You are on page 1of 40

Ôn thi Đại học môn Văn theo chuyên đề:

Vợ chồng A Phủ
Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm đặc sắc của nhà văn Tô Hoài, chuyên đề này nhằm
cung cấp, phân tích cho các em các kiến thức về nội dung, nghệ thuật tác phẩm.

Câu 1: Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà
văn Tô Hoài

Gợi ý trả lời


a. Yêu cầu kĩ năng: HS biết vận dụng kĩ năng phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự,
diễn đạt trôi chảy, kết cấu mạch lạc.
b. Yêu cầu về kiến thức: HS trên cơ sở nắm nội dung tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” để
phân tích hình tượng nhân vật Mị. Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần
làm nổi bật các điểm:
* Nội dung:
- Ấn tượng về nhân vật ở đầu tác phẩm: Ở nhà thống lí Pá Tra mà cô gái lúc nào cũng
buồn, lẫn vào giữa những đồ vật vô tri.
- Một số phận éo le, bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí, có cuộc sống không bằng
thân con trâu, con ngựa.
- Một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt:
+ Ý thức về cuộc sống tự do
+ Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân.
+ Hành động cởi trói cho A Phủ.
* Nghệ thuật: Lời kể mộc mạc, lôi cuốn; phân tích tâm lí nhân vật sâu sắc; trục thời gian
giữa quá khứ và hiện tại đan xen…
* Đánh giá: Mị là nhân vật điển hình cho số phận của người phụ nữ miền núi phía Bắc
trước Cách mạng Tháng 8.
Câu 2: Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Vợ nhặt của Kim Lân là hai truyện ngắn đều
viết về số phận và vẻ đẹp tâm hồn của người lao động. Em hãy phân tích hai truyện ngắn
trên trong mối quan hệ đối sánh để nêu bật đặc sắc riêng của từng tác phẩm.

Gợi ý trả lời


a.Yêu cầu về kỹ năng:
- Biết cách làm bài văn nghị luận văn học với kỹ năng chính là phân tích tác phẩm trong
sự đối sánh để thấy được những nét chung của 2 tác phẩm, đồng thời cũng nêu được vẻ
đẹp độc đáo của từng tác phẩm
- Bố cục bài làm rõ ràng, chặt chẽ; văn viết trôi chảy, có cảm xúc, không mắc lỗi diễn đạt.
b.Yêu cầu về kiến thức:
Học sinh nắm vững và biết phân tích 2 tác phẩm đã cho ở đề bài trong sự đối sánh để đáp
ứng những nội dung cơ bản sau:
* Điểm chung ở 2 tác phẩm:
- Cả 2 tác phẩm đều là những sáng tác thuộc giai đoạn văn học cách mạng 1945-1975
- Nhân vật chính trong tác phẩm đều là những người lao động có cuộc sống bất hạnh, khổ
đau nhưng ở họ đều có những vẻ đẹp trong tâm hồn: Cho dù có bị cuộc sống vùi dập, bị
đẩy vào tình thế bi đát nhưng ở họ vẫn luôn có niềm tin vào cuộc đời, vẫn luôn hướng tới
một tương lai tươi sáng.
* Nét riêng: -Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài:
+ Miêu tả số phận: Tác phẩm là bức tranh chân thực về số phận đau khổ của những người
nông dân lao động miền núi dưới ách áp bức nặng nề của phong kiến, thực dân.
+ Phát hiện, khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của người lao động: Tác phẩm chính là bài ca về
sức sống bất diệt, về khát vọng tự do hướng tới cuộc đời mới và cách mạng của những
người lao động miền núi vùng Tây Bắc của tổ quốc.
- Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân:
+ Miêu tả số phận: Tác phẩm đã khắc họa một cách chân thực, cảm động về thân phận bi
thảm, rẻ rúng của con người trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945-Trong nạn đói,
con người có thể bị xem như một thứ hàng có thể nhặt được giữa đường…
+ Phát hiện, khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của người lao động: Dù phải đối mặt với cái chết
đang cận kề, người lao động vẫn cưu mang, đùm bọc, che chở và giúp đỡ nhau để vượt
qua hoàn cảnh khốn cùng, họ vẫn luôn khao khát một tổ ấm gia đình, hướng tới tương lai
tươi sáng.
Qua phân tích những đặc sắc riêng ở từng tác phẩm, học sinh cần thấy vai trò và khả năng
sáng tạo của nhà văn, đồng thời cũng cần thấy được khuynh hướng chung trong cảm nhận
và miêu tả, khám phá đời sống của văn học cách mạng Việt Nam sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945.
Câu 3: Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy nêu giá trị hiện thực và nhân đạo của tác
phẩm Vợ chồng A Phủ (Bài 1)

Gợi ý trả lời


Vợ chồng A Phủ là một trong ba tập trong Truyện Tây Bắc (in năm 1954) của nhà văn Tô
Hoài. Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi vợ chồng trẻ người Mèo là Mị và A Phủ. Mị bị
bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thông lí. A Phủ vì dám đánh A Sử, con trai thống lí
nên phải làm đày tớ đế trừ tiền phạt vạ. Cùng cảnh ngộ đau khổ, Mị đã cứu A Phủ. Hai
người trốn khỏi nhà Pá Tra, tìm đến tận Phiềng Sa, thành vợ, thành chồng, cùng nhau xây
dựng cuộc đời mới. Được cán bộ cách mạng giác ngộ, Mị cùng A Phủ trở thành du kích
bảo vệ khu giải phóng.
Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Thông qua số phận Mị và A
Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi trước cách
mạng và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ.
Dưới thời thực dân phong kiến, bọn lang bạo chúa đất ở vùng cao mặc sức làm mưa làm
gió. Chúng nắm trong tay quyền lực của hành chính, tập tục và thần linh. Chúng có quyền
sinh, quyền sát. Bởi thế tính mạng người dân bị coi như cỏ rác. Điển hình cho tầng lớp
thống trị miền núi được miêu tả trong truyện là cha con tên thông lí Pá Tra với tính cách
bạo ngược và lối sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt người nghèo.
Cũng như bao tên chúa đất khác, thông lí Pá Tra có đủ mọi thủ đoạn hiểm độc trong việc
áp bức, bóc lột dân chúng, đẩy họ vào cảnh bần cùng để rồi mặc nhiên trở thành nô lệ của
hắn. Mị và A Phủ là nạn nhân trong bao nạn nhân khác của cha con hắn.
Mị vốn là một cô gái mang đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người ,
đẹp nết, Mị được nhiều trai bản yêu mến. Cuộc sống, tuổi thanh xuân, hứa hẹn với cô bao
điều tốt lành. Nhưng chi vì món nợ của cha mẹ cô vay thống lí từ ngày cưới cho đến lúc
mẹ cô chết vẫn chưa trả được nên Mị phải đem thân làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí.
Là người nhưng cô bị coi như một thứ đồ vật vô tri, vô giác đế tính ra tiền trừ vào số nợ.
Những ngày Mị sống với cha con tên thông lí là chuỗi dài đau thương vất vả. Danh nghĩa
là dâu nhà quan nhưng thực chất cô là đầy tớ không công, bị coi rẻ hơn cả con trâu, con
ngựa. Suốt ngày nai lưng ra làm quần quật, đêm đến cô lại phải thức hầu hạ thằng chồng
tàn ác.
Đau khổ, cực nhọc đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu.
Cô gái Mèo xinh đẹp, hồn nhiên, đa tình, đa cảm thuở nào đã chết. Chi còn lại người đàn
bà “lúc nào cũng vậy... cũng cúi mặt buồn rười rượi… ngồi ngay sợi gai bên tảng đá
trước cửa, cạnh tàu ngựa...”. Mị âm thầm “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa".
Mị không những bị đọa đày về thể xác mà còn bị đè nén về tinh thần, Mị chán sống
nhưng không được chết. Vì có chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn là người cha già
càng đau khổ hơn. Cuộc đời Mị bị ràng cột bằng quyền lực, bị trói buộc bằng tập tục mê
tín lâu đời của người dân miền núi.
Cách đối xử bất công, tàn bạc của cha con tên thống lí làm cho Mị ngập chìm trong đau
khổ triền miên. Cô lặng lẽ ra vào như một cái bóng, không một người bạn chia sẻ tâm
tình. Cô chi còn biết làm bạn với ngọn lửa “trong những đêm đông dài và buồn”. Thân
xác Mị, tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, “nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến
chết kéo".
Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp cô xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ
cuộc đời cô. Không có bạn bè cảm thương với nỗi khổ của mình, phải tìm đến ngọn lửa,
coi nó là bạn. Khổ biết chừng nào!.
Bao năm qua, Mị bị đọa đày trong nhà thông lí, mọi cảm xúc của cô hầu như tê liệt. Tinh
thần phản kháng cũng vậy. Bây giờ Mị đã nghĩ rằng minh là con trâu, con ngựa của nhà
giàu, chỉ biết ăn cỏ và đi làm thôi. Con trâu, con ngựa nhà giàu đêm còn được nghi, còn
cô không lúc nào ngớt việc. Trước kia. cô phản kháng dữ dội bằng cách định ăn lá ngón
tự tử, giờ cô không nghĩ đến chuyện chết nữa vì quá quen với cái khổ rồi, vì cho rằng
sống mà như chết. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Với Mị, cuộc sống chẳng còn nghĩa lí,
không còn gợi cho cô ý thức gì về quá khứ, hiện tại, tương lai. Cái ác cùa bọn thống lí là
đã giết chết phần tốt đẹp của con người.
Cuộc đời A Phủ, người con trai Mèo cũng không kém phần chua xót. Khỏe mạnh, ngang
tàng, phóng khoáng, làm nương giỏi, săn thú tài, A Phủ được bao cô gái say mê, ao ước.
Nhưng hạnh phúc không dến với chàng trai nghèo khổ mồ côi ấy. Vì dám đánh bại trăm
đồng bạc trắng, phải đi ở trừ nợ làm ngựa cho nhà thống lí: "Đời mày, đời con, đời cháu
mày tao củng bắt thể, giờ hết nợ tao mới thôi”.
Ngày này qua tháng khác, A Phủ phải làm việc cật lực, chăn dắt bầy bò đông máy chục
con. Không may một con bò bị hổ ăn thịt. A Phủ bị trói đứng vào cột chờ chết, không
được ăn, không được uống.
Con người khi phách ngang tàng như A Phủ mà phổi lặng lẽ khóc cho thân phận tủi nhục
cua mình: "hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm
má đã xám đen lại”. Chút ý thức phản kháng trong anh đã bị hiện thực phũ phàng dập tắt.
Ngòi bút nhà văn tỏ ra sắc sảo trong việc miêu tả con người và cuộc sống vùng cao. Cha
con tên thống lí và lũ tay sai là hiện thân của giai cấp thống trị tàn ác, vô nhân đạo. Bọn
lý dịch, quan làng, thống quản... lợi dụng chuyện A Phủ đánh A Sử để kéo đến nhà thống
lí xử kiện và ăn cỗ “suốt từ trưa cho đến hết đêm". Mấy chục người “hút thuốc phiện rào
rào”. Cứ mỗi đợt chúng hút xong A Phủ lại phải quỳ ra giữa nhà để người nhà thống lí xô
đến đánh: “cứ như thế suốt chiều, suốt đêm, càng hút càng tỉnh, càng đánh càng chửi,
càng hút..".
Giá trị hiện thực của truyện ngoài việc tái hiện đoạn đời khô ải của những người nô lệ
còn nói lên một sự thật xót xa: người dân bị áp bức, đè nén quá lâu sẽ bị tê liệt tinh thần
phản kháng, sẽ bị đầu độc bởi tâm lí nô lệ. Bạo lực cấu kết với thần quyền, với mê tín dị
đoan làm cho họ không cất đầu dậy nổi.
Nhưng trong cuộc đời, mọi cái đều có giới hạn. Có áp bức, có đấu tranh Mị và A Phủ
cũng như bao người khác sẽ vùng lên tự giải phóng, giành quyền làm người tự do. Đoạn
đời sau cùa vợ chồng A Phủ chứng minh qua luật muôn đời ấy.
Trong giá trị hiện thực của tác phẩm đã ẩn chứa giá trị nhân đạo sâu xa. Có căm thù giai
cấp thông trị và xã hội bất công, tác giả mới lên tiếng tố cáo mãnh liệt. Có cảm thương số
phận đau khổ của con người, tác giả mới viết nên những trang sách gây xúc động mạnh
mẽ như vậy.
Nhưng nhà văn không để nhân vật của mình bị dồn vào thế tuyệt vọng. Điều kì diệu là
dẫu trong cùng cực thế nào chăng nữa thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được
sức sống con người. Cách nhìn nhận của Tô Hoài trong tác phẩm này hết sức nhân bản.
Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt. Từ trong sâu
thẳm tâm hồn người con gái bị đọa đày kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham
sống. Mùa xuân về, Mị lén uống rượu và “lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị
văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng... Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui
sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ,Mị muốn đi chơi.. ”.
Nhưng rồi thực tại đen tối đã cố tình dập tắt tiếng sáo thiết tha và hình ảnh mùa xuân rực
rỡ. Phản ứng tự phát ban đẩu của Mị không thể giải phóng được cuộc đời có nhưng
những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro
than, có ngày sẽ bùng cháy dữ dội.
Ngày ấy đã đến với Mị trước cảnh A Phú bị trói, “Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt
nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc,
nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng
người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trời đến chết người đàn bà ngày
trước cũng ở cái nhà này... Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết
đói, chết rét, phải chết. Ta thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết
đợi ngày rũ xương ở đây thôi, người kia việc gì mà phải chết thế.. ".
Mị không cầm lòng được trước cảnh con người sắp bị hủy diệt. Mị động lòng thương,
thương người, thương thân, Mị nhớ đến những khổ sở, hãi hung mà mình đã phải chịu
đựng suốt mấy năm qua. Giọt nước mắt đau khổ của A Phủ như giọt nước làm tràn bình
nước đã đầy. Nó thức tỉnh nỗi đau lắng chìm trong lòng Mị. Cảm thương số phận A Phủ,
lòng căm thù cha con tên thống lí độc ác bùng lên, lấn át nỗi sợ hãi, dẫn Mị đến hành
động táo bạo ngoài ý thức: Cắt dây trói cứu A Phủ.
Đây là hành động bộc phát song nó là kết quả tất yếu của một quá trình dồn nén, bức xúc
về mặt tinh thần, bây giờ đã đến lúc giải thoát. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt đứt
những dây trói vô hình đã cột chặt cô vào quãng đời tủi nhục bấy lâu nay. Cô vụt chạy
theo A Phủ bởi cô ý thức được sự sống còn của minh: “Ở đây thì chết mất". Mị đã chạy
theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, giải phóng mình ra khỏi nanh vuốt cha con tên thống
lí.
Hai con người cùng cảnh ngộ đã “lẳng lặng díu nhau lao chạy xuống núi” bỏ thật xa cái
địa ngục giam cầm, đày đọa họ mấy năm trời. Từ trong chết, họ vùng dậy tìm lẽ sống,
làm lại cuộc đời.
Chạy trốn khỏi Hồng Ngài, thoát khỏi ách áp bức của thống lí Pá Tra. Vợ chồng A Phủ
lại gặp phải kẻ thù mới không kém phần nguy hiểm là giặc Pháp. Chúng là lũ cướp nước
đồng thời cướp cả mọi thứ và quyền tự do sống làm người, chẳng khác gì bọn cường hào
ác bá miền núi.
Chúng càn lên núi cao, đốt nhà, cướp của, bắt người. A Phủ bị chúng cướp mất đôi heo,
bị đánh, bị đi phu khiêng đá xây đồng... A Phủ căm thù, chửi bới giặc Pháp và đã nhận
thức được rằng mình là người tự do, của cải bị chúng cướp đi là mồ hôi, nước mắt cùa
mình. Phải nhớ lấy để mà trả thù.
Sống ở Phiềng Sa, vợ chồng A Phủ mới thực sự được làm người. Họ được cán bộ A Châu
giác ngộ cách mạng, từ một chàng trai nghèo khổ, nô lệ, A Phủ đã trở thành một du kích
dũng cảm, tự tin. Anh thực sự trở thành chỗ dựa tinh thần của Mị. Sống bên A Phủ, Mị
dần dần hết lo sợ, cô vững tin vào cuộc sống mới vào kháng chiến. Được đứng lên đánh
lại kẻ thù áp bức mình trong tư cách mình là con người, ý thức ấy mới thực sự có ý nghĩa
nhân đạo.
Quá trình giác ngộ cách mạng cùa vợ chồng A Phủ tiêu biểu cho con đường đến với
Đảng, với cách mạng của đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi ta. Qua tác phẩm, nhà
văn gián tiếp khẳng định chỉ có cách mạng mới phóng con người ra khói ách áp bức, bất
công, giúp con người vươn tới cuộc tự do, hạnh phúc, cuộc sống làm người. Tô Hoài khi
tái hiện bức tranh hiện thực với những bản chất của nó không thể không miêu tả quá trình
vận động, quy luật của cuộc sống. Đấy là giá trị nhân đạo sâu xa của tác phẩm.
Qua việc miêu tả sô phận của hai nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn đã sống lại trước mắt
người đọc cả quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man
của bọn quan lại, chúa đất phong kiến. Đồng thời khẳng định chỉ có sự vùng dậy của bản
thân theo dẫn dắt của cách mạng giải phóng được con người ra khỏi kiếp ngựa trâu, nô lệ.
Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn của tác phẩm. Giá trị này giúp truyện
đứng vững trước thử thách của thời gian và vẫn được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích.
Câu 4: Nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ là một thành công của Tô Hoài
trong việc xây dựng con người thức tỉnh. Hãy chứng minh nhận định ấỵ?

