You are on page 1of 7

Sức sống tiềm tàng của Mị trong “Vợ chồng A Phủ”, hay ánh sáng nhân đạo Tô Hoài

thắp
lên giữa những đêm dài nô lệ tăm tối?
Nhận định về nhân vật trong tác phẩm, nhà văn Tô Hoài đã viết: “Nhân vật là nơi duy nhất tập
trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác.” Nhân vật văn học chính là người chỉ
đường, là hoá thân cho tinh thần và tiếng nói của người nghệ sĩ. Đọc xong một tác phẩm, khép
lại trang sách cuối, cái đọng lại sâu nhất trong tâm hồn người đọc chính là những cảm xúc,
những suy tư trăn trở về số phận, về cuộc đời của những con người được nhà văn thể hiện. Và
Tô Hoài thực sự đã thành công trong việc tạo ra một nhân vật hội tụ đầy đủ các yếu tố để có thể
rung lên sợi dây đồng điệu giữa người đọc và tác phẩm – nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ
chồng A Phủ”. Chính sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do mãnh liệt của Mị đã để lại ấn
tượng sâu sắc trong lòng độc giả mà đồng thời qua đó, chúng ta cũng có thể nhìn thấu tấm lòng
nhân đạo sâu sắc của người nghệ sĩ Tô Hoài. 
Nhắn đến Tô Hoài, là nhắc ngay đến một cây bút tên tuổi của nền văn học cận đại Việt Nam.
Nhà báo Hà Thuý Anh đã từng nhắc đến Tô Hoài với những ca từ như thế này: “Tô Hoài là một
trong những tác gia lớn nhất của thế kỷ XX. Ông là nhà văn thuộc thế hệ từ năm 1920 đổ về
trước, đó là thế hệ vàng của văn chương Việt Nam hiện đại, làm nên mùa gặt ngoạn mục nhất
của văn học thế kỷ XX – mùa vàng 1930 – 1945 cùng với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng, Ngô Tất Tố. Ông cũng là người hiếm hoi nhất còn lại của thế hệ vàng son ấy.” Hơn 70
năm lao động nghệ thuật cần mẫn, Tô Hoài đã cho ra đời số lượng tác phẩm đồ sộ – hơn 150
đầu sách với nhiều thể loại: Truyện ngắn, truyện dài kỳ, bút ký, ký sự, tiểu thuyết, hồi ký,… với
lối viết thông minh, hóm hỉnh nhưng cũng không kém phần khéo léo và tinh tế. 
Trước 1945, ông thể hiện sức sáng tạo dồi dào của mình với hai chủ đề chính là truyện về loài
vật và truyện về những cảnh đời lầm lũi nơi vùng quê nghèo ngoại thành, tiêu biểu là “Dế mèn
phiêu lưu kí”, “O chuột”, “Đôi ri đá”, “Mẹ già”, “Khách nợ”,… Sau 1945, ngòi bút của ông đã
vượt thoát khỏi ngôi làng ven đô ấy để hướng đến cuộc sống của nhiều lớp người, nhiều vùng
đất khác nhau, ông viết về những anh hùng người dân tộc thiểu số đã hiến dâng đời mình cho
Tổ quốc trong “Kim Đồng”, “Vừ A Dính”, ngoài ra, ông còn viết những tác phẩm về miền Tây
Bắc như “Núi cứu quốc”, “Miền Tây”,… mà trong đó tập “Truyện Tây Bắc” là một tác phẩm
xuất sắc.
“Truyện Tây Bắc” gồm ba truyện: “Cứu đất cứu mường”, “Mường Giơn” và “Vợ chồng A Phủ”
được Tô Hoài viết năm 1953, ngay sau chuyến thâm nhập thực tế lên Tây Bắc của tác giả. Với
tập “Truyện Tây Bắc”, Tô Hoài đã khắc họa một cách chân thật, sinh động những nỗi đau
thương, tủi nhục của người dân miền núi dưới ách áp bức nặng nề của thực dân phong kiến,
cũng là lần đầu tiên cuộc sống khổ cực của người dân miền núi hiện lên rõ nét trong văn chương
Việt Nam lúc bấy giờ. “Truyện Tây Bắc” được tặng Giải Nhất, Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt
Nam năm 1954 – 1955.
“Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập “Truyện Tây Bắc”, cũng là một trong
những tác phẩm tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Pháp.
