You are on page 1of 160

BÀI 1: VỢ CHỒNG A PHỦ

- Tô Hoài -
ĐỀ 1:
Mở đầu truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài viết: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí
Pá Tra thường trông thấy một cô con gái ngồi quay sợi gay bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa.
Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô
ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta nói : nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn
Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế
thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy
không phải con gái nhà Pá Tra: cô ấy là vợ A Sử, con trai nhà thống lí Pá Tra”.
Kết thúc truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài viết:

“Mị đứng lặng trong bóng tối.

Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy,
chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:

– A Phủ cho tôi đi.

A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:

– Ở đây thì chết mất.

A Phủ chợt hiểu. Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.

A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi”.

(Trích Vợ chồng A Phủ, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr. 4)

Cảm nhận đặc sắc hai đoạn văn trên, từ đó đưa ra nhận xét về giá trị nhân đạo mà Tô Hoài gửi
gắm thông qua tác phẩm. (Lưu ý: đề có thể ra một trong hai đoạn. HS xác định chuẩn vấn đề để
làm trúng)

I. Mở bài

Hình như mỗi nhà văn đều “mang nợ” với một miền đất, một miền đời trong không gian muôn
trùng đất dài sông rộng. Tô Hoài cũng vậy! Với ông, Tây Bắc chính là “món nợ ân tình” mà ông
phải trả cho đồng bào nơi đây. Đất Tây Bắc “để thương để nhớ” cho Tô Hoài nhiều quá, làm sao
ông có thể quên cho được hình ảnh vợ chồng A Phủ tháng năm nào chìm khuất trong bóng đêm của
chế độ phong kiến miền núi tàn độc, áp bức, bóc lột, chà đạp con người. Bằng vốn hiểu biết phong
phú về tập quán, phong tục miền cao Tây Bắc, “Vợ chồng A Phủ” ra đời. Tác phẩm là câu chuyện
về những người lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đạo,
giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do. Trong đoạn trích
“Vợ chồng A Phủ” (trích trong tập Truyện Tây Bắc), Tô Hoài đã có cách mở đầu và kết thúc phần
trích độc đáo và đầy dụng ý, từ đó ngầm gửi gắm tư tưởng nhân đạo sâu xa.

II. Thân bài


1. Khái quát vài nét về tác phẩm

Tô Hoài từng tâm sự: “Tôi xem vài bài giảng về tác phẩm này, nhưng có lẽ các thầy giáo đã
quá chăn chú đến nội dung tố cáo xã hội và giải phóng phụ nữ. Theo tôi giảng tác phẩm này là
phải chú trọng đặc biệt đến nhân vật Mị, số phận của cô là sự hồi sinh mãnh liệt của con người
cô. Sự hồi sinh của một con người là vô cùng quý”. Tuy chỉ là một truyện ngắn, song dường như
đây là một tiểu thuyết thu nhỏ viết về những chuỗi ngày khổ đau lẫn hạnh phúc trong cuộc đời cô
Mị. Truyện “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn hiện thực thấm đẫm tinh thần nhân đạo, chan
chứa tấm lòng của một nhà văn nặng tình với đất và người trên quê hương Tây Bắc.

2. Phân tích hai đoạn trích

Một tác phẩm nghệ thuật hay phải thực sự hấp dẫn ngay từ phần mở đầu và có một kết thúc ấn
tượng để lại dư vang trong tâm hồn người đọc. Khác với văn xuôi Việt Nam trước năm 1945, các tác
phẩm viết sau Cách mạng tháng Tám chú trọng việc tạo dựng một nguồn năng lượng tích cực,
hướng người đọc đến một cuộc sống mới, đến ánh sáng và niềm tin chứ không mãi đắm chìm trong
tối tăm ô nhục.

“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài cũng tương tự như thế! Đoạn văn mở đầu và đoạn văn kết thúc
phần trích thực sự đặc sắc, góp phần thể hiện tư tưởng nhân văn sâu rộng của Tô Hoài.

a. Đoạn trích thứ 1

Mở đầu truyện ngắn, Tô Hoài sử dụng giọng văn trầm buồn nhưng đầy ám ảnh để đưa người
đọc vào thế giới Tây Bắc trước ngày giải phóng. Như một câu chuyện cổ tích từ thuở nào đó xa xưa
lắm, Tây Bắc hiện ra với hai giai cấp đối lập nhau: một bên là thống lí Pá Tra (giai cấp thống trị),
một bên là “cô con gái” tên Mị (giai cấp bị trị) đang sống lầm lũi, buồn tủi trong căn nhà sang giàu
nhưng độc ác, bất lương.

Có thể nói nhân vật Mị thật sự trĩu nặng tâm can người đọc ngay từ đoạn văn này. Lòng dạ sắt
đá bao nhiêu cũng phải xốn xang, xúc động se lòng trước một cô Mị tội nghiệp, đang kéo lê cuộc
đời của mình, đang vùi chôn tuổi trẻ của mình trong căn nhà của thống lí Pá Tra, nơi tối tăm, tàn
nhẫn chẳng khác nào chốn ngục thất trần gian.

Chỉ với câu văn mở đầu tác phẩm, Tô Hoài đã gợi ra những ấn tượng ban đầu về cô Mị: “Ai ở
xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng
đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Đàn bà con gái Tây Bắc “ngồi quay sợi gai” thôi thì có gì đâu phải nói
đến, đó chỉ là công việc thường nhật của người phụ nữ miền sơn cước, làm để ăn, để thay đổi cuộc
đời khốn khó nghèo nàn.

Nhưng không, một nhà văn sâu sắc và đầy tâm huyết như Tô Hoài không bao giờ chấp nhận
viết ra những điều bình thường, giản đơn đến vậy. Tô Hoài viết tiếp: “Lúc nào cũng vậy, dù quay
sợi gai, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt
buồn rười rượi”.

Người con gái Tây Bắc đâu chỉ làm chỉ làm những công việc nhẹ nhàng như “quay sợi gai”,
dưới sự áp bức, bóc lột tàn nhẫn của bọn thực dân, chúa đất, người con gái Tây Bắc phải làm những
công việc nặng nhọc mà lẽ ra những việc ấy phải do đàn ông sức dài vai rộng gánh gồng. Trong nhà
thống lí Pá Tra, Mị chẳng những “quay sợi gai, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi”, mà còn “cõng nước
dưới khe suối lên”. “Cõng nước”, hai tiếng ấy gợi ra cái tư thế khom lưng cúi người cõng ống nước
to và nặng trên lưng. Phải chăng công việc này đã khiến bờ lưng người đàn bà ngày càng còng
xuống, dáng đi lom khom, vì thế mà “lúc nào cũng cúi mặt”. Song, ám ảnh nhất trong đoạn văn này
có lẽ là khuôn mặt “buồn rười rượi” của cô Mị.

Chi tiết “mặt buồn rười rượi” có giá rất đắt trong việc gợi tả thân phận, cuộc đời tủi buồn, khốn
khổ của Mị. Xuyên suốt truyện ngắn, người đọc vẫn thường bắt gặp những hình ảnh: “buồn rười
rượi”, “Mị cúi mặt”, “Mị càng không nói”, “lùi lũi”, “Mị bưng mặt khóc”… Cớ gì một người con
gái xuân sắc lại phải buồn, phải tủi, phải lặng im đến thế? Phải rồi, thật chất Mị “không phải là con
gái nhà Pá Tra”, mà là “vợ A Sử, con trai nhà thống lí Pá Tra”.

Một cuộc hôn nhân ép buộc theo phong tục lạc hậu của người Mông thuở ấy dồn Mị vào tình
cảnh trớ trêu. Vì nghèo, vì món nợ truyền kiếp, Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Chế
độ phong kiến miền núi hà khắc, độc ác hơn cả chế độ phong kiến miền xuôi một thời được miêu tả
cụ thể trong các tác phẩm của Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… bóc
lột sức lao động, áp chế tinh thần, khống chế sự tự do của người con gái. Đây là hiện thực ngột ngạt,
đen ngòm của xã hội Tây Bắc trước ngày giải phóng. Tô Hoài đã miêu tả thật chân thật, xót xa.

Tóm lại, ngay từ đoạn văn mở đầu, hình ảnh Mị hiện ra thật tội nghiệp. Một số phận bất hạnh.
Một đoạn đời ô nhục, u buồn. Ngôn ngữ dẫn chuyện của Tô Hoài giàu chất thơ, chất nhạc, mang đặc
trưng của chốn núi non, rừng thẳm, song man mác buồn như cái buồn của cuộc đời cô Mị.

b. Đoạn trích thứ 2

Với tấm lòng nhân đạo cao cả, nhà văn đã không nhấn chìm Mị trong tăm tối, khổ đau. Bằng
những cách khác nhau, nhà văn đã vực dậy sức sống vốn dĩ rất tiềm tàng và mãnh liệt bên trong
“con rùa lùi lũi” kia. Đoạn kết phần trích “Vợ chồng  A Phủ”, Tô Hoài đã để cho khát vọng sống
của cô gái khốn khổ này dâng lên cao trào. Khát vọng biến thành hành động cụ thể, Mị đã dũng cảm
cắt dây trói cứu A Phủ và chạy trốn cùng A Phủ đến Phiềng Sa, bắt đầu một cuộc sống mới.

Không gian nghệ thuật của đoạn văn là mùa đông giá rét. Mùa đông vùng cao se sắt thịt da,
lạnh buốt, “dài và buồn” như cái buồn của cuộc đời cô Mị. Thời gian nghệ thuật của đoạn văn là
đêm khuya, lúc mà Mị ra thổi lửa hơ bụng, hơ tay, trông thấy “dòng nước mắt bò xuống hai hõm má
đã sạm đen lại của A Phủ”. Thương mình năm xưa cũng bị trói như vậy, cũng đớn đau, khốn khổ
như vậy, Mị chuyển sang thương người. Cao trào của xúc cảm chính là hành động cắt dây trói cứu A
Phủ.

“Mị đứng lặng trong bóng tối”, câu văn gợi lên nhiều điều sâu xa. “Bóng tối” ở đây là bóng tối
của đêm đông vùng cao, nhưng phải chăng cũng là bóng tối của xã hội phong kiến – thực dân đang
đày đọa, giam hãm con người? Dường như là thế.

Đã bao lần Mị đứng trong bóng tối? Chắc là nhiều lần lắm không sao đếm xuể. Cuộc đời Mị từ
khi trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra đã trượt dài trong bóng tối còn gì. Trong đêm xuân
năm nào Mị bị trói, Mị cũng đứng trong bóng tối.
Trong đêm đông năm nay, Mị cũng “đứng lặng trong bóng tối”. Mị “đứng lặng” nhưng trong
đầu ngổn ngang những suy nghĩ, “đứng lặng” mà lòng dạ không hề tĩnh lặng. Đi hay không? Dường
như Mị vẫn đang mơ màng nghĩ về “thần quyền” bao nhiêu năm trói buộc Mị ở nhà thống lí.

Dường như Mị đang nghĩ nếu ở lại thì gia đình thống lí sẽ trói Mị vào cái cọc ấy thế mạng cho
A Phủ (vì chính Mị đã cắt dây trói cứu anh). Và, dường như Mị cũng đang mơ màng hỏi lòng: đi
đâu, rồi cuộc đời có được sung sướng, hạnh phúc hơn hay không?

Mọi “dường như” đều chỉ là phỏng đoán. Song, một sự phỏng đoán đầy logic, xuôi theo tâm
trạng và sự hồi sinh dần dần của cô Mị. Cuối cùng, “Mị cũng vụt chạy ra”. Tô Hoài đã nhắc đến
tiếng “chạy” nhiều lần: “vụt chạy”, “chạy, chạy xuống tới lưng dốc”, “lao chạy xuống dốc núi”.
Hành động này mang nhiều ý nghĩa. “Chạy” là để thoát khỏi căn nhà tàn độc với những cách trị
người tàn bạo, ghê rợn.

“Chạy” để giải thoát chính bản thân mình, bằng tâm thế của một người đàn bà chủ động phá bỏ
cái rào cản ngăn cách mình với sự tự do, cái rào cản bao năm khung người đàn bà trong cuộc sống
tăm tối, trong môi trường bào mòn khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, khiến Mị đánh mất chính
mình.

“A Phủ cho tôi đi”, câu nói gấp ráp trong hơi gió thốc, chưa để cho A Phủ đáp lại, Mị nói tiếp:
“Ở đây thì chết mất”. Phút giây này Mị đã nhận ra nguyên nhân của nỗi khổ mà mình chịu đựng bao
nhiêu năm qua. Thống lí Pá Tra và thế lực phong kiến đã hủy hoại thanh xuân, hạnh phúc và tâm
hồn của cô Mị xinh đẹp năm nào.

Những ngày ở nhà thống lí, sống chẳng qua chỉ là sự tồn tại sinh học, còn tâm hồn Mị đã héo
hắt từ lúc nào không hay. Mị đã thấm thía ra nỗi cơ khổ, bĩ cực của chính mình. Điều Mị nhận lại
lúc này chính là sự đồng cảm từ A Phủ. Một “người đàn bà chê chồng” đã sẵn sàng chạy theo A Phủ
dù chưa biết được đoạn đường phía trước sẽ ra sao, tươi sáng hay tăm tối. Nhưng Mị vẫn đi. Vì sao?
Bởi “Hạnh phúc là đấu tranh” chứ không phải là hành trình may rủi, nếu không biết vực dậy mà
sống tiếp, mà giải thoát thì sẽ chìm trong những vô vị, nhạt nhẽo và đau đớn của cuộc đời.

A Phủ cho Mị đi theo, phải chăng vì A Phủ cảm cái tấm lòng của người đàn bà sẵn sàng cắt
dây cởi trói cho người xa lạ trong đêm giá rét? Trong giây phút sinh tử này không ai nghĩ được gì
nhiều, sự sống chính là cái đích trước mắt để họ nỗ lực bước tiếp. Vì thế, “hai người lẳng lặng đỡ
nhau lao chạy xuống dốc núi”.

Sự phản kháng của Mị lúc này thật táo bạo, nó đã thành hành động cụ thể. Mị giải thoát số
phận cho mình và cho A Phủ. Sự phản kháng mạnh mẽ trong Mị đi từ tự phát đến tự giác. Nhịp điệu
câu văn gấp rút, nhanh như nhịp thở, nhanh như hành động chạy đi để thoát khỏi vòng kìm cặp độc
địa.

Ngôn từ gần gũi như lời ăn tiếng nói người dân lao động khổ nghèo. Tô Hoài đã kết thúc phần
trích đặc sắc, gợi lại niềm tin, hi vọng sống, ánh sáng của hạnh phúc le lói trước mắt người đọc.

3. Nhận xét giá trị nhân đạo mà tác giả muốn gửi gắm.
Mị điển hình cho tình trạng con người bị mất đi quyền sống. Rõ ràng, tiếng nói của chế độ
phong kiến đã được cất lên nhân danh quyền sống. Cái chế độ ấy thật đáng lên án bởi nó không chỉ
cướp đi quyền sống của con người, đày đọa con người mà còn làm cạn khô nhựa sống, làm lụi tắt
ngọn lửa sống, niềm vui sống của những con người vô cùng đáng sống.

Qua hai đoạn văn, ta thấy được những nét đặc sắc trong tư tưởng của tác phẩm: Miêu tả nỗi
thống khổ, thân phân đau đớn của nhân vật và tội ác của cường quyền. Ngợi ca sức sống tiềm tàng
của nhân vật, quá trình vùng lên của con người nơi vùng cao Tây Bắc. Tô Hoài đã miêu tả chân thật,
sinh động chi tiết ấy bằng bút phát hiện thực, phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, lối kể chuyện hấp dẫn
và ngôn ngữ đầy tính tạo hình.

“Vợ chồng A Phủ” vừa là thành tựu tương đối hiếm hoi của văn xuôi kháng chiến, vừa ghi dấu
sự trưởng thành của ngòi bút Tô Hoài trong sự chiếm lĩnh mảng đề tài miền núi, một đề tài tới nay
vẫn còn nhiều mới lạ với bạn đọc. Truyện được tổ chức chặt chẽ, dẫn dắt rất dung dị, tự nhiên,
không cần chạy theo những chi tiết li kì rùng rợn mà vẫn có sức hút mạnh mẽ.

Có được điều đó chính là nhờ chủ nghĩa nhân đạo tích cực của nhà văn. Sự thể hiện cuộc đời
hai nhân vật trung tâm từ bóng tối đau khổ, ô nhục vươn ra ánh sáng của tự do và nhân phẩm đã
chứng minh rất rõ điều đó. 

III. Kết bài

Hơn nửa thế kỉ trôi qua, cho đến nay, Mị vẫn còn đủ sức ám ảnh tâm can con người. Một cô
gái Mông xinh đẹp. Một thân phận khổ đau. Một người đàn bà mạnh mẽ chuyển mình từ “tự phát”
đến “tự giác” vùng lên đi tìm cuộc sống tự do. Hơi thở Tây Bắc dường như man mác trong từng câu
chữ.

Ra đời đã lâu, tuy vậy truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” vẫn còn nguyên sơ giá trị của nó, văn
phong Tô Hoài vẫn mang một sắc thái riêng biệt không trộn lẫn vào bất kì gương mặt nào. Và mỗi
lần giở lại từng trang văn Tô Hoài, hình ảnh cô Mị vẫn tác động mạnh mẽ vào xúc cảm người đọc,
buồn, đau, khổ, hạnh… mọi thứ vẫn như lần đầu khám phá không gì đổi thay…

ĐỀ 2:
Cảm nhận đoạn văn dưới đây và bình luận về giá trị hiện thực được nhà văn Tô Hoài thể hiện
trong đoạn trích
“ Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị
có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng
là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa
nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc
nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa,
mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến
mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh
tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có
lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả
đêm cả ngày.
Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín
mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng,
không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra,
đến bao giờ chết thì thôi.”
(Trích Vợ chồng A Phủ, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr. 6)

BÀI LÀM

I. Mở bài

Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu
biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. Thành công
nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc. “Vợ
chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đọan sáng tác sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông
là Mị và A Phủ trong chế độ thực dân, phong kiến. Đoạn trích ở phần đầu truyện: Lần lần, mấy năm
qua, mấy năm sau…bao giờ chết thì thôi thể hiện thành công giá trị hiện thực về cuộc đời người dân
miền núi Tây Bắc trong sáng tác của Tô Hoài.

II.Thân bài

1. Khái quát

Truyện “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện
Tây Bắc”. Tác phẩm gồm hai phần: phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng
Ngài; phần sau kể về Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng. Được cán bộ A Châu giác ngộ
cách mạng, A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích cùng Mị đánh Pháp bảo vệ dân làng. Đoạn trích
trong sách giáo khoa là phần thứ nhất của tác phẩm. Trong tác phẩm này, diễn biến tâm trạng nhân
vật Mị trong đêm tình mùa xuân được xem là ấn tượng nhất – thể hiện tài năng nghệ thuật bậc thầy
của Tô Hoài trong việc miêu tả tâm lý nhân vật.

2. Cảm nhận đoạn trích

Mị xuất hiện ngay từ phần mở đầu tác phẩm, gây ám ảnh cho người đọc về một kiếp người héo
hắt, tàn tạ “ chỉ biết cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mỵ không hiện lên bằng chân dung mà hiện lên
bởi số phận – một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra.

Mị là cô gái trẻ đẹp là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị tài hoa với điệu sáo làm
say mê biết bao nhiêu chàng trai “ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị yêu lao động “biết cuốc nương
làm ngô”. Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha già. Khi biết tin bố sẽ gạt nợ mình cho nhà
thống lý, Mị tha thiết van xin “bố đừng bán con cho nhà giàu”. Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và
phẩm giá của người con gái với vẻ đẹp trong ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa
rừng. Nhưng có ngờ đâu sự hiểm độc của chính sách cho vay nặng lãi của bọn thổ ty phong kiến
miền núi như một sợi dây oan nghiệt siết chặt lấy cuộc đời Mị. Đắng cay thay, đêm tình mùa xuân
đẹp nhất của đời người con gái đã biến thành một đêm bi kịch, tủi nhục khi A Sử bắt cóc Mị về nhà
thống lý. Và một buổi lễ cúng trình ma sáng hôm sau đó đã trói chặt cuộc đời Mị từ đấy.

Lúc đầu mới về “làm dâu” để phản kháng lại cái sự vô lí ấy, Mị đã “hằng mấy tháng trời đêm
nào Mị cũng khóc”. Khóc là biểu hiện của trạng thái tâm lí bị ức chế, không cam chịu, không chấp
nhận cái sự thật nghiệt ngã ấy. Mị cũng đã từng nghĩ đến cái chết khi cầm nắm lá ngón về tự tử
trước mặt cha nhưng vì thương cha già Mị không đành chết. Mị ném nắm lá ngón xuống đất như
ném đi tuổi trẻ hạnh phúc của mình để quay về nhà thống lý chấp nhận kiếp sống trâu ngựa. Cái địa
ngục trần gian ấy đã giam cầm cuộc đời Mị. Tuổi xuân của Mị bị vùi dập đến héo úa, lụi tàn trong
căn buồng chỉ độc một cái cửa sổ nhỏ như lòng bàn tay “trông ra ngoài không biết sương hay là
nắng”. Mị bị nô lệ hóa trở thành công cụ lao động. Nói đúng hơn là bị bóc lột sức lao động một cách
tàn tệ trở thành một súc nô trong nhà thống lý. Cuộc sống của Mị bị vùi vào công việc cả đêm lẫn
ngày “tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, cuối mùa thì đi nương bẻ
bắp…”. Không chỉ vậy, Mị còn bị bóng ma thần quyền áp chế làm cho tê liệt về tinh thần, mất hết
cả ý thức phản kháng. Nhà văn Tô Hoài đã nhiều lần so sánh Mị với con vật (con ngựa, con trâu,
con rùa). Từ đó Mị sống trong vô cảm, tâm hồn bị phong kín bởi sự lặng câm, băng giá “càng ngày
Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thử hỏi còn xót xa nào hơn thế nữa
không ?

3. Phân tích giá trị hiện thực trong đoạn trích

Giá trị hiện thực là gì? Đó là bức tranh đời sống hiện thực được nhà văn phản ánh trong tác
phẩm của mình. Mỗi tác phẩm văn học đều có giá trị hiện thực, bởi văn chương không thể xa rời
thực tế.“Nhà văn phải là người thư ký trung thành của thời đại”.

Biểu hiện trước hết về giá trị hiện thực trong đoạn trích là Tô Hoài đã miêu tả chân thực số
phận cực khổ của người dân dưới ách thống trị của bọn chúa đất miền núi và bọn thực dân phong
kiến, được thể hiện qua nhân vật Mị: Mị vốn là một cô gái người Mèo có đủ khả năng và điều kiện
hưởng một cuộc sống hạnh phúc, có một tương lai tươi sáng. Mị xinh đẹp, tài năng, hiếu thảo, yêu
lao động, có lòng tự trọng… Khi Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống Lí Pá Tra, lúc đầu Mị
xuất hiện ý thức phản kháng từ yếu ớt “đêm nào cũng khóc” đến mạnh mẽ “ăn lá ngón tự tử” nhưng
sau đó, khi bố mất, khi đã quen với mọi thứ, Mị chấp nhận số phận bi kịch của mình. Ý thức phản
kháng mất đi, Mị chấp nhận số phận của mình, sống một cách dật dờ, tàn lụi: Ở lâu trong cái khổ,
Mị quen khổ rồi.

Mị được so sánh theo thủ pháp “vật hóa”: so sánh ngang bằng (Mị tưởng mình cũng là con
trâu, mình cũng là con ngựa...; Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.)
và so sánh không ngang bằng (Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân,
đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.) nhằm tập trung phản
ánh hai nội dung: nhận thức của Mị về nỗi khổ, sự đọa đày về thân xác (Mị tưởng mình cũng là con
trâu, mình cũng là con ngựa...; Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân,
đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.) và sự tê liệt về ý thức,
tinh thần (Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.). Từ đó, tác giả làm
nổi bật dòng tâm tư, nhận thức của nhân vật về cuộc đời, số phận nô lệ buồn đau, cực nhục của Mị,
sự đọa đày cả về thể xác lẫn tinh thần đối với Mị.

Mị còn được nhà văn khắc họa bằng những hành động liên tiếp nhau, lặp đi lặp lại (lên núi hái
thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ bắp, hái củi, bung ngô, tước đay).Cách khắc họa nhân vật của Tô
Hoài gây ấn tượng về một con người bị tê liệt về xúc cảm, hành động như một cỗ máy đã được lập
trình sẵn, chỉ như đang tồn tại một cách vô thức mà không hề sống với bất kì một trạng thái cảm xúc
sống động nào.

Hình ảnh ẩn dụ: căn buồng Mị ở “kín mít, chỉ có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào
nhìn ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng” là biểu tượng ám gợi về
địa ngục trần gian, tù túng, ngột ngạt, nơi cầm tù tuổi thanh xuân của con người, biến Mị từ một cô
gái trẻ trung phơi phới thành một con người vô cảm, cam chịu. Đó không gian phi nhân tính.

Tận cùng của sự cam chịu : “Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra,
đến bao giờ chết thì thôi.”. Mị phải chịu đựng cả nỗi đau về thể xác và tinh thần.

Mặt khác, giá trị hiện thực của đoạn trích còn thể hiện ở sức tố cáo tội ác của bọn thực dân
phong kiến miền núi Tây Bắc: Chúng lợi dụng cường quyền và thần quyền để áp bức, bóc lột người
dân miền núi. Mị là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi do chúng đặt ra. Chúng biến trần gian
thành địa ngục, chà đạp lên hạnh phúc, tình yêu của con người. Không những đày đọa thể xác của
Mị, chúng còn làm tê liệt ý thức phản kháng, sống trong sự cam chịu, chấp nhận kiếp đời làm dâu
gạt nợ, nô lệ đầy tủi nhục .

Nhân vật Mị được phác tả bằng vài nét chân dung gây ám ảnh, có sự kết hợp giữa giọng trần
thuật của nhà văn với dòng tâm tư của nhân vật, khiến người đọc có cảm giác người viết đã nhập sâu
vào trong dòng ý nghĩ, tâm tư của nhân vật để diễn tả suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật; nhiều biện
pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ…; ngôn ngữ kể giàu chất thơ, xúc động.

III. Kết bài:

Qua giá trị hiện thực trong đoạn trích, tác giả lên án, vạch trần bộ mặt tàn bạo, độc ác của kẻ
thù giai cấp; cảm thông, đồng cảm, thương yêu với số phận đau thương của người dân Tây Bắc. Đó
là thái độ và tấm lòng đáng trân quý của nhà văn cách mạng trong văn học 1945-1975. Giá trị hiện
thực trong đoạn trích góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật truyện ngắn của Tô Hoài.

ĐỀ 3:
Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho.Trẻ em
đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều quanh nương để sưởi lửa.Ở Hồng Ngài, người ta thành lệ
cứ ăn Tết thì gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp mưa xuân xuống
thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét
rất dữ dội.
Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con
bướm sặc sỡ. (…) Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp
ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi.Mị ngồi nhẩm
thầm bài hát của người đang thổi.
      "Mày có con trai con gái rồi
      Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu".
Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới.
Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm sân chơi chung ngày tết. Trai gái, trẻ con ra
sân ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy.
Cả nhà thống lý ăn xong bữa cơm tết cúng ma. Xung quanh chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng
vẫn nhảy lên xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm tiếp ngay cuộc rượu bên bếp lửa.
Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mỵ lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt
ngồi đấy nhìn người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước. Tai Mị văng
vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên
bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người
mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.
(TríchVợ chồng A Phủ- Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD,2008, tr 6,7)
Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp bức tranh thiên thiên, cảnh sinh hoạt và nhân vật Mị ở đoạn
trích trên. Từ đó, nhận xét chất thơ trong sáng tác của nhà văn Tô Hoài.

BÀI LÀM

I. Mở bài

Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam, là
nhà văn có biệt tài nắm bắt rất nhanh nhạy những nét riêng trong phong tục, tập quán của những
miền đất mà ông đã đi qua. Một trong những thành công nhất của nhà văn khi viết về đề tài miền núi
Tây Bắc là truyện Vợ chồng A Phủ. Đoạn trích “ Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt
xong... Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị” đã cho người đọc thấy được
vẻ đẹp thiên nhiên, cảnh sinh hoạt và sức sống tiềm tàng của Mị trong đoạn trích cũng như chất thơ
trong sáng tác của Tô Hoài.
II.Thân bài
1. Khái quát
Truyện “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện
Tây Bắc”. Tác phẩm gồm hai phần: phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng
Ngài; phần sau kể về Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng. Được cán bộ A Châu giác ngộ
cách mạng, A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích cùng Mị đánh Pháp bảo vệ dân làng. Đoạn trích
trong sách giáo khoa là phần thứ nhất của tác phẩm. Trong tác phẩm này, diễn biến tâm trạng nhân
vật Mị trong đêm tình mùa xuân được xem là ấn tượng nhất – thể hiện tài năng nghệ thuật bậc thầy
của Tô Hoài trong việc miêu tả tâm lý nhân vật.
Mị là một cô gái xinh đẹp, tài hoa. Cô có tài thổi sáo, thổi đàn môi khiến bao người mê. Người
con gái hiếu thảo ấy xin được ở nhà cuốc nương, trồng ngô trả nợ thay cho cha mẹ. Mị có đủ những
phẩm chất tốt đẹp xứng đáng được hưởng một cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Thế nhưng vì món nợ
truyền kiếp của cha mẹ, Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Bề ngoài, Mị là con dâu
nhưng thực chất bên trong lại là con nợ. Nếu chỉ là con nợ, có thể một ngày nào đó Mị còn hi vọng
trả xong nợ mà giải thoát, nhưng Mị lại bị cùng lúc hai tròng dây trói buộc. Mị không dám chết vì
sợ làm liên lụy đến cha, và bởi sự ám ảnh, trói buộc của thần quyền.
Thời gian đầu về làm dâu, Mị phản kháng quyết liệt. Mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc,
và định tự tử bằng lá ngón. Những năm tháng làm dâu là chuỗi dài liên miên trong cực nhọc vất
vả, dường như làm tê liệt cả ý thức về bản thân của Mị: “Ở lâu trong cái khổ, Mị đã quen khổ rồi”.
Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa trong nhà Pá Tra, Mị “lùi lũi như con rùa nuôi sau xó cửa”.
Căn buồng của Mị như ngục thất tinh thần. Mị sống vật vờ như một cái bóng, mất hết ý niệm về thời
gian.
Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được
con người. Bị đọa đày cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng Mị vẫn sống âm thầm mà mãnh liệt. Từ
trong sâu thẳm tâm hồn người con gái ấy vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa khao khát sống khi mùa xuân
về.
2. Cảm nhận đoạn trích
Những bức tranh thiên nhiên có vẻ đẹp riêng của miền núi Tây Bắc, đặc biệt là cảnh mùa xuân
trên vùng núi cao, được Tô Hoài miêu tả bằng những rung cảm thiết tha của hồi ức.
Tết của đồng bào miền núi Tây Bắc là sự cộng hưởng của vẻ đẹp đất trời và niềm vui thu
hoạch mùa màng.“Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các
nhà kho”. Cái tết ở Hồng Ngài năm ấy đến vào lúc thời tiết khắc nghiệt, gió thổi và rét rất dữ dội
nhưng không ngăn nổi những sắc màu rực rỡ của thiên nhiên, không ngăn nổi cái rạo rực của lòng
người. Cả bản làng sáng bừng trong sắc vàng, đó là màu vàng của ngô, lúa, của trái bí đỏ, của cỏ
gianh cùng với những sắc màu rực rỡ của “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe
như con bướm sặc sỡ.” Ngoài sắc màu, bức tranh xuân vùng miền núi Tây Bắc còn rộn rã với thanh
âm. Đó là âm thanh của tiếng khèn, của tiếng nói cười của trẻ con, tiếng chó sủa xa xa và đặc biệt
hơn cả là tiếng sáo. Nhà văn Tô Hoài rất dụng công trong mô tả tiếng sáo bởi tiếng sáo mùa xuân
được xem như linh hồn của đời sống tinh thần nhân dân vùng Tây Bắc. Tiếng sáo là sự mã hóa vẻ
đẹp tâm hồn nhân dân Tây Bắc, là phương tiện giao tiếp của đồng bào nơi đây “Anh ném pao, em
không bắt. Em không yêu, quả pao rơi rồi”. 
Vẻ đẹp của bức tranh sinh hoạt, phong tục miền núi, đặc biệt là cảnh ngày tết của người Mèo,
qua ngòi bút của Tô Hoài, thực sự có sức say lòng người. Đoạn trích giúp chúng ta ít nhiều có thể
hình dung về phong tục đón Tết của người Mèo (H'Mông): người Mèo đón Tết khi vụ mùa gặt hái
đã xong; mọi người thường tập trung ở một không gian thoáng, rộng, thường là mỏm đất phẳng ở
đầu làng để thổi khèn, thổi sáo, đánh quay, ném còn. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ
bạn đi chơi. Từ láy lấp ló gợi âm thanh tiếng sáo lúc ẩn lúc hiện. Thanh âm ấy tạo không gian mênh
mông, được nhà văn miêu tả từ xa đến gần, là biểu hiện của sinh hoạt mang nét đặc trưng của con
người Tây Bắc. Đây cũng là dịp để các chàng trai cô gái trẻ kiếm tìm người yêu, người tâm đầu ý
hợp với mình. Mùa xuân là mùa của hò hẹn, mùa của tình yêu, của hạnh phúc. Giữa khung cảnh
thiên nhiên thơ mộng, quyến rũ và say mê, nổi bật con người Tây Bắc đa tình, nghệ sĩ.
Nhà văn tập trung tả lễ hội diễn ra ở Hồng Ngài vào mùa xuân, trong đó phần Hội được nhấn
mạnh hơn cả. Trong đêm tình mùa xuân, ông tả Hội trước: Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất
phẳng làm cái sân chơi chung ngày Tết. Trai gái, trẻ con ra sân chơi ấy tụ tập đánh pao, đánh quay,
thổi sáo, thổi khèn và nhảy.Về dung lượng, chỉ có ba câu văn tả trực tiếp Lễ cúng ma ngày Tết diễn
ra trong không gian nhà thống lý: Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma. Xung
quanh, chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng vẫn còn nhảy lên xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm lại
tiếp ngay bữa rượu bên bếp lửa.Hai đoạn văn gần nhau, tự nó toát lên cái nhìn so sánh của tác giả và
khơi gợi ý so sánh ở người đọc. Nhìn ở góc độ vật chất, đó là thế giới của nghèo và giàu; nhìn ở góc
độ địa vị, đó là thế giới của dân dã và chức sắc; nhìn ở góc độ phong tục, đó là thế giới của bên vui
chơi và bên thờ cúng; nhìn từ góc độ tuổi tác, bên thường gắn với trẻ, bên gắn với già; nhìn từ tính
chất của hoạt động thì một bên trần tục và một bên linh thiêng. Nhìn từ thân phận Mị, thế giới trần
tục ở ngoài kia trở thành thế giới của tự do - thế giới Mị khao khát, thế giới linh thiêng ở trong này
biến thành thế giới của giam cầm - thế giới Mị muốn chối bỏ.
Vẻ đẹp tâm hồn và sức sống mãnh liệt của nhân vật Mị được miêu tả tinh tế, xúc động. Trước
cảnh tưng bừng ấy, cứ tưởng Mị nào có biết xuân là gì? Nhưng thật bất ngờ, những đêm tình mùa
xuân ở Hồng Ngài đã làm cho tâm hồn Mị hồi sinh trở lại. Có thể nói, tâm trạng và hành động của
Mị đã được Tô Hoài thể hiện một cách tinh tế và xúc động. Tâm hồn Mị tha thiết bổi hổi khi nghe
tiếng sáo từ đầu núi vọng lại. Mị đã ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo. Sau bao nhiêu
ngày câm lặng, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ này đã khẽ hát, dù chỉ là nhẩm thầm.
Mị nhẩm thầm (không phải là “hát thầm”), tức là khẽ khàng nhắc lại theo sự hồi tưởng, thậm chí
không liền mạch, lúc nhớ lúc quên lời bài hát của người đang thổi. Có lẽ trước đây Mị cũng đã từng
thổi sáo hoặc hát bài này rồi. Giờ nghe tiếng sáo ngoài đầu núi vọng lại, lúc ẩn lúc hiện, trong Mị đã
thức dậy điều gì đó quen thuộc, lâu nay bị lãng quên. Mị lén lấy hũ rượu uống ực từng bát. Cách
uống khiến người đọc cảm nhận dường như không phải Mị đang uống rượu mà là uống từng bát cay
đắng, uất hận vào lòng. Những cay đắng, uất hận đó chất chồng và cứ bị dồn đẩy, nghẹn đắng trong
lòng Mị. Men rượu đã làm cô hồi tưởng về ngày trước. Tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng trong tai
Mị. Bao nhiêu kỉ niệm đẹp thời con gái đã sống dậy trong lòng Mị: cô thổi sáo giỏi và có bao nhiêu
người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo. Hồi tưởng lại mùa xuân tươi đẹp thời con gái, điều đó cho thấy
Mị đã được thức tỉnh. Khát vọng sống như ngọn lửa đã bừng sáng tâm hồn Mị.
Đoạn trích cho thấy bút pháp nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Tô Hoài: Các từ ngữ địa phương
gợi những hình ảnh gần gũi đặc trưng cho miền núi Tây Bắc: nương ngô, nương lúa, vỡ nương, lều
canh nương, cùng những sinh hoạt độc đáo: hái bí đỏ chơi quay, thổi sáo. Từ ngữ miêu tả chi tiết
đẹp và giàu sức sống: cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy đem ra phơi trên mỏm đá xòe ra như
những con bướm sặc sỡ, tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi. Đoạn miêu tả giàu tính nhạc thơ, trữ tình gợi
cảm. Âm điệu câu văn êm ả, ngắn và đậm phong vị Tây Bắc (kiểu cách nói năng của người miền
núi: nương ngô, nương lúa đã gặt xong, lúa ngô...). Đi sâu vào khai thác diễn biến tâm lí nhân vật
Mị rất tự nhiên, chân thực và sâu sắc thông qua hành động và tâm trạng, chủ yếu thể hiện nội tâm
tinh tế, xúc động.
3. Nhận xét chất thơ trong sáng tác của Tô Hoài.
Qua đoạn trích người đọc thấy được chất thơ trong sáng tác của nhà văn Tô Hoài: Chất thơ
trong sáng tác của Tô Hoài hiện lên trước hết qua hình ảnh thiên nhiên vời vợi với những núi non,
nương rẫy, sương giăng… không thể lẫn được với một nơi nào trên đất nước ta. Những chi tiết miêu
tả thiên nhiên đan xen, hoà quyện trong lời kể của câu chuyện. Đoạn trích cũng miêu tả rất tinh tế
một phong tục rất đẹp, rất thơ của đồng bào vùng cao là lễ hội mùa xuân tràn ngập màu sắc và âm
thanh, ấn tượng nhất về màu sắc là vẻ đẹp của váy hoa, của âm thanh là tiếng sáo.
Nét đặc sắc nhất của chất thơ biểu hiện ở tâm hồn nhân vật Mị. Ẩn sâu trong tâm hồn Mị, một
cô gái tưởng chừng như héo hắt, sống một cuộc đời lầm lũi “đến bao giờ chết thì thôi” ấy, có ai ngờ,
vẫn le lói những đốm lửa của khát vọng tự do, của tình yêu cuộc sống.
Ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn với hàng loạt các âm thanh, các hình ảnh gợi hình, gợi cảm
rất nên thơ và đậm màu sắc. Chất thơ trong văn xuôi của Tô Hoài được tạo nên bởi sự kết hợp nhuần
nhuyễn cái khí sắc lãng mạn với bút pháp trữ tình cùng cái duyên mượt mà của một văn phong điêu
luyện.
Bên cạnh nghệ thuật sử dụng ngôn từ, Tô Hoài còn để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người
đọc bởi khả năng diễn đạt tài tình những rung động sâu xa, tinh tế trong thế giới đa cung bậc và
muôn vàn sắc thái của tình cảm.
III. Kết bài
Chất thơ trong đoạn trích không những bộc lộ tài năng nghệ thuật của nhà văn Tô Hoài mà còn
thể hiện tình yêu thiên nhiên và tấm lòng nhân đạo của ông với con người Tây Bắc, góp phần làm
sáng tỏ cảm hứng lãng mạn cách mạng của văn xuôi Việt Nam 1945-1975.
ĐỀ 4:
Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng
trong các làng Mèo Ðỏ, những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xoè như con bướm sặc sỡ.
Ðám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo
rủ bạn đi chơi. Mỵ nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người
đang thổi:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.
Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới.
Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm sân chơi chung ngày tết. Trai gái, trẻ con ra
sân ấy tụ tập đánh pao, dánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy.
Cả nhà thống lý ăn xong bữa cơm tết cúng ma. Xung quanh chiêng đánh ầm ỹ, người ốp đồng
vẫn nhảy lên xuống, rung bần bật. Vừa hết bữa cơm tiếp ngay cuộc rượu bên bếp lửa.
Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt đấy
nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo
gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân đến, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo.
Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm
thổi sáo đi theo Mỵ hết núi này sang núi khác.
Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mị không biết. Mị vẫn ngồi trơ một
mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy. Nhưng Mị không bước ra đường. Mỵ từ từ vào buồng.
Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị ngồi xuống giường,
trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột
nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu
người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với
nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa.
Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi...
Lúc ấy, A Sử vừa ở đâu về, lại sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khoác thêm vòng bạc vào
cổ rồi bịt cái khăn trằng lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày mấy đêm. Nó còn đương rình bắt nhiều
người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mị nói gì.
Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ông mỡ, sắn một miếng, bỏ thêm voà đĩa đèn
cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại
tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. A
Sử nhìn quanh thấy Mị rút thêm cái áo.
A Sử hỏi:
- Mày muốn đi chơi à?
Mỵ không nói. A Sử cũng không hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói tay Mị. Nó
xách cả một thúng sợi đay ra trới đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống. A Sử quấn luôn tóc lên
cột. Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong. A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo
rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại.
Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn.
Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả
pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào!".”Mị vùng bước đi. Nhưng chân tay đau không cựa
được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng
yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
(Trích, Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài)
Phân tích diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân qua
đoạn văn trên. Từ đó bình luận ngắn gọn về giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của
nhà văn Tô Hoài.
BÀI LÀM
I. Mở bài
Tô Hoài là một trong những nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong nền văn học Việt Nam
hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên
đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người
vùng Tây Bắc, tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân
thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa
là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Điều đó được thể hiện rõ
nét qua sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân.
II.Thân bài
1. Khái quát
Truyện “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện
Tây Bắc”. Tác phẩm gồm hai phần: phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng
Ngài; phần sau kể về Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng. Được cán bộ A Châu giác ngộ
cách mạng, A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích cùng Mị đánh Pháp bảo vệ dân làng. Đoạn trích
trong sách giáo khoa là phần thứ nhất của tác phẩm. Trong tác phẩm này, diễn biến tâm trạng nhân
vật Mị trong đêm tình mùa xuân được xem là ấn tượng nhất – thể hiện tài năng nghệ thuật bậc thầy
của Tô Hoài trong việc miêu tả tâm lý nhân vật.
Mị là một cô gái xinh đẹp, tài hoa. Cô có tài thổi sáo, thổi đàn môi khiến bao người mê. Người
con gái hiếu thảo ấy xin được ở nhà cuốc nương, trồng ngô trả nợ thay cho cha mẹ. Mị có đủ những
phẩm chất tốt đẹp xứng đáng được hưởng một cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Thế nhưng vì món nợ
truyền kiếp của cha mẹ, Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Bề ngoài, Mị là con dâu
nhưng thực chất bên trong lại là con nợ. Nếu chỉ là con nợ, có thể một ngày nào đó Mị còn hi vọng
trả xong nợ mà giải thoát, nhưng Mị lại bị cùng lúc hai tròng dây trói buộc. Mị không dám chết vì
sợ làm liên lụy đến cha, và bởi sự ám ảnh, trói buộc của thần quyền.
Thời gian đầu về làm dâu, Mị phản kháng quyết liệt. Mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc,
và định tự tử bằng lá ngón. Những năm tháng làm dâu là chuỗi dài liên miên trong cực nhọc vất
vả, dường như làm tê liệt cả ý thức về bản thân của Mị: “Ở lâu trong cái khổ, Mị đã quen khổ rồi”.
Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa trong nhà Pá Tra, Mị “lùi lũi như con rùa nuôi sau xó cửa”.
Căn buồng của Mị như ngục thất tinh thần. Mị sống vật vờ như một cái bóng, mất hết ý niệm về thời
gian.
Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được
con người. Bị đọa đày cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng Mị vẫn sống âm thầm mà mãnh liệt. Từ
trong sâu thẳm tâm hồn người con gái ấy vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa khao khát sống khi mùa xuân
về.
2. Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đoạn văn:
Năm ấy “gió và rét dữ dội”. Nhưng mùa xuân vẫn cứ đến ở Hồng Ngài: “Trẻ con đi hái bí đỏ,
cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa được đem ra phơi…”. Như một niềm mong đợi, vui sướng
khi ngày tết người nghèo cơ cực mấy ai cũng được đi chơi.
Ở mỗi đầu làng, trai gái, trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy.
Những đêm tình mùa xuân đang tới, vang trong đêm là tiếng sáo vọng lại, tiếng sáo rủ bạn đi chơi.
Vẻ đẹp gợi cảm của không khí ngày xuân cùng với lẽ sống phóng khoáng , tự do của người Mông
trở thành mãnh lực tác động đến tâm hồn Mị, một tâm hồn đang khô héo.
Mị dần tỉnh lại, thoát khỏi trạng thái vô cảm bấy lâu: Mị lắng nghe tiếng sáo bằng tâm trạng
“thiết tha, bổi hổi”. Cảm giác nhớ nhung da diết về kỉ niệm của quá khứ và cảm giác rạo rực, xao
xuyến của hiện tại. Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo:
“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”.
Khát vọng tìm đến tình yêu, hạnh phúc của lời bài hát như đánh thức niềm khát khao cuộc
sống tự do, hạnh phúc bị chôn vùi đã lâu trong tiềm thức Mị.
Mị lén lấy hũ rượu “cứ uống ực từng bát”. Cách uống đầy tâm trạng. Mị uống như thể nuốt
những đắng cay của phần đời đã qua và đang uống cho cả những khát khao cho phần đời sắp tới.
“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượi còn nồng nàn, Mị
vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi...”. Mị lắng nghe tiếng sáo gọi
bạn, Mị “uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Mị sống lại những kí ức đẹp thời
thiếu nữ, Mị thổi sáo giỏi, có biết bao nhiêu người mê, đi theo Mị. Sức sống trong Mị bắt đầu hồi
sinh “Mị thấy phơi phới trở lại”, trong lòng đột nhiên vui sướng. Mị ý thức mình còn rất trẻ. Mị
muốn được đi chơi. Chính tiếng sáo đã làm sống dậy cái sức sống ẩn tàng trong cơ thể trẻ trung và
tâm hồn vốn ham sống của Mị.
Nhưng lúc này, Mị cảm nhận sâu sắc nỗi tủi nhục của mình vì biết chồng Mị không đời nào
cho Mị đi chơi tết. Mị chỉ muốn ăn lá ngón để chết ngay. Đây là một biểu hiện của một tâm hồn
đang sống lại, tỉnh táo để nhận ra và thấm thía nỗi đau bị tước đoạt quyền được sống. Tiếng sáo gọi
bạn yêu vẫn lơ lững bay ngoài đường, kéo Mị trở về nỗi khát khao tự do, hạnh phúc. Mị thắp đèn
cho căn buồng sáng lên, Mị quấn lại tóc, định mặc cả váy hoa để đi chơi. Khát vọng tự do trỗi dậy
mãnh liệt khiến Mị bất chấp thực tại khổ đau. Trông thấy Mị chuẩn bị đi chơi, A Sử bước lại, nắm
lấy Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói Mị đứng vào cột nhà. Tóc
Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa…
Mị như quên hẳn mình đang bị trói, quên những đau đớn về thể xác, Mị vẫn thả hồn theo
những cuộc chơi, những tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết, tiếng sáo không chỉ vang vọng trong không
gian mà còn tồn tại trong chính tâm hồn Mị. Ngay cả khi cô bị trói đứng thì âm thanh của tiếng sáo
như ma lực làm bùng cháy trong Mị niềm khao khát yêu, khao khát sống.
“Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được”. Tiếng sáo của những đôi lứa yêu
nhau và của cả những người lỡ duyên đã có sự tác động lớn lao tới tâm hồn Mị. Nó thôi thúc Mị,
khiến Mị vùng bước đi, quên thực tại đau khổ trước mắt. Chi tiết Mị “vùng bước đi” đã minh chứng
được sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị. Tâm hồn ấy đang đến với tự do, đang tràn trề nỗi yêu
đương của tuổi trẻ. Nhưng cũng chính lúc này, khi “vùng bước đi” theo tiếng sáo, sợi dây trói thắt
vào “tay chân đau không cựa được”, Mị mới trở lại với hiện thực phũ phàng, nghiệt ngã. Lòng Mị
đau đớn, thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Tiếng sáo tượng trưng cho tình yêu, hạnh phúc đột ngột biến mất, “Mị không nghe thấy tiếng
sáo nữa”. “Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa”, tiếng chân ngựa đạp vào vách, nhai cỏ, gãi chân là
những âm thanh của thực tại, đưa Mị trở lại với sự liên tưởng đau đớn bởi kiếp sống “không bằng
con ngựa” của mình. Sau bao nhiêu năm tháng, Mị đã tỉnh táo nhận ra thân phận trâu ngựa của
mình, đã thổn thức khi thấy mình “không bằng con ngựa” nhà thống lí. Hình ảnh so sánh con người
với con vật cứ day dứt, trở đi trở lại trong tác phẩm. Khi về làm vợ A Sử chắc chắn nhiều lần Mị đã
bị hắn đánh đập, hành hạ. Nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên Mị thổn thức nghĩ không bằng con ngựa.
Bởi những lần trước Mị nghĩ mình cũng là con trâu, con ngựa thì đó là ý nghĩ của con người cam
chịu, quen khổ. Còn giờ đây, nó là cái thổn thức của tâm hồn bị vùi dập.
Cách kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Đặc biệt tâm trạng và hành động khá
phức tạp của Mị được diễn tả, lí giải một cách cụ thể, hợp lí. Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn
lọc, sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình, đậm chất thơ…Tất cả thể hiện tài năng viết văn cùng sự am
hiểu sâu sắc đời sống, tâm lí đồng bào dân tộc miền núi của Tô Hoài.
3. Bình luận ngắn gọn về giá trị nhân đạo của nhà văn Tô Hoài.
Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của tác phẩm văn học chân chính. Nó được tạo nên bởi
niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau khổ của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp
trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ, đồng thời lên án những thế lực
tàn bạo, đen tối chà đạp lên quyền sống, ước mơ hạnh phúc và phẩm giá của con người.
Biểu hiện thứ nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm này trước hết được toát lên từ niềm cảm
thông sâu sắc của Tô Hoài đối với những số phận bất hạnh, bị tước đoạt quyền sống, bị lăng nhục,
đày đọa mà tiêu biểu là Mị và A Phủ.
Biểu hiện thứ hai của tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ còn toát lên từ sự tố
cáo gay gắt thế lực phong kiến miền núi tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của nhân dân lao động
Tây Bắc mà tiêu biểu là Mị và A Phủ.
Biểu hiện thứ ba của giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ là việc nhà văn phát hiện
và nâng niu trân trọng trước những vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất cao đẹp của nhân vật Mị và A Phủ.
Biểu hiện sau cùng của tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ là việc nhà văn đã
chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao động là đi từ tự phát đến tự giác.
Ở đoạn văn này, tác giả miêu tả hành động của Mị rất ít, nhưng người đọc vẫn bị cuốn hút bởi
một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy, có một sức sống tiềm tàng mà không một thế lực
tàn ác nào vùi dập được. Không gian, thời gian, giọng kể chuyện của tác giả đều phù hợp với diễn
biến phức tạp của tâm trạng Mị. Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc dõi theo tâm trạng ấy, khi thiết tha
bồi hồi, khi nghẹn ngào xót xa. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm xuân thấm đẫm tính nhân
văn, góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị; thể hiện một cách chân thật và cảm động giá trị hiện
thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn Vợ chổng A Phủ.
III. Kết bài
Đoạn văn miêu tả tâm trạng nhân vật Mị trong đêm xuân khi bị trói thấm đẫm tính nhân văn,
góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị. Trang văn trong đoạn trích đầy ắp chất thơ và tấm lòng
nhân hậu, một tài năng phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khám phá, diễn tả chiều sâu
tâm hồn cùng những biến thái thăng trầm ,gấp khúc ,tuần tự và đột biết trong tâm trạng Mị. Chính
sức sống tiềm tàng và mãnh liệt của người con gái Mèo xinh đẹp đã để lại ấn tượng sâu đậm trong
lòng người đọc và góp phần không nhỏ vào sự thành công của tác phẩm.

ĐỀ 5:
“Ngày tết, Mị cũng uống rượu.Mị lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi
đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước.Tai Mị văng vẳng
tiếng sáo gọi bạn đầu làng.Ngày trước Mị thổi sáo giỏi.Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và
thổi sáo.Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày
đêm đã thổi sáo đi theo Mị .
Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mị không biết.Mị vẫn ngồi trơ một
mình giữa nhà.Mãi sau Mị mới đứng dậy.Nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà Mị từ từ bước
vào buồng.Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị ngồi xuống
giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng.Đã từ nãy Mị thấy phơi phới trở lại, trong
lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước.Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao
nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải
ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại
nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra.Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…”
(Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, trang 7-8)
Anh/ chị hãy phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đoạn văn bản trên.Từ đó
nhận xét ngắn gọn ....
BÀI LÀM

