You are on page 1of 8

Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút xuất sắc nhất của nền văn xuôi

Việt nam hiện đại. Ông là người


mở đường tinh anh và thành công nhất của nền văn học thời kì đổi mới. Mang một ước nguyện khám phá con
người ở bên trong con người, ông đã mang đến cái nhìn đa chiều các sự việc và con người trong cuộc sống vào
tác phẩm của mình. "Chiếc thuyền ngoài xa" cùng với nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn là
một ví dụ tiêu biểu cho phong cách này của ông. Nhân vật người đàn bà hàng chài được tác giả khắc họa và
khám phá bằng cái nhìn đa chiều, từ nhiều điểm nhìn khác nhau. Có khi được hiện lên từ sự quan sát, cảm nhận
của nhân vật Phùng - người nghệ sĩ nhiếp ảnh với tâm hồn nhạy cảm, phong phú, có lúc chị tự bộc lộ mình qua
những lời nói, hành động trong mối quan hệ với mọi người xung quanh. Khi khám phá tính cách của người đàn
bà hàng chài, ấn tượng đầu tiên Nguyễn Minh Châu muốn đem đến cho người đọc là vẻ ngoài xấu xí, lam lũ
cùng với vẻ cam chịu đến nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài này ẩn dấu những vẻ đẹp nhân tâm của phụ nữ
Việt nam hiện đại.
KB :Qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện, cái
nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với các nghệ sĩ chân chính. Từ tình huống truyện có ý nghĩa khám
phá, phát hiện về sự thật đời sống và qua sự thay đổi nhận thức của Phùng, của Đẩu, tác giả đã khẳng định mối
quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực. Theo ông, bổn phận của người nghệ sĩ là phải phát hiện ra bản chất của
cuộc đời. Cái Đẹp, cái Thiện trước hết phải là sự chân thực, Cuộc sống vốn phức tạp, chúng ta không thể đơn
giản, sơ lược khi nhìn nhận con người và cuộc sống mà cần có cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc cùng với sự tòi, phát
hiện để hiểu đúng bản chất của nó.
Nguyễn Thi được mệnh danh là "nhà văn của người nông dân Nam Bộ", quả thực vậy, qua truyện ngắn Những
đứa con trong gia đình, bằng sự am hiểu về đời sống và tính cách của con người Nam Bộ, ông đã khắc họa
thành công những con người bộc trực, chất phác nhưng giàu tình yêu, ý thức trách nhiệm với gia đình, đất nước,
đó là chú Năm - khúc sông đầu của dòng chảy truyền thống gia đình, là Chiến, Việt - những nhánh sông nhỏ
nhưng đầy mạnh mẽ kế thừa truyền thống tốt đẹp của ông bà, bố mẹ, chú Năm để lại. Qua truyện Những đứa
con trong gia đình, chúng ta còn thấy được mối quan hệ mật thiết giữa tình cảm gia đình và truyền thống đấu
tranh của đất nước, ta còn thấy được dáng hình, vẻ đẹp của cả thế hệ người Việt Nam trong những năm tháng
kháng chiến: Sống thì yêu thương tình nghĩa, đấu tranh thì bất khuất, kiên cường.
Kết bài : Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình có một dòng sông truyền thống gia đình liên tục chảy từ
những lớp người đi trước: tổ tiên, ông cha, cho đến đời chị em Chiến, Việt. Sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm
gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần
to lớn của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Truyện có bút pháp nghệ thuật già
dặn, điêu luyện được thể hiện qua giọng trần thuật, trần thuật qua hồi tưởng của nhân vật, miêu tả tâm lý và tính
cách sắc sảo, ngôn ngữ phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam Bộ.
Nguyễn Trung Thành hay còn có bút danh là Nguyên Ngọc là một trong những nhà thơ nổi tiếng trưởng thành
từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, không chỉ sáng tác văn chương phục vụ cách mạng mà ông còn trực tiếp tham
gia chiến đấu ở chiến trường miền Nam, đặc biệt là những năm giặc Mỹ bắn phá ác liệt nhất. Quá trình sống và
chiến đấu nhiều năm trên mảnh đất Tây Nguyên đầy nắng và gió, gắn bó cùng với những con người nơi đây đã
để lại trong trái tim tác giả nhiều ấn tượng sâu sắc. Điều đó trở thành tiền đề giúp tác giả viết nên nhiều tác
phẩm xuất sắc về đề tài “chiến tranh cách mạng – lực lượng vũ trang” dựa trên hình tượng chiến trường Tây
Nguyên đầy máu, lửa cùng những người con anh hùng, mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Trong tác phẩm nổi tiếng và xuất sắc nhất của mình – Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành xung quanh việc khắc
họa hình ảnh dân làng Xô-man đánh Mỹ và hình tượng cây xà nu kiên cường giữa mưa bom bão đạn, thì nhân
vật Tnú chính là điểm sáng rực rỡ mà tác giả tập trung khai thác, khắc họa thông qua nhiều hình thức khác
nhau, để làm nổi bật nên những phẩm chất anh hùng của con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ đầy gian khổ.
Kết bài
Thông qua sự mất mát, đau thương trong cuộc đời của nhân vật Tnú trong tác phẩm với tinh thần vô cùng bất
khuất, kiên cường, mạnh mẽ, trong chiến đấu của người anh hùng đấy, tác giả Nguyễn Trung Thành đã cho độc
giả thấy được rằng sự trưởng thành trong quá trình nhận thức và đấu tranh của người dân buôn ở làng Xô Man
nói riêng hay đó cũng chính là sự trưởng thành của cả người dân miền Nam anh hùng nói chung ở trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước thể một cách rõ nét, chân thật nhất. Tinh thần hiên ngang, bất khuất, anh dũng
ấy là âm hưởng hào hùng của cả dân tộc, đã được tác giả khắc họa một cách ấn tượng thông qua những người
anh hùng anh dũng của làng Xô Man qua mỗi thế hệ, đó chính là hình ảnh cụ thể qua những anh hùng Tnú, cụ
Mết, anh Quyết, Mai, Dít và bé Heng.
Vợ Chòng A Phủ