Tô Hoài kể lại: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và
con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi
không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi tại dốc núi làng Tà Sùa rồi cùng vẫy
tay gọi theo: “Chéo lù ! Chéo lù” (Trở lại ! Trở lại!). Có lẽ chính vì vậy mà Tô Hoài đã viết “Vợ
chồng A Phủ” bằng cả tấm lòng nhân đạo và yêu thương sâu sắc của mình. Tác phẩm là bức
tranh chân thực về cuộc sống và số phận nghiệt ngã của người nông dân nghèo miền núi dưới
ách áp bức bóc lột tàn bạo của các thế lực phong kiến và thực dân, đồng thời lại là một bài ca về
sức sống mãnh liệt và khát vọng tự do của con người. Mà ở đây, những hiện thực, những xót xa,
những hy vọng, những yêu thương ấy đã hoá thân từ ngòi bút của Tô Hoài để xây nên hình
tượng nhân vật Mị – nhân vật trung tâm của đoạn trích “Vợ chồng A Phủ” – với sức sống tiềm
tàng mạnh mẽ ẩn sâu trong tâm hồn của một người con gái bị trói buộc bởi những gông xiềng
của hủ tục lạc hậu và nạn ách bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến.
Mị xuất hiện lần đầu tiên ở phần đầu câu chuyện qua vài nét phác hoạ đơn sơ của Tô Hoài: “Ai
ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên
tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi
hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Mị hiện lên với
cuộc sống lầm lũi, buồn khổ, tủi nhục trong thân phận vợ của A Sử, con dâu nhà thống lý Pá
Tra. Cuộc đời chát đắng của Mị bắt đầu từ khi cô bị bắt về làm dâu gạt nợ, cuộc sống tươi đẹp,
tự do trước kia giờ đây chỉ còn là hồi ức giữa những giọt nước mắt lăn dài. “Tết năm ấy, tết vui
chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái, bố mẹ
không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo
xung quanh vách. Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị.”
Mị từng là một cô gái trẻ trung, hồn nhiên, có tài “thổi lá cũng hay như thổi sáo có biết bao
nhiêu người mê”. Là cô gái chăm chỉ, hiếu thảo, giàu lòng yêu đời, đang sống trong những ngày
tháng tươi đẹp của tuổi xuân, nhưng quãng thời gian ấy lại chẳng kéo dài được bao lâu, do cha
mẹ Mị nợ nhà thống lí Pá Tra, không có tiền trả, Mị phải trở thành con dâu gạt nợ cho nhà
thống lí. Bị bóc lột sức lao động, bị đánh, bị  phạt, bị trói, Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau:
một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa,… đều cúi mặt “mặt buồn rười rượi”,
không quan tâm đến thời gian “Ở cái buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng
bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ
rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.” Mị sống
lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Cô gái trẻ
trung, yêu đời của quá khứ nay đã bị thực tại nhấn chìm. Mị sống mà như đã chết, ý thức làm
người vốn có của cô đã bị giai cấp phong kiến làm cho tê liệt. Dường như số phận đã cột chặt
Mị vào gian nhà tăm tối của thống lý Pá Tra mặc cho cô gái trẻ có van lơn, có vẫy vùng. Ngòi
bút của Tô Hoài đã rất thành công trong việc miêu tả tinh thần đang chết dần chết mòn đi từng
ngày của nhân vật Mị.
Những tưởng cuộc đời Mị từ đây đã bị chôn vùi trong những gông xiềng của hủ tục lạc hậu và
nạn áp bức bóc lột tàn bạo nhưng không, trong sâu thẳm tâm hồn câm lặng ấy vẫn le lói một
khát khao sống, khát khao tự do luôn âm ỉ cháy chỉ chờ ngày bùng lên mãnh liệt. Sức sống tiềm
tàng ẩn sâu trong nhân vật Mị được ngòi bút tài năng của Tô Hoài thể hiện qua nhiều phương
diện, nhiều chi tiết thấm đẫm tinh thần nhân đạo sâu sắc. Ngòi bút của người nghệ sĩ không chỉ
nhằm phơi bày sự thật đen tối mà còn đưa người đọc hướng tới ánh sáng của niềm tin, của cái
thiện ở đời.
