You are on page 1of 14

VỢ CHỒNG A PHỦ chân thật, sinh động những nỗi đau thương, tủi nhục của người dân

những nỗi đau thương, tủi nhục của người dân miền núi dưới
ách áp bức nặng nề của thực dân phong kiến, cũng là lần đầu tiên cuộc sống khổ
Tô Hoài cực của người dân miền núi hiện lên rõ nét trong văn chương Việt Nam lúc bấy giờ.
"Truyện Tây Bắc" được tặng Giải Nhất, Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam năm
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng nói rằng: "Nhà văn tồn tại ở trên đời
1954 - 1955.
trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng
đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường… Nhà văn tồn 2. Tác phẩm
tại trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực". Quả thực,
Tô Hoài đã trở thành "kẻ nâng giấc" cho những số phận khổ đau thê thảm ấy. Điều a) Vị trí
đó được thể hiện rõ nét và sâu sắc qua tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"- linh hồn của
"Vợ chồng A Phủ" là truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập "Truyện Tây
tập "Truyện Tây Bắc".
Bắc", cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam
giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Tô Hoài kể lại: "Cái kết quả lớn nhất và trước
nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương
I. KHÁI QUÁT TÁC GIẢ TÁC PHẨM để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên
được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi tại dốc núi làng Tà Sùa rồi cùng vẫy tay gọi theo:
1. Tác giả Tô Hoài
"Chéo lù! Chéo lù!" (Trở lại! Trở lại!). Có lẽ chính vì vậy mà Tô Hoài đã viết "Vợ
Nhắc đến Tô Hoài (1920 - 2014), là nhắc ngay đến một cây bút tên tuổi chồng A Phủ" bằng cả tấm lòng nhân đạo và yêu thương sâu sắc của mình. Tác
của nền văn học cận đại Việt Nam. Nhà báo Hà Thuý Anh đã từng nhắc đến Tô Hoài phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống và số phận nghiệt ngã của người nông
với những ca từ như thế này: "Tô Hoài là một trong những tác gia lớn nhất của thế dân nghèo miền núi dưới ách áp bức bóc lột tàn bạo của các thế lực phong kiến và
kỷ XX. Ông là nhà văn thuộc thế hệ từ năm 1920 đổ về trước, đó là thế hệ vàng của thực dân, đồng thời lại là một bài ca về sức sống mãnh liệt và khát vọng tự do của
văn chương Việt Nam hiện đại, làm nên mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học thế kỷ con người.
XX - mùa vàng 1930 - 1945 cùng với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất
b) Hoàn cảnh sáng tác
Tố. Ông cũng là người hiếm hoi nhất còn lại của thế hệ vàng son ấy." Hơn 70 năm
lao động nghệ thuật cần mẫn, Tô Hoài đã cho ra đời số lượng tác phẩm đồ sộ - hơn Cuối năm 1952, Tô Hoài có chuyến đi thực tế cùng bộ đội trong chiến dịch
150 đầu sách với nhiều thể loại: Truyện ngắn, truyện dài kỳ, bút ký, ký sự, tiểu Tây Bắc. Sau khi tìm hiểu chung về tình hình ông quyết định đi sâu vào những khu
thuyết, hồi ký, ... với lối viết thông minh, hóm hỉnh nhưng cũng không kém phần khéo du kích của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng núi cao. Chuyến đi dài 8 tháng này
léo và tinh tế. đã để lại những ấn tượng sâu sắc và những tình cảm tốt đẹp của nhà văn với con
người miền Tây. Tô Hoài tâm sự: "Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi
Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện
8 tháng ấy là đất nước và con người miến Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều
đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hóa
quá. Tôi không bao giờ quên…Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào
khác nhau trên đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về
cũng có trong tâm trí tôi. Vì thế, tôi viết Truyện Tây Bắc."
hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc.

Trước 1945, ông thể hiện sức sáng tạo dồi dào của mình với hai chủ đề Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" được sáng tác năm 1952, in trong tập
chính là truyện về loài vật và truyện về những cảnh đời lầm lũi nơi vùng quê nghèo "Truyện Tây Bắc" (xuất bản năm 1953, nhận giải Nhất giải thưởng của hội văn nghệ
ngoại thành, tiêu biểu là "Dế mèn phiêu lưu kí", "O chuột", "Đôi ri đá", "Mẹ già", Việt Nam 1954-1955) là kỉ niệm, là tấm lòng Tô Hoài dành tặng cho những người
"Khách nợ",… Sau 1945, ngòi bút của ông đã vượt thoát khỏi ngôi làng ven đô ấy để thương trên Tây Bắc. Tác phẩm rất tiêu biểu cho sở trường và phong cách nghệ
hướng đến cuộc sống của nhiều lớp người, nhiều vùng đất khác nhau, ông viết về thuật của nhà văn.