I. Mở bài

Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu
biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. Thành công
nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc. “Vợ
chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đọan sáng tác sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945. Nhân vật Mị trong tác phẩm là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc có ý
nghĩa khái quát cao, tiêu biểu cho cuộc sống đau khổ, tủi nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng
của đổng bào miền núi Tây Bắc. Đoạn trích “Ngày tết, Mị cũng uống rượu……. Em không yêu, quả
pao rơi rồi.”là một phần diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm tình mùa
xuân. Qua đó người đọc thấy được đăc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tô Hoài.
II.Thân bài
1. Khái quát
Truyện “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện
Tây Bắc”. Tác phẩm gồm hai phần: phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng
Ngài; phần sau kể về Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng. Được cán bộ A Châu giác ngộ
cách mạng, A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích cùng Mị đánh Pháp bảo vệ dân làng. Đoạn trích
trong sách giáo khoa là phần thứ nhất của tác phẩm. Trong tác phẩm này, diễn biến tâm trạng nhân
vật Mị trong đêm tình mùa xuân được xem là ấn tượng nhất – thể hiện tài năng nghệ thuật bậc thầy
của Tô Hoài trong việc miêu tả tâm lý nhân vật.
Mị là một cô gái xinh đẹp, tài hoa. Cô có tài thổi sáo, thổi đàn môi khiến bao người mê. Người
con gái hiếu thảo ấy xin được ở nhà cuốc nương, trồng ngô trả nợ thay cho cha mẹ. Mị có đủ những
phẩm chất tốt đẹp xứng đáng được hưởng một cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Thế nhưng vì món nợ
truyền kiếp của cha mẹ, Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Bề ngoài, Mị là con dâu
nhưng thực chất bên trong lại là con nợ. Nếu chỉ là con nợ, có thể một ngày nào đó Mị còn hi vọng
trả xong nợ mà giải thoát, nhưng Mị lại bị cùng lúc hai tròng dây trói buộc. Mị không dám chết vì
sợ làm liên lụy đến cha, và bởi sự ám ảnh, trói buộc của thần quyền.
Thời gian đầu về làm dâu, Mị phản kháng quyết liệt. Mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc,
và định tự tử bằng lá ngón. Những năm tháng làm dâu là chuỗi dài liên miên trong cực nhọc vất
vả, dường như làm tê liệt cả ý thức về bản thân của Mị: “Ở lâu trong cái khổ, Mị đã quen khổ rồi”.
Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa trong nhà Pá Tra, Mị “lùi lũi như con rùa nuôi sau xó cửa”.
Căn buồng của Mị như ngục thất tinh thần. Mị sống vật vờ như một cái bóng, mất hết ý niệm về thời
gian.
Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được
con người. Bị đọa đày cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng Mị vẫn sống âm thầm mà mãnh liệt. Từ
trong sâu thẳm tâm hồn người con gái ấy vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa khao khát sống khi mùa xuân
về.
Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Gió và rét dữ dội không ngăn được
không khí rạo rực của mùa xuân : những chiếc váy hoa rực rỡ phơi trên những mỏm đá, sắc vàng
ửng của cỏ gianh. Âm thanh rộn rã của trẻ con nô đùa, tiếng chó sủa xa xa, tiếng sáo gọi bạn tình.
Những âm thanh, màu sắc ấy đã tạo nên bức tranh mùa xuân đẹp thơ mộng, rạo rực tình yêu, tràn trề
nhựa sống khiến Mị hồi sinh.
2. Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đoạn văn:
Đêm tình mùa xuân, mọi người uống rượu, đi chơi và Mị cũng tìm đến rượu, nhưng không
phải để tìm vui mà là để giải sầu "Mị uống ực từng bát rồi say". Cách uống rượu của Mị như nuốt
căm, nuốt hận vào lòng. Rượu chính là chất men xúc tác để nhân vật có đủ sức mạnh và can đảm
làm những việc mà khi tỉnh táo Mị không thể bởi bao áp chế đè nặng.
Tai Mị văng vẳng "tiếng sáo gọi bạn yêu". Chính tiếng sáo đã tác động đến Mị, góp phần thức
tỉnh một tâm hồn nguội lạnh. Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối Mị với quá khứ và hiện tại, làm
sống dậy trong Mị những kỉ niệm tươi đẹp. Nói đúng hơn nó đánh thức cái tài hoa trong Mị ngày
nào. Mị thổi sáo hay, thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.. Mị ngồi
nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu
Sự xuất hiện cũng như tác động đồng thời của cả ba nhân tố có thể ví như một cơn gió đã thổi
bùng lên sức sống tiềm tàng trong Mị. Để rồi dẫn đến hàng chuỗi các hành động cả vô thức lẫn ý
thức nhưng chứa đựng đầy sức sống của nhân vật. Mị sống lại cả một thời xuân sắc. Mị nhớ lại Mị
của những ngày trước- người con gái trẻ trung, đầy kiêu hãnh khiến cô nao nao tiếc nuối. Mị trở lại
với niềm ham sống của tuổi trẻ. "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như
những đêm tết ngày trước". Mị nhận thức được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy
mình còn trẻ "Mị trẻ lắm. Mị hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao
khát, còn muốn yêu thương. Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là một
nỗi tủi thân. Mị đã có chồng nhưng không có tình yêu và hạnh phúc. A Sử đã giam hãm cuộc đời Mị
và dẫu "không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau". Mị ước ao có nắm lá ngón trong tay lúc
này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Mị muốn chết
để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch. Mị bước vào buồng, ngồi xuống giường,
trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trắng trắng. Khát vọng sống như ngọn lửa bùng cháy bao nhiêu
thì Mị lại phẫn uất bấy nhiêu. Phẫn uất và đau khổ cho thân phận và số phận trớ trêu đầy bi kịch.
Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử và Mị lại không có lòng với nhau
mà vẫn phải ở với nhau. Không thể cam chịu mãi kiếp nô lệ, kiếp làm dâu gạt nợ nên Mị đã muốn
ăn lá ngón cho chết ngay. Mị muốn phản kháng lại hoàn cảnh, không chấp nhận cuộc sống trâu ngựa
này nữa. Đó là khi sức sống tiềm tàng đã được đánh thức. Khi Mị đã hồi sinh, cô ý thức được sự
đau khổ dai dẳng của mình và không muốn chấp nhận thực tại cay đắng này, cô khao khát hơn bao
giờ hết kiếp sống đáng sống, sống đúng với nghĩa của một con người. Mị khao khát tình yêu, tự do.
Khao khát ấy chưa bao giờ bị dập tắt. Sức sống ấy như hòn than phủ đầy tro bụi, có cơ hội sẽ bùng
cháy mạnh mẽ.
Ý thức về cái chết lại xuất hiện, nhưng lần này nó có ý nghĩa khác. Uất ức, nước mắt Mị ứa ra
khi tiếng sáo gọi bạn tình vẫn lửng lơ bay ngoài đường. Tiếng sáo của tình yêu tuổi trẻ lại thôi thúc
Mị, dìu hồn Mị theo những đám chơi. Khát vọng sống mãnh liệt được đẩy lên đến cao độ bởi sự trỗi
dậy của sức sống tiềm tàng.Tâm hồn Mị diễn biến rất phức tạp trong quá trình thức tỉnh, nổi loạn.
Mị đang sống trong nghịch lí giữa thân phận con dâu gạt nợ và niềm vui phơi phới muốn đi chơi
Tết.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân thể hiện sức sống
tiềm ẩn trong Mị. Thông qua đây, nhà văn khám phá, trân trọng, ngợi ca những khao khát tình yêu,
hạnh phúc của con người, thể hiện niềm tin vào sức sống của con người không bị hủy diệt. Đồng
thời lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên cuộc sống con người. Chính điều đó đã đem đến cho
Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài những giá trị nhân đạo sâu sắc.
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
III. Kết bài:
Đoạn trích góp phần hoàn thiện chân dung nhân vật Mị: dù nghèo khó, bị áp bức nhưng trong
sâu thẳm tâm hồn vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liêt. Sức sống và khát vọng của Mị trong đoạn
trích đã góp phần nêu bật giá trị nhân đạo của tác phẩm. Với nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí
nhân vật tinh tế và tài năng viết truyện ngắn độc đáo, ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, câu văn giàu
tính tạo hình, thấm đẫm chất thơ, nhân vật Mị trong đoạn trích nói riêng và trong tác phẩm nói
chung đã để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc một dấu ấn khó phai mờ. Nhân vật Mị và Tác Phẩm
“Vợ chồng A Phủ” đã góp phần làm nên tên tuổi của Tô Hoài.
PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN
1. Nhận xét ngắn gọn về nghệ thuật miêu tả nhân vật của Tô Hoài.
Nhà văn Tô Hoài xây dựng nhân vật Mị với nhiều điểm nghệ thuật đặc sắc. Giới thiệu nhân vật
tự nhiên mà ấn tượng, kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo đặc biệt tâm trạng được miêu
tả, lí giải cụ thể, hợp lí: Đó là việc khắc họa hình tượng nhân vật, đặc biệt là phương diện miêu tả
tâm lí. Đó là việc Tô Hoài xây dựng nhân vật theo kiểu con người phân lập: cô Mị ở hiện tại và cô
Mị ở quá khứ hòa chung vào nhau. Hai con người ấy đan xen, khi tách ra khi hòa vào một tạo nên
một cô Mị hết sức sinh động, mới lạ.
2. Nhận xét sự tinh tế khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật Mị của nhà văn Tô
Hoài.
Sự hồi sinh của tâm hồn nhân vật Mị được tác giả miêu tả tinh tế, phù hợp với tính cách của
cô. Nhà văn sử dụng khá nhiều những yếu tố bên ngoài tác động vào nhân vật, được miêu tả rất tự
nhiên như mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, bữa tiệc đón năm mới... tất cả đã hoá thành những tiếng
gọi đánh thức nỗi căm ghét bất công và tàn bạo cùng ý thức phản kháng lại cường quyền, đánh thức
cả niềm khao khát một cuộc sống tự do, hoang dã và hồn nhiên vẫn được bảo lưu đâu đó trong dòng
máu truyền lại từ lối sống của tổ tiên du mục xa xưa, làm sống dậy sức sống ẩn tàng trong cơ thể trẻ
trung và tâm hồn vốn ham sống của Mị. Người đọc không thể không dừng lại, suy ngẫm và chia sẻ
cảm xúc với những hành động của nhân vật Mị xuất phát từ những thôi thúc của nội tâm như các chi
tiết:“Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát” trong một trạng thái thật khác thường. Rượu làm cơ
thể và đầu óc Mị say, nhưng tâm hồn cô thì từ phút ấy, đã tỉnh lại sau bao tháng ngày câm nín, mụ
mị vì sự đày đoạ. Cái cách uống rượu một hơi, một ực như thế, khiến người ta nghĩ: người uống
rượu ấy đang thực sự phẫn nộ. Và người ta cũng có thể nghĩ: cô ấy uống như thể đang uống đắng
cay của cái phần đời đã qua, như thể đang uống cái khao khát của phần đời chưa tới.Mị với cõi lòng
đã phơi phới trở lại và cái ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thực : “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này,
Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa.” Nghịch lí trên cho thấy: khi niềm khao khát
sống hồi sinh, tự nó bỗng trở thành một mãnh lực không ngờ, xung đột gay gắt, quyết một mất một
còn với cái trạng thái vô nghĩa lí của thực tại. Sở trường phân tích tâm lí cho phép ngòi bút tác giả
lách sâu vào những bí mật của đời sống nội tâm, phát hiện nét đẹp và nét riêng của tính cách
3. Nhận xét cái nhìn về con người của nhà văn Tô Hoài:
Qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị, tác giả bày tỏ sự cảm thông thấu hiểu, bênh vực
những con người với số phận bất hạnh; trân trọng yêu thương và cảm phục sức sống tiềm tàng, khát
vọng tự do, hạnh phúc và khả năng vươn tới tương lai. Đó là cách nhìn đầy tin yêu vào phẩm chất
tốt đẹp của con người. Cách nhìn con người của tác giả xuất phát từ sự gắn bó, am hiểu và tình yêu
thương với mảnh đất và con người miền núi, từ hiện thực cách mạng với nhiều đổi thay. Truyện
ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là sản phẩm của nền văn học cách mạng, đứa con tinh thần
của nhà văn - chiến sĩ với cảm quan hiện thực, tinh thần lạc quan cách mạng: khẳng định, tin tưởng
khả năng, sức mạnh, tương lai con người. Cách nhìn ấy mới mẻ, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc,
mang lại chất lượng mới cho văn học kháng chiến, khơi dậy sự đồng cảm, trân trọng người đọc,
đồng thời thể hiện tài năng, tấm lòng nhà văn Tô Hoài.
ĐỀ 6:
“Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Từ nãy Mị thấy
phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ. Mị vẫn còn trẻ.
Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng
với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay,
chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra.
… Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng, bỏ thêm vào đĩa
đèn cho sáng.Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn
lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ.
A Sử nhìn quanh thấy Mị rút thêm cái áo.
… Trong bóng tối, Mị đứng im, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mị
vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi. "Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu
người nào, em bắt pao nào...". Mị vùng bước đi. Nhưng chân đau không cựa được. Mị không nghe
tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ.
Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về tài năng
của nhà văn Tô Hoài trong nghệ thuật diễn tả tâm lí nhân vật.
( Trích “Vợ chồng A Phủ ” - Tô Hoài – Ngữ văn 12, Tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam,
2019, tr. 7-8 )
BÀI LÀM
I. Mở bài
Tô Hoài là một trong những nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong nền văn học Việt Nam
hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên
đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người
vùng Tây Bắc, tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân
thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa
là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Điều đó được thể hiện rõ
nét qua sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân.
II.Thân bài
1. Khái quát
Truyện “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện
Tây Bắc”. Tác phẩm gồm hai phần: phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng
Ngài; phần sau kể về Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng. Được cán bộ A Châu giác ngộ
cách mạng, A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích cùng Mị đánh Pháp bảo vệ dân làng. Đoạn trích
trong sách giáo khoa là phần thứ nhất của tác phẩm. Trong tác phẩm này, diễn biến tâm trạng nhân
vật Mị trong đêm tình mùa xuân được xem là ấn tượng nhất – thể hiện tài năng nghệ thuật bậc thầy
của Tô Hoài trong việc miêu tả tâm lý nhân vật.
Mị là một cô gái xinh đẹp, tài hoa. Cô có tài thổi sáo, thổi đàn môi khiến bao người mê. Người
con gái hiếu thảo ấy xin được ở nhà cuốc nương, trồng ngô trả nợ thay cho cha mẹ. Mị có đủ những
phẩm chất tốt đẹp xứng đáng được hưởng một cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Thế nhưng vì món nợ
truyền kiếp của cha mẹ, Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Bề ngoài, Mị là con dâu
nhưng thực chất bên trong lại là con nợ. Nếu chỉ là con nợ, có thể một ngày nào đó Mị còn hi vọng
trả xong nợ mà giải thoát, nhưng Mị lại bị cùng lúc hai tròng dây trói buộc. Mị không dám chết vì
sợ làm liên lụy đến cha, và bởi sự ám ảnh, trói buộc của thần quyền.
Thời gian đầu về làm dâu, Mị phản kháng quyết liệt. Mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc,
và định tự tử bằng lá ngón. Những năm tháng làm dâu là chuỗi dài liên miên trong cực nhọc vất
vả, dường như làm tê liệt cả ý thức về bản thân của Mị: “Ở lâu trong cái khổ, Mị đã quen khổ rồi”.
Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa trong nhà Pá Tra, Mị “lùi lũi như con rùa nuôi sau xó cửa”.
Căn buồng của Mị như ngục thất tinh thần. Mị sống vật vờ như một cái bóng, mất hết ý niệm về thời
gian.
Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được
con người. Bị đọa đày cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng Mị vẫn sống âm thầm mà mãnh liệt. Từ
trong sâu thẳm tâm hồn người con gái ấy vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa khao khát sống khi mùa xuân
về.
Khi mùa xuân về, như quy luật vạn vật hồi sinh, sức trẻ trong Mị bừng trỗi dậy. Mị khêu đèn
lên cho bừng sáng căn buồng của mình, lén lấy hũ rượu uống ực từng bát. Mị bổi hổi nghe tiếng sáo.
Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Trông thấy Mị chuẩn bị đi chơi, A Sử bước lại, nắm lấy Mị, lấy
thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói Mị đứng vào cột nhà. Tóc Mị xõa
xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa…
2. Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đoạn văn:
“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượi còn nồng nàn,
Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi...”. Mị như quên hẳn mình
đang bị trói, quên những đau đớn về thể xác, Mị vẫn thả hồn theo những cuộc chơi, những tiếng sáo
gọi bạn tình tha thiết, tiếng sáo không chỉ vang vọng trong không gian mà còn tồn tại trong chính
tâm hồn Mị. Ngay cả khi cô bị trói đứng thì âm thanh của tiếng sáo như ma lực làm bùng cháy trong
Mị niềm khao khát yêu, khao khát sống.
“Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được”. Tiếng sáo của những đôi lứa yêu
nhau và của cả những người lỡ duyên đã có sự tác động lớn lao tới tâm hồn Mị. Nó thôi thúc Mị,
khiến Mị vùng bước đi, quên thực tại đau khổ trước mắt. Chi tiết Mị “vùng bước đi” đã minh chứng
được sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị. Tâm hồn ấy đang đến với tự do, đang tràn trề nỗi yêu
đương của tuổi trẻ. Nhưng cũng chính lúc này, khi “vùng bước đi” theo tiếng sáo, sợi dây trói thắt
vào “tay chân đau không cựa được”, Mị mới trở lại với hiện thực phũ phàng, nghiệt ngã. Lòng Mị
đau đớn, thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Tiếng sáo tượng trưng cho tình yêu, hạnh phúc đột ngột biến mất, “Mị không nghe thấy tiếng
sáo nữa”. “Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa”, tiếng chân ngựa đạp vào vách, nhai cỏ, gãi chân là
những âm thanh của thực tại, đưa Mị trở lại với sự liên tưởng đau đớn bởi kiếp sống “không bằng
con ngựa” của mình. Sau bao nhiêu năm tháng, Mị đã tỉnh táo nhận ra thân phận trâu ngựa của
mình, đã thổn thức khi thấy mình “không bằng con ngựa” nhà thống lí. Hình ảnh so sánh con người
với con vật cứ day dứt, trở đi trở lại trong tác phẩm. Khi về làm vợ A Sử chắc chắn nhiều lần Mị đã
bị hắn đánh đập, hành hạ. Nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên Mị thổn thức nghĩ không bằng con ngựa.
Bởi những lần trước Mị nghĩ mình cũng là con trâu, con ngựa thì đó là ý nghĩ của con người cam
chịu, quen khổ. Còn giờ đây, nó là cái thổn thức của tâm hồn bị vùi dập.
Như vậy rõ ràng là cường quyền và thần quyền tàn bạo không thể dập tắt nổi khát vọng hạnh
phúc, tình yêu nơi Mị. Cuộc nổi loạn tuy không thành công nhưng nó đã cho người đọc thấy sức
sống mãnh liệt tiềm tàng trong những người nông dân tưởng chừng như nhỏ bé, khốn khổ nhất.
Cách kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Đặc biệt tâm trạng và hành động khá
phức tạp của Mị được diễn tả, lí giải một cách cụ thể, hợp lí. Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn
lọc, sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình, đậm chất thơ…Tất cả thể hiện tài năng viết văn cùng sự am
hiểu sâu sắc đời sống, tâm lí đồng bào dân tộc miền núi của Tô Hoài.
3. Nhận xét về tài năng của nhà văn Tô Hoài trong nghệ thuật diễn tả tâm lí nhân vật :
Đoạn trích khẳng định tài năng của Tô Hoài trong nghệ thuật diễn tả tâm lí nhân vật. Bằng việc
lựa chọn chi tiết đặc sắc, sử dụng hình ảnh giàu sức biểu tượng, giọng điệu trần thuật linh hoạt nhà
văn đã diễn tả một cách tinh tế, hấp dẫn diễn biến tâm trạng nhân vật. Qua việc miêu tả sự chuyển
biến tâm lí nhân vật Mị, nhà văn bày tỏ sự cảm thông đối với số phận bất hạnh, khổ đau của người
lao động miền núi đồng thời trân trọng ngợi ca sức sống tiềm tàng trong tâm hồn họ
Tâm lí, tính cách nhân vật Mị rất phù hợp với hướng vận động của tâm lí, tính cách nhân vật
trong văn học Việt Nam 1945 – 1975: Thường vận động theo chiều hướng tích cực, gắn với sự “thức
tỉnh”, “trưởng thành”,“hồi sinh”. Nhân vật có khả năng vượt lên hoàn cảnh, thậm chí thay đổi hoàn
cảnh sống.
III. Kết bài
Đoạn văn miêu tả tâm trạng nhân vật Mị trong đêm xuân khi bị trói thấm đẫm tính nhân văn,
góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị. Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm lí Mị trong đêm tình mùa
xuân thể hiện rõ nét phẩm chất, tính cách Mị - người con gái Tây Bắc tiềm tàng sức sống. Tác phẩm
chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: Sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp
bức, tố cáo lên án giai cấp thống trị miền núi, ngợi ca vẻ đẹp của con người Tây Bắc.
ĐỀ 7:
Trong bóng tối, Mị đứng im lặng,như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn.
Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. "Em không yêu, quả
pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào!" Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa
được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng
yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai đang đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu
dỡ vách ra rừng chơi. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi.
Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại
nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu toả. Tiếng sáo. Tiếng chó sửa xa xa. Mỵ lúc mê, lúc tình. Cho tới
khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.
Mỵ bàng hoàng tỉnh. Buổi sáng âm sâm trong cái nhà gỗ rộng. Vách bên cũng im ắng. Không
nghe tiếng lửa réo trong lò nấu lợn. Không một tiếng động. Không biết bên buồng quanh đấy, các
chị vợ anh, vợ chú của A Sử có còn ở nhà, không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ sa vào
nhà quan đã được đi chơi hay cũng đang phải trói như Mị. Mị không thể biết.Ðời người đàn bà lấy
chồng nhà giàu ở Hồng Ngài, một đời người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ
lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lý Pá Tra có người trói vợ trong nhà ba ngày
rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết. Cổ
tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.
(Trích Vợ chồng A Phủ- Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD,2008, tr 8,9)
Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cái nhìn về người
nông dân của nhà văn Tô Hoài.
BÀI LÀM:
I. Mở bài
Tô Hoài là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam đương đại. “Vợ
chồng A Phủ” – một tác phẩm gắn liền với tên tuổi nhà văn Tô Hoài trong hơn nửa thế kỉ qua. Sức
hấp dẫn của thiên truyện chủ yếu từ hai nhân vật được khắc họa khá thành công với những cá tính
nghệ thuật đặc sắc. Đặc biệt khi khắc họa nhân vật Mị, nhà văn bộc lộ năng lực khám phá chiều sâu
nội tâm con người sâu sắc và tinh tế, đồng thời thể hiện cái nhìn mới mẻ về người nông dân. Cụ thể
ở đoạn trích: “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng […].Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau
đứt từng mảnh thịt.”
II. Thân bài
1. Khái quát
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ ” được sáng tác năm 1952 và in trong tập "Truyện Tây Bắc "
(1953). Đây là một tác phẩm có giá trị của văn xuôi Việt Nam hiện đại khi phản ánh chân thực và
sinh động con đường của nhân dân miền núi cao Tây Bắc đi theo cách mạng.
Tác phẩm gồm hai phần : Phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là
nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ
trốn khỏi nhà Pá Tra. Phần sau kể Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A
Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở thành đội trưởng du kích đánh Pháp bảo vệ làng.
Mị là một cô gái xinh đẹp, tài hoa. Cô có tài thổi sáo, thổi đàn môi khiến bao người mê. Người
con gái hiếu thảo ấy xin được ở nhà cuốc nương, trồng ngô trả nợ thay cho cha mẹ. Mị có đủ những
phẩm chất tốt đẹp xứng đáng được hưởng một cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Thế nhưng vì món nợ
truyền kiếp của cha mẹ, Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Bề ngoài, Mị là con dâu
nhưng thực chất bên trong lại là con nợ. Nếu chỉ là con nợ, có thể một ngày nào đó Mị còn hi vọng
trả xong nợ mà giải thoát, nhưng Mị lại bị cùng lúc hai tròng dây trói buộc. Mị không dám chết vì
sợ làm liên lụy đến cha, và bởi sự ám ảnh, trói buộc của thần quyền.
Thời gian đầu về làm dâu, Mị phản kháng quyết liệt. Mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc,
và định tự tử bằng lá ngón. Những năm tháng làm dâu là chuỗi dài liên miên trong cực nhọc vất
vả, dường như làm tê liệt cả ý thức về bản thân của Mị: “Ở lâu trong cái khổ, Mị đã quen khổ rồi”.
Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa trong nhà Pá Tra, Mị “lùi lũi như con rùa nuôi sau xó cửa”.
Căn buồng của Mị như ngục thất tinh thần. Mị sống vật vờ như một cái bóng, mất hết ý niệm về thời
gian.
Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được
con người. Bị đọa đày cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng Mị vẫn sống âm thầm mà mãnh liệt. Từ
trong sâu thẳm tâm hồn người con gái ấy vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa khao khát sống khi mùa xuân
về.
Khi mùa xuân về, như quy luật vạn vật hồi sinh, sức trẻ trong Mị bừng trỗi dậy. Mị khêu đèn
lên cho bừng sáng căn buồng của mình, lén lấy hũ rượu uống ực từng bát. Mị bổi hổi nghe tiếng sáo.
Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Trông thấy Mị chuẩn bị đi chơi, A Sử bước lại, nắm lấy Mị, lấy
thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói Mị đứng vào cột nhà. Tóc Mị xõa
xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa…
2. Cảm nhận đoạn trích:
“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượi còn nồng nàn,
Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi...”: Mị như quên hẳn mình
đang bị trói, quên những đau đớn về thể xác, Mị vẫn thả hồn theo những cuộc chơi, những tiếng sáo
gọi bạn tình tha thiết, tiếng sáo không chỉ vang vọng trong không gian mà còn tồn tại trong chính
tâm hồn Mị. Ngay cả khi cô bị trói đứng thì âm thanh của tiếng sáo như ma lực làm bùng cháy trong
Mị niềm khao khát yêu, khao khát sống.
“Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được”: Tiếng sáo của những đôi lứa yêu
nhau và của cả những người lỡ duyên đã có sự tác động lớn lao tới tâm hồn Mị. Nó thôi thúc Mị,
khiến Mị vùng bước đi, quên thực tại đau khổ trước mắt. Chi tiết Mị “vùng bước đi” đã minh chứng
được sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị. Tâm hồn ấy đang đến với tự do, đang tràn trề nỗi yêu
đương của tuổi trẻ. Nhưng cũng chính lúc này, khi “vùng bước đi” theo tiếng sáo, sợi dây trói thắt
vào “tay chân đau không cựa được”, Mị mới trở lại với hiện thực phũ phàng, nghiệt ngã. Lòng Mị
đau đớn, thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Tiếng sáo tượng trưng cho tình yêu, hạnh phúc đột ngột biến mất, “Mị không nghe thấy tiếng
sáo nữa”. “Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa”, tiếng chân ngựa đạp vào vách, nhai cỏ, gãi chân là những
âm thanh của thực tại, đưa Mị trở lại với sự liên tưởng đau đớn bởi kiếp sống “không bằng con
ngựa” của mình. Sau bao nhiêu năm tháng, Mị đã tỉnh táo nhận ra thân phận trâu ngựa của mình, đã
thổn thức khi thấy mình “không bằng con ngựa” nhà thống lí. Hình ảnh so sánh con người với con
vật cứ day dứt, trở đi trở lại trong tác phẩm. Khi về làm vợ A Sử chắc chắn nhiều lần Mị đã bị hắn
đánh đập, hành hạ. Nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên Mị thổn thức nghĩ không bằng con ngựa. Bởi
những lần trước Mị nghĩ mình cũng là con trâu, con ngựa thì đó là ý nghĩ của con người cam chịu,
quen khổ. Còn giờ đây, nó là cái thổn thức của tâm hồn bị vùi dập.
Dù đã trở lại với thực tại tàn nhẫn, suốt đêm mùa xuân ấy, quá khứ vẫn “nồng nàn tha thiết”
trong nỗi nhớ của Mị với “hơi rượu toả, tiếng sáo dập dờn, tiếng chó sủa xa xa...” Đêm khuya là lúc
trai đến bên vách làm hiệu rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi.
Mị phải sống trong sự giằng xé giữa khao khát cháy bỏng, hiện tại tàn nhẫn. Tâm trạng Mị
đồng hiện giữa quá khứ, hiện tại, chập chờn giữa tỉnh và mê. Trong đêm tình mùa xuân này, Mị đã
thức tỉnh để nhận ra những bất hạnh, những cay đắng trong thân phận trâu ngựa của mình. Khi nhận
ra thì cảm nhận về sự khổ ải sẽ càng thấm thìa. Từ nay, có lẽ Mị sẽ không thể yên ổn với những suy
nghĩ buông xuôi, cam chịu của mình. Khát vọng tình yêu, khát vọng hạnh phúc, khát vọng tuổi trẻ
đã hồi sinh nhưng cũng đã bị vùi dập. Và nó đang chờ ngọn gió để thổi bùng lên.
Mị bàng hoàng tỉnh... Không một tiếng động. Mị thương những người đàn bà khốn khổ sa vào
nhà quan. Cô Mị của ngày xưa - một người sống như đang chết, sống trong cảm giác chờ đợi sự giải
thoát từ cái chết, giờ đây lại biết xót thương cho người khác, biết sợ hãi trước cái chết.
Mị thấy sợ khi nhớ tới từng có người đàn bà cũng bị đánh, bị trói đã chết đứng chính căn
buồng này. “Mị sợ quá, Mị cựa quậy” như để chứng minh mình vẫn còn sống. Mị sợ chết vì ám ảnh
bởi bóng ma của thần quyền. Mị sợ chết cũng chứng tỏ Mị khao khát sống. Chết lúc này là chết oan
uổng. Chính tiếng sáo, tiếng gọi tình yêu đã giúp Mị nhận ra sự sống đáng quý: phải sống để được
yêu, được đón nhận hạnh phúc tuổi trẻ… Một khi biết sợ chết thì người ta càng thêm yêu cuộc sống.
Mị cũng vậy.
Như vậy rõ ràng là cường quyền và thần quyền tàn bạo không thể dập tắt nổi khát vọng hạnh
phúc, tình yêu nơi Mị. Cuộc nổi loạn tuy không thành công nhưng nó đã cho người đọc thấy sức
sống mãnh liệt tiềm tàng trong những người nông dân tưởng chừng như nhỏ bé, khốn khổ nhất.
Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc, sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình, đậm chất thơ…
Tất cả thể hiện tài năng viết văn cùng sự am hiểu sâu sắc đời sống, tâm lí đồng bào dân tộc miền núi
của Tô Hoài.
3.Nhận xét cái nhìn về người nông dân của nhà văn Tô Hoài.
Nhà văn nhìn người nông dân Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chúa đất miền núi đã bị chà
đạp tàn nhẫn từ thể xác đến tinh thần. Nhưng trong chiều sâu tâm hồn của họ vẫn có sức sống tiềm
tàng mãnh liệt của khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, tình yêu và khát vọng tự do. Tuy sống
trong thân phận trâu ngựa, bị đoạ đày giữa địa ngục trần gian nhưng họ không bao giờ chịu đầu hàng
số phận, mà vẫn tìm cách vượt ngục tinh thần, tâm hồn được hồi sinh. Đó còn là cái nhìn lạc quan,
tin tưởng vào sức mạnh của người nông dân trong tư tưởng tiến bộ của nhà văn cách mạng Tô Hoài.
Cái nhìn mới mẻ, tin yêu về người nông dân cho thấy tài năng quan sát, miêu tả thiên nhiên,
phong tục tập quán, đặc biệt khả năng diễn tả quá trình phát triển tính cách nhân vật hợp lí, tự nhiên,
phong phú, phức tạp mà sâu sắc, phù hợp với quy luật phép biện chứng tâm hồn của nhà văn-người
có duyên nợ với mảnh đất và con người Tây Bắc.
III. Kết bài
Đoạn văn miêu tả tâm trạng nhân vật Mị trong đêm xuân khi bị trói thấm đẫm tính nhân văn,
góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị. Trang văn trong đoạn trích đầy ắp chất thơ và tấm lòng
nhân hậu, một tài năng phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khám phá, diễn tả chiều sâu
tâm hồn cùng những biến thái thăng trầm ,gấp khúc ,tuần tự và đột biết trong tâm trạng Mị. Chính
sức sống tiềm tàng và mãnh liệt của người con gái Mèo xinh đẹp đã để lại ấn tượng sâu đậm trong
lòng người đọc và góp phần không nhỏ vào sự thành công của tác phẩm.
ĐỀ 8:
Thường khi đến gà gáy sáng Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong
nhà mới bắt đầu dậy ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức
sưởi lửa suốt đêm. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi
bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống.
Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng
đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về,
thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm
trước.
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên,
Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai
hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị,
Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết
lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến
chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai
là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma
nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế. A
Phủ… Mị phảng phất nghĩ như vậy.
Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị lại
tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra
sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ
thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ…
Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt nhưng Mị tưởng như
A Phủ đương biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở
phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị
cũng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay…”, rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu
xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên,
chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy,
chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thổi lạnh buốt:
– A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
– Ở đây thì chết mất.
(Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2007, tr. 13-
14)
Phân tích sự thay đổi tâm trạng của Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về...

BÀI LÀM:
I. Mở bài
Tô Hoài là một trong những nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong nền văn học Việt Nam
hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên
đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người
vùng Tây Bắc, tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân
thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa
là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Điều đó được thể hiện rõ
nét nhất qua diễn biến tâm lí của Mị trong đêm giải cứu A Phủ.Qua đoạn trích, Tô Hoài đã cho thấy
những nét mới trong cảm hứng nhân đạo của văn học phê phán sau năm 1945
II. Thân bài
1. Khái quát
Truyện "Vợ chồng A Phủ" được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập "Truyện Tây
Bắc".Tác phẩm gồm hai phần: Phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là
nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ
trốn khỏi nhà Pá Tra. Phần sau kể Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A
Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở thành đội trưởng du kích đánh Pháp bảo vệ làng.
Mị là một cô gái xinh đẹp, tài hoa. Cô có tài thổi sáo, thổi đàn môi khiến bao người mê. Người
con gái hiếu thảo ấy xin được ở nhà cuốc nương, trồng ngô trả nợ thay cho cha mẹ. Mị có đủ những
phẩm chất tốt đẹp xứng đáng được hưởng một cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Thế nhưng vì món nợ
truyền kiếp của cha mẹ, Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Bề ngoài, Mị là con dâu
nhưng thực chất bên trong lại là con nợ. Nếu chỉ là con nợ, có thể một ngày nào đó Mị còn hi vọng
trả xong nợ mà giải thoát, nhưng Mị lại bị cùng lúc hai tròng dây trói buộc. Mị không dám chết vì
sợ làm liên lụy đến cha, và bởi sự ám ảnh, trói buộc của thần quyền.
Thời gian đầu về làm dâu, Mị phản kháng quyết liệt. Mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc,
và định tự tử bằng lá ngón. Những năm tháng làm dâu là chuỗi dài liên miên trong cực nhọc vất
vả, dường như làm tê liệt cả ý thức về bản thân của Mị: “Ở lâu trong cái khổ, Mị đã quen khổ rồi”.
Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa trong nhà Pá Tra, Mị “lùi lũi như con rùa nuôi sau xó cửa”.
Căn buồng của Mị như ngục thất tinh thần. Mị sống vật vờ như một cái bóng, mất hết ý niệm về thời
gian.
A Phủ là một chàng trai mồ côi, yêu tự do, bị Pa Tra bắt ở trừ nợ. Một lần đi giữ bò, để hổ vồ
mất một con, A Phủ bị Pá Tra trói đứng ở cột, dù ngoài trời lạnh buốt, phải chịu khát, chịu đói, chịu
rét.
2. Phân tích đoạn trích:
Đêm tình mùa xuân, như cơn gió thoảng qua đời Mị, cô lại tiếp tục quay về kiếp sống trâu
ngựa tại nhà thống lí - vô hồn, vô cảm. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Mị
thức dậy sưởi ấm. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng như thế, Mị thờ ơ, dửng dưng "thản nhiên thổi lửa
hơ tay". Thậm chí nếu A Phủ là cái xác chết ở đó thì Mị vẫn như vậy mà thôi, vẫn dậy sưởi lửa mà
như không hay. Mị đâu phải là người nhẫn tâm nhưng những hành động tội ác trong nhà Pá Tra diễn
ra hằng ngày, Mị đã quá quen và chính Mị cũng chỉ là một nạn nhân đau khổ bất lực mà thôi. Hơn
nữa, hiện tại Mị vẫn chìm trong trạng thái sống gần như vô cảm.
Nhưng khi nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ "bò xuống hai hõm má đã xám đen lại", dấu
hiệu của thần chết đã xuất hiện trên khuôn mặt người nô lệ ấy, thì trái tim Mị mới bừng tỉnh, lòng
thương người trong Mị trỗi dậy. Lúc này đây, Mị mới thấm thía được nỗi cùng cực của kiếp người.
Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử cũng trói đứng Mị như vậy có "nhiều lần khóc nước mắt rơi
xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được". Mị hình dung lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc của
cuộc đời mình, và cô thấy thương mình. Đến đây Mị nhận thức rõ và căm thù sự độc ác, bất công
của nhà Thống lí Pá Tra. Mị nhận ra giá trị của con người, giá trị được sống nhưng lại bị bắt chết.
Mị nhận ra nguyên nhân của cái khổ mà mình gánh chịu. Mị phản kháng mãnh liệt cả trong suy nghĩ
cắt dây trói cho A Phủ.
Từ nỗi thương mình, Mị thương người đồng cảnh ngộ, một mối đồng cảm sâu sắc. Mị tưởng
tượng rằng: cởi trói cho A Phủ, Mị liền phải trói thay vào đấy, phải chết trên cái cọc ấy. Tuy
nhiên lòng thương người trong Mị đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Mị nhớ lại người đàn bà bị trói
chết trong căn nhà này. Mị càng căm phẫn, càng uất hận "chúng nó thật độc ác". Mị nhận ra kẻ gieo
rắc nỗi khổ. Chúng nó chính là cha con thống lí Pá Tra, những kẻ đại diện cho thế lực phong kiến
miền núi chuyên bóc lột, áp bức nhân dân. Lý trí mách bảo Mị rằng phải cứu A Phủ. trái tim nhân ái
đã thôi thúc Mị phải hành động, cắt dây trói cho A Phủ. Giải thoát cho A Phủ, Mị đã không còn vô
cảm với nỗi đau của người khác thì cũng đến lúc không thể tiếp tục vô cảm với nỗi đau khổ của
chính mình. Mị đột ngột hiểu điều mình cần làm ngay lập tức, đó là tự giải thoát khỏi địa ngục nhà
Pá Tra. Tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A
Phủ. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín: "A Phủ. Cho tôi đi!... Ở đây thì chết mất". Có
lẽ chưa bao giờ niềm khao khát sống và tự do đến với Mị mãnh liệt như lúc này.
Hành động cắt dây trói cho A Phủ của Mị bất ngờ nhưng là tất yếu. Hành động ấy đã được dự
báo trong quá khứ khi Mị khóc lúc mới về làm dâu nhà Pá Tra, Mị định lấy lá ngón tự tử, khi Mị
hừng hực sức sống trong mùa xuân năm trước để năm nay Mị đủ sức cầm con dao cắt dây trói cho
A Phủ. Giải cứu A Phủ là Mị giải cứu chính mình. Sức sống mãnh liệt của người con gái ấy vượt
lên trên cả cường quyền, thần quyền. Hành động cứu A Phủ của Mị thể hiện tình thương người, là
sự đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ. Tô Hoài đã đề cao phẩm chất của Mị như một giá trị
tinh thần, đó là lòng "Thương người như thể thương thân" trong truyền thống của người Việt. 
Đoạn văn cuối cùng tác giả diễn tả sự quật khởi của Mị với sức sống  tiềm tàng mãnh liệt, sức
phản kháng quyết liệt: Đối mặt với hiểm nguy Mị cũng hốt hoảng “đứng lặng trong bóng tối”. Cuối
cùng tiếng gọi tự do đã vẫy gọi Mị. Trong giây phút đối diện với bản án tử hình ấy lòng ham sống
mãnh liệt đã thúc giục Mị chạy theo A Phủ. Mị vụt chạy theo A Phủ, cũng có nghĩa là chạy thoát
cuộc đời nô lệ, đến với ánh sáng của tự do.
Thành công của tác giả Tô Hoài trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Mị đó là:  Nhà văn
có biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo nhất là những diễn biến tâm trạng đầy phức tạp của Mị
trong đêm cởi trói cho A Phủ. Nghệ thuật trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật
đầy bất ngờ, tự nhiên đầy ấn tượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Ngôn ngữ sinh
động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ…nhà văn đã tạo tình
huống truyện độc đáo, hấp dẫn; cách miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tài tình, hợp lí  tạo nên sự
thay đổi số phận nhân vật một cách thuyết phục.
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
III. Kết bài
Với bút pháp hiện thực sắc sảo, nghệ thuật phân tích tâm lý tinh tế, Tô Hoài đã diễn tả thành
công diễn biến tâm lí của Mị trong đêm cắt trói cho A Phủ. Cuộc đời đau khổ, tủi nhục của Mị có ý
nghĩa tiêu biểu cho kiếp sống khốn khổ của người dân miền núi dưới ách thống trị của các thế lực
phong kiến và thực dân. Nhưng có áp bức có đấu tranh, nhân vật Mị chính là điển hình sinh động
cho sức vươn lên mạnh mẽ của con người từ trong hoàn cảnh tăm tối hướng tới ánh sáng của tự do,
hạnh phúc.

PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN

1. Nhận xét những nét mới trong cảm hứng nhân đạo của văn học phê phán sau năm
1945
Miêu tả sự hồi sinh của Mị, Tô Hoài đã mang đến những nét mới trong cảm hứng nhân
đạo của văn học hiện thực phê phán sau năm 1945. Với hình tượng nhân vật Mị trong đoạn trích,
nhà văn Tô Hoài đã cảm thông, bênh vực cho số phận khổ đau, tủi nhục của của Mị, đồng thời cũng
mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng
mãnh liệt mà không thế lực nào có thể dập tắt được.
Nhà văn đặt niềm tin vào con người, vào sức vươn dậy của nhân vật Mị. Nếu bức chân dung
của những người nông dân trước cách mạng … tất cả đều bị dồn vào bước đường cùng, không lối
thoát thì nhà văn Tô Hoài lại phản chiếu vào nhân vật của mình ánh sáng của cách mạng và   ý thức
của thời đại để giải phóng số phận nhân vật.
Mặt khác, việc Mị cởi trói cho A Phủ có thể coi như một chiếc bản lề khép mở hai thế giới. Nó
khép lại thế giới tăm tối của cuộc sống trâu ngựa, nô lệ ở Hồng Ngài. Nó mở ra một cuộc sống tươi
sáng ở Phiềng Sa. Hành động Mị cởi trói cho A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài đến với tiếng gọi của
Cách mạng là một mốc son chói lọi trong tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của Tô Hoài nói
riêng và của các nhà văn sau cách mạng nói chung. Tô Hoài giải phóng cho số phận con người,
hướng con người đến ánh sáng của tự do.
2. Nhận xét nghệ thuật kể chuyện và xây dựng nhân vật của nhà văn Tô Hoài
Cách kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Đặc biệt tâm trạng và hành động khá
phức tạp của Mị được diễn tả, lí giải một cách cụ thể, hợp lí. Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn
lọc, sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình, đậm chất thơ…Tất cả thể hiện tài năng viết văn cùng sự am
hiểu sâu sắc đời sống, tâm lí đồng bào dân tộc miền núi của Tô Hoài.
Diễn biến tâm lí phức tạp nhưng hợp lôgic, mang tính tất yếu, thể hiện được quá trình chuyển
biến nhận thức của Mị: từ những nhận thức sâu sắc về cuộc đời, số phận mình, số phận A Phủ; về
tội ác của cha con thống lí Pá Tra... Mị đi đến quyết định cởi trói cho A Phủ, giải thoát cho chính
mình. Biểu hiện của sức sống tiềm tàng trong Mị bùng lên. Mị đã tự giải phóng cho mình, cùng lúc
vượt qua ngục tù của phong kiến và nhà tù vô hình của thần quyền.
Qua suy nghĩ, hành động của Mị, nhà văn Tô Hoài đã phản ánh quá trình chuyển biến về nhận
thức đi đến hành động vùng lên giải phóng cuộc đời khỏi thân phận nô lệ của người dân lao động bị
áp bức trước Cách mạng tháng Tám.

BÀI 2: VỢ NHẶT
- Kim Lân -
ĐỀ 1:
Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm
sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:
- Điêu! Người thế mà điêu!
Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay
thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ
còn thấy hai con mắt.
- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười:
- Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
- Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
- Đây, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi:
- Rích bố cu, hở!
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:
- Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng
chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:
- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười:
- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ:
thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Sau không biết
nghĩ thế nào hắn tặc lưỡi một cái:
- Chậc, kệ!
Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và
ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về...
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam)
Cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về ...
I. Mở bài:
Kim Lân là một nhà văn có nhiều trang viết gắn liền với cuộc sống của những người nông dân
Bắc bộ Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm viết về con người và mảnh đất này như: “Làng”, “Vợ
nhặt”, “Con chó xấu xí”. Tác phẩm “Vợ nhặt” được trích từ tập truyện “Con chó xấu xí” là tác phẩm
xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp năm 1945 vừa
là bài ca ca ngợi về vẻ đẹp tình người và khát vọng sống, niềm tin vào tương lai của người lao động
nghèo. Dường như nạn đói định mệnh ấy đã làm cho con người ta quên đi cả danh dự, họ bất chấp
để được sống, thậm chí chuyện hạnh phúc cả đời cũng tặc lưỡi cho qua. Nhân vật Thị là một điển
hình trong số những nạn nhân xấu số của nạn đói đó.
II. Thân bài
1. Khái quát:
Vợ nhặt được viết lại dựa vào một phần cốt truyện cũ của tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Truyện kể
về xóm ngụ cư trong nạn đói năm 1945. Anh Tràng là một thanh niên nghèo, làm nghề đẩy xe thuê.
Một lần chở lúa lên tỉnh, tình cờ Tràng đươc một cô gái giúp anh đẩy xe lân dốc. Lần sau gặp lại,
Tràng mời cô gái ăn bốn bát bánh đúc rồi rủ về với mình. Cô đã thành vợ Tràng. Tràng dẫn vợ về,
cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, mẹ Tràng ngạc nhiên và cả Tràng cũng ngạc nhiên. Cuộc sống của họ
tuy nghèo nhưng rất đầm ấm và luôn hy vọng vào tương lai. Kết thúc truyện là tâm trạng anh Tràng
nghĩ về hình ảnh lá cờ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Người vợ nhặt là
nhân vật chính trong tác phẩm giúp nhà văn gửi gắm những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh, không tên không tuổi,
không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho
thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến
cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà
tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói. Lần đầu thị
xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi
nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với
anh”, thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên
cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.
2. Cảm nhận đoạn văn (Lần gặp thứ 2)
Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ gầy vêu vao, “áo
quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Có thể
nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa. Cái
đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm.
Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng
sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon. Về chị ấy
thấy hụt tiền thì bỏ bố” .
Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi
ăn: “Sầm sập chạy đến”, “sưng xỉa nói”...Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một
chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” “ăn xong cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”.
Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.
Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng
về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im lặng là đồng ý). Thị đồng ý, đồng ý mà
không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? gốc tích ra sao? Thị nào
hay nào biết. Chỉ mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì
miếng ăn ?
Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám lấy
sự sống, từ lòng khao khát được sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp
nhận theo không Tràng.
Đó là ý thức bám lấy sự sống. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống.
Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống
của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý.
Nói như Kim Lân: ” Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con
người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.Cận
kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm
đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng
quý.
Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo; diễn
biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân
vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
III. Kết bài:

Nhân vật người vợ nhặt trong truyện "Vợ nhặt" đã nói lên một sự thật ờ đời. Trong đói khổ
hoạn nạn, kề bên cái chết, nhân dân ta vẫn khao khát được sống ấm no hạnh phúc. Những người
nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau để vượt qua thử thách khắc
nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và sự đổi đời với niềm tin: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời"... Cũng
như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, nhân vật người vợ nhặt đã có vai trò thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác
phẩm .

PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN

1. Giá trị nhân đạo của tác phẩm:


Qua hình tượng nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những
phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tác giả trân trọng khát vọng sống ngay bên bờ
vực cái chết của người lao động nghèo, đó là tình cảm nhân đạo của nhà văn . Thông qua nhân vật
người vợ nhặt, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người Việt Nam dù sống
trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai với niềm tin vào sự sống

2. Nhận xét sự tác động của hoàn cảnh đến nhân phẩm của con người:

Qua việc miêu tả sự tha hóa của nhân vật “người vợ nhặt”, Kim Lân cho ta thấy: Hoàn cảnh có
sức mạnh ghê gớm, có thể làm biến dạng về cả nhân hình lẫn nhân tính của con người. Qua đó ông
lên tiếng tố cáo tội ác của các thế lực đen tối lúc bấy giờ đã đẩy người dân vào bước đường cùng.
Đồng thời, Kim Lân cũng giúp chúng ta thấy được một khát vọng bất diệt của con người mà hoàn
cảnh dù có bi đát đến đâu vẫn không thể dập tắt được: đấy chính là khát vọng hạnh phúc.

ĐỀ 2:
…Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày
xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười.
- Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này, hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
- Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
- Đấy, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi.
- Rích bố cu, hở !
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả :
- Ăn thật nhá ! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì.
Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở :
- Hà, ngon ! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười :
- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ :
thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Sau không biết
nghĩ thế nào hắn tặc lưỡi một cái :
- Chậc, kệ!
( Vợ nhặt – Kim Lân, SGK Ngữ Văn 12, NXB Giáo dục )
Cái đói và tình người trong đoạn văn bản trên.

I. Mở bài:
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn hiện
thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với "thuần hậu phong
thủy" ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" khi hòa bình lập
lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn
"Vợ nhặt" đã ra đời.
II. Thân bài
1. Khái quát:
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự
khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ
nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề
bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi
vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người". Và điểm sáng mà nhà văn
muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống, về
tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình
huống "nhặt vợ" tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lí nhân vật thật tinh tế và sử
dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kỹ lưỡng
ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian năm đói thật thảm hại, thê lương. Trong đó
ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng hờ khóc và tiếng
gào thét kinh hoàng của đám quạ. Bằng tấm lòng đôn hậu chân thành nhà văn đã gửi gắm vào trong
không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân
thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng,
người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá kho
thóc Nhật ở cuối thiên truyện. Đoạn trích “ Hôm nay thị rách quá... Chậc !Kệ!” Đã cho nguời đọc
thấy được tình người ngời sáng trong nạn đói tối tăm.
2. Cảm nhận đoạn văn
a. Cái đói hiện hữu ngay trong từng nhân vật. Trước hết Thị là nạn nhân của cái đói

Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh, không tên không tuổi,
không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho
thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến
cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà
tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói. Lần đầu thị
xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi
nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với
anh”, thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên
cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.

Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ gầy vêu vao, “áo
quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Có thể
nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa. Cái
đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm.

Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng
sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon. Về chị ấy
thấy hụt tiền thì bỏ bố” .

Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi
ăn: “Sầm sập chạy đến”, “sưng xỉa nói”...Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một
chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” “ăn xong cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”.
Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.

Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng
về”. Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Hành động theo Tràng của thị xuất phát từ
nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được
tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng.

Hoàn cảnh xô đẩy khiến có lúc thị đánh mất lòng tự trọng, trở nên chanh chua, cong cớn, trơ
trẽn, có phần thô tục: chỉ cần “ bốn bát bánh đúc”, những câu đùa tầm phào thị chấp nhận làm “vợ
nhặt” để chạy trốn cái đói.

Còn anh cu Tràng, dù rất tốt bụng nhưng lúc đầu cũng tỏ ra phân vân, do dự, lo sợ khi quyết
định đưa người vợ nhặt về “Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ : thóc gạo này đến cái thân mình
cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”

b. Chính trong cái đói quay quắt ấy, tình thương ngời sáng mãnh liệt. Điều này được thể
hiện ở hành động và lời nói của Tràng: “Hắn vỗ vỗ vào túi.- Rích bố cu, hở !”. Thông qua lời nói và
hành động, Tràng kkhiến thị yên tâm, tin tưởng rằng hắn có tiền. Và rồi khi Thị đồng ý theo không
mình về nhà, Tràng lo sợ đấy nhưng “Hắn tặc lưỡi một cái : - Chậc, kệ!”. Tràng quyết định cưu
mang người “vợ nhặt” trong hoàn cảnh đói khát. Quyết định có vẻ giản đơn nhưng chứa đựng tình
thương, lòng nhân hậu của con người trong cảnh khốn cùng đồng thời thể hiện niềm khao khát mái
ấm gia đình của Tràng.

Đoạn đối thoại với ngôn từ dân dã góp phần bộc lộ tính cách, tâm lí nhân vật, đồng thời thể
hiện rõ giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm

III. Kết bài:

Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón
chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước trước sức mạnh của cách mạng. Một lần nữa,
Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình."Cái đẹp
cứu vớt con người" (Đôxtôiepxki). Vâng, "vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kì
diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn
thành tác phẩm. Ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một
quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong
tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời ấy.

ĐỀ 3:
“Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng
chuyện trò gì.” và “Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị
điềm nhiên và vào miệng”.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng người “vợ nhặt” (“Vợ nhặt” – Kim Lân, SGK Ngữ văn
12, tập 2) qua hai chi tiết trên? Qua đó làm rõ tư tưởng nhân đạo của nhà văn trong cách xây dựng
nhân vật?
I. Mở bài

Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông
thường viết về nông thôn và những con người dân quê , lam lũ hồn hậu , chất phác mà giàu tình yêu
thương . Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông . Tác phẩm đã khắc hoạ thành
công nhân vật Thị , một người phụ nữ nghèo khổ nhưng luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị,
biết hướng tới tương lai tươi đẹp. Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân
đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói
quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc
sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai tươi sáng. Điều này được thể hiện qua
hai chi tiết khi viết về người vợ nhặt: “Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp
bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì.” và “Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn,
hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng”. 

II. Thân bài

1. Khái quát:

Vợ nhặt được viết lại dựa vào một phần cốt truyện cũ của tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Truyện kể
về xóm ngụ cư trong nạn đói năm 1945. Anh Tràng là một thanh niên nghèo, làm nghề đẩy xe thuê.
Một lần chở lúa lên tỉnh, tình cờ Tràng đươc một cô gái giúp anh đẩy xe lân dốc. Lần sau gặp lại,
Tràng mời cô gái ăn bốn bát bánh đúc rồi rủ về với mình. Cô đã thành vợ Tràng. Tràng dẫn vợ về,
cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, mẹ Tràng ngạc nhiên và cả Tràng cũng ngạc nhiên. Cuộc sống của họ
tuy nghèo nhưng rất đầm ấm và luôn hy vọng vào tương lai. Kết thúc truyện là tâm trạng anh Tràng
nghĩ về hình ảnh lá cờ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Người vợ nhặt là
nhân vật chính trong tác phẩm giúp nhà văn gửi gắm những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh, không tên không tuổi,
không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho
thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến
cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà
tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.

Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói. Lần đầu thị
xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi
nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với
anh”, thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng...cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên
cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.

2. Cảm nhận 2 chi tiết

a. Chi tiết 1:
Lần thứ hai, khi Tràng ngoài chợ tỉnh, khi anh đang ngồi nghỉ và thị bỗng nhiên xuất hiện với
một ngoại hình của một con ma đói, quần áo rách như tổ đỉa, khuôn mặt lưỡi cày xaám xịt, thị gầy
sọp hẳn đi , chỉ còn thấy hai con mắt. Sự biến đổi về ngoại hình ấy khiến Tràng không nhận ra người
đàn bà đã đẩy xe cho mình lần trước. Thị trông nhếch nhác, tội nghiệp. Cái đói đã khiến người đàn
bà không chỉ thay đổi về ngoại hình mà còn biến đổi cả nhân cách. Thị trở nên “chao chát”, “chỏng
lỏn”, “chua ngoa”, “đanh đá”. Thị “cong cớn, sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Thị gợi ý để được
ăn. Và khi được cho ăn, Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh
đúc liền chẳng chuyện trò gì.”
Thị phải đánh đổi cả danh dự, cái duyên của người con gái , lòng tự trọng để kiếm miếng ăn và
nuôi niềm hi vọng sống…Thị đã đặt sự tồn tại của mình, miếng ăn lên trên cả nhân cách. Nhưng qua
đó ta thấy nhân vật có một lòng ham sống mãnh liệt . Thị đang cố gắng bám lấy sự sống. Thị tỏ  ra
“đanh đá chua ngoa cũng là để bảo vệ sự sống. Sống rồi mới tính tiếp được. Và một hành động
tưởng như nông nổi, dễ dãi tiếp theo là sau câu nói đùa của Tràng, thị đã đồng ý theo người đàn ông
xa lạ về làm vợ. Hành động này cũng là xuất phát từ niềm ham sống mãnh liệt, thị như người sắp
chết đuối cố gắng bám lấy cái phao của sự sống, với một niềm hi vọng được sống, được hạnh
phúc.Cận kề bên cái chết, người đàn bà ấy không hề buông xuôi sự sống mà trái lại, thị vẫn vượt lên
cái thảm đạm để hướng đến hạnh phúc, tương lai. Niềm lạc quan yêu sống của thị thật đáng quý,
đáng trân trọng.
b. Chi tiết thứ 2: 
Sau khi làm vợ Tràng, vào bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới của gia đình ta thấy thị đã thay
đổi , không còn như trước.
Sáng hôm sau thị đã dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước dọn dẹp nhà cửa cho quang quẻ, sạch
sẽ. Thị cùng mẹ chồng dọn cơm. Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách chỉ có đĩa
rau chuối thái rối và niêu cháo lõng bõng mà mỗi người chỉ được hai lưng bát là hết nhẵn. Bà cụ
Tứ vui vẻ đon đả bưng ra một nồi cháo cám mà bà gọi vui là chè khoán để đãi nàng dâu. Tràng
“chun mặt lại , miếng cám đắng chát nghẹn bứ trong cuống họng” không thể nuốt nổi. Nhưng
thị đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại, Thị điềm nhiên và vào miệng. Cách ăn
đó cho ta thấy thái độ chấp nhận sự nghèo khổ, khó khăn ở một gia đình mới, Thị không kêu ca,
phàn nàn trước cái đói nghèo, cũng không thấy khó chịu . Vậy đằng sau nỗi vất vưởng là sự ý tứ biết
điều , Thị cảm thông với những khó khăn của nhà chồng… cho nên dù phải ăn cháo cám nhưng thị
vẫn vui vẻ bằng lòng.
Thị đã đem đến sinh khí mới cho gia đình Tràng, trong bữa cơm mẹ con nói chuyện vui vẻ, thị
còn là người truyền tin cách mạng, đem đến cho gia đình này niềm hi vọng, niềm tin khi chia sẻ:
“Trên mạn Thái Nguyên…” Sự hiểu biết của thị đã đem đến cho Tràng sự giác ngộ về con đường
phía trước mà anh sẽ lựa chọn.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhà văn đã đặt nhân vật trong tình huống truyện độc đáo , phân
tích diễn biến tâm lí sâu sắc, lựa chọn chi tiết điển hình , ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với
tính cách nhân vật.
3. Bình luận về tư tưởng nhân đạo của nhà văn trong cách xây dựng nhân vật:
Hai chi tiết đã cho ta thấy ngòi bút nhân đạo đặc săc của nhà văn Kim lân: Cảm thông, chia sẻ
với thân phận rẻ rúng của con người, gián tiếp tố cáo tội ác thực dân, phong kiến, phát xít đối với
nhân dân ta. Đồng thời thể hiện niềm tin vào nhân cách tốt đẹp của con người cùng niềm khao khát
sống, hi vọng vào một tương lai tốt đẹp ở tương lai phía trước trong bối cảnh của nạn đói khủng
khiếp năm 1945 .
III. Kết bài:
Thông qua nhân vật người vợ nhặt, đặc biệt là hai chi tiết ta thấy nhà văn Kim Lân có tư tưởng
nhân đạo sâu sắc. Ông luôn quan tâm đến những biến đổi tinh tế trong tâm hồn người dân nghèo để
phát hiện những vẻ đẹp về nhân cách , để trân trọng nâng niu, ngợi ca họ. Qua nhân vật này , nhà
văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người Việt Nam dù sống trong hoàn cảnh khốn
khổ như thế nào thì họ cũng sẽ luôn hướng về tương lai với niềm tin vào sự sống.

ĐỀ 4:
“Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái
Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang
khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng
không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và
mùi gây của xác người.
Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về
với một người đàn bà nữa.Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một
mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh.
[…]Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm lạ lắm.
Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán.Hình như họ cũng hiểu được đôi phần. Những khuôn
mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc
sống đói khát, tăm tối ấy của họ.”
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai, Nxb GD, 2016, trang 24-25)
Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích trên. Từ đó nhận xét lời tâm sự của Kim Lân về ý đồ và
cảm hứng sáng tác truyện ngắn Vợ nhặt: “… Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được
sức sống đơn sơ của tâm hồn họ”.
I. Mở bài:
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn hiện
thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với "thuần hậu phong
thủy" ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" khi hòa bình lập
lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn
"Vợ nhặt" đã ra đời. Kim Lân từng tâm sự về ý đồ và cảm hứng sáng tác truyện ngắn “Vợ nhặt”: “…
Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm hồn họ ”. Điều này
được thể hiện rất rõ nét qua đoạn trích: “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. […]Nhìn theo
bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến,...tăm tối ấy của họ.”
II. Thân bài
1. Khái quát:
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự
khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ
nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề
bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi
vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người". Và điểm sáng mà nhà văn
muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống, về
tương lai của những con người đang kề cận với cái chết.
2. Cảm nhận đoạn văn
Bối cảnh câu chuyện diễn ra vào giữa nạn đói năm 1944-1945, khiến hơn hai triệu đồng bào ta
ở miền Bắc phải chịu cảnh chết đói, đó là cái nạn đói khủng khiếp mà nhà văn Nam Cao đã không
khỏi ám ảnh nhắc lại rằng "có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để
rùng mình". Ở xóm ngụ cư, nơi diễn ra câu chuyện, giữa nạn đói ấy Kim Lân đã gợi lại một viễn
cảnh thê thảm, tiêu điều của một giai đoạn đau thương nhất lịch sử dân tộc bằng những câu văn nhẹ
nhàng ẩn chứa nhiều nỗi niềm đau xót. Cảnh người dân từ khắp nơi bồng bế, dìu dắt, thất thểu đi
trên đường làng, ai nấy đều "xanh xám như bóng ma", người đói "ngổn ngang khắp lều chợ", thần
chết có lẽ đã triển khai ngay một cuộc tàn sát khi mà "người chết như ngả rạ", "không khí vẩn lên
mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người". Những người còn sống có lẽ cũng đã xác định
trước cái chết của mình, họ lầm lũi bước chầm chậm về phía nghĩa địa, kẻ "dật dờ lặng lẽ đi lại như
bóng ma". Bao trùm lên toàn bộ không gian ấy là tiếng quạ kêu thảm thiết từng hồi, như một loại
kèn quái dị đưa ma những kẻ xấu số, chết không có chỗ chôn. Chao ôi, cái sự sống khốn khổ trong
văn của Kim Lân nó thật thấm thía và nhiều ám ảnh. Bức tranh bao quát về nạn đói có một không
hai trong lịch sử dân tộc có sức tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra cho nhân
dân Việt Nam.

Kim Lân đã mượn bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 để khẳng định, ngợi ca sức sống
mãnh liệt, tiềm ẩn trong tâm hồn những con người cùng khổ – nhà văn phát hiện khát vọng đáng
trân trọng của người nông dân ngay khi cận kề cái chết:

Đó là anh cu Tràng: phớn phở khác thường, tủm tỉm cười, hai mắt sáng lên lấp lánh …Tràng
thành một con người khác: ân cần, quan tâm đến người đàn bà hãy còn xa lạ; lòng Tràng trỗi dậy
niềm vui sướng khiến anh “dường như quên hết những cảnh ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói
khát ghê gớm đang đe dọa, quên những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa
với người đàn bà đi bên..”; Đó là điều “mới mẻ, lạ lẫm, chưa từng thấy ở người đàn ông khốn khổ
ấy” – niềm hạnh phúc bình dị, niềm khát khao mái ấm gia đình.

Những người trong xóm ngụ cư: lạ, bàn tán, hiểu, bỗng rạng rỡ hẳn lên…Tình huống đã tạo
nên sự thay đổi mới mẻ theo hướng tích cực của mọi người: bên bờ vực cái chết vì đói khát vẫn biết
cảm thông cho nhau, tin tưởng vào điều tốt đẹp.

Cách tạo tình huống truyện độc đáo; bút pháp tả thực tạo ấn tượng mạnh, miêu tả tâm lí nhân
vật tinh tế. Ngôn ngữ sinh động, so sánh độc đáo, giàu tính tạo hình... đã gó phần làm nên thành
công cho đoạn trích nói riêng và toàn bộ tác phẩm nói chung.

3. Nhận xét về quan niệm

Kim Lân đã thực hiện thành công ý đồ sáng tác của mình: biến câu chuyện ngày đói cay đắng,
đau khổ thành khúc ca chiến thắng của tình người và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc tha thiết,
mãnh liệt. Đó cũng là tấm lòng, niềm thương cảm, xót xa của nhà văn trước những con người nhỏ
bé, sự trân trọng những ước mơ, khát vọng đẹp đẽ và niềm tin vào cuộc sống của những con người
nghèo khổ.

III. Kết bài

Vợ nhặt của Kim Lân là một tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc, ở đó vẻ đẹp của tình thân
tình người, niềm tin và niềm hy vọng vào cuộc sống vẫn hiện lên một cách tiềm tàng và âm ỉ trong
tâm hồn mỗi con người, mà không hề bị cái đói, cái chết vùi dập, chôn lấp. Trái lại dựa vào sức nuôi
dưỡng mạnh mẽ của tình thân, thì hy vọng sống còn của con người càng trở nên mạnh mẽ và tỏa
sáng, mở đường cho con người thoát khỏi cảnh bế tắc, khốn cùng.

ĐỀ 5:
Phân tích hình tượng các nhân vật trong đoạn văn sau để thấy được giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt”.
“ Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái
Bình , đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn
ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm
đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên dường . Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác
rưởi và mùi gây của xác người.”
(…) Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo
cao chót vót ngoài bãi chợ hôt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như
những đám mây đen.
Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:
- Trống gì đấy, u nhỉ?
- Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này
không chắc đã sống qua được đâu các con ạ... Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để
con dâu nhìn thấy bà khóc.
Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lầm bầm:
- Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?
Im lặng một lúc thị lại tiếp:
- Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn
phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy.
Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lặi, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong
miệng hắn đã bã ra chát xít... Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật.
Tràng hỏi vội trong miếng ăn:
- Việt Minh phải không?
- Ừ, sao nhà biết?
Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo
nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm.
Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng
không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh đồng đi lối khác.
À ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu.
Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy.
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...
(Trích, Vợ nhặt – Kim Lân. SGK 12, tập hai, tr 24)
I. Mở bài:

Vợ nhặt được rút ra từ tập Con chó xấu xí, xuất bản năm 1945. Đây là tác phẩm xuất sắc nhất
trong sự nghiệp sáng tác của Kim Lân, đồng thời cũng là một những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài
người nông dân và thể hiện đầy đủ quan điểm sáng tác của tác giả. Tác phẩm thấm đẫm giá trị hiện
thực và nhân đạo. Điều này được thể hiện rõ nét ở đoạn văn mở đầu và kết thúc tác phẩm.

II. Thân bài:

Trước hết giá trị hiện thực của tác phẩm được thể hiện trong việc Kim Lân đã tái hiện thành
công nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm 1945 phần lớn người dân đã bị đẩy tới cái chết.
Kim Lân đã tập trung tất cả bút lực của mình để tạo dựng bối cảnh, không khí nạn đói ấy. Trong văn
ông cái đói, cái chết đã hiện hình, nổi cộm sắc nét tạo nên những ám ảnh ghê rợn

Mở đầu truyện là cảnh cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ vùng Nam
Định, Thái Bình đội nón lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm
ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi
làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm chỏng queo bên đường. Không khí vẩn lên một mùi ẩm
thối của rác rưởi và mùi gây của xác người… Dưới gốc đa… những người đói dật dờ lặng lẽ đi như
những bóng ma. Tiếng quạ., cứ gào lên từng hồi thê thiết.

Ấn tượng về cái đói cái chết đã được Kim Lân tạo dựng từ nhiều yếu tố, nhưng ấn tượng nhất
là thị giác, khứu giác và thính giác. Ở thị giác, ông đã hai lần sử dụng hình ảnh đầy sức ám ảnh: bên
cạnh những người chết như ngả rạ, là những người còn sống vật vờ như những bóng ma. Ở đây cái
đói đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực, giữa sự sống và cái chết là ranh giới vô cùng mong manh.
Nạn đói đã vắt kiệt toàn bộ sự sống của con người để hiện hình thành những bóng ma dật dờ. Ở
khứu giác, cái đói cái chết trong văn Kim Lân không chỉ nhìn thấy mà còn có thể ngửi thấy đó là mù
gây của xác người và mùi khét lẹt của các nhà đốt đống dấm. Còn thính giác cũng là những ấn tượng
ghê rợn. Âm thanh của những đàn quạ liên thanh cất lên, là tiếng hờn khóc tỉ tê của những gia đình
có người chết.

Ngoài ra, người đọc cũng có thể hình dung được bộ mặt thật của bọn phát xít, thực dân và tay
sai của chúng. Điều này được gói gọn trong một câu nói đầy phẫn uất của bà cụ tứ: “Tiếng thúc thuế
đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc gì đã sống qua
được đâu các con ạ!….”

Tác phẩm còn phản ánh được một hiện thực cơ bản khác. Đó là tấm lòng người dân hướng về
cách mạng và sự vận động của cuộc sống hướng về tương lai. Giữa những tiếng trống thúc thuế dồn
sưu dồn dập là hình ảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ
đỏ to lắm vụt hiện lên trong ý nghĩ của Tràng. Nó báo hiệu một bình minh mới của cách mạng sẽ
đến.

Bên cạnh những mảng màu xám ngắt của hiện thực, ta còn thấy tác phẩm ánh lên giá trị nhân
đạo sâu sắc. Trong tăm tối, khi cái đói đeo đuổi tất cả mọi người, tưởng chừng như người ta chỉ
quan tâm đến sự sống chết của mình, thì người nông dân Việt Nam vẫn sẵn sàng dang tay cứu vớt
những con người có số phận bất hạnh hơn mình. Nó thể hiện rất rõ truyền thống yêu thương đùm
bọc “lá lành đùm lá rách” của nhân dân ta.
Tấm lòng nhân đạo của nhà văn trước hết thể hiện trong sự bao dung, tình yêu thương mẹ con
Tràng dành cho người vợ nhặt. Họ sẵn sàng cưu mang một người đàn bà không quen biết với một
niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng và đổi khác. Bữa ăn ngày đói thảm đạm nhưng họ vẫn ăn
một cách ngon lành, toàn nói những chuyện sung sướng về sau. Đặc biệt, ở cuối tác phẩm giá trị
nhân đạo gắn với hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong sự tiếc rẻ của nhân vật Tràng. Chắc chắn với
tinh thần lành mạnh, lòng yêu cuộc sống Tràng và vợ sẽ tham gia hoạt động cách mạng. Hình ảnh lá
cờ đó thể hiện niềm trân trọng khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo;
thể hiện niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng. Hình ảnh dùng để kết thúc truyện là triển vọng
sáng sủa của hiện thực tăm tối, đó là tương lai đang nảy sinh trong hiện tại, vì thế nó quyết định đến
âm hưởng lạc quan chung của câu chuyện.

III. Kết bài

Bằng nghệ thuật miêu tả bậc thầy, Kim Lân đã vẽ ra bức tranh hiện thực tàn khốc về nạn đói
năm 1945, khi mạng người bị rẻ rúng đến cùng cực. Nhưng đằng sau bức tranh hiện thực đen tối ấy
là ánh sáng của lòng nhân đạo, tình yêu thương, sự bao bọc, chở che lẫn nhau giữa những con người
khốn khổ. Sự hòa quyện giữa hai giá trị hiện thực và nhân đạo đã tạo nên sự thành công cho tác
phẩm.

ĐỀ 6:
…“ Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào
ngõ. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng.
Thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ, và gọi với vào trong nhà:
- U đã về đấy!
Hắn lật đật chạy ra đón:
- Hôm nay sao u về muộn thế! Làm tôi đợi nóng cả ruột.
Bà cụ Tứ nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp hỏi:
- Có việc gì thế vậy?
- Thì u hẵng cứ vào trong nhà đã nào.
Bà lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão
càng ngạc nhiên hơn. Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng
ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà.
Ai thế nhỉ? Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải.
Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý
không hiểu.
Tràng tươi cười:
- Thì u hẵng vào ngồi lên giường lên diếc chĩnh chện cái đã nào.
Bà lão lập cập bước vào. Người đàn bà tưởng bà lão già cả, điếc lác, thị cất tiếng chào lần
nữa:
- U đã về ạ!
Ô hay, thế là thế nào nhỉ? Bà lão băn khoăn ngồi xuống giường.
Tràng nhắc mẹ:
- Kìa nhà tôi nó chào u.
Thấy mẹ vẫn chưa hiểu, hắn bước lại gần nói tiếp:
- Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng
qua nó cũng là cái số cả...
Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao
nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả
chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn
mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có
nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?
Bà lão khẽ thở dài đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo
đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới
lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng
được cho con... May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề
nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:
- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra
sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
- Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời
cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng
uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào
khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đưa con gái út. Bà lão
nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó
liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...”
... Buổi sáng hôm sau: “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt
bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy
đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp, thì cuộc đời của họ có thể khác đi, làm
ăn có cơ khấm khá hơn.
Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối
thái rồi, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể
chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau
này:
- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái
chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem...”

(Vợ nhặt.Kim Lân .Sách giáo Khoa Ngữ văn 12,tập 2,NXB Giáo dục 2008.)
Anh/ chị hãy phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong đoạn văn trên. Nhận xét về...

I. MỞ BÀI

Kim Lân là cây bút chuyên viết về đề tài nông thôn. Sáng tác của ông phản ánh một cách chân
thực và xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông am hiểu sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của
họ. Một trong những sáng tác xuất sắc của Kim Lân là truyện ngắn “Vợ nhặt”. Tác phẩm vừa là bức
tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp vừa là bài ca ca ngợi về sức sống và niềm tin của con người
Việt Nam. Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã dựng lên một tình huống độc đáo: anh cu Tràng nghèo khổ,
xấu xí, ế vợ bỗng dưng lại nhặt được vợ giữa nạn đói khủng khiếp. Tình huống dở khóc, dở cười,
vui mà tội nghiệp, mừng mà vừa tủi vừa lo đã làm nổi bật tâm trạng của các nhân vật trong truyện,
trong đó có tâm trạng bà cụ Tứ – một người mẹ nghèo khổ nhưng nhân hậu, bao dung.