Gợi ý trả lời


Truyện Vợ chồng A Phủ trong tác phẩm Truyện Tây Bắc (1953) là thành công tốt đẹp
đầu tiên của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám. Qua cuộc đời tủi nhục đau khổ của Mị
và A Phủ hai nô lệ của thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ
của người Mèo trong chế độ cũ và sự vùng dậy của họ để giành lấy tự do, hạnh phúc, một
lòng đi theo cách mạng và kháng chiến.
Nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ là một thành công của Tô Hoài trong việc
xây dựng con người thức tỉnh con người trong văn học là những nhân vật từng nếm trải
nhiều cay dắng, tủi nhục và đau khổ trải qua những năm dài bị áp bức bóc lột bị chà đạp,
giày xéo mà trở thành con người gần như vô cảm vô hồn, sống trong trạng thái nhẫn nhục,
cam chịu cho thân phận mình. Cuối cùng, con người thức tỉnh dần dần “hồi sinh”, tự ý
thức về quyền sống và quyền làm người của mình, phản kháng áp bức, bất công giành lấy
tự do và hạnh phúc, xây dựng một cuộc sống có ý nghĩa. Cùng với nhân vật A Phủ, ta
thấy rõ nhân vật Mị là “con người thức tỉnh giàu ý nghĩa nhân văn.
Cuộc đời Mị đầy bi kịch. Mị xinh đẹp, thổi sáo hay, nhiều chàng trai Mèo mê “ngày đêm
đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhưng hạnh phúc tuổi xuân khônp đến với người con gái đáng
thương này. Mẹ Mị đã mất. Nhà nghèo, bố Mị đã già món nợ truyền kiếp mỗi năm phải
đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô đã trở thành sợi dây oan nghiệt đối với Mị. Mị đã
bị A Sử (con trai thống lí Pá Tra "cướp được” đem về cúng trình ma. Bố Mị chỉ còn biết
cất lời than trong nước mắt: “Chao ôi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp
trước,giờ người ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thể nào khác được rồi!”.
Mị chịu kiếp con dâu gạt nợ đau khổ, túi nhục vô cùng. Đêm nào MỊ cũng khóc tự
thương cho số phận mình, Mị phải chết, Mị phải tự tử bằng lá ngón hái được ở trong rừng
- Hình ảnh Mị: “hai tròng mắt còn đỏ hoe”, quỳ lại, úp mặt xuống đất, nức nở, hình ảnh
bố Mị “cũng khóc” cất lời than... đã cho thấy được bi kịch đầy nước mắt! Mị muốn ăn lá
ngón tự tứ và Mị không cam chịu kiếp nô lệ trong thân phận con dâu gạt nợ. Mị muốn
được sống trong một cuộc đời đáng sống, sống có ý nghĩa làm người. Sống trong nô lệ và
tủi nhục Ai tự tử còn hơn. Phán kháng ấy tuy tiêu cực, nhưng cho thấy Mị đã ý thức về
nhân phẩm của mình. Ý thức về nhân phẩm, phủ định thực tại đen tối là biểu của con
người thức tỉnh.
Mị muốn chết mà không chết được. Mị chết nhưng nợ quan vẫn còn, bố Mị yếu quá rồi.
Ai có thể làm nương ngô giả được nợ thống lí! Mị chỉ còn khóc. Mị phải ném nắm lá
ngón xuống đất. “Mị không đành lòng chết... còn phải trở lại nhà thống lí”. Mị cam chịu
kiếp nô lệ con dâu gạt nợ vì thương bố. Mị hiếu thảo và giàu hi sinh biết bao!
Quá trình thức tỉnh của con người thức tỉnh là những năm dài đen tối, những tháng ngày
tủi nhục đắng cay. Mị cũng vậy. Nơi Mị ở là một cái kui mít như cái chuồng nhốt thú, chỉ
có một lỗ vuông bằng bàn tay ra. Có lúc Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ
vuông ấy mà ra “đến bao giờ chết thì thôi”. Nhan sắc, tuổi xuân của Mị bị tước đoạt, xéo,
bị chà đạp. Mị bị bóc lột tàn nhẫn, phải làm quần quật quanh năm lên núi hái thuốc phiện,
bẻ bắp, hái củi, bung ngô... lúc nào cũng gài một bó đay trong tay để tước thành sợi. Có
lúc lại thấy Mị quay sợi bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa. Bó đay ấy, tảng đá ấy như
cái xiềng, cái xích, cái dây oan nghiệt đối với Mị. Mị bị áp bức mà trở nên tê liệt dần.
Không ăn lá ngón tự tử nữa. Mị “tưởng mình cũng là con trâu, cũng là con ngựa". Mị
“cúi mặt”, “mặt buồn rười rượi''. Mị cam chịu “ở lâu trong cá khổi Mị quen khổ rồi”. Gần
như vô cảm vô hồn, lâu dần “Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa’’.
Thân phận Mị có khác nào cô gái Thái bị ép duyên trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu:
Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa
Bằng con chẫu chuộc thôi...
Cảm thấy kiếp mình, thân phận mình như con trâu, con ngựa, con rùa, con bọ ngựa, con
chẫu chuộc, có nghĩa là chén đắng cay cùa cuộc đời đã uốn cạn chỉ còn sống trong tê liệt,
nhẫn nhục và cam chịu. Chẳng phải đời Mị đà lụi tàn?
Con người thức tỉnh được hồi sinh không chi với ngoại cành mà còn tự tâm hồn mình, ỷ
thức mình. Mị đã thức tỉnh với những đêm tình mùa xuân ờ Hồng Ngài. Tết đến, mùa
xuân làng Mèo làm cho hoa thuốc phiện “đỏ au" thêm rực rỡ, những chiếc váy hoa phơi
trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ Những cuộc vui chơi của trai gái, trẻ con như
đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy múa diễn ra náo nhiệt trên sân trước nhà.
Và tiếng sáo tiếng khèn “rủ bạn đi chơi” làm cho Mị “thiết tha bổi hổi”. Mị nhẩm theo
tiếng hát, tiếng sáo vọng lại:
... Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu...
Tiếng sáo lay gọi, thức tỉnh tâm hồn Mị. Mị lén lấy hũ rượu, “cứ uống ừng ực từng bát".
Uống cho tan nỗi hận! uống cho vơi đi bao đau khố chứa chất trong lòng! Say “lịm mặt”,
Mị “sống về ngày trước". Mị nhớ lại thời con gái, Mị thổi sáo bao người mê. Tiếng sáo
gọi bạn tình đã nhập vào hồn Mị, “tai Mị văng vẳng tiếng sáo. Mị đã thật sự hồi sinh và
hồi xuân. Mị tự ý thức là “Mị trẻ lắm. Mị vẫn trẻ”. Mị cảm thấy “phơi phới”, trong lòng
“đột nhiên vui sướng” như những đêm Tết ngày trước thời con gái. Mị muốn đi chơi Tết.
Khao khát được sống trong tình yêu hạnh phúc như ngọn lửa bùng cháy tâm hồn Mị.
Mị được thức tỉnh về cảnh ngộ. MỊ thấy vô lí, bất công đến tàn nhẫn đến cay đắng. Bao
nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Mị với A Sứ “không có lòng với nhau mà
vẫn phải ở với nhau!”. Thật là trớ trêu! Mị muốn ăn lá ngón cho chết. Mị ứa nước mắt.
Tiếng sáo gọi bạn yêu đang “lửng lơ bay ngoài đường. Đó là tâm lí của Mị trong đêm
tình mùa xuân. Tiếng sáo lay tỉnh. Mị đang “vùng vẫy“ cố thoát cảnh ngộ đau khổ và tủi
nhục!
Mị đã phản kháng, đã hành động. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Với tay lấy váy
hoa, rút thêm cái áo, quấn lại tóc. Mị “sắp đi chơi". Hành động Mị ngang nhiên diễn ra
trước mắt thằng A Sứ. Mị chẳng thèm trả lời câu hỏi của hắn: “Mày muốn đi chơi à?”. Mị
đã bị thằng A Sử trói vào cột buồng bằng cả một thúng sợi đay. làm cho Mị “không cúi,
không nghiêng đẩu được nữa”. Mậc dù lúc mê lúc tinh, lúc khắp người “bị dây trói thít
lại, đau nhức", nhưng Mị vẫn “nồng nàn. tha thiết nhớ’, “vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi
theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Điều đó cho thấy, Mị được thức tỉnh về tình yêu,
về hạnh phúc, khao khát của Mị rất mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân cho thấy ngòi bút
phân tích tâm lí và hành động Mị, con người thức tỉnh của Tô Hoài rất tinh tế, sâu sắc.
Trang văn thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả.
Mị có bị ngã gục trước số phận đen tối tủi nhục không? Con ma nhà thông lí uy quyển
của Pá Tra. bộ mặt độc ác của A Sứ, và món nợ truyền kiếp, tất cả đã thít chặt Mị bằng
những sợi dây oan nghiệt vô hình. Sau đêm bị trói ấy, Mị mỗi ngày một tê dại đi. Mị “chỉ
còn biết, còn ở với ngọn lửa". Đêm nào. MỊ cũng “thức sưởi lửa suôi đêm". Mị và A Phủ
“gặp nhau" tại nhà thống 1í như một tiền định. Người con dâu gạt nợ. Người vì tội đánh
con quan mà trở thành người “vay nợ, ở nợ". Cả hai đều là con trâu, con ngựa của nhà
thống lí Mị đã bị A Sừ trói đứng suốt đêm bằng một thúng sợi đay. A Phủ vì tội để hổ bắt
mất một con bò mà bị Pá Tra trói vào cọc bằng một cuộn mây, A Phủ bị trói đã mấy ngày
đêm. Mỗi đêm, nghe tiếng phù phù thổi A Phủ “mở mắt”...; thấy ngọn lửa sưởi bùng lên,
A Phủ “trừng mắt”. Mị nhìn sang, rồi “thản nhiên” thổi lửa, hơ tay. Cho dù “nếu A Phủ là
cái xác chết đứng đấy, cũng thể thôi”. Tâm hồn Mị đã héo hắt, đã tàn lụi, đã giá lạnh đến
cùng cực! Thật đáng sợ.
Nhưng rồi cảnh ngộ, tình thướng và lòng căm thù đã thức tỉnh ý thức Mị, tâm hồn Mị.
Qua “ngọn lửa bập bùng”, MỊ “lé mắt trông sang” Mị xúc động nhìn thấy “một dòng
nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm mắt đã xám đen lạị" của A Phủ. Mị nhớ lại đêm
năm trước, A Sử cũng trói đứng Mị như thế Mị khẽ thốt lên lời than: “Trời ơi!...”. Mị
nguyền rủa cha con thống lí: chúng nó thật độc ác”. Bao cảnh thương tâm đồng hiện
trong tâm hồn Mị: bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói
chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Mị tự thương cảnh ngộ mình; thương
A Phủ trên bờ vực thẳm, khi tử thần đã gõ cửa: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia
chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị nghĩ về thân phận mình, tưởng như là
cam chịu: “Ta là thân đàn bà, nó đã bát ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn bỉếi đợi ngày
rũ xương ở đây thôi...”. Mị ý thức được A Phủ không thể chết, “việc gì mà phải chết thế”.
Con đường thức tỉnh của con người thức tỉnh là con đường vòng, có lúc ngập ngừng do
dự, có lúc quyết liệt. Mị cũng thế, Mị tưởng tượng A Phù trốn thoát, Mị sẽ bị trói trên cái
cọc oan nghiệt ấy! Đám than vạc hẳn lửa. Hình như bóng tối cho Mị sức mạnh, “trong
tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ...”.
Hành động của con người thức tỉnh là “hành động tự phủ định, hành động tự giải thoát"
(J.P.Sartre). Mị đã toan ăn lá ngón để tự tử, đó là ra lệnh: “.Rồi MỊ đứng lặng trong bóng
tối. Đó là “khoảnh khắc bi kịch”. Ở lại là chết trong đau đớn như người đàn bà nọ. Chạy
trốn còn có thể sống Mị nói liên tiếp hai câu như kêu cứu và đuổi chạy theo A Phủ: “A
Phủ cho tôi đi…ở đây thì chết mất...”. Mị và A Phủ dìu nhau cùng chạy trốn đến Phiền
Sa khu du kích. Phiền Sa là chốn nương thân cho họ. Cách mạng và kháng chiến mới là
đất hứa, đất thánh cho người thức tỉnh. Mị cắt dây trói A Phủ cũng là tự cắt dây trói để
giải thoát mình. Như con chim sổ lồng,thoát khỏi bóng tối vươn tới ánh sáng, từ nô lệ tủi
nhục mà giành dược tự do, hạnh phúc, cùng với A Phủ nên vợ nên chồng, rồi trở thành
chiến sĩ du kích.
Mị là nhàn vật thức tinh. Tô Hoài đã phân tích tinh tế, sâu sắc mọi diễn biến về tâm lí và
hành động Mị trong quá trình thức tỉnh với tất cả sự thương xót và đồng cảm sâu sắc. Mị
là nhân vật thức tỉnh có sức mạnh phản kháng và sức sống tiềm tàng. Nhân vật Mị đã góp
phần thể hiện giá trị nhân văn của truyện Vợ chồng A Phủ.
Và ta càng thấm thía về cái giá của tự do. Cái mùi vị của tự do là “cái vị ngọt ngào và có
mùi tanh đồng” như Hêminguê đã nói.
Câu 5: Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ.