Sức sống tiềm tàng mãnh liệt ấy, trước tiên và đơn giản nhất được bộc lộ trong những phản ứng
ngầm tỏ rõ việc Mị phủ định cuộc sống nơi mình đang chết dần chết mòn đi từng ngày. Khi về
làm dâu nhà thống lý Pá Tra, “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc” – những giọt
nước mắt ấy là sự phản kháng yếu ớt của Mị đối với giai cấp cầm quyền bóc lột tàn bạo sức lao
động của người dân miền núi. Cuộc sống đối với Mị giờ đây đã chẳng còn ý nghĩa khi tất cả
khát vọng, niềm tin, lòng tự tôn bị chà đạp, rẻ rúng, để rồi cuối cùng Mị phải tìm đến lá ngón,
chọn cái chết để giải thoát bản thân khỏi gông xiềng hủ tục. Phải chăng với cô gái trẻ, cái chết
chính là lời tố cáo đanh thép nhất đối với giai cấp cầm quyền, thể hiện sự phủ nhận quyết liệt
với cuộc sống “địa ngục trần gian” mà cô đang trải qua? Chi tiết này cho thấy sự phản kháng
mạnh mẽ trong tâm hồn Mị, bản thân Mị tìm đến lá ngón ở đây lại là một biểu hiện rất rõ ràng
của lòng khao khát hạnh phúc, cuộc sống tươi đẹp. Ngòi bút của Tô Hoài đã đào sâu vào trong
tận cùng ý thức của nhân vật để khơi dậy chút ánh sáng của niềm ham sống và khát vọng tự do
mãnh liệt.
Sự thức tỉnh trong ý thức của Mị được nhà văn đặt vào trong một hoàn cảnh “điển hình” – ấy là
khi mùa xuân về trên miền núi cao Tây Bắc. Mùa xuân là mùa của sự sống và khát vọng, chính
vì vậy mà cái không khí ngày xuân ở Hồng Ngài đã tác động mạnh mẽ vào tâm hồn vốn đang
chết dần đi từng ngày của cô gái trẻ, kéo cô trở lại với cuộc đời tươi đẹp cô đáng sống, để ngọn
lửa ham sống trong lòng Mị bừng lên.
“Ở  Hồng Ngài người ta  thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn
Tết như thế cho kịp lúc mưa  xuân xuống thì đi vỡ  nương mới.” Mùa xuân năm ấy ở Hồng
Ngài đẹp và gợi cảm biết bao: “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa xếp
yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi
lửa… Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi và cỏ ranh vàng ửng… Trong các làng Mèo,
những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm, sặc sỡ… Đám trẻ đợi Tết,
chơi quay, cười ầm trên sân trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi
chơi..”. Chính không gian rộn rã sắc màu cùng tiếng sáo tha thiết và âm thanh cuộc sống bên
ngoài đã đánh thức cô Mị ngày xưa. Tiếng sáo như chạm vào nỗi nhớ, khơi dậy trong tiềm thức
của cô gái trẻ những kỷ niệm khi xưa. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi. Mị ngồi
nhẩm lại bài hát của người đang thổi… Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở
về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu hạnh phúc.
Mùa xuân rộn rã sắc màu âm thanh ấy gợi cho Mị nhớ lại thời xa xưa. Ngày xưa, Tết Mị uống
rượu. Bây giờ, Mị cũng uống rượu, “uống ừng ực từng bát”, uống như thể muốn quên đi thực
tại để trở về với quá khứ tươi đẹp bị đánh cắp. Rồi Mị say. Rượu – chất men đánh thức phần đời
đã mất của Mị, trong khoảnh khắc đắm mình vào men rượu, cô Mị của ngày xưa dường như đã
thức giấc. Tai Mị vẳng nghe tiếng sáo vọng lại đầu làng. Đấy là tiếng sáo của tình duyên, của
tuổi thanh xuân căng đầy sức sống. Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở
lại”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, với khát khao tự do, chấm dứt sự tù
đày. Giờ nghe tiếng sáo ngoài đầu núi vọng lại lúc ẩn lúc hiện, trong Mị đã thức dậy điều gì đó
quen thuộc, lâu nay bị lãng quên – lòng yêu đời ham sống.