những anh hùng người dân tộc thiểu số đã hiến dâng đời mình cho Tổ quốc trong
"Kim Đồng", "Vừ A Dính", ngoài ra, ông còn viết những tác phẩm về miền Tây Bắc
như "Núi cứu quốc", "Miền Tây",… mà trong đó tập "Truyện Tây Bắc" là một tác Tác phẩm gồm hai phần: phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A
phẩm xuất sắc. phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ nhà thống lí Pá Tra; phần sau kể về Mị và A Phủ ở Phiềng
Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng, A Phủ trở thành
"Truyện Tây Bắc" gồm ba truyện: "Cứu đất cứu mường", "Mường Giơn" và tiểu đội trưởng du kích cùng Mị đánh Pháp bảo vệ dân làng. Đoạn trích trong sách
"Vợ chồng A Phủ" được Tô Hoài viết năm 1952, ngay sau chuyến thâm nhập thực tế giáo khoa là phần thứ nhất của tác phẩm.
lên Tây Bắc của tác giả. Với tập "Truyện Tây Bắc", Tô Hoài đã khắc họa một cách
c) Tóm tắt truyện
Vợ chồng A phủ kể về đôi vợ chồng người H’ Mông ở vùng Tây Bắc. Mỵ nghệ sĩ. Đọc xong một tác phẩm, khép lại trang sách cuối, cái đọng lại sâu nhất trong
là một cô gái xinh đẹp có tài thổi sáo. Trai bản nhiều người mê và Mỵ đã có người tâm hồn người đọc chính là những cảm xúc, những suy tư trăn trở về số phận, về
yêu. Dù cha Mị nợ thống lí Pá Tra một món tiền lớn, chưa trả nổi, hằng năm phải trả cuộc đời của những con người được nhà văn thể hiện. Và Tô Hoài thực sự đã thành
lãi cả một nương ngô nhưng Mị kiên quyết không lấy A Sử -con trai thống lý Pá Tra- công trong việc tạo ra một nhân vật hội tụ đầy đủ các yếu tố để có thể rung lên sợi
để xoá nợ. Nhưng một đêm xuân, Mị bị A Sử lừa, bắt về trình ma nhà nó. Tiếng gọi dây đồng điệu giữa người đọc và tác phẩm - nhân vật Mị trong truyện ngắn "Vợ
là làm vợ A Sử nhưng Mị bị đối xử thậm tệ. chồng A Phủ".

Chính sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do mãnh liệt của Mị đã để lại ấn
Ban đầu, Mị định tự tử nhưng vì thương cha đành cam chịu sống trong tượng sâu sắc trong lòng độc giả mà đồng thời qua đó, chúng ta cũng có thể nhìn
đau khổ câm lặng "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". thấu tấm lòng nhân đạo sâu sắc của người nghệ sĩ Tô Hoài.

a) Dưới ngòi bút Tô Hoài, Mị hiện lên toàn vẹn với những vẻ đẹp tài năng
Ngày Tết lại về, Mị lén uống rượu một mình. Không khí vui nhộn, nhất là
và phẩm chất
tiếng sáo gọi bạn tình đã giúp Mị nhớ lại những ngày trước, khơi dậy ở Mị khát vọng
tình yêu hạnh phúc. Mị vào buồng và định thay váy áo đi chơi thì bị A Sử bắt trói Qua miêu tả của Tô Hoài thì Mị là một cô gái sinh ra từ núi rừng Tây Bắc.
đứng vào cột nhà, bằng cả thúng dây đay, cả tóc Mị. Trong cơn chập chờn mê tỉnh, Cô mang trong mình những nét tính cách của người con gái dân tộc thiểu số chất
Mị vẫn thả hồn theo các cuộc chơi. Đến lúc thích chí vùng bước đi mới biết toàn thân phác và hiền lành. Dù sinh ra trong một gia đình nghèo khó nhưng Mị vẫn rất lạc
bị trói chặt, đau buốt. quan và yêu đời, là cô gái chăm chỉ, hiếu thảo, giàu lòng yêu đời, đang sống trong
những ngày tháng tươi đẹp của tuổi xuân. Mị trông xinh đẹp tựa như một đóa hoa
Cũng đêm đó, A Phủ, một thanh niên mồ côi nhưng khoẻ mạnh, can rừng ngập tràn xuân sắc. Cô không chỉ đẹp mà còn rất tài năng. Có tài thổi lá hay
trường, đã đánh A Sử, vì bất bình trước trò xấc xược của hắn ta. A Phủ bị làng bắt như thổi sáo nên biết bao người say mê hàng ngày đi theo bước chân của Mị. Mị
về xử và trở thành người ở trong nhà Pá Tra để trừ nợ. yêu lao động "biết cuốc nương làm ngô". Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha
già. Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và phẩm giá của người con gái với vẻ đẹp
trong ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa rừng.