Gợi ý trả lời


Vơ chồng A Phủ (1953), Miền Tây (1967), Vừ A Dính (1962)... là những tác phẩm nổi
tiếng cùa Tô Hoài viết về phong tục, cảnh sắc và con người miền Tây của Tổ quốc ta. Tô
Hoài đã từng nói: “Tôi coi Việt Bắc, Tây Bắc cũng như một quê hương đề tài của tôi...”
(Văn nghệ số 14/10/1995). Tập truyện Tây Bắc là nét son chói lọi đầu tiên của sự nghiệp
văn chương Tô Hoài viết về đề tài miền Tây. Một chuyến đi dài, Tô Hoài theo bộ đội vào
giải phóng Tây Bắc(1952) . Ông đã viết thành công tác phẩm Truyện Tây Bắc, trong đó
có truyện Vợ chồng A Phủ. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ và
sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để giành
lấy tình yêu, hạnh phúc.
Những trang viết về Mị - một trong hai nhân vật chính của truyện là vô cùng cảm động.
Mị tuy bị chà đạp, bị giày xéo trong bể khổ cuộc đời, nhưng cô có một sức sống tiềm tàng
ki lạ! Mị là một cô gái trẻ và đẹp, duyên dáng, hiếu thảo, thổi sáo hay, “có biết bao người
mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhà nghèo, năm nào Mị cũng phải trả nợ lãi một
nương ngô cho thống lí Pá Tra. Bố đã già, Mị thương bố lắm. Cô đã nói với bố: “Con nay
đã biết cuốc nương ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con
cho nhà giàu”. Món nợ truyền kiếp mà bố Mị vay của thống lí như một oan trái cuộc đời.
Mị đã bị A Sử con trai thống lí đánh lừa bắt về cúng trình ma. Mị trờ thành con dâu gạt
nợ... Đau xót quá! “Chao ôi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờ
người ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thế nào khác được rồi!”. Tiếng than của bố
Mị nói lên một sự thật cay đắng: Mị là con dâu gạt nợ của thống lí Pá Tra - điều đó như
một định mệnh bi thảm!
Những năm đằng đẵng làm dâu gạt nợ, Mị bị đối xử hết sức tàn tệ, chẳng khác gì một con
vật. Phải làm quần quật quanh năm, suốt tháng. Lên núi hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay,
đi nương bẻ bắp, lúc hái củi bung ngô, lúc nào Mị cũng phái gài một bó đay trong cánh
tay để tước thành sợi. Mị chẳng khác nào con trâu, con ngựa nhà thống lí. Khổ cực quá
chừng: “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai
cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”.
Tuổi trẻ, sắc đẹp của Mị bị tước đoạt, vùi dập. Cô như một đóa hoa rừng chóng héo tàn,
lúc nào cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi'’. Buồng Mị ở như một cái chuồng nhốt thú,
kín mít, tối om, chỉ có một lỗ nhỏ bằng bàn tay, nhìn ra ngoài “chí thấy trăng trắng,
không biết là sương hay là nắng”. Đau khổ quá “Mị nghĩ rằng mình cứ chi ngồi trong cái
lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi!’’. Nỗi ám ảnh ấy thật ghê sợ. Mị như
một linh hồn chết.
Cứ tưởng ràng Mị cam chịu số phận. Nhưng cô ta đã hết sức vùng vẫy cố thoát khỏi cái
dây oan nghiệt của số phận. Hàng mấy tháng liền, đêm nào Mị cũng khóc. Mị trốn về nhà,
tròng mắt đỏ hoe. Gặp bố Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở". Lần đầu tiên, Mị phản
kháng lại số phận tủi nhục, hái lá ngón toan ăn để tự tử. Nhưng Mị chết đi, ai sẽ làm
nương ngô giả được nợ thống lí, khi bố Mị đã “ốm yếu quá rồi”. Thương bố, Mị “không
đành lòng chết”. Mị bưng mặt khóc, ném nắm lá ngón xuống đất “đành trở lại nhà thống
lí”, cam chịu kiếp ngựa trâu, sống lùi lũi như con rùa trong xó cửa. Biết bao mùa xuân
trôi qua! Biết bao nhiêu nước mắt Mị đã chảy xuống. Cũng như bao người đàn bà khác
trong nhà thống lí “một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”. Mị cam
chịu số phận: “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi’’... Mị thấy mình chỉ là con trâu, con
ngựa “chi biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi!”. Một đời con gái, một kiếp người bị vùi dập
đến tê dại như thế thì sự đau khổ đã tột cùng rồi!
Một bất ngờ khác lại đến với người đọc. Lần thứ hai, Mị lại vùng dậy. Ngày Tết đến, Mị
đã lén lấy hũ rượu “uống ừng ực từng bát” rồi say, “lịm mặt’' ngồi xem bọn nhảy đồng,
người hát, nhưng “lòng Mị thì đang sống về ngày trước”. Con gái vùng rẻo cao, ai mà
chẳng uống rượu? Chắc là Mị đã từng uống rượu, nhưng cách uống rượu “ừng ực từng
bát” thì đây là lần đầu tiên. Mị uống cho quên hết mọi đau khổ? Mị uống cho hả giận?
Hay Mị mượn bát rượu để thức tỉnh lòng mình sống lại cùng với mùa xuân, với những
đêm tình mùa xuân thời con gái? Nếu những năm tháng đã qua, bếp lửa và ngọn lửa đã
sưởi ấm lòng Mị, đã làm nguôi đi, vơi đi bao đau nhục cuộc đời, thì giờ đây, tiếng sáo,
tiếng hát của trai gái Mèo tha thiết gọi bạn tình đã khơi dậy trong lòng Mị bao khao khát:
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi...
Đã tự ý thức về mình. Mị thấy lòng phơi phới, vui sướng như thời còn trẻ bước vào
những đêm tình mùa xuân. Mị thấy mình "trẻ lắm... vẫn còn trẻ”. Mị thấy mình cô đơn.
Mị phải đi chơi. Bao nhiêu cô gái khác đã có chồng vẫn đi chơi . Thật là vô lí, hơn nữa
Mị thấy mình với A Sử “không có lòng với nhau vẫn phải ở với nhau’’. Mị khóc. Mị
thương mình đau khổ. Mị ghê tởm thằng A Sử “còn muốn rình bắt mẩy người con gái
nữa về làm vợ...” Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay! Một sức sống tiềm tàng trong lòng
Mị như hòn than hồng âm ỉ cháy. Bạo lực, Mị cũng chẳng sợ. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn
cho sang rồi cô quấn lại tóc, với lấy váy hoa, rút thêm cái áo, chuẩn bị đi chơi hành động
Mị diễn ra trước mắt thằng A Sứ. Như thách thức. Không trả lời khi hắn hỏi: “Mày muốn
đi chơi à?”. Sự vùng dậy của Mị lần này lại phải trả giá! Thằng con trai của nhà thống lí
vô cùng tàn ác đã trói đứng Mị trong buồng tối bằng một thúng sợi đay và còn quấn cả
tóc Mị lên cột làm cô 'không cúi không nghiêng được đầu nữa”. Nhưng sức sống vẫn
tiềm ẩn trong người con gái Mèo này. Suốt đêm bị trói đứng “dây trói thít lại, đau nhức
lúc mê lúc tỉnh, Mị “nồng nàn tha thiết nhớ” và cô bồi hồi: “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa
Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi". Tâm trí Mị chập chờn “có lúc vùng bước
đi”, nhưng bị trói, đi sao được? Nghe tiếng ngựa gãi chân, nhai cỏ “Mị thổn thức nghĩ
mình không bằng con ngựa”.
Chúng ta đã từng đọc truyện thơ Tiễn dặn người yêu trong đó cô gái Thái bị ép duyên đau
khổ than thân: “Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa — con chẫu chuộc thôi...”. Nỗi
cay đắng của MỊ còn gấp trăm gấp nghìn lần thế! Được cởi trói do một sự tình cờ, cô lại
phải vào rừng hái lá thuốc,đêm ngồi hầu hạ, xoa thuốc dấu cho A Sử. Đau ê ẩm, mỏi quá,
Mị “gục đầu thiếp đi” lại bị tên khốn kiếp “đạp chân vào mặt”. Tô Hoài đã ghi lại một
cách cảm động sự vùng dậy lần thứ hai của Mị với bao vùi dập, đau đớn MỊ vẫn chưa gục
ngã trước số phận!
Lần thứ ba, Mị lại vùng dậy. Hình như số phận của Mị đã gắn liền với số phận của A
Phủ như một tiền định. Một bên là con dâu gạt nợ, một bên là kẻ phạm tội đánh con quan.
Cả hai đều là con trâu, con ngựa của nhà thống lí Pá tra Mị đã bị A Sử trói đứng. A Phủ
vì tội để hố bắt mất bò đã bị Pá Tra trói vào cọc bằng một cuộn dây mây, “quấn từ chân
lên vai, chỉ còn cổ và đầu hơi lúc lắc được”. Làm sao bắt được con hổ? A Phủ nhất định
bị thế mạng. Suốt mấy ngày đêm bị trói “A Phủ chỉ đứng nhắm mắt” Má A Phủ đã xám
lại. A phủ sắp chết! Giữa đêm khuya từ bếp lửa nhìn sang, Mị nhìn những giọt nước lăn
bò trên má A Phủ mà xót xa, động lòng: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết...”.
Mị căm thù nguyền rủa cha con thống lí: “Chúng nó thật độc ác…Người kia việc gì mà
phải chết thế”. MỊ không còn biết sợ hãi nữa. Cô đã dùng dao nhỏ cắt lúc, cắt nút dây
mây, cởi trói cho A Phủ, cứu thoát A phủ như một lời khích lệ: “Đi ngay!”. Mị đã vùng
chạy theo A Phú. Cô đã nói:” A phủ cho tôi đi... ở đây thì chết mất!”. Lương tâm thức
tỉnh. Mị cứu A Phủ và cũng là tự cứu mình. Thật là dữ dội và khủng khiếp. Tình huống
truyện tạo nên tính bi kịch của số phận. Bao nhiêu máu và nước mắt, Mị mới giành được
tự do. Mị thương người, tự thương mình. Khát vọng về tự do và hạnh phúc, là nguồn sức
mạnh vùng dậy cua Mị.
Trốn khỏi Hổng Ngài, Mị và A Phủ đi suốt một mùa mưa, vượt qua những triền núi đá tai
mèo, họ nên vợ nên chồng khi đến khu du kích Phiềng Sa. Hành động cắt dây trói cứu A
Phủ và cùng A Phủ chạy trốn là điểm đỉnh sự vùng dậy của Mị là sự thể hiện sức sống
tiềm tàng của người con gái Mèo trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Khát vọng về tự do,
hạnh phúc, về quyền sống của con người đã cho nhân vật Mị nhiều sức mạnh đế vùng
dậy. Sức sống tiềm tàng cùa Mị đủ khẳng định một chân lí: Bạo lực không đè bẹp được
khát vọng tự do! Sức sống tiềm tàng của Mị mang tính điển hình sâu sắc, thể hiện một
cách cụ thể, chân thực và sống động cho sự vùng dậy của người Mèo trên con đường đi
tìm hạnh phúc, tự do và họ đã đến với cách mạng và kháng chiến.
Nhân vật mị được nhà văn Tô Hoài niiêu tả và khám phá trong chiều sâu tâm hồn, trong
những biến thái “thăng trầm, gấp khúc” của tâm trạng. Miêu tả thành công sức sống tiềm
tàng của nhân vật Mị, ngòi bút nghệ thuật của Tô Hoài đã làm cho truyện ngắn Vợ chồng
A Phủ sáng bừng giá trị nhân đạo. Người đọc mãi mãi thấm thía về cái giá của tình yêu
tuổi trẻ và hạnh phúc, tự do.
Câu 6: Phân tích hai nhân vật Mị và A Phủ giai đoạn ở Hồng Ngài trong Vợ chồng A
Phủ của Tô Hoài để làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Gợi ý trả lời


Tây Bắc là tập truyện ngắn của Tô Hoài được nhận Giải thưởng của Hội Văn học - Nghệ
thuật 1954 - 1955. Trong tập Tây Bắc. Vợ chồng A Phủ truyện ngắn đặc sắc hơn cả.
Thông qua cuộc đời và số phận của Mị và A Phú. nhà văn dựng lại quãng đời tăm tối, đau
khổ của người dân miền núi trước Cách mạng, nêu cao khát vọng sống và vạch ra con
đường giải phóng cho họ Đó chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Cuộc đời của Mị và A Phủ có hai giai đoạn gắn với hai cảnh đời sáng - tối đối chọi nhau.
Giai đoạn đầu khi ờ Hồng Ngài, Mị và A Phủ đều là nô lệ cho nhà thống lí Pá Tra. Đó là
quãng đời tăm tối, bị đối-xử như con trâu, con ngựa. Giai đoạn sau. khi ở Phiềng Sa là
một cuộc sống khác hẳn, Mị và A Phủ đã đổi đời, đứng lên chiến đấu để bảo vệ mình,
bảo vệ đất nước. Như vậy, phản ánh hiện thực, tác phẩm Vợ chồng A Phủ đã chọn hai đề
tài chính: đề tài về cuộc sống bị áp bức, tủi nhục của người dân miền núi dưới chế độ nô
lệ thực dân và cùng với nó là bộ mặt tàn bạo của bọn “thổ ti lang đạo” cuối cùng là đề tài
về sự thức tỉnh của đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc vùng dậy chiến đấu để giải
phóng và tự giải phóng.
Trước hết, Vợ chồng A Phủ là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân
nghèo miền núi dưới ách áp bức của bọn chúa đất phong kiến thực dân được phản ánh
qua cuộc đời Mị và A Phủ.
Mị là một có gái trẻ đẹp, giàu lòng yêu đời, chăm chỉ và hiếu thảo. Mị đã từng được yêu
và có những đêm tình mùa xuân hạnh phúc. Nhưng vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà
Mị bị cướp về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Mị bị biến thành nông nô, bị
chà đạp cả về nhân phẩm lẫn thể xác Quãng đời sống trong nhà thống lí là một quãng đời
đau thương, tăm tối, áp bức nặng nề đã biến một cô gái hồn nhiên, đa cảm thành hiện
thân của nhẫn nhục, cam chịu. Mị sống câm lặng lầm lũi, quanh năm vùi đầu vào những
công việc khổ sai. Mị còn bị ràng buộc bởi mê tín thần quyền. Một khi đã đem ra “cúng
trình ma” thì người đàn bà phải tuân theo sự trói buộc vô hình suốt cả một đời. Cho nên,
biết khổ, biết nhục, biết mình bị đày đọa nhưng không dám phản kháng chống lại sự đày
đọa khổ nhục ấy. Hơn nữa, những con người như Mị thật bé nhỏ trước thế lực tàn bạo của
cường quyền. Bị giam hãm trong “địa ngục trần gian'’ của nhà thống lí Pá Tra, Mị chết
mòn theo ngày tháng, Mị “lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”, “ lùi lũi như như
con rùa nuôi trong xó cửa”. Bị cầm tù trong ngục thất tinh thần, Mị không còn nhớ đến cả
tuổi của mình nữa, Mị đang bị tê liệt dần cả về cảm xúc, ý thức, tâm hồn, tình cảm. Cái
ác của bọn thống trị là không những bóc lột -. đày đọa con người về vật chất, thể xác mà
còn giết chết dần ở con người những giá trị nhân bản tốt đẹp. Con người bị biến thành
công cụ, thành những con vật chịu sự sai khiến.
Mị và A Phủ đều là nô lệ trong nhà thống lí. Nhưng con đường đến nhà thống lí thì mỗi
người một kiểu. Mị vì món nợ truyền kiếp mà phải thành nô lệ còn A Phủ vốn không nợ
nần gì nhà thống lí nhưng cũng không thoát được, cũng rơi vào cảnh nô lệ. A Phủ là một
thanh niên nghèo suốt đời làm thuê, làm mướn. Cha mẹ chết trong một trận dịch đậu mùa.
Chính cuộc sống cùng khổ ấy đã hun đúc ở A một sức sống mạnh mẽ, lòng ham chuộng
tự do và một tính cách gan góc của người lao động đáng quý. A Phủ là đứa con của núi
rừng, hồn nhiên chỉ vì dám đánh con quan mà bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn, bị phạt và trở
thành nô lệ cho nhà thống lí. Cuộc đời A Phủ và cảnh xử kiện lạ lùng đã mở ra một khía
cạnh khác trong giá trị hiện thực của tác phẩm: xã hội phong kiến miền núi trước cách
mạng, chân lí, lẽ phải bao giờ thuộc về “con quan”, thuộc về kẻ giàu, kẻ mạnh; kẻ thống
trị. Người nghèo kháng lại sự bất công thì bị đánh đập, bị tước quyền tự do, bị biến thành
nô lệ không chỉ suốt đời mà đời con đời cháu cũng không thoát được Hơn nữa, hủ tục
nặng nề ngàn đời là hiện thực phản ánh áp bức kiểu trung cổ miền núi. Hủ tục đó đã đẩy
biết bao người nghèo vào thảm cảnh của sự cùng cực đói khổ. Những hủ tục ấy vừa tiếp
tay vừa là công cụ cho bọn phong kiến thống trị người dân, chà đạp lên nhân phẩm của
họ. Việc A Phủ bị bắt làm nô lệ nhà thống lí Pá Tra càng tăng thêm sức tố cáo của tác
phẩm.
Hết ngày này qua ngày khác, A Phủ phải làm việc cật lực, chăn dắt đàn bò, hàng mấy
chục con. Chẳng may một con bò bị hổ vồ mất, A Phủ bị đánh trói vào cột chờ chết.
Trong tay bọn thống trị. tính mạng con người thật bằng một con vật.
Cuộc đời nô lệ khổ đau của Mị và A Phủ là điển hình cho thân phận người nghèo miền
núi dưới chế độ cũ. Bần cùng hóa con người, chà đạp lên nhân phẩm đối xử với con
người không bằng con vật, đó là bản chất của chế độ “thổ ti lang đạo”.
Giá trị hiện thực của tác phẩm còn thể hiện trong những nội dung miêu tả cảnh tàn bạo
của bọn chúa đất phong kiến và bè lũ thực dân. Điều này được thể hiện sâu sắc qua hình
ảnh cha con thống lí Pá Tra trong mối quan hệ với Mị và A Phủ.
Nhà Pá Tra giàu có. nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuôc phiện. Hắn làm giàu bằng việc
bóc lột sức lao động, bằng chế độ lao dịch, bằng cho vay lãi nặng rồi bắt người ta để trừ
nợ. Cha con thống lí còn rất nhẫn tâm. Tô hoài đã rất nhiều lần nói tới cảnh đánh người,
trói người của Pá Tra và A Sử bằng những chi tiết rất thực:” A Sử lầm lì trói đứng Mị vào
cột nhà, tóc Mị xõa xuống, A Sử cuốn luôn tóc lên cột rồi y tắt đèn, đóng cửa lại.” Cái kĩ
càng rành rẽ trong hành động biểu hiện sự tàn ác tới thản nhiên của A Sử. Mị phải thức
suốt đêm xoa thuốc dấu cho A Sử, mỗi lần buồn ngủ quá thiếp đi “ A Sử bèn đạp chân
vào mặt Mị”, Thống lí pá tra thì quyết định trói A Phủ cho tới chết , mà trói như thế nào?
A Phủ phải mang dây cho thống lí trói từ chân lên tận đầu. Không chỉ tàn ác thản nhiên
chúng còn phản dán hại nước cấu kết với thực dân làm giàu để áp bức bóc lột người dân.
Dưới thời phong kiến thực dân bọn lang đạo chúa đất ở vùng cao mặc sức làm mưa làm
gió.
Phản ánh hiện thực khốn khổ của nhân dân Tây Bắc Tô Hoài không tô vẽ không nói quá
sự thật. Tất cả đều được hiện lên như một bức tranh chân thực sống động. Tài năng và
cũng là đóng góp của Tô Hoài là đã làm cho bức tranh hiện thực về miền núi cao Tây Bắc
trở nên hết sức phong phú với những chi tiết phong phú và sinh động về cuộc sống con
người. Đó là vì Tô hoài có một thời gian đi thực tế và cũng ăn cùng sống với nhân dân
nên mới có một vốn sống thực tế đáng quí như thế.
Khi viết về đồng bào Tây Bắc, ngòi bút Tô Hoài thể hiện một tinh thần nhân đạo rõ rệt.
Nhà văn cảm thông sâu sắc với những kiếp người trâu ngựa như Mị và A Phủ, đứng về
phía họ để phản ánh , đấu tranh. Nhưng sâu sắc hơn cả là nhà văn đã phát hiện được
những phẩm chất đáng quí- đó là sức sống là khát vọng tự do vẫn âm ỉ trong đáy sâu tâm
hồn của những con người nô lệ như Mị. Cái sức sống tiềm tàng ấy cùng với khát vọng
mãnh liệt ấy khi có cơ hội sẽ bừng lên. Cách nhìn của nhà văn trong tác phẩm hết sức
nhân bản. Tác giả đã dồn bút lực tập trung khắc họa diễn biến tâm lí hồi sinh của Mị. Đó
là vào một đêm tình mùa xuân” Mị lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một”. Mị sống
với quá khứ tuổi xuân của mình” trong đầu Mị rập rờn những tiếng sáo đưa Mị đi theo
những cuộc chơi”.” Mị thấy phơi phới trở lại”.” Mị còn trẻ, Mị vẫn còn trẻ lắm, Mị muốn
đi chơi”. Giữa lúc lòng ham muốn trỗi dậy mãnh liệt nhất, A Sử đã phũ phàng dập tắt.
Nhưng những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh để dẫn tới hành động cắt dây trói
giải cứu A Phủ ở đoạn tiếp đó.
Trước cảnh A Phủ bị trói, bắt gặp “ dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám
đen lại” Mị thốt lên trong lòng”Trời ơi! Nó bắt trói người ta đến chết. Chúng nó thật độc
ác.”. giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã đánh thức tình thương trắc ẩn của Mị, cùng
với những phản kháng âm ỉ đã dẫn Mị tới hành động táo bạo: cắt dây trói cứu A Phủ và
vùng chạy theo A Phủ. Đây là hành động cứu người và tự cứ mình của Mị.
Nhà văn đã rất thấu hiểu nỗi khổ của người dân miền núi, từ đó thấy được sự thức tỉnh,
sự vùng dậy của họ, trước hết là thoát khỏi dây trói của cường quyền và thần quyền. Rồi
họ dừng lại ở Phiềng Sa, thành vợ chồng và đi theo cách mạng.
Quá trình giác ngộ cách mạng của vợ chồng A Phủ. Tiêu biểu cho con đường đến với
Đảng, đến với cách mạng của đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi Tây Bắc. Tô Hoài
khi tái hiện bức tranh hiện thực với những nét bản chất của nó, không thể không miêu tả
quá trình vận động mang tính qui luật của cuộc sống. Đây cũng là giá trị nhân đạo và tiến
bộ của Vợ chồng A Phủ.
Câu 7: Trong bóng tối, Mị đứng im lặng... nghĩ mình không bằng con ngựa. Phân tích
đoạn văn, nêu cảm nhận về nhân vật Mị (số phận, sức sống) và về ngòi bút miêu tả tinh tế,
sâu sắc của Tô Hoài.

