Professional Documents
Culture Documents
Vợ chồng A Phủ
Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm đặc sắc của nhà văn Tô Hoài, chuyên đề này nhằm
cung cấp, phân tích cho các em các kiến thức về nội dung, nghệ thuật tác phẩm.
Câu 1: Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà
văn Tô Hoài
Câu 11: Phân tích diễn biến tâm lí của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân.Mị muốn đi
chơi nhưng bị A Sử trói đứng vào cột
Gợi ý trả lời
1.Mị đã bước vào cái đêm đáng ghi nhớ ấy, thoạt tiên, như một tâm hồn câm lặng. Cái cô
Mị xưa kia trẻ đẹp, khao khát yêu đương và cũng đã được yêu đương, cô Mị ấy tưởng
như đã chìm hẳn vào dĩ vãng. Chỉ còn một người đàn bà “không nói, lùi lũi như con rùa
nuôi trong xó cửa”, người đàn bà bị cầm tù trong một ngục thất tinh thần (hình ảnh cái
buồng có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng
trắng). Đã bao năm rồi, người đàn bà ấy chẳng biết đến mùa xuân, chẳng đi chơi Tết.
2.Vậy mà vào đúng cái đêm tình mùa xuân năm ấy, Mị thốt nhiên lại muốn đi chơi, và đã
sửa soạn đi chơi thực sự. Vì sao vậy? Khó có thể cho là tại đất trời. Thời tiết mùa xuân
năm nào chẳng đại loại là như thế.
Lí giải sự đột biến khác thường của Mị trong đêm ấy, là một thử thách thật sự đối với Tô
Hoài. Hãy xem bằng cách nào mà nhà văn vượt qua thử thách.
-Với một người như Mị, muốn đi chơi nghĩa là muốn phá phách, nghĩa là nổi loạn. Cũng
với một người như Mị để có thể nổi loạn, thì phải có cái gì có khả năng làm quên đi hiện
tại để sống trở về những tháng năm xưa.
Cái đó là men rượu mà Tết năm ấy, Mị đã lén “uống ực từng bát”. “Rồi say Mị lịm mặt
ngồi đấy ., nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước”... Rõ nhất là tiếng sáo. Mỗi lần
tiếng sáo trở lại truyện là mỗi lần nó được biến đổi đi từ âm thanh của hiện tại dần dần
thành tiếng của những mùa xuân trước. Từ chỗ ở ngoài Mị, ở xa Mị, dần dần như tiếng ai
mời gọi, hồn ai chờ đợi ngoài đường, để cuối cùng rập rờn trong đầu người thiếu phụ.
Tiếng sáo dìu hồn Mị hay là bước đi của hồn Mị được ghi dấu bằng tiếng sáo.
-Như thế là sức sống, lòng ham sống đã thức dậy trong lòng người thiếu phụ.
Nhưng sự vượt khỏi hoàn cảnh hiện tại của nhân vật không hề đơn điệu, dễ dàng
Một thời gian dài. Mị sống trong sự giao tranh giữa qúa khứ và hiện tại. Quá khứ đẩy đưa
đi, hiện tại thì níu lại. (Nên lòng phơi phới mà Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng,
ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trắng trắng. Và lòng ham sống
trào dậy đầu tiên trong ý nghĩa muốn chết ngay chứ không buồn nhớ lại...).
Nhưng sức sống cứ lớn dần, sức ám ảnh của tuổi xuân cứ mạnh dần, cho tới khi nó dường
như chiếm trọn tâm hồn Mị. Phải tới lúc đó, Mị mới hành động như một kẻ mộng du,
không thấy, không nghe A Sử nói.
3.Rồi Mị bị A Sử trói trong trạng thái mơ hồ. Mãi về sau, Mị mới cảm thấy cái hiện tại
tàn khốc khi vùng bước đi mà tay chân không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến
một lần, ngay tức khắc thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa hơi
rượu, tiếng sáo với cái đau nhức của dây trói và tiếng chân ngựa đạp vào vách. Nhưng
bây gờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn dần lên, tê dại dần đi để dần dần trở
lại với vị trí của con rùa lùi lũi trong xó cửa.