Một mùa đông giá rét, rừng đói, hổ báo từng đàn ra phá nương, bắt bò
ngựa. A Phủ vì mải mê bẫy nhím nên đã để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị thống lí Vẻ đẹp tâm hồn Mị còn được bộc lộ thông qua thái độ phản kháng và
Pá Tra bắt trói đứng vào một cây cột, suốt mấy ngày đêm - chờ khi nào A Sử bắn phản ứng của Mị khi biết mình phải về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Ngày
được hổ mới tha. xưa, bố Mị lấy mẹ Mị không có tiền đã phải vay của bố thống lí Pá Tra - là ông của
thằng A Sử 100 đồng bạc trắng, nhưng cho đến khi mẹ Mị đã mất, cha Mị đã già mà
Lúc ấy, tuy Mị đã trở thành một con người hoàn toàn vô cảm nhưng khi món nợ ấy vẫn chưa được trả hết. Thống lí bắt bố Mị phải gả con gái cho con trai
nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ lặng lẽ rơi trên hai hóm má xám đen vì kiệt sức, hắn là A Sử về làm con dâu gạt nợ. Biết được tin này, Mị phản ứng ngay: "Con nay
tuyệt vọng, Mị động lòng thương người cùng cảnh ngộ. Sau một hồi suy nghĩ, Mỵ đã đã lớn, biết cuốc nương làm ngô, về nhà làm nương ngô trả nợ thay cho bố, bố
cắt dây trói cho A Phủ. Rồi, Mị vụt chạy theo anh. đừng bán con cho nhà giàu". Câu nói toát lên khí chất của cả một con người, một
con người có sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong câu nói của Mị là sự đánh tráo,
đánh đổi, Mị thà làm việc cực nhọc chứ quyết không làm dâu gạt nợ, sống kiếp trâu
Cả hai băng rừng sang Phiềng Sa, trở thành vợ chồng. Quân Pháp tràn ngựa nô lệ. Thể hiện sự mạnh mẽ, tự tin của tuổi trẻ, của một người không ham giàu
tới, dân làng hoang mang lo sợ. A Châu, cán bộ Đảng đã tìm đến xây dựng phong sang, phú quý, biết quý trọng danh dự và nhân phẩm của mình. Mị quyết không chấp
trào và kết nghĩa anh em với A Phủ. A Phủ đã trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng nhận cuộc hôn nhân không tình yêu ấy.
với Mị và đồng đội tích cực tham gia chống Pháp và tay sai bảo vệ quê hương.
Đấy là một cô gái rất xứng đáng để hưởng hạnh phúc và sống những
ngày tươi đẹp của tuổi trăng tròn, dù trong cảnh nghèo khó. Mùa xuân đến, Mị sống
II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
những giờ phút hồi hộp sung sướng chờ nghe những tiếng sáo quen thuộc của
1. Nhân vật Mị ngừơi yêu; và không ít những chàng trai Hmông đã say mê cô gái con nhà nghèo ấy:
"trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị". Những tưởng cuộc đời Mị cứ thế
Nhận định về nhân vật trong tác phẩm, nhà văn Tô Hoài đã viết: "Nhân vật trôi qua êm đềm và cô sẽ sớm tìm được bến đỗ yêu thương, nào ngờ đâu bi kịch ập
là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác." Nhân vật đến khiến tuổi xuân của người con gái ấy rơi vào bế tắc, khổ đau.
văn học chính là người chỉ đường, là hoá thân cho tinh thần và tiếng nói của người
b) Cuộc đời chát đắng của Mị bắt đầu từ khi cô bị bắt về làm dâu gạt biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi". "Mị cúi mặt không nghĩ ngợi nữa", "mỗi ngày Mị
nợ, cuộc sống tươi đẹp, tự do trước kia giờ đây chỉ còn là hồi ức giữa những càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Mị sống như một cái bóng,
giọt nước mắt lăn dài. sống mà như chết. Suốt trong phần đầu của truyện, Tô Hoài gần như không để nhân
vật Mị có một lời nói trực tiếp nào.