Gợi ý trả lời


Nếu đoạn đời sống trong địa ngục trần gian ở Hồng Ngài là sự giao tranh âm ỉ quyết liệt
giữa số phận bi thảm và sức sống tiềm tàng của Mị, thì cảnh Mị bị A Sử trói đứng vào cột
nhà trong bóng tối có thể xem như là hình ảnh thu nhỏ cô đúc và thấm thía của cuộc giao
tranh đó. Chỉ có điều nó lại diễn ra trong tâm trạng chập chờn nửa mê, nửa tỉnh của cô gái,
và Tô Hoài, như đã nhập thân vào nhân vật để viết nên một đoạn văn thật tinh tế, sâu sắc
“Trong bóng tối... không bằng con ngựa”.
Giữa đoạn văn là một câu rất ngắn, chỉ có bốn chữ: Mị vùng bước đi Trên là âm thanh
tiếng sáo, dưới là tiếng chân ngựa. “Mị vùng bước đi” như một cái bản lề khép mở hai thế
giới, hai tâm trạng: thế giới của ước mơ với tiếng sáo rập rờn trong đầu và thế giới của
hiện thực với tiếng chân ngựa đạp vào vách, tâm trạng của một cô Mị đang mê man chập
chờn theo tiếng sáo gọi bạn tình. Tình và tâm trạng của một cô Mị đã tỉnh đang “thổn
thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Thật cô đúc mà thấm thía. Kiệm lời mà hàm chứa
biết bao ý nghĩa.
Tiếng sáo- ước mơ- sức sống của Mị. ‘Mị vùng bước đi”. Câu văn ngỡ như không đúng
mà lại rất đúng, lại tinh tế và rất sâu sắc. Làm sao Mị có thể vùng bước đi khi đã bị trói
bằng cả một thúng sợi đay? Nhưng Mị đã vùng bước đi như một kẻ mộng du, như không
biết mình đang bị trói. Bởi Mị đang sống với ước mơ, bằng ước mơ chứ không phải với
hiện thực, bằng hiện thực. Mị đang sống với tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân
ngày trước, đang muốn tìm lại tuổi trẻ, tuổi xuân, tình yêu,hạnh phúc của mình. Hơi rượu
còn nồng nàn, trong đầu Mị vẫn rập rờn tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những
đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi Chính cái tiếng sáo ấy đã gọi Mị vùng bước đi
về với cuộc sống thật của mình đã bị cướp mất trong cái địa ngục trần gian này. Mới biết
sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đến nhường nào. Sức sống ấy khiến cô quên đi tất cả sự
thực xung quanh, không thấy, không nghe A Sử nói, không biết cả mình đang bị trói chỉ
còn biết có tiếng sáo, chỉ còn sống với tiếng sáo, mê man chập chờn - trong tiếng sáo.
Xây dựng nên cái tâm trạng mê man như một kẻ mộng du đi theo tiếng sáo. Tô Hoài đã
nói lên rất rõ và sâu sắc cái sức sống mãnh liệt đang trào dâng trong lòng cô lúc bấy giờ.
Và tiếng sáo đã thành một biểu trưng sâu sắc và gợi cảm cho ước mơ và sức sống của Mị.
Tiếng chân ngựa: hiện thực - số phận của Mị “Mị vùng bước đi”. Nhưng tay chân đau
không cựa được. Tiếng sáo tắt ngay ước mơ tan biến, và hiện thực trần trụi, phũ phàng
hiện ra: chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đập vào vách. Mị đã tỉnh hẳn khi dây trói thít chặt
lại, đau nhức, và cay đắng nhận ra số phận của mình không bằng con ngựa. Cái dây trói
kia chỉ làm đau thể xác. nhưng cái tiếng chân ngựa này mới thực sự xoáy sâu vào nỗi đau
tinh thần của Mị khi nó gợi lên một sự so sánh thật nghiệt ngã, xót xa: thân người mà
không bằng thân trâu ngựa?! Tiếng chân ngựa đá vào vách một biểu trưng giàu ý nghĩa
cho hiện thực và số phận của Mị.
Với ngòi bút miêu tả tinh tế, sâu sắc của Tô Hoài trong miêu tả tâm trạng nhân vật ở hai
cảnh đối lập nhau: mê man chập chờn theo tiếng sáo như một kẻ mộng du dẫn đến hành
động “vùng tỉnh lại và cay đắng xót xa “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa hai
tám trạng ấy tiếp nối nhau trong sự phát triển biện chứng để hoàn chỉnh chân dung và số
phận nhân vật. Sâu sắc trong những chi tiết giàu ý nghĩa, đặc biệt là hai biểu trưng “ tiếng
sáo” và “tiếng chân ngựa” đối lập nhau và đầy ấn tượng.
Đoạn văn ngắn mà bật nối được bức tranh tối - sáng của nhân vật (số phận và sức sống)
một cách sinh động, gợi cảm và có chiều sâu, khiến ta càng hiểu thêm nhân vật, bút pháp
Tô Hoài và nhất là tấm lòng đồng cảm yêu thương của nhà văn đối với nhân vật của mình.
Đó là một trong những đoạn văn hay nhất, in đậm phong cách Tô Hoài trong truyện ngắn
này.
Câu 8: Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Gợi ý trả lời


Tô Hoài là nhà văn Hà Nội, sinh năm 1920, tự học mà thành tài. Khi bước vào tuổi “xưa
nay hiếm”, ông đã có gần 200 tác phẩm. Trang văn xuôi của ông giàu chất thơ; ông viết
hay về phong tục sinh hoạt, có tài tả cảnh với lối kể chuyện sinh động, hóm hỉnh, đậm đà.
Ông viết thành công về truyện thiếu nhi, đề tài miền núi. Dế Mèn phiêu lưu kí, Truyện
Tây Bắc, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Miền Tây... là những tác phẩm đặc sắc của ông được
bạn đọc gần xa rất thích.
Năm 1952, Tô Hoài theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, một chuyến đi dài hơn nửa năm.
Ông đã viết truyện Vợ chồng A Phủ, qua đó nói lên sự thống khổ người Mèo ở Tây Bắc
và sự vùng dậy của họ để giành lấy tự do, hạnh phúc- một lòng quyết tâm đi theo kháng
chiến.
Truyện gồm có hai phần:
Phần 1: Mị và A Phủ ở Hồng Ngài.
Phần 2: Mị và A Phủ ở khu du kích Phiềng Sa. Phần thứ nhất là cảm động nhất. khi tác
giả nói về bi kịch và sự vùng dậy của nhân vật Mị.
Cuộc đời của Mị đầy nước mắt. Khi Mị biết cuốc nương, thì mẹ Mị mất rồi, bố Mị đã già.
Món nợ truyền kiếp đang đè nặng lên tâm hồn Mị rồi hai bố con Mị cũng phải trả nợ lãi
một nương ngô cho thống lí Pá tra. Mị làm nương giỏi, thổi sáo hay,nhiều chàng trai mê
ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Hạnh phúc, tình yêu và tuổi xuân của Mị đã bị chà đạp. Mị
đã bị A Sử- con trai Pá Tra bắt cóc đem về “cúng trình ma”. Mị trở thành con dâu gạt nợ
nhà thống lí. Bố Mị chỉ còn biết khóc và cất lời than: ''Chao ôi! cha mẹ ăn bạc của nhà
giàu từ kiếp trước, bây giờ người ta bắt bán con trả nợ. Không thể làm thể nào khác được
rồi!”.Mị thành con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra từ cái Tết ấy... Bố Mị đã già, lại
càng cô đơn khi Mị trở thành con trâu, con ngựa nhà thống lí. Như hoa xuân chưa kịp nở
đã bị héo tàn, Mị đau khổ quá chừng “Mặt buồn rười rượi”
Nơi Mị ở là một cái buồng “kín mít” chỉ có một ô cửa sổ bằng bàn tay trông ra ngoài chỉ
thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng! Mị phải làm quần quật suốt đêm ngày,
lúc hái củi, lúc bung ngô. lúc đi nương, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để
tước thành sợi. Bao giờ cũng thế suốt năm suốt đời như thế! Đau khổ quá, Mị như kẻ vô
cảm vô hồn, ngày ngày “Càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
Bao mùa xuân đã trôi qua, Mị tưởng mình cũng như con trâu con ngựa “chỉ biết việc ăn
cỏ, biết đi làm mà thôi”. Như một linh hồn chết “Mị cúi mặt không nghĩ ngợi nữa". Hình
ảnh Mị cúi mặt quay sợi đay bên tảng đá, đầy án ảnh. gợi lên trong lòng ta nhiều thương
xót mênh mông về một kiếp người oan khổ - con dâu gạt nợ!
Mị là một người con hiếu thảo, giàu đức hi sinh. Hàng tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc.
Mị không muốn làm kiếp con dâu gạt nợ. Mị phải ăn lá ngón để tự tử. Mị trốn về nhà,
quỳ lạy bố’ “úp mặt xuống đất, nức nở”. Mị chết nợ quan vẫn còn, bố đã già, đã ốm yếu
quá rồi, lấy ai làm nương giả được nợ? Mị không nỡ chết! Mị không thể chết! Thương bố
đã già yếu. Mị chết thì bố Mị “còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa". Quẳng nắm lá
ngón xuống đất, Mị nghe bố nói, bưng mặt khóc, Mị đành trở lại nhà Thống lí, chịu mọi
cay cực, đau khổ. Thương cha mà Mị nhận hết mọi đau khổ về| mình. Lòng hiếu thảo,
đức hi sinh của người con gái vùng rẻo cao thật là đẹp đáng quý trọng.
Cứ tưởng rằng “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Nhưng Mị còn trẻ .Tết lai đến,
ngoài đầu núi đã có ai đó “thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Nghe tiếng vọng lại. Mi “Thiết tha
bồi hồi”. Những đêm tình mùa xuân đã tới. Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi
sáo:
... Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu
Mị “nổi loạn” lén lấy hũ rượu “cứ uống ừng ực từng bát”. Mị say, ngồi lịm mặt... Mị nhớ
lại thời con gái. Mị thấy lòng mình “phơi phới trở lại”, rồi đột nhiên “vui sướng như
những đêm tết ngày trước”. Tiếng sáo, tiếng hát gọi bạn tình của trai gái làng Mèo đã
“đánh thức” bao nỗi khát khao về tình yêu hạnh phúc của người phụ nữ bất hạnh này! Mị
có ý thức mãnh liệt: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi...”. Có biết bao người
có chồng còn đi chơi ngày tết. Mị cav đắng nghĩ đến thân phận mình: “A Sứ với Mị
khôngc có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Nước mắt Mị ứa ra. Nếu có nắm ngón
trong tay. Mị sẽ ăn cho chết ngay! Tiếng sáo gọi bạn yêu lại làm lòng Mị bồi hồi:
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi.
Mị xắn mỡ bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa...
những hành động ấy diễn ra ngay trước mặt thằng A Sử. Mị phải trả giá đau đớn. Thẳng
A Sử đã trói đứng Mị suốt đêm trong buồng bằng thúng sợi đay. Hắn còn quấn luôn tóc
lên cột, làm cho Mị “không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Suốt đêm, Mị “lúc mê,
lúc tỉnh”. Mị sợ quá, cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết”. Có lúc Mị “vùng bước
đi” chập chờn theo tiếng sáo. nhưng chân tay đang bị trói “đau không cựa được”, “đau
nhức”, “đau đứt từng mảnh thịt”. Nghe tiếng ngựa nhai cỏ, gãi chân, Mị đau khổ thổn
thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.
Tô Hoài miêu tả tâm trạng, phân tích tâm lí của Mị một cách sâu sắc tinh tế qua tiếng sáo
đêm tình mùa xuân. Mị khao khát tình yêu, khao khát hạnh phúc biết bao! Mị có một sức
sống tiềm tàng mãnh liệt. Ông đã vạch trần bộ mặt ghê tởm của thằng A Sử và chỉ rõ:
việc bắt Mị làm con dâu gạt nợ là một tệ nạn xã hội vô cùng dã man. Hành động “nổi
loạn” của Mị đã cho thấy không có uy quyền nào, con ma nào có thể làm lụi tàn được,
vùi dập được nỗi khát khao tình yêu, hạnh phúc trong lòng người phụ nữ trẻ, người con
dâu gạt nợ.
Nhờ một chuyện tình cờ mà Mị được sống sót, không bị chết rũ xương trong buồng như
người đàn bà nọ. Mị mỗi ngày một tê dại hẳn đi. Đêm mùa đông ở vùng núi Hồng Ngài
dài và lạnh. Mị buồn chỉ chợp mắt. được từng lúc, rồi lại thức sưởi ấm suốt đêm. Mị sống
trong tâm trạng cô đơn “chỉ biết còn ở với ngọn lửa". Mị và A Phủ như hai số kiếp tiền
định cùng trải qua bao gian khổ dập vùi. A Phủ, một kẻ tứ cố vô thân, vì tội đánh con
quan mà bị đánh trói, bị làng bắt phạt vạ 100 đồng bạc trắng, trở thành người vay nợ, kẻ
phải làm con trâu con ngựa cho nhà thống lí đời này, đời con, đời cháu” của A Phủ cũng
phải thế! Họa vô đơn chí! Rừng động, A Phủ đi chăn bò để hổ vồ bắt mất một con Thống
lí Pá Tra mắng chửi A Phủ là “quân ăn cướp làm mất bò tao!” Pá Tra trói đứng A Phù
vào cọc bằng một cuộn dây mây trói đến chết nếu không bắt được hổ về! Bị trói đứng
suốt mấy ngày đêm, hai hõm mắt A Phủ đã “xám đen lại”. Nửa đêm, qua ánh lửa, Mị “lén
mắt trông sang" kẻ chịu nạn rồi xúc động nghĩ: “cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia
từ từ chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Rồi Mị thương thân phận mình, thương
người đàn bà ngày trước bị trói đến chết ở nhà này! Mị căm thù nguyền rủa cha con
thống lí: “Chúng nó thật độc ác!”. Mị vừa lo vừa sợ phải thế mạng cọc ấy một khi A Phủ
trốn thoát. Nghĩ thế, trong tình cảnh này “làm sao Mị cũng không thấy sợ...”. Bếp lửa tàn,
nhà tối bưng, Mị như có thêm sức mạnh, Mị dùng dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây, cởi
trói cho A Phủ. Một cảnh dữ dội khủng khiếp xảy ra. Như ra lệnh, Mị giục A Phủ: “Đi
ngay!” rồi Mị nghẹn lại.A Phủ vùng chạy! Mị đứng lặng trong bóng tối, Mị bẵng đi nói
thở trong hơi gió lạnh buốt: “A Phủ cho tôi đi!... ở đây thì chết mất!”. A Phủ chỉ kịp nói
với người đàn bà chê chồng vừa cắt dây trói cứu mình: “Đi với tôi!”. Mị và A Phủ cùng
nhau chạy trốn khỏi Hồng Ngài “cái đêm hôm ấy, đêm gì?”. Đó là cái hãi hùng mà rất
đáng nhớ đối với Mị và A Phủ.
Hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng chạy trốn là một tình huống dữ dội phản
ánh bước nhảy vọt về ý thức và tâm lí của nhân vật Mị. Mị vừa cứu mình, vừa thương
người, Mị căm thù cái ác đã chà đạp lên cuộc đời . Mị cắt dây trói cứu A Phủ cũng là cắt
đứt. sợi dây oan nghiệt đã biến người thành nô lệ súc vật nhục nhã, đau thương. Mị đã
giành được tự do và hạnh phúc. Mị và A Phủ nên vợ nên chồng. Mị có một sức sống tiềm
tàng kì lạ!
Nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ là một thành công của Tô Hoàn Mị là một cô
gái duyên dáng, hiếu thảo giàu tình thương và có một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Tính
cách Mị được miêu tả trong quá trình phát triển theo quy luật cuộc sống. Mị chỉ biết khóc,
Mị ăn lá ngón... Mị lầm lũi... Mị khao khát hạnh phúc, tình yêu. Tâm hồn Mị được hồi
sinh, được đánh thức cùng mùa xuân cùng tiếng sáo gọi bạn tình trong đêm tình mùa
xuân. Mị bị trói, bị vùi dập. Mị đã vùng lên cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng chạy trốn. Đó
là trang đời đầy máu và nước mắt của Mị, là bi kịch và sự vùng dậy của người con gái
trong thân phận con dâu gạt nợ ở vùng rẻo cao ngày xưa. Cuộc đời của Mị đã từ đau
thương, nô lệ trở thành con người hạnh phúc, tự do.
Sự đổi đời của Mị đã tô đậm giá trị nhân đạo của truyện Vợ chồng A Phủ từ tủi nhục cay
đắng của kiếp con dâu gạt nợ. Mị đã vùng dậy giành được tự do, hạnh phúc. Cái hương vị
cuộc đời ấy thật đáng quý và đáng giá biết bao Tô Hoài đã dành cho nhân vật Mị sự cảm
thương sâu sắc đầy tình người.
Câu 9: Sức sống tiềm tàng cửa nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ

Gợi ý trả lời


Vợ chồng A Phủ (1953), Miền Tây (1967), Vừ A Dính (1962)... là những tác phẩm nổi
tiếng của Tô Hoài viết về phong tục, cảnh sắc và con người miền Tây của Tổ quốc ta. Tô
Hoài đã từng nói: “Tôi coi Việt Bắc, Tây Bắc cũng như một quê hương đề tài của tôi...”
(Văn nghệ số 14/10/1995). Tập truyện Tây Bắc là một nét son chói lọi đầu tiên của sự
nghiệp văn chương Tô Hoài viết về đề tài miền Tây. Một chuyến đi dài, Tô Hoài theo bộ
đội vào giải phóng Tây Bắc. Ông đã viết thành công tác phẩm Truyện Tây Bắc, trong đó
có truyện Vợ chồng A Phủ. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ và
sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để giành
lấy tình yêu, hạnh phúc.
Những trang viết về Mị - một trong hai nhân vật chính của truyện là vô cùng cảm động.
Mị tuy bị chà đạp, bị giày xéo trong bể khổ cuộc đời, nhưng cô đã có một sức sống tiềm
tàng kì lạ!
Mị là một cô gái trẻ và đẹp, duyên dáng, hiếu thảo, thổi sáo hay, “có biết bao nhiêu người
mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhà nghèo, năm nào bố Mị cũng phải trả nợ lãi
một nương ngô cho thống lí Pá Tra. Bố đã già, Mị thương bố lắm. Cô đã nói với bố: “Con
nay đã biết cuốc nương ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán
con cho nhà giàu”. Món nợ truyền kiếp mà bố Mị vay của thống lí như một oan trái cuộc
đời. Mị đã bị A Sử - con trai thống lí đánh lừa bắt về cúng trình ma. Mị trở thành con dâu
gạt nợ... Đau xót quá! “Chao ôi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờ
người ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thế nào khác được rồi!”. Tiếng than của bố
Mị nói lên một sự thật cay đắng: Mị là con dâu gạt nợ của thống lí Pá Tra - điều đó như
một định mệnh bi thảm!
Những năm đằng đẵng làm dâu gạt nợ, Mị bị đối xử hết sức tàn tệ, chẳng khác gì một con
vật. Phải làm quần quật quanh năm, suốt tháng. Lên núi hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay,
đi nương bẻ bắp, lúc hái củi bung ngô, lúc nào Mị cũng phải gài một bó đay trong cánh
tay để tước thành sợi. Mị chẳng khác nào con trâu, con ngựa nhà thống lí. Khổ cực quá
chừng: “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai
cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”.
Tuổi trẻ, sắc đẹp của Mị bị tước đoạt, vùi dập. Cô như một đóa hoa rừng chóng héo tàn,
lúc nào cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi'’. Buồng Mị ở như một cái chuồng nhốt thú,
kín mít, tối om, chỉ có một lỗ nhỏ bằng bàn tay, nhìn ra ngoài “chỉ thấy trăng trắng,
không biết là sương hay là nắng”. Đau khổ quá “Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái
lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi!’’. Nỗi ám ảnh ấy thật ghê sợ. Mị như
một linh hồn chết.
Cứ tưởng rằng Mị cam chịu số phận. Nhưng cô ta đã hết sức vùng vẫy cố thoát khỏi cái
dây oan nghiệt của số phận. Hàng mấy tháng liền, đêm nào Mị cũng khóc. Mị trốn về nhà,
tròng mắt đỏ hoe. Gặp bố “Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở". Lần đầu tiên, Mị phản
kháng lại số phận tủi nhục, hái lá ngón toan ăn để tự tử. Nhưng Mị chết đi, ai sẽ làm
nương ngô giả được nợ thống lí, khi bố Mị đã “ốm yếu quá rồi”. Thương bố, Mị “không
đành lòng chết”. Mị bưng mặt khóc, ném nắm lá ngón xuống đất “đành trở lại nhà thống
lí”, cam chịu kiếp ngựa trâu, sống lùi lũi như con rùa trong xó cửa. Biết bao mùa xuân
trôi qua! Biết bao nhiêu nước mắt Mị đã chảy xuống. Cũng như bao người đàn bà khác
trong nhà thống lí “một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”. Mị cam
chịu số phận: “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi’’... Mị thấy mình chỉ là con trâu, con
ngựa “chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi!”. Một đời con gái, một kiếp người bị vùi dập
đến tê dại như thế thì sự đau khổ đã tột cùng rồi!
Một bất ngờ khác lại đến với người đọc. Lần thứ hai, Mị lại vùng dậy. Ngày Tết đến, Mị
đã lén lấy hũ rượu “uống ừng ực từng bát” rồi say, “lịm mặt’' ngồi xem bọn nhảy đồng,
người hát, nhưng “lòng Mị thì đang sống về ngày trước”. Con gái vùng rẻo cao, ai mà
chẳng uống rượu? Chắc là Mị đã từng uống rượu, nhưng cách uống rượu “ừng ực từng
bát” thì đây là lần đầu tiên. Mị uống cho quên hết mọi đau khổ? Mị uống cho hả giận?
Hay Mị mượn bát rượu để thức tỉnh lòng mình sống lại cùng với mùa xuân, với những
đêm tình mùa xuân thời con gái? Nếu những năm tháng đã qua, bếp lửa và ngọn lửa đã
sưởi ấm lòng Mị, đã làm nguôi đi, vơi đi bao đau nhục cuộc đời, thì giờ đây, tiếng sáo,
tiếng hát của trai gái Mèo tha thiết gọi bạn tình đã khơi dậy trong lòng Mị bao khao khát:
Anh ném pao, em không hát Em không yêu, quả pao rơi rồi...
Mị đã tự ý thức về mình. Mị thấy lòng phơi phới, vui sướng như thời con gái bước vào
những đêm tình mùa xuân. Mị thấy mình "trẻ lắm... vẫn còn trẻ”. Mị thấy mình cô đơn.
Mị phải đi chơi. Bao nhiêu cô gái khác đã có chồng vẫn đi chơi . Thật là vô lí, hơn nữa
Mị thấy mình với A Sử “không có lòng với nhau nhưng vẫn phải ở với nhau’’. Mị khóc.
Mị thương mình đau khổ. Mị ghê tởm thằng A Sử “còn muốn rình bắt mấy người con gái
nữa về làm vợ...” Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay! Một sức sống tiềm tàng trong lòng
Mị như hòn than hồng âm ỉ cháy. Bạo lực, Mị cũng chẳng sợ. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn
cho sáng, rồi cô quấn lại tóc, với lấy váy hoa, rút thêm cái áo, chuẩn bị đi chơi. Hành
động Mị diễn ra trước mắt thằng A Sứ. Như thách thức. Không trả lời khi hắn hỏi: “Mày
muốn đi chơi à?”. Sự vùng dậy cua Mị lần này lại phải trả giá! Thằng con trai của nhà
thống lí vô cùng tàn ác đã trói đứng Mi trong buồng tối bằng một thúng sợi đay và còn
quấn cả tóc Mị lên cột, làm cho cô “không cúi không nghiêng được đầu nữa”. Nhưng sức
sống vẫn tiềm ẩn trong lòng người con gái Mèo này. Suốt đêm bị trói đứng “dây trói thít
lại, đau nhức”, lúc mê lúc tỉnh, Mị “nồng nàn tha thiết nhớ” và cô bồi hồi: “Mị vẫn tiếng
sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi". Tâm trí Mị chập chờn “có lúc
vùng bước đi”, nhưng bị trói, đi sao được? Nghe tiếng ngựa gãi chân, nhai cỏ “Mị thổn
thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.
Chúng ta đã từng đọc truyện thơ Tiễn dặn người yêu trong đó cô gái Thái bị ép duyên đau
khổ than thân: “Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa — con chẫu chuộc thôi...”. Nỗi
cay đắng của Mị còn gấp trăm gấp nghìn lần thế! Được cởi trói do một sự tình cờ, cô lại
phải vào rừng hái lá thuốc, đêm ngồi hầu hạ, xoa thuốc dấu cho A Sử. Đau ê ẩm, mỏi quá,
Mị “gục đầu nằm thiếp đi” lại bị tên khốn kiếp “đạp chân vào mặt”. Tô Hoài đã ghi lại
một cách cảm động sự vùng dậy lần thứ hai của Mị với bao vùi dập, đau đớn ê chề ! Mị
vẫn chưa gục ngã trước số phận!
Lần thứ ba, Mị lại vùng dậy. Hình như số phận của Mị đã gắn liền với số phận của A Phủ
như một tiền định. Một bên là con dâu gật nợ, một bên là kẻ phạm tội đánh con quan. Cả
hai đều là con trâu, con ngựa của nhà thông lí Pá Tra. Mị đã bị A Sử trói đứng. A Phủ vì
tội để hổ bắt mất bò đã bị Pá Tra trói vào cọc bằng một cuộn dây mây, “quấn từ chân lên
vai, chỉ còn cổ và đầu hơi lúc lắc được”. Làm sao bắt được con hổ? A Phủ nhất định bị
thế mạng. Suốt 3 ngày đêm bị trói “A Phủ chỉ đứng nhắm mắt” Má A Phủ đã xám lại. A
Phủ sắp chết! Giữa đêm khuya từ bếp lửa nhìn sang, Mị nhìn những giọt nước lăn bò trên
má A Phủ mà xót xa, động lòng: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết...”. Mị căm
thù nguyền rủa cha con thống lí: “Chúng nó thật độc ác. Người kia việc gì mà phải chết
thế..”. MỊ không còn biết sợ hãi nữa. Cô đã dùng dao nhỏ cắt lúc, cắt nút dây mây, cởi
trói cho A Phủ, cứu thoát A Phủ. Như một lời khích lệ: “Đi ngay!”. Mị đã vùng chạy theo
A Phủ. Cô đã nói: “ A Phủ cho tôi di... ở đây thì chết mất!”. Lương tâm thức tỉnh. Mị cứu
A Phú và cũng là tự cứu mình. Thật là dữ dội và khủng khiếp. Tình huống truyện tạo nên
tính bi kịch của số phận. Bao nhiêu máu và nước mắt, Mị mới giành được tự do. Mị
thương người, tự thương minh. Khát vọng về tự do và hạnh phúc, là nguồn sức mạnh
vùng dậy cua Mị.
Trốn khỏi Hồng Ngài, Mị và A Phủ đi suốt một mùa mưa, vượt qua những triền núi đá tai
mèo, họ nên vợ nên chồng khi đến khu du kích Phiềng Sa. Hành động cắt dây trói cứu A
Phủ và cùng A Phủ chạy trốn là điểm đỉnh sự vùng dậy cùa Mị, là sự thể hiện sức sống
tiềm tàng của người con gái Mèo trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Khát vọng về tự do,
hạnh phúc, về quyền sống của con người đã cho nhân vật Mị nhiều sức mạnh để vùng
dậy. Sức sống tiềm tàng của Mị đủ khẳng định một chân lí: Bạo lực không đè bẹp được
khát vọng tự do! Sức sống tiềm tàng của Mị mang tính điển hình sâu sắc, thể hiện một
cách cụ thể, chân thực và sống động cho sự vùng dậy của người Mèo trên con đường đi
tìm hạnh phúc, tự do và họ đã đến với cách mạng và kháng chiến.
Nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài miêu tả và khám phá trong chiều sâu tâm hồn, trong
những biến thái “thăng trầm, gấp khúc” của tâm trạng. Miêu tả thành công sức sống tiềm
tàng của nhân vật Mị, ngòi bút nghệ thuật của Tô Hoài đã làm cho truyện ngắn Vợ chồng
A Phủ sáng bừng giá trị nhân đạo. Người đọc mãi mãi thấm thía về cái giá của tình yêu
tuổi trẻ và hạnh phúc, tự do.
Câu 10: Nhân vật Mị là một thành công của Tô Hoài trong việc xây dựng con người thức
tỉnh. Hãy chứng minh nhận định ấy?

Gợi ý trả lời


Truyện Vợ chồng A Phủ trong tác phẩm Truyện Tây Bắc (1953) là thành công tốt đẹp
đầu tiên của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám. Qua cuộc đời tủi nhục đau khổ của Mị
và A Phủ, hai nô lệ của thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ
của người Mèo trong chế độ cũ và sự vùng dậy của họ để giành lấy tự do, hạnh phúc, một
lòng đi theo cách mạng và kháng chiến.
Nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ là một thành công của Tô Hoài trong việc xây
dựng con người thức tỉnh.
1. Con người thức tỉnh trong văn học là những nhân vật từng nếm trải nhiều cay đắng, tủi
nhục và đau khổ; trải qua những năm dài bị áp bức bóc lột, bị chà đạp, giày xéo mà trở
thành con người gần như vô cảm vô hồn, sống trong trạng thái nhẫn nhục, cam chịu cho
thân phận mình. Cuối cùng, con người thức tỉnh dần dần “hồi sinh”, tự ý thức về quyền
sống và quyền làm người của mình, phản kháng áp bức, bất công giành lấy tự do và hạnh
phúc, xây dựng một cuộc sống có ý nghĩa. Cùng với nhân vật A Phủ, ta thấy rõ nhân vật
Mị là “con người thức tỉnh” giàu ý nghĩa nhân văn.
2. Cuộc đời Mị đầy bi kịch. Mị xinh đẹp, thổi sáo hay, nhiều chàng trai Mèo mê “ngày
đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhưng hạnh phúc tuổi xuân không đến với người con gái
đáng thương này. Mẹ Mị đã mất. Nhà nghèo, bố Mị đã già. Món nợ truyền kiếp, mỗi năm
phải đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô đã trở thành sợi dây oan nghiệt đối với Mị.
Mị đã bị A Sử (con trai thống lí Pá Tra) "cướp được” đem về cúng trình ma. Bố Mị chỉ
còn biết cất lời than trong nước mắt: “Chao ôi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp
trước, bây giờ ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thể nào khác được rồi!”.
Với Mị, kiếp con dâu gạt nợ đau khổ, tủi nhục vô cùng. Đêm nào Mị cũng khóc. Tự
thương cho số phận mình, Mị phải chết, Mị phải tự tử bằng lá ngón hái được ở trong rừng
- Hình ảnh Mị: “hai tròng mắt còn đỏ hoe”, quỳ lại, úp mái xuống đất, nức nở, hình ảnh
bố Mị “cũng khóc” cất lời than... đã cho thấy một bi kịch đầy nước mắt! Mị muốn ăn lá
ngón tự tử và Mị không cam chịu kiếp nô lệ trong thân phận con dâu gạt nợ. Mị muốn
được sống trong một cuộc đời đáng sống, sống có ý nghĩa làm người. Sống trong nô lệ và
tủi nhục thì tự tử còn hơn. Phản kháng ấy tuy tiêu cực, nhưng cho thấy Mị đã ý thức về
nhân phẩm của mình. Ý thức về nhân phẩm, phủ định thực tại đen tối là biểu hiện của con
người thức tỉnh.
Mị muốn chết mà không chết được. Mị chết nhưng nợ quan vẫn còn, bố Mị đã già yếu
quá rồi. Ai có thể làm nương ngô giả được nợ thống lí! Mị chỉ còn biết khóc. Mị phái
ném nắm lá ngón xuống đất. “Mị không đành lòng chết... Mị đành phải trở lại nhà thống
lí”. Mị cam chịu kiếp nô lệ con dâu gạt nợ vì Mị thương bố. Mị hiếu thảo và giàu hi sinh
biết bao!
3. Quá trình thức tỉnh của con người thức tỉnh là những năm dài đen tối, là những tháng
ngày tủi nhục đắng cay. Mị cũng vậy. Nơi Mị ở là một cái buồng kín mít như cái chuồng
nhồi thú, chỉ có một lỗ vuông bằng bàn tay ra. Có lúc Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi
trong cái lỗ vuông ấy mà ra “đến bao giờ chết thì thôi”. Nhan sắc, tuổi xuân của Mị bị
tước đoạt, xéo, bị chà đạp. Mị bị bóc lột tàn nhẫn, phải làm quần quật quanh năm. Lên
núi hái thuốc phiện, bẻ bắp, hái củi, bung ngô... lúc nào cũng gài một bó đay trong tay để
tước thành sợi. Có lúc lại thấy Mị quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Bó đay
ấy, tảng đá ấy như cái xiềng, cái xích, cái thòng lọng oan nghiệt đối với Mị. Mị bị áp bức
mà trở nên tê liệt dần. Không nghĩ đến việc ăn lá ngón tự tử nữa. Mị “tưởng mình cũng là
con trâu, cũng là con ngựa". Mị “cúi mặt”, “mặt buồn rười rượi''. Mị cam chịu “ở lâu
trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Gần như vô cảm vô hồn, lâu dần “Mị càng không nói,
lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa’’. Thân phận Mị có khác nào cô gái Thái bị ép
duyên trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu:
Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa
Bằng con chẫu chuộc thôi...
Cảm thấy kiếp mình, thân phận mình như con trâu, con ngựa, con rùa, con bọ ngựa, con
chẫu chuộc, có nghĩa là chén đắng cay của cuộc đời đã uốn cạn, chỉ còn sống trong tê liệt,
nhẫn nhục và cam chịu. Chẳng phải đời Mị đã lụi tàn?
4. Con người thức tỉnh được hồi sinh không chỉ với ngoại cảnh mà còn tự tâm hồn mình,
ý thức mình. Mị đã thức tỉnh với những đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài. Tết đến, mùa
xuân làng Mèo làm cho hoa thuốc phiện “đỏ au" thêm rực rỡ, những chiếc váy hoa phơi
trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Những cuộc vui chơi của trai gái, trẻ con như
đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy múa diễn ra náo nhiệt trên sân trước nhà.
Và tiếng sáo tiếng khèn “rủ bạn đi chơi” làm cho Mị “thiết tha bồi hồi”. Mị nhẩm theo
tiếng hát, tiếng sáo vọng lại:
...Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu...
Tiếng sáo lay gọi, thức tỉnh tâm hồn Mị. Mị lén lấy hũ rượu, “cứ uống ừng ực từng bát".
Uống cho tan nỗi hận! uống cho vơi đi bao đau khổ chứa chất trong lòng! Say “lịm mặt”,
Mị “sống về ngày trước". Mị nhớ lại thời con gái, Mị thổi sáo bao người mê. Tiếng sáo
gọi bạn tình đã nhập vào hồn Mị, “tai Mị văng vẳng tiếng sáo. Mị đã thật sự hồi sinh và
hồi xuân. Mị tự ý thức là “Mị trẻ lắm, Mị vẫn trẻ”. Mị cảm thấy “phơi phới”, trong lòng
“đột nhiên vui sướng” như những đêm Tết ngày trước thời con gái. Mị muốn đi chơi Tết.
Khao khát được sống trong tình yêu hạnh phúc như ngọn lửa bùng cháy tâm hồn Mị.
Mị được thức tỉnh về cảnh ngộ. Mị thấy vô lí, bất công đến tàn nhẫn, đến cay đắng. Bao
nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Mị với A Sử “không có lòng với nhau mà
vẫn phải ở với nhau!”. Thật là trớ trêu! Mị muốn ăn lá ngón cho chết. Mị ứa nước mắt.
Tiếng sáo gọi bạn yêu đang “lửng lơ bay” ngoài đường. Đó là tâm lí của Mị trong đêm
tình mùa xuân. Tiếng sáo lay tỉnh. Mị đang “vùng vẫy“ cố thoát cảnh ngộ đau khổ và tủi
nhục!
Mị đã phản kháng, đã hành động. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Với tay lấy váy
hoa, rút thêm cái áo, quấn lại tóc. Mị “sắp đi chơi". Hành động Mị ngang nhiên diễn ra
trước mắt thằng A Sử. Mị chẳng thèm trả lời câu hỏi của hắn: “Mày muốn đi chơi à?”. Mị
đã bị thằng A Sử trói vào cột buồng bằng cả một thúng sợi đay, làm cho Mị “không cúi,
không nghiêng đầu được nữa”. Mặc dù lúc mê lúc tỉnh, lúc khắp người “bị dây trói thít
lại, đau nhức", nhưng Mị vẫn “nồng nàn. tha thiết nhớ, “vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi
theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Điều đó cho thấy, Mị được thức tỉnh về tình yêu,
về hạnh phúc, lòng khao khát của Mị rất mãnh liệt. Đêm tình mùa xuân cho thấy ngòi bút
phân tích tâm lí và hành động Mị, con người thức tỉnh của Tô Hoài rất tinh tế, sâu sắc.
Trăng vàng thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả.
5. Mị có bị ngã gục trước số phận đen tối tủi nhục không? Con ma nhà thống lí, uy quyền
của Pá Tra, bộ mặt độc ác của A Sử, và món nợ truyền kiếp, tất cả đã thít chặt Mị bằng
những sợi dây oan nghiệt vô hình. Sau đêm bị trói ấy, Mị mỗi ngày một tê dại đi. Mị “chỉ
còn biết, còn ở với ngọn lửa". Đêm nào, Mị cũng “thức sưởi lửa suốt đêm". Mị và A Phú
“gặp nhau" tại nhà thống lí như một tiền định. Người con dâu gạt nợ. Người vì tội đánh
con quan mà trở thành người “vay nợ, ở nợ". Cả hai đều là con trâu, con ngựa của nhà
thông 1í. Mị đã bị A Sử trói đứng suốt đêm bằng một thúng sợi đay. A Phủ vì tội để hổ
bắt mất một con bò mà bị Pá Tra trói vào cọc bằng một cuộn mây, “trói cho đến chết" . A
Phủ bị trói đã mấy ngày đêm. Mỗi đêm, nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ “mở mắt”...;
thấy ngọn lửa sưởi bùng lên, A Phủ “trừng mắt”. Mị nhìn sang, rồi “thản nhiên” thổi lửa,
hơ tay. Cho dù “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Tâm hồn Mị đã héo
hắt, đã tàn lụi, đã giá lạnh đi đến cùng cực! Thật đáng sợ.
Nhưng rồi cảnh ngộ, tình thương và lòng căm thù đã thức tỉnh ý thức Mị, tâm hồn Mị.
Qua “ngọn lửa bập bùng”, Mị “lé mắt trông sang” Mị xúc động khi nhìn thấy “một dòng
nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm mắt đỏ xám đen lại" của A Phủ. Mị nhớ lại đêm
năm trước, A Sử cũng trói đứng Mị như thế. Mị khẽ thốt lên lời than: “Trời ơi!...”. Mị
nguyền rủa cha con thống lí: “Chúng nó thật độc ác”. Bao cảnh thương tâm đồng hiện
trong tâm hồn Mị: bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói
đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Mị tự thương cảnh ngộ mình,
thương A Phủ trên bờ vực thẳm, khi tử thần đã gõ cửa: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là
người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị nghĩ đến thân phận mình,
tưởng như là cam chịu: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta để trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn
biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi...”. Mị ý thức được, A Phủ không thể chết, “việc gì mà
phải chết thế”. Con đường thức tỉnh của con người thức tỉnh là con đường vòng, có lúc
ngập ngừng do dự, có lúc quyết liệt. Mị cùng thế, Mị tưởng tượng A Phủ trốn thoát, Mị
sẽ bị thế mạng trên cái cọc oan nghiệt ấy! Đám than vạc hẳn lửa. Hình như bóng tối cho
Mị sức mạnh, “trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ...”.
Hành động của con người thức tỉnh là “hành động tự phủ định, hành động tự giải thoát"
(J.P.Sartre). Mị đã toan ăn lá ngón để tự tử, đó là ra lệnh: “Đi ngay!”. Rồi Mị đứng lặng
trong bóng tối. Đó là “khoảnh khắc bi kịch”. Ở lại địa ngục, là chết trong đau đớn như
người đàn bà nọ. Chạy trốn còn có thể sống. Mị nói liên tiếp hai câu như kêu cứu và đuổi
chạy theo A Phủ: “A Phủ cho tôi đi, ở đây thì chết mất...”. Mị và A Phú dìu nhau cùng
chạy trốn đến Phiền Sa khu du kích. Phiền Sa là chốn nương thân cho họ. Cách mạng và
kháng chiến mới là đất hứa, đất thánh cho người thức tỉnh. Mị cắt dây trói A Phủ cũng là
tự cắt dây trói để giải thoát mình. Như con chim sổ lồng, Mị từ bóng tối vươn tới tới ánh
sáng, từ nô lệ tủi nhục mà giành được tự do, hạnh phúc, cùng với A Phủ nên vợ nên
chồng, rồi trở thành chiến sĩ du kích.
Mị là nhân vật thức tỉnh. Tô Hoài đã phân tích tinh tế, sâu sắc mọi biến thái về tâm lí và
hành động Mị trong quá trình thức tỉnh với tất cả tình thương xót và đồng cảm sâu sắc.
Mị là nhân vật thức tỉnh có sức mạnh phản kháng và sức sống tiềm tàng. Nhân vật Mị đã
góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của truyện Vợ chồng A Phủ.
Và ta càng thấm thía về cái giá của tự do. Cái mùi vị của tự do là “cái vị ngọt ngào và có
mùi tanh đồng" như Hêminguê đã nói.