Lúc say là thế nhưng khi tỉnh lại, Mị vẫn không thể chối bỏ thực tại – kiếp sống đoạ đày tại nhà
tù của thống lý Pá Tra. Sự đối lập giữa một bên là hạnh phúc tuổi trẻ với một bên là kiếp sống
trâu ngựa đã khiến Mị suy nghĩ đến việc kết liễu đời mình: “Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị
sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa.” Ý nghĩ về cái chết lúc này là sự phản kháng
với hoàn cảnh, nó cho thấy sự tự ý thức của Mị đối với hoàn cảnh xót xa đau khổ của bản thân.
Trong khi đó tiếng sáo – biểu hiện của lòng khát khao tự do hạnh phúc – vẫn quẩn quanh trong
đầu Mị, theo sát từng diễn biến tâm trạng của cô. Tiếng sáo ấy lửng lơ, tiếng sáo ấy làm Mị thiết
tha bổi hổi. Mị muốn đi chơi. Mị muốn thoát ra ngoài cái ô cửa ô mờ đục, trăng trắng này biết
bao! 
Đến đây, từ những sôi sục trong tâm tư, Mị đã đi đến hành động. “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ,
xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sang” hành động này mang nhiều ý nghĩa vì nó tượng
trưng cho sự thức tỉnh trong tâm hồn của cô gái trẻ. Mị không chỉ thắp sáng căn phòng vốn âm
u tăm tối mà còn tự tay thắp lên ánh lửa cho cuộc đời nô lệ của mình. Và hành động này góp
phần thúc đẩy những hành động tiếp theo, Mị đã tự mình hành động như một con người tự do:
Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách… Mị rút thêm cái áo. 
Nhưng giữa lúc lòng ham sống của Mị trỗi dậy mạnh mẽ thì ngay sau đó nó lại bị vùi dập phũ
phàng không thương tiếc: A Sử bước vào, thản nhiên, lầm lì, trói đứng Mị vào cây cột nhà như
trói cả khát vọng và ước mơ của cô gái trẻ vào bóng đêm thăm thẳm của sự tuyệt vọng, hiện
thực nghiệt ngã lại trở về với Mị. Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác Mị, không trói được tinh
thần Mị, cô vẫn sống trong những tiếng sáo thổn thức ngoài kia “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị
đi theo những cuộc chơi, những đám chơi.”, đến nỗi Mị vùng bước đi, để rồi nỗi đau thể xác
trên những vòng dây nói cho cô biết rằng cô đang bị trói, bị trói chặt cuộc đời bằng những gông
xiềng của hủ tục lạc hậu và sự đàn áp bóc lột của giai cấp thống trị. Không còn tiếng sáo gọi
bạn tình, chỉ còn tiếng chân ngựa đạp vào vách, thực tại nghiệt ngã đã bóp chết những khát
khao trong lòng Mị.
Cuộc trỗi dậy tinh thần của Mị như một đợt sóng ngầm lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Nó sẽ tuôn trào
thành những đợt sóng mới, mạnh mẽ hơn lúc nào hết, bằng chứng là hành động cởi dây trói cho
A Phủ đã đặt bút viết lên một chương mới cho cuộc đời Mị, mở ra những tháng ngày tươi đẹp
sau này, thể hiện rõ nét nhất sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong tâm hồn người con gái Tây Bắc.
Sau cuộc nổi loạn không thành ở đêm tình mùa xuân, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái tê liệt, cô lại
trở về là cái xác không hồn. Nhưng với sự xuất hiện của A Phủ, cùng sự việc A Phủ bị trói đứng
chờ chết đã thức tỉnh trong Mị tình yêu thương và khao khao sống.
 A Phủ vì để mất một con bò mà bị bắt trói đứng nhiều đêm liền. Trước tình cảnh đó, ban đầu
Mị dửng dưng, vô cảm, cô vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy,
cũng thế thôi”. Nào đâu Mị phải là người nhẫn tâm, chẳng qua khi ấy nỗi đau đã ngấm vào tâm
thức Mị, khiến trái tim cả cô gần như tê liệt sức sống. Tội ác trong nhà tù thống lý Pá Tra vẫn
diễn ra hằng ngày, việc A Phủ bị trói đứng cũng chỉ như phác thêm một nét chì lên bức hoạ tăm
tối mà thôi. Trước những người cùng cảnh ngộ, Mị chẳng còn đủ nước mắt để xót thương. Lúc
ấy, chỉ còn Mị với ngọn lửa vô tri vô giác ngoài kia.