4.Một làn song tình cảm đã tan đi, không làm thay đổi mảy may đời Mị. Những cái gì Tô
Hoài đã viết về đêm hôm ấy vẫn đầy ý nghĩa. Nó cho thấy: Thứ nhất. sức sống của con
người dù bị giẫm đạp, đè nén đến đâu cũng vẫn không bị mất đi. Ý nghĩa ấy khiến ta
thêm tin, thêm yêu mến con người. Thứ hai, chế độ phong kiến là chế độ buộc trói, giam
hãm chống lại con người và sự sống. Chế độ ấy đáng căm thù, lên án cả từ phía nhân
danh quyền sống của con người. Một tình tiết nghệ thuật giàu chất nhân đạo và chất thơ.
Câu 12: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô
Hoài thể hiện trong cảnh ngộ khi cô bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra đến
khi trốn khỏi Hồng Ngài.
Câu 14: Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy nêu giá trị hiện thực và nhân đạo của tác
phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
Gợi ý trả lời
Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện trong tập Truyện Tây Bắc (in năm 1954) của nhà
văn Tô Hoài.
Tác phẩm kể về cuộc đời đôi vợ chồng trẻ người Mèo là Mị và A Phủ. Mị bị bắt về làm
con dâu trừ nợ cho nhà thông lý. A Phủ vì dám đánh A Sử, con trai thống lý nên phải làm
đầy tớ để trừ tiền phạt vạ. Cùng cảnh ngộ đau khổ, Mị đã cứu A Phủ. Hai người trốn khỏi
nhà Pá Tra, tìm đến tận Phiềng Sa, thành vợ, thành chồng, cùng nhau xây dựng cuộc đời
mới. Được cán bộ cách mạng giác ngộ, Mị cùng A Phủ trở thành du kích bảo vệ khu giải
phóng.
Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Thông qua số phận Mị và A
Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi trước cách
mạng và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ. Dưới thời thực dân phong kiến,
bọn lang đạo chúa đất ở vùng cao mặc sức làm mưa làm gió. Chúng nắm trong tay quyền
lực của hành chính, tập tục và thần linh. Chúng có quyền sinh, quyền sát. Bởi thế tính
mạng người dân bị coi như cỏ rác. Điển hình cho tầng lớp thống trị miền núi được miêu
tả trong truyện là cha con thống lý Pá Tra với tính cách bạo ngược và lối sống phè phỡn
trên mồ hôi nước mắt người nghèo.
Cũng như bao tên chúa đất khác, thống lý Pá Tra có đủ mọi thủ đoạn hiểm độc trong việc
áp bức, bóc lột dân chúng, đẩy họ vào cảnh bần cùng để rồi mặc nhiên trở thành nô lệ của
hắn. Mị và A Phủ là nạn nhân trong bao nạn nhân khác của cha con hắn.
Mị vốn là một cô gái mang đầy đủ phẩm chất tồt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người,
đẹp nết, Mị được nhiều trai bản yêu mến. Cuộc sống, tuổi thanh xuân, hứa hẹn với cô bao
điều tốt lành. Nhưng chỉ vì món nợ của cha mẹ cô vay thống lý từ ngày cưới cho đến lúc
mẹ cô chết vẫn chưa trả được nên Mị phải đem thân làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lý.
Là người nhưng cô bị coi như một thứ đồ vật vô tri, vô giác để tính ra tiền trừ vào số nợ.
Những ngày Mị sống với cha con tên thống lý là chuỗi dài đau thương, vất vả. Danh
nghĩa là dâu nhà quan nhưng thực chất cô là đầy tớ không công, bị coi rẻ hơn cả con trâu,
con ngựa. Suốt ngày nai lưng ra làm quần quật, đêm đến cô lại phải thức hầu hạ thằng
chồng tàn ác.
Đau khổ, cực nhọc đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu.
Cô gái mèo xinh đẹp, hồn nhiên, đa tình đa cảm thuở nào đã chết. Chỉ còn lại người đàn
bà “lúc nào cũng vậy... cũng cúi mặt buồn rười rượi... ”, "ngồi quay sợi gai bên tảng đá
trước cửa, cạnh tàu ngựa... Mị âm thầm “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa".
Mị không những bị đọa đày về thể xác mà còn bị đè nén về tinh thần. Mị chán sống
nhưng không được chết. Vì cô chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn và người cha già
càng đau khổ hơn. Cuộc đời Mị bị ràng buộc bằng quyền lực, bị trói buộc bằng tập tục
mê tín lâu đời của người dân miền núi.