Câu 11: Phân tích diễn biến tâm lí của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân.Mị muốn đi
chơi nhưng bị A Sử trói đứng vào cột
Gợi ý trả lời
1.Mị đã bước vào cái đêm đáng ghi nhớ ấy, thoạt tiên, như một tâm hồn câm lặng. Cái cô
Mị xưa kia trẻ đẹp, khao khát yêu đương và cũng đã được yêu đương, cô Mị ấy tưởng
như đã chìm hẳn vào dĩ vãng. Chỉ còn một người đàn bà “không nói, lùi lũi như con rùa
nuôi trong xó cửa”, người đàn bà bị cầm tù trong một ngục thất tinh thần (hình ảnh cái
buồng có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng
trắng). Đã bao năm rồi, người đàn bà ấy chẳng biết đến mùa xuân, chẳng đi chơi Tết.
2.Vậy mà vào đúng cái đêm tình mùa xuân năm ấy, Mị thốt nhiên lại muốn đi chơi, và đã
sửa soạn đi chơi thực sự. Vì sao vậy? Khó có thể cho là tại đất trời. Thời tiết mùa xuân
năm nào chẳng đại loại là như thế.
Lí giải sự đột biến khác thường của Mị trong đêm ấy, là một thử thách thật sự đối với Tô
Hoài. Hãy xem bằng cách nào mà nhà văn vượt qua thử thách.
-Với một người như Mị, muốn đi chơi nghĩa là muốn phá phách, nghĩa là nổi loạn. Cũng
với một người như Mị để có thể nổi loạn, thì phải có cái gì có khả năng làm quên đi hiện
tại để sống trở về những tháng năm xưa.
Cái đó là men rượu mà Tết năm ấy, Mị đã lén “uống ực từng bát”. “Rồi say Mị lịm mặt
ngồi đấy ., nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước”... Rõ nhất là tiếng sáo. Mỗi lần
tiếng sáo trở lại truyện là mỗi lần nó được biến đổi đi từ âm thanh của hiện tại dần dần
thành tiếng của những mùa xuân trước. Từ chỗ ở ngoài Mị, ở xa Mị, dần dần như tiếng ai
mời gọi, hồn ai chờ đợi ngoài đường, để cuối cùng rập rờn trong đầu người thiếu phụ.
Tiếng sáo dìu hồn Mị hay là bước đi của hồn Mị được ghi dấu bằng tiếng sáo.
-Như thế là sức sống, lòng ham sống đã thức dậy trong lòng người thiếu phụ.
Nhưng sự vượt khỏi hoàn cảnh hiện tại của nhân vật không hề đơn điệu, dễ dàng
Một thời gian dài. Mị sống trong sự giao tranh giữa qúa khứ và hiện tại. Quá khứ đẩy đưa
đi, hiện tại thì níu lại. (Nên lòng phơi phới mà Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng,
ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trắng trắng. Và lòng ham sống
trào dậy đầu tiên trong ý nghĩa muốn chết ngay chứ không buồn nhớ lại...).
Nhưng sức sống cứ lớn dần, sức ám ảnh của tuổi xuân cứ mạnh dần, cho tới khi nó dường
như chiếm trọn tâm hồn Mị. Phải tới lúc đó, Mị mới hành động như một kẻ mộng du,
không thấy, không nghe A Sử nói.
3.Rồi Mị bị A Sử trói trong trạng thái mơ hồ. Mãi về sau, Mị mới cảm thấy cái hiện tại
tàn khốc khi vùng bước đi mà tay chân không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến
một lần, ngay tức khắc thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa hơi
rượu, tiếng sáo với cái đau nhức của dây trói và tiếng chân ngựa đạp vào vách. Nhưng
bây gờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn dần lên, tê dại dần đi để dần dần trở
lại với vị trí của con rùa lùi lũi trong xó cửa.
4.Một làn song tình cảm đã tan đi, không làm thay đổi mảy may đời Mị. Những cái gì Tô
Hoài đã viết về đêm hôm ấy vẫn đầy ý nghĩa. Nó cho thấy: Thứ nhất. sức sống của con
người dù bị giẫm đạp, đè nén đến đâu cũng vẫn không bị mất đi. Ý nghĩa ấy khiến ta
thêm tin, thêm yêu mến con người. Thứ hai, chế độ phong kiến là chế độ buộc trói, giam
hãm chống lại con người và sự sống. Chế độ ấy đáng căm thù, lên án cả từ phía nhân
danh quyền sống của con người. Một tình tiết nghệ thuật giàu chất nhân đạo và chất thơ.
Câu 12: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô
Hoài thể hiện trong cảnh ngộ khi cô bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra đến
khi trốn khỏi Hồng Ngài.

Gợi ý trả lời


1.Giới thiệu chung tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và nhân vật Mị:
- Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện ngắn của tập truyện Truyện Tây Bắc được Tô
Hoài sáng tác trong những ngày tham gia chiến dịch giải phóng Tây Bắc 1952.
- Mị là một trong những hình tượng nhân vật thành công tiêu biểu trong văn xuôi của Tô
Hoài thời kì 1945 - 1975 viết về đề tài miền núi.
2.Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị:
- Nhân vật Mị là hiện thân của số phận đau thương nhưng vẫn tiềm tàng sức sống và đã
thức tỉnh.
- Không chấp nhận làm con dâu gạt nợ nhà thống Lí, Mị có ý định tự tử, cô muốn dùng
cái chết để phản đối số phận tủi nhục của mình.
- Vì thương cha, vì không chịu nhục không trả được món nợ truyền kiếp, Mị đã phải sống
câm lặng trơ gan như tảng đá trước cửa cạnh chuồng ngựa nhà thống lí, sống lùi lũi như
con rùa nuôi trong xó cửa. Mị thấy cuộc đời mình còn thua con trâu, con ngựa vì “con
ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con
gái trong nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày". Mị lại ở trong một cái buồng "kín
mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng
trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông
ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi". Nhưng không vì thế mà sức sống trong con
người Mị bị thui chột, mà vẫn tiềm ẩn đâu đó, chỉ chực chờ có cơ hội là bùng lên và bùng
lên mãnh liệt.
- Khi mùa xuân về, như quy luật vạn vật hồi sinh, sức trẻ trong Mị bừng trỗi dậy, Mị
khêu đèn lên cho sáng căn buồng của mình, cô lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát. Mị
bồi hồi nghe tiếng sáo, Mị vẫn thấy mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi. Dù bị A sử trói chân
tay không cựa quậy được, Mị vẫn lắng tai nghe tiếng sáo và thả hồn theo những cuộc
chơi.
- Cảm thấy số phận A Phủ gần kề cái chết, Mị đã cắt dây cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn
khỏi Hồng Ngài. Hành động giải phóng này là tất yếu của sức sống tiềm tàng trong nhân
vật Mị vượt qua chế độ phong kiến tàn bạo, lạc hậu đang chà đạp đời sống vật chất và
tinh thần người nông dân miền núi.
Câu 13: Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.

Gợi ý trả lời


Năm 1952, Tô Hoài theo bộ đội chủ lực, tiến quân vào miền Tây, dự chiến dịch giải
phóng Tây Bắc. Nhà văn đã kể về những ngày tháng ấy, “cái kết quả lớn nhất và trước
nhất của chuyến đi là đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhờ cho tôi nhiều
quá.... Đó là một ám ảnh mạnh mẽ thúc đẩy tôi sáng tác” (Một số kinh nghiệm viết văn
của tôi). Truyện Vợ chồng A Phủ đã được ra đời trong hoàn cảnh ấy. Tác phẩm viết về
đồng bào Mèo trong quá trình đấu tranh giành quyền sống tự do, hạnh phúc đã phải nếm
trải bao đau thương, tủi nhục, cay đắng. Họ đấu tranh để được giải phóng khi gặp cách
mạng. Sự đổi đời của nhân dân Tây Bắc trong bối cảnh cuộc kháng chiến của dân tộc.
Đến Tây Bắc, Tô Hoài có thêm những người bạn mới là Mị và A Phủ, và cách kể chuyện
sắc sảo của nhà văn, họ đã trở thành những nhân vật văn học sinh động, những số phận
được sáng tạo, nâng lên từ cuộc sống. Mị và A Phủ là hai hình tượng có tính sóng đôi, bổ
sung cho nhau. Họ có cuộc đời riêng nhưng cùng chung cảnh ngộ. Trong đó, Mị được
nhà văn chú ý miêu tả, khắc họa hết sức rõ nét bằng cách khai thác đời sống nội tâm của
nhân vật.
Mị là một cô gái miền núi xinh đẹp và có tài thổi sáo. “Mi uốn chiếc lá trên môi, thổi lá
cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết
núi này sang núi khúc". Nhiều người say mê Mị “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu
buồng Mị”. Nhưng vì nghèo, Mị không có được hạnh phúc như mình mong ước.,về làm
dâu để trừ nợ cho cha mẹ trong nhà thống lý Pá Tra. Mị sống như một kẻ nô lệ, bị chiếm
đoạt sức lao động, nhan sắc và cả cuộc đời con gái bị vùi dập đau đớn, Mị muốn tự tử
nhưng vì thương cha, Mị không đành lòng chết. Thế là sự phản kháng yếu ớt tuyệt vọng
ấy đã tiêu tan.
Quay trở lại nhà thống lý, người con gái hiếu thảo ấy đành buông xuôi cho số phận theo
một quy luật thích nghi nghiệt ngã: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Thậm chí còn
khổ hơn cả con trâu con ngựa. “Con trâu, con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được
đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc củ đêm cả ngày”.
Và từ dó Mị sống như cái xác không hồn, “Mị cúi mặt không nghĩ ngợi gì nữa", lúc nào
“cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi".
Nhà thống lý Pá Tra giàu có, kẻ hầu người hạ rất nhiều, Mị là con dâu nhưng cũng chỉ là
nô lệ, chỉ là một công cụ lao động biết nói. Hơn thế nữa, Mị chẳng biết nói với ai, Mị như
một con vật không cần ánh sáng. “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi
trong xó cửa". Mị hoàn toàn đối lập với không gian bao la rộng mở của bầu trời vùng núi,
rộn ràng âm thanh và rực rỡ màu sắc. “Ớ cái buồng Mị nằm, kín nút, có một chiếc cửa số
một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là
sương hay là nắng". Và Mị sẽ sống ở đó cam chịu “’đến bao giờ chết thì thôi".
Trong suốt nửa đầu tác phẩm, người đàn bà ấy gần như lặng câm, sống âm thầm cô độc,
tối tăm nhẫn nhục, không mảy may hi vọng có sự đổi thay. Nhưng có lúc hoàn cảnh
không thể dập tắt được sức sống, muốn sống trong yêu thương vẫn âm ỉ cháy trong đáy
sâu tiềm thức của Mị.
Những đêm tình mùa xuân tới, nghe tiếng sáo thổi gọi bạn đầu làng, tiếng sáo thiết tha
bồi hồi, Mị hát thầm theo tiếng sáo. Những lúc này “lòng Mị đang sống về ngày trước".
Quá khứ của thời con gái hiện về, sung sướng tự do. Mị lén lấy rượu uống "ực từng bát"
để quên buồn, quên đi thực tại hay để có đủ can đảm phản kháng thực tại? Mị quyết định
đi chơi, “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách", một sức sống
tiềm ẩn đã bùng lên mạnh mẽ, Mị còn trẻ lắm, Mị phải sống như khát vọng thúc giục.
Nhưng sự trỗi dậy ấy, một lần nữa, lại bị sự ràng buộc khắc nghiệt của hoàn cảnh, A sử
trói đứng Mị vào cột nhà một cách tàn nhẫn, lạnh lùng. Trong tình trạng đau đớn về thể
xác ấy, lạ thay, “ Mị vẫn nghe tiếng xáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi".
Đến nỗi Mị đã quên đi cảnh bị trói bi thẳm của hiện tại, “Mị vùng bước đi, nhưng tay
chân đau không cựa được".
Như vậy, trong cái thâm u, tối tăm của cuộc đời Mị, luôn có những cơn sóng ngầm phản
kháng. Và cơn sóng mạnh mẽ cuối cùng là hành động cắt dây trói cho A Phủ. Với đoạn
văn hay nhất của truyện này, Tô Hoài đã tỏ ra rất chặt chẽ trong bố cục, tài tình trong việc
sắp xếp các tình huống, thể hiện tâm lí, hành động của nhân vật một cách hợp lý, thuyết
phục.
Anh Phủ bị trói đứng bên góc nhà, gần nơi Mị thường thức dậy sớm để sưởi lửa. Đã mấy
đêm liền, Mị thấy A Phủ đứng đó “mát mở trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống”. “Mị
vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay". Lúc này, Mị chỉ biết có mình và ngọn lửa, Mị còn thờ ơ
với tất cả. Nhưng rồi trong cái đêm cuối cùng ở Hồng Ngài ấy, qua “ngọn lửa bập bùng
sáng lên", Mị đã thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai mõm má đã xám đen
lụi" trên khuôn mặt A Phủ. Dòng nước mắt ấy đã khơi gợi cho Mị nhớ về ngày trước. Mị
cũng bị trói đứng như thế, Mị khóc “nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết
lau đi được". Dòng nước mắt của Mị ngày trước và dòng nước mắt của A Phủ lúc này
tưởng chừng như hòa làm một, nó tạo thành sự cảm thông đau đớn và bùng cháy một thái
độ căm thù mãnh liệt. “Chúng nó thật độc ác". Trước đây vđi sự mê tín mông muội, Mị
chịu yên phận trong cuộc sống đau khổ, bây giờ Mị cũng nghĩ thế. “Ta là thân đàn bà, nó
đã dắt ta về trình ma nhà nó thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi ... Người kia việc gì
mà phải chết thế”. Nhưng nếu giải cứu cho A Phủ đi, Mị sẽ bị trói vào đây, chỉ nghĩ đến
điều ấy, Mị đã cảm thấy sợ. Nói như Nam Cao trước kia, đó là “cái sợ cố hữu" của những
người nông dân nô lệ.
Nhưng rồi một hành động vô thức, “Mị rón rén bước lại ... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt
nút dây mây". Đến lúc sực tỉnh, Mị mới hốt hoảng sợ hãi.... Động lực nào thúc đẩy Mị
hành động như vậy? Trong logic phát triển của tính cách nhân vật, ở tình huống này, tác
giả đã dẫn dắt chi tiết một cách hợp lý độc đáo. Người đọc chỉ có thể giải thích sức mạnh
thúc đẩy Mị hành động lúc này là tình cảm của những người cùng cảnh ngộ, là sự giao
hòa hai dòng nước mắt của hai số phận nhưng cùng chung kiếp đời nô lệ đau xót.
A Phủ chạy đi, “Mị đứng lặng trong bóng tối". “Rồi Mị cũng vụt chạy ra" ,chi tiết nhỏ
này đã thể hiện được cả cơn sóng gió trong tâm hồn Mị lúc này .Trước khi cứu A Phủ,
chưa bao giờ Mị nghĩ rằng mình sẽ đi theo A Phủ. Nhưng đứng trước cái chết, bản năng
sinh tồn trong con người Mị trỗi dậy, nó mạnh hơn tất cả, mạnh hơn thái độ cam chịu
nhẫn nhục, nó có mạnh hơn cả “con ma nhà thống Lý". Trước tình huống này Mị chỉ còn
một con đường, phải chạy theo A Phủ để được sống, Mị có biết đâu, khi cầm con dao cắt
sợi dây mây để cở trói cho A Phủ cũng chính là lúc Mị tự cởi trói cho cuộc đời mình. Họ
đã cứu sống nhau, đã tự giải phóng cuộc đời bằng sự quật khởi của chính mình.
Đến Phiềng Sa, có vợ chồng Mị mới biết được thế nào là hạnh phúc, gia đình Mị và A
Phủ còn phải chiến đấu với bọn thực dân dưới dự dìu dắt của A Châu vì Mị đã biết được
ai là kẻ thù của mình. Mị cũng không còn sợ con ma nhà thống lý. Mị ngẩng khuôn mặt
lên khi làm việc và lại hát những bài tình ca mỗi độ xuân về. Sự đổi đời của Mị và A Phủ
khi đến Phiềng Sa cũng chính là sự đổi đời của nhân dân Tây Bắc trong cuộc kháng chiến
hào hùng của dân tộc.
Viết Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã chứng tỏ sự lão luyện của một nhà văn hiện thực trong
việc xây dựng điển hình, khẳng định một cách nhìn mới về hiện thực. Đó cũng chính là
kết quả của một quá trình chuyển biến đến độ chín muồi của tư tưởng, tình cảm nhà văn.
Vợ chồng A Phủ là một câu chuyện có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, tác phẩm đã
khái quát được con đường đi, sự đổi đời của nhân dân Tây Bắc sau Cách mạng bằng
những thủ pháp nghệ thuật độc đáo, sống động và đặc sắc là một tấm lòng sâu nặng đối
với các dân tộc miền núi anh em.