Nhưng đến một đêm, Mị trở dậy thổi lửa sưởi, chính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, Mị trông sang A
Phủ và nhìn thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống má đã xám đen lại. Dòng nước mắt ấy
khiến Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải đứng trói thế kia. Nhiều lần
khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được. Rồi Mị xót xa cho A Phủ như
xót xa cho chính bản thân mình. Mị thương cho A Phủ không đáng phải chết. Dòng nước mắt
ấy đã tưới tắm cho trái tim khô cằn của Mị, đã đánh thức đời sống ý thức và tình cảm trong con
người cô gái trẻ. Cùng với lòng thương cảm là sự căm phẫn, khi Mị đã nhận ra sự độc ác của
gia đình thống lí, đây chính là bước đầu tiên nhóm lên trong Mị ý thức phản kháng, vùng lên
đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác. Mị đã đi từ trạng thái vô cảm sang trạng thái đồng cảm, lòng
thương người đã âm thầm mạnh mẽ lớn lên trong Mị, đưa Mị đến một quyết định táo bạo: cắt
dây cởi trói cho A Phủ: “Mị lấy con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”. Những hành động bất
ngờ, quyết liệt cho thấy Mị đã cắt đứt sợi dây trói hữu hình đang giam cầm A Phủ để giải cứu
cho đồng loại, đồng thời cũng cắt đứt sợi dây vô hình của thần quyền hủ tục để giải phóng cho
chính mình. Nếu như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng hạnh phúc, thì đêm đông cứu A
Phủ lại gắn liền với khát vọng tự do trong Mị – một con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn
toàn. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén tưởng đã tắt lịm đi, nay bỗng bật dậy trào dâng mạnh mẽ.
Ý nghĩ cứu A Phủ đã mạnh hơn cả nỗi lo sợ cho chính mình. Mặc dù đây là hành động tự phát
nhưng là kết quả của một quá trình, nó minh chứng sức sống tiềm tàng, âm ỉ không ngừng trong
con người Mị. 
Khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị đứng lặng trong bóng tối. Mị thì thào lên một tiếng “đi
ngay” rồi Mị nghẹn lại. Lòng cô rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ
chết? Nhưng cuối cùng, khát khao hạnh phúc tự do đã thôi thúc Mị phải sống, rồi Mị vụt chạy
theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần
quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm
qua, là bước chân của sức sống tiềm tàng mãnh liệt ẩn sâu trong tâm hồn người con gái Tây
Bắc. “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là tiếng nói của một trái tim từng bị trói chặt
trong gông cùm xiềng xích của lễ giáo phong kiến, nay vượt thoát ra ngoài bằng lòng yêu tự do
và tinh thần quả cảm. Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò
hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình.
Thực chất, quá trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ là một quá trình tự nhận thức: Nhận
thức tại xã hội tàn bạo, lạnh lùng. Mị cứu A Phủ bởi cô thấy sự bất công, phi lí sắp giết chết một
con người vô tội và nhận thức “người” cũng là để qua đó nhận thức, soi sáng “mình” cho nên,
có thể nói, Mị cắt dây trói cứu A Phủ, cũng là Mị đã tự cắt dây trói buộc cô với nhà thống lí Pá
Tra. Sức sống tiềm tàng của Mị thể hiện rõ nét và đậm nhất trong chi tiết này.
Tô Hoài có nghệ thuật miêu tả tâm lý tinh tế và phát triển tính cách nhân vật hợp lý. Nhà văn ít
tả hành động mà chủ yếu khắc họa nội tâm. Các xung đột cũng thầm kín diễn ra, âm thầm mà
mạnh mẽ. Đặc biệt là ở nhân vật Mị. Ngoài ra, nghệ thuật tả cảnh đặc sắc cũng góp phần tạo
nên thành công trong tác phẩm. Cảnh thiên nhiên thơ mộng của núi rừng Tây Bắc được miêu tả
bằng ngôn ngữ giàu chất thơ và chất tạo hình (cảnh mùa xuân về trên núi Hồng Ngài). Đời sống
lao động và văn hóa của người miền núi với những nét sinh hoạt phong tục riêng, sinh động. Tô
Hoài đã vượt qua được những hạn chế của một số tác phẩm đầu, ông không còn chỉ đứng ngoài
quan sát mà đã hoà nhập vào thế giới của nhân vật để đồng cảm, để thấu hiểu, để yêu thương.