Tô Hoài là nhà văn tài năng, cần mẫn, ông sáng tác trên nhiều thể loại. Ông là nhà văn của sự thật đời thường, ông có vốn hiểu biết phong
phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau. Trước Cách mạng, ông chủ yếu hướng ngòi bút của mình về nông thôn nghèo
và thế giới loài vật. Sau Cách mạng, ông hướng đến những vùng nông thôn rộng lớn, đặc biệt là Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ
VCAP là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của ông. Tác phẩm đã lên án tố cáo chế độ phong kiến miền núi chà đạp, áp bức quyền
sống, quyền hạnh phúc của con người. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Cảm thương cho số phận những người lao
động nghèo bất hạnh, bị tước đoạt đi quyền sống, bị hành hạ về thể xác lẫn tinh thần. Đồng thời trân trọng ngợi ca sức sống tiềm tàng, luôn
biết hướng đến một tương lai tốt đẹp . Mị trong Vợ chồng A Phủ chính là một điển hình cho những số phận bất hạnh, đau khổ tột cùng của
vùng trời Tây Bắc, cuộc đời Mị tưởng như đã chết từ khi bước chân vào nhà thống lý Pá Tra, thế nhưng với sức sống mạnh mẽ, khao khát tự
do tột độ, trong đêm tình mùa xuân ấy, Mị đã thức giấc, bắt đầu phản kháng, tìm lối thoát cho riêng mình.
Mị xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, bố Mị phải đi vay tiền cưới vợ, món nợ ấy mãi đến khi Mị đã lớn khôn, trở thành một cô
gái xinh đẹp, giỏi giang mà vẫn chưa trả hết nợ. Chính món nợ truyền kiếp khốn khổ đó đã kéo theo cuộc đời của Mị xuống những bất hạnh
tột cùng. Vì để trả nợ cho cha, Mị phải chấp nhận làm con dâu gán nợ cho nhà thống lý Pá Trá, bị bắt ép chung sống với A Sử, người mà Mị
không thương, chấp nhận từ bỏ tình yêu của cuộc đời.
Ngày đầu tiên về là dâu, Mị đã bỏ trốn về nhà, trong tay cầm nắm lá ngón chỉ muốn chết quách đi cho xong, Mị đã cố gắng vùng vẫy, phản
kháng để chống lại số phận. Thế nhưng Mị chết rồi thì lấy ai trả nợ cho người cha già, cái hiếu, cái tình đã giữ Mị ở lại với cuộc đời này, thế
nhưng Mị sống cũng chẳng khác nào cái xác không hồn, chỉ đơn giản là đang tồn tại. Mang tiếng về làm dâu nhà giàu, nhưng Mị sống
không khác gì một nô lệ, làm việc quần quật không kể ngày đêm, liên tục từ mùa này qua tháng khác, chưa từng ngơi nghỉ đến một ngày.
Cái khổ sở về thể xác cùng với sự hành hạ về tinh thần khi phải chung sống với người đàn ông vũ phu dường như đã giết chết trái tim, giết
chết tâm hồn Mị. Mị tựa như một cỗ máy lao động, suốt mấy năm trời người ta chẳng nghe Mị nói chuyện lần nào, cứ lặng im, "lầm lũi như
con rùa trong xó cửa", đi qua từng năm tháng khổ đau. Rõ ràng là một cô gái xinh đẹp có tài thổi sáo, tuổi đời tầm hai mươi thế nhưng lại
sống như một nắm tro tàn, lạnh lẽo, đơn độc, thậm chí không còn cảm nhận được niềm vui sướng hay đau khổ bởi "ở lâu trong cái khổ, Mị
cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi". Ấy vậy
mà trong sự chai lì đến vô cảm, không thiết tha với cuộc đời, Mị vẫn còn nhận thức được cái khổ đau không bằng loài trâu ngựa của người
đàn bà sống trong nhà thống lý Pá Tra rằng "Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này
vùi vào việc cả đêm cả ngày". Chi tiết nhỏ này đã khắc họa mạnh nỗi đớn đau, bất hạnh cùng cực không chỉ của riêng nhân vật Mị mà là
của chung nhiều những thân phận đàn bà khác ở Hồng Ngài, là người nhưng sống kiếp không bằng loài vật nuôi, đớn đau đến tột cùng.
Không chỉ là nỗi đau về thể xác khiến Mị trở nên chai sạn, mà thực tế chính những vết thương trong tâm hồn mới khiến Mị trở nên thờ ơ với
tất cả. Từ một cô gái xinh đẹp, thổi sáo, thổi lá giỏi, được biết bao chàng trai si mê, lại có một tình yêu đẹp tưởng như gần đâm hoa kết trái,
Mị bỗng trở thành con dâu gán nợ, chịu cảnh chung đụng với một kẻ thô lỗ, bị giam cầm trong một căn phòng tối tăm chỉ có một ô cửa sổ
bé bằng lòng bàn tay lúc nào cũng mờ mờ không biết là màu sương hay là màu nắng. Mị phải từ bỏ tất cả những mong ước của đời mình, từ
bỏ cuộc sống tự do, chôn vùi tuổi trẻ trong cuộc hôn nhân gán nợ, lấy người chồng sang giàu nhưng chẳng khác nào địa ngục trần gian. Mị
không có quyền được lựa chọn, không có một con đường nào khác, cô chỉ còn cách bọc mình lại trong cái vỏ chai lì, lầm lũi để tiếp tục
những ngày tháng tối tăm, tuyệt vọng.
Những tưởng cuộc đời Mị cứ mãi thinh lặng, bế tắc và vĩnh viễn bị chôn vùi dưới cái ách của thần quyền và thần quyền, thế nhưng chính
đêm tình mùa xuân cùng với tiếng sáo gọi bạn réo rắt - âm thanh của sự sống trong Vợ chồng A Phủ, dường như đã đánh thức tâm hồn Mị.
Một tâm hồn chưa chết hẳn, nằm sâu trong nắm tro tàn ấy chính là những hòn than nóng bỏng, vẫn nồng nhiệt niềm khao khát được sống,
được tự do của Mị, chỉ trực chờ ngày được phất lên ngọn lửa rực rỡ. Khi mùa xuân đến, những cô gái, chàng trai trẻ tuổi nô nức hẹn hò,
người ta khoác lên mình những bộ váy áo màu sắc sặc sỡ, thổi sáo, thổi lá tình tứ suốt ngày này qua ngày nọ. Mị nghe thấy tiếng sáo vọng
lại "thiết tha bổi hổi", trong vô thức mị bất chợt lẩm nhẩm theo bài hát của người vừa thổi, những câu hát mà có lẽ đã lâu lắm rồi Mị không
còn nhắc tới. Có thể nói rằng, ở một chi tiết nhỏ này, người ta đã thấy được trái tim vốn chai sạn của Mị hình như đang dần sống lại, bởi lẽ
làm gì có người nào lại hát khi tâm hồn đã nguội lạnh. Những câu hát ấy, dù không thành tiếng, thành lời thế nhưng nó lại là tiếng vang của