Cách đối xử bất công, tàn bạo của cha con tên thống lý làm cho Mị ngập chìm trong đau
khổ triền miên. Cô lặng lẽ ra vào như cái bóng, không một người bạn chia sẻ tâm tình. Cô
chỉ còn biết làm bạn với ngọn lửa “trong những đêm đông dài và buồn". Thân xác Mị,
tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, “nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết
héo"... Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp cô xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây
phủ cuộc đời cô. Không có người bè bạn, cảm thương với nỗi khổ của mình, tìm đến
ngọn lửa, coi nó là bạn. Khổ biết chừng nào!
Dưới ngòi bút của tác giả, cuộc đời bế tắc của Mị chẳng khác gì hình ảnh căn buồng cô ở,
kín bưng, tối mò, chỉ thông với bên ngoài bằng lỗ cửa sổ bé như bàn tay, ở trong nhìn ra,
không biết là đêm hay ngày, sương hay nắng...
Bao năm qua, Mị bị đọa đày trong nhà thống lý, mọi cảm xúc của cô hầu như tê liệt. Tinh
thần phản kháng cũng vậy. Bây giờ, Mị đã nghĩ rằng mình là con trâu, con ngựa của nhà
giàu, chỉ biết ăn cỏ và đi làm thôi. Con trâu, con ngựa nhà giàu đêm còn đưực nghỉ, còn
cô không lúc nào ngớt việc. Trước kia, cô phản kháng dữ dội bằng cách định ăn lá ngón
tự tử, giờ cô không nghĩ đến chuyện chết nữa vì quá quen với cái khổ rồi, vì cho rằng
mình sống mà như chết. Đời Mị cứ lặng lẽ trôi đi. Với Mị, cuộc sống chẳng còn nghĩa lý,
không còn gợi cho cô ý thức gì về quá khứ, hiện tại, tương lai. Cái ác của bọn thống trị là
đã giết chết phần tốt đẹp của con người.
Cuộc đời A Phủ, người con trai Mèo cũng không kém phần nào chua xót. Khỏe mạnh,
ngang tàng, phóng khoáng, làm nương giỏi, săn thú tài, A Phủ được bao cô gái say mê, ao
ước. Nhưng hạnh phúc không đến với chàng trai nghèo khổ, mồ côi ấy. Vì dám đánh lại
A sử con trai thống lí Pá Tra và bị Pá Tra phạt vạ một trăm đồng bạc trắng nên phải đi ở
trừ nợ, làm trâu ngựa cho nhà thống lý: “Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế,
bao giờ hết nợ tao mới thôi”.
Ngày này qua tháng khác, A Phủ phải làm việc cật lực, chăn dắt bầy bò, ngựa đông mấy
chục con. Không may một con bò bị hổ ăn thịt, A Phủ bị trói đứng vào cột chờ chết,
không được ăn, không được uống.
Con người khí phách ngang tàng như A Phủ mà phải lặng lẽ khóc cho thân phận tủi nhục
của mình: “hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai mõm
má đã xám đen lại". Chút ý thức phản kháng trong anh đã bị hiện thực phũ phàng dập tắt.
Cuộc sống đau khổ, nô lệ của Mị và A Phủ điển hình cho thân phận người dân nghèo
miền núi dưới chế độ cũ. Bần cùng hóa con người, chà đạp lên nhân phẩm, tình yêu, hạnh
phúc là chuyện thường thấy ở cả miền xuôi lẫn miền ngược.
Ngòi bút nhà văn tỏ ra sắc sảo trong việc miêu tả con người và cuộc sống vùng cao. Cha
con tên thống lý và lũ tay sai là hiện thân của giai cấp thống trị tàn ác, vô nhân đạo. Bọn
lý dịch, quan làng, thống quản... lợi dụng chuyện A Phủ đánh A Sử để kéo đến nhà thống
lý xử kiện và ăn cỗ “suốt từ trưa cho đến hết đêm". Mấy chục người “hút thuốc phiện rào
rào". Cứ mỗi đợt chúng hút xong, A Phủ lại phải quỳ ra giữa nhà để người nhà thống lý
xô đến đánh: “Cứ như thế suốt chiều, suốt đêm, càng hút càng tỉnh, càng đánh càng chửi,
cùng hút... "
Giá trị hiện thực của truyện ngoài việc tái hiện đoạn đời khổ ải của những người nô lệ
còn nói lên một sự thật xót xa: người dân bị áp bức, đè nén quá lâu sẽ bị lê liệt tinh thần
phản kháng, sẽ bị đầu độc bởi tâm lý nô lệ. Bạo lực câu kết với thần quyền, với mê tín dị
đoan làm cho họ không cất đầu dậy nổi.