Như vậy, có thể nói, nhân vật Mị là kết tinh đặc sắc nhất của ngòi bút Tô Hoài khi viết về cuộc
sống và con người miền núi Tây Bắc – một cô gái sống dưới ách áp bức bóc lột nặng nề nhưng
luôn mang trong mình một sức sống mạnh mẽ. Phẩm chất phi thường của người con gái Tây
Bắc ấy hiện lên quá đỗi xúc động trong từng trang giấy thấm đẫm tinh thần nhân đạo của người
nghệ sĩ Tô Hoài.
Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm văn học rất phong phú và đa dạng: Đó là biểu hiện của lòng
yêu nước thương nòi, lên án tố cáo các thế lực tàn bạo chà đạp lên con người. Đồng thời, khẳng
định đề cao phẩm chất, tài năng, những khát vọng chính như khát vọng về quyền sống, quyền
hạnh phúc, công lý và chính nghĩa, đề cao đạo lý tốt đẹp giữa người với người.
Giáo sư Đặng Thai Mai đã khẳng định: “Tinh thần nhân đạo trong văn học trước hết là tình yêu
thương con người.” Giá trị nhân đạo trong “Vợ chồng A Phủ” trước hết được thể hiện ở phương
diện tố cáo những thế lực độc ác. Đó là thế lực phong kiến miền núi lợi dụng cường quyền đàn
áp bóc lột sức lao động của người dân, đẩy họ vào bước đường cùng, vào bóng tối không lối
thoát. Chính chúng đã đẩy một cô gái trẻ trung, yêu đời vào trạng thái vô cảm, tê liệt tinh thần
mà vẫn tiếp tục dửng dưng đày đoạ. Những việc làm tàn bạo ấy không chỉ hành hạ về mặt thể
xác mà nó còn bào mòn tinh thần con người đi từng ngày.
Bên cạnh đó, Tô Hoài còn thể hiện giá trị nhân đạo ở chỗ, ông thương cảm những số phận bất
hạnh như Mị và A Phủ, cảm thông và thấu hiểu những tâm tư tình cảm, tâm trạng của những
con người khốn khổ. Để rồi qua đó nhà phát hiện ra sức sống tiềm tàng trong họ và phẩm chất
tốt đẹp của họ. Khi nói về cuộc sống khổ đau, tăm tối của Mị, những diễn biến tâm trạng của Mị
trong đêm tình mùa xuân và trong đêm mùa đông cứu A Phủ, ẩn sâu trong ngòi bút Tô Hoài là
sự bênh vực và cảm thông sâu sắc. Viết về nỗi khổ đau, bất hạnh, ngòi bút nhà văn như có nước
mắt, ông đã gieo vào lòng người đọc một niềm thương cảm sâu xa trước số phận tủi nhục của
con người.
Nhưng tinh thần nhân đạo của tác phẩm, sâu sắc nhất là sự trân trọng khát vọng tự do, hạnh
phúc và phẩm chất tốt đẹp của người dân cùng khổ. Ngòi bút Tô Hoài từng bước rọi sâu khám
phá thế giới nội tâm nhân vật, ông hiểu tâm tư, nỗi niềm và khát vọng của họ, đồng tình với tinh
thần phản kháng, đấu tranh và đồng thời vạch ra cho nhân vật con đường giải phóng. Qua việc
mêu tả tâm lí nhân vật hết sức tinh tế, Tô Hoài đã thành công cho thấy vẻ đẹp đáng trân trọng
của tâm hồn, khát vọng sống mãnh liệt khuất lấp sau những hình hài câm lặng và cam chịu của
những người dân nghèo vùng núi, đặc biệt là người phụ nữ. Sức sống tiềm tàng mạnh mẽ của
Mị như một viên kim cương toả sáng giữa núi rừng Tây Bắc. Nhà văn đã kêu gọi con người
dũng cảm đấu tranh cho sự sống, cho quyền con người chân chính bằng ngòi bút tài hoa của
mình.
Đó chính là tinh thần nhân đạo cao cả mà người nghệ sĩ Tô Hoài đã thể hiện qua việc miêu tả
sức sống tiềm tảng ẩn sâu trong nhân vật Mị.

You might also like