tâm hồn, một tâm hồn khởi sắc, dần bước ra khỏi lớp vỏ chai lì bấy lâu nay vẫn mang.
Sự thay đổi trong tâm hồn Mị càng được bộc lộ rõ ràng thông qua chi tiết Mị uống rượu "Ngày Tết Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu,
cứ uống ực từng bát". Trên thực tế Mị ở trong nhà thống lý Pá Tra không hề có một vị trí nào, cô sống cuộc đời còn bần cùng khổ sở hơn cả
loài vật nuôi, thế nên việc uống rượu đối với Mị là một sự kiện xa xỉ, thậm chí nếu bị bắt được có lẽ Mị sẽ bị đánh trói, bắt phạt. Dù thế
nhưng Mị vẫn lén lấy rượu uống, điều đó giống như là một sự phản kháng, Mị muốn đòi quyền lợi cho mình, cả nhà thống lý đều được uống
rượu ăn Tết đủ đầy, Mị cũng muốn được như vậy, Mị muốn một lần được sống như con người ở cái nơi đã mang đến cho Mị biết bao nhiêu
là đau khổ. Và cứ thế Mị uống rượu ừng ực, từng bát, uống không phải để thỏa mãn cái niềm khao khát, thèm muốn, mà dường như Mị
đang cố uống cho trôi đi hết tất cả những uất ức khổ đau, cũng là cái cách mà cô thể hiện sự phẫn nộ, khó chịu trong lòng bấy lâu nay.
Trong men rượu cay, Mị bỗng nhớ về những ngày xa xăm, khi Mị còn chưa bị ép làm dâu nhà thống lý, cô cũng có một cuộc sống tươi đẹp,
tương lai đầy hứa hẹn, khi bản thân Mị là người con gái tài sắc vẹn toàn, chăm chỉ lao động, lại có một tình yêu đẹp sắp đơm bông. Thế
nhưng chỉ trong một đêm tất cả đã trở thành ác mộng, càng nghĩ Mị lại càng ngẩn ngơ trong hoài niệm. Thế rồi người cũng về hết, còn lại
một mình Mị ngồi trơ giữa nhà, trong lòng Mị bỗng nảy ra điều gì đó, Mị đứng dậy đi vào buồng "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột
nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước". Tâm hồn tưởng đã chết của Mị đã thực sự sống lại một cách diệu kỳ, đã biết bao lâu rồi
Mị không còn cảm nhận được cái cảm giác vui sướng, cái phơi phới của một tâm hồn son trẻ, có lẽ là từ lúc Mị bước chân vào nhà thống lý
Pá Tra. Không chỉ là về cảm xúc mà dấu ấn chứng minh cho sự sống lại của tâm hồn Mị còn nằm ở nhận thức về cuộc đời về tuổi trẻ của
mình "Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ", đồng thời bộc lộ thành khao khát, ước muốn rằng "Mị muốn đi chơi". Có thể nói rằng đến lúc này niềm
khao khát tự do, khao khát được sống, được hưởng thụ cuộc đời của Mị đã bộc lộ một cách rõ rệt nhất. Mị không còn là người đàn bà trẻ
tuổi sống lầm lũi, thinh lặng, chịu đựng trong nhà thống lý Pá Tra với khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi nữa, mà đã gần như khôi phục
được sự sống quay về với bản tính con người trước kia, một cô gái trẻ đẹp, yêu đời, giỏi thổi sáo, bắt đầu dám phản kháng lại để giành lại
hạnh phúc cho bản thân.
Thế nhưng không may rằng dù tâm hồn Mị đã được cởi trói, nhưng thân xác Mị vẫn nằm trong sự khống chế của cường quyền. Trong lúc
Mị định thay vào chiếc váy rực rỡ để đi chơi thì A Sử về, nó không cho Mị cái quyền được chơi Tết mà tàn ác túm tóc Mị, rồi trói cô vào
cây cột nhà bằng sợi đay, cắt đứt hết những niềm vui sướng vừa nảy nở trong tâm hồn người phụ nữ tội nghiệp. A Sử đi rồi, để lại một mình
Mị với căn buồng tối đen, trong hoàn cảnh ấy cứ nghĩ rằng Mị sẽ sụp đổ và tuyệt vọng thêm một lần nữa, nhưng không, "Mị đứng im lặng,
như không biết mình bị trói", lòng Mị vẫn đang nghĩ về những cuộc chơi, những đám chơi mà Mị khao khát. Dường như dây trói của A Sử
có chặt hơn nữa, thì cũng chỉ giữ lại được thân xác này của Mị chứ không thể trói buộc được cái tâm hồn khao khát tự do mãnh liệt của cô.
Mị bắt đầu phản kháng "Mị vùng bước đi" nhưng dây trói siết lại, "tay chân đau không cựa được", nghe tiếng ngựa đạp vào vách, Mị lần
nữa ý thức được nỗi đau thân phận rằng bản thân thậm chí còn chẳng bằng con ngựa. Bởi lẽ, con ngựa còn được tự do đôi chân mà đạp vào
vách, còn Mị cả chân tay đều bị trói cứng không thể cựa quậy, Mị chảy nước mắt, nghĩ về cuộc đời đau khổ của mình bằng một tâm thế xót
xa, cái mà bao lâu nay Mị dường như đã bỏ qua.
Đêm tình mùa xuân đã kết thúc bằng việc Mị bị trói đứng trong buồng ngủ, thế nhưng đó không phải là sự kết thúc, mà thực tế rằng tất cả
những sự kiện diễn ra tuần tự đều có ý nghĩa dần dà đánh thức tâm hồn đang nép kỹ trong lớp vỏ chai sần của Mị. Cho đến khi Mị hoàn
toàn ý thức được nỗi đau thân phận, ý thức được giá trị của bản thân, cùng với niềm khao khát mãnh liệt được sống, được tự do, thì cũng
chính là lúc Mị hoàn toàn sống lại một cách đúng nghĩa cả thể xác lẫn tinh thần. Sự kiện A Sử trói Mị chính là tiền đề, khởi đầu cho những
sự phản kháng mạnh mẽ, tự giải thoát cho người khác và cho chính bản thân Mị, để tìm đến một cuộc đời, một tương lai mới tốt đẹp hơn.
Mị trong Vợ chồng A Phủ là một nhân vật điển hình cho nhiều đồng bào miền núi phía Bắc có số phận bất hạnh, phải chịu cảnh áp bức bóc
lột của cả cường quyền và thần quyền trong giai đoạn trước cách mạng tháng tám. Với tình cảm gắn bó tha thiết và đôi mắt thấu hiểu của
mình Tô Hoài không chỉ phản ánh hiện thực xã hội đầy khắc nghiệt mà còn thông qua đó bộc lộ những vẻ đẹp tiềm ẩn trong từng nhân vật,
mà ở Mị là vẻ đẹp tài năng, nhan sắc, nhân cách, sự khao khát tự do mãnh liệt, tình yêu cuộc sống tha thiết, sự phản kháng mạnh mẽ đối với
những bất công mà cô phải gánh chịu, để tự giải thoát cho chính bản thân và cả người khác.
CTNX