Nhưng trong cuộc đời, mọi cái đều có giới hạn. Có áp bức, có đấu tranh, Mị và A Phủ
cũng như bao người khác sẽ vùng lên tự giải phóng, giành quyền làm người tự do. Đoạn
đời sau của Vợ chồng A Phủ chứng minh quy luật muôn đời ấy.
Trong giá trị hiện thực của tác phẩm đã ẩn chứa giá trị nhân đạo sâu xa. Có căm thù giai
cấp thống trị và xã hội bất công, tác giả mới lên tiếng tố cáo mãnh liệt. Có cảm thương số
phận đau khổ của con người, tác giả mới viết nên những trang sách gây xúc động mạnh
mẽ như vậy.
Nhưng nhà văn không để nhân vật của mình bị dồn vào thế tuyệt vọng. Điều kỳ diệu là
dẫu trong cùng cực thế nào chăng nữa thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được
sức sống con người. Cách nhìn nhận của Tô Hoài trong tác phẩm này hết sức nhân bản.
Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt. Từ trong sâu
thẳm tâm hồn người con gái bị đọa đày kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham
sống. Mùa xuân về, Mị lén uống rượu và "lòng Mị thì đang sống về ngày trước, tai Mị
văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng... Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui
sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi...".
Nhưng rồi thực tại đen tối đã cố tình dập tắt tiếng sáo thiết tha và hình ảnh mùa xuân rực
rỡ. Phản ứng tự phát ban đầu của Mị không thể giải phóng được cuộc đời cô nhưng
những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro
tàn, có ngày sắp bùng cháy dữ dội.
Ngày ấy đã đến với Mị trước cảnh A Phủ bị trói. “Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt
nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc,
nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng
người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bad ngày
trước cũng ở cái nhà này... Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết
đói, chết rét, phải chết. Ta thân, đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ con
biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... người kia việc gì mà phải chết thế...”.
Mị không cầm lòng được trước cảnh con người sắp bị hủy diệt. Mị động lòng thương.
Thương người, thương thân, Mị nhớ đến những khổ sở, hãi hùng mà mình phải chịu đựng
suốt mấy năm qua. Giọt nước mắt đau khổ của A Phủ như giọt nước làm tràn đầy bình
nước. Nó thức tỉnh nỗi đau lắng chìm trong lòng Mị. Cảm thương số phận A Phủ, lòng
căm thù cha con tên thống lý độc ác bùng lên, lấn át nỗi sợ hãi, dẫn Mị đến hành động táo
bạo ngoài ý thức: cắt dây trói cứu A Phủ.
Đây là hành động bộc phát song nó là kết quả tất yếu của một quá trình bị dồn nén, bức
xúc về mặt tinh thần, bây giờ đã đến lúc giải thoát. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt
đứt tung những dây trói vô hình đã cột chặt cô vào quãng đời tủi nhục bấy lâu nay. Cô
vụt chạy theo A Phủ bởi cô ý thức được sự sống còn của mình: “ ở đây thì chết mất". Mị
đã chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, giải phóng mình ra khỏi nanh vuốt cha con tên
thống lý.
Hai con người cùng cảnh ngộ đã “lâng lâng dìu nhau lao chạy xuống dốc núi” bỏ thật xa
cái địa ngục giam cầm, đày đọa họ mấy năm trời. Từ trong cái chết, họ vùng dậy tìm lẽ
sống, làm lại cuộc đời.
Chạy trốn khỏi Hồng Ngài, thoát khỏi ách áp bức của thống lý Pá Tra, Vợ chồng A Phủ
lại gặp phải kẻ thù mới không kém phần nguy hiểm là giặc Pháp. Chúng là lũ cướp nước
đồng thời cướp cả mọi thức và quyền tự do được sống làm người, chẳng khác gì bọn
cường hào ác bá miền núi.