Câu 14: Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy nêu giá trị hiện thực và nhân đạo của tác
phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
Gợi ý trả lời
Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện trong tập Truyện Tây Bắc (in năm 1954) của nhà
văn Tô Hoài.
Tác phẩm kể về cuộc đời đôi vợ chồng trẻ người Mèo là Mị và A Phủ. Mị bị bắt về làm
con dâu trừ nợ cho nhà thông lý. A Phủ vì dám đánh A Sử, con trai thống lý nên phải làm
đầy tớ để trừ tiền phạt vạ. Cùng cảnh ngộ đau khổ, Mị đã cứu A Phủ. Hai người trốn khỏi
nhà Pá Tra, tìm đến tận Phiềng Sa, thành vợ, thành chồng, cùng nhau xây dựng cuộc đời
mới. Được cán bộ cách mạng giác ngộ, Mị cùng A Phủ trở thành du kích bảo vệ khu giải
phóng.
Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Thông qua số phận Mị và A
Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi trước cách
mạng và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ. Dưới thời thực dân phong kiến,
bọn lang đạo chúa đất ở vùng cao mặc sức làm mưa làm gió. Chúng nắm trong tay quyền
lực của hành chính, tập tục và thần linh. Chúng có quyền sinh, quyền sát. Bởi thế tính
mạng người dân bị coi như cỏ rác. Điển hình cho tầng lớp thống trị miền núi được miêu
tả trong truyện là cha con thống lý Pá Tra với tính cách bạo ngược và lối sống phè phỡn
trên mồ hôi nước mắt người nghèo.
Cũng như bao tên chúa đất khác, thống lý Pá Tra có đủ mọi thủ đoạn hiểm độc trong việc
áp bức, bóc lột dân chúng, đẩy họ vào cảnh bần cùng để rồi mặc nhiên trở thành nô lệ của
hắn. Mị và A Phủ là nạn nhân trong bao nạn nhân khác của cha con hắn.
Mị vốn là một cô gái mang đầy đủ phẩm chất tồt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người,
đẹp nết, Mị được nhiều trai bản yêu mến. Cuộc sống, tuổi thanh xuân, hứa hẹn với cô bao
điều tốt lành. Nhưng chỉ vì món nợ của cha mẹ cô vay thống lý từ ngày cưới cho đến lúc
mẹ cô chết vẫn chưa trả được nên Mị phải đem thân làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lý.
Là người nhưng cô bị coi như một thứ đồ vật vô tri, vô giác để tính ra tiền trừ vào số nợ.
Những ngày Mị sống với cha con tên thống lý là chuỗi dài đau thương, vất vả. Danh
nghĩa là dâu nhà quan nhưng thực chất cô là đầy tớ không công, bị coi rẻ hơn cả con trâu,
con ngựa. Suốt ngày nai lưng ra làm quần quật, đêm đến cô lại phải thức hầu hạ thằng
chồng tàn ác.
Đau khổ, cực nhọc đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu.
Cô gái mèo xinh đẹp, hồn nhiên, đa tình đa cảm thuở nào đã chết. Chỉ còn lại người đàn
bà “lúc nào cũng vậy... cũng cúi mặt buồn rười rượi... ”, "ngồi quay sợi gai bên tảng đá
trước cửa, cạnh tàu ngựa... Mị âm thầm “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa".
Mị không những bị đọa đày về thể xác mà còn bị đè nén về tinh thần. Mị chán sống
nhưng không được chết. Vì cô chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn và người cha già
càng đau khổ hơn. Cuộc đời Mị bị ràng buộc bằng quyền lực, bị trói buộc bằng tập tục
mê tín lâu đời của người dân miền núi.
Cách đối xử bất công, tàn bạo của cha con tên thống lý làm cho Mị ngập chìm trong đau
khổ triền miên. Cô lặng lẽ ra vào như cái bóng, không một người bạn chia sẻ tâm tình. Cô
chỉ còn biết làm bạn với ngọn lửa “trong những đêm đông dài và buồn". Thân xác Mị,
tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, “nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết
héo"... Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp cô xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây
phủ cuộc đời cô. Không có người bè bạn, cảm thương với nỗi khổ của mình, tìm đến
ngọn lửa, coi nó là bạn. Khổ biết chừng nào!
Dưới ngòi bút của tác giả, cuộc đời bế tắc của Mị chẳng khác gì hình ảnh căn buồng cô ở,
kín bưng, tối mò, chỉ thông với bên ngoài bằng lỗ cửa sổ bé như bàn tay, ở trong nhìn ra,
không biết là đêm hay ngày, sương hay nắng...
Bao năm qua, Mị bị đọa đày trong nhà thống lý, mọi cảm xúc của cô hầu như tê liệt. Tinh
thần phản kháng cũng vậy. Bây giờ, Mị đã nghĩ rằng mình là con trâu, con ngựa của nhà
giàu, chỉ biết ăn cỏ và đi làm thôi. Con trâu, con ngựa nhà giàu đêm còn đưực nghỉ, còn
cô không lúc nào ngớt việc. Trước kia, cô phản kháng dữ dội bằng cách định ăn lá ngón
tự tử, giờ cô không nghĩ đến chuyện chết nữa vì quá quen với cái khổ rồi, vì cho rằng
mình sống mà như chết. Đời Mị cứ lặng lẽ trôi đi. Với Mị, cuộc sống chẳng còn nghĩa lý,
không còn gợi cho cô ý thức gì về quá khứ, hiện tại, tương lai. Cái ác của bọn thống trị là
đã giết chết phần tốt đẹp của con người.
Cuộc đời A Phủ, người con trai Mèo cũng không kém phần nào chua xót. Khỏe mạnh,
ngang tàng, phóng khoáng, làm nương giỏi, săn thú tài, A Phủ được bao cô gái say mê, ao
ước. Nhưng hạnh phúc không đến với chàng trai nghèo khổ, mồ côi ấy. Vì dám đánh lại
A sử con trai thống lí Pá Tra và bị Pá Tra phạt vạ một trăm đồng bạc trắng nên phải đi ở
trừ nợ, làm trâu ngựa cho nhà thống lý: “Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế,
bao giờ hết nợ tao mới thôi”.
Ngày này qua tháng khác, A Phủ phải làm việc cật lực, chăn dắt bầy bò, ngựa đông mấy
chục con. Không may một con bò bị hổ ăn thịt, A Phủ bị trói đứng vào cột chờ chết,
không được ăn, không được uống.
Con người khí phách ngang tàng như A Phủ mà phải lặng lẽ khóc cho thân phận tủi nhục
của mình: “hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai mõm
má đã xám đen lại". Chút ý thức phản kháng trong anh đã bị hiện thực phũ phàng dập tắt.
Cuộc sống đau khổ, nô lệ của Mị và A Phủ điển hình cho thân phận người dân nghèo
miền núi dưới chế độ cũ. Bần cùng hóa con người, chà đạp lên nhân phẩm, tình yêu, hạnh
phúc là chuyện thường thấy ở cả miền xuôi lẫn miền ngược.
Ngòi bút nhà văn tỏ ra sắc sảo trong việc miêu tả con người và cuộc sống vùng cao. Cha
con tên thống lý và lũ tay sai là hiện thân của giai cấp thống trị tàn ác, vô nhân đạo. Bọn
lý dịch, quan làng, thống quản... lợi dụng chuyện A Phủ đánh A Sử để kéo đến nhà thống
lý xử kiện và ăn cỗ “suốt từ trưa cho đến hết đêm". Mấy chục người “hút thuốc phiện rào
rào". Cứ mỗi đợt chúng hút xong, A Phủ lại phải quỳ ra giữa nhà để người nhà thống lý
xô đến đánh: “Cứ như thế suốt chiều, suốt đêm, càng hút càng tỉnh, càng đánh càng chửi,
cùng hút... "
Giá trị hiện thực của truyện ngoài việc tái hiện đoạn đời khổ ải của những người nô lệ
còn nói lên một sự thật xót xa: người dân bị áp bức, đè nén quá lâu sẽ bị lê liệt tinh thần
phản kháng, sẽ bị đầu độc bởi tâm lý nô lệ. Bạo lực câu kết với thần quyền, với mê tín dị
đoan làm cho họ không cất đầu dậy nổi.
Nhưng trong cuộc đời, mọi cái đều có giới hạn. Có áp bức, có đấu tranh, Mị và A Phủ
cũng như bao người khác sẽ vùng lên tự giải phóng, giành quyền làm người tự do. Đoạn
đời sau của Vợ chồng A Phủ chứng minh quy luật muôn đời ấy.
Trong giá trị hiện thực của tác phẩm đã ẩn chứa giá trị nhân đạo sâu xa. Có căm thù giai
cấp thống trị và xã hội bất công, tác giả mới lên tiếng tố cáo mãnh liệt. Có cảm thương số
phận đau khổ của con người, tác giả mới viết nên những trang sách gây xúc động mạnh
mẽ như vậy.
Nhưng nhà văn không để nhân vật của mình bị dồn vào thế tuyệt vọng. Điều kỳ diệu là
dẫu trong cùng cực thế nào chăng nữa thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được
sức sống con người. Cách nhìn nhận của Tô Hoài trong tác phẩm này hết sức nhân bản.
Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt. Từ trong sâu
thẳm tâm hồn người con gái bị đọa đày kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham
sống. Mùa xuân về, Mị lén uống rượu và "lòng Mị thì đang sống về ngày trước, tai Mị
văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng... Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui
sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi...".
Nhưng rồi thực tại đen tối đã cố tình dập tắt tiếng sáo thiết tha và hình ảnh mùa xuân rực
rỡ. Phản ứng tự phát ban đầu của Mị không thể giải phóng được cuộc đời cô nhưng
những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro
tàn, có ngày sắp bùng cháy dữ dội.
Ngày ấy đã đến với Mị trước cảnh A Phủ bị trói. “Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt
nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc,
nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng
người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bad ngày
trước cũng ở cái nhà này... Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết
đói, chết rét, phải chết. Ta thân, đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ con
biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... người kia việc gì mà phải chết thế...”.
Mị không cầm lòng được trước cảnh con người sắp bị hủy diệt. Mị động lòng thương.
Thương người, thương thân, Mị nhớ đến những khổ sở, hãi hùng mà mình phải chịu đựng
suốt mấy năm qua. Giọt nước mắt đau khổ của A Phủ như giọt nước làm tràn đầy bình
nước. Nó thức tỉnh nỗi đau lắng chìm trong lòng Mị. Cảm thương số phận A Phủ, lòng
căm thù cha con tên thống lý độc ác bùng lên, lấn át nỗi sợ hãi, dẫn Mị đến hành động táo
bạo ngoài ý thức: cắt dây trói cứu A Phủ.
Đây là hành động bộc phát song nó là kết quả tất yếu của một quá trình bị dồn nén, bức
xúc về mặt tinh thần, bây giờ đã đến lúc giải thoát. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt
đứt tung những dây trói vô hình đã cột chặt cô vào quãng đời tủi nhục bấy lâu nay. Cô
vụt chạy theo A Phủ bởi cô ý thức được sự sống còn của mình: “ ở đây thì chết mất". Mị
đã chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, giải phóng mình ra khỏi nanh vuốt cha con tên
thống lý.
Hai con người cùng cảnh ngộ đã “lâng lâng dìu nhau lao chạy xuống dốc núi” bỏ thật xa
cái địa ngục giam cầm, đày đọa họ mấy năm trời. Từ trong cái chết, họ vùng dậy tìm lẽ
sống, làm lại cuộc đời.
Chạy trốn khỏi Hồng Ngài, thoát khỏi ách áp bức của thống lý Pá Tra, Vợ chồng A Phủ
lại gặp phải kẻ thù mới không kém phần nguy hiểm là giặc Pháp. Chúng là lũ cướp nước
đồng thời cướp cả mọi thức và quyền tự do được sống làm người, chẳng khác gì bọn
cường hào ác bá miền núi.
Chúng càn lên núi cao, đốt nhà, cướp của, bắt người. A Phủ bị chúng cướp mất đôi heo,
bị đánh, bị đi phu khiêng đá xây đồn... A Phủ căm thù, chửi bới giặc Pháp và đã nhận
thức được rằng mình là người tự do, của cải bị chúng cướp đi là mồ hôi, nước mắt của
mình. Phải nhớ lấy mà trả thù.
Sống ở Phiềng Sa, vợ chồng A Phủ mới thật sự được làm người. Họ được cán bộ A Châu
giác ngộ cách mạng. Từ một chàng trai nghèo khổ, nô lệ, A Phủ đã trở thành một du kích
dũng cảm, tự tin. Anh thật sự trở thành chỗ dựa tinh thần của Mị. Sống bên A Phủ, Mị
dần dần hết lo sợ, cô vững tin vào cuộc sống mới, vào kháng chiến. Được đứng lên đánh
lại kẻ thù áp bức mình trong tư cách mình là con người, ý thức ấy mới thực sự có ý nghĩa
nhân đạo.
Quá trình giác ngộ cách mạng của vợ chồng A Phủ tiêu biểu cho con đường đến với
Đảng, với cách mạng của đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi nước ta. Qua tác
phẩm, nhà văn gián tiếp khẳng định chỉ có cách mạng mới giải phóng con người ta ra
khỏi ách áp bức, bất công, giúp con người vươn tới cuộc sống tự do, hạnh phúc, cuộc
sống làm người. Tô Hoài khi tái hiện bức tranh hiện thực với những bản chất của nó
không thể không miêu tả quá trình vận động, quy luật của cuộc sống. Đấy là giá trị nhân
đạo sâu xa của tác phẩm.
Qua việc miêu tả số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại trước
mắt người đọc cả quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã
man của bọn quan lại, chúa đất phong kiến. Đồng thời khẳng định chỉ có sự tự vùng dậy
của bản thân theo dẫn dắt của cách mạng mới giải phóng được con người ra khỏi kiếp
ngựa trâu, nô lệ. Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn của tác phẩm. Giá trị này
giúp truyện đứng vững trước thử thách của thời gian và vẫn được nhiều thế hệ bạn đọc
yêu thích.
Câu 15: Qua cuộc đời của hai nhân vật trung tâm Mị và A Phủ, hãy tìm hiểu giá trị hiện
thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài.