Mị xuất hiện lần đầu tiên ở phần đầu câu chuyện qua vài nét phác hoạ
Căn buồng Mị nằm có cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay "lúc nào trông ra
đơn sơ của Tô Hoài: "Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy
cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng". Mị nghĩ rằng mình đành
có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng
ngồi trong cái lỗi vuông ấy mà trông ra cho đến chết thì thôi". Thậm chí Mị cũng
vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên,
không buồn nghĩ đến cái chết nữa: "lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết.
cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.". Mị không hiện lên bằng chân dung mà hiện
Nhưng Mị cũng không còn nghĩ đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa". Khi một nạn
lên bởi số phận – một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ trong nhà
nhân đau khổ còn nghĩ đến cái chết để chấm dứt hoàn cảnh sống bi kịch của mình,
thống lý Pá Tra.Mị hiện lên với cuộc sống lầm lũi, buồn khổ, tủi nhục trong thân phận
thì phải chăng trong họ còn một chút sức phản kháng, còn tha thiết một cuộc sống
vợ của A Sử, con dâu nhà thống lý Pá Tra. Cuộc đời chát đắng của Mị bắt đầu từ khi
có ý nghĩa hơn. Nhưng Mị lúc này dường như đã phó mặc cuộc sống của mình cho
cô bị bắt về làm dâu gạt nợ, cuộc sống tươi đẹp, tự do trước kia giờ đây chỉ còn là
định mệnh, không nghĩ gì về thân phận của mình nữa, thậm chí cũng không có ý
hồi ức giữa những giọt nước mắt lăn dài. "Tết năm ấy, tết vui chơi, trai gái đánh pao,
thức về thời gian sống nữa. Cô không nhớ rằng mình về làm dâu nhà Pá Tra đã bao
đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái, bố mẹ không thể ngủ
nhiêu năm. Và ngồi trong căn buồng âm u nhìn qua cửa sổ, Mị không biết cái màu
được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo
nhờ nhờ trăng trắng ngoài kia là sương hay là nắng. Với Mị, sự chuyển biến của thời
xung quanh vách. Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị."
khắc sớm tối hay là năm tháng qua đi cũng không có ý nghĩa gì, không gợi cho cô
Trong thời gian đầu bị bắt về làm vợ A Sử, Mị – bằng lòng yêu tự do và cảm xúc gì, cuộc sống chỉ còn là một màn sương mờ đục không dĩ vãng, không hiện
ham sống mạnh mẽ – đã phản kháng quyết liệt. Hàng mấy tháng ròng, đêm nào Mị tại và tương lai!
cũng khóc, rồi Mị quyết tự tử. Nàng Kiều của Nguyễn Du khi bị dấn thân vào cuộc
đời ô nhục, đã hơn một lần nghĩ đến quyên sinh mà cũng không thoát được kiếp đọa Nếu như trong cùng một giai đoạn văn học này, trong tác phẩm "Tắt đèn"
đày đến mười lăm năm. Cô Mị ở đây còn gặp tình cảnh chua xót hơn: cô có chết thì của Ngô Tất Tố, chị Dậu phải chịu sự ràng buộc của sưu cao thuế nặng, thì trong
món nợ vẫn còn, bố già còn khổ hơn nữa! Thế là Mị không đành chết. Mị phải tiếp truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" thì nhân vật Mị cũng phải chịu sự chi phối ràng buộc
tục chịu đựng cuộc sống nô lệ. của thần quyền hủ tục. Đó chính là phương thức hữu hiệu để giai cấp thống trị nô
dịch người dân nghèo. Mị bị bắt về làm dâu với thân phận đàn bà, lại đã cúng trình
Những năm tháng trong nhà Pá Tra là một chuỗi dài những cực nhọc, vất ma nhà thống lí Pá Tra, Mị không còn cách nào khác chỉ biết sống tiếp "nó đã bắt ta
vả nối tiếp nhau, là những sự bóc lột và hành hạ của bọn chủ nô với kẻ nô lệ mà Mị về trình ma nhà nó rồi chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi" và từ đấy Mị sống
phải chịu đựng: "Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại trong danh nghĩa là con dâu nhưng thực chất là thân phận nô lệ. Nhà văn không chỉ
những việc giống nhau tiếp nhau vẽ ra trước mắt, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi mà còn phản
làm đi làm lại… Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, ảnh sự thật đau xót: Người dân lao động nghèo khổ bị chúng đẩy đến bước đường
đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả đêm cả ngày". cùng, chà đạp đến mức tê liệt về cảm xúc, cuộc sống xung quanh, mất dần ý niệm
về cuộc đời. Chúng đang cai trị theo cách "ngu dân". Từ những người có lòng ham
sống mãnh liệt, giờ đây chỉ như cái bóng cái xác không hồn, không ước ao. Một sự
Trong địa ngục trần gian ấy, Mị còn bị áp chế về tinh thần. Mị bị ràng buộc hủy diệt về ý thức sống thật đáng sợ. Cuộc sống của Mị tiêu biểu cho số phận bi
trong một ý nghĩ: bố con Pá Tra đã "trình ma" mình là người nhà nó rồi, thì chỉ còn thảm, bất hạnh của những người dân nghèo miền núi.