Chúng càn lên núi cao, đốt nhà, cướp của, bắt người. A Phủ bị chúng cướp mất đôi heo,
bị đánh, bị đi phu khiêng đá xây đồn... A Phủ căm thù, chửi bới giặc Pháp và đã nhận
thức được rằng mình là người tự do, của cải bị chúng cướp đi là mồ hôi, nước mắt của
mình. Phải nhớ lấy mà trả thù.
Sống ở Phiềng Sa, vợ chồng A Phủ mới thật sự được làm người. Họ được cán bộ A Châu
giác ngộ cách mạng. Từ một chàng trai nghèo khổ, nô lệ, A Phủ đã trở thành một du kích
dũng cảm, tự tin. Anh thật sự trở thành chỗ dựa tinh thần của Mị. Sống bên A Phủ, Mị
dần dần hết lo sợ, cô vững tin vào cuộc sống mới, vào kháng chiến. Được đứng lên đánh
lại kẻ thù áp bức mình trong tư cách mình là con người, ý thức ấy mới thực sự có ý nghĩa
nhân đạo.
Quá trình giác ngộ cách mạng của vợ chồng A Phủ tiêu biểu cho con đường đến với
Đảng, với cách mạng của đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi nước ta. Qua tác
phẩm, nhà văn gián tiếp khẳng định chỉ có cách mạng mới giải phóng con người ta ra
khỏi ách áp bức, bất công, giúp con người vươn tới cuộc sống tự do, hạnh phúc, cuộc
sống làm người. Tô Hoài khi tái hiện bức tranh hiện thực với những bản chất của nó
không thể không miêu tả quá trình vận động, quy luật của cuộc sống. Đấy là giá trị nhân
đạo sâu xa của tác phẩm.
Qua việc miêu tả số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại trước
mắt người đọc cả quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã
man của bọn quan lại, chúa đất phong kiến. Đồng thời khẳng định chỉ có sự tự vùng dậy
của bản thân theo dẫn dắt của cách mạng mới giải phóng được con người ra khỏi kiếp
ngựa trâu, nô lệ. Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn của tác phẩm. Giá trị này
giúp truyện đứng vững trước thử thách của thời gian và vẫn được nhiều thế hệ bạn đọc
yêu thích.
Câu 15: Qua cuộc đời của hai nhân vật trung tâm Mị và A Phủ, hãy tìm hiểu giá trị hiện
thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài.
Câu 16: Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo
dục Việt Nam, 2011), việc Mị nhìn thấy “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má
đã xám đen lại” của A Phủ diễn ra trong hoàn cảnh nào? Sự việc ấy có ý nghĩa gì đối với
tâm lí của nhân vật Mị?
Gợi ý trả lời
1. Hoàn cảnh diễn ra sự việc Mị nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ
- Do sơ ý để hổ bắt mất bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra trói đứng, bỏ mặc cho đói rét suốt
mấy đêm liền giữa kì sương muối khắc nghiệt ở Hồng Ngài; còn Mị sau bao năm bị đày
đọa cùng cực cũng đã trở nên chai lì. Những đêm trước, tuy vẫn trở dậy thổi lửa, hơ tay,
nhìn thấy A Phủ bị trói nhưng Mị chỉ dửng dưng, vô cảm.
- Đêm ấy, ương nỗi bất lực, bế tắc và hoàn toàn tuyệt vọng, A Phủ đã khóc; đúng lúc đó,
Mị nhìn sang và bắt gặp dòng nước mắt của A Phủ.
2. Ý nghĩa của sự việc đối vói tâm lí của nhân vật Mị
- Việc nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ là khởi đầu cho sự thay đổi lớn trong tâm lí
của Mị; Mị nhớ lại lần cũng bị hành hạ như thế, mà xót xa thương mình; từ đó đồng cảm
với nỗi đơn độc và tuyệt vọng của A Phủ.
- Từ mối đồng cảm ấy, Mị càng hiểu sâu sắc hơn sự độc ác của cha con thống lí Pá Tra,
thấy rõ sự nguy khốn vô lí đang áp xuống A Phủ; lòng trắc ẩn của người phụ nữ phút
chốc thức dậy đã đem lại sức mạnh cho Mị, khiến Mị dám liều mình cứu A Phủ.
Câu 17: Phân tích diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật Mị qua cảnh đêm mùa
xuân Mị muốn đi chơi và bị trói trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài (phần trích
trong Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam - 2012).