Gợi ý trả lời


Cách mạng tháng Tám 1945 thành công đã đem đến cho văn nghệ sĩ nước ta một cuộc tái
sinh nhiệm mầu. Các nhà văn. nhà thơ đã đứng lên dưới ngọn cờ cách mạng, với ý thức
công dân sâu sắc, tích cực sáng tác phục vụ xã hội mới. Tô Hoài là một trong những nhà
văn hiện thực sớm đi đến với cuộc sống lớn của nhân dân. Trong kháng chiến chống
Pháp, ông đã cùng bộ đội tham gia chiến dịch Tây Bắc giải phóng đồng bào ở ba tỉnh Sơn
La, Lai Châu, Hoàng Liên Sơn. Trước mắt Tô Hoài bây giờ là một thế giới mới với
những phong cảnh mới, con người mới, vấn đề xã hội mới. Ngòi bút của ông vươn ra
khỏi làng Nghĩa Đô bé nhỏ để hướng tới miêu tả, tái hiện một vùng đất hết sức phong
phú và cũng hết sức kỳ lạ của đất nước: vùng Tây Bắc. Và cũng như nhiều nhà văn, nhà
thơ khác, Tô Hoài đã trăn trở “nhận đường" và rèn luyện cho mình một thế giới quan và
nhân sinh quan mới, xác định một phương pháp sáng tác mới phù hợp với thời đại. Kết
quả của những chuyến đi và niềm trăn trở nhận đường ấy là tác phẩm Truyện Tây Bắc
gồm ba truyện Cứu đất cứu Mường, Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ. Cùng với tiểu
thuyết Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Truyện Tây Bắc của Tô Hoài đã nhận được
giải thưởng hạng nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam 1945 - 1955. Có thể nói Vợ chồng A
Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất trong Truyện Tây Bắc vì nó chứa đựng giá trị hiện thực
và giá trị nhân đạo thông qua việc miêu tả cuộc đời và số phận của hai nhân vật trung tâm
là Mị và A Phủ.
Trong Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài kể về cuộc đời đầy gian truân và đau khổ của hai vợ
chồng người Mèo là A Phủ và Mị. Họ vốn là những người nô lệ trong nhà thống lý Pá
Tra; Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ, A Phủ vì dám đánh bại con trai nhà thống lý nên
cũng phải làm người ở để đền tội với chủ. Trong cảnh ngộ tối tăm ấy, họ đã gặp gỡ, đồng
cảm và giúp nhau thoát khỏi nhà Pá Tra tìm đến vùng Phiềng Sa. Tại đây họ đã trở thành
vợ chồng. Giữa lúc bọn lính Pháp đến đánh phá và cướp bóc ở Phiềng Sa, cán bộ của
Đảng đã tìm đến để giúp đồng bào các dân tộc tự bảo vệ cuộc sống của mình. Mị và A
Phủ gặp A Châu, một cán hộ của Đảng, kết làm anh em rồi thành đội viên du kích. Nhớ
lại thời điểm sáng tác Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài viết “Câu chuyện Vợ chồng A
Phủ của tôi đã xây dựng được bằng mắt thấy tai nghe và cảm tình về những con người và
sự việc ấy trong cuộc chiến đấu giải phóng quê hương của các dân tộc thiểu số anh em ở
biên giới Tây Bắc của đất nước".
Qua câu nói đó, chúng tôi đã nhận thấy giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm
đã được nhà văn Tô Hoài xây dựng một cách có ý thức.
1. Giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ thể hiện trước hết ở việc trình bày chân thực
cuộc sống đau thương, tăm tối đầy bi kịch của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách
phong kiến nặng nề và sự bóc lột của thực dân Pháp. Giá trị hiện thực của tác phẩm còn
gắn liền với sự tố cáo, vạch trần tội ác của bọn phong kiến (thống lý, thổ ly, lang đạo) ở
vùng cao.
- Hình tượng nhân vật Mị là tượng trưng cho cái đẹp bị vùi dập. Cô gái trẻ trung, xinh
đẹp như một bông hoa của núi rừng đó bị A Sử cướp về làm vợ. Trong ngôi nhà giống
như tù ngục đó, Mị suốt ngày "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", số phận của Mị
chẳng khác nào số phận của kiếp ngựa trâu vì giá trị của con người không được xem
trọng, con người chỉ như một cái máy để làm việc. Thậm chí, Tô Hoài viết “con ngựa,
con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái
nhà này thì vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Lẽ ra trong cuộc sống bình thường những
người con gái như Mị phải được vui chơi, đi dự hội hè, tìm thấy tình yêu và hạnh phúc
cho mình. Nhưng ngược lại, đến ngày tết, A Sử lại đi chơi với bạn, còn Mị thì bị trói
đứng trong buồng tối.
- Cùng chung nghịch cảnh với Mị là A Phủ, nhân vật trung tâm thứ hai của truyện. Nếu
Mị là tượng trưng cho cái đẹp bị vùi dập thì A Phủ 1ại tượng trưng cho sự sống, sức lao
động và lòng khát khao tự do của con người bị kiềm hãm. A Phủ chạy như con ngựa, biết
đúc lưỡi cày, lưỡi cuốc, cày bừa rất giỏi và đi săn bò tót rất thành thạo. Lẽ ra con người
đó phải được tự do giữa núi rừng để phát huy sức mạnh của mình. Nhưng chỉ vì A Phủ
bất bình phản ứng đánh lại A Sử, kẻ đã phá vỡ cuộc vui ngày tết, mà A Phủ đã bị bắt về
làm kẻ nô lệ trong nhà thống lý. Một lần để cho hổ ăn thịt mất một con bò mà A Phủ bị
thống lý trói đứng suốt mấy ngày trong góc nhà. Hình tượng A Phủ thể hiện một cuộc
sống bị trói buộc, tượng trưng cho sức lao động bị bóc lộ và đè nén.
Giá trị hiện thực của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ không chỉ bộc lộ qua việc trình bày
chân thực cuộc sống đầy bi kịch của nhân dân miền núi Tây Bắc nói chung, đồng bào dân
tộc Mông nói riêng mà còn thể hiện qua việc khắc họa những bộ mặt tàn bạo của cha con
thống lý Pá Tra và A Sử, của bọn lý dịch, quan lạc, thống quản. Đây là nguyên nhân trực
tiếp gây nên nỗi khổ của những người dân thấp cổ, bé miệng như Mị và A Phủ. Bộ mặt
tàn bạo của chúng không chỉ hiện ra qua những hành động đánh dập dã man đối với kẻ ăn
người ở trong nhà mà còn qua những lời nguyền rủa của một hai cá nhân mà còn là lời
nguyền rủa của cả một chế độ xã hội. Bao giờ còn chế độ xã hội đó thì vẫn còn những kẻ
ác như Pá Tra và những nạn nhân của hắn như Mị và A Phủ. Xã hội phong kiến Việt
Nam vốn đã lạc hậu. Nói về nguyên nhân của những nỗi bi kịch và người dân miền núi
phải chịu đựng, Tô Hoài cho rằng đứng đằng sau thế lực phong kiến tại chỗ là bóng dáng
của quân đội xâm lược từ phương Tây tràn đến. Trong bức tranh hiện thực của tác phẩm
Vợ chồng A Phủ, hình ảnh giặc Pháp hiện lên như là chỗ dựa, là thế lực mà bọn phong
kiến vùng cao sẵn sàng cấu kết để duy trì ách thống trị của chúng. Người dân Tây Bắc chỉ
có thể sống được một cuộc đời ấm no, hạnh phúc khi nào chấm dứt được cả hai thế lực
trên đây. Vấn đề áp bức giai cấp gắn liền với vấn đề áp bức dân tộc là một nét căn bản tạo
nên giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ.
2. Gắn hiền với giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ là giá trị nhân đạo xuất phát từ cái
nhìn, tấm lòng, tình yêu thương, nỗi xúc động... của nhà văn Tô Hoài trước số phận của
Mị và A Phủ trong truyện ngắn này. Nhà văn bày tỏ sự thông cảm với nỗi đau khổ của
người phụ nữ bị gả bán như một thứ hàng hóa. Ớ chỗ nào nhà văn mô tả nỗi đau của Mị,
ở chỗ đó ngòi bút của ông như cũng run lên vì xúc động. Tô Hoài viết: “Đời người đàn bà
lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng". Mị chợt
nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: “ đợt trước ở nhà thống lý Pá Tra cá một người trói
vợ trong nhà ba ngày, rồi đi chơi, khi về đến thì vợ đã chết rồi. Nhớ đến điều đó, Mị sợ
quá, cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu bắp chân bị dây trói siết lại,
đau dứt từng mảnh thịt". Đọc đến đây ra nhớ lại câu thơ của Nguyễn Du: “Đau đớn thay
phận đàn bà".
Đó là nỗi đau của thân xác. Còn nỗi đau tinh thần? Trong hoàn cảnh bị trói buộc, Mị nghĩ
rằng mình đành ngồi trong một nhà tù chật hẹp nhìn qua một lỗ vuông mà trông đợi cho
đến bao giờ chết mới thôi. Dù vậy, khát vọng làm người hạnh phúc không bao giờ lụi tàn
trong lòng Mị. Nghe tiếng sáo thổi trong rừng, Mị tha thiết nhớ lại những ngày xuân tươi
đẹp của mình và tràn trề một lòng ham sống. Ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài đã không
dửng dưng với khát vọng đó của Mị.
Giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ còn có thể tìm thấy qua việc nhà văn tái hiện quá
trình thức tỉnh cách mạng của những người bị áp bức. Như trên đã nói, trong tác phẩm
này, chủ đề giải phóng dân tộc gắn liền với chủ đề giải phóng giai cấp nông dân và giải
phóng phụ nữ. Mị và A Phủ gặp nhau trong một hoàn cảnh thật éo le, họ là những số
phận đang đứng bên bờ vực thẳm. Hai nhân vật ấy đã kháng cự lại cái chết, kháng cự lại
số phận để giữ lại cuộc sống. Trong bước đường cùng quẫn, vẻ đẹp của Mị lại hiện ra
không chỉ bằng khuôn mặt mà cả trong tâm hồn. Điều đó bộc lộ rõ nhất qua thái độ của
Mị với A Phủ: một thái độ vị tha, cùng gánh chịu khổ đau. Tình yêu của họ đã đến từ việc
chia sẻ số phận chung đó. Chính Tô Hoài cũng nhận xét: “Cái biểu hiện cởi trói cho A
Phủ chỉ xảy ra trong khoảnh khắc, những khoảnh khắc có ý nghĩa quyết định và tồn tại
đời đời". Mị cởi trói cho A Phủ rồi tìm đến khu du kích của những làng Mông hẻo lánh
vùng Phiềng Sa. Được A Châu giác ngộ, họ tham gia đội du kích chống Pháp, trở thành
những người tự tin vào sức mạnh của chính mình. Vợ chồng A Phủ đã từ đấu tranh tự
phát vươn đến đấu tranh tự giác, từ những phản ứng có tính chất bản năng, đến sự phản
kháng có ý thức, nhất là khi nhận ra được nguyên nhân đau khổ của mình và lòng dạ của
kẻ thù. Có thể nói, qua hình tượng Mị và A Phủ, Tô Hoài đã xây dựng được những nhân
vật có tính cách biến đổi theo quá trình của cách mạng.
Giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ là một bước tiến trong việc nhận thức, khám phá
hiện thực kháng chiến, đồng thời cũng là một bước tiến trong việc thể hiện chủ nghĩa
nhân đạo theo nhân sinh quan cách mạng. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó
được hòa quyện trong một chất thơ trong sáng, màu sắc dân tộc đậm đà và văn phong
giàu tính tạo hình. Với Vợ chồng A Phủ nói riêng, Truyện Tây Bắc nói chung, Tô Hoài
đã góp phần đổi mới đề tài miền núi thực sự bước vào văn học với những hình ảnh phong
phú, tươi đẹp và chân thực. Vợ chồng A Phủ tiên báo những thành tựu tương lai trong
sáng tác đề tài, miền núi của một lớp nhà văn sung sức xuất hiện sau Cách mạng tháng
Tám như Nguyên Ngọc, Nông Quốc Chấn, Ma Văn Kháng, Vi Hồng...

Câu 16: Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo
dục Việt Nam, 2011), việc Mị nhìn thấy “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má
đã xám đen lại” của A Phủ diễn ra trong hoàn cảnh nào? Sự việc ấy có ý nghĩa gì đối với
tâm lí của nhân vật Mị?
Gợi ý trả lời
1. Hoàn cảnh diễn ra sự việc Mị nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ
- Do sơ ý để hổ bắt mất bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra trói đứng, bỏ mặc cho đói rét suốt
mấy đêm liền giữa kì sương muối khắc nghiệt ở Hồng Ngài; còn Mị sau bao năm bị đày
đọa cùng cực cũng đã trở nên chai lì. Những đêm trước, tuy vẫn trở dậy thổi lửa, hơ tay,
nhìn thấy A Phủ bị trói nhưng Mị chỉ dửng dưng, vô cảm.
- Đêm ấy, ương nỗi bất lực, bế tắc và hoàn toàn tuyệt vọng, A Phủ đã khóc; đúng lúc đó,
Mị nhìn sang và bắt gặp dòng nước mắt của A Phủ.
2. Ý nghĩa của sự việc đối vói tâm lí của nhân vật Mị
- Việc nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ là khởi đầu cho sự thay đổi lớn trong tâm lí
của Mị; Mị nhớ lại lần cũng bị hành hạ như thế, mà xót xa thương mình; từ đó đồng cảm
với nỗi đơn độc và tuyệt vọng của A Phủ.
- Từ mối đồng cảm ấy, Mị càng hiểu sâu sắc hơn sự độc ác của cha con thống lí Pá Tra,
thấy rõ sự nguy khốn vô lí đang áp xuống A Phủ; lòng trắc ẩn của người phụ nữ phút
chốc thức dậy đã đem lại sức mạnh cho Mị, khiến Mị dám liều mình cứu A Phủ.
Câu 17: Phân tích diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật Mị qua cảnh đêm mùa
xuân Mị muốn đi chơi và bị trói trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài (phần trích
trong Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam - 2012).

Gợi ý trả lời


a. Yêu cầu về kĩ năng
Biết cách làm bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi; biết cách phân tích
nhân vật trong tác phẩm truyện. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; lời văn trong sáng,
không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
b. Yêu cầu về kiến thức
Trên cơ sở những hiểu biết về nhà văn Tô Hoài và tác phẩm Vợ chồng A Phủ, thí sinh có
thể trình bày bài viết theo nhiều cách nhưng cần làm rơ được các ý cơ bản sau:
Nêu được vấn đề nghị luận
Hoàn cảnh xuất hiện tâm trạng và hành động của Mị
- Mị vốn là một thiếu nữ xinh đẹp, tài hoa, yêu đời; từ khi buộc phải làm con dâu gạt nợ
nhà thống lí Pá Tra, Mị cam chịu đến mức như không c̣n ư thức
sống.
- Mùa xuân về, thiên nhiên đất trời thay đổi, không khí đón Tết náo nức (đối lập với
không gian sống và tâm trạng của Mị) khiến sức sống trong Mị trỗi dậy. Nội dung diễn
biến tâm lí và hành động của Mị
- Khi nghe tiếng sáo gọi bạn t́nh:
+ Tâm trạng: bồi hồi xúc động, thức tỉnh (ư thức về thời gian, kỉ niệm sống
dậy, tiếng sáo gợi nhớ, thấy ḿnh c̣n trẻ, ý thức về thân phận, …) và muốn đi
chơi.
+ Hành động: khác thường (nhẩm theo bài hát, uống rượu, xắn mỡ bỏ thêm vào
đĩa đèn, sửa soạn đi chơi, …) thể hiện trạng thái phản kháng.
- Khi bị trói:
+ Tâm trạng: đau khổ, chập chờn giữa quá khứ và hiện tại (không biết mình bị
trói, vẫn sống với tiếng sáo, bồi hồi tha thiết, lúc mê, lúc tỉnh, …).
+ Hành động: mạnh mẽ (vùng bước đi nhưng bị dây trói thít chặt). Nghệ thuật
- Miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật phù hợp với logic của đời sống, đạt đến sự chân
thực, tinh tế.
- Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; dẫn dắt t́nh tiết khéo léo, tự nhiên.
- Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, sáng tạo; câu văn giàu tính tạo hình và đậm chất thơ.
Đánh giá: Diễn biến tâm lí và hành động của Mị đă thể hiện một tâm hồn khao
khát hạnh phúc, một sức sống tiềm tàng mănh liệt; thể hiện tình cảm nhân đạo của nhà
văn.
Lưu ý: Nếu thí sinh có kĩ năng làm bài tốt, cơ bản đạt được các yêu cầu về kiến thức th́
vẫn cho điểm tối đa.
Câu 18: Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô
Hoài (phần trích trong Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục − 2008).

Gợi ý trả lời


a. Yêu cầu về kĩ năng:
Biết cách làm bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi; phân tích được giá trị
tư tưởng của một tác phẩm. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả,
dùng từ, ngữ pháp.
b. Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở những hiểu biết về nhà văn Tô Hoài, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (chủ yếu
phần trích trong Ngữ văn 12, Tập hai) và giá trị nhân đạo trong văn học, thí sinh có thể
tŕnh bày theo nhiều cách, nhưng cần làm rơ được các ư cơ bản sau:
− Nêu được vấn đề cần nghị luận.
− Tố cáo sự tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi (tiêu biểu là cha con thống lí Pá
Tra).
− Bênh vực và cảm thông sâu sắc với những con người có số phận bất hạnh như Mị,
A Phủ.
− Trân trọng khát vọng tự do, hạnh phúc và phẩm chất tốt đẹp của người lao động
nghèo miền núi trong xă hội cũ.
− Đồng tình với tinh thần phản kháng, đấu tranh của những người bị áp bức và vạch
ra con đường giải phóng cho họ.
− Đánh giá chung về giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Lưu ý: Chỉ cho điểm tối đa khi thí sinh đạt được cả yêu cầu về kĩ năng và kiến
thức.

You might also like