II. THÂN BÀI


1. Khái quát

Vợ nhặt được coi là tác phẩm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của Kim Lân, cũng là một
truyện ngắn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Tiền thân của truyện ngắn Vợ nhặt là một
chương trong tiểu thuyết Xóm ngụ cư viết ngay sau 1945. Tới 1954, Kim Lân dựa vào một phần cốt
truyện cũ để viết Vợ nhặt. Do đó, tác phẩm không chỉ là kết quả một quá trình suy ngẫm, gọt giũa về
cả nội dung và nghệ thuật mà còn mang âm hưởng lạc quan của thời đại mới trong thời điểm đất
nước được giải phóng sau năm 1954. Đoạn trích thuộc phần cuối của truyện, diễn tả tâm trạng của
bà cụ Tứ khi Tràng dẫn vợ về và khi bà nói chuyện với nàng dâu mới. Việc con trai bà lấy vợ quả
thật là khó tin, điều này gây nên sự xáo trộn rất lớn trong tâm trí người mẹ. Miêu tả quá trình thay
đổi tâm trạng của người mẹ ngòi bút Kim Lân đã làm cho người đọc xúc động mãnh liệt.

2. Cảm nhận, phân tích

Bà cụ Tứ xuất hiện ở giữa thiên truyện với hình ảnh của một người mẹ đã già, sức cùng lực
kiệt. Trong cái u ám của ngày đói, cái chạng vạng của chiều hôm tê tái, dáng đi “lọng khọng” và
tiếng ho “húng hắng” của bà đã ám ảnh người đọc. Bà là một người mẹ nghèo khổ, góa bụa. Bà ở
vậy nuôi con, gia cảnh thì nghèo khổ. Cái được gọi là nhà thực chất lại là túp lều rách nát nằm bên
“mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Tràng – anh con trai của bà không được như con nhà
người. Tràng vụng về, gàn dở lại thêm xấu xí thô kệch. 

Bà cụ Tứ là người mẹ nhân hậu, bao dung, giàu tình thương yêu với người đồng cảnh ngộ. Vẻ
đẹp ấy được Kim Lân miêu tả qua diễn biến tâm trạng của bà trong cảnh “đón dâu”.

Chính sự xuất hiện của người đàn bà lạ trong nhà đã làm cho người mẹ ấy ngổn ngang bao tâm
trạng, vừa ngạc nhiên, vừa tủi thân, mừng vừa lo.

Trước hết là tâm lý ngạc nhiên. Bà ngạc nhiên vì sự đon đả khác lạ của Tràng, ngạc nhiên vì
người đàn bà lạ ở trong nhà. Bởi thế đôi chân bà theo con mà cứ “đứng sững lại”, có lúc cứ “phấp
phỏng”. “Phấp phỏng” có nghĩa là tâm lý bất an, lo lắng, băn khoăn, không biết điều gì đón đợi
mình phía trước. Nếu như anh cu Tràng sau những giây phút “Chợn” thì anh ta đi thẳng vào niềm
vui, tâm lý phát triển theo chiều thẳng đứng. Còn bà cụ Tứ thì sau giây phút ngạc nhiên của bà là
một tâm lý phức tạp, tâm lý phát triển theo đường cong. Căn nhà tuềnh toàng rách nát của bà bấy lâu
nay chỉ có bà và anh con trai, họ mạc thì đã thất tán nên sự xuất hiện của người đàn bà lạ kia quả là
một sự kiện. Hàng loạt những câu hỏi nghi vấn dồn dập trong óc bà “Quái! Sao có người đàn bà nào
đứng trong nhà mình thế nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?
Sao lại chào mình bằng U? Không phải con cái Đục mà ai đấy nhỉ?”. Thực ra sự ngạc nhiên của bà
cụ Tứ cũng là sự ngạc nhiên của biết bao người, từ xóm ngụ cư đến Tràng vẫn không tin nổi. Nhưng
thực sự mà nói, một người từng trải như bà sống mấy chục năm trên cõi đời này, bà là người giàu
kinh nghiệm. Hơn nữa việc con cái lớn lên, muốn thành thất thành gia thì không người mẹ nào lại
không nhạy cảm trước chuyện hệ trọng đó của con. Nhưng ở đây ta thấy nạn đói đã làm cho người
mẹ mất đi sự nhạy cảm ấy. Chính vì vậy sự ngạc nhiên đó kéo dài rồi đến lúc bà không dám tin đó là
sự thật, bà khẽ “hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn nhưng hình như nó lại nhoèn ra mãi”. Tuy nhiên thái
độ của Tràng cùng không khí thiêng liêng của gia đình và câu mở lời của Tràng “Nhà tôi nó mới về
làm bạn với tôi đấy u ạ” thì bà cụ mới hiểu ra cơ sự, bà không ngạc nhiên nữa cũng không giận dữ
lại càng không vui mừng mà lòng bà càng trở nên trăm mối tơ vò.
Khi hiểu ra cơ sự, bà cụ Tứ “cúi đầu nín lặng”. Kim Lân dùng hai chữ “Cúi đầu” mang đến
cho người đọc một cảm nhận xót xa: đằng sau cái cúi đầu ấy có gì đó vừa uất nghẹn, vừa xót xa,
vừa cay đắng. Lòng người mẹ đa cảm ấy bỗng thấy xót xa, tủi thân tủi phận. Bà buồn vì tự thấy
mình chưa làm tròn bổn phận của người mẹ. Bởi cuộc đời của một người mẹ không chỉ sinh con ra,
nuôi con lớn lên mà còn có trách nhiệm gầy dựng gia đình cho con, chăm lo cháu chắt, còn bà chỉ có
hai bàn tay trắng: “Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi,
những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì …”. Nhà văn đã bỏ lửng suy nghĩ của bà
bằng ba dấu chấm. Ba dấu chấm như là những nốt lặng trong tâm hồn người mẹ mà ở đó sự tủi thân
tủi phận dâng trào hơn bao giờ hết. Nhà văn đã để nhân vật của mình khóc: “Trong kẽ mắt kèm
nhèm của bà đã rỉ xuống hai dòng nước mắt”, đó là dòng nước mắt cơ cực của cuộc đời và cũng là
những giọt nước mắt đã cạn kiệt vì cuộc đời mẹ đã khóc quá nhiều.

Từ đó tâm lý bà cụ chuyển nỗi tủi thân thành lòng xót thương. Xót thương vì “Người ta có
gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Bà
thừa hiểu có nằm mơ thì thằng con mình cũng chẳng cưới được vợ. Mà người ta có cưới vợ thì cũng
phải cưới một cách hiển hách, còn Tràng lại đi nhặt vợ. Nói như vậy không có nghĩa là bà khinh
thường người con dâu mà ngược lại trái tim của người mẹ ấy bao dung hơn bao giờ hết. Bà tỏ ra rất
gần gũi và chân tình “Nhìn người đàn bà đứng vân vê tà áo đã rách bợt”, mà “lòng đầy xót thương”.
Chính tình cảm ấy đã xóa đi  rất nhiều mặc cảm cho người con dâu. Trả lại danh dự cho người phụ
nữ “mang tội theo trai” (Kim Lân).

Trái tim nhân ái của người mẹ đã mách bảo bà phải đồng ý cho cuộc tình duyên ấy: “Thôi thì
các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”.

Ca dao Việt Nam có câu:

Trồng cây những muốn cây xanh

Nuôi con những muốn con thành thất gia

Chuyện con cái thành thất thành gia là điều vui, sao mẹ chỉ “mừng”! Phải chăng ám ảnh về nạn
đói đã lấn át đi niềm vui của mẹ? Đó cũng là câu nói chân thành chứa đựng những tình cảm sâu sắc
của người mẹ làm cho không khí gia đình đã thiêng liêng lại càng thiêng liêng hơn. Câu nói đó còn
bao chứa vẻ đẹp của tấm lòng nhân hậu, sự yêu thương cưu mang đùm bọc của bà dành cho người
con dâu. Bà an ủi cô con dâu: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo,
cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi.
Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá…”. Tấm lòng nhân ái bao la và
cao thượng đó của mẹ thật đáng quý biết bao!

Trong tình cảm người mẹ, sự yêu thương và vui mừng lại đi kèm nỗi lo lắng. Làm sao không
lo cho được khi mà nạn đói đang diễn ra, cái chết đang cận kề. Đời bà thì đã già, có chết cũng chẳng
tiếc nuối gì, nhưng còn các con dù sao thì cuộc đời vẫn còn dài nhưng liệu chúng nó có nuôi nổi
nhau qua cơn đói này không? Rồi bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của bà, ông lão, cô con gái út,
bóng tối như trùm lên hai con mắt của bà. Bằng tấm lòng nhân đạo bao dung của mình, nhà văn
không cho phép nhân vật của mình tuyệt vọng. Người mẹ là chỗ dựa tinh thần cho người con, bà cụ
Tứ không giúp gì được cho đôi vợ chồng son về vật chất nhưng bà là chỗ dựa tinh thần cho các con.
Tục ngữ Việt Nam có câu “Người sống đống vàng”, còn Kim Lân khi viết truyện ngắn này đã nung
nấu: “Khi viết về con người năm đói, người ta thường viết về con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi
muốn viết về con người không nghĩ đến cái chết mà chỉ nghĩ đến cái sống. Đã sống thì phải sống
cho ra cuộc sống con người”. Có lẽ vì vậy mà Kim Lân đã để bà cụ Tứ thổi sức sống vào các con
bằng triết lý dân gian: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Triết lý ấy cũng là kinh nghiệm sống của bà,
sự từng trải của một người mẹ đã kinh qua bao khó nhọc trong đời. Chính triết lý ấy đã làm bừng lên
sức sống, bừng lên tia hi vọng và làm ấm lòng đôi vợ chồng son. Đó cũng là lời động viên chí tình,
chí nghĩa mà bà muốn nhen lên trong lòng con sức mạnh vượt qua nạn đói.

Tâm lý của bà cụ Tứ đổi thay tích cực sau đêm tân hôn của đôi vợ chồng son. Bà dậy sớm
cùng con dâu thu dọn nhà cửa như để đón chào một cuộc sống mới tươi vui hơn “làm ăn có cơ khấm
khá hơn” đang mở ra ở phía trước. Dáng vẻ, tâm thế của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn ngày
thường. Tràng nhận rõ sự biến chuyển khác thường đó “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác
ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà
cửa”.

Bữa ăn ngày đói được Kim Lân miêu tả thật thê thảm: “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.
Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều
ăn rất ngon lành”. Bữa cơm đầu đón nàng dâu không có sơn hào hải vị, không của ngon vật lạ mà
chỉ có những gì thê thảm nhất của sự khốn cùng: mẹt rách, rau chuối, muối, cháo… Nhưng sự thiếu
thốn về vật chất ấy lại được bù đắp về mặt tinh thần bởi cả gia đình ấy đang có thêm một thành viên
mới, một hạnh phúc mới. Bởi vậy “cả nhà đều ăn rất ngon lành”.

    Trong không khí gia đình vui vẻ, đầm ấm, hạnh phúc, bà cụ Tứ đã thêm một lần truyền động
lực sống cho các con. Bao trùm không khí bữa ăn vẫn dào dạt tình người. Bà cụ Tứ chắt chiu từng
chút niềm vui, cố gắng tạo ra không khí hòa hợp, vui vẻ. Bà vừa là người thắp lửa và cũng là người
truyền lửa. Thắp lên những niềm vui, lạc quan vào cuộc sống và truyền cho con cái những lạc quan
ấy để các con hướng về tương lai. “Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà
lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”. Điều này chứng tỏ người mẹ ấy rất
lạc quan, có niềm tin vào tương lai tươi sáng. Đói khát không thể quật ngã được người mẹ nông dân
có niềm tin sắt đá “ai giàu ba họ ai khó ba đời” ấy. Câu chuyện đàn gà mà mẹ mang đến trong bữa
ăn như một luồng sinh khí mới làm bữa ăn càng trở nên đầm ấm: “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi
gà… Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”. Từ “đôi gà”, thành
“đàn gà” là sự lạc quan, niềm tin mãnh liệt của người mẹ vào tương lai. Bà tin vào sự sinh sôi sẽ lấn
át sự hủy diệt, sự sống sẽ lấn át cái chết. Cũng như chúng ta luôn tin vào đôi vợ chồng son này, rồi
họ cũng sẽ tự sinh tồn và vượt qua nạn đói để sinh con đàn cháu đống cho giống nòi Việt Nam mãi
mãi xanh tươi. Đây chính là chi tiết thể hiện niềm tin của bà cụ vào tương lai, tin vào một tương lai
tốt đẹp của đôi vợ chồng son. Và cũng chính câu chuyện này đã thổi hồn vào cuộc đời của Tràng và
người vợ nhặt một luồng sinh khí mới, đưa họ vượt qua “ranh giới giữa sự sống và cái chết” để tiếp
tục một cuộc đời mới trên cái nền u ám của nạn đói.

Bà tự hào vì nồi “chè khoán” mà thực ra là nồi cháo cám để đãi nàng dâu mới đã khiến người
đọc cảm động đến ứa nước mắt vì tình cảm của người mẹ nghèo khổ ấy. Bà tự hào bởi “xóm ta khối
nhà chả còn cám mà ăn đấy”. Vậy là nhà bà “sang” nhất xóm, “giàu có” hơn nhà người. Niềm tự
hào ấy sao nghe chân thành mà đáng thương làm sao. Bà cụ tươi tỉnh trù tính câu chuyện làm ăn,
gắng hết sức để thắp lên cho hai con ngọn lửa của niềm tin, lạc quan yêu sống. Về điều này, Kim
Lân khẳng định “Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường
sống”. Tinh thần nhân bản của tác phẩm tỏa sáng ở đây.
Thành công của việc xây dựng tâm lý bà cụ Tứ nói riêng và tác phẩm Vợ nhặt nói chung là
nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn; Miêu tả tâm lý nội tâm nhân vật sắc sảo; Tạo tình huống
truyện độc đáo để các nhân vật bộc lộ phẩm giá của mình. Tất cả đã tạo nên giá trị hiện thực và nhân
đạo sắc sảo. Một mặt tác giả tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân, phong kiến và phát xít đã đẩy
dân tộc ta vào nạn đói khốn cùng làm chết hơn hai triệu con người. Một mặt tác giả ngợi ca vẻ đẹp
tâm hồn Việt, dù trong hoàn cảnh nào, con người Việt Nam vẫn luôn yêu thương, cưu mang đùm
bọc nhau hướng vào tương lai, hi vọng trông chờ.

3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
III. KẾT BÀI
Bà cụ Tứ là một người nông dân, là bà mẹ đại diện cho những gì khốn khổ nhất, cùng cực nhất
của năm đói và nhân vật này đã được nhà văn thể hiện qua giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm, đó
chính là vẻ đẹp tình người. Bà là hiện thân của vẻ đẹp về tấm lòng nhân hậu của người phụ nữ Việt
Nam kết tinh từ bao đời nay.
PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN
1. Đánh giá và nhận xét về tư tưởng nhân đạo của tác giả:

Tâm trạng nhân vật qua hai lần miêu tả bộc lộ tài năng quan sát, phân tích tâm lí tinh tế của
nhà văn, góp phần thể hiện phong cách truyện ngắn Kim Lân. Hai đoạn văn miêu tả bà cụ Tứ góp
phần thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc: đồng cảm, xót thương cho cảnh ngộ của người lao động
nghèo trong nạn đói; trân trọng ngợi ca phẩm chất tốt đẹp và khát vọng chân chính của con người.

2. Thông điệp của tác giả:

Ý nghĩa nhân bản mà nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù có đặt vào
hoàn cảnh khốn cùng, cận kề cái chết nhưng vẫn không mất đi những giá trị tinh thần và phẩm chất
tốt đẹp: lòng yêu thương con người và thái độ lạc quan, hi vọng vào tương lai tươi sáng dù cho chỉ
có một tia hi vọng mỏng manh. “Dù kề bên cái đói, cái chết, người ta vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn
hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai.

3. Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam:

Qua hình tượng bà cụ Tứ, Kim Lân còn cho ta thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam:
Chịu thương chịu khó, tảo tần, giàu đức hi sinh,…; đáng ca ngợi, trân trọng và phát huy

4. Rút ra nhận xét tấm lòng của nhà văn Kim Lân dành cho người nông dân.

Tấm lòng của nhà văn Kim Lân dành cho người nông dân được thể hiện ở tình thương, nỗi xót
xa và đồng cảm với số phận của một người mẹ nghèo khổ trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu
1945. Tác giả gửi gắm tình cảm trân trọng, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ: tuy
nghèo nhưng rất thương con, nhân hậu, bao dung và giàu lòng vị tha, đặc biệt bà là người rất lạc
quan, có niềm tin vào tương lai, hạnh phúc tươi sáng. Tấm lòng đó còn thể hiện qua nghệ thuật diễn
tả tâm trạng của nhân vật với chiều sâu bên trong tâm hồn vừa phức tạp, vừa sâu sắc, hiểu và cảm
được tận cùng nỗi niềm của người mẹ nghèo;
Tấm lòng của nhà văn Kim Lân đã làm cho truyện ngắn Vợ nhặt có giá trị phản ánh chân thực
hiện thực xã hội Việt Nam, thấm đẫm tinh thần nhân đạo, đem lại niềm tin vào sự đổi đời của người
nông dân và sự hướng về cách mạng của họ.

ĐỀ 7:
Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như
người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không
phải.
Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng loá xói
vào hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra,
xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét
tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một
góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy
ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân,
tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với
hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ
lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che
mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới
thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy
ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.
Bà cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu:
- Anh ấy dậy rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn.
- Vâng.
Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người
đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài
tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu mà thị tu chí làm ăn không? Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm,
tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn,
quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp thì
cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD,2008, tr 30)
Cảm nhận của Anh/Chị về những thay đổi của nhân vật Tràng, Thị, bà cụ Tứ trong đoạn trích
trên. Từ đó, nhận xét ...

I. Mở bài

Kim Lân là nhà văn của nông thôn. Truyện ngắn của Kim Lân viết về cuộc sống và con người
của làng quê Việt Nam tuy nghèo khổ, thiếu thốn nhưng vẫn yêu đời, thật thà, chất phác mà thông
minh, tài hoa. Truyện ngắn Vợ nhặt của ông thể hiện sự am hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí những
người ở thôn quê: dù cuộc sống có tăm tối đến đâu họ vẫn khao khát sống, yêu thương đùm bọc
nhau, vẫn hi vọng vào tương lai. Vẻ đẹp người nông dân trong đoạn trích : [...trích văn bản của đề
bài..] thể hiện ... (yêu cầu 2)

II. Thân bài

1. Khái quát
Vợ nhặt” được xây dựng trên bối cảnh của năm Ất Dậu, cái năm vẫn được nhiều người lớn
tuổi quen gọi là năm đói. Giữa bao khốn khổ, cùng cực ấy, một anh cu Tràng - ngờ nghệch, nghèo
túng - lại bỗng dưng “nhặt được” vợ, là một người con gái thô kệch, cũng không có gì trong tay. Hai
số phận éo le vì bị dồn vào bước đường cùng, hay vì tình thương trắc ẩn, đã gặp được nhau và từ
nay là đi chung một đường. Cả ba nhân vật: Tràng, mẹ của Tràng và thị đều có những biến đổi về
tâm lí và hành động thể hiện điều đó rất rõ rệt. Trong buổi sáng hôm sau, không còn những bất ngờ,
ngạc nhiên, rụt rè, tủi hổ, cả ba nhân vật đã có sự gắn kết trong những suy nghĩ và hành động trách
nhiệm hơn, gần gũi hơn, dù vẫn trong không khí nạn đói ê chề nhưng những trang văn ấy cho phép
người đọc hướng về một tương lai hạnh phúc và niềm vui rồi sẽ mỉm cười với những con người bất
hạnh

2. Cảm nhận đoạn trích

Vẻ đẹp của Tràng trong buổi sáng đầu tiên khi anh có vợ được Kim Lân miêu tả thật tinh tế mà
chân thực: Một cảm giác lạ chưa từng thấy tràn ngập trong lòng anh. Anh thấy trong người êm ái, lơ
lửng như người vừa ở trong giấc mơ đi ra, việc có vợ vẫn hình như là không phải. Tràng chợt nhận
ra xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới lạ: Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước,
thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đĩa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc
nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc cây ổi đã kín nước đầy
ăm ắp. Còn bà cụ Tứ lúi húi giẫy cỏ, nàng dâu quét tước, nấu nướng. Tất cả những cảnh tượng đó
thật bình thường, là sự thay đổi đơn giản nhưng cũng đủ làm cho anh rất cảm động vì nó đều khác
hẳn, chưa bao giờ Tràng thấy thế.

Trước mặt Tràng, người vợ mới của hắn khác hẳn: đó là một người đàn bà mẫu mực, chăm chỉ.
Thị rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần
Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Thị thu dọn nhà cửa, phơi phóng quần áo, quét sân, gánh nước và chuẩn bị
bữa ăn ngày mới.

Trong buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng thấy cuộc đời mình bỗng nhiên thay đổi hẳn:

Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia
đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn
vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bởi vì Tràng đã có một gia đình, và trong cái
buổi sáng đầu tiên ấy, anh đã được tắm mình trong không khí ấm áp, hạnh phúc của tổ ấm gia đình.

Tràng vẫn chưa quen với việc hạnh phúc đến quá bất ngờ. Nhà văn Kim Lân đã khắc họa được
những cảm xúc dấy lên trong lòng Tràng. Từ con người thô lỗ, cộc cằn thì Tràng đã trở thành người
chồng thực sự. Vậy là trong khung cảnh đói khát chết chóc thê thảm của đất nước năm 1945 ấy,
người nông dân khốn khổ như Tràng đã biết vượt lên hoàn cảnh, tìm đến hạnh phúc trong niềm vui
nương tựa đùm bọc lẫn nhau. Chỉ có tấm tình chân thực mới giúp họ có sức mạnh vượt qua sự thật
nghiệt ngã của cuộc đời. Và không có gì ngăn nổi niềm tin, niềm hi vọng của họ vào tương lai. Đó
chính là giá trị nhân văn đầy cảm động của truyện ngắn này.

Chỉ qua một ngày, một đêm sau khi đã thành vợ của Tràng, thành nàng dâu mới của bà cụ Tứ,
ta thấy nhân vật này có những biểu hiện, những tình cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ khác. Dù kề
bên cái chết, cô gái này vẫn khao khát hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm hạnh phúc của gia
đình, một mái ấm tình thương, có chồng có con như những người đàn bà may mắn khác. Thị dậy
sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ hạnh phúc. Tiếng chổi
quét sân của thị kêu sàn sạt trên mặt đất tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng thị. Thị lẳng
lặng đi vào bếp dọn bữa ăn sáng. Tràng cảm thấy vợ mình hiền hậu đúng mực rất đáng yêu. Bà cụ
Tứ đã có nàng dâu mới, Tràng đã có vợ. Nhà thêm người, thêm bát đũa, thêm một nhân lực. Mẹ
chồng và nàng dâu cùng làm việc, nói chuyện với nhau như thân quen tự bao giờ. Có lẽ cũng do
cùng cảnh ngộ nên họ nhanh chóng trở thành thân thiết.

Cách cư xử trong bữa ăn của thị cũng thật tế nhị, khôn khéo. Nhìn bát cháo cám người mẹ vui
vẻ đưa cho, mắt thị tối lại nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng. Thị đã giấu kín nỗi thất vọng chua
chát là để khỏi làm phật ý mẹ, giữ gìn không khí vui vẻ trong gia đình.

Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đanh đá bỗng trở thành
người đàn bà đúng nghĩa, đã nghĩ cho sự sống, đã lo cho gia đình. Qua đây, Kim Lân dường như
muốn khẳng định một niềm tin đầy giá trị nhân văn: mái ấm gia đình có đủ sức mạnh để làm thay
đổi, để cảm hóa một con người.

Vào buổi sáng hôm sau, bà cụ Tứ được Kim Lân khai thác ở chiều sâu tâm lý mà màu sắc chủ
đạo là sự lạc quan, tin tưởng, phấn chấn vào cuộc sống.

Cùng với người con dâu, sáng hôm sau bà cụ Tứ đã dậy sớm, xăm xăm quét dọn, thu vén nhà
cửa để ngôi nhà trở nên gọn gàng, sáng sủa, mang không khí của một tổ ấm hạnh phúc thật sự. Niềm
hạnh phúc của con đã khiến người mẹ nhân từ, bao dung dường như cũng hạnh phúc theo. Không
còn dáng vẻ của một bà lão gần đất xa trời, khốn khổ, Tràng đã nhận thấy rất rõ sự thay đổi trong
dáng vẻ, thần thái của mẹ mình.

Bà cụ Tứ trở nên tươi tỉnh, nhẹ nhõm khác ngày thường, khuôn mặt bủng beo u ám của bà rạng
rỡ hẳn lên. Sự thay đổi ở diện mạo, thần thái của bà cụ Tứ cùng với những việc làm nhỏ bé, giản dị
của bà đã thể hiện rất rõ sự chăm lo cho hạnh phúc của đứa con. Tất cả đều giản dị song lại vô cùng
cảm động vì bà cụ đã hành động bằng tất cả tấm lòng mình để góp phần xây dựng một tổ ấm hạnh
phúc.

Làm nên thành công của truyện Vợ nhặt là nhờ sự đóng góp không nhỏ của nghệ thuật
truyện. Tác giả đã tạo được một tình huống truyện độc đáo, cách kể chuyện tự nhiên, dựng cảnh
sinh động với nhiều chi tiết đặc sắc; đối thoại hấp dẫn, ấn tượng; miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế,
ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm chất nông thôn và có sự gia công sáng tạo của nhà văn.

3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
III. Kết bài
Một hồn văn đôn hậu, giản dị như Kim Lân, với tư tưởng và cách mở nút cho số phận nhân vật
đã có sự sáng tạo và tiến bộ khi đem đến một cái kết đầy hứa hẹn, đầy tươi sáng cho các nhân vật,
gửi gắm trong hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Những phận đời lay lắt như
Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ cuối cùng cũng tìm được ánh sáng của tình người, của hi vọng.

PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN

1. Nhận xét cái nhìn mới mẻ về con người của nhà văn Kim Lân

Nhà văn có cái nhìn xót xa, thương cảm và tin yêu về con người Việt Nam dưới ách thống trị
của giai cấp phong kiến và bọn thực dân phát xít trong nạn đói khủng khiếp Ất Dậu 1945. Tuy sống
trong thân phận rẻ rúng, hết sức bi đát, bị cái đói, cái chết bủa vây nhưng họ vẫn khao khát sống,
khao khát yêu thương và có niềm tin bất diệt vào tương lai sẽ được đổi đời. Kim Lân còn tìm thấy
sức mạnh của tình yêu trong thẳm sâu những con người bé nhỏ. Tràng lấy vợ, một câu chuyện dở
khóc dở cười nhưng sau sự kiện bi hài ấy, con người và thế giới của riêng Tràng thay đổi: vợ hiền
thảo hơn, Tràng đã trưởng thành nên người. Bà mẹ lần đầu tiên trên trán bớt đi đám mây u ám. Tình
yêu thương đã khiến cho ba con người nhỏ bé và mái ấm gia đình của họ không bị vùi xuống vực
thẳm của sự chết chóc. Trong thời khắc quyết định số phận, họ đã nương tựa, cưu mang, sưởi ấm
cho nhau bằng tình yêu.

Cái nhìn mới mẻ, lạc quan tin tưởng về con người cho thấy tài năng quan sát, miêu tả, dựng
cảnh, đi sâu khai thác diễn biến tâm trạng nhân vật rất hợp lí, chân thực, đặc biệt tạo tình huống
truyện độc đáo, bất ngờ, éo le và cảm động của nhà văn Kim Lân, góp phần làm bừng sáng giá trị
nhân văn trong sáng tác của nhà văn nông thôn được đánh giá xuất sắc nhất trong văn học Việt Nam
hiện đại 1945-1975.

2. Nhận xét tấm lòng của nhà văn Kim Lân dành cho người nông dân.

Xót xa, thương cảm và tin yêu về người nông dân trong nạn đói năm 1945. Tuy sống trong
thân phận rẻ rúng, hết sức bi đát, bị cái đói, cái chết bủa vây nhưng họ vẫn khao khát sống, khao
khát yêu thương và có niềm tin bất diệt vào tương lai sẽ được đổi đời. Kim Lân còn tìm thấy sức
mạnh của tình yêu trong thẳm sâu những con người bé nhỏ. Tình yêu thương đã khiến cho ba con
người nhỏ bé và mái ấm gia đình của họ không bị vùi xuống vực thẳm của sự chết chóc. Trong thời
khắc quyết định số phận, họ đã nương tựa, cưu mang, sưởi ấm cho nhau bằng tình yêu.

3. Nhận xét: qua đoạn trích, thấy được giá trị hiện thực và tư tưởng nhân đạo của nhà
văn:

Trước hết về giá trị hiện thực: Người đọc hiểu rõ hơn về tình cảnh nghèo đói, khốn khó của
đồng bào ta trong nạn đói 1945 khiến họ không dám tin vào hạnh phúc dù nó ở ngay trong tầm tay.
Nhà văn khắc họa diễn biến tâm lí của nhân vật thông qua việc tập trung miêu tả cử chỉ, hành động,
suy nghĩa, lời nói… Để thấy được Tràng đại diện cho những người nông dân hiền lành, chất phác
nhưng giàu tình yêu thương, sức sống và khát vọng mãnh liệt.

Tư tưởng nhân đạo: thấu hiểu tâm trạng, suy tư của nhân vật, Kim Lân đã thể tình cảm yêu
thương, trân trọng, đồng cảm và đặt niềm tin nơi vào những người lao động.

Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ mà
ấm áp tình thương, niềm hi vọng lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo,
nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm cảm động, hấp dẫn.

Tràng là hình ảnh tiêu biểu cho người lao động nghèo khổ, lương thiện, có lòng nhân hậu, khát
vọng hạnh phúc và niềm tin vào sự đổi đời ngay cả trong những hoàn cảnh đen tối nhất.

Nhận xét về giá trị nhân đạo mà nhà văn thể hiện qua nhân vật Tràng : Khát vọng sống của
nhân vật thể hiện cái nhìn phát hiện, trân trọng của Kim Lân về phẩm chất tốt đẹp của người nông
dân trong nạn đói: trong hoàn cảnh khốn cùng, người nông dân vẫn thể hiện được phẩm chất tốt đẹp
(Biết yêu thương, có khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc). Đây cũng chính là biểu hiện quan trọng
nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm.

4. Nhận xét về vẻ đẹp của người lao động nghèo qua cái nhìn của nhà văn Kim Lân
Kim Lân đã có cái nhìn mới về bản chất, số phận người nông dân;phát hiện, khẳng định và đặt
niềm tin vào những phẩm chất đáng quí của người lao động nghèo: luôn khao khát hạnh phúc, tổ ấm
gia đinh, luôn cưu mang đùm bọc nhau và hi vọng cuộc đời sẽ thay đổi trong tương lai.

5. Cách xây dựng tình huống truyện của Kim Lân.(1đ)

Nhà văn chọn tình huống Tràng nhặt vợ tạo nên sự bất ngờ và kịch tính éo le và độc đáo tác
động đến các nhân vật. Tràng là người có ngoại hình xấu, thô kệch; nhà nghèo lại có người đàn bà
theo không về làm vợ. Việc Tràng có vợ tạo nên sự bất ngờ khiến anh còn không thể tin được vào
việc đã xảy ra. Từ đó Tràng đã trưởng thành, nên người và biết gắn bó với gia đình.

Tình huống truyện có ý nghĩa làm nổi bật chủ đề và khai thác tâm lí nhân vật. nhà văn đã tạo
nên kết cấu chặt chẽ cho các sự việc, chi tiết xoay quanh tình huống. Đồng thời tác giả khẳng định
giá trị nhân đạo sâu sắc qua ngòi bút tài ba.

6. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

Xây dựng nhân vật bằng bút pháp miêu tả, phân tích tâm lí chân thực, tinh tế. Khắc họa nhân
vật bằng ngôn ngữ đối thoại, sống động, giàu cá tính, xây dựng tình huống truyện độc đáo bất ngờ.
Ngôn ngữ kể tự nhiên, mộc mạc, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người nông dân. Giọng
hồn hậu, hóm hỉnh, giàu chất trữ tình.

Tác giả đã tạo được một tình huống truyện độc đáo để nhân vật bộc lộ những phẩm chất, tính
cách; Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm chất nông thôn và có sự gia
công sáng tạo của nhà văn.

ĐỀ 8:
"Bữa cơm gày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối,
và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm
ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:
- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái
chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy chốc mà có ngay đàn gà cho mà xem…
Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm,
hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi
người được có hai lưng bát đã hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái
nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:
- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào
miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta còn khối nhà chả có cám mà ăn
đấy…
Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng
chat và nghẹn bứ trong cổ. Bữa cơm từ đây không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ
tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người.
Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót
vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nên trời như những đám
may đen.
Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:
- Trống gì đấy, u nhỉ?
- Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này
không chắc đã sống qua được đâu các con ạ… - Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để
con dâu nhìn thấy bà khóc.
(Trích Vợ nhặt – Kim Lân, SGK Ngữ văn 12 tập 2, NXB GD)
Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích trên để thấy được tư tưởng nhân đạo của nhà văn.

I. Mở bài

Kim Lân là nhà văn của nông thôn. Truyện ngắn của Kim Lân viết về cuộc sống và con người
của làng quê Việt Nam tuy nghèo khổ, thiếu thốn nhưng vẫn yêu đời, thật thà, chất phác mà thông
minh, tài hoa. Truyện ngắn Vợ nhặt của ông thể hiện sự am hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí những
người ở thôn quê: dù cuộc sống có tăm tối đến đâu họ vẫn khao khát sống, yêu thương đùm bọc
nhau, vẫn hi vọng vào tương lai. Thành công của truyện ngắn “Vợ nhặt” không chỉ bởi nội dung đặc
sắc cùng tinh thần nhân văn cao cả mà còn được tạo nên bởi hàng loạt những hình ảnh đặc sắc. Một
trong số những hình ảnh ấn tượng, ý nghĩa nhất của truyện ngắn Vợ nhặt là hình ảnh gia đình Tràng
trong bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới ở phần cuối tác phẩm. Đoạn văn “Bữa cơm gày đói ...nhìn
thấy bà khóc” đã để lại nhiều suy nghĩ trong lòng độc giả.

II. Thân bài

1. Khái quát

Vợ nhặt” được xây dựng trên bối cảnh của năm Ất Dậu, cái năm vẫn được nhiều người lớn
tuổi quen gọi là năm đói. Giữa bao khốn khổ, cùng cực ấy, một anh cu Tràng - ngờ nghệch, nghèo
túng - lại bỗng dưng “nhặt được” vợ, là một người con gái thô kệch, cũng không có gì trong tay. Hai
số phận éo le vì bị dồn vào bước đường cùng, hay vì tình thương trắc ẩn, đã gặp được nhau và từ
nay là đi chung một đường. Cả ba nhân vật: Tràng, mẹ của Tràng và thị đều có những biến đổi về
tâm lí và hành động thể hiện điều đó rất rõ rệt. Trong buổi sáng hôm sau, không còn những bất ngờ,
ngạc nhiên, rụt rè, tủi hổ, cả ba nhân vật đã có sự gắn kết trong những suy nghĩ và hành động trách
nhiệm hơn, gần gũi hơn, dù vẫn trong không khí nạn đói ê chề nhưng những trang văn ấy cho phép
người đọc hướng về một tương lai hạnh phúc và niềm vui rồi sẽ mỉm cười với những con người bất
hạnh

2. Cảm nhận đoạn trích

Chi tiết bữa cơm ngày đói cũng là bữa cơm đầu tiên đón con dâu về nhà Tràng là một chi tiết
đặc sắc vừa tái hiện chân thực tình cảnh khốn cùng của người nông dân trong hoàn cảnh nạn đói
hoành hành, vừa mang một giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc. Thông thường bữa cơm ngày đầu tiên
đón con dâu về sẽ rất quan trọng vì nó thể hiện được sự gắn kết của con dâu với nhà chồng. Nhưng
với gia đình Tràng thì bữa cơm đầu tiên ấy lại vô cùng đơn giản đến thảm hại "Giữa cái mẹt rách có
độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành".
Chỉ với những chi tiết đơn giản nhưng Kim Lân đã khắc họa được sự khủng khiếp của nạn đói lúc
ấy. Lúc này ăn chỉ để sống qua ngày, con người đang cố gắng giành lấy chút sự sống mong manh từ
tử thần. Bữa cơm được chuẩn bị vô cùng sơ sài đến thảm hại, chắc hẳn chúng ta ai cũng biết với bữa
cơm như vậy thì sao mà ăn ngon lành cho được nhưng ở đây cả gia đình Tràng đều ăn rất ngon lành.
Có lẽ ai cũng hiểu được hoàn cảnh lúc này nhưng họ cố nén cảm xúc trong lòng và cố tỏ ra vui vẻ để
động viên nhau, làm động lực giúp nhau vượt qua hoàn cảnh khốn cùng này. Nhưng cũng có lẽ đó là
niềm vui thật sự bởi dù trong gian khổ nhưng họ vẫn có nhau, vẫn lạc quan và vẫn hạnh phúc yêu
thương nhau. Vượt qua mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu hà khắc và hoàn cảnh nghèo khó bà cụ Tứ
vẫn đón nhận, cảm thông và yêu thương cô con dâu mới, gia đình họ vô cùng hòa hợp, hạnh phúc.
Chính vì thế mà trong bữa cơm "Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:
Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà... này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà
xem". Những câu chuyện bà nói đều là những chuyện tốt đẹp sau này, đều nói về tương lai tươi sáng
đầy hy vọng phía trước. Qua đây ta thấy được sự lạc quan, luôn hướng về phía trước của bà cụ Tứ,
cũng như của cả đất nước trong cái giai đoạn khó khăn cực khổ ấy.

Nhưng những tiếng cười cũng như niềm hy vọng mong manh của cả gia đình nhanh chóng bị
dập tắt vì "niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn". Dường như đã
liệu được tình huống này sẽ xảy ra người mẹ nghèo khó với tấm lòng nhân hậu, thương người và hết
mực thương yêu con đã "lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút.
Vừa khuấy khuấy vừa cười: chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Tuy nói là chè khoán nhưng thật sự đó
là nồi cháo cám chát xít, vốn là thứ thức ăn của súc vật. Qua đây, ta càng thấm thía hơn cái thực
trạng tàn khốc của nạn đói 1945 và tội ác tàn bạo của phát xít và tay sai đẩy những con người khổ
cực ấy vào tình cảnh khốn cùng. Nhưng qua đây ta lại càng thấy ngời lên được những phẩm chất tốt
đẹp của con người, họ bị bần cùng hóa nhưng không hề tha hóa. Nổi bật nhất đó chính là bà cụ Tứ,
nào đâu phải bà không biết nồi cháo cám kia chát xít chẳng hề ngon lành gì nhưng bà vẫn bảo "ngon
đáo để cơ" mà là bà đang cố động viên con mình cũng như con dâu vượt qua hoàn cảnh khó khăn
lúc ấy. Ta cảm thấy như bà mẹ già đang cố kìm nén những cảm xúc tủi hờn nhất, những nỗi lo lắng
khôn nguôi về tương lai vào tận sâu trong lòng để cười mà động viên các con: "Cám đấy mày ạ",
"Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy", gieo vào lòng các con mình niềm hy vọng sống và
vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Thật xót xa biết bao! Bà cụ Tứ quả thật là một người mẹ nhân hậu,
đảm đang, hết mực yêu thương con, sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp của một người mẹ nông
thôn Việt Nam. Hơn thế nữa, chẳng phải ngẫu nhiên mà Kim Lân lại để người mẹ ở cái tuổi xế
chiều ấy là người lạc quan nhất, luôn đon đả kể chuyện vui và luôn động viên, gieo hy vọng vào
lòng các con mình. Bởi lẽ, một người gần đất xa trời như bà cụ Tứ mà còn khát khao sống mãnh liệt
đến như vậy thì những người trẻ hơn sẽ lấy đó làm động lực mà tiếp tục nuôi hy vọng vào một
tương lai tốt đẹp hơn. Bà cụ Tứ là người thắp lửa, giữ lửa, và truyền ngọn lửa khát khao sống, khát
khao thoát khỏi đói nghèo, khát khao tự do đến với các con cũng như những người khác.

Không chỉ có bà cụ Tứ mà qua hình ảnh bữa cơm ngày đói nhất là ở chi tiết nồi cháo cám ta
còn thấy được sự chuyển biến trong tính cách cũng như thái độ của anh Tràng và người vợ nhặt. Khi
Tràng gợt một miếng cháo cám bỏ vội vào miệng "mắt hắn chum ngay lại, miếng cám đắng chát và
nghẹn bứ trong cổ". Qua đây ta thấy anh Tràng là một người vô cùng khéo léo trong cách ứng xử.
Mặc dù có hổ thẹn vì không lo được cho vợ một bữa cơm đón dâu đầy đủ nhưng anh cũng hiểu được
hoàn cảnh mà không một lời oán than. Còn với người vợ nhặt, ta thấy được sự chuyển biến trong
tính cách của thị vô cùng rõ ràng. Ta không còn thấy một người đàn bà "chỏng lỏn", "đanh đá",
"chua ngoa" và "cong cớn, sưng sỉa" khi nói chuyện với anh Tràng, ta không còn thấy người đàn bà
bỏ hết cả sự duyên dáng và danh dự vì miếng ăn mà "cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc" trong
ngày anh Tràng đưa thị về làm vợ. Mà thay vào đó là một người đàn bà hiểu chuyện: khi nhận bát
cháo cám từ tay mẹ chồng "người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tốt lại.
Thị điềm nhiên và vào miệng". Ta thấy được thị là người dâu hiền, vợ thảo, hiểu chuyện và biết
chấp nhận và cảm thông với gia đình chồng mà không một lời kêu ca, muốn cùng gia đình chồng
vượt qua khó khăn. Đồng thời, ta cũng thấy được nổi khao khát một mái ấm gia đình hạnh phúc của
người đàn bà ấy cho dù có khó khăn nhưng thị vẫn đồng cảm và sẵn sàng đồng cam cộng khổ cùng
nhà chồng. Thật đáng quý!

Không chỉ dừng lại ở đó, chi tiết bữa cơm ngày đói còn phản ánh được cái hiện thực tàn khốc
lúc đó và lên án tội ác tàn bạo của bọn phát xít và tay sai. Chúng bắt người dân ta phải nhổ lúa trồng
đay, triệt đường sống của người nông dân lương thiện. Chúng khiến người dân ta sống cũng như
chết, sống lay lắt, vất vưởng như những thây ma ngoài đường, nhiều khi sống cũng không bằng chết.
Nhân dân ta phải ăn cháo cám, thứ thức ăn của gia súc, thậm chí có nhà còn không có cám mà ăn.
Trong hoàn cảnh ấy, cháo cám lại như một thứ đồ xa xỉ. Quả thật là một hiện thực tàn khốc.

Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn: bữa cơm đón dâu thảm hại chỉ
với niêu cháo lõng bõng cùng nồi cháo cám chát xít. Kết hợp với nghệ thuật xây dựng tính cách
nhân vật chân thật, sinh động với cách miêu tả tâm lí sắc sảo, tinh tế cũng như nghệ thuật trần thuật
mộc mạc, chắt lọc, có sức gợi cảm cao Kim Lân đã xây dựng lên được bữa cơm ngày đói của gia
đình Tràng trong ngày đầu đón con dâu thật chân thật và nhiều ý nghĩa.

III. Kết bài

Hình ảnh bữa cơm ngày đói mà đặc biệt là nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng sâu sắc
trong lòng người đọc. Ta thấy được một hiện thực nạn đói vô cùng tàn khốc nhưng qua đó lại ngời
lên những phẩm chất, giá trị tốt đẹp của con người. Trong cái khó khăn, bần cùng cơ cực ấy ta vẫn
thấy ánh lên tình người, tình yêu thương và lòng ham sống vô bờ bến. Tưởng chừng như đang trong
bờ vực của cái chết lắt lay, người ta chỉ nghĩ đến những thống khổ nhưng không, ở đây người đọc
vẫn bắt gặp tình thương của một người mẹ dành cho con, tình cảm của người vợ dành cho chồng và
trách nhiệm của một người chồng dành cho gia đình của mình. Tất cả đều luôn lạc quan tin tưởng
vào cách mạng thành công và tương lai tươi sáng.

BÀI 3 : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

- Nguyễn Tuân -

ĐỀ 1:
Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng
vách thành, mặt sông chỗ ấy lúc chỉ đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà
như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con
hỗ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng
thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa nào trên cái
tầng nhà thứ mấy nào vửa  tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ người lái đò Sông Đà
nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
 Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống
như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa
sống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không
thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng
sông, y như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực.
Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phòng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên
như rót dầu sôi vào. Những bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tụt
xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến
đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Tôi
sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã
dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống
đáy hút Sông Đà-từ đây cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhautới một cột
nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái
máy lia ngược contre-plonggée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông
xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người
quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoát tít đáy, truyền cảm lại
cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá
rừng bị vứt vào một cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.
... Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại rẻo to mãi
lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa
rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da
cháy bùng bùng.
(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân)
Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét ...

I. Mở bài
Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ chân chính suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có một vị trí quan trọng
và đóng góp không nhỏ cho văn học Việt Nam hiện đại: thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới
trình độ nghệ thuật cao; làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc; đem đến cho nền văn xuôi
hiện đại Việt Nam một phong cách tài hoa, độc đáo. Tuỳ bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu
biểu của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám 1945. Bài tùy bút đã miêu tả hình ảnh của sông
Đà, một con sông hung bạo, hiểm ác song cũng rất thơ mộng, trữ tình. Đoạn trích “...” tập trung
diễn tả sự hùng vĩ, hung bạo của sông Đà.
II. Thân bài:
Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập Sông Đà (1960) – là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ
mà Nguyễn Tuân thu hoạch được trong chuyến đi tới miền Tây Bắc. Chuyến đi này không chỉ nhằm
thỏa mãn niềm khao khát xê dịch mà chủ yếu nhà muốn tìm kiếm chất vàng mười của thiên nhiên
cùng thứ vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn những người lao động và chiến đấu trên miền núi
sông hùng vĩ và thơ mộng đó. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, Sông Đà không
còn là một con sông vô tri, vô giác, mà là một “nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động thật
phong phú và phức tạp.Tác giả đã nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo và
trữ tình. Hai đặc điểm hung bạo và trữ tình này được nhà văn triển khai trong suốt cả bài tùy bút.
Đoạn trích miêu tả sự hung bạo, dữ dằn của sông Đà thể hiện qua cảnh đá bờ sông, quãng mặt
ghềnh Hát Loóng, và những cái hút nước trên sông.
2. Cảm nhận đoạn trích
Câu văn đầu được viết theo thể câu khẳng định: “Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác
đá”. Nghĩa là, thác đá là những hình ảnh chủ đạo của sự hung hiểm. Nhưng sự hiểm trở ấy không
chỉ có thác đá mà còn nhiều thứ khác nữa. Câu văn sau mở ra thêm một thế giới hung bạo nữa của
sông Đà. Đó là “cảnh đá bờ sông, dựng vách thành”. Chữ “vách thành” gợi liên tưởng đến những
thành quách kiên cố, vững chãi. Chữ “thành” cũng gợi liên tưởng đến cách nói của người xưa “thành
cao, hào sâu”. Ở đây tác giả đã dùng thành để miêu tả độ cao, độ sâu của cảnh đá bờ sông. Hai bên
đá dựng thẳng đứng lởm chởm. Cao đến nỗi “lúc đứng ngọ mới thấy mặt trời”. Ánh sáng bị triệt
tiêu, dòng sông chảy trong bóng tối. Có chỗ khác tác giả miêu tả: “có vách đá thành chẹt lòng sông
Đà”. Động từ “chẹt” gợi ra hình ảnh dòng sông có chỗ bị đá bóp nghẹt lại, chật chội. Dòng chảy bị
nghẽn bởi độ hẹp dữ dội tạo nên sự bức bối ngột ngạt. Phép so sánh “như một cái yết hầu” gợi hình
dung dòng chảy khi đi qua quãng này giống như chảy vào một nút thắt mà hai bên đều là đá hiểm
trở, đầy rẫy những nguy hiểm chực chờ. Đây là nơi thuyền bè khó đi qua. Có khi lại bị mắc kẹt vào
giữa cái yết hầu ấy. Độ hẹp ấy của đôi bờ sông Đà còn được tác giả gợi tả qua hai hình ảnh: “đứng
bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ có lần đã nhảy vọt từ bờ
này sang bờ kia”. Mặt khác hai hình ảnh ấy còn là cách nói thể hiện ý nghĩa: bên trên hai bờ sông thì
có vẻ như rất yên bình. Có thể “nhẹ tay ném hòn đá”, có thể “nhảy vọt” nhẹ nhàng qua bên kia bờ.
Nhưng ở dưới lòng sông lại chứa đựng bao nhiêu là nguy hiểm.

Không chỉ tả bằng thị giác, Nguyễn Tuân còn tả cảm giác. Đầu tiên là cảm giác “ngồi trong
khoang đò qua quãng ấy đang mùa hè mà cũng cảm thấy lạnh”. “Lạnh” ở đây vừa là cái lạnh do
không khí mát mẻ dưới lòng sông mang lại, vừa là cảm giác lạnh gáy, sởn gai ốc vì đi đò qua đây
chẳng khác gì đang đi vào miệng tử thần, đang tự dâng mình cho thủy quái. Cảm giác thứ hai mà
sông Đà mang lại đó là: “cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung
cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Đó là cảm giác về độ cao khủng
khiếp của hai bờ đá. Đá cao ngất như “trên cái tầng thứ mấy”. Đã vậy động từ “tắt phụt” còn gợi ra
cảm giác ánh sáng vụt tắt, bóng tối vây bủa, con người bỗng thấy mình đơn độc, sợ hãi.

Ở mặt ghềnh Hát Loóng, sự hung bạo của sông Đà được đẩy cao hơn: Lại như quãng mặt
ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn
ghè suốt năm… Câu văn miêu tả có nhịp ngắn, nhanh, dồn dập kết hợp với các thanh sắc, những từ
ngữ điệp nối tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh
thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió, và đá sông Đà, trong đó cuồn cuộn những con sóng dữ
vút lên, chồm lên nhau, trùng điệp ghê rợn trên mặt ghềnh.C âu văn như bị chặt đứt thành nhiều
khúc ngắn, gọn, điệp từ, điệp cấu trúc và thủ pháp nghệ thuật tăng tiến “nước xô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió” vừa như mô phỏng hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều
ngang, vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống, vừa gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn
như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người. Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc
thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái
đò sông Đà nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn lì lợm và cuồng bạo của dòng
sông.
Những cái hút nước khủng khiếp ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La càng ghê rợn
hơn nữa. Từ trên nhìn xuống mặt sông: những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống
sông để chuẩn bị làm móng cầu. Từ dưới lòng sông nhìn ngược lên: thành giếng xây toàn bằng nước
sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào. Âm thanh thì
thật ghê rợn: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi
vào”. Tất cả làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ đến
ghê người hết sức nguy hiểm. Hình ảnh liên tưởng đến quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực đã
giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần hút nước đáng
sợ. Nhà văn còn phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra những bè gỗ to lớn nghênh
ngang bị “lôi tuột xuống” đáy hút nước, hay chiếc thuyền bị hút trồng cây chuối ngược rồi vụt biến
đi... tan xác ở khuỷnh sông dưới.
Không dừng lại trong những hình dung tưởng tượng về cái bè gỗ hay một con thuyền bất hạnh
nào đó phải làm mồi cho hút nước, Nguyễn Tuân còn nảy ra ý tưởng điện ảnh táo bạo, tạo ra một giả
tưởng li kì dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước xoáy tít, sâu
hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước vì thế đã được miêu tả bằng thủ pháp điện
ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của một thành giếng xây
toàn bằng nước cho đến màu sắc của dòng sông “nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ
hãi rất chân thực của con người khi phải đứng trong lòng một khối pha lê xanh như sắp vỡ tan, bất
cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người.Lối so sánh, liên tưởng độc đáo khiến con sông Đà không
khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con
người.
Qua đoạn văn, ta cảm nhận được một con sông Đà hung bạo ghê gớm. Đó là biểu tượng cho vẻ
đẹp hùng vĩ dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Hình tượng con sông Đà trong đoạn văn cũng cho ta
cảm nhận về ngòi bút tài hoa độc đáo và uyên bác của Nguyễn Tuân, khiến cho bài tùy bút trở nên
xuất sắc và gây ấn tượng mạnh mẽ.
Nguyễn Tuân đã xây dựng được hình tượng nghệ thuật độc đáo: hình tượng sông Đà. Biện
pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, liên tưởng – tưởng tượng…được sử dụng thành công. Ngôn ngữ, hình
ảnh mới lạ, cách hành văn uyển chuyển tài hoa, uyên bác. Tả sự hung bạo của sông Đà, tác giả
không chỉ dừng lại ở hình ảnh một dòng sông ở miền đất Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ mà nhằm làm
nổi bất sông Đà như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, đất
nước.
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
Qua đoạn trích, nhà văn đã thể hiện... (yêu cầu 2)
III. Kết bài:
Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn Tuân đã tái
hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật trữ tình, làm ta thêm tự hào về núi sông
Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là một quà tặng vô giá của thiên nhiên là một công trình
nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân.

PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN
1. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân
Nhà văn nhìn Sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà là con sông có linh hồn, có cá
tính như con người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ; khám phá vẻ đẹp của dòng sông ở góc độ địa lí
nhưng đậm chất văn chương, kết hợp với nhiều ngành nghệ thuật khác như âm nhạc, hội hoạ, điện
ảnh, đầy ấn tượng.
Qua hình tượng Sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên đất
nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu
tả Sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm. Hình tượng Sông Đà là
phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới.
2. Cái Tôi của nhà văn Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạn trích:
“Cái tôi” tài hoa thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ đẹp hùng vĩ của
thiên nhiên đất nước; Tất cả đã cho ta thấy ở Nguyễn Tuân một “cái tôi” tài hoa, tinh tế.
“Cái tôi” uyên bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở sự vận dụng
kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú; ở sự giàu có về chữ
nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành quân sự, điện ảnh, thể thao,… được huy động một
cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và ấn tượng những cảm giác về đối tượng.
“Cái tôi” tài hoa và uyên bác chính là một cách thể hiện tình yêu quê hương đất nước, lòng yêu
cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính.

ĐỀ 2:
... Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi
lên. Tiếng thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn
mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu
rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng
bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân giời đá. Đá ở
đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện
ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn
bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm
méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung tít lên như tuyếc-bin thủy điện nơi đáy hầm
đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng
nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như sông Đà đã giao việc cho
mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng
chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để
tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông
như là sơ hở, nhưng chính là hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận
tuyến giữa rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền
du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá
nổi ở tuyến ba là phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt thuyền trưởng cùng
tất cả thủy thủ ngay ở chân thác. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với
đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy
trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một
hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. ..
(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân)
Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét...

I. Mở bài:
Nguyễn Tuân là nhà văn tài hoa và uyên bác. Ông có sở trường về tùy bút. “Người lái đò sông
Đà” là kết quả của chuyến đi thực tế đầy hào hứng và gian khổ khi lên mảnh đất Tây Bắc rộng lớn
và xa xôi. Bài tùy bút đã miêu tả hình ảnh của sông Đà, một con sông hung bạo, hiểm ác song cũng
rất thơ mộng, trữ tình. Đoạn trích “...” tập trung diễn tả sự hùng vĩ, hung bạo của sông Đà.
II. Thân bài:
1. Khái quát:
Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập Sông Đà (1960) – là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ
mà Nguyễn Tuân thu hoạch được trong chuyến đi tới miền Tây Bắc. Chuyến đi này không chỉ nhằm
thỏa mãn niềm khao khát xê dịch mà chủ yếu nhà muốn tìm kiếm chất vàng mười của thiên nhiên
cùng thứ vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn những người lao động và chiến đấu trên miền núi
sông hùng vĩ và thơ mộng đó. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, Sông Đà không
còn là một con sông vô tri, vô giác, mà là một “nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động thật
phong phú và phức tạp.Tác giả đã nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo và
trữ tình. Hai đặc điểm hung bạo và trữ tình này được nhà văn triển khai trong suốt cả bài tùy bút.
Đoạn trích miêu tả sự hung bạo, dữ dằn của sông Đà thể hiện qua cảnh đá bờ sông, quãng mặt
ghềnh Hát Loóng, và những cái hút nước trên sông.
2. Cảm nhận đoạn trích
Sông Đà hung bạo trước hết ở âm thanh tiếng nước . Khi còn xa mới tới thác, Nguyễn Tuân
đã miêu tả tiếng nước thác Sông Đà với muôn vàn  giọng điệu: ban đầu“nghe như là oán trách gì,
rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo…”. Thế rồi bất ngờ âm
thanh như được phóng to hết cỡ: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa
rừng vầu, rừng tre nứa như đổ lửa,…đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu
da cháy bùng bùng”.  Nghệ thuật nhân hóa đã khiến thác nước sông Đà thực sự trở thành một sinh
thể sống đang giận dữ, gầm gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện. Hệ thống những
từ ngữ miêu tả âm thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc và âm lượng để miêu
tả sống động sự đe dọa hung bạo của dòng sông. Đặc sắc nhất là những phép so sánh kì thú trong
một câu văn dài đầy ắp những hình ảnh dữ dội: nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang
lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với
đàn trâu da cháy bùng bùng. Nhà văn đã hết sức tài hoa, độc đáo khi lấy lửa tả nước, lấy rừng tả
sông. Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang văn tuyệt bút về cái đẹp phi thường, mãnh liệt của Đà
Giang. Nước thác Sông Đà vừa như một sinh thể có linh hồn sống động, tâm trạng phong phú, tính
cách dữ dội vừa như một bản hùng ca tráng liệt của đại ngàn. Khi lại gần, thác đã hiện ra trong câu
văn ngắn “Tới cái thác rồi” – giống như tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú. Sau đó Nguyễn Tuân đã
đồng thời tả cả đá và nước thác trong hình ảnh “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”.  Câu
văn đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá sông Đà ngay trong ấn tượng đầu tiên khi
gặp mặt. Đá sông Đà cùng với nước, với sóng, gió kết hợp với nhau cùng tấn công uy hiếp con
người.
Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của sông Đà còn thể hiện qua thạch trận trên sông. Sông Đà “bày
thạch trận trên sông”. Sông Đà còn lắm mưu nhiều kế bày bao nhiêu mẹo lược và sự nham hiểm để
sẵn sàng bóp chết con người. Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong
những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào
từng thớ đá bằng sự phối hợp giữa các tri thức của các ngành nghề khác nhau như: võ thuật, quân
sự, hội họa, điêu khắc …, kết hợp với thủ pháp nhân hóa, liên tưởng, so sánh, ví von những câu văn
dài ngắn, đan xen đầy tính tạo hình, góc cạnh, gân guốc. Những kiến thức liên ngành đa dạng ấy tạo
bề dày uyên bác trong vốn tri thức của nhà văn, nâng cho đôi cánh tài hoa bay bổng. Đá sông Đà đã
bày thạch trận trên sông như một trận đồ bát quái dìm bắt bất cứ con thuyền nào qua đó: những tảng
đá ngầm dưới lòng sông luôn chờ chực tiêu diệt người lái đò “Cả một chân trời đá, đá ở đây từ ngàn
năm vẫn mai phục hết trong lòng sông…mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt sông là
một số hòn bèn nhổm cả dậy, vồ lấy thuyền”. Sử dụng thuật ngữ của quân sự, trên cơ sở những quan
sát thực tế, Nguyển Tuân đã gợi dậy cái bí ẩn, hiểm ác của đá sông Đà trong sự vĩnh hằng của thiên
nhiên khi “ngàn năm vẫn mai phục”, khi dữ dằn, đột ngột hiện ra sau cái dập dềnh của sóng để
“nhổm cả dậy, vồ lấy thuyền”. Thạch trận không chỉ hung hãn mà còn bộc lộ bản chất nham hiểm,
xảo quyệt: “mặt hòn đá nào cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó”. Những hòn đá vô tri nhưng qua
cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại, hung dữ với trùng vi
thạch trận nhằm tước đoạt và hủy diệt đến cùng sự sống của con người: chúng giở mọi thủ đoạn,
mưu ma chước quỷ để dẫn dụ, phục kích…như “thứ binh pháp sâu hiểm của thần sông thần đá”.
 Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con người”. Nhưng cũng
chính từ hình ảnh con sông, nghệ thuật tài hoa và cực kì uyên bác của ngòi bút số một về thể loại tùy
bút – Nguyễn Tuân được thể hiện rõ hơn hết. Đoạn trích là khúc ca ca ngợi vẻ đẹp hung bạo, hùng
vĩ của sông Đà. Đó chính là sức mạnh của thiên nhiên mà con người cần chinh phục. Đó cũng chính
là niềm tự hào của tác giả về Tổ quốc hùng vĩ, giàu đẹp.
Nguyễn Tuân đã dùng hết bút lực để dường như thi tài với tạo hoá. Ông dùng những câu góc
cạnh, giàu tính tạo hình, những câu nhiều động từ mạnh nối tiếp nhau, dồn dập. Nhà văn sử dụng lối
nói ví von, ẩn dụ, tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ, chính xác, thú vị. Nhà văn đã vận dụng hiểu
biết của nhiều ngành khác nhau: địalý,lịch sử, hội họa, văn chương và những tri thức về tự nhiên để
khắc họa vẻ đẹp của sông Đà.
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
Qua đoạn trích, nhà văn đã thể hiện... (yêu cầu 2)
III. Kết bài:
Với nghệ thuật nhân hóa và liên tưởng phong phú, cùng với ngòi bút miêu tả độc đáo, con sông
Đà từ một đối tượng vô tri vô giác, khi bước vào trang văn Nguyễn Tuân đã trở thành một sinh thể
có tính cách và tâm lí rất ghê gớm, đáng sợ. Qua đó ta có thể hình dung những vất vả gian lao mà
những người lái đò phải vượt qua, từ đó ta càng khâm phục hơn ý chí kiên cường và tài trí của họ
trong việc chinh phục con sông, bắt nó phải quy phục và cống hiến cho cuộc sống của con người.

PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN

1. Nhận xét phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân
Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: Ông không chấp nhận
sự sáo mòn. Ông luôn tìm kiếm những cách thức thể hiện, những đối tượng mới mẻ. Nhà văn luôn
tiếp cận sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, có ấn tượng với những sự vật gây cảm giác mạnh
(Sông Đà là một sinh thể như vậy). Tác giả bộc lộ sự tinh vi trong mĩ cảm với trường liên tưởng
phong phú, ngôn ngữ vừa phong phú vừa tinh tế.Một cái tôi uyên bác khi huy động mọi kiến thức
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để khắc họa hình tượng sông Đà.
Qua phong cách tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân là là nhà văn có ý thức tự khẳng định cá
tính độc đáo của mình. Chứng tỏ ông là người có một lòng yêu quê hương đất nước tha thiết, một
cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm huyết với nghề. Người đọc yêu hơn, trân
trọng hơn phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý này.
2. Nhận xét nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
Qua đoạn văn, ta thấy được nét độc đáo trong nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Tuân.
Hình ảnh sông Đà hung dữ ở một mức độ ghê gớm, hơn tất cả mọi con sông đã được tái hiện
trong văn học, là bởi vì cảm quan sáng tác của Nguyễn Tuân chỉ hứng thú với những vẻ đẹp vượt
lên mức bình thường, gây ấn tượng mãnh liệt.
Ngòi bút miêu tả của Nguyễn Tuân khi miêu tả sông Đà càng trở nên độc đáo bởi cách dùng từ
chính xác, với câu văn có kết cấu trùng điệp, đặc biệt với nghệ thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng
bất ngờ và ấn tượng.
Kết hợp với đó là vốn kiến thức phong phú ở nhiều lĩnh vực khác nhau, chính sự uyên bác của
Nguyễn Tuân khiến cho văn phong của ông càng trở nên độc đáo.
Chính nét độc đáo kết hợp với sự tài hoa và uyên bác trong ngòi bút Nguyễn Tuân khiến cho
hình tượng sông Đà trở nên đặc sắc và đáng nhớ.

ĐỀ 3:
[…] Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ
nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông
Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là
cái con sông hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng
giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà. Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng
dao thần thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh “Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh
ghen”. Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà
nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương
đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù
khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã
xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích,
chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông
Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người
bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà đen như thực dân Pháp
đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết
vào bản đồ lai chữ.
   Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã
thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một
cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy.
Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương
Châu”. Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con
sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài
ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố
nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng
thác lũ ngay đấy.
  Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời
Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá
ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một
đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ
sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng
còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu.
(Trích Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, SGK Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt
Nam, 2019, trang 190,191).
Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét ...