Người nghệ sĩ luôn yêu và trân trọng cái đẹp, một vẻ đẹp toàn mĩ. Nhưng trong bức tranh muôn màu của cuộc sống liệu lúc nào nó cũng
hiện lên với một vẻ đẹp mĩ miều hay đằng sau nó còn ẩn chứa những sự thật nghiệt ngã. Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
chính là một ví dụ tiêu biểu cho những sự thật không ngờ tới đằng sau cảnh đẹp huyền ảo của con thuyền bồng bềnh trong nắng mai trên
mặt biển xanh biếc.

Câu chuyện bắt đầu khi Phùng được trưởng phòng yêu cầu chụp một bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển cho bộ lịch mới. Vậy là anh
được đề nghị đi thực tế để bổ sung và anh đã chọn nơi chiến trường xưa mình đã từng chiến đấu để vừa lấy tư liệu vừa thăm người bạn thân
tên Đẩu đang làm chánh án Tòa án huyện ở đây.
Sau bao ngày “phục kích” trên bãi biển thế nhưng Phùng chưa có bức ảnh nào làm anh ưng ý. Cho đến một hôm khi trời còn mù sương và
lác đác mưa, Phùng đã phát hiện ra một con thuyền tuyệt đẹp ở ngoài xa đang dần tiến vào bờ.
Ít có người nghệ sĩ nào lại có được những phút giây thăng hoa như thế trong cuộc đời của mình.
Cái đẹp không kéo dài, vậy nên Phùng đã “gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuộn
phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại”. Thế
nhưng, anh lại không biết rằng, sau vẻ đẹp đó lại không “đơn giản”. Vẻ đẹp đó chứa đựng một sự thật đau đớn về số phận của những con
người lao động nghèo nơi làng chài này. Và đó chính là phát hiện thứ hai của anh trong chuyến đi này, mang lại cho anh một cái nhìn mới
về cuộc đời, bài học về trách nhiệm của người nghệ sĩ.
Thời gian xoay vần, bức tranh không còn sự tĩnh lặng nữa, thay vào đó là sự chuyển động. Và cái đẹp mà Phùng vừa tưởng là “đạo đức” kia
chợt bị câu quát “Cứ ngồi im đấy. Động đậy tao giết cả mày giờ” phá tan nát. Bức tranh “toàn bích” kia lại bị xé toang bởi hình ảnh của hai
con người bước ra từ chiếc thuyền trong mơ ấy. Hai con người mang đầy dáng vẻ “thô kệch, xấu xỉ”, điển hình của những con người vùng
biển bước đi chậm rãi tiến vào bờ. Người đàn bà “cao lớn, với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt”, khuôn mặt xám xịt “mệt mỏi sau một
đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt”,còn người đàn ông với “tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ
bát” và “đôi mắt đầy vẻ độc dữ” dường như muốn đâm thủng tấm lưng của người đàn bà đi trước. So với vẻ đẹp của con thuyền thì cảnh
tượng ấy thật “thảm hại” làm sao!
Thế nhưng, đó chẳng phải là điều khủng khiếp nhất mà Phùng thấy sau vẻ đẹp như mơ kia, điều khủng khiếp nhất là khi Phùng phải chứng
kiến một cảnh bạo lực tưởng chừng như thời trung cổ. Người đàn ông “rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa” rồi
thẳng tay “quật tới tấp vào lưng người đàn bà” và rít lên những tiếng oán hận “mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông
nhờ”. Một cảnh tượng khủng khiếp cứ thế diễn ra trước mắt người nghệ sĩ, ngay sau bức tranh đẹp tuyệt vời mà anh vừa định nghĩa bằng
“đạo đức”. Thế nhưng, mặc người đàn ông đánh đập, gào thét trong oán hận, người đàn bà vẫn cam chịu đến nhẫn nhục “không hề kêu một
tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”.
Lúc đó, Phùng đã kinh ngạc tới mức “đứng há mồm ra nhìn” bởi lẽ khung cảnh tĩnh lặng trên con thuyền của buổi bình minh vẫn còn khiến
anh ngây ngất. Và có lẽ, khi chứng kiến cảnh tượng đó, Phùng đã ngỡ ngàng đến mức không kịp trở tay như thế. Và càng ngạc nhiên tột độ
hơn, khi cái bóng của thằng bé Phác - con của vợ chồng người đàn bà hàng chài chạy đến bên mẹ “như một viên đạn trên đường lao tới đích
nhắm”. Nó đã dùng hết sức lực của mình “giành lấy chiếc thắt lưng, (…) vung chiếc khoá sắt quật vào khuôn ngực trần” của cha nó.
Chỉ vừa mới choáng ngợp trước cảnh đẹp của thiên nhiên, thì giờ đây là cảm giác không thể tin nổi khi phải chứng kiến một cảnh tượng
khủng khiếp nhất trong đời sống. Một người lính như Phùng có gì chưa từng chứng kiến, kể cả cái chết, nhưng những cảnh tượng đau lòng
chồng đánh vợ, con đánh cha diễn ra trước mắt khiến anh không thể tin được lại vẫn còn ngay cả khi đất nước đã hòa bình.
Thế nhưng, hiện thực vẫn là hiện thực, chiến tranh đã qua đi, ác liệt đã qua đi nhưng cái đói, cái nghèo thì vẫn còn. Hai vợ chồng người đàn
bà hàng chài ấy đã bị cuộc sống mưu sinh bức ép mà dẫn tới cảnh tượng bạo lực khủng khiếp như Phùng đã chứng kiến. Thêm vào đó, việc
sinh đẻ nhiều làm cho cái vòng đói nghèo mãi luẩn quẩn, không có lối thoát.
Phát hiện thứ hai của Phùng là cảnh tượng bạo lực gia đình, một cảnh tượng mà những tưởng đã dần dần chấm dứt sau chiến tranh. Từ đó,
Nguyễn Minh Châu muốn chỉ ra rằng đằng sau vẻ đẹp tuyệt bích, đôi khi lại là những cảnh tượng đau lòng vô cùng. Người nghệ sĩ phải là
người đi sâu, tìm tòi được cái góc khuất phía sau vẻ đẹp đó, chứ không phải hời hợt, nông cạn trong cái đẹp bề ngoài. Cái đẹp và cái xấu xa
đôi khi chỉ cách nhau một tấm màng mỏng và người làm nghệ thuật phải biết khai thác cả những vấn đề xấu xa để đi sâu tìm hiểu con
người, số phận và tâm hồn của họ.

Phát hiện của nhân vật Phùng là hai phát hiện mang tính trái ngược. Thế nhưng chính điều đó lại làm nổi bật lên chủ đề của tác phẩm cũng
như dụng ý mà tác giả muốn gửi gắm. Cuộc sống là một bài học mà chúng ta phải lật giở từng trang, hiểu sâu về nó, chứ không phải chỉ
ngắm nhìn qua cái vẻ ngoài đẹp tuyệt mỹ. Và người nghệ sĩ là người có trách nhiệm khám phá mọi góc cạnh của cuộc đời, của con người để
hiểu thấu họ.

Nguyễn Minh Châu đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện các nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với các nghệ sĩ chân chính. Từ
tình huống truyện có ý nghĩa khám phá phát hiện về sự thật đời sống và sự thay đổi nhận thức của Phùng của Đầu, tác giả đã khẳng định
mối quan giữa nghệ thuật và đời sống hiện thực. Theo ông bổn phận của người nghệ sĩ là phát hiện ra bản chất của cuộc đời .Cái đẹp, cái
thiện trước hết phải là sự chân thực cuộc sống vốn phức tạp, chúng ta không thể đơn giản sơ lược khi nhìn nhân con người và cuộc sống mà
cần có cái nhìn tính táo sâu sắc cùng với sự tìm tòi. phát hiện để hiểu đúng bản chất của nó
Vợ nhặt
Một tác phẩm thành công và đi vào lòng độc giả, là một tác phẩm chứa đựng những giá trị sâu đậm nhất. Viết về vùng quê Việt Nam hay
viết về những người nông dân chân phác, thật thà không phải là một đề tài mới mẻ. Nhưng để mỗi tác phẩm đều có cái đi riêng thì đòi hỏi ở
người tác giả phải có sức sáng tạo cùng tài năng xuất chúng. Và nhắc đến đề tài người nông dân thì không thể không nhắc đến nhà văn Kim
Lân với tác phẩm “Vợ nhặt”. Kim Lân đã đặt nhân vật của mình trong tận cùng nỗi lo sinh tồn và phát hiện ra tính cách vẻ đẹp tâm hồn của
nhân vật: những người đói họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống
Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm
1945, nhưng cũng ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ.

