giúp của
Mị.
4.2. Nhà văn tố cáo gay gắt thế lực phong kiến miền núi tàn bạo
- Chúng đã lợi dụng chính sách vay nặng lãi, hủ tục thần quyền để nô lệ hoá con người.
- Dùng cường quyền và những thủ đoạn để bóc lột người dân lao động “quanh năm suốt tháng chỉ biết vùi
đầu vào công việc”.
- Mạng nguời đối với chúng không bằng mạng một con vật: A Phủ bị trói thay bò khi bị mất.
4.3. Nhà văn phát hiện và nâng niu, trân trọng trước những vẻ đẹp tâm hồn, nhân phẩm cao đẹp của
nhân vật
- Mị là cô gái xinh đẹp tài năng, yêu đời “thổi lá cũng hay như thổi sáo” và rất hiếu thảo với cha.
+ Khi bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí, dù cuộc sống có thống khổ nhưng Mị vẫn luôn ẩn
chứa sức sống tiềm tàng mãnh liệt.
+ Trong đêm tình mùa xuân, sức sống ấy đã trỗi dậy khi Mị nghe thấy tiếng sáo cùng chất men của
rượu.
+ Khát vọng tự do đã thôi thúc Mị “muốn đi chơi ngày Tết”, và Mị “cuốn lại tóc, lấy chiếc váy hoa
trong vách, bỏ thêm mỡ vào đèn”.
+ Khi bị A Sử trói “không cựa quậy được”, tâm hồn Mị vẫn hoà theo tiếng sáo, vẫn sống trọn trong
thế giới của riêng mình.
+ Sức sống ấy còn trỗi một lần nữa trong đêm cắt dây cởi trói cứu A Phủ. Lúc đầu Mị dửng dưng,
nhưng khi thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị đã thức tỉnh.
+ Mị nhận ra: “chúng nó thật độc ác” và quyết cắt dây cởi trói cứu A Phủ, cùng A Phủ trốn khỏi đất
Hồng Ngài.
- A Phủ, dù nghèo, mồ côi cha mẹ nhưng rất yêu đời, yêu tự do và ham sống, lúc được Mị cứu, dù đã kiệt
sức nhưng A Phủ “quật sức vùng lên chạy”.
4.4. Chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao động miền núi lúc bấy giờ
- Là đi từ đấu tranh tự phát đến đấu tranh tự giác, đi theo lí tưởng cách mạng dưới sự dẫn dắt của Đảng.
- Nhà văn bênh vực quyền sống, quyền tự do, những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động và đặt niềm
tin vào sự trỗi dậy của họ.

C. TỔNG KẾT
1. Nội dung: giá trị hiện thực & giá trị nhân đạo
2. Nghệ thuật
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc (A Phủ chủ yếu được khắc họa qua hành động; Mị được khắc họa
chủ yếu qua tâm lý).
- Cốt truyện hấp dẫn (có nhiều tình tiết hấp dẫn li kì nối tiếp nhau).
- Tình huống truyện độc đáo (nhất là tình huống Mị bị bắt về trình ma, Mị và A Phủ bị trói đứng).
- Văn phong mang đậm phong vị miền núi; ngôn ngữ đậm chất thơ.
Một số nhận định, đánh giá về Tô Hoài:
- “Văn chương Tô Hoài sẽ còn mãi, xanh biếc theo thời gian, vì nó lưu giữ cho chúng ta đời sống. Vì nó phả
lại nhịp đập của lịch sử, vì nó nói lên câu chuyện muôn đời của kiếp nhân sinh”. (Nguyễn Thị Thanh Xuân)
- “Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa
tuổi, trên con đường đưa họ đến với thế giới động vật tưởng tượng thuở nhỏ, hay đến với những miền đất
mới, đến với con đường đời dài rộng khi đã trưởng thành”. (Phan Anh Dũng)

You might also like