I.MỞ BÀI

          Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho rằng: “Nguyễn
Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ”. Vâng! là người nghệ sĩ chân chính nên Nguyễn Tuân
luôn tìm mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái mới lạ, độc đáo “xưa nay chưa từng có” trong hành
trình sáng tạo. Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà là kết quả của hành trình bền bỉ và sáng tạo về vẻ đẹp
kì diệu của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Bằng sự tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ
một dấu ấn không thể mờ phai về con sông miền Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình . Đoạn trích
“...” tập trung miêu tả vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà.

II.THÂN BÀI 

1.Khái quát:

Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập Sông Đà (1960) – là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ
mà Nguyễn Tuân thu hoạch được trong chuyến đi tới miền Tây Bắc. Chuyến đi này không chỉ nhằm
thỏa mãn niềm khao khát xê dịch mà chủ yếu nhà muốn tìm kiếm chất vàng mười của thiên nhiên
cùng thứ vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn những người lao động và chiến đấu trên miền núi
sông hùng vĩ và thơ mộng đó. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, Sông Đà không
còn là một con sông vô tri, vô giác, mà là một “nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động thật
phong phú và phức tạp.Tác giả đã nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo và
trữ tình. Hai đặc điểm hung bạo và trữ tình này được nhà văn triển khai trong suốt cả bài tùy bút.
Đoạn trích miêu tả vẻ đẹp trữ tình của sông Đà từ nhiều góc độ.

2. Cảm nhận đoạn trích

Trước tiên, từ trên tàu bay nhìn xuống sông Đà như “cái dây thừng ngoằn ngoèo” uốn quanh
núi rừng Tây Bắc. Ở những quãng yên, dòng sông lại giống như một người thiếu nữ kiều diễm
“tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ấn hiện trong mây trời Tây Bắc bung
nở hoa ban hoa gạo”. Điệp ngữ “tuôn dài tuôn dài” như mở ra trước mắt người đọc sự vô tận của
dòng sông. Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo nên vẻ đẹp kiêu sa của Đà giang. Nó như
một kiệt tác của đất trời dành riêng cho vùng đất thiêng liêng này. Hai chữ “ẩn hiện” càng làm tăng
lên sự bí hiểm của dòng sông. Ta như đi lạc giữa chốn bồng lai vừa thực, vừa mộng. Mái tóc trữ tình
ấy, còn được cài thêm hoa ban, hoa gạo đẹp mơ màng trong khói nương mùa xuân. Bằng con mắt rất
tinh tế, Nguyễn Tuân đã phát hiện được những góc nhìn mà ở đó, dòng sông đã phô ra được tất cả
vẻ đẹp trẻ trung, mềm mại, thướt tha của mình.
Đoạn văn còn thể hiện tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân : giữa hai chữ
“tuôn dài tuôn dài” thường sẽ có dấu phẩy, nhưng tác giả cố tình phá vỡ cấu trúc ngữ pháp để bản
thân câu chữ cũng có khả năng tạo hình và tô đậm ấn tượng về cái mênh mang, dàn trải, cái mềm
mại, duyên dáng của dòng sông. Ngoài ra trong câu văn này còn có thể nhận thấy tác giả sử dụng rất
nhiều vần bằng tạo nên ấn tượng về một dòng chảy nhẹ nhàng,êm đềm của dòng sông Đà ở hạ
nguồn.Câu văn này của Nguyễn Tuân xứng đáng được xếp vào những câu văn đẹp được coi là “tờ
hoa” trong văn học Việt Nam.
Quan hệ giữa Nguyễn Tuân với dòng sông Đà không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa nhà văn và
đối tượng miêu tả mà còn là quan hệ giữa những người bạn tri âm tri kỉ . Bởi vậy, tác giả không chỉ
dừng lại trên bề mặt để ghi lại chất thơ của dòng sông mà còn đi sâu vào tâm hồn để nhận thấy chất
trữ tình trong tính cách, trong quan hệ của dòng sông với con người. Tác giả dùng 1 từ ngữ rất
thiêng liêng và ý nghĩa để gọi sông Đà, đó chính là “cố nhân”. Từ góc nhìn từ bờ bãi sông Đà,
dòng sông mang vẻ đẹp của một “cố nhân”.
Khác hẳn với con thủy quái hung dữ luôn tìm cách đe dọa, tiêu diệt con người ở thượng nguồn,
về đến hạ nguồn sông Đà bỗng trở nên dịu dàng và đằm thắm, trở thành đối tượng chia sẻ mọi buồn
vui với con người. Bởi vậy khi phải xa cách dòng sông, Nguyễn Tuân nhớ dòng sông như nhớ 1
người bạn thân thiết .Vì tác giả dành cho dòng sông nỗi nhớ da diết, mãnh liệt nên khi được gặp lại
con sông yêu thương, niềm vui đã vỡ òa và tràn ra trên bề mặt câu chữ của Nguyễn Tuân .
Trước hết, đó là câu văn: Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà.
Ở đây, Nguyễn Tuân sử dụng những câu văn ngắn, giữa các vế có sự trùng điệp về cấu trúc tạo nên
nhịp điệu nhanh, dồn dập, vừa gợi ra niềm vui háo hức say mê, vừa gợi ra những bước chân nhanh
vội của tác giả để đến với dòng sông của mình. Cụm từ “sông Đà” được điệp lại liên tiếp 3 lần ở 3
vế của câu văn gợi ra được trái tim nồng nhiệt, ấm nóng đang cố gắng mở rộng tất cả biên độ của
mình để ghi lại những biểu hiện dù là nhỏ bé, giản dị nhất của sông Đà như: bờ, bãi, chuồn chuồn,
bươm bướm. Các vế câu lại được khéo léo sắp xếp để vế sau dài hơn vế trước cho thấy sự tăng cấp,
sự hối hả dồn dập trong niềm vui vỡ òa của tác giả, khiến cho câu văn không còn là câu mô tả bình
thường mà đã trở thành những tiếng reo vui.
Niềm vui của tác giả còn được diễn tả bằng những hình ảnh so sánh độc đáo liên tiếp đặt cạnh
nhau:“Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nổi lại chiêm
bao đứt quãng”. Có thể nói đây là 2 hình ảnh so sánh rất lạ.Cách so sánh giúp tác giả diễn tả chính
xác niềm vui căng tràn, mãnh liệt của mình. Vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm gợi ra niềm
vui vì sự mong đợi đã được thỏa mãn vì sự thay đổi theo chiều hướng lạc quan, tươi sáng. Vui như
nối lại chiêm bao đứt quãng lại gợi ra được niềm vui hiếm hoi nhưng vô cùng mãnh liệt, vì thông
thường những giấc mơ khi đã đứt thì rất khó nối lại được. Việc nối lại những giấc chiêm bao đứt
quãng vừa là những trường hợp rất hi hữu, vừa vô cùng quý giá. Nhà văn đã cảm nhận được cái
chất “đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm
chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bắn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy. Sông Đà đã thực sự
trở thành người bạn cũ, người tri âm với bao kỉ niệm gắn bó trong quá khứ, bao nhớ thương trong
hiện tại, bao hẹn hò thủy chung trong tương lai.
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Nhà
văn không đưa ra nhận xét một cách hồ đồ, mà ông “đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên
sông Đà; đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống” sau đó mới khẳng định: sắc nước sông Đà
thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà “xanh ngọc bích” chứ không“xanh màu xanh canh hến
như màu của sông Gâm, sông Lô. “Xanh ngọc bích ” là xanh trong, xanh sáng - một sắc màu gợi
cảm giác trong lành, đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời cùng nhau hòa quyện. Mùa thu,
nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Câu văn so sánh khiến
người đọc phải ngỡ ngàng trước sự đa dạng của sắc nước sông Đà. Nó không thay đổi dồn dập như
màu nước sông Hương “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím ” hay đỏ nặng một màu phù sa như nước
sông Hồng. Chưa bao giờ, sông Đà có màu đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực
Tây vào rồi gọi bằng một cái tên láo lếu”.
Từ góc nhìn từ giữa lòng sông Đà, dòng sông mang vẻ đẹp của một người tình nhân. Vẻ
đẹp của sự vắng vẻ, tĩnh lặng, êm ả, thanh bình được miêu tả qua “cảnh ven sông ở đây lặng tờ.
Hình như đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi” . Vẻ đẹp tươi mới,
đầy sức sống của thiên nhiên ven sông Đà được nhà văn tô đậm bởi những hình ảnh: nương ngô nhú
lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh núi đồi đang ra những nõn
búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm” và nhất là được gợi tả qua âm
thanh khẽ khàng, dịu nhẹ của tiếng cá dầm xanh quẫy nước”. Bờ sông tiếp tục được miêu tả trong
những hình ảnh so sánh độc đáo: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một
nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Người đọc như lạc vào miền ảo mộng, phiêu diêu trong cõi hồng hoang xa
xôi, trong thế giới cổ tích huyền hoặc.

Như vậy, để làm rõ vẻ vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà, Nguyễn Tuân đã miêu tả từ nhiều
thời điểm: mùa xuân, mùa thu, từ nhiều góc độ: khi thì ngồi trên trực thăng để bao quát toàn cảnh ,
khi thì xuôi thuyền dọc theo sông Đà thậm chí có khi còn dừng hẳn lại để chiêm ngưỡng và miêu tả
một cách cặn kẽ, kĩ càng. Việc làm đó của Nguyễn Tuân vừa cho thấy con sông Đà mang trong
mình một vẻ đẹp đa chiều, phải soi ngắm từ nhiều phương diện, góc độ mới có thể thấy hết cái thơ
mộng trữ tình của nó, vừa cho thấy tinh thần lao động nghiêm túc ở Nguyễn Tuân.
Đoạn văn đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân hóa, miêu tả, liên tưởng bất ngờ
thú vị. Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao. Sử dụng kiến thức hội
hoạ, thơ ca để miêu tả... Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành một sinh thể có
tâm hồn, tâm trạng. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông
Đà thơ mộng và trữ tình.

3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
Qua đoạn trích, nhà văn đã thể hiện... (yêu cầu 2)
III. Kết bài:

Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn Tuân đã tái
hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật trữ tình, làm ta thêm tự hào về núi sông
Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là một quà tặng vô giá của thiên nhiên là một công trình
nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân.

PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN

1. Bình luận ngắn gọn nét độc đáo trong cách miêu tả sông Đà nói riêng, thiên nhiên Tây
Bắc nói chung của nhà văn Nguyễn Tuân.

Nhà văn nhìn Sông Đà không chỉ là một dòng sông tự nhiên, vô tri vô giác mà còn là một sinh
thể có sự sống, có tâm hồn, tình cảm. Với Nguyễn Tuân, sông Đà nói riêng, thiên nhiên Tây Bắc nói
chung cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Vẻ đẹp của Sông Đà hòa quyện vào vẻ
đẹp của núi rừng Tây Bắc nên càng trở nên đặc biệt. …
Cách miêu tả độc đáo này cho thấy Nguyễn Tuân có sự gắn bó sâu nặng, tình yêu mến tha
thiết đối với thiên nhiên Tây Bắc, với quê hương đất nước, đồng thời cho thấy được ngòi bút tài hoa,
uyên bác, lịch lãm của ông.

2. Nhận xét phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân là người tài hoa, luôn nhìn nhận, đánh giá cảnh vật và con người ở phương diện
cái đẹp và góc độ mĩ thuật và tài hoa. Sông Đà hiện lên với vẻ đẹp kì vĩ và là một công trình nghệ
thuật tuyệt vời của tạo hoá, còn người lái đò như một nghệ sĩ trong việc vượt thác ghềnh.

Nhà văn đã vận dụng những tri thức ở nhiều lĩnh vực như lịch sử, địa lí, quân sự… để viết về
con Sông Đà hung dữ mà thơ mộng.

Văn phong Nguyễn Tuân phóng túng, ngôn ngữ điêu luyện và phong phú, hình ảnh giàu liên
tưởng bất ngờ, độc đáo. “Người lái đò Sông Đà” thể hiện sở trường ở thể loại tuỳ bút của ngòi bút
Nguyễn Tuân.

3. Nhận xét phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân

Nét tài hoa, uyên bác:Ngôn ngữ phong phú, giàu chất hội họa: diễn tả được mọi sắc thái, mọi
cung bậc, hình thù, màu sắc của sông Đà. Nguyễn Tuân là “bậc thầy của ngôn từ”” người làm xiếc
trên ngôn từ”…Vận dụng kiến thức nhiều bộ môn.

4. Nhận xét những nét đặc sắc của văn Nguyễn Tuân

Qua việc ngợi ca vẻ đẹp độc đáo của dòng Sông Đà, tác giả đã thể hiện tình yêu thiên
nhiên,yêu đất nước,thiết tha của mình.
Qua đó làm nổi bật lên phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân: sự độc đáo, tài
hoa,uyên bác của một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân luôn nhìn nhận mọi sự vật,sự
việc dưới phương diện thẩm mỹ, luôn đi tìm cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật,tô đậm những cái
phi thường để tạo cảm giác mãnh liệt gây ấn tượng
5. Nhận xét chất thơ thể hiện trong đoạn trích
Cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông: Sông Đà như một người gái đẹp của
núi rừng Tây Bắc với mái tóc dài, thật dài, mượt mà, tha thướt, gài buông lơi những bông hoa ban
trắng ngần hay những bông gạo đỏ rực, thấp thoáng ẩn hiện giữa núi rừng mùa xuân mù sương khói.
Vẻ tinh khôi, non tơ của nương ngô nhú lá non đầu mùa, của những vạt đồi cỏ gianh đang ra
nõn búp; vẻ lặng tờ, tịnh không một bóng người, hoang dại, hồn nhiên của đôi bờ biền bãi.
Ở xúc cảm tinh tế của tác giả trước dòng sông thơ mộng, trữ tình: cảm giác đằm đằm ấm ấm
như gặp lại cố nhân sau chuỗi ngày chia biệt; cảm giác thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi
xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu...
Ở những so sánh, liên tưởng thú vị độc đáo của Nguyễn Tuân: Sông Đà như một người con gái
đẹp, như một cố nhân, nước Sông Đà đổi màu liên tục qua mỗi mùa trong năm.
Chất thơ trong tuỳ bút của Nguyễn Tuân là một phần trong nội dung phong cách tài hoa, uyên
bác của ông. Ông để lại ấn tượng đặc biệt về một con sông đầy cá tính, mang tính cách của con
người với hai nét độc đáo, đối lập mà thống nhất: hung bạo và trữ tình.Qua đó, ta thấy nhà văn có
công đi tìm cái đẹp- chất vàng thiên nhiên Tây Bắc để ca ngợi. Thiên nhiên là sản phẩm nghệ thuật
vô giá, là công trình mĩ thuật của tạo hoá đã ban tặng cho con người.Đó cũng chính là tình yêu Tổ
quốc mà nhà văn cách mạng Nguyễn Tuân đã gửi gắm qua trang tuỳ bút của mình.
6. Cái tôi trữ tình thể hiện trong đoạn trích

Đam mê cái đẹp thiên nhiên; ngợi ca, tự hào trước vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của Tây Bắc; cái
tôi yêu nước, hòa nhập với cuộc sống mới, con người mới. Cái tôi uyên bác, tài hoa với thể tùy bút
phóng túng

7. Nhận xét những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả của nhà văn Nguyễn Tuân

Đoạn trích đã cho thấy công phu lao động nghệ thuật nghiêm túc, khó nhọc của nhà văn.
Nguyễn Tuân đã phải dành nhiều tâm huyết và công sức để làm hiện lên những vẻ đẹp và sắc thái
khác nhau của thiên nhiên Tây Bắc.

Nhà văn đã huy động tối đa các giác quan thị giác, xúc giác, thính giác và vận dụng tri thức
của nhiều lĩnh vực để tái hiện hình ảnh sông Đà gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc

Nhà văn cũng đã thể hiện tài năng điêu luyện của một người nghệ sĩ ngôn từ trong việc tái tạo
những kì công của tạo hóa.

ĐỀ 4:
Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã miêu tả về cuộc chiến giữa người lái
đò và con sông Đà:
Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt
lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa
xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy
cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ
hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo,
vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch
trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn
chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích
của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một
cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh
lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác sông Đà, phải
cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt
lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy cái luồng nước đúng mà
phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân
cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn
này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến.
Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh.
Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu
cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng
vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này
lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó.
Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng,
thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được.
Thế là hết thác….
(Nguyễn Tuân, Người lái đò sông Đà, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam 2013, tr
189)
Phân tích vẻ đẹp của hình tượng người lái đò trong đoạn văn trên. Từ đó, nhận xét “ thứ vàng
mười đã qua thử lửa” của người lao động miền Tây Bắc mà Nguyễn Tuân đang tìm kiếm.

I.MỞ BÀI
Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho rằng: “Nguyễn Tuân
là một định nghĩa về người nghệ sĩ”. Vâng! là người nghệ sĩ chân chính nên Nguyễn Tuân luôn tìm
mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái mới lạ, độc đáo “xưa nay chưa từng có” trong hành trình sáng
tạo. Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà là kết quả của hành trình bền bỉ và sáng tạo về vẻ đẹp kì diệu của
thiên nhiên và con người Tây Bắc. Bằng sự tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ một dấu ấn
không thể mờ phai về con sông miền Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình và nổi lên trên thác dữ là
vẻ đẹp của một chiến binh sông nước với “tay lái ra hoa” đã vượt bao trùng vi thạch trận như một
người nghệ sĩ trên mặt trận vượt thác leo ghềnh. Điều đó được khắc hoạ thật ấn tượng mang cảm
giác thật mãnh liệt qua đoạn văn sau đây: “Sóng thác [… ] thế là hết thác
II. Thân bài:
1. Khái quát
Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập Sông Đà (1960) – là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ
mà Nguyễn Tuân thu hoạch được trong chuyến đi tới miền Tây Bắc. Chuyến đi này không chỉ nhằm
thỏa mãn niềm khao khát xê dịch mà chủ yếu nhà muốn tìm kiếm chất vàng mười của thiên nhiên
cùng thứ vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn những người lao động và chiến đấu trên miền núi
sông hùng vĩ và thơ mộng đó. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, hình tượng
người lái đò sông Đà hiện lên thật đẹp.
2. Cảm nhận đoạn trích
Ông lái đò là một ông già 70 tuổi, thân hình rắn chắc như một bức tượng cẩm thạch:  ngực ông
đầy  những củ nâu –  thương tích trên chiến trường Sông Đà mà Nguyễn Tuân gọi đó là “huân
chương lao động siêu hạng”, tay ông lêu nghêu như cái sào,  chân ông khuỳnh khuỳnh;  nhỡn giới
ông cao vời vợi,  giọng ông ồ ồ như tiếng thác trước ghềnh. Miêu tả người lái đò như vậy – Nguyễn
Tuân đã phần nào khắc họa được vẻ đẹp của con người lao động gắn bó với chiến trường sông nước.
Ông là một người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò. Thành thạo đến mức
sông Đà, đối với ông lái đò ấy, “như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả cái
chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”.
Sự hung bạo của sông Đà chính là tình huống đầy thử thách để người lái đò bộc lộ vẻ đẹp trí
dũng của mình. Để làm nổi bật hình tượng và vẻ đẹp của người lái đò, nhà văn đã tạo dựng một nền
thiên nhiên dữ dội kì vĩ xứng đáng với sự xuất hiện của người anh hùng sông nước. Đó là một
không gian của thác ghềnh hiểm trở, sóng gió cuồn cuộn “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, một
không gian của những hút nước ghê rợn, những thác đá dữ dằn, hiểm ác. Thoạt nhìn, đó là một cuộc
chiến không cân sức bởi một bên là thiên nhiên dữ dội, hiểm ác với trùng trùng lớp lớp dàn trận bủa
vây, có sự hợp tác của nhiều thế lực: sóng, nước, đá, gió…còn bên kia chỉ là con người nhỏ bé, đơn
độc trên một con thuyền và vũ khí chỉ là những cán chèo. Như Nguyễn Tuân đã miêu tả, bầy thủy
quái đã dàn thạch trận để “đòi ăn chết cái thuyền”. Khi con thuyền đến nơi, “mặt nước hò la vang
dậy, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”. Sóng nước như thể quân liều mạng hết “đá trái” rồi lại “thúc gối
vào bụng và hông thuyền”…Sông Đà hung hãn, hiểm ác như “một thứ kẻ thù số một của con người.
Nhà văn đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác sông Đà của ông trải qua ba trùng vi thạch trận.
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất – thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là trận địa với
bốn cửa tử, một cửa sinh. Người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của thiên nhiên
nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh. Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi sắp
tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy
thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò
có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở
bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”.  Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một
cửa bể đom đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”.
Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm ông khách
sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm
vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn
bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh
Ở trùng vi thạch trận thứ hai , sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí
lệch qua bờ hữu ngạn. So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà
ông đò nao núng. Với kinh nghiệm mười năm chiến trường sông nước, người lái đò đã “nắm chắc
binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá”. Ông đò cũng tự triết lý
với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay
nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu
với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được
cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di
chuyển mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa.  Chúng xô ra định níu chiếc thuyền vào
tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh  mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn
lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. hàng loạt động từ được huy động như một đội quân ngôn ngữ
hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông đò: nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt…Chính
nhờ sự mưu trí và tài năng ấy ông đò vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh
mà chỉ vài ngón đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua
cuộc với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua đó để thấy người khách sông Đà quả thật là Trí
Dũng song toàn.
Ở trùng vi thứ ba, sông Đà còn một cơ hội cuối để thử thách người lái đò. Trùng vi này ít cửa
hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có
thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với
thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” – ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu
bơi chèo thành một mũi tên còn ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng
cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong
cùng. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn
được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh
của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được… sự thần tốc trong
cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Quả
là “Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa
công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ” (Phan Huy Đông). Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến
người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề
nghiệp của mình. Đoạn trích vì thế đã xây dựng được một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. 
Nguyễn Tuân xây dựng ông lái đò với vẻ đẹp trí dũng và tài hoa. Trí dũng để có thể chế ngự
được dòng sông hung bạo, tài hoa để xứng với dòng sông trữ tình. Vẻ đẹp của người lái đò là vẻ đẹp
bình dị, thầm lặng nhưng đầy trí tuệ và sức mạnh. Đây chính là chất vàng mười đã qua thử lửa của
con người Tây Bắc nói riêng và người lao động Việt Nam nói chung. Sau khi chiến thắng thiên
nhiên hung bạo, người lái đò lại “đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá
anh vũ, cá dầm xanh…”. Thái độ bình thản ấy càng làm đậm thêm tầm vóc lớn lao của những người
anh hùng trong cuộc sống đời thường bình dị khi họ coi việc chiến đấu và chiến thắng sông Đà hiểm
ác, dữ dội chỉ là chuyện thường ngày.
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
Qua đoạn trích, nhà văn đã thể hiện... (yêu cầu 2)
III. KẾT BÀI
          Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con
người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng ông lái đò
trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong nghề. Cuộc vượt
thác của người khách sông Đà quả thật là phi thường, xứng đáng là một trong những “cảnh tượng
xưa nay chưa từng có”.

PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN

1. Nhận xét “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của người lao động miền Tây Bắc mà
Nguyễn Tuân đang tìm kiếm
Qua cuộc chiến đấu giữa ông đò với sóng nước sông Đà, tác giả ca ngợi vẻ đẹp của người lao
động miền Tây Bắc. Đó là vẻ đẹp của sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua
những thử thách khốc liệt của cuộc sống và vẻ đẹp của sự tài trí, tài hoa, giàu kinh nghiệm. Đây
chính là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của người lao động miền Tây Bắc mà Nguyễn Tuân đang
tìm kiếm.
Qua nhân vật ông đò cho thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân sau
cách mạng: Trước cách mạng, con người Nguyễn Tuân hướng tới ca ngợi là những “con người đặc
tuyển, những tính cách phi thường”. Sau cách mạng, nhân vật tài hoa của Nguyễn Tuân có thể tìm
thấy ngay trong công cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân.
2. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện về người lao động
mới. Ông đò tiêu biểu là người anh hùng, cũng là nghệ sĩ trong môi trường làm việc và trong công
việc của mình khi dám đương đầu với thử thách và đạt tới trình độ điêu luyện trong công việc. Nhà
văn đã phát hiện ra “chất vàng mười đã qua thử lửa” của ông đò bằng phong cách nghệ thuật tài hoa,
uyên bác với thể tuỳ bút vừa giàu tính hiện thực, vừa tràn ngập cái tôi phóng túng đầy cảm hứng,
say mê…
Qua cách nhìn nhân vật ông đò, nhà văn bày tỏ tình cảm yêu mến, trân trọng, tự hào về con
người lao động Việt Nam. Nếu trước đây, ông thường khắc họa người anh hùng trong chiến đấu,
người nghệ sĩ trong nghệ thuật và thuộc về quá khứ “vang bóng một thời”thì đến tác phẩm này, ông
tìm thấy anh hùng và nghệ sĩ ngay trong con người lao động thường ngày, trong công việc bình
thường và trong nghề nghiệp cũng bình thường. Nguyễn Tuân còn khẳng định với chúng ta rằng chủ
nghĩa anh hùng cách mạng đâu phải chỉ dành riêng cho cuộc chiến đấu chống ngoại xâm mà còn thể
hiện sâu sắc trong việc xây dựng đất nước và chinh phục thiên nhiên.
3. Cách nhìn mới về người lao động:

Theo Nguyễn Tuân, người nghệ sỹ không chỉ là người sáng tạo ra cái đẹp mà là người biến
công việc lao động của mình trở thành một nghệ thuật…

Qua hình ảnh người lái đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, cảm phục những con
người lao động bình thường, nhỏ bé nhưng đã góp phần không nhỏ trong công cuộc xây dựng Tổ
quốc. Đó chinh là "Thứ vàng 10 đã qua thử lửa của tâm hồn con người lao động".

4. Nhận xét quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn Nguyễn Tuân: vẻ đẹp của con
người không chỉ ở phương diện trí dũng mà còn ở vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.

Tài hoa nghệ sĩ đâu chỉ có ở lĩnh vực nghệ thuật mà có ngay trong cuộc sống lao động đời
thường khi con người đạt đến trình độ điêu luyện, thuần thục.

Con người, bất kể địa vị hay nghề nghiệp gì, nếu hết lòng và thành thạo, điêu luyện với công
việc của mình thì bao giờ cũng đáng trọng. Đồng thời qua cảnh tượng vượt thác của ông đò, Nguyễn
Tuân muốn nói với chúng ta một điều giản dị nhưng sâu sắc: Chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi
chiến trường mà có ngay trong cuộc sống hàng ngày nơi mà chúng ta phải vật lộn với miếng cơm
manh áo.

BÀI 4: TÂY TIẾN

- Quang Dũng -

ĐỀ 1: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.


“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống ( Trích Tây tiến, Quang Dũng, Ngữ văn 12,
tập 1, NXB GD 2020)
Cảm nhận về thiên nhiên Tây Bắc trong đoạn thơ trên. Từ đó, nhận xét về ...
BÀI LÀM

I. Mở bài :
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài, ông có thể làm thơ, viết văn, vẽ tranh, cả soạn nhạc. với
thơ, ông là nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hầu, thơ ông luôn có hình ảnh. “Cái tôi” hào
hoa, thanh lịch, giàu chất lãng mạn nhưng rất mực hồn nhiên và chân thực. Ra đời từ những năm
đầu kháng chiến chống Pháp, cùng đề tài về người lính với Nhớ của Nguyên Hồng, Đồng Chí của
Chính Hữu, Tây Tiến của Quang Dũng  lại cuốn hút một cách khác thường.Tác phẩm  mang đậm
hào khí lãng mạn của một thời, gắn với một giai đoạn lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc. Với
bút pháp lãng mạn, Quang Dũng  đã khắc hoạ thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái
nền thiên nhiên hùng vĩ , tráng lệ :
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
II. Thân bài:
1. Giới thiệu khái quát :
Tây Tiến là đơn vị được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo
vệ biên giới Việt_Lào và miền Tây Bắc Bộ VN, nhằm đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở
thượng Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là học sinh,sinh viên hà nội, trong đó có Quang Dũng, với
sức trẻ họ đã vượt qua những khó khăn gian khổ một cách lạc quan nhất. sau khi Quang
Dũng  chuyển đơn vị, tại Phù Lưu Chanh, tác giả đã viết nên “nhớ Tây Tiến” sau đổi lại thành “Tây
Tiến”  để phù hợp với ý nghĩa rộng hơn, thâu tóm cả một thời Tây Tiến, gợi kỉ niệm của một đoạn
đời bi tráng của người lính. 14 dòng thơ mở đầu là sự khắc tạc hình ảnh người lính Tây Tiến
gắn liền với chặng đường hành quân gian khổ của họ. Vì thế thiên nhiên được mô tả cũng gắn
liền với những chặng đường hành quân này. Thiên nhiên và con người như đan xen, như hoà
quyện vào nhau.
2. Cảm nhận đoạn thơ:
Cả bài thơ là nỗi nhớ tha thiết của tác giả về đoàn quân Tây Tiến, người đọc cảm nhận được
cảnh thiên nhiên hùng vĩ mĩ lệ của núi rừng Tây Bắc và hình ảnh người lính gan dạ dũng cảm mà
tâm hồn trong sáng hào hoa. Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ của Quang Dũng về thiên nhiên và núi rừng
Tây Bắc hùng vĩ nhưng thơ mộng lãng mạn, cùng con đường hành quân gian khổ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Bắt đầu cho nỗi nhớ là tiếng gọi tha thiết “ Tây Tiến ơi !”, âm hưởng của vần ơi tạo nên cảm
xúc lớn. Nhà thơ nhớ sông Mã hiền hòa cùng núi rừng vì đó là nơi những người chiến sĩ từng gắn
bó, là địa bàn đóng quân, là nơi sống, nơi chiến đấu, nơi có nhiều kỉ niệm một thời Tây Tiến. Nỗi
nhớ lại thêm khắc sâu qua điệp từ “nhớ”, tác giả nhớ về Tây Tiến với nỗi nhớ “chơi vơi” _đó là
những nhớ thương đầy ắp, mênh mông, cảm chứ không nhìn được, nó như muốn tràn ra khỏi không
gian để xoáy vào lòng người. nỗi nhớ ấy trong ca dao ta cũng từng bắt gặp:
“Ra về nhớ bạn chơi vơi”
Nỗi nhớ không định hình trong “nhớ chơi vơi” còn gợi sự chông chênh, mở ra cảm xúc về đèo
cao, vực sâu, dốc thẳng, là cả một chuỗi vô vàn những khó khăn nguy hiểm đang chờ dợi phía trước:
“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Con người luôn trở nên nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ cùng những cái tên rất lạ Sài Khao,
Mường Lát, … qua màn sương muối dày đặc, người lính hiện ra với dáng vẻ mệt mỏi, đó là những
khó khăn mà họ - những học sinh sinh viên Hà Nội phải đối mặt, khắc nghiệt của thiên nhiên và tính
chất công việc đã gần như vắt kiệt sức họ. Nhưng cái “mỏi” của đoàn quân cũng dần dần biến mất
trước cảnh Mường Lát thơ mộng, lãng mạn, ảo diệu với “ hoa về trong đêm hơi”.
Với bút pháp lãng mạn kết hợp yếu tố tả thực, nhà thơ Quang Dũng đã ghi lại chặng đường
hành quân gian khổ của người lính Tây Tiến :
“ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Người đọc hình dung được con đường hành quân gập ghềnh, quanh co như kéo dài vô tận
thông qua các từ láy tượng hình “ khúc khuỷu” “thăm thẳm”. Sự chông chênh nguy hiểm của núi
rừng Tây Bắc gợi con đường ra trận của tráng sĩ năm xưa trong Chinh phụ ngâm :
“ Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nổi thấp đà lại cao”
(Đặng Trần Côn-Đoàn Thị Điểm)
Điệp từ “dốc” kết hợp thanh trắc, đó như hơi thở, như những tiếng bước chân nặng nhọc của
người lính đang ngược dốc. Để tăng tính biểu cảm, nhà thơ còn cường điệu độ cao của con đường
hành quân “heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Trong cái khó khăn nguy hiểm , nhà thơ chiến sĩ có
những liên tưởng táo bạo đầy chất lính, pha chút hóm hỉnh nghịch ngợm, núi cao tưởng chừng như
trên mây, mũi súng như chạm vào trời. Đó là tư thế của người lính đầy khí thế sánh ngang với trời
xanh
“ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luôn mưa xa khơi”
Thiên nhiên không còn là đối tượng để thưởng thức ngắm nhìn nữa mà là đối thủ: “Ngàn thước
lên cao, ngàn thước xuống”. Nhịp thơ 4/3 cùng với hai từ đối lập, trái nghĩa: lên - xuống khiến
người đọc rơi vào cảm giác “như đang chơi trò bập bênh đến chóng mặt” (Trần Đình Sử). Hết lên
lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai
vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, làm câu thơ như bị bẻ đôi, diễn tả con dốc
với chiều cao, sâu rợn ngợp: nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.
Những khó khăn gian khổ là thế nhưng lại nhẹ đi, êm ả hơn với câu toàn gần bằng tiếp sau: “
nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bởi những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu,
tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Nhịp thơ cũng
chậm lại, âm điệu nhẹ nhàng như phút nghỉ chân hiếm hoi của người lính. Trong màn mưa rừng,
tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền
lành và yêu thương. Tất cả nhạt nhòa trong màn mưa rừng dày đặc mang cái lãng mạn của núi rừng
miền Tây vừa có cái dữ dội hiểm nguy nhưng lại có cái trữ tình đáng nhớ. Xuân Diệu trước đây
cũng từng viết hai câu thơ toàn vần bằng mà ông rất tâm đắc:
“ Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
Giữa những câu vần trắc xen lẫn câu vần bằng , âm hưởng đoạn thơ trở nên trùng điệp hơn .
Cùng với cách dùng từ bay bổng của Quang Dũng bài thơ trở nên lãng mạn và hào hùng. Khung
cảnh thiên nhiên hiện lên ở Tây Tiến thật hoang sơ, kì vĩ. Trên cái nền thiên nhiên dữ dội hình ảnh
đoàn quân Tây Tiến thật nhỏ bé nhưng chính sự đối lập tương phản đó càng làm tăng khí phách hào
hùng kẻ thù cũng như những gian khỗ không gì khuất phục nổi . Trên đường hành quân có những
người lính đã nằm lại mãnh đất xa lạ để không bao giờ tỉnh dậy .Nhưng tác giả đã không ngần ngại
khi nói về cái chết:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Người lính hiện ra với từ xưng hô gần gũi, thân mật “ anh bạn”-họ là anh em , bạn bè, đồng
đội. Những khó khăn gian khổ đã thật sự vắt kiệt sức người lính . Cụm từ “không nước nữa; bỏ
quên đời” trong câu thơ có nhiều cách hiểu. Cũng có thể là người lính Tây Tiến, trên chặng đường
hành quân mệt mỏi, họ không đi nữa và dừng chân lại nghỉ và giấc ngủ say đến thật nhẹ nhàng.
Trong giây phút ấy người lính như gác lại, để quên những khó khăn, nhọc nhằn của cuộc chiến đấu.
Nhưng cũng có thể hiểu rằng các anh nằm xuống và vĩnh viễn không bao giờ đứng dậy cùng đồng
đội tiếp tục cuộc chiến đấu trường kì được nữa. Quang Dũng miêu tả sự hi sinh của người lính theo
cảm hứng lãng mạn, dùng cách nói giảm nói tránh đầy tính nghệ thuật: “gục lên súng mũ”, “ bỏ
quên đời”,”không bước nữa”. Cái chết của người lính có gợi thương như là cái chết bi hùng , không
bi lụy . Cách nói tránh về cái chết “không bước nữa” , “bỏ quên đời” gợi tư thế hiên ngang của
người lính Tây Tiến . Họ chủ động chấp nhận cái chết , coi nó chỉ đơn giản như một giấc ngủ mà
thôi . Tư thế hi sinh “ gục lên súng mũ” đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng . Hình ảnh về người
lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “Dáng đứng Việt Nam” : “ Và anh chết trong
khi đang đứng bắn- Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng” . Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng
khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến .
Gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm
của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Hết “chiều chiều” lại đến “đêm đêm”, những hiểm nguy cứ kéo dài, triền miên không dứt, lúc
nào cũng đe dọa những người lính Tây Tiến. Với rừng núi Tây Bắc, cứ mỗi buổi chiều tà lại nghe
tiếng thác gầm thét đổ xuống và cứ mỗi đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm. Âm thanh nào cũng ghê
rợn, dữ dằn. Cảnh hoang vu của núi rừng Tây Bắc đúng là thử thách ghê gớm đối với người lính Tây
Tiến.
Sau chặng đường dài hành quân mỏi mệt, các chiến sĩ có dịp dừng chân lại ở một bản
làng có tên gọi rất đỗi yêu thương – Mai Châu. Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha
thiết.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thêm nếp xôi”
Thán từ “nhớ ôi” gợi nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp. Trên đường
hành quân cheo leo đầy trắc trở đoàn quân dừng lại nghỉ chân nơi bản làng. Một bát cơm nếp xôi
còn nóng đang bốc khói, tỏa hương được trao gửi từ tay em khiến cho các chàng trai như quên đi tất
cả nỗi vất vả về thể xác suốt dọc đường để đón nhận tình quân – dân nồng đượm. Hai câu thơ
không có cảnh thiên nhiên miền Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt đời sống thường ngày. Sau những câu
thơ rất dữ dội và gân guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm, thiết tha
Đoạn thơ có hai hình ảnh đan cài: vùng đất xa xôi, hùng vĩ, dữ dội, khắc nghiệt nhưng vô cùng
thơ mộng, trữ tình; hình ảnh người lính trên chặng đường hành quân: gian khổ, hi sinh mà tâm hồn
vẫn trẻ trung lãng mạn.
Đoạn thơ đã cho thấy nét tài hoa trong phong cách của Quang Dũng, câu thơ đỡ câu thơ, hình ảnh đỡ
hình ảnh để giữa sự trùng điệp của núi rừng sự gian lao của hành trình những người lính Tây Tiến vẫn có
phút giây yên bình, lãng mạn. Sau những nét vẽ gân guốc, dữ dằn là nét vẽ mềm mài, uyển chuyển. Nó
giống như những gam màu lạnh xen giữa gam màu nóng tạo nên một bức tranh hài hòa. Bên cạnh đó còn
có các yếu tố nghệ thuật: Sử dụng nhiều từ láy tạo hình, cách sử dụng thanh trắc, điệp từ, nhân hóa,
đối lập…tất cả đã tạo nên một bài thơ hay và giàu giá trị.

3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
.
III. KẾT BÀI
Đoạn thơ là sự quyện hòa giữa chất nhạc và chất thơ. Quang Dũng đã thể hiện cái tôi thi sĩ đầy
xúc cảm trước thiên nhiên miền Tây vừa hùng vĩ, hoang sơ, hiểm trở vừa thơ mộng, trữ tình. Và nổi
bật trên nền bức tranh ấy là hình ảnh đoàn quân Tây Tiến dù phải trải qua những khó khăn, gian
khổ, những mất mát hi sinh nhưng tinh thần của người lính vẫn luôn kiên định, lạc quan, yêu đời
vượt lên tất cả “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh.

PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN
1. Nhận xét về chất nhạc, họa trong đoạn thơ.
Chất liệu của hội họa là đường nét, màu sắc, hình khối…Chất liệu của âm nhạc là âm thanh,
nhịp điệu, tiết tấu…Nghĩa là nhà thơ dùng màu sắc, đường nét, âm thanh làm phương tiện diễn đạt
tình cảm của mình.Tây Tiến của QD có sự kết hợp hài hòa giữa nhạc và họa:
Đoạn thơ sử dụng nhiều từ ngữ tạo hình, kết hợp với nghệ thuật tương phản và những nét vẽ
gân guốc: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, súng ngửi trời, ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống…
đã vẽ được một bức tranh núi rừng Tây Bắc hiểm trở, dữ dội
Xen vào những nét vẽ gân guốc giàu tính tạo hình là những nét vẽ mềm mại, gam màu lạnh
xoa dịu cả khổ thơ. Câu thơ sử dụng toàn thanh bằng: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Chất nhạc được tạo ra bởi những âm hưởng đặc biệt, những thanh trắc tạo cảm giác trúc trắc,
khó đọc kết hợp với những thanh bằng làm nhịp thơ trầm xuống tạo cảm giác thư thái, nhẹ nhàng
2. Nhận xét về cảm hứng lãng mạn của hồn thơ Quang Dũng trong đoạn thơ.
Bút pháp lãng mạn của Quang Dũng trong đoạn thơ của Tây Tiến được biểu hiện cụ thể trong
lối viết không hướng về cái bi, có gợi thương, gơi sự đồng cảm nhưng không xoáy sâu vào cảm xúc
bi thương. Xuyên suốt đoạn thơ, nhà thơ luôn hướng tới những hình ảnh kỳ vĩ “đèo cao”, “vực sâu”
“ dốc thăm thẳm” hay “súng ngửi trời”,…cùng những hình ảnh thơ mộng “nhà ai”, “mưa xa khơi”,
hình ảnh chân thật gầu gũi đầy tình người “cơm lên khói”, “nếp xôi”, ngoài ra còn kết hợp với thể
thơ thất ngôn trường thiên giàu nhạc điệu hào hùng, mạnh mẽ. Quang Dũng sử dụng nhuần nhuyễn
các biện pháp tu từ: từ láy, nhân hóa, điệp từ, điệp cấu trúc ngữ pháp và nhiều hình ảnh giàu sức gợi.
Tất cả tạo nên một tổng thể hài hòa, chặt chẽ, tạo nên một Tây Tiến đầy cảm xúc. Quang Dũng đã
vận dụng thành công bút pháp lãng mạn lên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đầy những hiểm nguy và
những mất mát hy sinh mà đời lính phải trải qua.Quang Dũng mở rộng tâm hồn đón nhận cuộc sống
chiến đấu của Tây Tiến từ mọi phía, không theo bất kì khuôn mẫu nào.Tác phẩm là đóng góp lớn
của ông trong sự nghiệp thơ ca thời kháng chiến chống Pháp .

Đề 2: Cảm nhận đoạn thơ sau:


“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ 
Khèn lên man điệu nàng e ấp 
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy 
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ 
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
(Trích Tây Tiến - Quang Dũng,Ngữ văn 12, Tập một, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2019)
Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên và con người miền Tây trong đoạn thơ trên. Từ đó, nhận xét về
cái nhìn thiên nhiên của nhà thơ Quang Dũng.
BÀI LÀM 
I. Mở bài :
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc… nhưng thành công
nhất vẫn là thơ ca. Thơ Quang Dũng phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa. Tên tuổi của ông đã
gắn liền với bài thơ Tây Tiến, tác phẩm tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Đoạn thơ dưới
đây thể hiện vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, bay bổng của người lính Tây Tiến qua những kỉ niệm về tình
quân dân và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa 
Kìa em xiêm áo tự bao giờ 
Khèn lên man điệu nàng e ấp 
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ 
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy 
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ 
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” 

II. Thân bài:


1. Giới thiệu khái quát :
Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947, thành phần chủ yếu là thanh
niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới phía Tây. Năm
1948, Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác. Sau
khi rời đơn vị cũ chưa được bao lâu Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Nếu 14 dòng thơ mở đầu
là sự khắc tạc hình ảnh người lính Tây Tiến gắn liền với chặng đường hành quân gian khổ của
họ thì 8 dòng này lại khắc họa những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và
miền sông nước Châu Mộc thơ mộng trữ tình.
2. Cảm nhận đoạn thơ:
Bốn câu đầu, nhà thơ mang đến cho người đọc không khí tươi vui của đêm liên hoan văn
nghệ đậm tình quân dân. Không khí đêm hội ở đây mang dấu ấn của tâm hồn trẻ trung, lãng
mạn yêu đời:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa


Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Đêm liên hoan diễn ra giữa lòng núi rừng đại ngàn của miền Tây, cả thiên nhiên và con người
bừng sáng trong ánh đuốc lung linh. Qua con mắt thơ tài hoa của Quang Dũng đó là đêm hội đuốc
hoa, ngọt ngào, lãng mạn như đêm động phòng hoa chúc của lứa đôi. Trên cái nền không gian ấy nổi
bật lên những cô gái miền Tây Bắc. “Em” xuất hiện lập tức trở thành trung tâm thu hút mọi điểm
nhìn với sắc màu lung linh tỏa rạng của những xiêm áo thổ cẩm. Những điệu nhạc truyền thống du
dương, bí ẩn cùng những vũ điệu uyển chuyển của các sơn nữ làm say đắm lòng người. Thán từ “kìa
em” như lời chào đón đầy ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của những chàng lính trẻ. Tiếng nhạc phiêu
bồng đưa tâm hồn họ thoát khỏi thời gian và không gian hiện tại, chơi vơi sang tận thủ đô Viên
Chăn của Lào. Ẩn dụ “hồn thơ” thể hiện tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những người lính Tây
Tiến. Từ những người chiến sĩ họ đã vụt biến thành thi sĩ.

Bốn câu sau là khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng
hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang,
huyền ảo:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Thời gian chia tay là buổi chiều, không gian chia tay là một không gian bảng lảng khói sương
như trong cõi mộng. Nhưng sương ở đây không phải là “sương lấp”, sương che hay sương phủ mà là
một không gian núi rừng  mơ màng trong sương khói. Có người cho rằng “Chiều sương ấy” là chiều
sương trong cái nhìn hoài niệm nên tất cả mờ ảo, nhạt nhòa.

Bằng thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, Quang Dũng đã cảm nhận những cánh lau qua hai từ vô
cùng tinh tế, đó là “hồn lau”… gợi cảm giác hoang vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng vừa có
chút gì đó thiêng liêng phảng phất chút tâm linh rừng núi. “Nẻo bến bờ” là nhìn đâu cũng thấy mênh
mang hồn lau.  “Hồn lau” – những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn
thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ ấy.

Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện: Giữa hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc
hiện lên đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây hiện lên mang một vẻ đẹp khỏe
khoắn, bất khuất, kiên cường: “Có nhớ dáng người trên độc mộc’’. Điệp ngữ “có thấy – có nhớ”
luyến láy như khắc chạm vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Dáng người
trên độc mộc ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa
các chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang
chèo chống con thuyền vượt sông, vượt thác dữ tiến về phía trước.

Câu thơ cuối sử dụng nghệ thuật đối lập: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Đó là sự đối lập
giữa cái dữ dội của thiên nhiên “Trôi dòng nước lũ” với cái mềm mại, dễ thương “hoa đong đưa” đã
làm cho thiên nhiên hòa hợp cùng với xúc cảm của con người. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất
gợi. Không phải cánh hoa rừng trôi nổi dập dềnh trên dòng nước lũ mà là “đong đưa” theo gió. Dáng
hoa ấy hoà hợp với dáng người trên độc mộc làm nên một bức tiểu họa thật lãng mạn mà cũng thật
hào hùng.

Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa
giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật: Nghệ
thuật nhân hóa đầy sức gợi. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào
hoa. Những từ ngữ như “có nhớ”, “có thấy” luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ lưu luyến, bồi hồi. Tất
cả đã tạo nên một đoạn thơ hay và giàu giá trị.

3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
III. Kết bài             

Tóm lại, tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với
vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. Chất nhạc, chất hoạ, chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau
trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp .Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế,
uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài
thơ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để tâm hồn mình lắng lại cho chất thơ
Tây Bắc ngấm vào hồn để thêm yêu cảnh và người nơi đây.
PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN
1. Nhận xét cái nhìn thiên nhiên của nhà thơ Quang Dũng:
Cái nhìn thiên nhiên được thể hiện một cách đầy thơ mộng, trữ tình với một hồn thơ đầy tinh
tế, nhạy cảm; tạo cho người đọc một cảm giác bâng khuâng, nao lòng trước cảnh đẹp của thiên
nhiên núi rừng Tây Bắc. Bằng chính cái tôi lãng mạn hào hoa của mình, nhà thơ muốn thể hiện sự
quyến luyến, nhớ nhung khi phải chia tay thiên nhiên và con người Tây Bắc.
2. Nhận xét về Vẻ đẹp hào hoa của người lính Tây tiến: là vẻ đẹp tâm hồn nhạy cảm, tinh tế
lãng mạn, bay bổng, mơ mộng tràn đầy cảm xúc. Vẻ đẹp hào hoa nâng đỡ tinh thần người lính vượt
qua mọi thử thách để đến ngày chiến thắng. Vẻ đẹp hào hoa của người lính Tây tiến được biểu hiện
qua nỗi nhớ về tình quân dân với cảnh đêm liên hoan văn nghệ mang màu sắc phương xa, xứ
lạ được biểu hiện qua ký ức khó phai về khung cảnh thiên nhiên miền Tây trữ tình thơ mộng. Hình
tượng người lính Tây tiến vừa kết tinh được vẻ đẹp chung của hình tượng người lính trong những
trang thơ thời chống Pháp: có lý tưởng cao cả, đầy ý chí và nghị lực vượt qua mọi khó khăn gian
khổ, vừa chứa đựng vẻ đẹp riêng trong thơ Quang Dũng: vẻ đẹp hào hoa. Vẻ đẹp ấy được khắc họa
bằng cảm xúc lãng mạn, bay bổng cùng các thủ pháp đặc trưng của bút pháp lãng mạn.
3. Nhận xét phong cách thơ Quang Dũng:
Qua đoạn thơ trên nói riêng và qua bài thơ Tây Tiến nói chung ta thấy nổi bật phong cách thơ
Quang Dũng: Đó là một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa. Thơ ông có sự kết hợp
chất hiện thực và chất lãng mạn, với những sáng tạo bay bổng.

ĐỀ 3: Rải rác biên cương mồ viễn xứ,


“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm. Áo bào thay chiếu anh về đất,
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm (Trích: Tây Tiến- Quang Dũng, Ngữ văn
12, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam.)

Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ trên. Bình luận ngắn gọn về
...

BÀI LÀM
I. Mở bài:
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc… nhưng thành công
nhất vẫn là thơ ca. Thơ Quang Dũng phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa. Tên tuổi của ông đã
gắn liền với bài thơ Tây Tiến, tác phẩm tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Đoạn thơ dưới
đây đã khắc họa vẻ đẹp hào hùng và hào hoa của người lính Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc 
Quân xanh màu lá dữ oai hùm 
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới 
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm 
Rải rác biên cương mồ viễn xứ 
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh 
Áo bào thay chiếu, anh về đất 
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
II. Thân bài:
1. Giới thiệu khái quát :
Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947, thành phần chủ yếu là thanh
niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới phía Tây. Năm
1948, Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác. Sau
khi rời đơn vị cũ chưa được bao lâu Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Bài thơ lúc đầu có tên là
“Nhớ Tây Tiến” , sau khi in lại tác giả đổi tên là “Tây Tiến”. Nếu phần đầu của bài thơ là hình
ảnh người lính Tây Tiến gắn liền với chặng đường hành quân gian khổ, phần hai khắc họa
những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và miền sông nước Châu Mộc thơ
mộng trữ tình, thì đến đoạn thơ này, chỉ với tám câu, tác giả đã khắc tạc nên một bức tượng
đài rất đẹp về người lính Tây Tiến.
2. Cảm nhận đoạn thơ:
“Tây Tiến” là một bản anh hùng ca về người chiến sĩ, được cất lên từ một âm của một nỗi nhớ
cháy bỏng da diết. Theo mạch phát hiện của nỗi nhớ, hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên trong vẻ
đẹp lãng mạn hào hùng và kiêu dũng “Tây Tiến…….oai hùm”. Đằng sau những hình ảnh thơ ngang
tàng chất chứa những chi tiết nghiệt ngã của hiện thực đời sống. Người lính Tây Tiến thiếu thốn về
vật chất, chịu sự hành hạ của những cơn sốt rừng khiến cho tóc trên đầu không mọc được và nước da
thì xanh xao, tiều tụy. Hình ảnh thơ gợi cho ta biết bao thương cảm. Những gì mà Quang Dũng miêu
tả về cuộc sống gian khổ của người lính không mới. Rất nhiều nhà thơ cùng thời với Quang Dũng đã
ghi lại những chi tiết chân thực này. Trong bài “Đồng chí”,  Chính Hữu đã từng viết:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh” 
Còn Quang Dũng đã nói điều đó bằng cảm hứng lãng mạn, bằng bút pháp lãng mạn. Vì vậy
hình ảnh người lính hiện lên dưới ngòi bút của ông có cái gì đó độc đáo kì lạ. Và di chứng của
những trận sốt rét rừng, dấu vết của những khó khăn gian khổ khốc liệt cũng được nói bằng một
giọng ngang tàng cứng cỏi. Nghe cứ như thể thái độ không cần, không thèm mọc tóc vậy. Đó là thái
độ của những con người khinh thường gian khổ, hiểm nguy. Còn “quân xanh mà dữ oai hùm” lại
nhấn mạnh sự tương phản giữa bề ngoài xanh xao tiều tụy với bản lĩnh kiên cường mãnh liệt bên
trong. Biết bao khí phách và oai phong, lẫm liệt của người lính Tây Tiến được thể hiện trong hình
ảnh “dữ oai hùm” ấy- oai hùm là oai hổ, chúa sơn lâm, biểu tượng cho sự oai phong dũng mãnh.
Trong bài “Bình ngô đại cáo” một thiên cổ hùng văn Nguyễn Trãi đã viết:
“Sĩ khí chọn tay tùy hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh”
Hình ảnh ấy vừa làm cho quân thù khiếp sợ, vừa có thể chế ngự được hoàn cảnh khắc nghiệt,
dữ dội của rừng thông:
“Trong hang tối mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi
Ta biết ta là chúa tể của muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên tuổi”
 (Thế Lữ)
Chỉ bằng hai hình ảnh thơ, Quang Dũng đã không chỉ nói được sâu sắc đầy đủ cuộc sống chiến
đấu gian khổ của người lính, mà còn khắc họa được vẻ đẹp hào hùng, cái khí phách mạnh mẽ của
họ.
Người lính Tây Tiến hầu hết là những chàng trai Hà Thành thanh lịch lãng mạn, mộng mơ. Vì
vậy họ không chỉ mang phẩm chất hào hùng, mà còn mang vẻ đẹp hào hoa. Ban ngày họ phải hành
quân gian khổ, thường xuyên phải tiếp xúc với thần chết, mà đêm về họ đã mơ nhiều giấc mơ dịu êm
như thế đó:
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Cái bóng hình lung linh trong giấc mơ của họ là hình ảnh những dáng kiều thơm Hà Thành
quyến rũ. Đừng vội phê phán người lính Tây Tiến chưa rũ bỏ được tính cách tiểu tư sản yêu đời và
còn mộng mơ, mà phải hiểu đó là chất mộng mơ, chất lãng mạn của người lính hào hoa. Chính giấc
mơ lãng mạn với dáng kiều thơm thanh thoát đã là đôi cánh nâng đỡ tinh thần người lính, vượt lên
trên khó khăn thử thách khốc liệt tưởng chừng như không thể vượt qua được. Nó đem lại cho người
lính những khoảng lặng trong đời sống nội tâm. Đôi mắt với cuộc sống chiến đấu hàng ngày đầy
gian khổ, hy sinh; họ ít khi có cơ hội đối diện với thế giới tinh thần của chính mình, sống thật khát
khao, ước mơ của bản thân. Chỉ trong giấc mơ hằng đêm họ mới sống với những gì không có, chưa
có trong đời thực:
“Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm
Nàng là hương hay nhan sắc là hương?”
Những người lính có đôi mắt trừng như lửa cháy hờn căm và phẫn nộ để thiêu đốt kẻ thù,
nhưng lại vừa biết mơ về những cô gái Hà Thành thanh lịch kiều diễm đã nói với ta rất nhiều về vẻ
đẹp anh bộ đội cụ Hồ có tầm hồn gần gũi, chân thực và rất phong phú.
Viết về đời sống người lính Tây Tiến, Quang Dũng cũng không hề che dấu sự hy sinh của họ.
Chỉ có điều sự hi sinh lại được nói bằng cảm hứng lãng mạn mang màu sắc bi tráng. Mỗi lần  cảm
xúc chìm vào đau thương lập tức nhà thơ lại nâng lên bằng đôi cánh lãng mạn mang màu sắc tráng
hùng, bởi vậy lời thơ viết về sự hi sinh mà không hề có cảm giác bi lụy yếu đuối:
“Rải rác biên cương mỗn viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Hiện thực trực tiếp trong đời sống chiến đấu của người lính là những giây phút đối mặt kẻ thù,
là những đau thương mất mát. Người xưa đã từng nói:
“Xưa nay những chốn chiến binh
Hỏi ai đem được thân mình về chưa?
Sự sống hàng ngày của người lính được đánh dấu bằng những ranh giới mong manh giữa còn
và mất, giữa sống và chết, rất nhiều đồng đội của Quang Dũng đã ngã xuống trên mảnh đất miền
Tây, gửi thân lại nơi nấm mồ viễn xứ. Một trong những thiếu sót dễ nhận thấy của thơ ca Cách
Mạng là tác giả viết về chiến thắng, nhưng lại né tránh những hình ảnh chi tiết về sự mất mát, hi
sinh. Quang Dũng không thế, ông nhìn cuộc sống của người lính Tây Tiến theo  đúng những gì ông
nếm trải. Có khó khăn gian khổ, có ước mơ, nỗi nhớ riêng tư có nhiều nấm mồ viễn xứ. Câu thơ
buồn đau nhưng không gây cảm giác quá bi thương. Những từ Hán Việt xuất hiện trong câu thơ như
làm dịu đi, vơi đi sự mất mát nặng nề bằng không khí trang trọng của nó. Mà quan trọng hơn, sự hi
sinh mất mát bị xóa nhòa bởi lí tưởng quên mình của người lính Tây Tiến. “Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh”. Câu thơ sau chìm xuống trầm lắng đi. Trong âm điệu tiếc nhớ buồn thương, câu thơ
sau vuợt lên, vút lên bằng âm điệu dứt khoát, mạnh mẽ. Cảm xúc buồn thương ở câu thơ đầu được
nâng đỡ lên thành bi hùng, nhờ đôi cánh lí tưởng lãng mạn ở câu sau: Người lính Tây Tiến đối mặt
với hy sinh mất mát không phải bằng thái độ sợ hãi, mà bằng tư thế sẵn sàng nhập cuộc, sẵn sàng xả
thân vì Tổ quốc. Tư thế hiên ngang ấy khiến cho họ nhìn cái chết với đôi mắt thanh thản không hề
nuối tiếc cuộc đời xanh non; “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Câu nói chắc nịch như một lời
tuyên thề. Hai chữ “chẳng tiếc” với âm cao của thanh trắc mang sức nặng của lòng quyết tâm của lí
tưởng quên mình. Đối với một con người, khoảng thời gian đẹp nhất là những ngày tuổi trẻ, là
những ngày tóc đang còn xanh và sức sống đang căng. Nó là một đời xanh chẳng đi qua không bao
giờ trở lại. Vậy mà người lính Tây Tiến chẳng tiếc đời xanh, chẳng tiếc tương lai đầy hứa hẹn phía
trước. Vẫn biết trên chặng đường hành quân gian khổ, trong những tháng ngày hành quân chiến đấu
mà rất có thể gục lên sung mũ bỏ quên đời hay làm một nấm mồ viễn xứ, nhưng với họ không có gì
hạnh phúc hơn khi được chiến đấu cho lí tưởng, được đổ máu mình cho cây Tổ quốc đơm hoa độc
lập kết trái tự do. Hai câu thơ của Quang Dũng tỏa sáng một triết lý, một lẽ sống tốt đẹp của tuổi trẻ
thời ấy “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Đó là triết lý sống của những con người luôn luôn vang
lên trong tim lời dạy thiêng liêng của Bác.
Với triết lý, lẽ sống cao đẹp ấy, người lính Tây Tiến cho đến giây phút trở về lòng đất mẹ vẫn
sáng lên vẻ đẹp tâm hồn cao cả – Vẻ đẹp của sự hi sinh đến hai lần: “Áo bào… độc hành”. Quên
mình vì Tổ quốc đó là lần hi sinh thứ nhất của người lính. Trở về đất mẹ bằng tấm áo giản dị thường
ngày, đó là lần hi sinh thứ hai. Câu thơ mang ý nghĩa hiện thực sâu sắc “Tử sĩ nằm xuống không đủ
manh chiếu để liệm” (Lời Quang Dũng) “Họ được chôn cất trong chiếc áo của chính  mình”. Cái
hay của câu thơ là sự thực bi thương của người lính được nhà thơ tái hiện bằng đôi mắt lãng mạn,
vừa yêu thương, vừa trân trọng thành kính. Nhà thơ phủ lên thi thể người đồng đội hình ảnh áo bào.
Người đọc cảm nhận trong người lính Tây Tiến phảng phất dáng nét tráng sĩ xưa với tư thế hiên
ngang lẫm liệt. Bởi thế giây phút đau đớn đưa tiễn người đồng đội về cõi bất tử được thiêng liêng
hóa, vĩnh viễn hóa bằng hình ảnh áo bào đầy sang trọng cổ kính. Nhóm từ  “anh về đất” vừa làm
giảm nhẹ sự mất mát đau thương, vừa là sự ngợi ca tinh thần hi sinh tự nguyện của người lính Tây
Tiến. Với tấm bào ấy, người lính đã thanh thản đi về trong lòng đất mẹ ấm áp vĩnh hằng như thể
người nông dân thanh thản vui vẻ trở về nhà sau một ngày đã hoàn thành công việc đồng áng vậy:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Hình ảnh người lính ngã xuống không đơn độc bi thương mà họ được bao bọc bởi nghĩa tình
đồng đội và âm vang tiếng nhạc chiêu hồn tử sĩ thật dữ dội của núi sông. Câu kết là tiếng kèn bi
tráng, trầm hùng đưa tiễn người lính đi vào cõi bất tử với biết bao niềm thương tiếc, giận dữ, ngậm
ngùi thành hình.
.
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
III. Kết bài
Dòng sông Mã, một chứng nhân gần gũi mà thiêng liêng về cuộc đời bi tráng  “sống hi sinh,
chết cũng hi sinh, thật tột đỉnh quang vinh” của người lính Tây Tiến đã thay mặt cho quê hương đất
nước tấu lên khúc độc hành rung chuyển núi sông, như cất lên bài ca anh hùng vang vọng mãi vào
cõi thiên thu.

PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN

1. Bình luận ngắn gọn về nét độc đáo của hình tượng người lính:
Đoàn binh Tây Tiến chủ yếu là thanh niên tri thức trẻ tuổi Hà Nội. Họ chiến đấu trong điều
kiện khắc nghiệt, thiếu thốn nhưng luôn lạc quan, yêu đời, Vẻ đẹp người lính Tây Tiến hào hùng
đầy hào hoa, lãng mạn nhưng không mất đi vẻ bi tráng, sáng ngời lý tưởng thời đại
2. Nhận xét tinh thần bi tráng được thể hiện qua đoạn thơ.

Tinh thần bi tráng hội tụ trong mình nó yếu tố bi và yếu tố tráng; có mất mát, đau thương song
không bi lụy; gian khổ, hi sinh song vẫn rất hào hùng, tráng lệ. Chính tinh thần bi tráng mang đến
cho chúng ta những cảm nhận chân thực và xúc động về những năm tháng chiến tranh khốc liệt và
thấy được vẻ đẹp tâm hồn, khí phách cao cả của thế hệ anh bộ đội cụ Hồ.
Tinh thần bi tráng có cội nguồn từ chiến trường Tây Tiến ác liệt, từ tinh thần quả cảm và tâm
hồn lạc quan của những chàng trai Hà thành, từ tấm lòng đồng cảm và trân trọng đồng chí đồng đội
của nhà thơ. Tinh thần bi tráng cùng với cảm hứng lãng mạn làm nên vẻ đẹp độc đáo của hình tượng
người lính Tây Tiến. Tinh thần bi tráng có ý nghĩa giáo dục nhận thức và bồi đắp tình cảm, trách
nhiệm cho thế hệ hôm nay và mai sau.
=> Đánh giá: Đoạn thơ nói riêng và bài thơ Tây Tiến nói chung khắc họa thành công hình
tượng người lính Tây Tiến, tiêu biểu cho một thế hệ ra đi không hẹn ngày về, kết tinh vẻ đẹp của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Pháp.Qua đó, ta thấy
được tình cảm sâu sắc của tác giả giành cho đồng đội, hồn thơ phóng khoáng lãng mạn của Quang
Dũng

3. Bình luận về vẻ đẹp đậm chất sử thi của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến .

Chất sử thi trong văn học tập trung phản ánh những vấn đề có ý nghĩa sống còn của đất nước:
Tổ quốc còn hay mất, tự do hay nô lệ. Nhân vật chính là những con người đại diện cho phẩm chất và
ý chí của dân tộc; gắn bó số phận cá nhân với số phận đất nước; luôn đặt lẽ sống của dân tộc lên
hàng đầu. Giọng điệu sử thi là giọng ngợi ca, trang trọng và đẹp tráng lệ, hào hùng.