Ý nghĩa nhan đề "Vợ nhặt"


- “Vợ nhặt”: nhặt được vợ, thể hiện sự rẻ rúng của thân phận con người và phản ánh tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói.
* Tình huống truyện
- Tình huống: Tràng – một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt được, theo về không.
- Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hoàn cảnh của Tràng khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo
không về, tự ngờ ngờ mình đã có vợ ư), với những người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.
- Phân tích tình huống nhặt vợ trong truyện Vợ nhặt ta thấy tình huống xuyên suốt tác phẩm thật éo le: hoàn cảnh gia đình và xã hội (khung
cảnh nạn đói) không cho phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, khó có thể trở thành chỗ dựa cho nhau.
recommended by
ỐNG LĂN MASSAGE
Ống lăn massage giảm 50% chỉ còn 248k. Giảm đau vai gáy hiệu quả
TÌM HIỂU THÊM
* Nhân vật Tràng
- Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, ..., bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai
con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, ...
a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ
- Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.
- Lần gặp 2:
+ Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt
bụng.
+ Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không
phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
+ Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.
b. Trên đường về:
+ Vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”, ... Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh
diện.
+ Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
c. Khi về đến nhà:
+ Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật,
mộc mạc.
+ Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
+ Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con
biết lễ nghĩa.
+ Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ
ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:
+ Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, ...), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong
gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
+ Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi
mới.
- Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của
những con người trong cái đói.
* Nhân vật người vợ nhặt
a. Lai lịch
- Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
- Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.

b. Chân dung
- Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
- Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
- Lần thứ hai:
+ Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một
chặp bốn bát bánh đúc”.
+ Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ... cùng về”, thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.
- Nhận xét: Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó
không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.
c. Phẩm chất
- Có khát vọng sống mãnh liệt:
+ Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang
thang đầu đường xó chợ.
+ Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu
đựng để có cơ hội sống.
- Thị là người ý tứ và nết na:
+ Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
+ Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ
khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.
+ Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
+ Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
+ Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không
làm bà buồn.
=> Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
- Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc
biệt là cho Tràng.
Có thể bạn quan tâm: Hướng dẫn làm đề văn phân tích hình ảnh người vợ nhặt trong hai lần miêu tả về cách ăn (khi được Tràng đãi bánh
đúc và khi nhận bát “chè khoán” từ mẹ chồng)
* Nhân vật bà cụ Tứ
- Giới thiệu nhân vật: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.
- Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ.
- Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoàn đi”: thương cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ,
thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.
- Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây... đỡ mỏi chân”, nói về tương lai với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn,...
=> Bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu.

Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học hiện thực. Tác phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo
khổ của nhân dân, đồng thời ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng, nâng niu những ước mơ đổi đời của con
người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng cho thấy nghệ thuật phân tích tâm lí và miêu tả bậc thầy của nhà văn Kim Lân.
Những đứa con trong gia đình
Trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, nhà văn Nguyễn Thi là một trong những nhà văn nổi bật của văn học Việt Nam. Đề tài của ông
thường viết về mảnh đất và con người Nam Bộ một cách rất chân thực và nó trở thành đề tài nổi bật trong các tác phẩm của Nguyễn Thi.
Tác phẩm mà ông đặt nhiều tâm huyết nhất đó chính là “Những đứa con trong gia đình”, tác phẩm nói về những phẩm chất cao đẹp và tính
cách anh hùng của người dân vùng đất Nam Bộ. Ngay trong nhan đề của tác phẩm đã gợi cho ta thấy sự tiếp nối của các thế hệ sau với các
thế cha ông đi trước. Tác giả Nguyễn Thi muốn đề cao vai trò của gia đình là rất quan trọng đối với mỗi con người, gia đình không chỉ là cái
nôi nuôi dưỡng con người mà còn là nơi khơi dậy tình yêu Tổ Quốc và yêu gia đình hết sức mãnh liệt.
Các nhân vật trung tâm của tác phẩm là Việt, chị Chiến, chú Năm,.. Người thân còn lại trong gia đình chính là chú Năm, chú vừa là chỗ
dựa, vừa là người cưu mang, chăm sóc và dạy dỗ chị em Việt thay cho ba má hai chị em. Đối với chị em Việt thì chú là điểm tựa tinh thần
rất lớn để hai chị em tiếp tục sống để chiến đấu và tiến lên phía trước. Tất cả những vẻ đẹp chả người nông dân mộc mạc, giản dị, chất phác
đều được hiện hữu ở chú Năm, chú là đại diện cho vẻ đẹp của người nông dân miền đất Nam Bộ. Qua cách dạy dỗ chị em Việt cho ta thấy
một tính cách thẳng thắn và mạnh mẽ ở trong chú Năm. Chú cũng là người yêu sông nước, đi đến nhiều nơi và viết nhiều. Chú là đặc trưng
của con người Nam Bộ, nồng nàn hơi thở Nam Bộ. Đặc biệt là tình yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc trong con người chú. Các sự kiện
và sự việc của gia đình được chú ghi lại rất tỉ mỉ, để thấy được chú là một người rất chăm chỉ và cẩn thận. Chú là người luôn sống về tuyền
thống và một lòng luôn hướng về Tổ Quốc linh thiêng.
Má của Việt là một người phụ nữ mạnh mẽ, gan dạ và có lòng yêu thương con và yêu nước sâu sắc. Những đau thương luôn đi theo với
cuộc đời của má Việt. Nhưng với người mẹ mạnh mẽ ấy tất cả đều được mẹ vượt qua bằng bản lĩnh và sự mạnh mẽ của mình để nuôi các
con khôn lớn và duy trì sự sống. Hình ảnh má Việt chính là đại diện điển hình cho người phụ nữ Nam Bộ nói riêng và người phụ nữ Việt
Nam nói chung về đức tính trung hậu, kiên cường, đảm đang, giàu đức hi sinh và không chịu khuất phục trước khó khăn.
Chị Chiến được hiện lên với hình dáng và tính cách giống của má qua ngòi bút của Nguyễn Thi. Với dáng người khoẻ khoắn, mạnh mẽ,
kiên cường, bản lĩnh và luôn gánh vác các công việc của gia đình và luôn làm tròn trách nhiệm của một người chị lớn của gia đình. Ngoài ra
Chiến còn là một người tần tảo, có lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc và có ý thức phát huy các truyền thống của dân tộc. Ngoài tính
cách mạnh mẽ của mình thì cô gái ấy vẫn giữ được nét hồn nhiên, ngây thơ, tinh tế và nhạy cảm của một cô gái 19 tuổi. Nguyễn Thi đã làm
nổi bật vẻ đẹp của người con vùng đất Nam Bộ qua ngôn ngữ giọng điệu đơn giản của mình.
Việt được hiện thân là một cậu bé 18 tuổi qua cách đặc tả và lối văn trần thuật ở ngôi thứ 3 của tác giả. Việt là người rất yêu thương chị gái
của mình và có sự ngây thơ, trong sáng và hồn nhiên của một đứa trẻ. Ngoài ra Việt còn là một người dùng cảm, gan dạ và giàu lòng yêu
thương mọi người. Đặc biệt trong Việt luôn sôi sục truyền thống cách mạng, và có tình yêu đất nước, quê hương và một lòng hương về Tổ
Quốc.
Nguyễn Thi đã xây dựng nên một sự nối tiếp các thế hệ với nhau trong một gia đình ở Nam Bộ qua lối viết văn bằng cảm hứng lãng mạn và
ngôn ngữ giọng điệu tả thực của mình. Chính từ những nỗi đau mất mát và tình yêu thương đã hình thành nên một sức mạnh sinh to lớn để
những người con trong gia đình, các thế hệ sau có sự trưởng thành nhanh chóng và sẵn sàng mang các trách nhiệm của gia đình và sứ mệnh
của lịch sử thiêng liêng lên đôi vai mình. Qua cách xây dựng nhân vật có sự nối tiếp của thế hệ trước, Nguyễn Thi đã ca ngợi sức mạnh tư
tưởng cùng với những lí giải của cội nguồn tạo nên chiến thắng.

Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn nghệ giải phóng miền Nam. Ông được mệnh danh là nhà văn của
người dân Nam Bộ. Trong những tác phẩm của mình ông luôn dành bao tâm huyết để xây dựng họ thành những nhân vật văn học đáng nhớ
và có cá tính.
Những đứa con trong gia đình là truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi rút trong tập truyện và kí (1978). Nhân vật trung tâm trong tác
phẩm là Chiến và Việt. đặc biệt ở đây chúng ta đi tìm hiểu về những phẩm chất tính cách của nhân vật Việt, một chiến sĩ cộng sản anh hùng.
Ngay từ nhỏ đã có một tư chất của một anh hùng nhưng cũng có phần trẻ con hồn nhiên của lứa tuổi. Có thể nói anh yêu nước là thế, căm
thù giặc là thế nhưng ở cuộc sống bình thường Việt vẫn thể hiện tính cách hồn nhiên hợp lứa tuổi của mình.
Trước hết Việt sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước và lòng căm thù giặc. Ngay từ nhỏ Việt đã gắn bó với công việc đồng
áng, gắn với người mẹ hay lam hay làm " con mắt tìm việc, đôi chân dò được, lội khắp bưng này đến bưng khác". Gia đình Việt rất giàu
truyền thống cách mạng, truyền thống ấy được tạo bởi những chiến công vì nước vì dân. Truyền thống ấy còn được dệt bởi những mất mát
đau thương mà kẻ thù gây ra: ông nội bị chánh tổng bắn chết, bà nội bị lính huyện đánh đập, ba Việt đi thăm dò tình hình cho ba Việt thì bị
chết vì pháo của giặc, thím năm bị chúng bắn bể xuồng...Tất cả những điều đó được chú Năm ghi lại trong cuốn sổ gia đình, chú ghi chép tỉ
mỉ đến từng chi tiết. những điều ghi trong đó không giống một cây hương gia phả mà là những đau thương cũng như chiến công hiển hách
của gia đình. Chính vì xuất thân từ một gia đình như thế đã tác động rất nhiều đến phẩm chất anh hùng cũng như tinh thần yêu nước căm thù
giặc của Việt. Đúng như chú Năm đã nói: "trăm sông đều đổ về biển, con sông của gia đình ta cũng dạt dào chảy về biển lớn" Việt lên
đường đấu tranh thể hiện điều đó.
Vẻ đẹp thứ nhất của Việt chính là vẻ đẹp của tính cách hồn nhiên tỏng sáng mà hóm hỉnh, luôn vô tư và hiếu động. cậu tuy đã mười tám
tuổi nhưng vẫn giữ nguyên tính cách trẻ con ấy. Cậu tư trong gia đình ấy có nụ cười lỏn lẻn rất dễ thương. Cậu hiếu động và luôn tranh phần
hơn với chị từ việc đi bắt ếch đến việc đi bộ đội trước. Trong khi chị trang nghiêm bàn chuyện gia đình thì Việt lăn kềnh ra ván cười khì
rình chụp con đom đóm trong lòng bàn tay làm trò chơi. Việt vô tâm để phó mặc công việc nhà cho chị " Tôi nói rồi chị tính sao thì tính mà
tôi ừ hết". Trong hành trang đi lính của mình Việt không quên mang theo chiếc ná thun vật bất li thân gắn bó với tuổi thơ của cậu. thậm chí
cách yêu chị của Việt cũng rất trẻ con, Việt dấu chị như dấu của riêng, cậu sợ mất chị trước những lời chêu đùa tếu táo của đồng đội anh
em. Bản thân luôn muốn dành phần hơn với chị nhưng thật tâm thì yêu thương tình cảm biết bao. Những lần ngất đi tỉnh lại ở trong rừng
chính những tình cảm của gia đình và những kỉ niệm tuổi thơ đã giúp cậu vững vàng thoát khỏi cái chết. Cả khi cận kề cái chết nhưng Việt
vẫn sợ con ma cụt đầu và thằng chỏng cụt lưỡi. Điều đó cho thấy Việt vãn còn rất trẻ con và yêu thương gia đình một cách đặc biệt
Hồn Trương ba
Xung đột giữa hồn và xác là xung đột trung tâm của vở kịch. Đến cảnh VII, xung đột lên tới đỉnh điểm cần phải
giải quyết.
- Sau mấy tháng sống nhờ trong xác hàng thịt một cách trái tự nhiên, hồn Trương Ba trở nên xa lạ với người
thân và tự chán chính mình: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không
phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi!” -> Tình huống kịch bắt đầu từ chi tiết này.
- Trong khi hồn rất muốn thoát ra khỏi thân xác kềnh càng, thô lỗ của anh hàng thịt thì xác lại muốn tồn tại mãi
tình trạng này.
- Cuộc đối thoại diễn ra:
+ Xác chê hồn là cao khiết nhưng vô dụng. Xác tự hào với sức mạnh đui mù của mình, tự hào vì đã dụ dỗ, sai
khiến được hồn vào những dục vọng bản năng của mình. Lí lẽ của xác thật đê tiện nhưng cũng rất thực tế khiến
hồn không có cơ sở biện bác. Dường như xác đã thắng.
+ Trong cuộc đối thoại với xác, hồn ngày càng đuối lí, càng ra vẻ quát tháo, nạt nộ càng chứng tỏ sự lúng túng,
bất lực.
+ Trong xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba cứ tha hóa dần. Giờ đây, dù không muốn, hồn Trương Ba cũng đã trở
thành thô lỗ, vụng về, phũ phàng, lạnh lùng, tàn bạo chứ không còn hiền hậu, nhẹ nhàng như Trương Ba –
người làm vườn ngày xưa. Dù có trốn chạy, hồn Trương Ba không thể phủ nhận được sự thay đổi đó.
+ Sự chống đối của hồn ngày càng yếu dần. Tuy mắng xác ti tiện nhưng hồn đành kêu trời vì phải đầu hàng
tuyệt vọng.
Sự đối nghịch giữa các nhân vật xuất hiện trong tác phẩm ngày càng được biểu hiện chi tiết, cuộc đối thoại giữa
các nhân vậy xuất hiện trong tác phẩm đã biểu hiện chi tiết những điều đó. Sự khác nhau đến rõ nét đã biểu hiện
chi tiết những điều đó, Trương Ba thấy hiểu được giá trị to lớn, khao khát được quay trở về xác thịt của mình:
“Tôi muốn được là tôi trọn vẹn”, “Là tôi trọn vẹn”, ông thấu hiểu được mối quan hệ giữa thể xác và tâm hồn
của mình, sự dằng xé giữa thể xác và tâm hồn của ông đã làm cho ông đau khổ, dằn vặt. Ông muốn quay trở về
đúng xác thịt của mình, sống cuộc đời của mình. Ông thấu hiểu được giá trị của cuộc sống mà mình đang trải
qua. Điều ước mà Trương Ba đang mong muốn dù nhỏ bé nhưng cũng không phải dễ dàng.
Ông dám nhận toàn bộ trách nhiệm về mình, không muốn sống nhờ, không muốn sống cuộc sống trên thân thể
của người khác. Những mâu thuẫn đó thể hiện sâu sắc qua từng chi tiết, hành động của nhân vật, ông không
chấp nhận cuộc sống này, cuộc sống đó vốn dĩ có nhiều mâu thuẫn, nhưng sống sang thân thể người khác là
điều cực kì khó hơn, ông không thể chấp nhận được. Đó là sự đấu tranh rất lớn khi ông đang dần phải đối mặt
với những mâu thuẫn gây gắt của thể xác và tâm hồn xuất hiện trong tác phẩm.
Con người tồn tại gồm phần con và phần người. Phần con thuộc về bản năng. Phần người thuộc về nhân cách,
sự cao thượng đẹp đẽ của tâm hồn. Phần con và phần người đã tạo ra con người đúng nghĩa. Ở đây hai hình
tượng hồn và xác cũng là ẩn dụ cho phần con và phần người. Một bên đại diện cho những gì đẹp đẽ, thanh cao;
một bên đại diện cho sự thô tục, thô phàm. Tác giả Lưu Quang Vũ nhấn mạnh không thể có một tâm hồn thanh
cao trong một thân xác phàm tục. Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình, được hoà hợp
xác và hồn, trong và ngoài, nội dung và hình thức trong một thể thống nhất toàn vẹn chứ không phải là cuộc
sống chắp vá, bất nhất: “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.
Muốn sống đúng là chính mình thì mỗi chúng ta cần phải biết hài hòa giữa việc chăm lo cho linh hồn cũng như
biết quý trọng và chăm sóc cho những nhu cầu thiết yếu của thể xác. Thông qua đó Lưu Quang Vũ cũng góp
phần phê phán hai hạng người: một loại chỉ biết trau chuốt vẻ ngoài và chạy theo những ham muốn vật chất mà
không chăm lo cho đời sống tâm hồn. Loại khác thì luôn coi thường những giá trị vật chất, bỏ bê sự chăm sóc
bản thân chỉ khư khư giữ cho linh hồn được cao đẹp. Thông qua xác và hồn Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng
phải sống là chính mình đó mới chính là hạnh phúc thật sự của con người. Bởi vậy trong cuộc sống chúng ta
phải biết đấu tranh với sự dung tục tầm thường và chiến thắng nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của bản
thân. Có như vậy chúng ta mới được là mình – được là chính mình toàn vẹn.
à Ý nghĩa cuộc đối thoại giữa hồn và xác: đoạn đối thoại khẳng định ý nghĩa của sự thống nhất giữa linh hồn và
thể xác, giữa tính cách và ngoại hình. Đây là một vấn đề có tính khái quát cao, bao trùm nhiều mặt của đời sống
xã hội. Trương Ba rơi vào bi kịch tha hóa. Qua tình cảnh của Trương Ba tác giả cảnh báo: Khi con người sống
chung với dung tục sẽ bị dung tục lấn át, ngự trị và tàn phá những gì tốt đẹp, cao quý nhất của con người.

2. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân:


* Tất cả mọi người trong gia đình dù đã cố gắng chịu đựng để thích nghi với hoàn cảnh mới nhưng ngày càng
không thể chấp nhận sự thật quái gở trong nhà mình.
- Bà vợ dù rất thương chồng, dù biết trong thân xác nặng nề thô thiển kiên là linh hồn người chồng làm vườn
của mình nhưng bà đành cay đắng thừa nhận: “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày
xưa…”. Và bà đành bỏ đi trong xót xa, đau đớn.
- Đứa cháu gái ngây thơ, trong sáng dứt khoát không chấp nhận ông mình trong xác lão hàng thịt vụng về, thô
lỗ, làm hỏng cả cây, hoa, cả nan diều giấy của cu Tị. Nó căm ghét ông, nó mắng ông, đuổi ông vì ông ác, ông
xấu lắm, ông là lão đồ tể. Nó dồn hồn Trương Ba đến chân tường của sự ân hận.
- Chị con dâu – người hiểu và thương bố chồng nhất cũng thấy sợ vì sự thay đổi ngày càng nhiều, khiến chị
không nhận ra hình ảnh ông bố chồng hiền hậu, nhẹ nhàng, khéo léo trước đây. Bây giờ, trong thân xác lão hàng
thịt, ông bố chồng chị lộ rõ sự vụng về, thô lỗ, tàn nhẫn. Chị đau đớn mà không biết phải làm sao.
- Đối thoại với ba người thân yêu nhất của mình, hồn Trương Ba càng thêm đau khổ, tuyệt vọng trong bi kịch bị
người thân xa lánh.
- Đến đây xung đột đã lên tới đỉnh điểm cần giải quyết. Hồn Trương Ba đã tự nhủ rồi tự quyết định một hướng
giải thoát: “Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?”, “Chẳng còn cách nào
khác?”, “Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày
mang lại! Không cần!”.
à Ý nghĩa của màn thoại: cái quý nhất của con người là cuộc sống nhưng không phải bất cứ cách sống, kiểu
sống nào. Sống mà đánh mất bản thân, sống giả dối với mọi người, với chính mình, sống như hồn Trương Ba
đang sống thì thà chết còn hơn. Và hồn Trương Ba quyết định gọi mời Đế Thích xuống trần để thực hiện mong
muốn của mình.
3. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích:
- Gặp lại Đế Thích, hồn Trương Ba kiên quyết chối từ cảnh sống “bên trong một đằng bên ngoài một nẻo”, nêu
rõ khát vọng “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” khiến Đế Thích ngạc nhiên.
- Nhưng khi hiểu ra, ông ta lại khuyên Trương Ba nên chấp nhận vì thế giới vốn không toàn vẹn “dưới đất trên
trời đều thế cả” à hàm ý phê phán xã hội tồn tại những nghịch lý.
- Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống như thế
nào thì ông chẳng cần biết!”
à Lòng tốt hời hợt, nửa vời chẳng đem lại điều gì tốt đẹp, mà sự vô tâm còn tệ hại hơn, nó đẩy người khác vào
nghịch cảnh, vào bi kịch.