Vẻ đẹp đậm chất sử thi của hình tượng người lính Tây Tiến : Hình tượng người lính Tây Tiến
là một tập thể anh hùng.Tuy họ là những người lính trí thức tiểu tư sản nhưng đã đại diện cho vẻ đẹp
của anh bộ đội Cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp với tất cả vẻ đẹp hào hùng, hào hoa…
Chất sử thi từ vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến tạo nên bức tượng đài nghệ thuật bất tử trong
văn học hiện đại Việt Nam 1945-1975, gắn liền với cảm hứng lãng mạn, thể hiện phong cách hồn
nhiên, tinh tế, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn của hồn thơ Quang Dũng.

4. Nhận xét cảm hứng lãng mạn và tính bi tráng trong cách thể hiện của tác giả
Bút pháp lãng mạn ưa khám phá những vẻ đẹp dữ dội, phi thường, hay sử dụng thủ pháp đối
lập mạnh mẽ. Bút pháp này chủ yếu được bộc lộ qua bốn câu thơ đầu. Tác giả nhiều lần viết về cái
bi, sự mất mát, song buồn mà không uỷ mị, cúi đầu, mất mát mà vẫn cứng cỏi, gân guốc.

Màu sắc bi tráng chủ yếu được thể hiện trong 4 câu thơ còn lại. Cái bi hiện ra qua hình ảnh
những nấm mồ hoang lạnh dọc đường hành quân, người chiến sĩ hi sinh chỉ có manh chiếu tạm.
Nhưng cái tráng của lí tưởng khát vọng cống hiến đời xanh cho Tổ quốc, của áo bào thay chiếu, của
điệu kèn thiên nhiên gầm lên dữ dội đã nâng đỡ hình ảnh thơ và truyền cảm xúc bi tráng vào lòng
người

5. Nhận xét về bút pháp hiện thực và lãng mạn trong thơ Quang Dũng.

Nhà thơ không né tránh hiện thực tàn khốc đến trần trụi của chiến tranh khi nói về khó khăn,
thiếu thốn, bệnh tật, sự xanh xao, tiều tụy của người lính; không né tránh cái chết khi miêu tả cảnh
tượng hoang lạnh và sự chết chóc đang cờ đợi người lính: Rải rác biên cương mồ viễn xứ. Chất hiện
thực đa tôn lên vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến

Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng bút pháp lãng mạn. Bút phá lãng mạn được thể hiện ở nỗi
nhớ và tình yêu, gắn bó, giọng điệu ngợi ca, tự hào tràn ngập trong mỗi dòng thơ về người lính. Thể
hiện trong việc tô đậm vẻ đẹp lãng mạn, bay bổng, hào hoa trong tâm hồn người lính Hà Thành qua
thủ pháp đối lập: vẻ ngoài dữ dội với tâm hồn bên trong dạt dào cảm xúc, bay bổng. Thể hiện ở
khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng thủ pháp đối lập: Hiện thực, thiếu thốn, bệnh
tật, chết đói đối lập với sức mạnh dữ dội , lẫm liệt và lý tưởng anh hùng cao cả, sự hi sinh bi tráng .
Thể hiện ở bút pháp lý tưởng hóa hình tượng. Như vậy hiện thực và lãng mạn đã cùng khắc tạc nên
bức tượng đài độc đáo và cao đẹp của người lính chống Pháp

6. Nhận xét bút pháp lãng mạn của nhà thơ


Quang Dũng đã phát huy cao độ trí tưởng tượng bay bổng và lãng mạn của mình, sử dụng
ngôn ngữ, hình ảnh ấn tượng để tô đậm những vẻ đẹp độc đáo khác thường, lí tưởng cao cả của
người lính. Nhờ bút pháp lãng mạn mà mọi khó khăn, gian khổ, thiếu thốn đã bị mờ nhòe đồng thời
làm nổi bật chất kiêu hùng, hào hoa của người lính Tây Tiến. Qua đoạn thơ hiện lên một “cái tôi”
hào hoa, phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn của nhà thơ

BÀI 5: SÓNG
- Xuân Quỳnh -
ĐỀ 1: Trước muôn trùng sóng bể
“Dữ dội và dịu êm Em nghĩ về anh, em
Ồn ào và lặng lẽ Em nghĩ về biển lớn
Sông không hiểu nổi mình Từ nơi nào sóng lên?
Sóng tìm ra tận bể
Sóng bắt đầu từ gió
Ôi con sóng ngày xưa Gió bắt đầu từ đâu?
Và ngày sau vẫn thế Em cũng không biết nữa
Nỗi khát vọng tình yêu Khi nào ta yêu nhau…”
Bồi hồi trong ngực trẻ (Sóng – Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12, Tập một, NXB
Giáo dục Việt Nam)
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng sóng trong đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về tình cảm
của người con gái khi yêu.

BÀI LÀM
I. MỞ BÀI
Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại. Người yêu thơ mệnh
danh chị là “Nữ hoàng của thi ca tình yêu”. Thơ của chị là tiếng nói nhân hậu, thủy chung, giàu trực
cảm và da diết khát vọng hạnh phúc đời thường. “Sóng” là một bài thơ đặc sắc rất tiêu biểu cho
phong cách thơ tình yêu của Xuân Quỳnh. Bài thơ Sóng để lại giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc
mà tiêu biểu là bốn khổ thơ sau đây:
Dữ dội và dịu êm

Khi nào ta yêu nhau

II. THÂN BÀI


1. Khái quát trước khi phân tích:
Bài thơ Sóng được Xuân Quỳnh sáng tác tại biển Diêm Điền năm 1967, sau được in trong tập
“Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ mang âm hưởng của những con sóng biển và những con sóng lòng
đang khao khát tình yêu. Bài thơ có hai hình tượng cùng song hành và hòa điệu, đó là “Sóng” và
“Em”. Hai hình tượng này đã tạo nên nét đáng yêu cho bài thơ.
2. Cảm nhận đoạn thơ:
a. Ở khổ thơ đầu, từ việc khám phá các trạng thái khác nhau của sóng, tác giả diễn tả
các cung bậc của người phụ nữ đang yêu và thể hiện một quan niệm mới về tình yêu – yêu là
tự nhận thức, là vươn tới cái cao rộng, lớn lao…
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Hai câu thơ đầu với nghệ thuật đối: Dữ dội – dịu êm; Ồn ào – lặng lẽ đã làm hiện lên vẻ đẹp
của những con sóng biển ngàn đời đối cực. Những lúc biển động, bão tố phong ba thì biển dữ dội ồn
ào còn những giây phút sóng gió đi qua biển lại hiền hòa trở về dịu êm lặng lẽ. Xuân Quỳnh đã
mượn nhịp sóng để thể hiện nhịp lòng của chính mình trong một tâm trạng bùng cháy ngọn lửa
mãnh liệt của tình yêu, không chịu yên định mà đầy biến động, khao khát “Vì tình yêu muôn thuở/
Có bao giờ đứng yên”. Đúng như vậy, tình yêu của người con gái nào bao giờ yên định bởi có lúc
họ yêu rất dữ dội, yêu mãnh liệt hết mình với những nhớ nhung “cả trong mơ còn thức”, đôi khi
ghen tuông giận hờn vô cớ:
Nếu phải cách xa nhau
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố
(Thuyền và Biển)
Nhưng cũng có lúc người con gái lại thu mình trở về với chất nữ tính đáng yêu, họ lặng lẽ, dịu
êm ngắm soi mình và lặng im chiêm nghiệm:
Có những tình yêu không thể nói bằng lời
Chỉ hiểu nhau qua từng ánh mắt
Nhưng đó là tình yêu bền vững nhất
Bởi thứ ồn ào là thứ dễ lãng quên
(Đinh Thu Hiền)
Sóng của Xuân Quỳnh là tiếng nói của một tâm hồn thiếu nữ đang trong độ tuổi hai mươi,
tiếng nói của một trái tim chân thành và đam mê, luôn rực cháy chất trẻ trung mãnh liệt, khao khát
được sống hết mình và yêu hết mình. Vì thế cho nên:
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ba hình ảnh sông, sóng, bể như là những chi tiết bổ sung cho nhau: sông và bể làm nên đời
sóng, sóng chỉ thực sự có đời sống riêng khi ra với biển khơi mênh mang thăm thẳm. Mạch sóng
mạnh mẽ như bứt phá không gian chật hẹp để khát khao một không gian lớn lao. Hành trình tìm ra
tận bể chất chứa sức sống tiềm tàng, bền bỉ để vươn tới giá trị tuyệt đích của chính mình. Sóng
không cam chịu một cuộc sống đời sống chật hẹp, tù túng nên nó làm cuộc hành trình ra biển khơi
bao la để thỏa sức vẫy vùng. Tình yêu của Xuân Quỳnh cũng vậy, tình yêu của người phụ nữ cũng
không thể đứng yên trong một tình yêu nhỏ hẹp mà phải vươn lên trên tất cả mọi sự nhỏ hẹp tầm
thường để được sống với những tình yêu cao cả, rộng lớn, bao dung. Đây là một quan niệm tình yêu
tiến bộ và mạnh mẽ của người phụ nữ thời đại. Có thấy ngày xưa quan niệm tình yêu cổ hủ “cha mẹ
đặt đâu con ngồi đó” để rồi bao cô gái đã phải cất lên lời than van ai oán:
Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân
Hoặc:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Từ đó ta mới thấy hết được cái mới mẻ trong quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh: Người phụ
nữ chủ động tìm đến với tình yêu để được sống với chính mình.
b. Ở khổ thơ thứ hai, mượn quy luật muôn đời của sóng, tác giả khẳng định khát vọng
của tình yêu thường trực trong trái tim tuổi trẻ:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Từ “Ôi!” cảm thán như tiếng lòng thốt lên từ nỗi thổn thức của trái tim yêu. Nghệ thuật đối lập
“ngày xưa” – “ngày sau” càng làm tôn thêm nét đáng yêu của sóng. Sóng là thế muôn đời vẫn thế
vẫn dữ dội ồn ào vẫn dịu êm lặng lẽ như tình yêu tuổi trẻ có bao giờ đứng yên. Bởi tình yêu tuổi trẻ
luôn khát vọng luôn khát khao và mơ ước. Nó làm ta bồi hồi khát khao và nhung nhớ bởi “Làm sao
sống được mà không yêu/ Không nhớ không thương một kẻ nào” hay “Bắt chim bướm thả vào vườn
tình ái” (Xuân Diệu). Tình yêu làm điên đảo tuổi trẻ với những nhớ nhung giận hờn, những cồn cào
da diết như lời thơ Xuân Quỳnh đã từng viết “Những ngày không gặp nhau/Lòng thuyền đau rạn vỡ/
Những ngày không gặp nhau/ Biển bạc đầu mong nhớ”. Có yêu nhau mới thấy được cồn cào của vị
nhớ, mùi ái ân, mới thấy được thế nào là bồi hồi ngực trẻ.
Tình yêu là sóng, là gió. Và qua sóng, gió ấy, nhà thơ đã nói lên thật dễ thương cái nhu cầu tự
nhận thức, tự phân tích, lí giải, nhưng lại không thể cắt nghĩa nổi của tình yêu. Tình yêu cũng như
sóng biển, gió trời vậy thôi, nó tự nhiên, hồn nhiên như thiên nhiên và cũng khó hiểu, nhiều bất ngờ
như thiên nhiên :
c. Đến khổ thơ thứ ba, Xuân Quỳnh băn khoăn nghĩ suy về anh và em, về nơi tình yêu
bắt đầu :
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Câu thơ đầu, Xuân Quỳnh nhìn về biển khơi “Trước muôn trùng sóng bể”. Nhìn những con
sóng vô hồi vô hạn đang hướng vào bờ chị chợt bâng khuâng nghĩ suy về anh và em “Em nghĩ về
anh, em” rồi lại hướng nghĩ suy về biển lớn “Em nghĩ về biển lớn” . Những nghĩ suy ấy tất cả là để
đặt một câu hỏi lớn: Từ nơi nào sóng lên ?
d. Ở khổ thơ thứ tư, nhà thơ lý giải về nguồn gốc của sóng của gió, và qua đó tự bâng
khuâng về khởi đầu của tình yêu:
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Câu thơ đầu nhà thơ tự lý giải nguồn gốc của sóng là từ gió “Sóng bắt đầu từ gió” nghĩa là
sóng biển là khởi đầu từ gió, nhờ gió mà có sóng lên. Nhưng ở câu thơ thứ hai nhà thơ lại không lý
giải được nguồn gốc của gió “Gió bắt đầu từ đâu”. Đến lúc này thì đúng là nhà thơ phân vân thật sự
và đành lắc đầu bất lực “Em cũng không biết nữa”.
Lí giải được ngọn nguồn của sóng thì dễ bởi “Sóng bắt đầu từ gió” nhưng để hiểu “Gió bắt đầu
từ đâu” thì thi nhân lại ấp úng “Em cũng không biết nữa”. Cũng như tình yêu của anh và em nó đến
rất bất ngờ và tự nhiên bởi “tình yêu đến trong đời không báo động”. Câu thơ “Khi nào ta yêu nhau”
như một cái lắc đầu nhè nhẹ, rất ư là nữ tính. Kì lạ quá, diệu kì quá, em và anh yêu nhau bao giờ
nhỉ ? Câu hỏi này muôn đời không ai lí giải nổi nhất là những bạn trẻ đang yêu và đắm say trong
men tình ái. Tình yêu là vậy, khó lí giải, khó định nghĩa. Xuân Diệu – ông hoàng của thi ca tình yêu
cũng đã từng băn khoăn khi định nghĩa về tình yêu “Đố ai định nghĩa được tình yêu/ Có khó gì đâu
một buổi chiều/Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”. Chính vì không thể
lí giải rõ ngọn ngành nên tình yêu vì thế mà trở nên đẹp và là cái đích để cho muôn người đi tìm và
khám phá. Càng khám phá càng thú vị, càng khám phá càng đẹp.
e. Nghệ thuật: Thành công của đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đó là nhờ vào một số
thủ pháp nghệ thuật: Thể thơ năm chữ tạo âm điệu của những con sóng biển. Nghệ thuật đối lập,
nhân hóa, ẩn dụ… Tất cả đã tạo nên những vần thơ tình yêu hay nhất mọi thời đại.

3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
III. KẾT BÀI
Tóm lại, bốn khổ thơ mở đầu bài thơ Sóng là bốn khổ thơ hay nhất của bài thơ. Qua đó người
đọc cảm nhận được trái tim yêu của Sóng và người phụ nữ rất nồng nàn say đắm, mãnh liệt cuộn
trào nhưng cũng rất nữ tính đáng yêu. Đoạn thơ giúp ta hiểu được tình cảm và hồn thơ Xuân Quỳnh,
dù trong mọi hoàn cảnh như thế nào thì tiếng thơ của chị vẫn là tiếng thơ hồn hậu với những khát
vọng hạnh phúc đời thường đúng như lời chị viết:
Chỉ riêng điều được sống cùng nhau
Niềm vui sướng với em là lớn nhất
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim chẳng đập vì anh!

PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN

1. Nhận xét về tình cảm của người con gái khi yêu:
Qua thi phẩm, ta có thể nhận thấy người con gái khi yêu luôn xuất hiện cùng lúc nhiều trạng
thái cảm xúc, đôi khi có thể mâu thuẫn nhau. Khi yêu, họ sẽ luôn muốn hiểu được người yêu, hiểu
mình và hiểu tình yêu của mình dù biết rằng tất cả những băn khoăn đều không dễ dàng giải đáp.
Tình yêu của họ luôn nồng nàn, say đắm
2. Nhận xét về quan niệm mới mẻ và hiện đại về tình yêu của nữ sĩ qua đoạn thơ.
Đoạn thơ đã bộc lộ cái tôi tràn đầy khát vọng đắm say, một cái tôi luôn chủ động kiếm tìm
trong tình yêu để vươn lên cái bao la của sự tự do…Vượt thoát khỏi những ràng buộc khắc nghiệt
mà lễ giáo phong kiến bấy lâu nay kìm hãm tình yêu tự do trong sáng của con người. Đi tìm cội
nguồn của con sóng tình yêu, thể hiện quan niệm muốn khám phá đến tận cùng, khao khát tìm hiểu
đến bến bờ vô tận của tình yêu.

ĐỀ 2: Cuộc đời tuy dài thế


“Dữ dội và dịu êm Năm tháng vẫn đi qua
Ồn ào và lặng lẽ Như biển kia dẫu rộng
Sông không hiểu nổi mình Mây vẫn bay về xa
Sóng tìm ra tận bể
Làm sao được tan ra
Ôi con sóng ngày xưa Thành trăm con sóng nhỏ
Và ngày sau vẫn thế Giữa biển lớn tình yêu
Nỗi khát vọng tình yêu Để ngàn năm còn vỗ
Bồi hồi trong ngực trẻ
(Trích Sóng – Xuân Quỳnh, Ngữ Văn 12, tập 1,
NXB Giáo dục, tr.156)

Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp tình yêu trong các khổ thơ trên. Từ đó, rút ra nhận xét về
sự vận động của hình tượng sóng và em.

BÀI LÀM
I. MỞ BÀI
Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại. Người yêu thơ mệnh
danh chị là “Nữ hoàng của thi ca tình yêu”. Thơ của chị là tiếng nói nhân hậu, thủy chung, giàu trực
cảm và da diết khát vọng hạnh phúc đời thường. “Sóng” là một bài thơ đặc sắc rất tiêu biểu cho
phong cách thơ tình yêu của Xuân Quỳnh. Bài thơ Sóng để lại giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc
mà tiêu biểu là bốn khổ thơ sau đây:
Dữ dội và dịu êm

Để ngàn năm còn vỗ

II. THÂN BÀI


1. Khái quát trước khi phân tích:
Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế của nhà thơ ở vùng biển Diêm
Điền, tỉnh Thái Bình. Bài thơ in trong tập “Hoa dọc chiến hào”( 1968). Bài thơ gồm chín khổ với
nội dung miêu tả về sóng biển và diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình “em”, người phụ nữ đang
yêu. Đoạn thơ trên thuộc hai khổ đầu của bài thơ.
Hình tượng trung tâm của bài thơ là “Sóng”. Xuân Quỳnh đã nối tiếp truyền thống trong
thơ ca là lấy sóng để hình dung tình yêu, đem sóng nước so sánh với sóng tình. Dù tiếp nối truyền
thống văn học nhưng “sóng” của Xuân Quỳnh vẫn có những nét độc đáo riêng. Cả bài thơ là những
con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện với những
con sóng muôn trùng. Tác giả nói với mình, nói với người về tình yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn với
khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.
Bài thơ có hai hình tượng là “sóng” và “em” - lúc phân tách, soi chiếu vào nhau, lúc nhập
hòa làm một trong cái tôi trữ tình duy nhất là Xuân Quỳnh. “Sóng” là một hình tượng ẩn dụ, là sự
hóa thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ. Với hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã tìm đuợc một cách
thể hiện xác đáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Cấu trúc song hành này tạo
thành chiều sâu nhận thức và nét độc đáo riêng cho bài thơ.
2. Cảm nhận đoạn thơ:
Nếu như khổ thơ 1- 2, nhân vật trữ tình soi mình vào sóng để nhận thức về tình yêu. Thì đến
khổ 8 - 9, tình yêu đã nguyện tan vào sóng để dâng hiến và bất tử
Ở khổ thơ đầu, từ việc khám phá các trạng thái khác nhau của sóng, tác giả diễn tả các
cung bậc của người phụ nữ đang yêu và thể hiện một quan niệm mới về tình yêu – yêu là tự
nhận thức, là vươn tới cái cao rộng, lớn lao…
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Hai câu đầu ngắn gọn và giản dị nhưng đã nêu ra được bốn đặc tính vốn có của sóng biện : dữ
dội hoà quyện với dịu êm, ồn ào đan xen với lặng lẽ. Những đặc tính này của sóng cũng như những
cung bậc tâm trạng của người phụ nữ khi yêu: khi vui, lúc buồn, khi mãnh liệt sôi nổi, lúc dịu dàng
đằm thắm. Sóng khát khao thoát khỏi giới hạn chật hẹp (sông) để tìm ra “bể”, giữa đại dương mênh
mông, phóng khoáng để mặc sức vẫy vùng, để triền miên dào dạt. Chỉ có ra đến bể, con sóng mới
thật sự tìm thấy chính mình, mới nhận thức được sức mạnh và khao khát của mình. Giống như sóng,
người phụ nữ không chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp, luôn khao khát một tình yêu lớn lao, tìm
đến những chân trời đích thực của tình yêu. Có thể thấy, ngay trong khổ thơ đầu tiên này một nét
mới mẻ trong quan niệm về tình yêu. Người con gái khát khao tình yêu nhưng không còn nhẫn nhịn,
cam chịu nữa. Họ đầy bản lĩnh để có thể chủ động, kiêu hãnh và quyết liệt hướng tìm sự đồng điệu,
tri âm. Nếu “Sông không hiểu nổi mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó để “tìm ra tận
bể”, để đến với cái cao rộng, bao dung. Ý thơ là một lời tuyên bố mạnh mẽ và kiên quyết!
Ở khổ thơ thứ hai, mượn quy luật muôn đời của sóng, tác giả khẳng định khát vọng
của tình yêu thường trực trong trái tim tuổi trẻ:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Từ ngàn, triệu năm qua, con sóng vẫn thế, mãi mãi trường tồn, vĩnh hằng với thời gian. Cũng
như tự muôn đời, tình yêu vẫn luôn là một khát vọng cháy bỏng trong trái tim con người, nhất là
tuổi trẻ. Xuân Diệu từng khẳng định: Làm sao sống được mà không yêu – Không nhớ không thương
một kẻ nào ! .Tình yêu đến với tuổi trẻ như một lẽ tự nhiên, thường tình, bởi thế nhà thơ khẳng định:
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Hình tượng thơ có sự tương đồng: biển tựa như con người, sóng giống như nhịp đập của trái
tim yêu đương, còn biển thì còn sóng, còn con người thì còn khát vọng tình yêu. Cũng như những
con sóng muôn đời dào dạt, sôi nổi trong lòng biển, tình yêu luôn là khát vọng vĩnh hằng của con
người, và mãnh liệt nhất là của tuổi trẻ. Những con sóng trào dâng cuồn cuộn khiến biển lớn muôn
đời trẻ trung, tình yêu đem đến cho con người niềm vui tràn trề và sức sống mãnh liệt tuổi thanh
xuân.
c. Khổ thơ 8:
Nhà phê bình Chu Văn Sơn khi nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh đã có nhận định tinh
tế: “Ở đó, trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa
biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình,…”. Quả thật như thế , mới
ở khổ thơ trước chị viết với tất cả niềm tin yêu vô bến bờ nhưng ở khổ thơ này lại đầy ắp
những âu lo, dự cảm.
Thế giới của thời gian và không gian được Xuân Quỳnh đặt cạnh nhau trong sự tương phản và
đối lập giữa cái hữu hạn (kiếp người) và cái vô hạn (thời gian và biển lớn):
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
“Cuộc đời” và “năm tháng”, “biển rộng” và “mây trời” và kiểu câu điều kiện “tuy –vẫn; dẫu –
vẫn” kết hợp các tính từ “dài – rộng – xa” tạo nên nỗi day dứt ám ảnh. Đặt cái hữu hạn vào cái vô
hạn tận của thời gian, nữ sĩ như thấy mình nhỏ bé, mong manh. Cuộc đời thì dài nhưng năm tháng
vẫn cứ thế đi qua; biển dẫu rộng nhưng không níu nổi một đám mây bay về vuối chân trời; thời gian
vô thuỷ vô chung mà quỹ thời gian tuổi xuân của mỗi con người lại hữu hạn. Cuộc đời tưởng là dài,
nhưng trong dòng thời gian chảy trôi bất tận, giữa trời biển bao la, con người có thể chỉ là một
thoáng phù vân. Với  người phụ nữ, điều ám ảnh nhất vẫn là sợ sự tàn phai, tàn phai năm tháng, tàn
phai của tuổi trẻ, của nhan sắc và theo đó là sự tàn phai của tình yêu. Nỗi lo âu đó ở phụ nữ là điều
có thật
Tình yêu có sức mạnh vô biên nhưng cũng đầy mong manh bởi “lời yêu mỏng mảnh như làn
khói – ai biết lòng anh có đổi thay”. Và cả chính hình ảnh “mây vẫn bay về xa” kia trong câu thơ
cuối cũng đầy những ám ảnh. Phải chăng vì biết trước không có gì vĩnh viễn – “hôm nay yêu mai
chắc phải xa rồi” nên anh cũng như đám mây trời phiêu du kia bay về bến bờ khác, dù vòng tay em
có rộng như biển, có dài như sông cũng không thể nào níu giữ được anh trong vòng tay. Chính sự
nhạy cảm và day dứt của cái tôi Xuân Quỳnh trước thời gian và kiếp người; giữa đổ vỡ và tin yêu đã
làm cho hồn thơ này trở nên tha thiết mãnh liệt hơn giữa cuộc đời.
d. Khổ thơ 9:
Xuân Diệu cũng đã từng rất sợ thời gian nên cứ thế mà sống cuống quýt, “vội vàng”,
“giục dã”: “gấp đi em, anh rất sợ ngày mai – đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn” nên với
Xuân Diệu – sống là phải hưởng thụ, chiếm lĩnh để không hoài, không phí những tháng năm
của tuổi trẻ. Và với Xuân Quỳnh, những âu lo, dự cảm đã mang đến một khát vọng mãnh liệt
– khát vọng được bất tử hoá tình yêu:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Mở đầu bài thơ là con sóng bỏ bờ để “tìm ra tận bể” và khổ thơ cuối cùng này như tâm nguyện
đã hoàn thành của sóng. Còn em thì sao?
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Hai chữ “làm sao” như tả hết được những trăn trở, băn khoăn, niềm mong mỏi, khát khao
mãnh liệt của người phụ nữ. Hai chữ “tan ra” gợi ra nhiều cách hiểu. “Tan ra” không phải là mất đi,
không phải là để vào cõi hư vô mà “tan ra” là hi sinh, là dâng hiến, là khao khát được hoá thân cái
tôi cá thể vào “trăm con sóng nhỏ” để hoà mình vào “biển lớn tình yêu” để vĩnh hằng hoá, bất tử hoá
tình yêu; cũng là một cách để vượt qua giới hạn mong manh của cõi người.
“Tan ra” còn là để vượt qua mọi giới hạn không gian, thời gian để trường tồn cùng tình yêu.
Trong phút giây giao hoà của cảm xúc thì “tan ra” hay “tan vào nhau” đều là biểu hiện của sự hoà
nhập trọn vẹn, thăng hoa. Yêu và mong ước được hiến dâng và hi sinh cũng chính là khao khát được
sống hết mình vì tình yêu. Có như thế tình yêu mới có thể tồn tại vĩnh hằng cùng với thời gian; có
như thế tình yêu mới chiến thắng được cái hữu hạn, mong manh của đời người.
Hai câu thơ cuối khép lại đoạn thơ như lời kết cho một quan niệm tình yêu hoàn mỹ:
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Ở đây, Xuân Quỳnh đã đặt “biển lớn” – không gian vô tận bên cạnh “ngàn năm” thời gian vô
cùng. Ý thơ vì thế trở nên mênh mông như tình yêu nối dài vô tận. Đúng là khi hoà vào biển lớn tình
yêu của nhân loại thì tình yêu của những cá thể sẽ không còn cô đơn, không còn mong manh nữa.
Sự trường tồn bất tử với thời gian, không gian làm nỗi day dứt hữu hạn và những mong manh của
cõi người như cũng tan biến. Ở đó chỉ còn thấy sóng vỗ bờ và  “còn vỗ” là còn yêu, còn vỗ bờ là còn
tồn tại. Như em còn sống thì sẽ còn yêu anh và sẽ còn yêu anh “cả khi chết đi rồi” (Xuân Quỳnh).
e. Nghệ thuật: Thành công của đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đó là nhờ vào một số
thủ pháp nghệ thuật: Thể thơ năm chữ tạo âm điệu của những con sóng biển. Nghệ thuật đối lập,
nhân hóa, ẩn dụ… Tất cả đã tạo nên những vần thơ tình yêu hay nhất mọi thời đại.

3. Từ đây ta có thế nhận xét về sự vận động của hình tượng sóng và em
Trước hết là sự vận động của hình tượng sóng: Ở hai khổ đầu, sóng chỉ đơn thuần là một chi
tiết nghệ thuật được nhân vật trữ tình chiêm ngưỡng với những suy ngẫm sâu xa để từ đó phát hiện
giữa sóng và em có những tương đồng đến kì lạ: đầy phức tạp, bí ân nhưng đã khái quát hóa thành
quy luật trường tồn. Đến hai khổ cuối, sóng không còn đóng vai một đối tượng khơi gợi cảm xúc
nữa mà thật sự đã trở thành một hình tượng song hành, đồng hiện cùng với hình tượng “em”. Khát
vọng của em đã tan ra thành “trăm con sóng”; giai điệu của sóng cũng là lời bài hát ca ngợi một tình
yêu trường tồn để âm giai của cả em và sóng cùng hòa nhịp đến vĩnh hằng “ngàn năm còn vỗ”.
Tiếp đến là sự vận động của hình tượng “em”: Em ở hai khổ thơ đầu là một cái tôi đang nung
nấu một tình yêu cháy bỏng, đầy cung bậc cảm xúc. Cái tôi ấy dễ dàng rung động trước hình ảnh
giầu tính biểu cảm với tình yêu như sóng và cái tôi ấy cũng ẩn chứa bao giai điệu đẹp của khát vọng,
của những nỗi bồi hồi trong trái tim của một cô gái trẻ. Đến hai khổ cuối, qua một hành trình đồng
hành cùng sóng với những bí ẩn không lời đáp, với nỗi nhớ, với khát khao vượt qua tất cả để hướng
về nhau, cái tôi tình yêu trong em dường như đã có sự trưởng thành. Không còn là một cái tôi đầy
xúc cảm phức tạp nữa mà suy tư của em đã tập trung cho những lo âu, trăn trở về một cuộc đời ngắn
ngủi, hữu hạn có thể biến tình yêu thành điểm chết tuyệt vọng. Đó vẫn là một cái tôi đầy mãnh liệt,
khao khát nhưng không phải từ một ái tình liều lĩnh, bất chấp mà là cái tôi muốn hòa vào sự bất tử
của thiên nhiên để hát mãi khúc tình ca.
Như vậy, Em và sóng từ hai hình tượng tách bạch, đơn lẻ đã có sự hòa quyện, đồng điệu trong
ngòi bút đầy tinh tế. Sự vận động của hai hình tượng cũng là sự chuyển biến trong mạch cảm xúc
của Xuân Quỳnh, nhà thơ vốn dĩ đã đầy khao khát yêu thương.
III. KẾT BÀI
Tóm lại, bốn khổ thơ mở đầu và kết thúc bài thơ Sóng là bốn khổ thơ hay nhất của bài thơ.
Qua đó người đọc cảm nhận được trái tim yêu của Sóng và người phụ nữ rất nồng nàn say đắm,
mãnh liệt cuộn trào nhưng cũng rất nữ tính đáng yêu. Đoạn thơ giúp ta hiểu được tình cảm và hồn
thơ Xuân Quỳnh, dù trong mọi hoàn cảnh như thế nào thì tiếng thơ của chị vẫn là tiếng thơ hồn hậu
với những khát vọng hạnh phúc đời thường đúng như lời chị viết:
Chỉ riêng điều được sống cùng nhau
Niềm vui sướng với em là lớn nhất
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim chẳng đập vì anh!

ĐỀ 3: Trước muôn trùng sóng bể


…Con sóng dưới lòng sâu Em nghĩ về anh, em
Con sóng trên mặt nước Em nghĩ về biển lớn
Ôi con sóng nhớ bờ Cuộc đời tuy dài thế
Ngày đêm không ngủ được Năm tháng vẫn đi qua
Lòng em nhớ đến anh Như biển kia dẫu rộng
Cả trong mơ còn thức Mây vẫn bay về xa

Dẫu xuôi về phương bắc Làm sao được tan ra


Dẫu ngược về phương nam Thành trăm con sóng nhỏ
Nơi nào em cũng nghĩ Giữa biển lớn tình yêu
Hướng về anh - một phương Để ngàn năm còn vỗ.
(Sóng – Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12, Tập
Ở ngoài kia đại dương một, NXB Giáo dục Việt Nam)
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ
trong tình yêu thể hiện trong đoạn thơ.
BÀI LÀM
I. Mở bài:
Trong các nhà thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ của tình
yêu. Chị viết nhiều, viết hay về tình yêu với những tác phẩm tiêu biểu như: “Sóng”, “Thuyền và
Biển”, “Hoa dọc chiến hào”… trong đó “Sóng” là một bài thơ đặc sắc rất tiêu biểu cho phong cách
thơ tình yêu của Xuân Quỳnh. Bài thơ Sóng để lại giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu
biểu là đoạn thơ sau đây:
“Con sóng dưới lòng sâu,
...
Để ngàn năm còn vỡ”
II. Thân bài
1. Khái quát trước khi phân tích
Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế của nhà thơ ở vùng biển Diêm
Điền, tỉnh Thái Bình. Bài thơ in trong tập “Hoa dọc chiến hào”( 1968). Bài thơ gồm chín khổ với
nội dung miêu tả về sóng biển và diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình “em”, người phụ nữ đang
yêu. Đoạn thơ thuộc khổ thơ thứ năm và sáu của bài thơ.
Hình tượng trung tâm của bài thơ là “Sóng”. Xuân Quỳnh đã nối tiếp truyền thống trong thơ ca
là lấy sóng để hình dung tình yêu, đem sóng nước so sánh với sóng tình. Dù tiếp nối truyền thống
văn học nhưng “sóng” của Xuân Quỳnh vẫn có những nét độc đáo riêng. Cả bài thơ là những con
sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện với những con
sóng muôn trùng. Tác giả nói với mình, nói với người về tình yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn với khát
vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.
Trong bài thơ còn có một hình tượng trữ tình nữa, đó là “em”. “Em” cũng là “sóng” mà
“sóng” cũng là “em”. “Sóng” là một hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ.
“Sóng” và “em” vừa hòa nhập làm một, lại vừa phân đôi ra để soi chiếu vào nhau. Tâm hồn của
người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng biểu hiện những trạng thái của
lòng mình.
2. Cảm nhận đoạn thơ:
Sau khi nêu lên đặc điểm của những con “sóng” cũng là đặc điểm của tình yêu, sang khổ năm,
cũng từ hình tượng sóng, Xuân Quỳnh nhận thức thêm một đặc trưng nữa của tình yêu là nỗi
nhớ. Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ.
“Con sóng dưới lòng sâu,
Con sóng trên mặt nước,
Ôi con sóng nhớ bờ,
Ngày đêm không ngủ được,
Lòng em nhớ đến anh,
Cả trong mơ còn thức.”
Đây là khổ thơ có số lượng câu thơ nhiều nhất trong bài, 6 câu thơ đứng giữa bài thơ, như
một đợt sóng lòng cồn lên cao nhất từ tâm điểm của bào thơ. Bốn câu đầu cái tôi trữ tình nhập vào
sóng để giãi bày tâm sự. Hai câu sau cái tôi trữ tình tách ra để bày tỏ lòng mình, nhập vào rồi tách ra
như vậy tuy hai mà vẫn là một trong một dòng cảm xúc tuôn chảy.
Ở hai dòng thơ đầu, tác giả chợt khám phá ra một điều giản dị nhưng lại vô cùng sâu
sắc: đại dương không bao giờ được yên bình, êm ả bởi nó luôn mang trong mình hai con
sóng :
Con sóng dưới lòng sâu,
Con sóng trên mặt nước,
Đặt hai câu này trong mối quan hệ với những câu thơ trước đó của tác phẩm sẽ thấy những con
sóng mà tác giả nói đến ở đoạn thơ này là con sóng ở bể lớn tình yêu, là con sóng tình yêu đã vượt
ra khỏi giới hạn chật hẹp để đến với một không gian rộng lớn hơn, và thực sự là chính mình. Con
sóng tình yêu càng có thêm những trăn trở để lí giải, cắt nghĩa về tình yêu của em. Biển có những
Con sóng dưới lòng sâu và trên mặt nước, có khi con sóng trên mặt nước lặng lẽ nhưng con sóng
dưới lòng sâu lại rất ồn ào. Những gì lạ lùng và khó hiểu ấy của sóng cũng chính là những gì khó
hiểu của em. Khi nhắc đến hai con sóng để biếu thị cho tình yêu thì lời thơ lại mở ra liên tưởng
khác: em khi yêu đã sánh tình yêu của mình với biển, bởi người phụ nữ khi yêu có cả một đại dương
tình cảm, biển cũng như em đã không thể nào yên vì có anh. Chính những con sóng này là nhịp đập,
là trái tim, là yếu tố làm nên sức sống của biển cả, bởi sóng chẳng bao giờ yên nghĩ, chẳng bao giờ
ngừng vỗ. Về điều này, Xuân Quỳnh đã có cách lí giải thật bất ngờ, thú vị:
Ôi con sóng nhớ bờ,
Ngày đêm không ngủ được,
Như thế, con sóng ngày đêm không ngủ được cứ dào dạt triền miên, cứ cồn cào da diết bao
trùm lên không gian, thời gian là tại bởi nỗi nhớ, tại bởi sóng nhớ bờ . Thực ra, mọi con sóng đều có
bến bờ của nó và dù còn xa bờ bao nhiêu nữa thì sóng vẫn hướng tới bờ với một niềm khao khát
thương nhớ không nguôi. Sóng nhớ bờ là một quy luật vĩnh cửu- quy luật của muôn đời, của tự
nhiên và ở đây nỗi nhớ ấy của sóng đã được xem là một trong những cung bậc, một trong những giai
điệu của tình yêu. Nhưng nói như thế dường như vẫn chưa đủ, chưa thoả, chưa diễn tả hết sự mãnh
liệt, trào dâng của nỗi nhớ, nên người con gái đang yêu có lẽ cũng không cần phải giấu giếm những
tình cảm chân thành của lòng mình cho nên một lần nữa nỗi nhớ lại được thể hiện ra một cách trực
tiếp ở hai câu thơ :
Lòng em nhớ đến anh,
Cả trong mơ còn thức.
Xuân Quỳnh đã thể hiện nỗi nhớ như đã thường trực trong mọi không gian và thời gian, đã lan
toả đầy cõi lòng, không chỉ ngự trị trong ý thức mà còn ăn sâu vào cả tiềm thức, đi cả vào giấc mơ-
cái thức trong mơ mới là sự thật của nỗi lòng. Em thức để chăm chút, nâng niu từng khoảnh khắc
hạnh phúc, dường như em chỉ sợ một giây phút chợp mắt là tất cả sẽ tan biến vào hư vô. Rõ ràng
Xuân Quỳnh đã nối dài tình yêu bằng giấc mơ, bằng cách xoá nhoà khoảng cách giữa mộng và thực.
Cách nói như vậy rất đúng với bản chất của tình yêu. Không phải sự táo bạo nào cũng chứng tỏ một
tình yêu chân chính, nhưng tình yêu chân chính không thể thiếu mê say, cuồng nhiệt.
Tình yêu sôi nổi nồng nhiệt của trái tim người phụ nữ cũng lại là một tình yêu chân
thành, trong sáng, một tình yêu hết mình và đòi hỏi sự duy nhất tuyệt đối, sự gắn bó thủy chung:
Dẫu xuôi về phương bắc,
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ,
Hướng về anh - một phương.
Hình như thể hiện tình yêu bằng nỗi nhớ vẫn chưa yên tâm, mà phải diễn đạt sao đây cho đủ,
cho đến tận cùng, vì thế khổ thơ này xuất hiện. Những cặp từ trái nghĩa “Dẫu xuôi”, “dẫu ngược”,
“phương Bắc”, “phương Nam” là những từ cụ thể nói lên độ dài và những cách trở trong tình yêu.
Dân gian hay nói: “ xuôi nam ngược bắc”, Xuân Quỳnh đã diễn đạt ngược lại để khẳng định: dù
cuộc đời, trời đất có thay đổi, có quay cuồng, đảo lộn, thay phương đổi hướng thì tình yêu của em
cũng chỉ dành cho một người là anh mà thôi. Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng
định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất dịch. Đến đây trong lời thơ không
còn em và sóng, chỉ còn em và anh – với tình yêu:
“Chỉ còn em và anh
Cùng tình yêu ở lại”
(Thơ tình cuối mùa thu)
Câu thơ giống như một lời thề. Thề rằng dù em phải ngược xuôi vất vả gian truân, lên thác
xuống ghềnh cũng chỉ có anh là người duy nhất. Câu thơ giản dị mà sâu sắc hơn tất cả mọi lời vàng
đá. Không gian thì có bốn phương tám hướng, nhưng tình yêu chỉ chấp nhận một phương. Có lẽ đây
cũng là quan niệm về tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh: tình yêu phải gắn với lòng chung thủy.
Tình yêu không đơn thuần là tình yêu mà tình yêu đi liền với cái tốt, cái đẹp, cái cao cả là nỗi nhớ
mãnh liệt, lòng thủy chung tuyệt đối. Khổ thơ toát lên vẻ đẹp của tình yêu đầy nữ tính kín đáo, dịu
dàng, táo bạo, mãnh liệt bởi nhiều khát khao và đam mê nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống
của người phụ nữ phương Đông và người phụ nữ Việt Nam yêu tha thiết, chân thành và luôn hướng
tới hôn nhân. Những câu thơ như được vắt ra từ chính cuộc đời Xuân Quỳnh đầy đau thương, mất
mát, hụt hẫng về tình cảm. Cảm thông cho cuộc đời Xuân Quỳnh, ta càng hiểu thêm tình cảm của nữ
sĩ.
Tiếp theo đó, nhà thơ diễn tả niềm khao khát của sóng cũng là của trái tim em trong tình
yêu:
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Sóng có trăm ngàn con sóng nhỏ, sóng lớn đều vượt đại dương bao la để tới bờ. Sóng khao
khát tới bờ như em khao khát có anh. Sóng vượt qua mọi trở ngại để tới bờ như em bước qua mọi
khó khăn, cách trở để cập bến hạnh phúc.
Trong thơ, Xuân Quỳnh rất nhạy cảm với sự chảy trôi của thời gian và ý thức về thời gian
thường đi liền với niềm lo âu và khát khao nắm lấy hạnh phúc trong hiện tại. Tuy lúc này, thời gian
với nhà thơ dường như còn ở cả ở phía trước, cuộc đời còn rất rộng dài nhưng ý thức về sự hữu
hạn của thời gian đời người và sự mong manh, khó bền chặt của hạnh phúc đã hiện ra thành
một thoáng lo âu:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Ở đây, nhà thơ quan niệm biển dẫu rộng dài tới đâu thì cũng vẫn có những giới hạn của
nó và những đám mây lững lờ, vô định kia cũng không thể dừng lại mãi mãi trên biển mà chúng sẽ
tiếp tục cuộc hành trình trên bầu trời để về cõi xa xăm, vô tận. Cũng như thế, cuộc đời con người tuy
có dài nhưng không phải là vĩnh viễn, bất tử. Sự sống, tình yêu ở thời đại nào cũng luôn hữu hạn
trong tương quan với cái vô thuỷ, vô chung, vô cùng, vô tận của thiên nhiên, vũ trụ. Trước cái vĩnh
hằng của tạo hoá, trước dòng chảy vô hồi, vô hạn của cuộc đời, tình yêu của con người mãi mãi chỉ
là “bóng câu qua cửa sổ”. Đó là cảm thức về thời gian. Dường như càng yêu mãnh liệt, càng khát
khao gắn bó, con người càng hay nghĩ về thời gian ! Người phụ nữ đang cháy bóng khát khao yêu
và được yêu trong Sóng cũng không phải là ngoại lệ. Con người dù không mong đợi nhưng năm
tháng vẫn cứ bình thản, lặng lẽ trôi qua theo quy luật nghiệt ngã của thời gian. Như thế tất cả những
cái dài rộng, mênh mông kia rồi cùng sẽ qua đi cùng năm tháng, rồi cũng sẽ lùi vào dĩ vãng, cũng sẽ
bay mãi về cõi xa xăm, chỉ có tình yêu nồng nhiệt, đằm thắm là còn lại và vượt qua tất cả. Một niềm
tin như thế quả là đáng trân trọng. Niềm tin ấy được diễn tả bằng thủ pháp so sánh và được khẳng
định vững chắc bằng những cặp từ quan hệ: tuy-vẫn, dẫu – vẫn đã thể hiện một cách lập luận chặt
chẽ, có sức thuyết phục và truyền cảm mạnh mẽ đối với người đọc. Những lo âu đối với Xuân
Quỳnh không hề dẫn đến sự thất vọng mà chỉ càng thúc đẩy một cách ứng xử tích cực : sống hết
mình, sống mãnh liệt trong tình yêu để có thể vượt qua và thắng được cái hữu hạn của thời gian mỗi
đời người . Nhà thơ đã đối mặt với sự trôi chảy của thời gian, sự vô tận của không gian để suy ngẫm
về những kiếp người bé nhỏ, ngắn ngủi. Cuộc đời con người đúng là dài thế nhưng thực ra lại rất
ngắn bởi năm tháng vẫn đi qua, hạnh phúc chỉ là những phút giây ngắn ngủi.
Từ niềm tin vững chắc ấy, bài thơ được khép lại bằng nỗi khát khao chân thành, mãnh liệt
về một tình yêu thuỷ chung, vĩnh hằng :
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
Hai tiếng làm sao gợi lên được một niềm mong ước cháy bỏng trong tâm hồn em. Chỉ
có một cách duy nhất để tình yêu trường tồn với thời gian, để trái tim yêu được đập mãi. Đó là
“Làm sao được tan ra - Thành trăm con sóng nhỏ - Giữa biển lớn tình yêu - Để ngàn năm còn vỗ”.
Đó là khát vọng được vĩnh cửu hoá tình yêu, được hoà tình yêu của mình vào khối tình chung của
nhân loại, như con sóng hoà vào đại dương mênh mông, bất tận.
Có thể thấy, trước biển Xuân Quỳnh đã khơi dậy được những khát khao mới mẻ, được còn mãi
một tình yêu lớn. Khát vọng tình yêu cũng là khát vọng sống mãnh liệt đủ đầy da diết:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
(Tự hát)
Từ hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình
yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn trong
tình yêu đẹp. Hai khổ thơ cuối chính là những băn khoăn trăn trở, những suy nghĩ về thời gian và
khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu: yêu và làm thế nào để tình yêu được trường tồn, bất tử.
Về nghệ thuật, đoạn thơ dùng thể thơ 5 chữ, âm điệu sâu lắng, dạt dào ; biện pháp tu từ nhân
hóa, ẩn dụ, đối lập,…Thể thơ đó được nhà thơ sử dụng rất thích hợp với việc diễn tả nhịp điệu của
sóng. Cùng với hình tượng sóng, đoạn thơ này còn có một hình tượng nữa là em – cái tôi trữ tình của
nhà thơ. Sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hoá thân, phân thân của
cái tôi trữ tình. Hai “nhân vật” trữ tình sóng và em tuy hai mà một, đan cài, quấn quít với nhau như
hình với bóng, song song tồn tại, soi sáng, bổ sung cho nhau nhằm diễn tà một cách mãnh liệt hơn,
sâu sắc và thiết tha hơn khát vọng tình yêu đang cuồn cuộn trào dâng trong trái tim nữ thi sĩ. Lời thơ
giản dị, hình ảnh sáng tạo, cảm xúc gắn với triết lí; thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình
yêu; sự hài hoà của nghệ thuật và nội dung tạo nên cái hay của đoạn thơ, bài thơ.
3.3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
III. Kết bài

Tóm lại, qua đoạn thơ, tác giả đã ý thức về sự hữu hạn của thời gian đời người và nỗi khát
khao chân thành, mãnh liệt về một tình yêu thuỷ chung, vĩnh hằng trong trái tim của người phụ nữ
khi yêu và được yêu. Đoạn thơ nói riêng, bài thơ nói chung là tiếng lòng riêng của Xuân Quỳnh về
tình yêu. Nó vừa là những cung bậc cảm xúc, vừa là những trăn trở, những khát khao bỏng cháy
trong tình yêu của chị. Tiếng nói riêng của một người phụ nữ nhưng đã đem đến cho văn học Việt
Nam một tư tưởng mới mẻ, hiện đại về tình yêu chân chính. Sóng xứng đáng là những bông “Hoa
dọc chiến hào” của những năm tháng chiến tranh 1968. Quả thực : “Thơ Xuân Quỳnh là tiếng
nói đầy cảm xúc và có sắc thái rất riêng, đậm nữ tính của một tâm hồn phụ nữ thông minh, sắc
sảo, giàu yêu thương”.

PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN
1.Nhận xét về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu thể hiện trong đoạn thơ:
Thông qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh thể hiện sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ
trong tình yêu: nhạy cảm, tinh tế, thương nhớ nồng nàn, thủy chung son sắt; nhiều âu lo song cũng
đầy khát vọng, biết vượt lên trên mọi giới hạn của đời người để vĩnh viễn hóa tình yêu. Đó là vẻ đẹp
của một trái tim yêu vừa truyền thống, vừa hiện đại.
2. Nhận xét về quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh:
Xuân Quỳnh thể hiện 1 quan niệm tình yêu mang tính chất truyền thống. Biểu hiện cụ thể qua
nỗi nhớ của người phụ nữ đang yêu được ẩn dụ kín đáo qua hình tượng sóng. Tình yêu còn gắn liền
với sự chung thủy, với khát vọng về một mái ấm gia đình hạnh phúc.
Bên cạnh đó, bài thơ thể hiện quan niệm mới mẻ hiện đại của Xuân Quỳnh về tình yêu. Đó là
một tình yêu với nhiều cung bậc phong phú, đa dạng: dữ dội, ồn ào, dịu êm, lặng lẽ. Người phụ nữ
khi yêu chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt và rung động rạo rực trong lòng
mình “Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể”, khao khát kiếm tìm một tình yêu lớn của
cuộc đời, dám sống hết mình cho tình yêu, hòa nhập tình yêu cá nhân vào tình yêu rộng lớn của
cuộc đời, với khát khao được “tan ra” để hòa vào “biển lớn tình yêu”.
Hai quan niệm này không đối lập mà bổ sung cho nhau làm nên vẻ đẹp tâm hồn của người phụ
nữ trong tình yêu hiện lên qua hình tượng sóng. Quan niệm ấy đã góp phần tạo nên thành công cho
thi phẩm, tạo dấu ấn trong phong cách thơ XQ, qua đó người đọc thấy được khát vọng tình yêu cao
đẹp là khát vọng sống vô cùng nhân văn.
3. Liên hệ tình yêu của tuổi trẻ hiện nay:
Tuổi trẻ ngày nay vẫn phát huy được vẻ đẹp của tình yêu trong bài thơ: Đó là sự thủy chung
trong tình yêu, niềm khát khao tin tưởng vào tình yêu đích thực, chủ động vươn tới tình yêu tốt
đẹp... Tuy nhiên có một số bạn trẻ quan niệm sai lầm trong tình yêu: Họ thực dụng trong tình yêu…
đây là điều cần phê phán.
4. Nét riêng trong cách thể hiện tình yêu của Xuân Quỳnh:
Trước hết, nữ sĩ đã xây dựng hai hình tượng sóng đôi: sóng và em, tình yêu bởi thế có lúc được
thể hiện trực tiếp, có lúc thể hiện qua cách nói ẩn dụ. Nét độc đáo thứ hai là tác giả đã xây dựng hình
tượng nhân vật trữ tình – nguời phụ nữ vừa mang chiều sâu của tình cảm vừa có sự nặng trĩu của lí
trí; vừa có sự lo âu, vừa có sự tin tưởng về tình yêu. Tất cả được thể hiện qua cách nói mộc mạc,
dung dị, gần gũi.
5. Bình luận vẻ đẹp tình yêu của nhân vật trữ tình trong bài thơ
Qua hình tượng sóng, bài thơ khắc họa vẻ đẹp tình yêu của người phụ nữ: thiết tha, nồng nàn,
chung thủy, muốn vượt qua thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó ta thấy vẻ
đẹp tâm hồn của nhân vật trữ tình, cái tôi Xuân Quỳnh chân thành đằm thắm, mãnh liệt và luôn da
diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn
lao của con người.
6. Nhận xét về vẻ đẹp nữ tính của Xuân Quỳnh:
Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của người phụ nữ viết về người phụ nữ .Vừa mang nét hiện đại
vừa có nét truyền thống. Mạnh mẽ, tạo bạo nhưng vẫn nhưng vẫn say đắm, dịu dàng, thủy chung. Từ
đoạn trích, người đọc thấy được những quan niệm, khát vọng về tình yêu, hạnh phúc mãnh liệt có cả
những dự cảm âu lo của nữ sĩ. Những câu thơ giống hệt như những giọt nước sau cơn mưa qua còn
đọng lại trên lá cây, gieo vào lòng người đọc những rung động ngọt ngào. Có khả năng khơi gợi
trong lòng độc giả về niềm tin vào hạnh phúc, kết quả tốt đẹp của tình yêu...Tất cả những yếu tố đó
được thể hiện bởi một hình thức nghệ thuật độc đáo: Ngôn ngữ trong sáng, lắm khi mộc mạc như
một lời nói thường; tâm tình được bộc bạch tự nhiên, chân thành;giọng thơ biến hóa đa dạng- lúc
cồn cào da diết, khi lắng trầm suy tư, lúc cuộn dâng khắc khoải…nhưng đều hội tụ ở cái đằm thắm,
dịu dàng, nữ tính. Đó cũng chính là những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật thơ của Xuân
Quỳnh
7. Nhận xét về cách bày tỏ khát vọng tình yêu của nhà thơ Xuân Quỳnh.
Đoạn thơ nói riêng và bài thơ “Sóng” nói chung bộc lộ cái tôi cá nhân của thi sĩ Xuân Quỳnh
trong tình yêu, đó là cái tôi giàu cảm xúc và khát vọng mãnh liệt .Không che dấu, không ngại ngùng,
Xuân Quỳnh rất mạnh mẽ, rất hiện đại trong cách bày tỏ khát vọng tình yêu: được vượt lên sự hữu
hạn của đời người, được hóa thân vào con sóng bất tử, được hi sinh, dâng hiến, được tan chảy vào
bờ cõi không giới hạn. Qua cách bày tỏ tình yêu ấy, ta thấy hiện lên một Xuân Quỳnh với một trái
tim yêu cháy bỏng, một tâm hồn yêu nồng nàn, rất mạnh mẽ mà cũng rất chân thật, rất đời, rất
“người”.
8.  Nhận xét  nét độc đáo trong nghệ thuật của Xuân Quỳnh
Thể thơ 5 chữ với cách ngắt nhịp hồi hoàn tạo âm điệu như những sóng biển, sóng lòng. 2 hình
tượng nghệ thuật sóng và em song song và hòa nhập tạo nên kết cấu ấn tượng cho đoạn thơ, khiến
cảm xúc trong tình yêu của Xuân Quỳnh vừa có nét chủ quan riêng tư vừa hồi lên những nhịp đập
tình yêu của người phụ nữ nói chung. Các phép điệp từ điệp ngữ, cách ngắt nhịp tạo nên giọng điệu
tha thiết lúc si mê tha thiết, lúc trăn trở  bối rối.
Nét độc đáo trong nghệ thuật có tác dụng trong việc thể hiện nội dung: Vẻ đẹp tâm hồn người
phụ nữ trong tình yêu: nỗi nhớ tha thiết, sự chung thủy son sắt, niềm tin mãnh liệt vào hạnh phúc
cuối cùng. Thấy được phong cách thơ Xuân Quỳnh: tiếng thơ đầy cảm xúc chân thành, mãnh liệt với
khát khao về hạnh phúc bình dị đời thường.

BÀI 6: CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

- Nguyễn Minh Châu -

ĐỀ 1:
Trong phần mở đầu truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, nhà văn Nguyễn Minh Châu viết:
    (1)  Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa. Tôi rúc vào bên
bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa, đang lúi húi thay phim, lúc ngẩng lên thấy một
chuyện hơi lạ: một chiếc thuyền lưới vó mà tôi đoán là trong nhóm đánh cá ban nãy đang chèo
thẳng vào trước mặt tôi.
Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh  “đắt” trời cho như
vậy : trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ
hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu
vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang
hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai
chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét
đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở
nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản
thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái
chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.( … )
Và kết thúc :
(2) Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.
     Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở
nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ , tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần
ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi
xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm
ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc
phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ
bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…
(Trích –  Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục,2008, tr.70 và tr.77-78)
Anh/chị hãy trình bày cảm nhận của mình về những khám phá, suy ngẫm của nghệ sĩ nhiếp
ảnh Phùng trong những đoạn văn trên. Từ đó làm nổi bật nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn.

I. Mở bài: 
   Nguyễn Minh Châu: “Là một trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất
của văn học”. Trước cách mạng sáng tác của ông thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng
mạn, sau cách mạng bằng sự tìm tòi, đổi mới, ngòi bút của ông hướng hẳn vào những vấn đề thế sự,
đời tư, đi sâu vào cuộc sống của con người. Chiếc thuyền ngoài xa khai thác sâu sắc số phận cá nhân
và thân phận con người trong cuộc sống muôn mặt đời thường. Tác phẩm mang đặc trưng phong
cách sáng tác của ông sau cách mạng. Có thể nói ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm đã được nhà văn thể
hiện sinh động thông qua quá trình chuyển biến về nhận thức của nhân vật Phùng trước những
khám phá, phát hiện của họ về nghệ thuật và đời sống.

II. Thân bài

1, Khái quát

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn minh Châu, rất
tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai.
Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh có có nhiều mặt trái,
nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985),
sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987). “Chiếc thuyền
ngoài xa” là một tác phẩm có tình huống truyện rất độc đáo. Nó được thể hiện qua những phát hiện
chân thực của nhân vật Phùng. Tình huống truyện đầy bất ngờ và chứa nhiều câu chuyện mà qua đó
tạo bước ngoặt trong nhận thức của nhân vật về nghệ thuật và cuộc sống.

2. Cảm nhận đoạn trích:

Mở đầu tác phẩm là một khung cảnh tuyệt mĩ, là cảnh đắt trời cho với chiếc thuyền mơ mộng,
thanh bình trong khung cảnh bầu trời sương lãng đãng, lại pha chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu
vào. Cùng với đó là vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im như tượng trên chiếc mui khum khum
đang hướng mặt vào bờ. Quả thực đây là bức họa kì diệu, mĩ lệ mà tạo hóa đã ban tặng cho con
người. Khung cảnh này là khung cảnh mà bất cứ người nghệ sĩ nào cũng mong muốn bắt gặp một
lần trong đời làm nghệ thuật của mình. Trước khung cảnh ấy, sao người nghệ sĩ có thể không rung
động, Phùng cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc, gột rửa và một niềm hạnh phúc trào dâng trong
lòng. Phùng vừa hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao cho, nhưng hơn cả là Phùng đã tìm thấy
tuyệt tác nghệ thuật.

Nhưng đằng sau bức tranh tuyệt đẹp đó là sự thật đau lòng đến đáng kinh ngạc. Hiện thực trần
trụi mở ra trước mắt Phùng, người đàn bà xấu xí, mặt rỗ, đi sau là người đàn ông cao lớn, dữ dằn,
tấm lưng rộng và cong như lưng của một chiếc thuyền… Thì ra đằng sau cái đẹp tuyệt mĩ mà Phùng
vừa mới phát hiện lại là khung cảnh vô cùng tàn nhẫn, nơi mà bạo lực gia đình diễn ra hết sức khủng
khiếp. Người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục lẳng lặng đi trước, còn người đàn ông đi phía sau, không
nói một lời, nhưng bỗng nhiên trở nên hùng hổ, mặt mũi đỏ gay dùng ngay chiếc thắt lưng vụt tới
tấp vào người vợ. Trước khung cảnh ấy người nghệ sĩ Phùng“kinh ngạc đến thẫn thờ”, “mấy phút
đầu cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “chết lặng”… Khung cảnh ấy đã cho nghệ sĩ Phùng nhận thức
đầy đủ và chân thực hơn về cuộc sống: cuộc sống vốn không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng rất
nhiều nghịch lí, trong cuộc sống luôn tồn tại cả xấu – tốt, đúng – sai, rồng phượng, rắn rết. Bởi vậy,
khi nhìn nhận bất cứ vấn đề nào cũng phải nhìn sâu, nhìn kĩ, đừng vội vã đánh giá sự vật hiện tượng
qua vẻ bề ngoài của nó.

Khép lại truyện ngắn là chi tiết bức ảnh nghệ thuật mà Phùng đã chụp được, đồng thời cũng là
một trong những chi tiết đắt giá nhất thể hiện được quan niệm về cuộc sống và nghệ thuật của
Nguyễn Minh Châu, chi tiết có thể khơi dậy những suy tư, chiêm nghiệm của Phùng cũng như người
đọc.

Bức ảnh nghệ thuật được nhiếp ảnh gia Phùng chụp ở bãi biển năm nào đã trở nên nổi tiếng,
trở thành tác phẩm nghệ thuật lí tưởng cho những nhà sành nghệ thuật. Đó là bức ảnh hoàn mĩ, là
kết tinh của vẻ đẹp toàn bích của thiên nhiên, tài năng và sự may mắn của người nghệ sĩ. Bức ảnh có
sự kết hợp giữa con người và cảnh vật, bức ảnh đó từng mang đến hạnh phúc cho Phùng và còn đủ
sức thuyết phục dành cho những người sành nghệ thuật.

Nhiều năm về sau, khi nhìn vào bức ảnh, Phùng không còn hạnh phúc như khi bắt gặp được
khoảnh khắc trời cho ấy nữa mà đầy những trăn trở, suy tư bởi anh là người hiểu hơn ai hết sự thật
tàn khốc đằng sau một khung cảnh toàn bích, hoàn hảo. Đằng sau một bức ảnh nghệ thuật là những
góc khuất tối tăm của cuộc đời, đó là hiện thực trần trụi với cuộc sống lam lũ mà trung tâm là hình
ảnh người đàn bà xấu xí, thô kệch đang bước những bước chậm rãi, bàn chân đặt trên mặt đất chắc
chắn, hòa lẫn trong đám đông.

Trong cảm nhận của Phùng, bức tranh không còn chất thơ mộng, lãng mạn nghệ thuật nữa mà
thấm đượm hơi thở của cuộc đời. Chính những cảm nhận này đã mang đến những ám thị đặc biệt
cho Phùng mỗi lần nhìn lại bức ảnh mình từng chụp. Xuyên qua cái hồng của sương mai của cảnh
vật, Phùng đã nhìn ta được những cái “thô kệch, ướt súng, nhợt trắng, bạc phếch…” của cuộc đời.
Chỉ Phùng mới có cái nhìn khác về tác phẩm nghệ thuật của mình phải chăng Phùng đã từng chứng
kiến câu chuyện đầy éo le, nghịch lí bên trong hay Phùng đã biết nhìn bằng trải nghiệm, dám nhìn
thẳng, nhìn sâu vào hiện thực dẫu tàn khốc, vô tình.
Tấm ảnh nghệ thuật CTNX đẹp như mơ đó chỉ là cái vỏ bề ngoài, đằng sau nó còn có những
cuộc sống, thân phận đầy bi kịch, những mảnh đời lam lũ, vất vả, đói nghèo… Giữa nghệ thuật và
cuộc sống vẫn còn một khoảng cách. Phùng muốn thấu hiểu, chia sẻ, cảm thông nhiều hơn với nỗi
đau của người khác bằng tất cả tấm lòng, vì thề mà anh “ngắm kĩ” rồi “nhìn lâu hơn” tấm ảnh quen
thuộc của mình. Đằng sau bóng dáng thấp thoáng ẩn hiện của người phụ nữ này là trái tim nhân đạo
của người nghệ sĩ. Phùng muốn nghệ thuật gắn liến với cuộc đời, nếu không thì tấm ảnh đẹp như mơ
kia mãi mãi vẫn chỉ là CTNX !

3. Nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn:

Người kể chuyện là nhân vật Phùng, cũng chính là sự hóa thân của tác giả, tạo điểm nhìn trần
thuật sắc sảo, giúp lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Nghệ thuật
khắc họa nhân vật thông qua cách tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống
(Với Phùng , đó là việc chứng kiến lão đàn ông đánh vợ không chỉ một lần, sau phát hiện thứ nhất-
vẻ đẹp của thuyền biển lúc sớm mai) Sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo … phù hợp với việc thể
hiện tính cách nhân vật. Chính tất cả những điều đó giúp cho Phùng có sự thay đổi trong nhận thức,
suy ngẫm, anh có cách nhìn đời khác hẳn, anh hiểu sâu thêm về tính cách người đàn bà, chị em
thằng Phác, người bạn- đồng đội của mình (Đẩu) và hiểu thêm chính mình.

III. Kết bài

Đối với nhà văn tài năng thì có khi người đọc chỉ cần đọc cái tên truyện là đã nhận chân ra
được phong cách của ông ta. Các tiêu đề truyện Bức tranh, Một lần đối chứng, Mảnh trăng cuối
rừng, Chiếc thuyền ngoài xa… đã góp phần làm rõ hơn nội dung tác phẩm, rõ cái dấu ấn của nhà
văn Nguyễn Minh Châu. Ở đây “ chiếc thuyền” nghệ thuật đang trôi trên “ ngoài xa” cuộc đời đã nói
lên rất hay mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, nghệ thuật nằm trong cuộc sống này, biểu
hiện cuộc sống. Người nghệ sĩ chèo lái con thuyền nghệ thuật ấy vừa phải hiểu sâu sắc con thuyền
nghệ thuật vừa phải nắm bắt rõ những luồng lạch, độ nông sâu của biển cả cuộc đời. Có vậy mới
đưa nghệ thuật tới chân trời lý tưởng của hạnh phúc và cái đẹp của con người.

ĐỀ 2: Cảm nhận về nhân vật Phùng trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu
qua đoạn trích sau: “Có lẽ suốt một đời cầm máy… ngoại cảnh vừa mang lại”
I. Mở bài

Nguyễn Minh Châu là nhà văn không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của
nhà văn, của người nghệ sĩ.  Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm kết tinh những đặc sắc nghệ thuật
của Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm cũng đưa ra những quan niệm của tác giả về trách nhiệm, vai trò
của một người nghệ sĩ, điều này thể hiện qua hình tượng nhân vật nhiếp ảnh Phùng.

II. Thân bài

1. Khái quát:

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn minh Châu, rất
tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai.
Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh có có nhiều mặt trái,
nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985),
sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987). Chiếc thuyền
ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất biển này. Và từ chuyến
đi này, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ.

2. Cảm nhận

Trước hết, Phùng thể hiện quan điểm về nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Trước hết
anh là một người yêu nghề và có trách nhiệm với công việc được giao. Ngay sau khi được thủ
trưởng yêu cầu chụp một bức ảnh để hoàn thiện bộ lịch năm nay, Phùng không ngần ngại mà mang
máy ảnh của mình lên đường ngay. Anh trở về chiến trường xưa, một làng chài ven biển, mong có
thể tìm được một bức ảnh ưng ý. Cả một tuần lễ, anh miệt mài tìm kiếm để tìm cho ra bức tranh trời
cho. Anh muốn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mình được giao.

   Không chỉ vậy, Phùng còn là một người nghệ sĩ tài năng. Trời không phụ lòng người, sau cả
một tuần lễ miệt mài tìm kiếm cuối cùng cái khoảnh khắc trời cho ấy cũng đến với anh. Bức tranh
tuyệt mĩ hiện ra trước mắt Phùng: “thuyền in một nét mơ hồn lòe nhòe vào bầu sương mù màu trắng
như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Và bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi
im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. tất cả khung cảnh ấy
nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt
cánh một con dơi…”. Không chần chừ thêm một giây phút nào, Phùng giơ máy ảnh lên bấm liên
thanh. Bức tranh là sự hòa quyện tuyệt vời giữa đường nét và ánh sáng. Bức tranh đó đã làm Phùng
thỏa mãn, bức tranh tuyệt mĩ, như mực tàu đó chính là điều người nghệ sĩ đang tìm kiếm bấy lâu
nay.

   Không chỉ là một người nghệ sĩ tài năng, mà Phùng còn là người biết rung cảm trước cái đẹp.
Trước bức tranh tuyệt mĩ đó, Phùng đã thực sự bị làm cho rung động, và anh liên tưởng đến câu
nói “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Và trong giây phút đó, anh tưởng như “mình vừa khám
phá thấy cái khoảng khắc trong ngần của tâm hồn”. Anh cảm thấy hân hoan hạnh phúc không chỉ
bởi đã hoàn thành công việc được giao, mà cao hơn chính là anh đã dùng trọn vẹn tâm hồn mình để
khám phá, phát hiện ra vẻ đẹp giữa thiên nhiên và cuộc đời. Đó là vẻ đẹp trong sáng, thánh thiện đến
vô ngần. Vẻ đẹp đó khiến cho tâm hồn Phùng được gột rửa, thanh lọc trở nên đẹp đẽ hơn.

   Với bức ảnh chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm đến bạn đọc một thông
điệp nghệ thuật quan trọng. Nghệ thuật luôn bắt nguồn từ cuộc sống và phục vụ cuộc sống. Người
nghệ sĩ phải lao động nghiêm túc, miệt mài và không ngừng sáng tạo mới có thể tạo nên những tác
phẩm nghệ thuật có giá trị.

   Không chỉ phản ánh quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, Phùng còn thể hiện cái
nhìn về cuộc sống của nhà văn. Sau bức tranh tuyệt mĩ kia điều Phùng nhìn thấy chính là khung
cảnh vô cùng tàn nhẫn, người chồng lặng lẽ dùng dây lưng đánh túi bụi vào người phụ nữ cao lớn,
mặt rỗ. Chị lặng im không hề phản kháng. Đằng sau cái đẹp toàn thiện, toàn bích kia lại có một
khung cảnh hiện thực đến đau lòng. Điều đó làm cho Phùng không khỏi bất ngờ, choáng váng. Anh
nhanh chóng, vứt chiếc máy ảnh – điều quan trọng nhất đối với một nhiếp ảnh gia, đến để cứu người
phụ nữ kia. Nhưng chưa kịp ra đến nơi, anh đã thấy thằng Phác xông ra che chở cho người mẹ.

   Không chỉ chứng kiến bạo hành trong một lần, mà Phùng còn lần thứ hai chứng kiến người
chồng ra tay đánh đập dã man người vợ. Người đàn bà vẫn nhẫn nhục chịu đánh, không một lời kêu
than, oánh trách. Lần này anh không ngạc nhiên như lần đầu, hành động mau lẹ và quyết liệt hơn,
anh xông thẳng vào can ngăn, để chấm dứt hành động tội ác của người chồng. Đồng thời anh cũng
nhận ra rằng, đằng sau bức tranh tuyệt mĩ ấy vẫn còn tồn tại cái xấu, cái ác và bi kịch.

   Ngoài ra, Phùng còn là người luôn có ý thức để hoàn thiện nhân cách của bản thân. Là người
nhìn ra bức tranh với vẻ đẹp toàn bích, lại cũng là người chứng kiến cảnh bạo hành, rồi được nghe
người đàn bà tâm sự tại tòa án huyện, Phùng nhận thức được nhiều điều trong cuộc sống. Thì ra
đằng sau bức tranh danh họa đó là biết bao thân phận éo le, bước ra khỏi chiến tranh họ chật vật,
khổ sở để mưu sinh. Phùng càng hiểu hơn người đàn bà kia, đằng sau sự xấu xí lại là một tâm hồn
thánh thiện, một tình mẫu tư thiêng liêng. Vì con người phụ nữ ấy sẵn sàng hi sinh bản thân mình.
Quá trình tự nhận thức đó chính là quá trình Phùng không ngừng hoàn thiện nhân cách của chính
mình.

Trong cuộc sống luôn tồn tại những xấu tốt đúng sai, đôi khi không thể phân định rạch ròi.
Mỗi chúng ta khi nhìn nhận bất cứ vấn đề gì cũng cần có cái nhì đa chiều, để phát hiện đúng bản
chất của cuộc sống đa chiều.

III. Kết bài

Qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu đã truyền tải những thông điệp ý nghĩa về con người
và nghệ thuật. Những thông điệp đó có giá trị nhân đạo sâu sắc. Đối với nghệ thuật, người nghệ sĩ
phải không ngừng sáng tạo, tu dưỡng. Đối với cuộc sống đa đoan, phức tạp phải nhìn nhận kĩ lưỡng,
nhiều chiều để đưa ra những nhận xét đúng đắn nhất.

ĐỀ 3:

Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một người
đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phá nước ngập đến quá đầu gối. Bất giác tôi
nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày
đi bây giờ”.

Chắc chắn họ không trông thấy tôi. Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen
thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi
sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau. Tấm
lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước
chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán
vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà.

Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía
trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi
một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà
đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một
cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn
xuống chân.

Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng
của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng
rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn
bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại
nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho
ông nhờ!”.

Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả,
cũng không tìm cách trốn chạy.

Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm
ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.
Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác – thằng bé trên
rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng
thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm,
mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng
rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.
Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi biết là
nó khỏe đến thế!
Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào
nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn
ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên.
Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng
bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để
trở về thuyền. Không hề quay mặt nhìn lại, chỉ có tảng lưng khum khum và vạm vỡ càng có vẻ cúi
thấp hơn, nom lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ bát để lại
những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng.
          Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu
hổ, nhục nhã.
        – Phác, con ơi!
         Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó
rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng
hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn
bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt, nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người
mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt.
(TríchChiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu,Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt
Nam, 2018, tr.73)

Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về ...

I. Mở bài

Nguyễn Minh Châu là một nhà văn giàu tâm huyết, luôn trăn trở về một nền văn học xứng
đáng với tầm vóc dân tộc và với sự kỳ vọng của nhân dân. Từ cảm hứng sử thi lãng mạn huyền ảo
đã từng tạo nên vẻ đẹp rực rỡ trong các tác phẩm thời kì chiến tranh như Mảnh trăng cuối rừng, Dấu
chân người lính, Cửa sông, ... ông dần dần chuyển sang tính chất triết luận về những giá trị nhân bản
đời thường, khám phá bản chất con người trong cuộc sống mưu sinh, trong hành trình tìm kiếm hạnh
phúc và hoàn thiện nhân cách. Chiếc thuyền ngoài xa sáng tác năm 1983 là truyện ngắn rất tiêu biểu
cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Trong tác
phẩm này, nhà văn đã để cho nhân Phùng phát hiện ra vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trên biển
sớm mờ sương cùng những nghịch lý trớ trêu của gia đình hàng chài, qua đó thể hiện những chiêm
nghiệm sâu sắc về nghệ thuật và cuộc đời.

II. Thân bài

1. Khái quát:

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn minh Châu, rất
tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai.
Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh có có nhiều mặt trái,
nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985),
sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987). Chiếc thuyền
ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất biển này. Và từ chuyến
đi này, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ.

2. Cảm nhận

Phát hiện đầu tiên dưới con mắt của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng là một bức tranh thiên nhiên
hoàn mĩ. Sau một tuần kiên nhẫn phục kích làm việc nhưng Phùng vẫn chưa chụp được một bức ảnh
ưng ý thì trong một buổi sáng sương mù, lác đác mấy hạt mưa Phùng đã có dịp ghi lại những cảnh
đẹp thiên nhiên chân thực. Đó là hình ảnh một chiếc thuyền lưới vó, đó là bầu sương mù trắng như
sữa và có vài bóng người…Những hình ảnh hiện lên vô cùng đơn giản và bình dị. Nó đẹp như một
bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Tất cả bức tranh đó từ đường nét đến ánh sáng đều hài
hòa và đẹp, một vẻ đẹp thật đơn giản và toàn bích. Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt vời
của hóa công, người nghệ sĩ trở nên bối rối và trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào, khám phá
thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.

Sau bức tranh thiên hiện rạng rỡ ấy thì cũng là khi nhân vật Phùng tiếp tục phát hiện ra đằng
sau nó là một bức tranh cuộc sống đầy nghịch lý. Lúc này, Phùng đứng với cự ly gần hơn nên có thể
nhìn rõ được hình ảnh người phụ nữ trạc ngoài 40 tuổi, cao lớn, thô kệch, mệt mỏi sau một đêm thức
trắng. Còn người đàn ông kia với tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền, chân đi hình chữ
bát…Mọt hình ảnh hiện lên không có tính thẩm mỹ với sự thật trần trụi của cuộc sống hiện tại. Với
những hình ảnh này nó đối lập hoàn toàn ngược lại với bức tranh tuyệt bích mà trước đấy nhân vật
Phùng đã phát hiện. Đoạn văn miêu tả hành động cục súc mà người đàn ông vừa đánh vừa nguyền
rủa người đàn bà. Trái lại, người đàn bà kia không có ý thức phản kháng mà cam chịu và không hề
chống trả. Chưa dừng ở đó, tiếp tục hành động tát vào mặt những đứa trẻ. Đây đều là những hình
ảnh xấu xí,phi nhân tính, phi đạo đức của cuộc sống và để lại nhiều ngỡ ngàng ch nhân vật Phùng.
Anh không chỉ ngạc nhiên,giận dữ còn tỏ thái độ bất bình, ”vứt chiếc máy ảnh xuống đất định ngăn
cản”…Nhưng chưa kịp thực hiện thì anh đã bị Phác lao tới ngăn cản.

Với phát hiện (thứ hai) này, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm một thông điệp: Nghệ thuật
đích thực không thể xa rời cuộc đời, dù cuộc đời đó có đau đớn, trần trụi và mỗi người, đặc biệt là
người nghệ sĩ không nên nhìn nhận cuộc sống từ một phía mà phải nhìn từ nhiều phía, nhiều góc độ
để cảm nhận được nhiều hơn về nó.

Thành công của đoạn trích được tạo nên bởi bút phá nghệ thuật đặc sắc. Nhà văn kết hợp hai
phương thức tả và kể, lời người kể chuyện và lời nhân vật đan xen biến hóa; nhân vật được khắc họa
qua ngoại hình, cử chỉ, hành động và ngôn ngữ…
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)

Qua đoạn trích, nhà văn đã thể hiện... (yêu cầu 2)

III. Kết bài

Qua đây, Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến người đọc những suy ngẫm hết sức sâu sắc: mỗi
chúng ta và nhất là người nghệ sĩ không nên đơn giản sơ lược để mà nhìn nhận cuộc sống bởi cuộc
sống rất đa dạng và phức tạp. Nó không chỉ có những vẻ đẹp như mơ và còn có cả những điều xấu
xa, độc ác. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp thì hãy là một con người biết yêu
ghét, vui buồn trước mọi lẽ thường tình, biết hành động để xứng đáng là một con người.

PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN

1. Cách nhìn nhận cuộc sống của Nguyễn Minh Châu

Như vậy, Phùng không chỉ là người nghệ sĩ yêu cái đẹp mà anh còn thể hiện là người dám lên
án cái xấu, ngăn chặn cái xấu lại. Cũng chính những phát hiện đắt giá của nhân vật Phùng qua bức
tranh cuộc sống đầy nghịch lý ấy mà Nguyễn Minh Châu cũng thể hiện được cách nhìn nhận cuộc
sống của mình đó là: Cuộc sống vốn phức tạp, bản chất và hiện tượng không phải bao giờ cũng là
một, thậm chí mâu thuẫn đối lập. Nghệ thuật thường đẹp bởi được quan sát từ xa trong khi hiện thực
cuộc đời bao giờ cũng rất gần và thường là hiện thực khắc nghiệt, phũ phàng… Chúng ta đừng bao
giờ đơn giản, một chiều, phiến diện khi nhìn nhận cuộc sống và con người…

2 Nhận xét tình huống nhận thức trong tác phẩm.

Đó là tình huống nhân vật Phùng đang trong những giây phút thăng hoa của cảm xúc, bất ngờ
chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ một cách vô lí, dã man. Từ đây, nhận thức, suy nghĩ về con
người, về cuộc sống của Phùng có những thay đổi: từ chỗ khám phá cái đẹp của bức tranh thiên
nhiên qua cảnh chiếc thuyền ngoài xa, anh đã phát hiện ra những nghịch lí của cuộc đời, để rồi cuối
cùng nhận thức được nhiều điều: những vấn đề đầy nghịch lí, nghịch lí giữa cái đẹp của nghệ thuật
với sự trần trụi, bi đát của cuộc sống hiện thực. Nghịch lí giữa người vợ tốt bị hành hạ nhưng vẫn
không bỏ chồng, nghịch lí giữa sự vũ phu tàn bạo của anh hàng chài với vợ nhưng không bỏ vợ.

Với tình huống của truyện, nhà văn đã đặt ra một vấn đề rất quan trọng để người đọc suy nghĩ,
đó là mối quan hệ giữa văn chương, nghệ thuật với cuộc sống. Nghệ thụật là một cái gì xa vời như
chiếc thuyền ngoài xa trong màng sương sớm mờ ảo, còn cuộc sống thì rất cần như con thuyền khi
đã vào tới bờ. Hay nói một cách khác, Nguyễn Minh Châu cho rằng nghệ thuật trước hết phải gắn
liền với cuộc sống, phải phản ánh chân thật cuộc sống và góp phần cải tạo cuộc sống, làm cho cuộc
sống ngày càng tốt đẹp hơn.

3. Bi kịch gia đình và thông điệp của Nguyễn Minh Châu

Thằng Phác muốn bảo vệ mẹ lao vào bố một cách bản năng. Thằng Phác bị bố cho một cái bạt
tai khiến nó ngã dúi mặt xuống cát. Phác là nạn nhân bị tổn thương về tình cảm, lệch lạc, méo mó về
nhân cách. Hành vi của thằng bé là hoang dại – một mặt đó là hệ quả tất yếu của nạn bạo hành trong
gia đình, mặt khác lại thêm dầu vào lửa khiến cho người cha càng điên khùng, quẫn bách hơn, làm
cho người mẹ càng bị tổn thương nặng nề hơn (bà đã phải đau đớn vái lạy con mình).
“Người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay
vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng bé Phác vẫn chẳng hề hé răng, lặng lẽ đưa mấy ngón tay
khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ
chằng chịt”. Cử chỉ ấy đã cho thấy nhân vật này: cảm thương và ái ngại thay cho người mẹ; muốn
được chia sẻ và xoa dịu nỗi khổ đau của người mẹ; sẵn lòng che chở, bênh vực mẹ trước nạn bạo
hành

Chỉ bằng vài nét miêu tả ngoại hình về gã đàn ông hàng chài, khi chiếc thuyền đâm thẳng vào
bờ, nhà văn đã cho ta biết được cuộc sống đói nghèo, lam lũ, chật chội quẩn quanh hằn in lên dáng
vẻ khắc khổ của ông ta: “Ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn
từ rốn mọc ngược lên. Tảng lưng khum khum và vạm vỡ càng có vẻ cúi thấp hơn, nom lão như một
con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi
cát hoang vắng”.

Chính hoàn cảnh sống nghèo khó, không lối thoát đã làm cho ông ta thay đổi tâm tính trở
thành kẻ vũ phu và coi cái việc đánh vợ con như một sự giải tỏa nỗi ẩn ức, bế tắc trong lòng mình.
Người đàn ông này vừa đáng trách nhưng cũng thật đáng thương. Cuộc sống lam lũ làm con người
trở nên bế tắc, hành động cùng quẫn.

“Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ,
nhục nhã. – Phác, con ơi! Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm
chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Người đàn bà hàng chài
cảm thấy xấu hổ, nhục nhã, đau đớn khi để con mình phải chứng kiến cảnh ấy. Ôm chầm lấy con,
chị lo sợ con cái bị tổn thương. Chắp tay vái lấy vái để xin nó đừng vì thương mình mà trở thành
đứa con bất hiếu với cha, làm trái với luân thường đạo lí. Chị là hiện thân cho kiếp người bất hạnh bị
cái đói khổ, cái ác và số phận đen đủi dồn đến chân tường, nỗi đau chồng lên nỗi đau.

* Thông điệp nhà văn Nguyễn Minh Châu gửi gắm qua câu chuyện:

Nguyễn Minh Châu cho chúng ta thấy đằng sau bức tranh thuyền và biển tuyệt diệu là cuộc
đời đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp. Nhà văn muốn thể hiện cái đẹp của nghệ thuật
dễ nắm bắt hơn cái đẹp của cuộc sống. Vì cái đẹp của cuộc sống cần có thêm hạnh phúc và tình
thương. Và đôi cánh khi cái đẹp của ngoại cảnh làm khuất lấp cái xấu tồn tại ở đời sống.

Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí với những mảng sáng tối,
xấu đẹp, thiện ác, thật giả. Quan trọng là chúng ta đừng nhầm lẫn giữa hình thức bên ngoài và bản
chất bên trong, chúng ta phải có cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống. Nghệ thuật vốn nảy sinh từ
cuộc đời nhưng cuộc đời không phải bao giờ lúc nào cũng đẹp như nghệ thuật.

ĐỀ 4:
Trong phần kết thúc truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, nhà văn Nguyễn Minh Châu viết:
Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm.Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.
Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được
treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng
mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn
thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra
khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo
bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm.
Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…
         ( TheoNgữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam,2019, tr.77-
78)
 Cảm nhận của anh/chị về những khám phá, suy ngẫm của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trong đoạn
trích trên.
I. Mở bài

Nguyễn Minh Châu là người luôn trăn trở về số phận của con người và trách nhiệm của nhà
văn trong cuộc đời. Ông được mệnh danh là“người mở đường tinh anh và tài năng” của văn học
Viêt Nam thời kì đổi mới. “Chiếc thuyền ngoài xa” là minh chứng tiêu biểu nhất cho sự đổi mới tư
duy nghệ thuật của NMC sau năm 1975. Thành công của truyện ngắn được tạo nên bởi chính những
hình ảnh, chi tiết ấn tượng, giàu giá trị biểu đạt, trong đó nổi bật nhất có thể kể đến chi tiết “tấm ảnh
nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm” qua đoạn văn ngắn cuối tác phẩm. Đây là chi tiết đắt giá nhất thể
hiện được quan niệm về cuộc sống và nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, chi tiết có thể khơi dậy
những suy tư, chiêm nghiệm của Phùng cũng như người đọc.

II. Thân bài

1. Khái quát

Đoạn văn trên nằm ở cuối tác phẩm CTNX- một tác phẩm hay được nhà văn biết năm 1983,
sau đó được in trong tập truyện cùng tên năm 1987. Đoạn văn chính là những dòng tự sự của nhân
vật Phùng. Cách đó mấy năm sau khi nhận nhiệm vụ của cấp trên, Phùng quay lại vùng biển miền
Trung nơi anh chiến đấu năm xưa để chụp một bức ảnh về thuyền và biển vào buổi sáng mờ sương
để làm lich. Trải qua nhiều ngày phục kích, anh bỗng phát hiện ra một bức tranh tuyệt tác của thiên
nhiên, đó hình ảnh một chiếc thuyền ngoài xa thấp thoáng trong màn sương sớm, lúc ẩn lúc hiện. Có
thể nói đây là phát hiện có một không hai trong sự nghiệp cầm máy của Phùng. Cảnh vật hiện lên
trước mắt nhíp ảnh Phùng thật đẹp: Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng
như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Trên chiếc thuyền ấy có vài bóng
người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt
vào bờ. Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp đơn giản và
toàn bích" . Trước cảnh đẹp tuyệt tác tuyệt mỹ của bức tranh thiên nhiên, Phùng nghĩ đó là “Một
cảnh đắt trời cho” mà “suốt đời cầm máy chưa bao giờ thấy” , khiến anh vô cùng bối rối, trái tim
như có gì bóp thắt lại. Trong khoảnh khắc đó Ph có suy nghĩ đã khám phá ra được cái chân lí của
sự toàn thiện, và nhận ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức, cái đẹp có khả năng thanh lọc tâm hồn,
khiến con người trở nên thánh thiện và cao thượng. Nhưng khi chiếc thuyền tiến vào bờ Phùng nhìn
thấy bức tranh cuộc sống đầy bất ngờ và nghịch lí: đó là cảnh bạo hành của gia đình thuyền chài
trên chiếc thuyền đẹp như mơ kia.Mấy hôm sau, khi được nghe câu chuyện của người đàn bà tại tòa
án huyên, Phùng hiểu hơn về cảnh ngộ của chị và nhận ra chị nạn nhân của bạo lực gia đình.Cho
đến bây giờ, người đàn bà đó vẫn ám ảnh trong tâm trí mãi anh.

2. Cảm nhận

Tấm ảnh Phùng chụp được là hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa . Đó không chỉ là bức ảnh có giá
trị nghệ thuật cao, được chọn in cho bộ lịch năm ấy. Tấm ảnh Phùng chụp được mọi người rất yêu
thích , họ mua về “ treo rất nhiều nơi trong các gia đình sành nghệ thuật”. Không những thế, tấm ảnh
ấy còn có giá trị lâu bền “không những cho bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau”. Tấm ảnh anh chụp
trưởng phòng rất ưng ý “Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng
rất bằng lòng về tôi.” Sự đánh giá cao của cấp trên xứng đáng với công sức Phùng đã bỏ ra để
“phục kích” nhiều ngày mới chụp đựơc tấm ảnh đó. Chính tấm ảnh đó đã khẳng định tài năng, nâng
cao uy tín của người nghệ sĩ trên hành trình khám phá cái đẹp. Nên những người yêu nghệ thuật trân
trọng tấm ảnh của Phùng cũng là điều dễ hiểu. Song, dưới con mắt của những người yêu nghệ thuật
thuần túy, họ chỉ cảm nhận được vẻ đẹp toàn bích của tấm ảnh, đáng để cho họ thưởng thức và treo
ở nơi sang trọng nhất trong nhà, rất hiếm người nhìn thấy thông điệp bên trong bức ảnh. Và ai đã
sưu tầm được nó, chắc hẳn họ rất tự hào. Bởi nghệ thuật là cái đẹp nó luôn cần thiết cho đời sống ,
đặc biệt là cho người yêu nghệ thuật, xem nghệ thuật là vô giá.

Tuy chụp được tấm ảnh toàn mĩ, nhưng tâm trạng của Phùng vẫn còn nhiều băn khoăn, day
dứt. Bởi vì Phùng còn nhìn thấy đằng sau tấm ảnh chiếc thuyền ngoài xa đẹp như mơ trong màn
sương sớm là tấm ảnh khác . Đó là hình ảnh của những con người khốn khổ. Phùng là tác giả, người
sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật nhưng Phùng lại không nhìn lướt, nhìn hời hợt như một số người
thưởng thức nghệ thuật thuyền túy. Có thể nhiều người chỉ nhìn thấy vẻ đẹp bề ngoài của tấm ảnh
CTNX, rồi họ thích, trầm trồ khen ngợi một đôi câu và quên lãng! Còn Phùng thì luôn “ ngắm kĩ”,
“nhìn lâu hơn” , mỗi lần như thế anh luôn bị ám ảnh, trăn trở trước cuộc sống nghèo đói, vất vả, đau
khổ của người lao động sau chiến tranh. Làm sao để giúp họ thoát khỏi cái nghèo, cái đói và sự thất
học.

Tấm ảnh Phùng chụp chiếc thuyền ngoài xa “tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi
vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai” . Phải chăng cái màu hồng hồng của ánh
sương mai kia tượng trưng cho cái đẹp lãng mạn của cuộc đời, chất thơ của cuộc sống và đó cũng
chính là biểu tượng của nghệ thuật. Qua đó nói lên ngụ ý của nhà văn nghệ thuật cần có chút lãng
mạn trong bề sâu tác phẩm. Nhưng nếu nhìn lâu hơn vẻ đẹp của bức ảnh bao giờ tôi cũng thấy
“người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với
những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn
mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. …’. Hóa ra đằng sau vẻ đẹp trong trẻo, thánh thiện, thơ
mộng của cái màu hồng hồng ánh sương mai kia chính là hiện thực bi đát của cuộc đời, cuộc sống
lam lũ, khổ đau của người hàng chài nói riêng và người lao động nghèo sau chiến tranh nói chung.
Điều đó cho thấy, Phùng luôn bị ám ảnh bởi cuộc sống của gia đình hàng chài, đặc biệt là số phận
đáng thương, bất hạnh của người đàn bà . Qua đó tác giả đưa ra thông điệp nghệ thuật không nên
thoát li đời sống mà phải bám rễ vào đời sống thì mới tồn tại được.

Tấm ảnh nghệ thuật “chiếc thuyền ngoài xa” đẹp như mơ đó chỉ là cái vỏ bề ngoài. đằng sau
nó là cuộc sống rách rưới, đói nghèo, khổ đau của con người. Tấm ảnh ấy vẫn cứ nằm bất động ở
một nơi sang trọng trong những gia đình sành nghệ thuật! Và đằng sau tấm ảnh là bóng dáng thấp
thoáng của người phụ nữ lam lũ vất vả, cho ta thấy rõ trái tim nhân đạo của người nghệ sĩ. Phùng
thấy người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm ảnh , Những bước đi chắc chắn và hòa lẫn vào đám đông của
người đàn bà hàng chài thể hiện niềm tin của Phùng về sự hòa nhập của họ trong hành trình đi lên
của cuộc sống.

Qua chiêm nghiệm, khám phá của Phùng khi ngắm nhìn bức ảnh của mình ở cuối truyện tác
giả Nguyễn Minh Châu gửi gắm đến người đọc thông điệp về cái nhìn: không nên nhìn đời, con
người bằng cái nhìn chủ quan hời hợt, cái nhìn phiến diện một chiều mà cần phải có cái nhìn đa
chiều, nhìn sâu vào bản chất của hiện tượng, cái nhìn mang tính khám phá phát hiện, cần phải có cái
nhìn kinh nghiệm : Phùng đã từng trải, chứng kiến trực tiếp cuộc sống đau khổ của người dân vùng
biển nên anh mới nhìn thấy những hình ảnh chi tiết mà mọi người không thể thấy đằng sau tấm ảnh.
Thông điệp thứ hai nhà văn muốn đề cập đến trong đoạn văn cuối là mối quan hệ giữ nghệ
thuật và cuộc sống: Cái đẹp ngoại cảnh có khi che khuất cái xấu của đời sống Cái xấu cũng có thể
làm cái đẹp bị khuất lấp . Cuộc sống nhiều khi thường "đánh lừa" ta như thế. Phải có con mắt tinh
tường nhìn thấu gan ruột cuộc sống để khám phá, phát hiện thì mới mong tìm ra đúng bản chất của
nó. Những ấn tượng của Phùng mỗi lần ngắm nhìn bức ảnh đã thể hiện quan điểm nghệ thuật của
tác giả : nghệ thuật không thể xa cách với hiện thực nhọc nhằn, cay cực của con người. Nghệ thuật
phải dành ưu tiên trước hết cho con người, phải góp phần giải phóng con người khỏi sự cầm tù của
đói nghèo, tăm tối và bạo lực. Người nghệ sĩ phải có tấm lòng biết trăn trở về số phận ; phải nhìn
cuộc đời sâu sắc, đa chiều, không giản đơn, dễ dãi và và phải dũng cảm nhìn thẳng vào hiện thực.
Không những vậy, một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải là tác phẩm thể hiện được chiều sâu,
bản chất của hiện thực đằng sau cái vẻ ngoài đẹp đẽ, lãng mạn. Để làm được điều đó đòi hỏi người
nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc, toàn diện về hiện thực, phải có sự trải nghiệm và quá trình
lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ. Đúng như chính nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói:
“Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Mỗi tác phẩm nghệ
thuật thật sự đều phải bắt nguồn từ cuộc sống, không được tách rời cuộc sống, không phải là ánh
trăng lừa dối. ‘Nghệ thuật chỉ có thể là những tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than’
(Nam Cao)

Truyện được xây dựng theo lối kết cấu vòng tròn : mở đầu là đi tìm ảnh, kết thúc là ngắm nhìn
ảnh mà ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm nhằm nhấn mạnh tính triết lí của truyện. Giọng văn trầm lắng, suy
tư, nhiều dư vị, nhiều liên tưởng bất ngờ. Những bức ảnh nghệ thuật và nhan đề “chiếc thuyền ngoài
xa” gợi bao thức nhận đau đớn: ở đó, không phải là những giọt sương mai thơ mộng như trong tranh
thuỷ mặc của một vùng quê yên bình mà là những giọt muối mặn đầy xót xa của cuộc sống trần trụi
đời thường. Nghệ thuật chính là cuộc sống, người nghệ sĩ phải có góc nhìn và cự li khám phá cuộc
sống gần gũi hơn, có như vậy anh mới phản ánh đúng, mới thấu hiểu được muôn sự đa đoan của cõi
đời, khốn khổ đấy, đau đớn đấy nhưng đẹp đẽ vô cùng. Qua đây tác giả muốn nói: người nghệ sĩ
phải trung thực, dũng cảm nhìn thẳng và nhìn sâu sắc vào hiện thực; hãy rút ngắn khoảng cách giữa
nghệ thuật và cuộc đời. Nỗi ám ảnh của Phùng mỗi lần ngắm nhìn bức ảnh của mình bộc lộ nỗi lo
lắng của nhà văn nhưng nhà văn vẫn tin người lao động qua bước chân rắn chắc của người đàn bà.

III. Kết bài

Đoạn kết trong tác phẩm “CTNX”như một khúc vĩ thanh không chỉ khép lại câu chuyện mà
còn mở ra một hướng mới cho số phận của con người. Chỉ một đoạn văn ngắn nhưng đã tổng hợp
lại toàn bộ ý đồ của tác giả cho những suy ngẫm sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc
đời, cũng như cái nhìn đa chiều, ở nhiều cụ li khác nhau của nhà văn trên hành trình đi tìm cái đẹp,
khám phá cuộc sống. Qua đó thể hiện nỗi trăn trở, mối quan hoài của nhà văn trước cuộc sống đau
thương của gia đình hang chài nói riêng và người lao động nghèo sau chiến tranh nói chung.

ĐỀ 5:
Đọc đoạn trích sau:
“Người đàn bà bổng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về
đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hang tháng, cả nhà vợ
chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…
- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không ? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
- Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng cái lỗi
chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó ? Từ ngày cách
mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được !
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không ? – Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống
rượu…Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ…Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với
lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được !– Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.
- là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả
của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chat, - trên
thuyền phải có một người đàn ông…dù hắng man rợ, tàn bạo ?
- Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động song gió chứ chú ?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hang chài ở thuyền chúng tôi cần phải
có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào
cũng trên dưới chục đứa. Ôngtrời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rôi nuôi con cho đến khi khôn
lớncho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống
cho mình như ở trên đất được !Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi
bỏ nó ! – Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sang lên như một nụ cười – vả lại, ở
trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không ?– Đột nhiên tôi hỏi?
- Có chứ, chú ! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”
(Trích“Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh Châu – Sách Ngữ văn 12, tập hai , NXB giáo
dục Việt Nam, trang 75-76).
Phân tích hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên.Từ đó nhận xét
về...
I. Mở bài

Nguyễn Minh Châu là nhà văn được mệnh danh là vị khai quốc công thần của triều đại văn học
mới, “Người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc). Ông quan niệm rằng “thiên chức của
nhà văn là suốt đời đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Nếu trước năm
1975, nhà văn đi tìm hạt ngọc ấy trong chất sử thi anh hùng với những tác phẩm tên tuổi như: Mảnh
trăng cuối rừng, Dấu chân người lính, Cửa sông…thì sau năm 1975, nhà văn khám phá vẻ đẹp của
hạt ngọc ấy trong những con người đời thường lam lũ nhọc nhằn. Người đàn bà hàng chài trong tác
phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp ấy.

II. Thân bài

1. Khái quát

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn minh Châu, rất
tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai.
Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh có có nhiều mặt trái,
nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985),
sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987). Người đàn bà
hàng chài là nhân vật chính trong tác phẩm giúp nhà văn gửi gắm những giá trị hiện thực và nhân
đạo sâu sắc. Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện
của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài
lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở tòa án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận,
tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người
đọc.

2. Cảm nhận

Thật vậy, người đàn bà hàng chài là người vùng biển, làm nghề chài lưới. Cả gia đình hơn
chục người chỉ bó hẹp trên một chiếc thuyền nhỏ, quanh năm lênh đênh, dập dềnh nơi sông nước.
Đó chính là nguyên nhân gây ra bao cay đắng, tủi nhục cho chị.    

Chị ấn tượng với người đọc bởi ngoại hình khó coi “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một
thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt,
khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Ở chị còn phơi lộ sự nghèo đói, nhếch
nhác “Tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng”. Mới nhìn thoáng qua, người đọc
nhận thấy điều gì đó bất ổn ở chị, dường như đó là vẻ cam chịu ở con người quen với nhọc nhằn lam
lũ cho nên chị chẳng còn quan tâm gì đến bản thân nữa, ngay cả ý định “Đưa cánh tay lên có lẽ định
gãi hay xõa lại mái tóc” cũng xao xác tan mau “chị lại buông thõng xuống”.

Điều khiến Phùng và người đọc hết sức ngạc nhiên là ở thái độ của chị. Đó là một thái độ cam
chịu đầy nhẫn nhục. Chồng chị - một gã đàn ông vũ phu “đầu tổ quạ”, “đôi mắt độc dữ dấu dưới đôi
lông mày cháy nắng”. Lão đã hành hạ chị như trút hết tất cả hận thù, cay đắng, nghiệt ngã lên lưng
chị bằng một trận mưa dây thắt lưng của lính Ngụy ngày xưa. Nhưng người đàn bà lại gồng mình
gánh chịu mà không hề trốn chạy, kêu la, không tìm cách chống trả, làm cho trái tim Phùng và
người đọc thắt lại vì căm phẫn và xót thương.

Đi suốt chiều dài thiên truyện, người đọc không hề biết đến tên của chị, khi thì nhà văn gọi
bằng “chị ta”, lúc thì gọi bằng “Mụ”, “người đàn bà hàng chài”. Vì sao Nguyễn Minh Châu không
đặt tên cho người đàn bà này ? Bởi chị cũng như bao người đàn bà ở vùng biển nghèo khổ này, chị
là người vô danh.

Ở tòa án huyện, lúc đầu thì chị xuất hiện bằng hình ảnh rụt rè. Chị tìm đến góc công đường để
ngồi. Chị ngồi trong thế ngồi bị động, như một con thú xù lông để tự vệ mặc dù đã được Phùng và
Đẩu cảm thông, chia sẻ. Lúc đầu chị xưng hô “Con - quý tòa”, sau khi lấy lại được sự thăng bằng thì
chị đột ngột chuyển đổi cách xưng hô: “Chị - các chú”. Nguyễn Minh Châu đã nhấn mạnh sự thay
đổi ngôn ngữ và thân thế người đàn bà với ý nghĩa : Giờ đây chính chị là quan tòa đang phán xét
Phùng và Đẩu, dạy cho Phùng và Đẩu một bài học về cách nhìn đời, nhìn cuộc sống. Thật thế
chăng?

Sở dĩ người đàn bà chấp nhận chuyện bị chồng đánh đập như việc những người đàn bà trên
thuyền vẫn chấp nhận chuyện người đàn ông uống rượu là bởi vì chị là một người phụ nữ giàu lòng
nhân hậu, vị tha, chấp nhận tất cả thua thiệt về mình. Khi người đàn bà nói “Quý tòa bắt tội con
cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”, đây là câu nói khiến Phùng và Đẩu
ngạc nhiên và vỡ lẽ đằng sau câu chuyện của người đàn bà hàng chài. Lão chồng vũ phu ấy đối với
chị có hai cái “Ân” : ân huệ và ân nhân. Chị tự nhận thức: vì mình xấu, bị cái xấu đeo đuổi như định
mệnh từ lúc còn nhỏ, trận đậu mùa để lại di chứng trên mặt chị là những nốt rỗ chằng chịt, theo năm
tháng càng lớn lại càng xấu, càng già đi lại càng khó coi. Và vì xấu nên việc có mang với anh hàng
chài là một ân huệ. Còn việc hắn đưa chị lên thuyền để chung sống đã đem hắn trở thành ân nhân.
Vì là ân nhân cho nên chị không thể bỏ.

Chị cũng nhận phần thua thiệt về mình “Cũng tại đàn bà ở thuyền chúng tôi đẻ nhiều quá”. Và
vì thuyền chật con đông nên cuộc sống khốn khó, có lúc phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Trong
suốt câu chuyện dài dằng dặc của đời mình, tuy khó khăn nhưng người đàn bà không tỏ ra oán giận
chồng, ngược lại còn bênh vực chồng bởi chị cho rằng lão chồng chị không xấu, “trước kia là một
anh con trai hiền lành nhưng cục tính”, từ ngày lấy chị thì cuộc sống khốn khó, vất vả cho nên lão
chồng đã xem việc đánh vợ là một phương thức giải tỏa những bức bí của cuộc đời. Như vậy, chị là
người rất hiểu chồng, thương chồng, chồng chị là nạn nhân của sự đói nghèo thất học, hắn vừa đáng
thương lại vừa đáng tội, đáng tội vì hắn gây ra biết bao đau thương cho người thân, đáng thương vì
hắn là nạn nhân.

Ẩn đằng sau lớp vỏ tưởng chừng vô cảm, thất học kia, chị rất thấu hiểu lẽ đời, chị hiểu thế nào
là “nổi vất vả cơ cực trên một chiếc thuyền không có người đàn ông”, chị và sắp nhỏ sẽ sống như
thế nào khi không có “người đàn ông chèo chống lúc phong ba bão tố”.

Vượt lên trên sự cay đắng và cơ cực ấy, tình mẫu tử của chị tỏa sáng, đó chính là đức hi sinh
cao thượng của một con người mang thiên chức làm mẹ. Chị gồng mình gánh chịu đòn roi của
chồng là bởi vì những đứa con “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống
cho mình như ở trên đất được!”.Chị hiểu rằng bất kỳ một cuộc hôn nhân tan vỡ nào thì người buồn
đau nhất chính là những đứa con, đứa có bố thì mất mẹ, có mẹ thì mất bố, chia đàn xẻ nghé. Chị
quan niệm rằng một gia đình hạnh phúc là gia đình đầy đủ các thành viên dù đâu đó trong gia đình
còn nhiều khiếm khuyết. Vì thương con mà chị quặn lòng gửi thằng Phác lên rừng ở với ông ngoại
nó. Vì thương con và để tránh sự tổn thương cho những tâm hồn thơ bé nên chị đã bảo lão chồng
“có đánh thì đưa chị lên bờ mà đánh”. Chị giống như con gà mẹ xòe đôi cánh che chở cho đàn con
trước sự tấn công của loài chim ăn thịt. Chính tình mẫu tử thiêng liêng cao thượng đã chấp cánh cho
chị, đưa đàn con bay vút lên trên sự cơ cực, đói kém, nhọc nhằn và lam lũ. Chị chắt chiu dành dụm
từ những niềm vui nhỏ nhất “Vui nhất là thấy đàn con chúng tôi được ăn no” để khỏa lấp những nỗi
đau, để xoa dịu nỗi đời cay cực.

“Chị cũng là người đàn bà giàu lòng tự trọng. Chỉ sau khi biết được hành động vũ phu của tên
chồng bị thằng Phác và người lạ chứng kiến, chị mới thấy “Đau đớn – vừa đau đớn vừa xấu hổ,
nhục nhã”. Chắc chắn đây không chỉ là sự đau đớn về thể xác. Giọt nước mắt đau khổ của người đàn
bà trào ra, chị không muốn bất cứ ai chứng kiến và thương xót, kể cả thằng Phác (đứa con yêu của
chị) và nhất là một người lạ. Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm nhưng người đàn bà ấy
không hề bận tâm – một sự nhẫn nhục của con người có nhân cách, có lòng tự trọng và thấu hiểu lẽ
đời, có một tình thương con vô bờ bến” (Nguyễn Duy Kha)

Như vậy, qua hình tượng người đàn bà hàng chài cùng tình huống truyện mang tính nhận thức
và khám phá, nhà văn muốn gửi người đọc một thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc
đời, cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phổ quát để phát hiện ra vẻ đẹp ẩn sau vẻ ngoài hiện tượng.
Không những vậy, nhà văn còn đặt ra trách nhiệm người nghệ sĩ: người nghệ sĩ trước khi biết rung
động trước cái đẹp hãy là con người biết yêu ghét, vui buồn trước mọi lẽ thường, biết hành động để
có được cuộc sống tốt đẹp, bởi nghệ thuật luôn gắn liền với cuộc đời, nghệ thuật phải vì cuộc đời, đó
chính là nghệ thuật “Vị nhân sinh”.
Một điều nữa nhà văn muốn gửi gắm đó chính là vấn đề tiếp cận cuộc sống: cuộc sống muôn
màu muôn vẻ. Con người luôn có những quan hệ chằng chịt phức tạp. Bởi vậy nhìn nhận mọi sự
việc, hiện tượng cuộc sống và con người không được dễ dãi, đơn giản, phiến diện, công thức. Cuộc
sống muôn hình muôn vẻ, nếu chỉ nhìn từ một phía thì sẽ đánh giá lệch lạc, phiến diện. Vậy cần
phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để từ đó đưa nghệ thuật vươn tới chiều sâu nhân bản “Nghệ
thuật phải gắn liền với đạo đức”.

Làm nên thành công của hình tượng người đàn bà nói riêng và tác phẩm nói chung, nhà văn
Nguyễn Minh Châu đã tạo ra một tình huống truyện mang tính khám phá, nhận thức, phát hiện đời
sống. Ngôn ngữ kể chuyện khách quan, giàu sức thuyết phục mang đến cho người đọc nhiều bất ngờ
thú vị và thương cảm lẫn cảm phục.

3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)

Qua đoạn trích, nhà văn đã thể hiện... (yêu cầu 2)

III. Kết bài

Người đàn bà hàng chài là hiện thân của vẻ đẹp về đức hi sinh, lòng nhân ái bao dung của
người phụ nữ Việt Nam. Qua hình tượng này tác giả chia sẻ cảm thông của mình với những số phận
đau khổ tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với
cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của
người lao động. Đồng thời đặt ra trách nhiệm cho đông đảo tầng lớp văn nghệ sĩ phải có cái nhìn đa
diện nhiều chiều bởi nói như nhà văn “Con người thì đa đoan, cuộc đời thì đa sự”.

PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN

1. Suy nghĩ về sự sống:

Cuộc sống mưu sinh không chừa một ai. Nó tác động và thậm chí có thể đe dọa hạnh phúc gia
đình. Con người cần phải kiên cường đối diện phong ba để bảo vệ hạnh phúc gia đình.

Khẳng định vai trò cũng như tầm quan trọng của người phụ nữ trong việc xây dựng và bảo vệ
hạnh phúc gia đình. Một trong những phẩm chất làm nên điều kì diệu ấy là lòng bao dung vị tha và
đức hi sinh của họ.

2. Nhận xét về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam: Nhân vật người đàn bà hàng chài hội tụ
nhiều những phẩm chất cao quý, tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam nói chung: thương chồng con,
vị tha, giàu đức hi sinh, từng trải hiểu đời, biết chắt chiu những niềm vui nhỏ bé trong cuộc sống,
kiên cường trước hoàn cảnh khó khăn, khoan dung độ lượng, nhân hâu…

3. Nhận xét về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu:

Nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực cuộc sống. Nhà văn phải có cái nhìn đa diện nhiều
chiều, phát hiện ra bản chất thật của hiện tượng , con người.

4. Bình luận về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong
tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa:
Khám phá bản chất cuộc sống và con người ở góc độ thế sự bằng cái nhìn đa diện, nhiều chiều
(cuộc sống của người dân chài còn nhiều nghịch lí, nhân vật người đàn bà vừa nhẫn nhục đến mức
phi lí vừa có những phẩm chất đẹp đẽ...). Đánh giá về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà
văn trong tác phẩm.

5. Nhận xét về cảm hứng thế sự của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngoài xa”.

Dự cảm lo âu của nhà văn về thân phận con người đã thôi thúc Nguyễn Minh Châu hướng đến
thông điệp: sự ngu dốt tối tăm cùng với cuộc sống lao động cực nhọc có thể dẫn đến số phận bi đát
của người nông dân.

Trong Chiếc thuyền ngoài xa, gia đình hàng chài chính là một bức tranh thu nhỏ cho cuộc sống
ấy. Ở đây, con người hiện lên chân thực đến trần trụi trong một cuộc sống đói nghèo tăm tối. Nhưng
Nguyễn Minh Châu còn khám phá ở một tầng sâu hơn trong những bí ẩn của con người. Nguyễn
Minh Châu đem đến cho ta những bất ngờ. Người chồng ấy đâu chỉ là một tội nhân. Anh ta còn là
ân nhân đã đem đến cho người đàn bà thô mộc xấu xí với gương mặt rỗ vì đậu mùa ấy một gia đình
mà chị ta khao khát. Anh ta vốn cũng hiền lành. Anh ta còn là người chồng, người cha đã gồng lưng
chèo chống con thuyền- gia đình hàng chài- giữa biển cả khi trời yên cũng như khi biển động để
nuôi sống cả đàn con. Trên vai anh ta là cả một gánh nặng mưu sinh nhọc nhằn. Và, sự gồng gánh
ấy chưa hề đứt đoạn.

Còn người đàn bà, tưởng như ít học, mông muội (giơ lưng chịu đòn không một tiếng kêu la),
lại là một người rất thấu hiểu lẽ đời, biết cảm thông và biết hy sinh. Chị chia sẻ cùng chồng gánh
nặng mưu sinh bằng cách chìa tấm lưng ra chịu những trận đòn, hiểu rằng ấy là một cách giải tỏa
những ấm ức cuộc sống. Chị chắt chiu cho mình và cho con những khoảnh khắc hạnh phúc hiếm hoi
và quý giá. Chị biết giữ gìn cho con một tâm hồn hướng thiện khi xin chồng đưa mình lên bờ, đến
quãng vắng mà đánh. Chị lại giữ cho con một gia đình trọn vẹn, một người cha gánh vác bằng một
lời cầu xin thống thiết “đừng bắt con bỏ nó”. Rõ ràng, đằng sau cái vẻ xù xì thô mộc ấy là những vẻ
đẹp bất ngờ của con người, như một niềm tin của Nguyễn Minh Châu vào con người và cuộc đời.

6. Thông điệp của Nguyễn Minh Châu:

Không thể nhìn nhận vẻ bề ngoài để suy ra bản chất bên trong của một con người. Không thể
nhìn nhận con người một cách dễ dãi, xuôi chiều. Phải đặt trong hoàn cảnh và các mối quan hệ mới
thấu hiểu được bản chất bên trong của họ.

7 Nhận xét giá trị nhân đạo:

Giọng kể buồn thương, thể hiện nỗi lo âu trăn trở trước cuộc mưu sinh nhọc nhằn của con
người. Nhà văn ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, lên án nạn bạo hành. Phát hiện và trân trọng vẻ đẹp
trong tâm hồn của người đàn bà hàng chài, cảm phục trước sự hi sinh thầm lặng của người phụ nữ
nghèo khổ lam lũ.

ĐỀ 6:
Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại vẫn là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt,
nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể:
– Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ
nhà tôi còn khá giả, nhà tôi trước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có
mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới. Lão
chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
– Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về
đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ
chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…
– Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
– Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng cái lỗi
chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
– Vậy sao không lên bờ mà ở–Đẩu hỏi.
– Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách
mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
– Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? – Tôi hỏi.
– Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống
rượu… Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với
lão… đưa tôi lên bờ mà đánh…
– Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! – Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.
– Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả
của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…
– Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu,–bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, – trên
thuyền phải có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo?
– Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
– Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải
có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào
cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn
lớn nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống
cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi
bỏ nó! – Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười – vả lại, ở
trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.

(Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt
Nam, 2020, tr.75 – 76)
Anh/chị hãy phân tích quá trình chuyển biến nhận thức của nhân vật Phùng trong đoạn
trích trên. Từ đó, đánh giá bài học nhân sinh của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
I. Mở bài

Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi
mới với phong cách nghệ thuật mang tính tự sự – triết lí. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm
phong cách tự sự – triết lí của Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị đời thường, truyện kể lại
chuyến đi thực tế của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và những chiêm nghiệm sâu sắc của anh về nghệ
thuật và cuộc đời. Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập “Bến quê” (1985), sau được đưa vào tuyển
tập truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” (1987). Phùng là một trong những nhân vật chính của tác
phẩm. Đây là kiểu nhân vật tư tưởng, có quá trình thức tỉnh, bừng ngộ về nhận thức. Đoạn trích kể
về câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại toà án huyện và quá trình suy tư, chiêm nghiệm của
nhân vật Phùng. Từ đó thể hiện những nhận thức sâu sắc, đa chiều của người nghệ sĩ về nghệ thuật,
cuộc sống, con người.

II. Thân bài

1. Khái quát

"Chiếc thuyền ngoài xa" được sáng tác năm 1983 đến năm 1987 in trong truyện ngắn cùng tên.
Truyện ngắn tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, tiêu biểu cho xu hướng chung của văn học thời kì
đổi mới. truyện ngắn có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Tình huống ấy được thể hiện qua
nhãn quan của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Phùng là một trong những nhân vật chính của tác phẩm.
Đây là kiểu nhân vật tư tưởng, có quá trình thức tỉnh, bừng ngộ về nhận thức. Đoạn trích
“...” kể về câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại toà án huyện và quá trình suy tư, chiêm
nghiệm của nhân vật Phùng. Từ đó thể hiện những nhận thức sâu sắc, đa chiều của người nghệ sĩ về
nghệ thuật, cuộc sống, con người.

2. Cảm nhận

Ban đầu, ở toà án huyện, khi người đàn bà hàng chài từ chối sự giúp đỡ, cũng như mới nghe
một phần câu chuyện, Phùng đã bộc lộ cái nhìn đơn giản, phiến diện, chưa thực sự thấu hiểu hết về
cuộc sống, con người. Nhưng sau đó, tiếp tục lắng nghe câu chuyện, lời kể, lí lẽ của chị, Phùng đã
bừng ngộ về nhận thức, có cái nhìn đa chiều và những chiêm nghiệm sâu sắc, tiệm cận đến chân lí
về nghệ thuật, cuộc đời, con người.

Trước hết là với người đàn bà hàng chài: Ban đầu, trong những khoảnh khắc khi chị mới đến
toà án huyện, hiện lên trước mắt Phùng là một người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục, lạc hậu, thiếu
hiểu biết. Với bộ điệu, dáng vẻ lúng túng, đầy sợ sệt, người đàn bà không chỉ cầu xin không phải bỏ
chồng mà chị còn kể lại hoàn cảnh sống của mình: “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra
đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu… Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Sau
này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Thoạt đầu mới nghe,
Phùng đã thốt lên không thể nào hiểu được. Đó là sự cam chịu đến mức vô lí, mù quáng của người
đàn bà hàng chài mà anh không thể giải thích và chấp nhận được. Điệp khúc không thể nào hiểu
được lặp lại hai lần cho thấy sự ngạc nhiên cao độ, sự bất bình của Phùng trước những điều vô lí
trong hành động của người phụ nữ bất hạnh.

Sau đó, Phùng tiếp tục lắng nghe, suy ngẫm về những tâm tư, lí lẽ, lời giải thích của người đàn
bà hàng chài: các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của
người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông; đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần
phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà
nào cũng trên dưới chục đứa; đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho
mình như ở trên đất được; ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa
thuận, vui vẻ.

Từ đó, anh đã có sự chuyển biến, bừng ngộ trong nhận thức: Phùng hiểu ra nguyên nhân vì sao
chị không chịu bỏ chồng, vì sao chị cam chịu, nhẫn nhục khi bị bạo hành. Sự thừa nhận đầy chua
chát của Đẩu “Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, – bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, –
trên thuyền phải có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo?”cũng chính là sự thức tỉnh, bừng
ngộ của Phùng. Giờ đây, anh đã hiểu ra rằng chị cần một người đàn ông chèo chống khi phong ba
bão tố, để làm ăn nuôi nấng đàn con; anh nhận thức được những nghịch lí, bất công trong cuộc đời
mà người đàn bà hàng chài phải chấp nhận. Phùng phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp, hạt ngọc lấp lánh
ẩn sâu trong tâm hồn người đàn bà hàng chài. Đằng sau một người phụ nữ nghèo khổ, thô kệch, cam
chịu, nhẫn nhục là vẻ đẹp cao quý của người mẹ giàu đức hi sinh, có tình thương con vô bờ bến; vẻ
đẹp của một người vợ vị tha, bao dung, độ lượng; vẻ đẹp của người phụ nữ sắc sảo, từng trải, thấu
hiểu lẽ đời, có bản lĩnh sống khoẻ khoắn kiên cường và biết chắt chiu từng khoảnh khắc hạnh phúc
bình dị đời thường.
Tiếp đến về lão đàn ông hàng chài: Ban đầu, trong nhận thức của Phùng, hắn là một người
chồng vũ phu, tàn bạo. Phùng đã lí giải tính cách, hành động độc ác của lão ta với cái nhìn phiến
diện, mang tính thiên kiến giai cấp khi cho rằng đó là sản phẩm, tàn dư của lính nguỵ . Anh đã hỏi
một câu như lạc đề: “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không?”. Câu hỏi đó bộc lộ quan
điểm, cái nhìn đơn giản, thậm chí chưa đúng đắn về con người và hiện thực cuộc sống vốn dĩ đầy
phức tạp. Sau khi nghe lời bênh vực của người đàn bà hàng chài đối với chồng, Phùng có cái nhìn đa
chiều, đúng đắn hơn. Anh hiểu ra rằng: nguyên nhân tạo nên tính cách vũ phu, căn nguyên dẫn đến
hành động bạo hành vợ là do hoàn cảnh gia đình túng quẫn, nghèo đói triền miên, thuyền chật con
đông, vất vả cực nhọc với cuộc sống mưu sinh. Vì vậy, người đàn ông hàng chài không chỉ là thủ
phạm tàn ác đáng bị lên án mà còn là một nạn nhân của hoàn cảnh sống đầy bộn bề, ngổn ngang thời
hậu chiến.
Về cuộc sống Phùng cũng có những thay đổi sâu sắc trong nhận thức: Ban đầu, Phùng chưa
thấu hiểu hết cuộc sống mưu sinh vất vả của người dân hàng chài trên biển cả đầy sóng gió. Anh
nhận thức rất đơn giản về hiện thực cuộc sống. Ở đây, tác giả đã để cho nhân vật Đẩu hỏi người đàn
bà hàng chài: “Vậy sao không lên bờ mà ở”. Sự nhận thức của Đẩu cũng chính là nhận thức của
Phùng. Họ cứ nghĩ rằng lên bờ ở cố định một chỗ sẽ thoát khỏi sóng gió biển khơi, thoát khỏi cảnh
nghèo khổ, túng quẫn, bấp bênh. Phùng và Đẩu tin rằng li hôn là giải pháp tốt nhất giúp người đàn
bà hàng chài thoát khỏi khổ đau; tình thương, thiện chí, pháp luật sẽ bảo vệ được chị, sẽ đem lại sự
công bằng cho xã hội. Nhưng sau đó khi nghe người đàn bà trải lòng “Làm nhà trên đất ở một chỗ
đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho
nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!”, Phùng đã nhận ra những khó khăn trong quá trình tìm
con đường, cách thức để giúp người dân hàng chài thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu. Phùng cũng hiểu ra
li hôn không phải là giải pháp tốt nhất lúc này; tình thương, thiện chí, pháp luật chưa thể giúp người
đàn bà hàng chài thoát khỏi bi kịch gia đình. Lời khẩn cầu của chị “Các chú đừng bắt tôi bỏ nó” một
lần nữa đã giúp Phùng nhận thức rõ hơn hiện thực đời sống đầy trái ngang. Cuộc sống vốn dĩ phức
tạp, chứa đầy nghịch lí mà con người phải chấp nhận để tồn tại; đằng sau cái tưởng chừng vô lí là
cái có lí.
Qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài, Phùng cũng nhận ra rằng cuộc sống của chị hay
của người dân lao động không chỉ có toàn khổ đau, bất hạnh, éo le, mà cũng có lúc được vui vẻ, hoà
thuận. Dẫu có đau khổ, nhọc nhằn nhưng chị vẫn tìm tấy niềm vui, hạnh phúc bình dị để trân trọng,
nâng niu. Như vậy, cuộc sống thật phong phú, phức tạp và được tạo nên từ nhiều mảnh ghép, mảng
màu khác nhau.
Đặc biệt, Phùng đã có những thay đổi về quan niệm nghệ thuật: Ban đầu, khi con thuyền ở
ngoài xa, tức là nghệ thuật và người nghệ sĩ còn cách xa với đời sống thì Phùng mới chỉ thấy được
cái hình thức bên ngoài với vẻ đẹp nên thơ, sự tuyệt mĩ của nó. Đó là thứ nghệ thuật thuần tuý, duy
mĩ, chưa gắn với đời, chưa vì con người. Nhưng lúc ấy, anh tưởng mình đã khám phá được chân lí
của sự toàn thiện. Điều đó cho thấy quan niệm đơn giản, phiến diện của phùng về nghệ thuật. Sau
đó, khi con thuyền vào gần bờ, đặc biệt con thuyền qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở
toà án huyện, tức là nghệ thuật và người nghệ sĩ đã đến gần với cuộc đời thì lúc đó nghệ thuật mới
khám phá được chiều sâu, những góc khuất mảng tối của đời sống con người, nhận thức được bản
chất của các hiện tượng và tiệm cận đến những chân lí. Phùng nhận thức sâu sắc hơn về sứ mệnh
của nghệ thuật và trách nhiệm, lương tâm của người nghệ sĩ: hãy vì con người, vì cuộc đời…
Và chính bản thân Phùng và về Đẩu thì Phùng cũng có sự thay đổi trong suy nghĩ, nhận thức:
Qua câu chuyện của người đàn bà ở toà án huyện, Phùng đã nhận thức được cái nhìn ban đầu của
mình và của Đẩu về cuộc đời, con người, nghệ thuật còn đơn giản, phiến diện, thậm chí chưa đúng
đắn. Lúc này anh hiểu ra rằng: họ là những người sành về nghệ thuật, am hiểu về pháp luật, về lí
thuyết sách vở song lại ngây thơ, non nớt, thiếu hiểu biết trước sự phức tạp của cuộc sống mưu sinh,
trước thực tế đời sống thời hậu chiến, trước con người lao động. Từ đó, Phùng đã bừng ngộ để tiệm
cận đến chân lí, để thấu hiểu nhiều hơn, có những chiêm nghiệm sâu sắc hơn, nhận thức rõ về trách
nhiệm của bản thân – trách nhiệm của người nghệ sĩ…
Truyện thành công bởi xây dựng được cốt truyện, kết cấu độc đáo; xây dựng nhân vật Phùng
với quá trình chuyển biến, thức tỉnh về nhận thức; sáng tạo tình huống truyện nghịch lí có ý nghĩa
nhận thức; các chi tiết tiêu biểu, hình ảnh giàu tính biểu tượng; ngôn ngữ đời thường, dung dị, song
giọng điệu trần thuật đầy tính triết lí…
3. Đánh giá bài học nhân sinh của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Qua quá trình chuyển biến nhận thức của nhân vật Phùng, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã
mang đến bài học đúng đắn, sâu sắc, toàn diện, mới mẻ về nhân sinh:
Cuộc sống, con người vốn dĩ phong phú, kì diệu song phức tạp và đầy nghịch lí. Vì vậy, hãy
có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng;
không thể nhìn đơn giản, sơ lược, một chiều mang tính lí tưởng hoá.
Nghệ thuật và người nghệ sĩ hãy đến gần với cuộc đời, với con người; người nghệ sĩ không chỉ
cần có tài năng mà còn cần có tấm lòng yêu thương, dũng cảm đấu tranh chống lại sự bất công, sẵn
sàng bảo vệ những con người bất hạnh và đem lại giá trị tốt đẹp cho cuộc sống… Đó chính là nghệ
thuật vị nhân sinh, nghệ thuật chân chính, cái tạo nên giá trị đích thực của một tác phẩm, và khẳng
định tầm vóc của một tác giả.
III. Kết bài:
Bài học về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn đã tạo nên một truyện ngắn
xuất sắc, có chiều sâu nhận thức, có giá trị phát hiện bằng những nghịch lí, có quan niệm mới mẻ.
Với triết lí nhân sinh đó, Nguyễn Minh Châu xứng đáng là người mở đường tài năng, tinh anh cho
văn học Việt Nam thời kì đổi mới; xứng đáng là cây bút bản lĩnh, tài hoa.