- Đế Thích định tiếp tục “sửa sai” bằng cách cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba kiên
quyết từ chối, không chấp nhận cảnh sống giả tạo, theo ông chỉ có lợi cho đám chức sắc (lí trưởng, trương tuần).
- Trương Ba kêu gọi Đế Thích hãy “sửa sai” bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho cu Tị. Đế Thích
cuối cùng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba với lời nhận xét: “Con người hạ giới các ông thật kì lạ”.
Khi gặp được Đế Thích, Trương Ba đã bày tỏ nguyện vọng: “Tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt
được nữa, không thể được!”. Chữ “không thể” được lặp lại hai lần thể hiện quyết tâm, ý chí sắt đá của Trương
ba khi quyết định rời khỏi thân xác của anh hàng thịt. Trước thái độ ngạc nhiên, bất ngờ của Đế Thích, Trương
Ba tiếp tục nói lên quan điểm sống cao đẹp: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”. Câu giải
thích là sự thú nhận nghịch cảnh mà Trương Ba đã phải chịu đựng: trong ngoài bất nhất. Bên trong là tâm hồn
cao khiết, nhân cách cao đẹp; bên ngoài lại là xác thịt thô tục, là những dục vọng, bản năng. Sự bất nhất là do
linh hồn của Trương Ba đã nhiều lần thỏa hiệp với bản năng. Đây chính là điều đã đè nặng lên tâm hồn Trương
Ba, khiến ông trăn trở, đau khổ và dằn vặt. Từ đó, Trương Ba đã nêu lên khát vọng chính đáng của mình: “Tôi
muốn được là tôi toàn vẹn”. “Toàn vẹn” là sự hài hòa của bên trong và bên ngoài, giữa tâm hồn và thể xác.
Trương Ba muốn hồn mình phải được hợp nhất với xác của mình để được sống cho đúng nghĩa. Đối với Trương
Ba, sống không chỉ là tồn tại, mà sống phải là chính mình, làm những điều mình mong muốn, trở lại là mình
toàn vẹn khi xưa.
Trước những yêu cầu, lập luận của Trương Ba, Đế Thích vẫn tỏ thái độ ngạc nhiên, cảm thấy khó hiểu trước suy
nghĩ kì lạ ấy: “Có gì không ổn đâu !”, “Nhưng mà ông muốn gì ?”. Đế Thích còn khuyên Trương Ba nên chấp
nhận cuộc sống hiện tại bởi: “Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư ? [...] Dưới đất, trên
trời đều thế cả, nữa là ông.” Đế Thích cho rằng tất cả mọi người đều đang sống trong hoàn cảnh trong ngoài bất
nhất, nên hãy chấp nhận, học cách thỏa hiệp với hiện tại. Những dẫn chứng mà Đế Thích đưa ra thể hiện một
quan điểm: sống là tồn tại, còn tồn tại như thế nào thì là do hoàn cảnh, điều kiện xung quanh; con người không
thể thay đổi hoàn cảnh mà chỉ có thể quy thuận dù là điều mình không mong muốn. Xét vào thực tại cuộc sống,
đây là quan điểm được nhiều người chia sẻ dù nó mang hơi hướng tiêu cực.

Không chấp nhận lời giải thích, lập luận của Đế Thích, Trương Ba đã thẳng thừng lên án thái độ sống ấy: “Ông
chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời thoại đã thẳng thừng lên
án hành động và suy nghĩ sai trái của Đế Thích. Sống không chỉ là tồn tại đơn thuần, là thuận theo bản năng và
hoàn cảnh mà đó phải là cuộc sống có nghĩa, sống là mình, là sự vượt lên những vui thích tầm thường để bảo vệ
những giá trị cốt lõi của linh hồn cao đẹp.

Đoạn đối thoại phía sau là sự đấu tranh giữa “tồn tại hay không tồn tại”. Đáp trả lại câu hỏi của Đế Thích,
Trương Ba bày tỏ nguyện vọng: “Thân thể anh hàng thịt còn lành lặn nguyên xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông
hãy làm cho hồn anh ta được sống lại với thân xác này”. Đế Thích lại cho rằng như thế là không thích hợp: “Sao
có thể đổi tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ cho cái phần hồn tầm thường của anh hàng thịt ?”. Trương Ba lại
bác bỏ: “Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta… chúng sinh ra là để sống với nhau”. Quyết tâm lên cao có thể
đẩy lời nói thành những hành động quyết liệt hơn: “Nếu ông không giúp, tôi sẽ nhảy xuống sông hay đâm một
nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất”. Sự mạnh mẽ, lời nói đầy táo bạo ấy
không ai dễ gì mà nói ra được, nhưng với Trương Ba, khát vọng “được sống là chính mình” đã thôi thúc tâm
hồn cần một sự thay đổi để xóa bỏ nghịch cảnh một cách triệt để: cái chết. Chỉ khi chết đi, Trương Ba mới có
thể là Trương Ba, tâm hồn cao khiết được bảo toàn trọn vẹn, chính mình được thanh thản và để đổi lấy sự hồi
sinh của một người chồng, một người cha, một người ông trong trái tim những người ông yêu quý.

Xen vào giữa cuộc đối thoại là tiếng khóc của cái Gái và sự ra đi của thằng cu Tị. Đế Thích muốn Trương Ba
nhập hồn vào xác cu Tị: “Ông sống trong thân xác thằng bé chắc sẽ ổn”. Câu nói này lại một lần nữa thể hiện
lối suy nghĩ hời hợt, thiếu chín chắn của Đế Thích. Thực chất, Đế Thích lại một lần nữa đồng hóa định nghĩa
của “sống” và “tồn tại”. Trước đề nghị ấy, Trương Ba đã có một hồi phân vân. Với Trương Ba, sống vẫn đáng
quý, Trương Ba vẫn muốn được tiếp tục sống. Nhưng những suy nghĩ quẩn quanh về những ngày sống dưới xác
hàng thịt, những mường tượng tương lai khi trú ngụ trong xác cu Tị, Trương Ba đã đi đến quyết định: “Tôi
không thể cướp cái thân thể non nớt của cu Tị”, “Ông hãy cứu nó! Ông phải cứu nó!… vì con trẻ… Ông hãy
giúp tôi lần cuối cùng”. Quan niệm sống cao đẹp càng sáng ngời thông qua lời đối thoại: “Có những cái sai
không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải
bù bằng một việc đúng khác”. Đoạn đối thoại không chỉ làm sáng lên một tư tưởng sống mang tính vĩnh hằng:
“sống là chính mình” mà còn phê phán lối sống: “sống là tồn tại” và lên án sự làm việc tắc trách của những bậc
làm quan.
Đoạn đối thoại chính là phân đoạn phát triển thêm so với cốt truyện gốc. Bằng tài năng dựng cảnh, dựng đối
thoại, độc thoại nội tâm, Lưu Quang Vũ đã cho người đọc những chân lý sống vô cùng quý giá. Chân lý sống ấy
không chỉ đúng với thời đại đó, với những con người trong hoàn cảnh đó mà nó có ý nghĩa với tất cả mọi người,
ở mọi thời đại, trên khắp nẻo đường ngõ xóm. Chính điều này đã nâng tầm giá trị cho tác phẩm của Lưu Quang
Vũ, để đến sau này, vở kịch vẫn sẽ được dựng lại như sự lưu danh một nhà soạn kịch tài năng và là lời nhắn nhủ
đến những thế hệ sau về một quan niệm sống tốt đẹp.
Ý nghĩa của màn thoại: Qua màn đối thoại, ta thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp, vừa trực tiếp vừa gián
tiếp, vừa mạnh mẽ quyết liệt vừa kín đáo sâu sắc. Nhưng nổi bật hơn cả là ý nghĩa về lẽ sống của con người, vẻ
đẹp tâm hồn con người trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn,
hợp lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng bộc lộ ở đây.
Con người là một thể thống nhất giữa hồn và xác, không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm
tục, tội lỗi. Khi con người bị dục vọng bản năng chi phối làm cho tha hóa không thể chỉ đổ tội cho thân xác,
cũng không thể tự an ủi bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn thanh cao. Sống thực là mình, sống trung thực
không phải dễ. Sống nhờ, sống gửi, sống giả dối dù có sung sướng về vật chất đến đâu cuộc sống vẫn đầy day
dứt, đau khổ và vô nghĩa.
4. Màn kết:
- Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch và hóa thân vào các sự
vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy
luật muôn đời.

- Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho vở bi kịch đồng thời truyền đi thông điệp
về sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp và của sự sống đích thực.

You might also like