BÀI 7: RỪNG XÀ NU

- Nguyễn Trung Thành -

ĐỀ 1:
Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc
buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn
đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không cócây
nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở
chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm
lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn.
Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã
có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít
loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng
trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thắng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây
bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt
làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét
mai ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người,
cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng,
những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên
rấtnhanh, thay thế những cây đã ngã... Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của
mình ra, che chở cho làng...
Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi
xà nu nối tiếp tới chân trời.
(Trích Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành, Ngữ văn 12,Tập 2, trang 38,NXB Giáo dục Việt
Nam, 2008)
Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp hình tượng cây xà nu trong đoạn trích trên. Từ đónhận
xét
I. Mở bài

Nguyễn Trung Thành là nhà văn có sở trường viết về Tây Nguyên qua hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ. Rừng xà nu-truyện ngắn đỉnh cao và xuất sắc nhất của văn xuôi đánh Mĩ.
Tác phẩm phản ánh cuộc đấu tranh anh dũng bất khuất, kiên cường của đồng bào Tây Nguyên. Một
trog những thành công nổi bật của Nguyễn Trung Thành là xây dựng hình tượng Rừng xà nu thể
hiện chiều sâu của tác phẩm, tạo nên tính cô đúc, hàm xúc mang sắc màu anh hùng ca của tác phẩm
của văn xuôi đánh Mĩ. Tác phẩm tập trung ca ngợi vẻ đẹp hình tượng cây xà nu, qua đó thể hiện bút
pháp miêu tả thiên nhiên của nhà văn Nguyễn Trung Thành.

II. Thân bài

1. Khái quát

Truyện ngắn “Rừng xà nu” viết năm 1965, in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện
Ngọc”. Truyện miêu tả rừng xà nu và kể chuyện về Tnú sau ba năm đi “lực lượng” được về thăm
làng. Đêm đó, cụ Mết kể lại câu chuyện cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man. Kết
truyện, cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở về đơn vị. Đây là đoạn mở đầu thiên truyện về một làng Xô Man
nhỏ bé nhưng kiên cường, bất khuất. Đoạn trích là một bức tranh, trong đó tác giả tái hiện hình ảnh
rừng xà nu hiên ngang, đầy sức sống trước sự huỷ diệt của kẻ thù. Nó là hình ảnh thu nhỏ của làng
Xô Man, như là biểu tượng của người dân Tây Nguyên anh dũng, khát khao độc lập, tự do.

2. Cảm nhận

Thật vậy,trong tác phẩm, cây xà nu, rừng xà nu đã được Nguyễn Trung Thành miêu tả thật cụ
thể, thật chi tiết với ngôn ngữ giàu chất thơ, bằng những “lời văn có cánh” trong một cảm xúc thật
say mê và mãnh liệt. Cây xà nu trong truyện xuất hiện rất nhiều lần và dường như rất quen thuộc với
con người nơi núi rừng Tây Nguyên, nó tham dự vào tất cả những sinh hoạt, những tâm tình, những
buồn vui của người dân nơi đây trong cuộc chiến đấu chống Mĩ thật anh dũng của họ.  Câu chuyện
ấy được kể trên nền tảng chính của hình tượng cây xà nu – một hình tượng hàm chứa rất nhiều ý
nghĩa tượng trưng và khái quát.
Những cây xà nu, rừng xà nu như những con người, những tâm hồn sống, vừa là nhân chứng,
vừa tham gia bản anh hùng ca, cũng vừa chịu đựng mọi vất vả, đau thương dưới tầm đạn kẻ thù.
Nhưng bất chấp tất cả, rừng xà nu vẫn tràn đầy sức sống, vẫn vươn mình lên cường tráng vượt lên
mọi thương đau. Cây xà nu là một hình ảnh mang tính chất tượng trưng cho khát vọng tự do, khát
vọng giải phóng, cho phẩm chất anh hùng và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của dân làng Xô-man.
Mở đầu câu chuyện là hình ảnh “cả rừng xà nu hàng vạn cây” và kết thúc vẫn là “những rừng
xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Hình ảnh ấy như một nét nhạc trầm hùng, một bản đàn dạo, là
cái “phông” cho cả một câu chuyện khiến thiên truyện càng mang đậm tính sử thi và lãng mạn hơn.
Có thể nói,rừng cây xà nu được xem như là biểu tượng cho con người Xô-man. Với hình ảnh nhân
hóa, Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cây xà nu như những con người, chúng cũng có “vết thương”,
biết “ham ánh sáng” và “ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng”. Cây xà nu còn là một hình ảnh so
sánh với con người “ngực căng bằng cây xà nu”. Rừng xà nu năm tháng đứng dưới tầm đại bác kẻ
thù chịu đựng biết bao tàn phá, cũng như những đau thương mà dân làng phải gánh chịu trước ách
kìm kẹp của giặc. “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. “Cây bị chặt
đứt ngang nửa thân mình nhựa ứa ra, tràn trề… rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng
cục máu lớn”. Hình ảnh đó gợi lên lòng căm thù và kết tụ một ý chí phản kháng.
Nhưng hơn hết vẫn là sức sống mãnh liệt đầy sức trẻ của rừng xà nu bạt ngàn. “Cạnh một cây
xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên
bầu trời”, “có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắc như những mũi lê” “nó phóng lên rất
nhanh để tiếp lấy ánh sáng”. Thế mới biết sức trẻ của cây xà nu mãnh liệt đến dường nào! Sức trẻ
ấy còn mang tính tượng trưng cho thế hệ trẻ của làng Xô-man. Đó là những Mai, Dít, Tnú, Heng,
những con người luôn gắn bó với cách mạng, bất khuất từ tuổi thơ, lớn lên trong lửa đạn, trưởng
thành trong đau thương và sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì tự do của dân tộc.
 Bên cạnh đó, sức sống bất khuất kiên cường của cây xà nu còn được tạo bởi hàng vạn cây ở
những đồi xà nu nối tiếp nhau tới chân trời ở tấm ngực lớn của rừng ưỡn ra che chở cho làng. Đó là
những cây xà nu thật vững chắc, xanh tốt đã vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum suê như
những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. “Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của
chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây
đã ngã”, một cây ngã xuống tức thì bốn năm cây con lại mọc lên cứ thế trở thành cả một rừng cây
xà nu nối tiếp đến chân trời. Những cây xà nu, rừng xà nu ấy là hình ảnh của dân làng Xô-man kiên
cường chống giặc, bất chấp mọi hi sinh, một lòng đi theo Đảng, đi theo kháng chiến hết thế hệ này
đến thế hệ khác. Đó là những cụ Mết, anh Xút, Tnú, Mai, Dít, anh Brơi… mà tiêu biểu là hình ảnh
cụ Mết. Nhà văn đã ví cụ “như một cây xà nu lớn”. Hơn ai hết, cụ là người hiểu rất rõ sự gắn bó của
cây xà nu và mảnh đất đang sống, hiểu được sức mạnh tiềm tàng bất khuất của rừng xà nu cũng như
của dân làng Xô-man. Chính cụ Mết đã nói với Tnú “không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”,
“cây mẹ chết cây con lại mọc lên”.
Cây xà nu còn là “nhân chứng” cho  sự giác ngộ, sự hi sinh thầm lặng, lòng dũng cảm và ý chí
quật khởi của dân làng Xô-man. “Đứng trên đồi cây xà nu gần con nước lớn, cả vùng Xô-man ào ào
rung động. Và lửa cháy khắp rừng”. Ánh lửa xà nu soi sáng lời căn dặn của anh Quyết: “Người còn
sống phải chuẩn bị dao, mác, vụ, rựa, tên, ná… Sẽ có ngày dùng tới”. Lửa xà nu thử thách ý chí
cũng như lòng can đảm của Tnú: “Không có gì đượm bằng nhựa cây xà nu… Mười ngón tay đã
thành mười ngọn đuốc… máu anh mặn chát ở đầu lưỡi…”.
Hình tượng cây xà nu được xây dựng bằng nghệ thuật độc đáo:Kết hợp miêu tả bao quát lẫn cụ
thể, khi dựng lên hình ảnh cả khu rừng, khi đặc tả cận cảnh một số cây. Phối hợp cảm nhận của
nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa
thơm, ngời xanh dưới ánh nắng... Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh, đối chiếu thường xuyên với
con người. Các hình thức nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động
vẻ hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời
sống. Giọng văn đầy biểu cảm với những cụm từ được lặp đi lặp lại gây cảm tưởng đoạn văn giống
như một đoạn thơ trữ tình.
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)

Qua đoạn trích, nhà văn đã thể hiện... (yêu cầu 2)

III. Kết bài

Đoạn trích mở đầu truyện ngắn Rừng xà nu mang đầy ý nghĩa biểu trưng, là âm hưởng chủ đạo
tạo phông nền cho diễn biến của toàn bộ thiên truyện. Hình tượng cây xà nu và rừng xà nu tiêu biểu
cho sức sống của người dân Tây Nguyên. Mỗi cây xà nu là một con người, các thế hệ xà nu là các
thế hệ người dân làng Xô Man, cả rừng xà nu là hình ảnh làng Xô Man kiên cường, bất khuất.

PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN

1. Nhận xét bút pháp miêu tả thiên nhiên của nhà văn Nguyễn Trung Thành:

Tác giả đã sử dụng bút pháp miêu tả giàu chất sử thi và cũng rất lãng mạn, bay bổng :Đối lập
giữa sự tàn khốc của chiến tranh với sức sống của cây xà nu; Tạo dựng được một bức tranh hoành
tráng và đầy lãng mạn về cây xà nu, rừng xà nu (không gian ngút ngàn và hình tượng cây xà nu
khoẻ khoắn, mạnh mẽ, ham ánh sáng, khí trời, tràn đầy sinh lực, căng đầy nhựa sống,...). Ngôn ngữ
miêu tả trong đoạn trích khi mạnh mẽ, hùng tráng khi tha thiết, tự hào; vừa lãng mạn bay bổng vừa
trữ tình sâu lắng... Mạnh mẽ, hùng tráng khi miêu tả, nhấn mạnh sự khốc liệt của chiến tranh; tha
thiết, tự hào khi miêu tả sức sống kì diệu của cây xà nu. Điểm nhìn mang tính sử thi và cảm hứng
lãng mạn: đó là một cái nhìn thể hiện sự khâm phục, trân trọng và ngưỡng vọng đối với cái cao cả;
đó là cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cái hùng, cái đẹp của thiên nhiên và con người.

2. Nghệ thuật đặc sắc được tác giả Nguyễn Trung Thành qua tác phẩm “Rừng xà nu”

Tô đậm không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên (bức tranh thiên nhiên; ngôn ngữ, tâm lí,
hành động của nhân vật).Xây dựng thành công hai tuyến nhân vật đối lập gay gắt: giữa kẻ thù (thằng
Dục) với lực lượng cách mạng, đại diện là các thế hệ nối tiếp nhau vừa có những nét cá tính sống
động vừa mang những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu (cụ Mết, Tnú, Dít…)

Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu vừa hiện thực vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng,
đem lại chất sử thi và lãng mạn, bay bổng cho thiên truyện.

Nghệ thuật trần thuật sinh động (đan cài câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân
làng Xô Man; xen kẽ thời gian kể chuyện và thời gian của các sự kiện; phối hợp các điểm nhìn…)
tạo nên giọng điệu, âm hưởng phù hợp với không gian Tây Nguyên.

3. Nhận xét chung về vẻ đẹp nghệ thuật trong cách thể hiện của tác giả:

Đặc sắc nghệ thuật bao trùm nhất đó là “màu sắc sử thi” của tác phẩm toát ra từ hình tượng –
mang tính ẩn dụ là: Rừng xà nu là tiếng nói của lịch sử và thời đại, gắn liền với những sự vận động,
những biến cố có ý nghĩa trọng đại đối với toàn dân. Những bức tranh thiên nhiên hay những hình
tượng anh hùng trong tác phẩm, chung quy đều là sự kết tinh của những lí tưởng cao quý nhất của
cộng đồng. Rừng xà nu mang một hình thức sử thi hoành tráng. Hoành tráng trong hình ảnh, với vóc
dáng vạm vỡ, cao cả của núi rừng, cũng như con người. Và hoành tráng trong âm hưởng, với lời văn
được đẽo gọt, để không những giàu sức tạo hình, mà còn giàu có về nhạc điệu, khi vang động, khi
tha thiết hoặc trang nghiêm.
ĐỀ 2:
… Thằng Dục không giết Tnú ngay. Nó đốt một đống lửa lớn ở nhà ưng, lùa tất cả dân làng
tới, cởi trói cho Tnú, rồi nói với mọi người:
- Nghe nói chúng mày đã mài rựa, mài giáo cả rồi phải không? Được, đứa nào muốn cầm rựa,
cầm giáo thì coi bàn tay thằng Tnú đây.
Nó hất hàm ra hiệu cho thằng lính to béo nhất. Chúng nó đã chuẩn bị sẵn cả. Thằng lính mở
tút-se, lấy ra một chùm giẻ. Giẻ đã tẩm dầu xà-nu. Nó quấn lên mười đầu ngón tay Tnú. Rồi nó cầm
lấy một cây nứa. Nhưng thằng Dục bảo:
- Để nó cho tau!
Nó giật lấy cây nứa.
Tnú không kêu lên một tiếng nào. Anh trợn mắt nhìn thằng Dục. Nó cười sằng sặc. Nó dí cây
lửa lại sát mặt anh:
- Coi kỹ cái mặt thằng cộng sản muốn cầm vũ khí này xem sao nào. Số kiếp chúng mày không
phải số kiếp giáo mác. Bỏ cái mộng cầm giáo mác đi, nghe không?
Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt
rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc.
Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng.
Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy ở
trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh
không kêu rên. Anh Quyết nói: “Người cộng sản không thèm kêu van…” Tnú không thèm, không
thèm kêu van. Nhưng trời ơi! Cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi! Không, Tnú sẽ không kêu!
Không!...
Tiếng cười giần giật của thằng Dục. Các cụ già chồm dậy. Bọn lính gạt ra. Tiếng kêu ré của
đồng bào. Tiếng chân ai rầm rập quanh nhà ưng. Ai thế?Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi.
Nhưng là tiếng thét vang dội. Tiếp theo là tiếng “Giết!”. Tiếng chân người đạp trên sàn nhà ưng
rào rào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh. Tiếng cụ Mết ồ ồ: “Chém! Chém hết!” Cụ Mết, đúng rồi, cụ
Mết đã đứng đấy, lưỡi mác dài trong tay. Thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ Mết. Và thanh niên,
tất cả thanh niên trong làng, mỗi người một cây rựa sáng loáng, những cây rựa mài bằng đá mà
Tnú mang từ đỉnh núi Ngọc Linh về...”
(Trích Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành, Ngữ văn 12,Tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2015 tr 46, 47)
Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng nhân vật Tnú trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét ...
I. Mở bài

Nguyễn Trung Thành không sinh ra ở Tây Nguyên nhưng gắn bó mật thiết với Tây Nguyên.
Với tình cảm sâu nặng và hiểu biết sâu sắc về mảnh đất này, tác giả đã thành công trong việc dựng
nên bức tranh về đời sống đồng bào dân tộc thiểu số. Một trong những tác phẩm được xem như
“Hịch tướng sĩ” thời chống Mĩ của ông là truyện ngắn “Rừng xà nu”. Trong truyện ngắn Rừng xà
nu, đoạn trích “…Thằng Dục không giết Tnú ngay (…)những cây rựa mài bằng đá mà Tnú mang từ
đỉnh núi Ngọc Linh về...” thể hiện vẻ đẹp mang tính sử thi của nhân vật người anh hùng Tnú.

II. Thân bài

1. Khái quát
Truyện ngắn "Rừng xà nu" được nhà văn Nguyễn Trung Thành viết năm 1965, in trong tập
"Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc". Truyện miêu tả rừng xà nu và kể chuyện Tnú sau ba
năm đi "lực lượng" về thăm làng. Tối hôm đó, tại nhà cụ Mết, dân làng mừng đón Tnú, Cụ Mết kể
cho dân làng nghe câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của làng Xô Man chống kẻ thù tàn
bạo. Sáng hôm sau, cụ Mết và Dít tiễn chân Tnú trở về đơn vị. Đoạn trích thuộc phần gần cuối của
truyện, diễn tả cảnh nhân vật Tnú bị thằng Dục tra tấn dã man nhưng anh vẫn cắn răng chịu đựng.

2. Cảm nhận

Giặc đã giết vợ con Tnú bằng trận mưa roi sắt, hòng uy hiếp tinh thần Cách mạng của anh,
người cầm đầu, linh hồn của cuộc nổi dậy. Đoạn văn diễn tả sự bất lực của Tnú trước cái chết của
vợ con thật bi thương tràn đầy xúc cảm và ấn tượng “Tnú đã bỏ gốc cây của anh. Đó là một cây vả.
Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy… bụng anh như có lửa đốt. Chỗ hai
con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Căm thù đau nhói trong tim và bừng cháy trong hai con
mắt – một chi tiết thật dữ dội. Tnú nhảy vào giữa đám lính, hai cánh tay như cánh gỗ lim của anh
ôm chặt lấy mẹ con Mai. Nhưng không còn kịp nữa!

Đó không chỉ là bi kịch của Tnú mà còn là bi kịch của dân làng Xô Man bởi trong tay họ
không có vũ khí, họ chỉ là hai bàn tay không. Có lẽ chính vì vậy mà ở giữa câu chuyện về cuộc đời
Tnú, ông cụ Mết đã dừng câu chuyện lại và nhắc đi nhắc lại đến bốn lần câu nói “Tnú không cứu
sống được mẹ con Mai”. Chỉ vì Tnú chỉ có hai bàn tay không. Rồi ông cụ cất cao giọng sấm truyền
một chân lý rực lửa “Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.

Tnú bị bắt, bị trói. Vợ và con chết cả rồi nhưng Tnú không khóc. Anh ghìm nén nỗi đau, cố
gắng vượt qua bi kịch cá nhân để tiếp tục sống và chiến đấu. Trước cái chết cận kề, Tnú không hề
run sợ mà anh cảm thấy mình thật bình thản. Anh nghĩ “Đứa con chết rồi. Mai chắc cũng chết
rồi,Tnú cũng sắp chết”. Nhưng Tnú không sợ, điều làm Tnú day dứt và băn khoăn nhất chính là “rồi
khi có lệnh của Đảng cho đánh ai sẽ lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc?… chỉ tiếc cho Tnú
không sống được tới ngày cầm vũ khí đứng dậy với dân làng”. Tnú hoàn toàn không nghĩ đến mình
nữa, Tnú đã đặt cái chung, cái nhiệm vụ lên trên bi kịch của mình. Đó là thái độ biến đau thương
thành hành động.

Bị kẻ thù tra tấn tàn bạo nhưng bản lĩnh của người cộng sản trong Tnú lại rất kiên cường, vững
chãi: Để uy hiếp tinh thần cách mạng của dân làng Xô Man và uy hiếp tinh thần của Tnú. Giặc dùng
giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt mười đầu ngón tay của anh. Chúng định dùng lửa để thiêu rụi ý chí đấu
tranh của dân làng Xô man. Nhưng chúng đã nhầm. Chính ngọn lửa trên mười đầu ngón tay của Tnú
đã thắp lên ngọn lửa đồng khởi, ngọn lửa đấu tranh của dân làng Xô man.

Chúng muốn đốt ta thành tro bụi


Ta hóa vàng nhân phẩm lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ô nhục
Ta làm sen thơm ngát giữa đầm
(Tố Hữu)
Đoạn văn diễn tả tinh thần bất khuất của người anh hùng Tây Nguyên thật mãnh liệt. “Một
ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa Xà nu”. Mười ngón tay
của Tnú nhanh chóng thành mười ngọn đuốc sống. Kì lạ thay, người Cộng Sản ấy không hề kêu van,
dù “Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã
cắn nát môi anh rồi”. Đúng rồi, Tnú không thèm kêu van vì “người cộng sản không thèm kêu van”.
Nhưng Tnú đã thét lên một tiếng “Giết”. Tiếng thét ấy làm rung chuyển núi rừng, làm lay động tâm
can con người. Và cộng hưởng cùng tiếng thét ấy là tiếng chân người chạy rầm rập trên nhà Ưng.
Tiếng cụ Mết ồ ồ “Chém! Chém hết!”. Tiếng thét ấy trở thành ngòi nổ làm bùng cháy cả khối thuốc
nổ căm hờn của dân làng Xôman. Với vũ khí thô sơ là giáo, là mác, họ vùng lên chém chết bọn ác
ôn. Trong phút chốc xác mười tên giặc đã nằm ngổn ngang quanh đống lửa.
Có thể nói, cuộc đời bi tráng của Tnú là điển hình cho con đường đến với cách mạng của người
dân Tây Nguyên, góp phần làm sáng rõ chân lý của thời đại: Phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu
diệt bạo lực phản cách mạng; đấu tranh vũ trang là con đường tất yếu để tự giải phóng. Cuộc đời bi
tráng của Tnú đã làm sáng tỏ một chân lý giản dị mà sâu xa của cuộc sống được cụ Mết truyền dạy
cho con cháu: “sau này, tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng,
mình phải cấm giáo”. Đó là chân lý của Cách mạng được nảy sinh từ mảnh đất Tây Nguyên thấm
máu và nước mắt.
Tnú vượt qua bi kịch cá nhân, trở thành người chiến sĩ, người cán bộ cách mạng. Từ đây cả
dân làng Xôman vùng dậy cầm lấy giáo mác… làm vũ khí chống lại súng đạn tối tân tàn bạo của
Mỹ – Ngụy. Và chặng đường cầm vũ khí của Tnú được nối tiếp bằng việc “đi lực lượng”. Tnú đã
vượt qua mọi đau thương và bi kịch cá nhân, tham gia lực lượng giải phóng quân để quét sạch tất cả
những thằng Dục, kẻ thù không đội trời chung với vợ con anh còn tồn tại trên đất nước Việt Nam
này
Nghệ thuật xây dựng nhân vật: ngôn ngữ sử thi hào hùng kết hợp với chất lãng mạn say mê.
Cách dựng truyện, tạo bối cảnh phù hợp. Lời văn giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu, khi thâm trầm,
khi tha thiết, trang nghiêm. Nhân vật được tạo dựng bằng bút pháp sử thi. Tnú là nhân vật anh hùng,
nhân vật đó còn sống, lại hiện diện trong từng lời kể của cụ Mết, đang hiện diện trước mắt dân làng.
Vì thế tính chân thực càng cao, càng hào sảng.
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
Qua đoạn trích, nhà văn đã thể hiện... (yêu cầu 2)
III. Kết bài
Tóm lại, hình tượng Tnú là hình tượng điển hình tiêu biểu của người anh hùng đại diện cho số
phận và con đường đi đến cách mạng của các dân tộc Tây Nguyên trong thời đại chống Mỹ. Qua
cuộc đời bi tráng, đau thương mà anh hùng của T nú, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã ngợi ca con
người Tây Nguyên kiêu hùng bất khuất. Cũng qua nhân vật này, nhà văn một lần nữa khẳng định
chân lý bất diệt của thời đại “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN
1. Nhận xét vẻ đẹp sử thi của nhân vật Tnú:
Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô hoành tráng, có tính
chất toàn dân và có ý nghĩa lớn lao trọng đại đối với cộng đồng, dân tộc, ca ngợi những người anh
hùng tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của dân tộc.
Qua hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng
đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với
quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc, một lòng một dạ đi theo cách
mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng.
Đặc biệt, chi tiết bàn tay Tnú khi bị thiêu đốt bằng chính nhựa xà nu thành mười ngọn đuốc trở
thành biểu tượng đậm chất sử thi. Hai bàn tay đuốc lửa của Tnú đã châm ngòi cho phong trào Đồng
khởi của dân làng Xô Man vùng lên tiêu diệt bọn giặc tàn ác và trở thành biểu tượng của khí phách
Việt Nam trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thời đại ngày nay. Lời văn khi thể hiện
nhân vật rất giàu hình ảnh, giàu nhạc tính có nhịp điệu, với nhiều cấu trúc thành trùng điệp, những
hình ảnh tương phản có giọng điệu khi hào hùng khi tha thiết…
2. Khái quát tính sử thi trong tác phẩm “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung
Thành
Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô hoành tráng, có tính
chất toàn dân và có ý nghĩa lớn lao trọng đại đối với cộng đồng, dân tộc, ca ngợi những người anh
hùng tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của dân tộc.
Tính sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” được thể hiện ở các phương diện:
Thiên nhiên trong “Rừng xà nu” thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất thơ hào hùng thể hiện
qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu và kết thúc tác phẩm vẫn là rừng xà nu nối tiếp
nhau chạy đến chân trời.
Nhà văn xây dựng thành công hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể đến
trong tác phẩm đều có tính đại diện cao, mang trong mình phẩm chất của cả một dân tộc. Tập thể
anh hùng trong Rừng xà nu là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều
có những nét riêng, thể hiện một số phận riêng. Tuy nhiên, tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm
chất cơ bản: gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng, yêu núi nước, yêu buôn làng,
quyết tâm đánh giặc đến cùng.
Giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại
ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn chứa chất liệu làm nên tính sử thi hoàng tráng của tác phẩm. Giọng
văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu tả thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới
trong lòng người đọc một cảm giác say sưa.
Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng. Chính kết cấu đó tạo nên
dư âm hùng tráng đặc biệt. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà văn khai triển câu
truyện. Câu truyện mở ra bằng hình ảnh rừng xà nu được đặc tả kỹ lưỡng và sắc nét. Cuối tác phẩm
rừng xà nu cũng xuất hiện để khép lại câu truyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu chuyện
đóng lại để mở một câu truyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một chương
trong lịch sử ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây
Nguyên

BÀI 8: TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

- Hồ Chí Minh -

A. Kiến thức cơ bản:


1. Hoàn cảnh ra đời:
- Ngày 19/08/1945, chính quyền Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26/08/1945, Hồ Chí Minh từ
chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội và tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người đã soạn
“Tuyên ngôn Độc lập”.
- Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Người đã đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” khai sinh
ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- “Tuyên ngôn Độc lập” ra đời trong một tình thế vô cùng cấp bách vận mệnh đất nước ngàn
cân treo sợi tóc,nền độc lập vừa mời giành được bị đe dọa bởi các thế lực phản động, bọn đế quốc
thực dân đang chuẩn bị chiếm lại nước ta
2. Giá trị, mục đích, đối tượng của bản “Tuyên ngôn Độc lập”:
- Giá trị lịch sử:
+ Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân,
phong kiến ở nuớc ta, khai sinh nước Việt Nam DCCH mở ra một kỉ nguyên độc lập, tự do cho dân
tộc.
+ Bẻ gãy mưu đồ tái chiếm nước ta của thực dân Pháp và ngăn chặn âm mưu xâm lược của Mĩ.
- Giá trị văn học:
+ Giá trị tư tưởng: “Tuyên ngôn Độc lập” là tác phẩm kết tinh lí tưởng đấu tranh giải phóng
dân tộc và tinh thần yêu chuộng tự do.
+ Giá trị nghệ thuật: Là áng văn chính luận mẫu mực với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép,
những bằng chứng xác thực, giàu sức thuyết phục, ngôn ngữ gợi cảm, hùng hồn vừa tố cáo mạnh mẽ
tội ác của thực dân Pháp, ngăn chặn âm mưu tái chiếm nước ta của các thế lực thù địch, vừa bộc lộ
tình cảm yêu nước, thương dân và khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của tác giả và toàn dân tộc.
- Đối tượng: Nhân dân Việt Nam; các nước trên thế giới; bọn đế quốc, thực dân đang lăm l
e xâm lược nước ta : Mỹ, Pháp.
3. Nội dung:
3.1. Phần 1 (Từ đầu đến “Không ai chối cãi được”) : Nêu nguyên lí chung
- Người đã trích dẫn bản hai bản “Tuyên ngôn độc lập” (1776) của Mỹ và “Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền” (1791) của P háp. Hai bản Tuyên ngôn này khẳng định quyền bình
đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi con người ở mọi dân tộc.
Tác giả dung thủ pháp “lấy gậy ông đập lưng ông” lấy chính lí lẽ của đối phương đáp trả lại đối
phương nhắc nhở đối phương đang đi ngược lại những gì mà tổ tiên họ để lại.,.
- Đặt 3 cuộc cách mạng của nhân loại ngang bằng nhau, trong đó cách mạng VN cùng một lúc
thực hiện nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng Mĩ, Pháp. Sánh vai các nước bé nhỏ với các cường quốc
năm châu.
- Từ quyền con người Bác mở rộng thành quyền của dân tộc. Đây là một suy luận hết
sức quan trọng vì đối với những nước thuộc địa như nước ta lúc bấy giờ thì trước khi nói
đến quyền của con người phải đòi lấy quyền của dân tộc. Dân tộc có độc lập, nhân dân mới có tự
do, hạnh phúc. Đó là đóng góp riêng của tác giả và cũng là của dân tộc ta vào một trong những
trào lưu tư tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc quốc tế vừa mang ý nghĩa nhân đạo của nhân loại
trong thế kỉ XX.
=> Lập luận vừa kiên quyết, vừa khôn khéo, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho bản TN.
3.2. Phần 2 (từ “Thế mà… phải được độc lập”) : Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và
khảng định thực tế lịch sử là nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền và lập nên nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà
a. Bản tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ xác đáng, những bằng chứng không ai có
thể chối cãi để bác bỏ những luận điệu của thực dân Pháp muốn "hợp pháp hóa" việc chiếm lại
nước ta
+ Pháp kể công"khai hóa", bản Tuyên ngôn kể tội áp bức bóc lột tàn bạo và tội diệt chủng của
chúng. Tội nặng nhất là gây ra nạn đói năm giết chết hơn hai triệu đồng bào ta từ Bắc Kì đến Quảng
Trị (dẫn chứng)
+ Pháp kể công "bảo hộ", bản tuyên ngôn kể tội hai lần chúng dâng Đông Dương cho Nhật
(dẫn chứng)
+ Pháp nhân danh Đồng minh đã chiến thắng phát xít, giành lại Đông Dương, bản tuyên ngôn
kể tội chúng phản bội đồng minh: đầu hàng Nhật, khủng bố Cách mạng Việt Nam đánh Nhật cứu
nước. Bản tuyên ngôn nói rõ: Dân tộc Việt Nam giành lại độc lập từ tay Nhật chứ không phải từ tay
Pháp.
=> Bằng giọng văn hùng hồn mạnh mẽ, đầy sức thuyết phục, đoạn văn đã tố cáo hùng
hồn và đanh thép tội ác của thực dân Pháp. Bằng phương pháp liệt kê, tác giả đã nêu lên hàng
loạt tội ác của thực dân Pháp trên các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục và ngoại giao
b. Từ những cứ liệu lịch sử hiển nhiên đó, bản Tuyên ngôn nhấn mạnh đến những thông điệp
quan trọng:
+ Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí
về nước VN.
+ Kêu gọi toàn dân Việt Nam đoàn kết chống lại âm mưu của thực dân Pháp
+ Kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập, tự do của dân tộc VN.
3.3. Phần 3 (còn lại) : Lời tuyên ngôn và tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập của toàn
dân tộc
- Tuyên bố về quyền được độc lập của dân tộc
- Tuyên bố về sự thật là nước Việt Nam đã giành được độc lập.
- Tuyên bố về ý chí, quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc bằng mọi giá.
Những lời tuyên ngôn này được trình bày lôgic, chặt chẽ, cái trước là tiền đề của cái sau.
4. Nghệ thuật :
- Kết cấu chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, lập luận giàu sức thuyết phục
- Ngôn ngữ chính xác, trong sáng, gợi cảm.
- Giọng điệu linh hoạt

Đề 1 : Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà Hồ Chí Minh
viết:
“Hỡi đồng bào cả nước ,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc” .
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu
ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống
, quyền sung sướng và quyền tự do .
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói :
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình
đẳng về quyền lợi” .
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” .
(Trích Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh )
Anh ( chị ) hãy phân tích giá trị nổi bật của đoạn văn trên ở hai phương diện nội dung tư
tưởng và nghệ thuật lập luận .
Gợi ý làm bài.
a. Mở bài :
- Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng
chục vạn đồng bào .
- Bản Tuyên ngôn Độc lập vừa là văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn vừa là một áng văn chính
luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục.
b. Thân bài :
* Phân tích giá trị nội dung tư tưởng
- Đoạn văn khẳng định quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do của
dân tộc ta cũng như các dân tộc khác trên thế giới .
- Hồ Chí Minh đồng tình với những tư tưởng tiến bộ của các bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ
và Pháp.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ngang hàng ba cuộc cách mạng, ba bản Tuyên ngôn của nước
Việt Nam, Mỹ, Pháp nhằm quốc tế hoá vấn đề độc lập của dân tộc ta.
- Đoạn văn muốn gợi lại niềm tự hào cao cả của lịch sử dân tộc Việt Nam về các triều đại:
Đinh, Lý, Trần, cùng sánh vai với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên đã được Nguyễn Trãi
ghi trong Bình Ngô Đại Cáo.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm chuẩn bị phê phán bản chất phản động của thực dân Pháp đi
ngược lại tư tưởng tiến bộ của tổ tiên họ đã 80 năm qua chúng đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta
.
* Phân tích giá trị nghệ thuật
Hồ Chí Minh đã dẫn chứng chính xác, từ ý tưởng lời văn hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ
và Pháp để tạo cơ sở pháp lý, dùng lời nói của đối phương để so sánh, phản bác âm mưu và hành
động trái với công lý của chúng, dùng nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”
Đoạn văn dùng lý lẽ đanh thép, tư duy lý luận sáng tạo “suy rộng ra” , đưa vấn đề độc lập của
dân tộc Việt Nam thành vấn đề tiêu biểu cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới .
Lập luận của đoạn văn chặt chẽ bằng cách sử dụng nhiều câu văn khẳng định để phủ định
những nội dung phản động của hai đế quốc Mỹ và Pháp .
Lời văn mạnh mẽ, trong sáng dễ hiểu làm tăng thêm sức thuyết phục bằng lý lẽ của đoạn văn
c. Kết bài : Tóm lại, qua phân tích đoạn văn ta thấy được giá trị nổi bật về nội dung tư tưởng
và nghệ thuật lập luận khéo léo của Hồ Chí Minh . Có thể nói đây là một trong những đoạn văn
chính luận mẫu mực, ngắn gọn súc tích, vừa có giá trị lịch sử vừa có giá trị văn chương bền vững .
Với những gi trị đó, Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định một chân lý lớn về dân tộc “Không có
gì quý hơn độc lập tự do” với cảm hứng trang trọng, giọng văn tha thiết hùng tráng. Chính Hồ Chí
Minh cũng “thấy sung sướng” trong cả cuộc đời viết văn làm báo của mình .

Đề 2: Kết thúc bản “Tuyên ngôn Độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố
rằng:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập.
Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Dựa vào những hiểu biết về tác phẩm “Tuyên ngôn Độc lập”, anh (chị) hãy phân tích đoạn văn
trên để làm sáng tỏ những tư tưởng lớn của Người.
Bài làm (Sưu tầm)
Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2.9.1945, tại quảng trường Ba Đình, trước hơn nửa
triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”.
Áng văn này mang ý nghĩa lịch sử vô cùng trọng đại: tuyên bố thủ tiêu vĩnh viễn chế độ thực dân –
phong kiến trên đất nước ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên
độc lập, tự do của dân tộc.
Kết thúc bản “Tuyên ngôn Độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố: “Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền
tự do, độc lập ấy”.
Một lời tuyên bố đanh thép và hùng hồn, đã kết tinh một cách sáng ngời những nội dung cơ
bản của “Tuyên ngôn Độc lập”.
1. Trước hết, Hồ Chủ tịch khẳng định “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập” vì
đó là điều phù hợp với đạo lí và pháp lí. Đất nước và con người Việt Nam cũng như tất cả mọi quốc
gia, mọi dân tộc và mọi người “đều sinh ra có quyền bình đẳng (…), có quyền được sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (“Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của nước Mĩ). “Nước Việt Nam
có quyền hưởng tự do và độc lập” bởi lẽ “người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải
luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách
mạng Pháp năm 1791).
Từ nhân quyền, Hồ Chủ tịch đã “suy rộng ra”, nói đến quyền tự quyết của mọi dân tộc: “Tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do”. Lẽ phải ấy không ai chối cãi được và vô cùng thiêng liêng. Sau hơn 80 năm bị thực
dân Pháp thống trị, lời tuyên bố “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập” biểu lộ niềm tự
hào dân tộc và khát vọng độc lập, tự do của đất nước và con người Việt Nam.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, “và sự thật đã
thành một nước tự do, độc lập”. Đó là một thực tế lịch sử không ai chối cãi được. Hồ Chủ tịch đã
vạch trần những tội ác dã man về chính trị, về kinh tế của thực dân Pháp đối với dân tộc ta trong
suốt 80 năm trời. Chúng áp bức, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, “khiến cho dân ta nghèo nàn,
thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”. Thực dân Pháp đã tước đoạt tự do, dìm nhân ta vào máu và
nước mắt trong đêm trường nô lệ: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay
chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong
những bể máu”,… Thực dân Pháp chỉ trong vòng 5 năm (1940-1945), chúng đã bán nước ta hai lần
cho Nhật. Pháp và Nhật đã gây ra nạn đói năm Ất Dậu (1945) làm cho hơn hai triệu đồng bào ta bị
chết đói. Trước khi thua chạy (9.3.1945), bọn thực dân Pháp “còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù
chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc
lập”. Đó là lẽ phải, là sự thật lịch sử không ai chối cãi được. Cách mạng tháng Tám bùng nổ và
thắng lợi, “dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời khi ba kẻ thù bị lật đổ, thất bại: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại
thoái vị”. Độc lập và tự do là thành quả đấu tranh và cách mạng bền bỉ, gan góc, lâu dài của dân tộc
ta:“Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng
về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được
độc lập !”.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là một sự thật lịch sử, nên Hồ Chủ tịch mới tuyên bố
một cách đanh thép, hùng hồn: “Tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những
hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt
Nam”.
2. Độc lập tự do là khát vọng, là ý chí của đất nước và con người Việt Nam, của dân tộc Việt
Nam. Lời tuyên bố vang lên như một lời thề thiêng liêng làm chấn động lòng người: “Toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do, độc lập ấy”.
Cụm từ “Toàn thể dân tộc Việt Nam” nói lên sức mạnh đại đoàn kết, triệu triệu con người Việt
Nam kết thành một khối mà không thể một kẻ thù tàn bạo nào có thể khuất phục được ! “Tự do hay
là chết !”, “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành lại nền độc lập !”. Quyết tâm ấy
được Hồ Chủ tịch tuyên bố đanh thép hùng hồn. Triệu triệu con người Việt Nam “quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Lời tuyên bố của Hồ Chủ tịch là lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với thực dân Pháp đang âm mưu
tái chiếm Việt Nam một lần nữa, đồng thời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam sẵn sàng chiến đấu hi
sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Ba mươi năm kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của nhân
dân ta đã thể hiện một cách hùng hồn lời tuyên bố mạnh mẽ ấy. Đó là khát vọng, là ý chí sắt đá về
độc lập tự do của dân tộc ta, của nhân dân ta. Một lần nữa, Người lại Tuyên bố: “Chúng ta thà hi
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ !”. (Lời kêu gọi
Toàn quốc kháng chiến – 19.12.1946).
Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn Độc lập”:
Những chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc ta đã trải qua rất đáng tự hào: Cách mạng tháng
Tám – Chiến thắng Điện Biên oai hùng – Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng – Non sông liền một
dải, Bắc Nam sum họp một nhà…
“Tuyên ngôn Độc lập” xứng đáng là một áng “thiên cổ hùng văn”. Nó đã kế tục truyền thống
vinh quang của “Nam quốc sơn hà”, của “Bình Ngô đại cáo”. Nó là lời Non Nước cao cả và thiêng
liêng, thể hiện sâu sắc tư tưởng vĩ đại: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, biểu lộ ý chí và sức
mạnh Việt Nam.

BÀI 9: HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT


- Lưu Quang Vũ -
I . Mở bài
Lưu Quang Vũ (1948-1988) là một trong những nhà viết kịch tài năng nhất của văn học
Việt Nam. Tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của ông là vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Đoạn
trích vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt (SGK Ngữ văn 12) là văn bản đặc sắc, qua việc khắc hoạ
mâu thuẫn giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt, với người thân đã phản ánh bi kịch và khát vọng
hoàn thiện nhân cách của nhân vật hồn Trương Ba.
II . Thân bài.
1.Giới thiệu chung
Vở kịch Hồn Trương Ba , da hàng thịt được sáng tác năm 1981, đến năm 1984 mới ra mắt
công chúng . Đây là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ , đã công diễn nhiều
lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Vở kịch được sáng tác trong không khí đổi mới tư duy, ý
thức dân chủ trong đời sống , phong trào đấu tranh chống tiêu cực trong xã hội. Vở kịch gồm 7
cảnh, được tác giả sáng tác dựa trên một cốt truyện dân gian.
Đoạn trích Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt nằm ở cảnh 7 của vở kịch, qua việc xây dựng
xung đột giữa tâm hồn thanh cao của Trương Ba với thể xác phàm tục của anh hàng thịt đã khắc hoạ
bi kịch tha hoá và cuộc đấu tranh gay gắt bảo vệ, hoàn thiện nhân cách của con người. Từ đó tác giả
đã phê phán một số hiện tượng tiêu cực trong xã hội và gửi gắm triết lý nhân sinh sâu sắc về yêu cầu
thống nhất giữa thể xác và tâm hồn.
2. Phân tích cảm nhận (HS xác định đúng đoạn văn và vấn đề NL để làm bài phù hợp với
yêu cầu)
a. Cuộc đối thoại giữa hồn và xác
Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba
"ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy" với một lời độc thoại đầy khẩn thiết:"- Không. Không!
Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi. Hồn
Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ thể hiện trong những câu cảm thán
ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải. Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái
thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng
về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng.
Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói
những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận: cái đêm khi ông đứng cạnh vợ
anh hàng thịt với "tay chân run rẩy", "hơi thở nóng rực", "cổ nghẹn lại" và "suýt nữa thì…". Đó là
cảm giác "xao xuyến" trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là "phàm". Đó là cái lần ông tát
thằng con ông "tóe máu mồm máu mũi",… Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến
Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà
ông đưa ra để ngụy biện: "Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,…".
Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi
thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại
ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.
b. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân
Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của Hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những người
thân. Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà "đi
đâu cũng được… còn hơn là thế này". Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được:
"ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa". Cái Gái, cháu ông giờ đây đã
không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân: tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi
chết rồi. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có
"bàn tay giết lợn", bàn chân "to bè như cái xẻng" đã làm "gãy tiệt cái chồi non", "giẫm lên nát cả cây
sâm quý mới ươm" trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà
làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, "Ông nội đời
nào thô lỗ, phũ phàng như vậy". Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: "Ông
xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!". Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn
lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, "khổ hơn xưa
nhiều lắm". Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình "như sắp tan hoang ra cả" khiến chị không
thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: "Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không
đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi
ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc
chính con cũng không nhận ra thầy nữa…"
Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Sau tất
cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến Hồn
Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần… lớn
dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào.
Nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng
lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt:
"Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày,
khuất phục mày và tự đánh mất mình? "Chẳng còn cách nào khác"! Mày nói như thế hả? Nhưng có
thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do
mày mang lại! Không cần!". Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm
hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.
c. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích
Cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm những quan
niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của Hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc
biệt quan trọng: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn
vẹn… Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi
cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì
ông chẳng cần biết!
Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời
thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một
tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu
cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ
đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản.
Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.
Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ
trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa
hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích
xuất hiện.
Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ
không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật Hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn
biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba
thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ "bao nhiêu sự rắc rối"
vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến Hồn
Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con
người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của
cuộc sống.
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
Qua đoạn trích, nhà văn đã thể hiện... (yêu cầu 2)

III. Kết bài


Đoạn trích vở kịch Hồn Trương ba, da hàng thịt, qua việc khắc hoạ bi kịch của nhân vật hồn
Trương Ba đã thể hiện một ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người. Lưu Quang Vũ
muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ đồng thời đã khẳng
định khao khát hoàn thiện nhân cách, đâu tranh chống lại sự tha hoá trong mỗi con người .Với tất cả
những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu Quang Vũ.
PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN VĂN BẢN
1. Nhận xét chiều sâu triết lí về con người của nhà văn Lưu Quang Vũ.
Màn thoại giữa Trương Ba và Đế Thích một lần nữa khắc sâu vấn đề trung tâm nhất, cốt lõi
nhất của toàn bộ tác phẩm, đó là việc người sống vẫn có sự hài hòa giữa linh hồn và thể xác, giữa
bên trong và bên ngoài. Việc một người vẫn còn đầy khao khát sống như Trương Ba sau quá trình
trăn trở, lựa chọn đã chối từ cả hai cơ hội được sống để nhận về mình cái chết đã cho thấy để sống
cho ra một người không hề dễ dàng. Người ta không thể sống bằng bất cứ giá nào, người chỉ thực sự
được là mình khi có sự thống nhất, hòa hợp giữa hoạt động bên ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên
trong.
Tác giả không chỉ đặt ra vấn đề để người đọc trăn trở suy nghĩ mà đã đi đến trả lời cho câu hỏi:
sống như thế nào là sống có ý nghĩa? Trương Ba chết hẳn để đổi lại sự sống cho anh hàng thịt, cho
cu Tị, để đổi lấy tiếng cười và niềm hạnh phúc cho tất cả những người xung quanh thì câu hỏi: sống
như thế nào là có ý nghĩa đã được trả lời một cách rõ ràng: một sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi
người không chỉ biết sống vì mình mà còn biết sống, biết vun đắp, thậm chí biết hi sinh cho hạnh
phúc của những người xung quanh. Rõ ràng ở đây nhà văn đã đề cao lối sống vị tha, cao thượng. Đó
cũng chính là lý do cho sự thay đổi đầy dụng ý của tác giả khi biến một người nông dân chung
chung trong truyện cổ dân gian thành một người làm vườn trong tác phẩm của mình. Hình tượng
người làm vườn chính làđại diện cho những người biết vun xới, chăm lo cho hạnh phúc của người
khác. Ở khía cạnh này chúng ta thấy tư tưởng của nhà văn dù tiến bộ và mới mẻ đến đâu vẫn có sự
bắt rễ sâu và hoàn toàn thống nhất với truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc.

2. Bình luận tác hại của lối sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo:

Ðối với bản thân người có lối sống đó: dần dần sẽ bị tha hóa, ích kỉ, thực dụng, giả dối, suy
thoái nhân cách, đánh mất danh dự, lòng tự trọng.: tham nhũng, hối lộ, gây ra những tệ nạn xã hội.
Bị mọi người coi thường xa lánh. Ðối với cộng đồng: mất đoàn kết, hiểu lầm, mâu thuẫn, tranh
giành, hãm hại nhau, kìm hãm sự phát triển. Cách phòng tránh: Sống yêu thương nhân hậu vị tha,
mạnh dạn dũng cảm đấu tranh với biểu hiện tiêu cực, giả dối, bảo vệ người tốt.

3. Thông điệp vở kịch:


Lưu Quang Vũ muốn phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ: con người
đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở
nên phàm phu thô thiển.
Lấy cớ tâm hồn là quý đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh
hoạt vật chất không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Cả hai quan niệm cách sống trên đều cực đoan
đáng phê phán.
Tình trạng con người phải sống giả không dám và cũng không được sống là bản thân mình.
Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.

4. Giá trị nhân văn cao cả qua vở kịch: Sự sống thật sự có ý nghĩa khi con người được sống
tự nhiên, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Hạnh phúc của con người là chiến thắng được bản thân,
chiến thắng sự dung tục, hoàn thiện được nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

5. Nhận xét ngắn gọn về quan điểm triết lí nhân sinh của Lưu Quang Vũ
Triết lí nhân sinh hay nhân sinh quan là vấn đề quan trọng đối với mỗi con người, là toàn bộ
những kinh nghiệm, cách nhìn nhận chung nhất về cuộc sống của con người và cũng là tư tưởng chủ
đạo xuyên suốt mục tiêu, hành động của con người. Bên cạnh đó nhân sinh quan còn là nguồn gốc
của mọi suy nghĩ, hành vi và chi phối các hoạt động của con người trong đời sống. Nói vắn tắt thì nó
là cách người ta nhìn cuộc đời hay là cái đạo làm người của người ta.
Biểu hiện của triết lí nhân sinh thể hiện trong đoạn trích:
Linh hồn và thể xác là hai mặt tồn tại không thể thiếu trong một con người, cả hai đều đáng
trân trọng. Một cuộc sống đích thực chân chính phải có sự hài hoà giữa linh hồn và thể xác. Tác giả
một mặt phê phán những dục vọng tầm thường, sự dung tục của con người, mặt khác vạch ra quan
niệm phiến diện, xa rời thực tế khi coi thường giá trị vật chất và những nhu cầu của thể xác. Con
người cần có sự ý thức chiến thắng bản thân, chống lại những nghịch cảnh số phận, chống lại sự giả
tạo để bảo vệ quyền sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
Cuộc đối thoại thể hiện bi kịch của nhân vật HTB: bị tha hoá, bị thể xác sai khiến. Tâm trạng
đau khổ, giằng xé trước cuộc sống trái tự nhiên. Phẩm chất cao đẹp: luôn tự hào về đời sống tâm
hồn của mình; dũng cảm nhìn thẳng vào sự tha hoá của bản thân; nỗ lực đấu tranh với nghịch cảnh,
với dục vọng tầm thường để vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

BÀI 10 : ĐẤT NƯỚC


(Trích trường ca “Mặt đường khát vọng” )
ĐỀ 1: cảm nhận 9 câu thơ đầu :
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên


Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…”

MỞ BÀI

Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ông từng là
Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin nay đã nghỉ hưu. Các tác phẩm tiêu biểu: Đất ngoại ô, Trường ca
Mặt đường khát vọng. Đất nước là bài thơ được trích từ chương V trường ca “Mặt đường khát
vọng” được hoàn thành ở chiến trường Bình Trị Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ
miền Nam xuống đường tranh đấu hòa hợp với cuộc kháng chiến của dân tộc. Đoạn thơ ta sắp phân
tích sau đây là đoạn thơ để lại dấu ấn về Đất Nước thân thương, bình dị trong trái tim mỗi con
người:

THÂN BÀI

1. Khái quát: Khác với các nhà thơ cùng thế hệ – thường tạo một khoảng cách khá xa để
chiêm ngưỡng và ngợi ca đất nước, với các từ ngữ, hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, có tính chất biểu tượng.
Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không
kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn
vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán,
văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt.

Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình chúng ta, từ lời kể
chuyện của người mẹ, miếng trầu của bà, các phong tục tập quán quen thuộc (tóc mẹ thì bới sau
đầu) cho đến tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo ta ăn hàng ngày, cái kèo cái cột trong nhà…
Tất cả những điều đó làm cho Đất nước trở thành cái gần gũi, thân thiết, bình dị trong cuộc sống
hàng ngày của con người.

2. Nội dung cần phân tích, cảm nhận:

2.1.Câu thơ mở đầu được nhà thơ viết theo thể câu khẳng định: “Khi ta lớn lên Đất Nước
đã có rồi”.

Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm thì “Đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng;
đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác.
Cho nên “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi!” (Nguyễn Khoa Điềm – Tác giả và Tác phẩm). Cách
nói “Đất Nước đã có rồi” đã thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy
ngàn năm lịch sử. Đất Nước cũng như Trời và Đất, khi ta sinh ra Đất đã ở dưới chân, Trời đã ở trên
đầu. Cũng như vậy, không biết Đất Nước có tự bao giờ nhưng khi ta lớn lên ta đã thấy Đất Nước của
mình rồi, nó hiện diện quanh ta với những gì yêu thương nhất.

2.2.Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả vẻ đẹp của Đất Nước trong chiều sâu văn hóa,
phong tục. Những từ ngữ như Đất Nước “có trong”, Đất Nước “bắt đầu” là những từ ngữ diễn
tả rất nhẹ nhàng về sự ra đời của Đất Nước:

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn


Tác giả mượn chất liệu văn học dân gian để diễn tả về Đất Nước. Đối với trẻ thơ, Đất Nước
thân thương qua lời kể “Ngày xửa ngày xưa” của bà của mẹ… Có nghĩa là Đất Nước đã có từ lâu
đời; Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong
đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của một
nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những
câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái
chân thiện mĩ để lớn lên ta biết yêu thương đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời
sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:

Tôi yêu truyện cổ nước tôi

Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa

Thương người rồi mới thương ta

Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần

(Truyện cổ nước mình)

Không chỉ “có trong những cái ngày xửa ngày xưa”, Nguyễn Khoa Điềm còn xác định cái buổi
ban đầu ấy qua một nếp sống giản dị nhưng đậm đà của những người mẹ, người bà Việt Nam. Đó là
phong tục ăn trầu: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”. Đất Nước lớn lao, kỳ vĩ sao lại
chứa đựng trong một miếng trầu bé nhỏ? Hình thức câu thơ chứa đựng sự phi lí nhưng lại hoàn toàn
hợp lí bởi tất cả những điều lớn lao đều bắt nguồn từ những điều bé nhỏ. Ví không có những dòng
suối nhỏ sao trở thành dòng sông, ví như không có những dòng sông sao có thể trở thành biển cả.
Cho nên nhắc đến “miếng trầu” chắc hẳn là nhắc đến một điều sâu thẳm. Câu thơ gợi nhớ về câu
truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng
từ câu truyện này mà nên. Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong
tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng
cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen
cũng ra đời. Hoàng Cầm trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” cũng đã từng nhắc đến nét đặc trưng
ấy:

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng

2.3. Một Đất Nước không thể thiếu truyền thống mà một trong những truyền thống quý báu
của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre
mà đánh giặc”.

Nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước qua ý thơ “Đất Nước lớn
lên…”. Chữ “lớn lên” là để chỉ sự trưởng thành của Đất Nước. Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến
truyền thuyết Thánh Gióng, mới lên ba đã biết xông pha trận mạc. Đứa bé ấy đã vươn vai trở thành
chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc. Từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu
tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại
xâm. Tố Hữu cũng đã có thơ:

Ta như thuở xưa thần Phù Đổng


Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân

Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt

Chí căm thù ta rèn thép thành roi

Lửa chiến đấu ta phun vào mặt

Lũ sát nhân cướp nước hại nòi

(Tố Hữu)

Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến hôm nay
trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nòi. Phải
chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất
khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi…

Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó
như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn
hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng
thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc “Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ”, bởi:

“Nòi tre đâu chịu mọc cong

Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”.

2.4.Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác thêm
nhiều yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam, không ai khác là những người mẹ với phong
tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần
hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gợi nhớ ca dao:

Tóc ngang lưng vừa chừng em bới

Để chi dài cho rối lòng anh

Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động,
chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung
đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý
thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:

“Tay bưng đĩa muối chén gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”


Hay:

“Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đôi ta tình nặng nghĩa đầy

Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”

Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà
thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời. Quy luật của tự nhiên là
gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn. Quy luật trong tình cảm con người là con
người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi
dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu… đi vào năm tháng. Từ cha mẹ thương
nhau mới đi đến “Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà
cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi,
bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau;
siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con cái Kèo, cái Cột cũng ra đời.

Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương
chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”. Câu thơ gợi nhắc bài ca dao:

Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.

Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long
đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương
chịu khó. Để làm ra hạt gạo ta ăn hàng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả
gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai
cấp nông dân bao đời nay.

2.5. 6.Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: Đất Nước có từ
ngày đó. “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền thống, có
phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc
đi xa “Rằng muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng
văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi
văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào
của Nguyễn Khoa Điềm.

2.6. Tổng kết nghệ thuật: Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo
chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống
nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ… Tất cả làm nên một
đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng
đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí.
KẾT BÀI

Tóm lại, bằng cảm nhận rất đỗi thân thương, gần gũi. Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho
chúng ta một hình ảnh Đất Nước bình dị nhưng không kém phần tươi đẹp. Đọc đoạn thơ nói riêng
và bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng
mạch hồn ta, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu thêm quý quê hương Tổ quốc mình.

Đề 2: Cảm nhận của anh(chị) về đoạn thơ sau:


Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
………
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta

I. MỞ BÀI (giới thiệu vấn đề)

II. THÂN BÀI

1. Khái quát tác giả, tác phẩm:

Nguyễn Khoa Điềm là gương mặt nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ trong những năm kháng
chiến chống Mỹ. Viết về cuộc kháng chiến bằng những trải nghiệm chân thực với hồn thơ giàu chất
suy tư, lắng đọng, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được tình yêu nước, tâm tư của người trí thức
tích cực tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân. “Đất nước” là đoạn trích đặc sắc trích trong tác
phẩm trường ca Mặt đường khát vọng, tác phẩm thể hiện rõ nét tài năng và tâm huyết của Nguyễn
Khoa Điềm. Qua bài thơ tác giả đã thể hiện được những cảm nhận riêng biệt mà vô cùng độc đáo và
đất nước: Đất Nước của nhân dân.

2. Cảm nhận nội dung

Trong bài thơ Đất nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được cái nhìn sâu sắc khi phát
hiện ra những biểu hiện đầy mới mẻ của khái niệm “đất nước”. Trước hết, đó chính là những phát
hiện mới mẻ về phương diện không gian địa lý của đất nước:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước nhưng núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương”

Trong nhận thức của nhà thơ, không gian địa lí, địa danh, hình hài của đất nước được tạo nên
từ chính những điều gần gũi, thiêng liêng nhất bởi đó là sự hóa thân của nhân dân: Hòn Vọng Phu
được làm nên từ nỗi nhớ chồng của người vợ, tình yêu thủy chung của cặp vợ chồng làm nên hòn
Trống Mái, đó còn là những địa danh được làm nên từ truyền thống chống giặc hào hùng, bất khuất
“gót ngựa Thánh Gióng” từ nền văn hóa đậm đà của dân tộc “chín mươi chín con voi”.

Nhân dân, những con người bình dị cùng nhau sinh sống trong đất nước, đó là những con
người vô danh nhưng những con người vô danh ấy đã cùng nhau gây dựng nên cái hữu danh của đất
nước. Mỗi người đều lặng lẽ góp phần làm nên vẻ đẹp, sự kì thú của thiên nhiên cũng như làm
phong phú hơn cho những truyền thống văn hóa của đất nước.

“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút, non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”

Đất nước là hóa thân, hình ảnh của nhân dân, những con người vô danh nhưng lại có thể làm
nên hình hài, diện mạo cho đất nước. Không chỉ hướng ngòi bút đến sự trù phú, tươi đẹp của thiên
nhiên đất nước mà tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn thể hiện sự suy ngẫm mang tính triết lý sâu sắc
về vẻ đẹp tâm hồn của con người, lịch sử Việt Nam. Đó là truyền thống hiếu học, là tinh thần đấu
tranh kiên cường, bất khuất của của những con người Việt Nam để làm nên những truyền thống hào
hùng, đáng tự hào của dân tộc.

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”

Từ những cuộc đời, những hóa thân cụ thể, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những nhận
thức sâu sắc hơn về mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên và con người, giữa đất nước với nhân dân.
Cũng qua khổ thơ, tác giả đã bộc lộ được niềm tự hào khôn xiết trước vẻ đẹp của thiên nhiên, vóc
dáng, dáng hình của quê hương và những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc. Đó còn là thái độ
yêu thương, trân trọng, tự hào trước những đóng góp lớn lao của thế hệ cha ông đi trước.

3. Tổng kết nghệ thuật: Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên được viết theo thể thơ tự do.
Câu thơ mở rộng kéo dài, biến hóa linh hoạt tạo cho đoạn thờ giàu sức gợi cảm và khái quát cao.
Thủ pháp liệt kê địa danh, nhà thơ luôn viết hoa hai chữ Đất Nước thể hiện sự thành kính thiêng
liêng. Động từ “góp” được nhắc lại nhiều lần. Tất cả làm nên đoạn thơ hay về đất nước.

III. KẾT BÀI

Đoạn thơ đã thể hiện được tư tưởng đất nước của nhân dân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm,
đây cũng là đóng góp mới lạ, độc đáo về chủ đề đất nước. Đất nước đã mang đến cho người đọc bao
cảm xúc tự hào, khơi dậy ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước.

Đề 3: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của đoạn thơ sau trong bài thơ “Đất Nước” của
nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm:

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội


Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…

(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2018, tr. 121)

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT

I. MỞ BÀI

      Hiếm có một giai đoạn văn học nào mà hình ảnh Tổ quốc – Dân tộc – Đất nước lại tập
trung cao độ như giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tố Hữu với “Ôi Việt Nam! Yêu suốt
một đời/ Nay mới được ôm Người trọn vẹn, Người ơi!” (Vui thế hôm nay), Chế Lan Viên với “Sao
chiến thắng”, Lê Anh Xuân từ hình tượng anh giải phóng quân đã tạo nên “Dáng đứng Việt Nam”.
Và Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với Tổ quốc qua “Đất Nước” – một chương thơ trong trường ca
“Mặt đường khát vọng”. Chương thơ đã thể hiện một cách sâu sắc vẻ đẹp của Đất Nước và tư tưởng
lớn của thời đại “Đất nước của nhân dân”. Tư tưởng ấy được thể hiện đậm nét qua đoạn thơ sau:

                                            Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân

                                            …

                                            Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…

II. THÂN BÀI

1. Khái quát: Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ
cứu nước; thơ ông giàu chất trí tuệ, suy tư sâu lắng, cảm xúc nồng nàn. “Đất nước” là đoạn thơ trích
từ chương V trường ca “Mặt đường khát vọng” được hoàn thành ở chiến trường Bình Trị Thiên
năm 1971. Trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam xuống đường tranh đấu hòa hợp
với cuộc kháng chiến của dân tộc. Đoạn thơ ta sắp phân tích nằm ở phần hai của chương V. Nội
dung bao trùm cả đoạn thơ là tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”.

      Ngày xưa, người ta thường quan niệm: Đất Nước là của các triều đại, của vua. Trong “Nam
quốc sơn hà” – Lý Thường Kiệt cũng nói “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Trong “Bình Ngô đại cáo”
– Nguyễn Trãi Viết “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập”. Ngày nay trong thời đại Hồ
Chí Minh, khi người ta nhìn thấy sức mạnh của nhân dân, sự đóng góp máu xương của nhân dân đã
làm nên Đất Nước cho nên Đất Nước phải thuộc về nhân dân và của nhân dân.

2. Nội dung cảm nhận :

2.1. Đoạn thơ mở đầu bằng một lời khẳng định, lời khẳng định ấy là cảm hứng chung cho
cả đoạn thơ:
                   “Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân

                   Đất nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” 

      Nhà thơ khẳng định chắc nịch “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”, lời khẳng định
ấy đã thể hiện một cách chân thành, mãnh liệt tình cảm của nhà thơ đối với dân tộc. Hơn ai hết, nhà
thơ hiểu rằng, để có được Đất Nước trường tồn, vĩnh cửu thì nhân dân hơn ai hết là những người đã
đổ máu xương, đổ công sức của mình để làm nên hình hài đất nước. Vì thế Đất Nước không của
riêng ai mà là của chung, của nhân dân và mãi mãi thuộc về nhân dân.

      Ở câu thơ thứ hai, nhà thơ lại một lần nữa khẳng định “Đất nước của nhân dân, Đất Nước
của ca dao thần thoại”. Điệp ngữ chuyển tiếp “Đất nước của nhân dân” được lặp lại như thêm một
lần nữa nhấn mạnh về cái sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất Nước. Vế thứ hai, nhà thơ
nhấn mạnh “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Nhắc đến ca dao thần thoại ta lại càng nhớ đến nhân
dân, vì hơn ai hết, Nhân dân lại là người tạo ra văn hóa, tạo ra ca dao thần thoại. Mà đất nước của
“ca dao thần thoại” nghĩa là Đất Nước tươi đẹp vô ngần như vầng trăng  cổ tích, ngọt ngào như ca
dao, như nguồn sữa mẹ nuôi ta lớn nên người. Và không phải ngẫu nhiên tác giả nhắc tới hai thể loại
tiêu biểu nhất của văn học dân gian. “Thần thoại” thể hiện cuộc sống qua trí tưởng tượng bay bổng
của nhân dân. Còn “ca dao” bộc lộ thế giới tâm hồn của nhân dân với tình yêu thương, với sự lãng
mạn cùng với tinh thần lạc quan. Đó là những tác phẩm do nhân dân sáng tạo, lưu truyền và có khả
năng phản chiếu tâm hồn, bản sắc dân tộc một cách đậm nét nhất.

2.2. Và khi nói đến “Đất nước của Nhân dân”, một cách tự nhiên, tác giả trở về với cội
nguồn phong phú đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp
tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích.
Ở đây tác giả chỉ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống
nhân dân, dân tộc:

                                            Dạy anh biết yêu em từ thở trong nôi

                                            Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

                                            Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

                                            Đi trả thù mà không sợ dài lâu

      Chức năng của ca dao, nói như Nguyễn Khoa Điềm là “dạy”. Chức năng ấy cùng với ý
nghĩa của nó được thể hiện qua ba phương diện. Phương diện thứ nhất, Nguyễn Khoa Điềm nhấn
mạnh về tình cảm thủy chung trong tình yêu của con người Việt Nam. Từ ý thơ trong ca dao “Yêu
em từ thuở trong nôi/ Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”. Nhà thơ đã viết nên lời chân tình của
chàng trai đang yêu “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”. Tình yêu của chàng trai ấy không
phải là ngọn gió thoáng qua, không phải là lời của bướm ong mà là lời nói là nghĩ suy chân thật. Ý
thơ đã khẳng định được một tình yêu thủy chung bền vững không gì có thể đếm đong được. Nhân
dân dạy ta biết yêu thương lãng mạn, đắm say thủy chung với những câu ca dao ấy. Đây là phát hiện
mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa đến nay nói đến nhân dân người ta thường nghĩ đến
những phẩm chất cần cù chịu khó, bất khuất kiên cường. Còn ở đây tác giả lại ngợi ca vẻ đẹp trẻ
trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình từ thưở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành.

      Ở phương diện thứ hai, Nhân dân gìn giữ và truyền lại cho ta quan niệm sống đẹp đẽ, sâu
sắc, ca dao đã “dạy anh biết” – Sống trên đời cần quý trọng tình nghĩa, phải  “Biết quý công cầm
vàng những ngày lặn lội”. Câu thơ ấy lấy ý từ ca dao “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không
tiếc tiếc công cầm vàng”. Nhân dân đã dạy ta rằng: ở đời này còn có thứ quý hơn vàng bạc, châu báu
ngọc ngà… Đó là tình nghĩa giữa con người với con người. Bởi vậy, nghĩa với tình còn nặng hơn
nhiều lần giá trị vật chất.

      Ở phương diện thứ ba, nhân dân đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù và chiến đấu
“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. Hai câu thơ đã gợi lại biết bao
cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của nhân dân trong biết bao cuộc chiến vệ quốc vĩ đại.   Từ
thuở lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu với nạn ngoại xâm. Cuộc chiến đấu giành độc lập
tự do nào cũng kéo dài hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm. Sau cả nghìn năm Bắc thuộc nhân
dân vẫn đứng lên giành chủ quyền, rồi đến 100 năm đô hộ giặc Tây… thử hỏi nếu không có sự kiên
trì bền bỉ và khát vọng tự do mãnh liệt, dân tộc bé nhỏ này làm sao có thể vượt qua bao nhiêu khó
khăn gian khổ, mất mát hi sinh để đến ngày toàn thắng.

2.3. Bốn câu thơ cuối: Hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát là
một biểu tượng nói lên sức mạnh Nhân dân chiến thắng mọi thử thách, lạc quan tin tưởng đưa
Đất Nước đi tới một ngày mai vô cùng tươi sáng:

                                            Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

                                            Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

                                            Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

                                            Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…

      Câu thơ gợi cho ta hình ảnh của những dòng sông, những dòng sông không biết đến từ bến
bờ nào nhưng khi hòa vào đất Việt lại vang lên biết bao câu hát điệu hò. Câu thơ của Nguyễn Khoa
Điềm làm ta nhớ đến những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu ca Huế ngọt ngào trên sông
Hương và điệu hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền Trung, hay đờn ca tài tử tha thiết trên sông Tiền, sông
Hậu ở miền Nam. Và “dòng sông” ấy vừa có ý nghĩa là dòng sông của quê hương đất nước nhưng
vừa có ý nghĩa là dòng sông Văn Hóa, dòng sông Lịch sử. Dân tộc ta có 54 dân tộc anh em, là 54
dòng chảy văn hóa đa dạng “trăm màu, trăm dáng”. Và đó chính là sự đa dạng và phong phú của văn
hóa Việt Nam  đã vun đắp phù sa qua bao năm tháng thăng trầm để làm nên một đất nước đậm đà
bản sắc dân tộc.

3. Tổng kết nghệ thuật: Đoạn thơ đã để lại âm hưởng ca dao, dân ca đặc sắc nhưng không lấy
lại nguyên văn mà sáng tạo làm nên một ý thơ riêng mềm mại, tài hoa và giàu tính triết lý. Điệp ngữ
“Đất Nước” được nhắc lại nhiều lần cùng với việc nhà thơ luôn viết hoa hai từ “Đất Nước” tạo nên
một tình cảm thiêng liêng xiết bao tự hào về non sông gấm vóc Việt Nam.

III. KẾT BÀI

      Tóm lại, đoạn thơ ta vừa phân tích đã thể hiện một cách rất thành công tư tưởng lớn của
thời đại “Đất Nước của nhân dân”. Cảm ơn nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho ta một
giọng thơ tài hoa và những câu thơ giàu tính triết lý để ta thêm hiểu, thêm yêu, thêm tin vào sức
mạnh của nhân dân và tin vào tình yêu Đất Nước của chính mình:

                                            Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt


                                            Như mẹ cha ta như vợ như chồng

                                            Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết

                                            Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi dòng sông

                                                               (Tố Hữu)

Đề 4: Tư tưởng “Đất nước của nhân dân”  trong đoạn trích của Trường ca  “Mặt đường
khát vọng”.

Gợi ý bài làm

I. MỞ BÀI

     Mở bài 1: “ Đất nước” là một đề tài cao đẹp nhất của văn học kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ. Với vốn hiểu biết sâu sắc về lịch sử và văn hóa dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm trong
trường ca “Mặt đường khát vọng” – 1974 đã có một khám phá thật mới mẻ và độc đáo về đất
nước. Đó là đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại.

     Mở bài 2: Trong bản hợp xướng của thơ ca chống Mỹ, nổi lên những âm vang trầm hùng,
sâu lắng thiết tha về đất nước. Đất nước hiện lên qua màu xanh “Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy,
trong dòng người cuồn cuộn trên “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh, “Những người đi tới biển“
của Thanh Thảo. Đất nước đó cũng rung lên mạnh mẽ khi “Tuổi trẻ không yên”, những tà “áo
trắng” đã “xuống đường” trong “Mặt đường khát vọng” (1974) của Nguyễn Khoa Điềm. Trong bản
Trường ca chín chương sôi sục nhiệt huyết của tuổi trẻ trước vận mệnh của dân tộc, ông đã giành
hẳn một chương (V) để nói về đất nước:

“ Để đất nước này là đất nước nhân dân

Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”

     II. THÂN BÀI

1.Giới thiệu tác giả và tác phẩm.

2. Nội dung

2.1. Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã xâu chuỗi mọi cảm xúc, chi tiết, hình ảnh thơ)

     Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã thấm nhuần trong cả chương thơ về  “Đất nước”.

Điều mà chúng ta dễ nhận ra trước tiên là tác giả đã sử dụng rộng rãi các chất liệu văn hóa dân
gian. Nghĩa là văn hóa của nhân dân từ ca dao tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập
quán đến cuộc sống dân dã hàng ngày: miếng trầu, hạt gạo, hòn than, cái kèo, cái cột. Các chất liệu
ấy đã tạo ra được một thế giới nghệ thuật hết sức quen thuộc gần gũi mà sâu xa, bay bổng của văn
hóa dân gian Việt Nam bền vững và độc đáo. Đây không chỉ là sự vận dụng sáng tạo truyền thống
văn hóa dân gian, mà chính là thấm nhuần quan niệm về đất nước của nhân dân, là sự thể hiện sâu
sắc tư tưởng cốt lõi ấy trong cảm hứng và sáng tạo hình ảnh thơ của tác giả.

                            “ Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi


                            Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”

     Bằng giọng tâm tình như lời kể chuyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm
xúc và suy tưởng của mình về đất nước. Cảm hứng có vẻ phóng túng, tự do như một thứ tùy bút
bằng thơ, nhưng thực ra nó vẫn có một hệ thống lập luận khá chặt chẽ rõ ràng. Tác giả đã tập trung
thể hiện đất nước trên các bình diện chủ yếu sau đây: Trong chiều dài thời gian lịch sử (quá khứ xa
xưa cho đến hiện tại tương lai); trong chiều rộng không gian lãnh thổ, địa lý. Và cuối cùng là trong
bề dày văn hóa, tâm hồn cốt cách. Ba phương diện ấy được thể hiện trong việc gắn bó thống nhất.
Nhiều khi một chi tiết đưa ra cùng nói về cả mấy phương diện ấy của đất nước. Nhưng ở bất cứ
phương diện nào, thì quan niệm “Đất nước của nhân dân” cũng là tư tưởng cốt lõi, là sợi chỉ đỏ xâu
chuỗi mọi cảm xúc và suy tưởng cụ thể. Chính nhờ đó mà tác giả đã có những phát hiện mới mẻ, có
chiều sâu nhiều khi ở chính những hình ảnh chất liệu quen thuộc.

2.2.Tư tưởng Đất Nước của nhân dân hiện lên trong chiều dài thời gian lịch sử.

     Nói về lịch sử mấy ngàn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những sử liệu
như nhiều nhà thơ khác. Ông dùng lối kể đậm đà của dân gian:

                    “ Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

                      Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

     Hình ảnh thơ phải chăng đã gợi cho ta về sự tích trầu cau từ đời Hùng Vương dựng nước xa
xưa, về truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân đã đi vào lịch sử? Nghĩa là lịch sử đất
nước được đọng lại trong từng câu chuyện kể, hiện hình trong “miếng trầu bà ăn”, trong “ cây tre
đánh giặc”. Hay nói cách khác, đất nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi người dân, trường tồn
trong đời sống tâm hồn nhân dân qua bao thế hệ. Đó cũng chính là “Đất nước của nhân dân”.

     Vì vậy, khi nghĩ về mấy ngàn năm lịch sử của đất nước, tác giả không điểm lại các triều đại
“từ Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nền độc lập” ( Nguyễn Trãi);

                       “ Nước Việt nghìn năm Đinh, Lý, Trần, Lê

                          Thành nước Việt nhân dân trong mát suối”

     Không nhắc lại tên tuổi những anh hùng lừng danh trong sử sách như Bà Trưng, bà Triệu,
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung:

                        “ Hỡi Sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm;

                           Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?

Chưa đâu! Và ngay cả những ngày đẹp nhất

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc,

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng”

mà Nguyễn Khoa Điềm đã nhấn mạnh đến muôn ngàn những con người bình dị vô danh:
                           “ Có biết bao người con gái, con trai

                            Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

                            Họ sống và chết

                            Giản dị và bình tâm

                            Không ai nhớ mặt đặt tên

                            Nhưng họ đã làm ra đất nước”

     Những con người vô danh ấy chính là nhân dân vô tận đã tạo dựng và gìn giữ đát nước trải
qua mọi thời đại. Họ không chỉ đánh giặc ngoại xâm, mà còn là người sáng tạo và truyền lại mọi giá
trị vật chất và tinh thần cho mọi thế hệ nối tiếp nhau:

                             Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

                             Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi

                             Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

                             Họ gánh tên làng tên xã trong mỗi chuyến di dân”

2.3. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân hiện lên trong không gian cụ thể, nơi sinh tồn của
cộng đồng.

Cùng với “thời gian đằng đẵng” là “không gian mênh mông” được tạo lập từ thuở sơ khai với
truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ “Đất là nơi chim về. Nước là nơi rồng ở”- Một đất nước đẹp
đẽ và thiêng liêng biết bao!

     Nhưng đất nước cũng là cái không gian rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày của mỗi người
dân “Đất là nơi anh đến trường. Nước là  nơi em tắm” và đất nước ấy đã chứng kiến những mối tình
đầu của biết bao lứa đôi:

                    Đất nước là nơi ta hò hẹn

                    Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

     Từ quan niệm “ Đất nước của nhân dân”, tác giả đã có những phát hiện sâu sắc và mới mẻ
về vẻ đẹp thiên nhiên đất nước gắn liền với con người, mà trước hết là những con người bình
thường. Và chính những con người bình thường ấy đã làm nên vẻ đẹp muôn đời của thiên nhiên đất
nước, một vẻ đẹp không chỉ mang màu sắc gấm vóc của non sông, mà còn là kết tinh vẻ đẹp tâm
hồn, truyền thống dân tộc:

                   Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước núi Vọng Phu

                   Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

                   Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại”

rồi “người học trò nghèo góp cho đất nước mình núi Bút, non Nghiên”, cho đến những địa
danh thật nôm na bình dị. “Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà
Điềm”. Từ đó, tác giả đã đi tới một nhận thức khái quát sâu xa:
“ Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”

2.4. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” hiện lên trong bề dày văn hóa

     Đất nước ấy còn có một bề dày văn hóa, tâm hồn cốt cách Việt nam. Cũng như hai phương
diện trên, bề dày văn hóa không được nói đến qua các danh nhân văn hóa như Nguyễn trãi, Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm… mà được thể hiện trong nguồn mạch phong phú của văn hóa
dân gian để nêu lên truyền thông tinh thần và vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân thấm nhuần sâu sắc tư
tưởng “Đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại”. Trong các kho tàng văn hóa phong phú ấy,
tác giả tìm thấy những vẻ đẹp nổi bật của tâm hồn tính cách Việt Nam. Đó là thật say đắm và thủy
chung trong tình yêu: “ Yêu nhau từ thuở trong nôi”; “ Cha mẹ yêu nhau bằng gừng cay muối
mặn”; Biết quý trọng tình nghĩa: “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Nhưng cũng thật
quyết liệt với kẻ thù: “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy. Đi trả thù không sợ dài lâu”. Ba phương
diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc đã được ông nói lên sâu sắc, thấm thía từ
những câu ca dao đẹp- những tiếng lòng của nhân dân trải qua từng thời kỳ lịch sử.

     III. KẾT BÀI

Tóm lại “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là Đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại.
Những thi liệu dân gian đậm đà chất thơ, được kết hợp với những suy nghĩ giàu chất trí tuệ đã tạo
nên nét đặc sắc cho bài thơ. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu thêm
cho ý niệm về Đất nước của thơ ca chống Mỹ.

“ Và cứ thế nhân dân thường ít nói

Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời

Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi

Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”

                                                ( Những người đi tới biển- Thanh Thảo)

BÀI 11: VIỆT BẮC

- Tố Hữu -

Đề 1: Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu :
Mình về mình có nhớ ta
.............................................
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
I. Mở bài :
Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Từng chặng đường thơ của ông gắn bó
với từng chặng đường của cách mạng dân tộc. Thơ Tố Hữu mang chất trữ tình – chính trị và đậm đà
tính dân tộc. Việt Bắc là đỉnh cao trong sự nghiệp thơ của ông, là một tác phẩm xuất sắc của văn học
Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Trong bài thơ, Tố Hữu đã tạo dựng thành công khung
cảnh chia tay đầy lưu luyến trong 8 câu thơ đầu.
(Khuyến khích hs khá có cách mở bài khác, sáng tạo)
II. Thân bài:
1. Giới thiệu khái quát
- Hoàn cảnh sáng tác:
+ Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của cuộc kháng chiến, nơi đã che
chở đùm bọc cho Đảng, Chính Phủ, bộ đội trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ.
+ Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương
được kí kết, hòa bình trở lại, miền Bắc nước ta được giải phóng.
+ Tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc
về thủ đô Hà Nội.
+ Một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Nhân sự
kiện trọng đại này, Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc.
+ Bài thơ được trích trong tập Việt Bắc (1947 - 1954)
- Cấu tứ đoạn thơ:
- Bài thơ có kết cấu đối đáp của ca dao giao duyên giữa mình với ta, người đi với kẻ ở. Chính
kết cấu mang đậm phong vị ca dao này đã đem đến cho bài thơ sự linh hoạt uyển chuyển mà nếu
không có nó số lượng hơn 90 câu thơ lục bát khó tránh khỏi sự đơn điệu, nhàm chán. Nhưng nếu ca
dao chỉ có đối đáp giữa mình – ta, người đi – kẻ ở thì “Việt Bắc” không chỉ đối đáp mà còn có sự hô
ứng, đồng vọng. Hai đại từ xưng hô của ca dao giao duyên mình – ta cũng không ấn định mà luân
phiên chuyển đổi cho nhau: có lúc mình là người cán bộ kháng chiến về xuôi, ta là người dân Việt
Bắc; có lúc có lúc ta là người cán bộ kháng chiến về xuôi, mình là người dân Việt Bắc; có lúc mình
và ta hòa chung làm một.
- Kết cấu đối đáp chỉ là hình thức bên ngoài, thực chất mình và ta, người đi và kẻ ở chỉ là sự
phân thân, hóa thân của cái tôi trữ tình để cho tình cảm được bộc lộ đầy đủ trong sự hô ứng, đồng
vọng, vang ngân.
- Nội dung đoạn thơ: Mở đầu bài thơ là khung cảnh chia tay của người đi và người ở.
2. Cảm nhận
2.1. Bốn câu thơ mở đầu là lời của Việt Bắc hỏi người ra đi, khơi gợi kỷ niệm về một giai
đoạn đã qua, về không gian nguồn cội, nghĩa tình:

Mình về mình có nhớ ta ?

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn

Mở đầu là câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta ?” Trong câu hỏi này, “Mình” là chỉ người ra
đi, “Ta” là chỉ người ở lại. Người ở lại hỏi người ra đi: Có nhớ “Ta” trong “mười lăm năm ấy” hay
không ? “Mười lăm năm ấy” là trạng ngữ chỉ thời gian, đó là thời gian chỉ độ dài gắn bó nhớ thương
vô vàn giữa người đi kẻ ở. Thời gian ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho đến
tháng 10.1954 vừa đúng mười lăm năm. Đó là mười lăm năm “Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi”.
Bốn chữ “thiết tha mặn nồng” đã cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và người cán bộ thật thủy chung
sâu nặng, keo sơn bền chặt.[Thầy Phan Danh Hiếu]

Hai câu đầu là gợi nhắc kỷ niệm mười lăm năm gắn bó, hai câu sau là lời nhắc nhở chân tình,
lời dặn dò kín đáo mà rất đỗi thiết tha:

 Mình về mình có nhớ không ?

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn


Người ở lại hỏi “Mình về mình có nhớ không” ? Hỏi là để gợi nhắc.  Cách gợi nhắc này cho
thấy được lời dặn dò kín đáo rất đỗi chân thành: Việt Bắc là cội nguồn Cách mạng, là trung tâm đầu
não của cuộc kháng chiến. Xin người về đừng quên cội quên nguồn mà hãy luôn nhớ về nguồn cội.
Câu thơ này phải chăng là sự vận dụng rất linh hoạt và tài tình của Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống
nước nhớ nguồn”. Qua đó, nhà thơ cũng nhắc nhở thế hệ cháu con phải biết hướng về gốc gác, về
nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.[Thầy Phan Danh Hiếu]

2.2. Bốn câu thơ tiếp theo là tiếng lòng của người về xuôi mang bao nỗi nhớ thương, bịn
rịn:

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Hai câu đầu tác giả sử dụng hai  từ láy “bâng khuâng” và “bồn chồn” để diễn tả tâm trạng
người ra đi. “Bâng khuâng” có nghĩa là nhớ nhung, luyến tiếc, buồn vui lẫn lộn (buồn vì phải xa
VB, vui vì được trở lại quê hương của mình) mà buồn nhiều hơn vui. “Bồn chồn” là từ láy diễn tả
tâm trạng cảm xúc day dứt, hồi hộp, nôn nao trong lòng khiến cho bước chân đi cũng ngập ngừng,
bịn rịn không muốn chia xa . [Thầy Phan Danh Hiếu]

Buổi chia tay ấy có hình ảnh “Áo chàm đưa buổi phân ly” đầy cảm động. “Áo chàm” là màu
áo nghèo khổ, bình dị của người dân Việt Bắc là hình ảnh hoán dụ để chỉ con người Việt Bắc. Đó là
những con người nghèo khổ “hắt hiu lau xám” nhưng luôn “đậm đà lòng son” thủy chung, mặn
nồng. Chính màu áo ấy, con người ấy đã góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang của cuộc kháng
chiến chống Pháp. Hỏi làm sao người đi có thể quên được màu áo ân tình ấy ?

Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” đầy tính chất biểu cảm. “Biết nói gì hôm nay…”
không phải là không có gì để nói. Không nói được vì xúc động nghẹn ngào không thốt được nên lời.
Những lời không nói ấy có lẽ đã nằm hết trong ba chữ “Cầm tay nhau”. “Cầm tay” là biểu tượng
của tình yêu thương đoàn kết. “Cầm tay” là đã đủ nói lên bao cảm xúc trong lòng rồi. Mặt khác, ba
dấu chấm lửng đặt ở cuối câu như càng tăng thêm cái tình cảm mặn nồng ấy. Nó giống như nốt lặng
trong một khuôn nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng.

3. Nghệ thuật: Thể thơ lục bát đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong
phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo (Hoán dụ, câu hỏi tu từ).
Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ Ta – Mình)

III. Kết bài :

- Bằng chi tiết, hình ảnh chân thực giàu sức gợi, bằng cách vận dụng thành công các yếu tố của
ca dao, dân ca kết hợp với những sáng tạo từ ngữ, Tố Hữu đã viết nên một đoạn thơ đặc sắc bao quát
gần như trọn vẹn những nội dung cơ bản của “Việt Bắc”.
- Đoạn thơ cũng là lời tự nhắc lòng mình của nhà thơ và những người kháng chiến; không bao
giờ quên Việt Bắc, quên nhân dân. Bởi quên Việt Bắc là quên đi chính mình.

Đề 2: Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài “Việt Bắc” của Tố Hữu
“Mình về mình có nhớ ta
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai ?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhơ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhơ mình
Tân Trào Hồng Thái, mái đình cây đa ?”
I. Mở bài: (Tham khảo đề 1)
- Giới thiệu tác giả Tố Hữu, hoàn cảnh sáng tác của bài thơ “Việt Bắc” và nội dung chính của
đoạn thơ.
- Trích đoạn thơ
II. Thân bài:
1. Giới thiệu khái quát (Tham khảo đề 1)
2. Cảm nhận
2.1. Bốn câu thơ đầu là những câu thơ gợi nhắc đến những kỷ niệm kháng chiến gian khổ
:

Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù

Mình về có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai

– Điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần cùng với hai câu hỏi tu từ “có nhớ những ngày”, “có nhớ
chiến khu” đã khơi gợi những kỷ niệm gian khổ nhưng nghĩa tình:

Mình còn nhớ hay không những ngày sống giữa thiên nhiên khắc nghiệt ?

+  Liệt kê các hình ảnh: “Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù” – chỉ thiên nhiên, thời tiết
khắc nghiệt dữ dội. Đây cũng là hình ảnh ẩn dụ để chỉ cảnh “ăn tuyết nằm sương”, “nếm mật nằm
gai” mà cán bộ và nhân dân phải chịu đựng. Qua đó khẳng định quyết tâm cao độ của cán bộ và
nhân dân.

– Mình còn nhớ hay không những cảnh sinh hoạt thiếu thốn nhưng tinh thần luôn lạc quan?

+ Gian khổ vì thiếu thốn vật chất, ăn uống kham khổ: “miếng cơm chấm muối” – ăn không đủ
no, mặc không đủ ấm. Chính sự gian khổ đã gắn kết ta và mình để chung vai đấu cật, có phúc cùng
hưởng có hoạ cùng chia. Gạt đi những khó khăn “ta” và “mình” cùng gánh lên vai nhiệm vụ chung –
nhiệm vụ giải phóng dân tộc mà nhân dân giao phó, đó là “mối thù nặng vai” – mối thù giặc Pháp
đang đè nặng lên đôi vai. Ở đây, cái chung luôn đặt trên cái riêng, nghĩa vụ lớn hơn khó khăn gian
khổ – đây chính là  tinh thần lớn của thời đại. ThầyPhan Danh Hiếu.

2.2. Bốn câu thơ tiếp theo, người ở lại khơi gợi những kỷ niệm gắn bó với thiên nhiên và
con người nặng nghĩa nặng tình:
          – Nhớ thiên nhiên:

Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

          + “Rừng núi nhớ ai” vừa là nghệ thuật hoán dụ, vừa là câu hỏi tu từ – gợi lên nỗi niềm
bâng khuâng thương nhớ.

          + Cách nói “Trám bùi để rụng măng mai để già” toát lên nỗi bùi ngùi thương nhớ. Cấu
trúc câu “để rụng…để già” gợi lên hình ảnh thiên nhiên núi rừng buồn bã, hiu quạnh, trống vắng
đến mênh mông vì thiếu vắng bóng dáng người cán bộ.  

          – Nhớ con người Việt Bắc:

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son

          + Nỗi nhớ hướng  về “những nhà”, những con người Việt Bắc: “Hắt hiu lau xám, đậm
đà lòng son”. Câu thơ sử dụng phép đảo ngữ, đưa “hắt hiu” lên đầu câu tạo thành hai vế tương
phản:

          ++ “Hắt hiu lau xám” là để chỉ nỗi buồn trống vắng, hiu hắt của núi rừng; vừa có ý chỉ
những ngôi nhà của những con người áo chàm dân dã, bình dị; cũng là ẩn dụ cho sự nghèo khổ của
đồng bào Việt Bắc.

          ++ Vế sau nhấn mạnh phẩm chất người Việt Bắc: “đậm đà lòng son”. Đó là tấm lòng
nhân dân thủy chung, đậm đà luôn hướng về Cách mạng; luôn hi sinh, nhường cơm, sẻ áo cho bộ
đội. Chính những công sức của Việt Bắc và tấm lòng son đậm đà ấy đã góp phần không nhỏ để làm
nên chiến thắng Điện Biên “nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” và “lừng lẫy năm châu chấn động
địa cầu”.

2.3. Bốn câu thơ cuối, Việt Bắc gợi nhắc những sự kiện lịch sử gắn liền với những địa
danh, những tên gọi đã trở thành điểm mốc của chiến khu:

          – Câu hỏi tu từ thứ nhất:

“Mình về, có nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”

          + Câu thơ có sự liệt kê hình ảnh “núi non”, liệt kê sự kiện “khi kháng Nhật, thuở còn
Việt Minh” để nhắc nhở người về xuôi rằng: Việt Bắc là nơi có mặt trận Việt Minh lãnh đạo cách
mạng đánh Pháp, đuổi Nhật, Việt Bắc là căn cứ quan trọng của cách mạng giải phóng dân tộc thời kì
trước 1945.

          –  Kết thúc đoạn thơ là một câu hỏi lạ: “Mình đi mình có nhớ mình”. Đây là một cách
nói sâu sắc. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai chỉ người cán bộ về xuôi, từ “mình” thứ ba chỉ người
Việt Bắc. Giữa người Việt Bắc và cán bộ như đã có sự gắn bó mật thiết, hòa nhập, tuy hai mà một.
          – Hình ảnh liệt kê mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào chỉ hai địa danh gắn với hai sự
kiện quan trọng trước cách mạng tháng Tám, nhằm khẳng định Việt Bắc chính là cái nôi cách mạng,
là cội nguồn cách mạng. Ths Phan Danh Hiếu.

2.4. Nghệ thuật: Cả đoạn thơ có 7 chữ “mình” được lặp lại. Khi thì “mình đi”, “mình về” rồi
lại “mình về”, “mình đi” rồi “mình đi mình lại nhớ”… tạo nên một giai điệu trữ tình luyến láy như
khắc như chạm vào trong sâu thẳm tâm hồn người đi. Tác giả dùng từ “mình” kết hợp hai từ “đi –
về” biến hóa, linh hoạt gợi ra một cuộc chia tay đầy lưu luyến. Điệp từ “có nhớ” là tâm tình người
về với Việt Bắc. Thể thơ lục bát với âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng góp phần diễn tả tình cảm tha thiết
của Việt Bắc với cách mạng, của con người Việt Nam trong kháng chiến.

III. Kết bài:


- Bằng chi tiết, hình ảnh chân thực giàu sức gợi, bằng cách vận dụng thành công các yếu tố của
ca dao, dân ca kết hợp với những sáng tạo từ ngữ, Tố Hữu đã viết nên một đoạn thơ đặc sắc bao quát
gần như trọn vẹn những nội dung cơ bản của “Việt Bắc”.
- Đoạn thơ cũng là lời tự nhắc lòng mình của nhà thơ và những người kháng chiến; không bao
giờ quên Việt Bắc, quên nhân dân. Bởi quên Việt Bắc là quên đi chính mình.

Đề 3 : Phân tích đoạn thơ sau đây trong bài thơ “Việt Bắc ” của Tố Hữu:
“Nhớ gì nhơ nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi , nắng chiều lưng nương.
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi”
I. Mở bài ( vận dụng cách mở bài của đề 1):
- Giới thiệu ngắn gọn hoàn cảnh sang tác của bài thơ. 
- Đoạn thơ “ Nhớ gì như nhớ người yêu……Mình đây , ta đó đắng cay ngọt bùi  thuộc phần
2 của bài thơ Việt Bắc
- Sau bối cảnh phân li là lời đối đáp của kẻ ở người đi : người ở lại nhắn nhủ người ra đi mười
hai dòng lục bát.Còn người đi đáp lại người ở lại những 72 dòng. Trong 72 dòng ấy, nỗi nhớ được
khơi ra chồng chất; vàmột trong nhiều nỗi nhớ ấy có nỗi nhớ da diết “ như nhớ người yêu” của
người đi.
II. Thân bài: 
1. Giới thiệu khái quát: (Tham khảo đề 1) 
2. Cảm nhận
* Trước hết, ở 2 câu đầu của đoạn thơ :
“Nhớ gì như nhớ người yêu.
Trăng lên đầu núi , nắng chiều lưng nương”
-  Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình cảm
của cán bộ đối với nhân dân. Không phải là nỗi nhớ của ý thức , của nghĩa vụ mà nhớ bằng cả trái
tim yêu thương chân thành và da diết.  
- Câu thơ “Trăng lên đầu núi…” như được phân ra làm 2 nửa thời gian : vế đầu là hình ảnh
gợi tả đêm trăng hò hẹn của tình yêu; vế sau là hình ảnh gợi không gian của buổi chiều lao
động trên nương rẫy. Thời gian như chảy ngược - nỗi nhớ như đi từ gần tới xa, thăm thẳm trong
quá khứ. Tình yêu gắn liền với lao động; lao động nảy sinh ra tình yêu .Câu thơ cùng lúc thể hiện
hai không gian của tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hoà giữa nghĩa vụ và tình cảm. 
* Đến hai câu thơ tiếp, tình yêu như chuyển thành nỗi nhớ trong tình cảm gia đình. Toàn
không gian núi rừng Việt Bắc được gói gọn trong không khí gia đình ấm áp tình thương.
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
- Nỗi nhớ không còn mông lung, mơ mộng nữa mà đã cụ thể trong những bản làng, những mái
nhà thấp thoáng trong những làn khói sương hư ảo. ( Hình ảnh khói sươnglà đặc điểm của cuộc
sống Việt Bắc, vừa là khói sương của thiên nhiên, đồng thời như là hơi ấm của tình đời, tình người
toả ra) .Có hình ảnh của ai đó đang chờ đợi bên bếp lửa suốt đêm dài thao thức ( cứ như cảnh vợ
chờ cơm chồng). 
-> Quan hệ giữa cán bộ và nhân dân như tụ họp ở ngọn lửa bất diệt thiêng liêng ấy. 
 * Kết thúc khổ thơ , tình cảm lại toả ra tràn ngập cả núi rừng Việt Bác. Những kỷ niệm
chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra trong tưởng tượng của người đi :
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày,
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”
- Bằng phép liệt kê làm cho  những kỷ niệm khơi ra tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này, đến
hình ảnh khác.
+ Những hình ảnh “rừng nứa bờ tre” chính là nơi hẹn hò, gặp gỡ cái thở ban đầu ,lúc mới
quen nhau. Đây cũng là những danh từ chungmô tả đặc điểm của không gian Việt Bắc với bao nét
đẹp mơ mộng.
+ Còn “Ngòi Thia , sông Đáy , suối Lê … là những địa danh lịch sử , đã từng khắc ghi trong
lịch sử Cách mạng- nơi đã diễn ra nhiều chiến công oanh liệt .   
->  Những gắn bó gian khổ, ngọt bùi đã trở thành những kỷ niệm da diết trong trái tim người
đi khó có thể quên được.
3. Khái quát:
- Đăc sắc nghệ thuật của đoạn thơ:
+ Thể thơ lục bát của dân tộc rất phù hợp với việc diễn tả tình cảm .
+ Lời thơ là lời hỏi – gợi nhớ với giọng điệu tha thiết , tâm tình.
+ Cách xưng hô ta – mình thân thiết, gần gũi , đậm phong vị ca dao.
+ Điệp từ “ nhớ” nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ thể hiện tình cảm sâu nặng.
- Tài năng của Tố Hữu là chuyện ân tình cách mạng được tác giả khéo léo thể hiện như
chuyện tình cảm lứa đôi. Đoạn thơ chỉ có tám câu ngắn gọn nhưng mở ra một trời thương nhớ, một
ân tình sâu nặng giữa những người Cách mạng và quê hương cách mạng trong kháng chiến chống
Pháp.
Đoạn thơ là cảnh chia tay thật bịn rịn, lưu luyến thể hiện tình cảm sâu nặng giữa cán bộ cách
mạng và người dân Việt Bắc.
II. Kết bài : (Tham khảo đề 1)
- Khẳng định sức sống lâu bền của đoạn thơ
- Liên hệ

Đề 4: Phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu
Ta về, mình có nhớ ta
...............................................
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
I. Mở bài:(Tham khảo đề 1)
II. Thân bài:
1. Giới thiệu khái quát (Tham khảo đề 1)
- Hoàn cảnh sáng tác
- Khái quát đoạn thơ:
2. Cảm nhận
Ý1: lời hỏi, đáp của ta - người cán bộ kháng chiến về xuôi mở ra cảm xúc chủ đạo cho
đoạn thơ (hai câu thơ đầu)
Người cách mạng về xuôi hỏi người Việt Bắc để bộc bạch tâm trạng của mình là dù về xuôi,
dù xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó thiết tha với Việt Bắc “Ta về ta nhớ những hoa cùng người” .
Chữ “ta”, chữ “ nhớ” được điệp lại thể hiện tấm lòng thủy chung son sắt , nỗi nhớ ấy hướng
về “ những hoa cùng người”, hướng về thiên nhiên núi rừng và con người Việt Bắc.
Ý2. Nỗi nhớ được cụ thể trong bức tranh tứ bình về Việt Bắc (tám câu thơ tiếp)
- Nhớ mùa đông Việt Bắc:
“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
+ Nhớ mùa đông là nhớ màu xanh của núi rừng Việt Bắc, nhớ màu đỏ của hoa chuối như
những ngọn lửa thắp sáng rừng xanh , sắc đỏ tươi của hoa chuối giữa sắc xanh của núi rừng làm
cho núi rừng Việt Bắc mùa đông không lạnh lẽo , không úa tàn mà ấm áp , tươi tắn vô cùng. Tài
của Tố Hữu là sử dụng gam màu nóng để vẽ bức tranh thiên nhiên Việt Bắc mùa đông thật đẹp và
không thể quên.
+ Nhớ mùa đông Việt Bắc còn nhớ người đi nương rẫy “ dao gài thắt lưng” trong tư thế mạnh
mẽ hào hùng đứng trên đèo cao “nắng ánh “, con dao của người đi nương rẫy phản quang rất gợi
cảm.
Màu “xanh” của rừng, màu “đỏ” của hoa chuối, màu sáng lấp lánh của “ nắng ánh” từ con
dao , màu sắc hòa hợp làm bật sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Con người Việt Bắc trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời trong kháng chiến.
- Nhớ ngày xuân Việt Bắc:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
+ Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ hoa mơ “nở trắng rừng”, câu thơ miêu tả độc đáo của tác giả
gợi một thế giới hoa mơ bao phủ mọi cánh rừng Việt Bắc , sắc trắng tinh thiết của hoa mơ mở ra
một không gian bao la, thoáng mát và tràn đầy sức sống. Cách dùng từ tài hoa của Tố Hữu gợi nhớ
câu thơ tả mùa xuân khá độc đáo của đại thi hào Nguyễn Du:
“ Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
+ Nhớ người thợ thủ công cần mẫn, khéo léo “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang” . “
Chuốt “ là làm bóng sợi giang mỏng manh. Có khéo léo, cần mẫn, tỉ mỉ thì mới có thể “ chuốt từng
sợi giang” để đan thành những chiếc nón , chiếc mũ phục vụ kháng chiến , để anh bộ đội đi chiến
dịch có “ ánh sao đầu súng bạn cùngmũ nan”. Người đan nón được nhà thơ nói đến tiêu biểu cho vẻ
đẹp tài hoa , sáng tạo của đồng bào Việt Bắc
.- Nhớ mùa hè Việt Bắc : Nhớ mùa hè Việt Bắc với tiếng ve kêu làm nên khúc nhạc rừng, nhớ
màu vàng của rừng phách , nhớ cô thiếu nữ đi hái măng một mình,...
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
+ Chữ “ đổ” được sử dụng tài tình, tiếng ve kêu như trút xuống , “đổ” xuống thúc giục ngày hè
trôi nhanh , làm cho rừng phách thêm vàng --> thiên nhiên Việt Bắc ngày hè thật tươi đẹp, sinh động
.
- Nhớ con người Việt Bắc , nhớ cô gái đi hái măng một mình “Nhớ cô em gái hái măng một
mình” --> Câu thơ độc đáo, giàu vần điệu, thanh điệu , giàu chất nhạc, chất thơ tạo một không gian
nghệ thuật đẹp và vui , đầy màu sắc và âm thanh. Cô gái đi hái măng một mình nhưng vẫn không lẻ
loi bởi cô gái ấy đang lao động giữa khúc nhạc rừng, hái măng để góp phần nuôi quân phục vụ
kháng chiến. Hình ảnh cô gái hái mămg gợi nét đẹp trẻ trung, yêu đời và hết lòng phục vụ cách
mạng, phục vụ kháng chiến của con người Việt Bắc.
- Nhớ mùa thu Việt Bắc : Nhớ mùa hè rồi nhớ mùa thu Việt Bắc , nhớ khôn nguôi ánh trăng
ngà, tiếng hát ,....
Rừng thu răng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
+ Trăng Việt Bắc trong thơ Bác Hồ là “ Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Trăng Việt Bắc
trong thơ Tố Hữu là “ trăng rọi hòa bình”. Người Cách mạng về xuôi nhớ trăng Việt Bắc giữa rừng
thu, trăng rọi qua tán lá rừng xanh, trăng dịu mát nên thơ, trữ tình ,... khiến lòng người ngây ngất.
+ Nhớ người Việt Bắc : “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” . “ Ai” là đại từ nhân xưng
phiếm chỉ, “ nhớ ai” là nhớ về tất cả , về người dân Việt Bắc giàu tình nghĩa thủy chung đã hy sinh
quên mình cho cách mạng, cho kháng chiến.
--> Bức tranh tứ bình mang vẻ đẹp đặc sắc, đậm đà phong cách dân tộc. Mở đầu cuộc kháng
chiến chống Pháp là mùa đông năm 1946, đến mùa thu tháng 10 năm 1954 thủ đô Hà Nội được giải
phóng. Tố Hữu thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc qua bốn mùa đông – xuân- hè – thu theo dòng chảy lịch
sử. Mỗi mùa ở Việt Bắc có một nét đẹp riêng dạt dào sức sống : màu xanh của rừng, màu đỏ tươi
của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của rừng phách, màu trăng xanh hòa bình . Thiên
nhiên Việt Bắc thật nên thơ, hữu tình và mang màu sắc cổ điển qua nét bút tài hoa của Tố Hữu. Con
người Việt Bắc được tác giả nhắc đến không phải là ngư, tiều, canh, mục mà là người đi nương
rẫy, người đan nón, người đi hái măng ,… Đó là những con người Việt Bắc toả sáng nét đẹp cao quý
trong lao động và kháng chiến: cần cù, làm chủ thiên nhiên và làm chủ cuộc đời trong lao động,
khéo léo, tài hoa, trẻ trung, yêu đời,… và hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ kháng chiến.
3. Khái quát:
- Đoạn thơ là thành công của tác giả ở nghệ thuật thể hiện:
+ Thể thơ lục bát của dân tộc
+ Lời thơ là lời hỏi – gợi nhớ với giọng điệu ngọt ngào , tha thiết , tâm tình.
+ Cách xưng hô ta – mình thân thiết, gần gũi , đậm phong vị ca dao.
+ Điệp từ “ nhớ “ nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ thể hiện tình cảm sâu nặng.
+ Bút pháp miêu tả đặc sắc: kết hợp hình ảnh, màu sắc, âm thanh ,…
+ Câu trúc đoạn thơ cân xứng hài hòa: một câu tả cảnh, một câu tả người và cả đoạn thơ là
bức tranh về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
- Đoạn thơ dạt dào tình thương mến , nỗi thiết tha bổi hồi như thấm sâu vào cảnh và người , kẻ
ở người về thì “ mình nhớ ta”, “ta nhớ mình” . Tình cảm ấy vô cùng sâu nặng , biết bao ân tình thủy
chung. Năm tháng đi qua nhưng ân tình cách mạng giữa Việt Bắc và người về xuôi vẫn mãi mãi
như một dấu son đỏ thắm in đậm trong hồn người.
Đoạn thơ là lời ngợi ca quê hương Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp. Qua đó thể hiện
tình cảm của Tố Hữu với Việt Bắc, với Cách mạng: Yêu mến, tự hào, biết ơn --> Đoạn thơ gợi lên
trong lòng người đọc tình mến yêu Việt Bắc, tự hào về đất nước và con người Việt Nam.
III. Kết bài : (tham khảo đề 1)
- Việt Bắc là bài thơ hay của Tố Hữu. Ở đó, nhà thơ thể hiện sự tài hoa của mình trên nhiều
phương diện của nghệ thuật sáng tạo thi ca. Sự tài hoa ấy được dẫn dắt của một điệu tâm hồn đầy
tình nghĩa của nhà thơ.
- Đoạn thơ trên là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc bởi kết tinh một
nghệ thuật thơ ca vừa giàu tính dân tộc, vừa mang tính hiện đại trong một điệu tâm hồn say đắm
Bài 12: AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG

- Hoàng Phủ Ngọc Tường -

Đề 1: Cảm nhận đoạn văn sau trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” – HP Ngọc
Tường: “Từ đây như tìm đúng đường về, sông  Hương vui tươi hẳn lên […] một nỗi lòng”

I. MỞ BÀI

Trên khắp dải đất hình chữ S với ba miền: Bắc, Trung, Nam, vùng miền nào cũng đã từng để
thương, để nhớ cho biết bao các nhà văn, nhà thơ có tâm hồn lãng mạn, bay bổng. Trong đó đặc biệt
phải nói đến khúc giữa của dải đất này với miền Trung của xứ Huế mộng mơ. Thiên nhiên, con
người xứ Huế có lẽ luôn nổi bật với nét đẹp nhẹ nhàng và mê đắm, nhưng mấy ai biết rằng, điều làm
nên nét đẹp đó chính là nhờ một phần vào nét đặc trưng của dòng sông Hương bao quanh thành phố
này. Hoàng Phủ Ngọc Tường với bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông là một tác phẩm viết rất hay, rất
sâu sắc về Hương giang - biểu tượng cho thiên nhiên và con người xứ Huế.

II. THÂN BÀI

1. Khái quát

Ở đoạn trích trước đó, qua góc nhìn cổ tích, địa lý, hội hoạ – Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm
hiện lên vẻ đẹp của sông Hương đầy sức sống “như cô gái Di gan phóng khoáng và man dại” bởi
những tiết tấu hùng tráng, dữ dội nhưng cũng có lúc trữ tình say đắm. Có lúc sông Hương lại đẹp
trinh nguyên giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại. Đoạn trích tiếp theo tác giả mang đến hình
tượng con sông Hương với mối tình đắm say, chung tình với kinh thành Huế.

2.Nội dung 

2.1. Không còn vẻ trầm mặc cổ thi, không còn những tiết tấu hùng tráng, không còn những
đường cong gợi cảm, sông Hương ở quãng này được tác giả cảm nhận với sắc màu hội họa, sắc
màu văn hoá gắn bó với kinh thành Huế.

Bằng ngòi bút hoa mỹ của một cái tôi tài hoa, tác giả đã cảm nhận Sông Hương dưới góc nhìn
hội hoạ với sự thay đổi của dòng chảy và tâm trạng của cô gái Hương Giang giàu xúc cảm. Chính
tiếng chuông chùa Thiên Mụ đánh thức dòng chảy đưa dòng sông từ dáng vẻ trầm mặc đột khởi
thành niềm vui. Bởi thế mở đầu đoạn trích là hình ảnh ngọc nữ Hương giang với tâm trạng “vui tươi
hẳn lên”. Nàng đã nhìn thấy “chiếc cầu trắng in ngấn lên nền trời nhỏ nhắn như những vành trăng
non”, và chợt nhận ra đó chính là tín hiệu của người tình nhân mong đợi. Trước mắt người đọc bỗng
hiện ra bức tranh phong cảnh kinh thành Huế với sắc màu tươi tắn mà thanh thoát, nhẹ nhàng. Phải
chăng chính cuộc tình đẹp đã làm cho  khung cảnh gặp gỡ của lứa đôi cũng thật nên thơ.  Bởi thế
dòng chảy của nàng Hương cũng  trở nên “thẳng thực yên tâm” chảy nhanh hơn để gặp người tình.
Con sông vì thế mà như bỗng có hồn, có tâm trạng, con sông mang cái náo nức, rạo rực, nôn nao,
khao khát của một cô gái chuẩn bị gặp người mình yêu. Và thế là “nàng công chúa ngủ trong rừng”
đã sắp được gặp chàng hoàng tử ngàn năm mong chờ thật rồi. Thấy mình đã “tìm đúng đường về”
thật rồi – sông  Hương như “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim
Long”. Phép nhân hoá kết hợp với miêu tả trong những câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường làm
dòng sông hiện lên thật sống động và gợi cảm biết bao.

2.2. Đoạn văn tiếp theo, tác giả mang đến ấn tượng thật sâu đậm về hình ảnh của Hương
giang đoạn chảy qua thành phố Huế.

 Nếu như trước đó, dòng sông chảy thật nhanh, chạy thật mau trong nỗi niềm háo hức được ôm
chầm lấy người mình yêu thì ở đoạn này sông Hương lại mang một tâm trạng khác, một nét tâm lý
khác: “Giáp thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến;
đường cong ấy làm dòng sông như mềm hẳn đi như một tiếng “Vâng” không nói ra của tình
yêu”. Phép so sánh mới lạ, độc đáo; cái hữu hình so sánh với tâm trạng nên lột tả được cái e thẹn,
ngượng ngùng, xấu hổ của người con gái Hương Giang. Ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật
lãng mạn, tài hoa biết bao trong những câu văn đậm chất hội hoạ và am hiểu tâm lý như thế. Qua
ngòi bút tài hoa, tinh tế ấy của nhà văn, sông Hương hiện lên như một thiếu nữ Huế. Trong niềm vui
hân hoan của hội ngộ mà phải đến “hàng thế kỷ qua đi” nàng mới được gặp người mình yêu, nhưng
nàng vẫn không đánh mất vẻ dịu dàng, e lệ, tình tứ vốn có của mình.

Bằng phép so sánh và cái nhìn hướng ngoại, nhà văn đã mở rộng tầm nhìn  tới những dòng
sông đẹp của thế giới. Đó là những dòng sông nổi tiếng đã đi vào thi ca, nhạc hoạ như sông Xen của
Pari, sông Đa-nuýp của Pu-đa-pét hay dòng sông Nê va hùng vĩ của nước Nga. Tiếp đến, là cái nhìn
hướng nội, tác giả lại quay về với Sông Hương, quay về với dòng sông “nằm ngay giữa lòng thành
phố yêu quý của mình” và chợt nhận ra nàng Hương đoạn qua thành phố Huế mang vẻ đẹp không
chỉ ngoại hình mà còn đẹp ở tâm hồn thuỷ chung, chung tình với Huế. Thầy Phan Danh Hiếu. Nhà
văn Nga Lê-ô-nit Lê-ô-nốp từng nói: “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một
khám phá về nội dung” . Quả đúng vậy, nếu nhà văn họ Hoàng sử dụng hình thức truyện ngắn hay
tiểu thuyết để viết về sông Hương thì chắc chắn sẽ không bao giờ lột tả hết được sức gợi của nó. Thể
tuỳ bút đầy ngẫu hứng có lúc không thể kiềm chế được cảm xúc của nhà văn nhưng chính nó đã
mang lại vẻ đẹp lộng lẫy của sông Hương. Chính nhờ thể tuỳ bút mà nhà văn đã “khám phá” được
gần như đầy đủ nhất tâm hồn sâu thẳm của Hương giang. Với cái nhìn hoài cổ kết hợp với cảm nhận
tình yêu, nhà văn đã thấu cảm được phần hồn sâu lắng của con sông xinh đẹp. Từ góc nhìn tình yêu,
nhà văn nhìn thấy giữa lòng thành phố, sông Hương tỏa thành nhiều nhánh sông Đào như những
cánh tay mềm mại, ôm ấp lấy người tình thủy chung. Ở góc nhìn hoài cổ, nhà văn lại thấy sông
Hương mang nét đẹp cổ thi đầy lãng mạn với hình ảnh: “sông Hương toả đi khắp phố thị, với những
cây đa cây cừa cổ thụ toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập
loè trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”. Những hình ảnh
ấy làm sông Hương vừa gần gũi đời thường, vừa lại như xa xăm như trong cõi mênh mang của cổ
thi. Hình ảnh “xóm thuyền xúm xít”, “ánh lửa…lập loè”, “đêm sương” lại gợi nhớ “trăng tà chiếc
quạ kêu sương”, “giang phong ngư hoả đối sầu miên” trong bài thơ Đường nổi tiếng của Trương
Kế – Phong Kiều dạ bạc. Nhưng sông Hương qua thành phố Huế không chỉ mang những nét hội hoạ
cổ thi như thế mà còn là một bản nhạc, một “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”.

Gặp gỡ người tình thủy chung, có lẽ ai cũng muốn thời gian trôi chậm lại, ngừng lại. Sông
Hương cũng vậy, phải trải qua một hành trình gian lao mới gặp được người tình mong đợi nên dòng
sông dùng dằng không chảy, lặng lẽ như chờ đợi. Vì thế qua Huế, dòng chảy chùng hẳn xuống như
“vấn vương của một nỗi lòng”. Chính đảo cồn Hến đã làm giảm lưu tốc của dòng sông và tạo cho
khuôn mặt dòng sông cơ hồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh. Nhà văn đã quan sát tinh tế, bắt đúng thần
thái, không khí, linh hồn cố đô: sâu lắng, kín đáo, suy tư. Thầy Phan Danh Hiếu. Trong sự liên
tưởng tới dòng chảy hùng vĩ của sông Nê Va với hình ảnh giàu chất thơ: “sông Nê va cuốn trôi
những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân” hay sự liên
tưởng tới nhà triết học Hê –ra-clít đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi qua quá nhanh. Nhà văn
họ Hoàng lại đưa ta trở lại sông Hương trong nỗi nhớ da diết, chảy bỏng: “tôi lại nhớ con sông
Hương của tôi”. Rõ ràng, dù có đi trăm phương nghìn hướng thì cũng không nơi nào đẹp bằng quê
hương, và cũng chẳng có dòng sông nào lại có thể đẹp bằng dòng sông của quê nhà. Qua cái nhìn
hướng ngoại, lại hướng nội, nhà văn càng thấy điệu slow của sông Hương thật trữ tình. Điệu slow ấy
gắn với văn hoá tâm linh của Huế: “có thể cảm nhận bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng
bồng bềnh từ những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng
như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”.  Ngôn ngữ
mượt mà, bóng bẩy, những tính từ, động từ mỹ miều kết hợp phép so sánh trong câu văn trên như tả
hết được nét đẹp lãng mạn mà giàu chất thơ, chất hoạ của sông Hương làm cho điệu slow tình cảm
ấy lại trở nên có linh hồn. Dòng chảy này không chỉ xuất hiện trong cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc
Tường mà trong cái nhìn của nhà thơ mới Hàn Mặc Tử, sông Hương cũng trở nên vương vấn:

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

(Đây thôn Vĩ Dạ)

Hay trong cái nhìn của một nhà thơ kháng chiến:

Con sông dùng dằng con sông không chảy

Nên chảy vào lòng với Huế rất sâu

(Tạm biệt Huế – Thu Bồn)

Chính điệu slow trữ tình như bản tình ca dành riêng cho Huế đã làm cho tấm chung tình của
sông Hương với Huế trở nên da diết, đắm say. Tình yêu với Huế của sông Hương cũng vì thế mà trở
nên rất đỗi sâu nặng.

Đoạn văn tiếp theo, sông Hương hiện lên trong cảm nhận của một nhà sáng tác âm nhạc, một
người thẩm âm nghệ thuật và tâm trạng sông Hương khi rời xa thành phố Huế để về với biển cả của
tổ quốc. Phần sau đó tác giả cũng nói về sông Hương với mối quan hệ văn hoá, lịch sử và lý giải
bằng huyền thoại về dòng sông Hương thơ mộng.

3. Đánh giá nghệ thuật:


Đoạn trích sử dụng bút pháp miêu tả, nhân cách hoá, so sánh, liên tưởng độc đáo. Ngôn ngữ
vừa trí tuệ vừa giàu chất thơ, chất hoạ. Giọng văn mượt mà, truyền cảm. Bài ký rất tiêu biểu cho
phong cách của Hoàng Phủ Ngọc Tường: kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình,
giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều, lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa…

III. KẾT BÀI (Tự kết bài)

Đề 2: Cảm nhận đoạn văn: “Hình như trong khoảnh khắc chùng xuống… chung tình với quê
hương xứ sở”

Đề thi này cũng là đề thi: Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương đoạn ra khỏi kinh thành Huế

I. MỞ BÀI

Ai đó đã từng viết “Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương và
để nhớ như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang
theo”. Vâng, ai rồi cũng có một dòng sông “để thương và để nhớ” nhưng nỗi nhớ mang theo ở mỗi
người lại một vẻ. Với Nguyễn Tuân, dòng sông mang theo là Đà giang hung bạo mà trữ tình, Tế
Hanh nhớ “con sông xanh biếc”, Hoài Vũ mênh mang phù sa Vàm Cỏ, Quang Dũng nào quên “khúc
độc hành” của dòng sông Mã yêu thương…thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại cùng nàng Hương tương
tư với kinh thành Huế qua tuỳ bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Với sự hiểu biết sâu sắc về Huế,
về thuỷ trình của sông Hương kết hợp văn phong khoa học, chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị
luận sắc bén với suy tư đa chiều – Hoàng Phủ Ngọc Tường quả thực đã mang đến những xúc cảm
nồng nàn về Hương giang – dòng sông của thơ ca. Tất cả những giá trị đặc sắc ấy đã được nhà văn
tập trung sâu sắc qua đoạn trích:

“Hình như trong khoảnh khắc chùng xuống [… ]chung tình với quê hương xứ sở”

II. THÂN BÀI

1. Khái quát:

Là nhà văn gốc Quảng Trị nhưng trưởng thành ở Huế, gắn bó với Huế và đã hơn nửa cuộc đời
sống bên cạnh dòng sông Hương trước khi viết tuỳ bút này. Nên hơn ai hết, Hoàng Phủ Ngọc Tường
rất am hiểu Hương giang. Sông Hương với ông giống như một người tình mà suốt cả cuộc đời ông
trăn trở đi tìm và lý giải cội nguồn tên gọi. Tuỳ bút này được nhà văn viết tại Huế năm 1981, in
trong tập cùng tên. Ở đoạn trích trước đó, qua góc nhìn cổ tích, địa lý, hội hoạ – Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã làm hiện lên vẻ đẹp của sông Hương đầy sức sống “như cô gái Di gan phóng khoáng và
man dại” bởi những tiết tấu hùng tráng, dữ dội nhưng cũng có lúc trữ tình say đắm. Có lúc sông
Hương lại đẹp trinh nguyên giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại. Đoạn trích tiếp theo tác giả
mang đến hình tượng con sông Hương với mối tình đắm say, chung tình với kinh thành Huế và sông
Hương gắn liền với văn hoá xứ Huế. 

2. Nội dung

2.1. Ngắm nhìn Huế qua điệu slow trữ tình của dòng sông cùng với trăm ngàn ánh hoa
đăng bồng bềnh, nhà văn như phát hiện ra điều kỳ thú nhất: sông Hương chính là dòng sông
gắn liền với văn hoá Huế.
Quả thực vậy, sông Hương trước hết gắn liền với nền âm nhạc cổ điển Huế. Bằng sự lãng mạn
trữ tình vốn có của một nhà văn đã gắn bó lâu năm với kinh thành Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
nhìn dòng sông một cách đắm say và nhận ra, Hương giang giống như một “người tài nữ đánh đàn
lúc đêm khuya”. Câu văn nhân cách hoá, liên tưởng độc đáo, sáng tạo, tài hoa biết bao. Sông Hương
hiện lên như một người nghệ sĩ với bản đàn sông nước. Nàng đẹp yêu kiều, diễm lệ; kiêu sa mà đằm
thắm dịu dàng. Người tài nữ ấy đã đánh thức Huế bởi những bản đàn, đánh thức đêm kinh thành
bằng lời ca và tiếng hát. Chính không gian sông nước ấy là nơi khơi nguồn cảm hứng để: “toàn bộ
nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Liên tưởng tới việc
nghe ca Huế giữa ban ngày, hay trên sân khấu nhà hát, nhà văn đã bày tỏ sự thất vọng của mình vì
muốn hiểu được nhạc Huế, ca Huế thì phải nghe chính nó trên chính dòng sông đã sinh ra nó. Trong
sự so sánh ấy, nhà văn lại tiếp tục đưa ta vào đêm Huế để lắng đọng cùng với âm nhạc của xứ sở
này. Với vốn am hiểu sâu sắc về âm nhạc cổ điển Huế, tác giả đã có một cảm nhận hết sức tinh tế:
“trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của một mái chèo khuya”. Đó là câu
văn viết theo lối liên tưởng với cảm nhận âm nhạc. Phải là người có độ thẩm âm cao mới phát hiện
ra và có sự so sánh độc đáo đến vậy. “Tiếng nước rơi bán âm” là tiếng nước rơi trong trẻo, gợi hình
dung về một đêm khuya thanh vắng trên dòng sông Hương. Nơi đây, giữa bốn bề kinh thành trầm
mặc, nền âm nhạc đã ra đời. Và cũng chính không gian lắng đọng này mà nghe ca Huế trên sông thì
thật là không gì bằng. Có lẽ chính vì vậy mà du khách thập phương đến với Huế chẳng thể nào mà
cưỡng lòng mình được khi theo chân những ca công lên những con thuyền rồng để nghe nhã nhạc
cũng đình Huế.

Trong sự liên tưởng phong phú, ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường có phần phóng khoáng,
đôi chỗ tuỳ hứng. Ông liên tưởng đến Nguyễn Du “đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với
một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Vậy là, sông Hương không chỉ
là người tài nữ, sông Hương còn là nàng Kiều, hay sông Hương cũng chính là dòng sông đã khơi
nguồn thi ca để người nghệ sĩ Nguyễn Du hoàn thành kiệt tác của đời mình. Cái tôi tài hoa và phóng
khoáng ấy của nhà văn họ Hoàng còn phát hiện ra một nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi đàn đã
chợt nhận ra khúc nhạc Huế trong những trang Kiều của cụ Nguyễn: “Trong như tiếng hạc bay qua
– Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Khúc âm trong trẻo như tiếng hạc bay qua, lúc lại đục như
tiếng suối mới sa nửa vời, gợi nhớ đến “Tứ đại cảnh” – một bản nhạc cổ Huế, tương truyền do vua
Tự Đức sáng tác. Ngày nay, nhã nhạc cung đình Huế đã được Unessco công nhận là văn hoá phi vật
thể. Đó là niềm tự hào của người Huế và cũng là niềm tự hào của cả dân tộc. Có ai ngờ được rằng,
nền âm nhạc ấy đã được sông Hương khơi nguồn và vun đắp.

2.2. Bằng ngòi bút nhân cách hoá, ở đoạn văn tiếp theo, tác giả hình dung sông Hương là
cô gái lưu luyến chia tay với nguời tình nhân để về với biển cả. Tuyệt bút nhất có lẽ là đoạn này
khi tác giả miêu tả chỗ đổi dòng đột ngột của sông Hương khi “rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp
lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Cảm giác lưu luyến với dòng sông của một
trái tim nặng lòng với Huế đã truyền tâm hồn cho dòng chảy của tự nhiên khiến con sông cứ như
một người tình của Huế vậy.

Với điểm nhìn địa lý, hội hoạ, dưới ngòi bút tài hoa của họ Hoàng, sông Hương đã bắt đầu ra
đi khỏi kinh thành Huế: “Sông Hương chếch về hướng chính Bắc, ôm lấy đảo cồn Hến quanh năm
mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre
trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ”. Những câu văn như mang linh hồn của Huế; như
diễn tả được thần thái của xứ Huế sương khói mộng mơ. Các từ ngữ “ôm lấy”, “xa dần”, “lưu
luyến” như tả được cái tình của dòng sông đối với quê hương xứ sở. Ths Phan Danh Hiếu . Nếu khi
chảy qua kinh thành Huế, sông Hương trôi đi thực chậm, sông Hương tựa như “mặt hồ yên tĩnh”, có
lúc “nửa như muốn đi, nửa như muốn ở”. Đó là nỗi lưu luyến là vấn vương với người tình nhân. Thì
nay khi đã ra đi giữa màu xanh biếc của vùng ngoại ô Vĩ Dạ, sông Hương vẫn không muốn rời xa
người tình. Nàng “như sực nhớ ra điều gì” và rẽ ngoặt, quay về ôm Huế lần cuối ở góc phố Bao
Vinh xưa cổ.

Với người Huế, nơi đây là nơi chia tay “dõi xa ngoài mười dặm trường đình”. Là nơi sông
Hương sẽ xuôi một dòng về với biển cả. Nên một lần đi là đi mãi, một lần chia xa là đến cả ngàn
vạn dặm đường. Bởi thế, khúc quanh ấy thật bất ngờ mà cũng thật tự nhiên biết bao nhiêu. Người
Huế vốn sống nặng lòng, và con sông Hương kia cũng vậy. Sông “giống như nàng Kiều trong đêm
tình tự, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển
cả”. Khúc quanh đột ngột ấy làm Hoàng Phủ Ngọc Tường bất ngờ và ngỡ ngàng nhận ra điểm tương
đồng giữa con sông và con người ở “nỗi vương vấn và chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Câu văn
sử dụng phép nhân hoá kết hợp các tính từ bộc lộ cảm xúc “vương vấn, lẳng lơ” khiến dòng sông
hiện lên sống động, trữ tình. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mượn câu Kiều để nói lên mối chung tình
ấy: “Đã nguyền hai chữ đồng tâm/ Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai/ Còn non còn nước còn
dài / Còn về còn nhớ đến người hôm nay”. Và người viết những dòng nhớ, dòng thương, dòng luyến
lưu tha thiết ấy đã kết luận: “Ấy là tấm lòng của người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với
quê hương xứ sở”. Vâng! Sông Hương chung tình với kinh thành Huế như người dân Châu Hoá mãi
mãi yêu mảnh đất tình người của họ. Có thể nói, bằng phép nhân hoá, so sánh để lý giải địa hình nên
tác giả khoác cho dòng sông một tâm trạng đầy lưu luyến, bịn rịn không nỡ rời xa lúc chia tay, để
cảm nhận một con sông thắm thiết chung tình. Đó là nét đẹp mềm mại trữ tình có linh hồn của con 
sông.

2.3. Đoạn văn sau đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường nói về sông Hương và sự gắn bó của nó với
lịch sử Huế, lịch sử dân tộc. Cũng như vậy, ông cũng gắn bó sông Hương với “dòng sông thi
ca”. Bài ký kết thúc bằng huyền thoại đẹp về tên gọi của sông Hương để lý giải cho câu hỏi “Ai đã
đặt tên cho dòng sông”. Đó là huyền thoại vọng về từ làng Thành Trung, một ngôi làng trồng rau
thơm ở Huế, vì yêu quý con sông Hương xinh đẹp, nhân dân hai bên bờ sông đã nấu nước của trăm
loài hoa đổ xuống cho dòng nước thơm tho mãi.

3. Nghệ thuật:

Đoạn trích sử dụng bút pháp miêu tả, nhân cách hoá, so sánh, liên tưởng độc đáo. Ngôn ngữ
vừa trí tuệ vừa giàu chất thơ, chất hoạ. Giọng văn mượt mà, truyền cảm. Bài ký rất tiêu biểu cho
phong cách của Hoàng Phủ Ngọc Tường: kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình,
giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều, lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa…

III. KẾT BÀI

Với bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên trước mắt
người đọc hình ảnh một dòng sông Hương với vẻ đẹp thật nữ tính, làm mê đắm không chỉ với người
dân xứ Huế mà còn cả những người lữ khách từng đặt chân tới nơi đây. Đọc tác phẩm, người đọc
muốn xách ba lô lên và đi ngay, để được thăm thú và ngắm nhìn người con gái tình tứ với quê
hương, với xứ sở thân yêu của nó, cùng như lòng chung thủy bền vững của con người trong tình
yêu.

You might also like