biết ở cho đến lúc chết rũ xác ở đây thôi! Mê tín, thần quyền đã hỗ trợ đắc lực cho
giai cấp thống trị, nó là một thứ "thuớc phiện của tinh thần" đối với người dân bị áp
bức, như Mác đã nói. Cô gái trẻ trung, yêu đời của quá khứ nay đã bị thực tại nhấn chìm. Mị
sống mà như đã chết, ý thức làm người vốn có của cô đã bị giai cấp phong kiến làm
Trong đoạn kể về cuộc đời làm dâu của Mị, Tô Hoài đã không chỉ đứng ở cho tê liệt. Dường như số phận đã cột chặt Mị vào gian nhà tăm tối của thống lý Pá
chỗ tố cáo những sự áp bức bóc lột của bọn phong kiến miền núi, mà còn nói lên Tra mặc cho cô gái trẻ có van lơn, có vẫy vùng. Ngòi bút của Tô Hoài đã rất thành
một sự thật đau xót này: con ngừơi bị áp bức cứ nhẫn nhục chịu đựng kéo dài đến công trong việc miêu tả tinh thần đang chết dần chết mòn đi từng ngày của nhân vật
một lúc nào đó thì dường như bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. "Ở lâu trong cái khổ, Mị. Tất cả tình trạng đó là hậu quả của sự đọa đày dai dẳng, nặng nề của ách thống
Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, trị phong kiến trung cổ đối với những người lao động bị đẩy vào thân phận nô lệ.
là con ngựa phải đổi cái tàu ngựa nhà này đến cái tàu ngựa nhà khác, con ngựa chỉ
Ngòi bút của Tô Hòai có sức tố cáo mạnh mẽ. Mặt khác chính sự đè nén càng phũ từng ngày của cô gái trẻ, kéo cô trở lại với cuộc đời tươi đẹp cô đáng sống, để ngọn
phàng tàn bạo, thì sự trỗi dậy ở phần sau của nhân vật càng có giá trị. lửa ham sống trong lòng Mị bừng lên.

Những tưởng cuộc đời Mị từ đây đã bị chôn vùi trong những gông xiềng Đọc tác phẩm ta thấy có ngọn núi quanh năm đọng trong tuyết, nơi có
của hủ tục lạc hậu và nạn áp bức bóc lột tàn bạo nhưng không, trong sâu thẳm tâm sương mù bao phủ, những cánh rừng bát ngát bạt ngàn nương rẫy, khi thì xanh
hồn câm lặng ấy vẫn le lói một khát khao sống, khát khao tự do luôn âm ỉ cháy chỉ mướt lúa ngô, khi thì sặc sỡ ẩn hiện. Nơi có làng bản tụ quanh nguồn nước, chiều
chờ ngày bùng lên mãnh liệt. Sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong nhân vật Mị được về cảnh vật hiện ra trong hơi sương, tối đến lại bập bùng quanh ánh lửa. Ở Hồng
ngòi bút tài năng của Tô Hoài thể hiện qua nhiều phương diện, nhiều chi tiết thấm Ngài, bao giờ cũng thế, cứ gặt hái xong là người ta chuẩn bị ăn Tết. Nhà văn Tô
đẫm tinh thần nhân đạo sâu sắc. Ngòi bút của người nghệ sĩ không chỉ nhằm phơi Hoài đã khéo léo kết hợp tính trữ tình đậm chất thơ vào trong tác phẩm, thể hiện vốn
bày sự thật đen tối mà còn đưa người đọc hướng tới ánh sáng của niềm tin, của cái hiểu biết phong phú, những bản sắc riêng của người dân tộc vùng cao để người đọc
thiện ở đời. có thể hình dung rõ hơn về cuộc sống của họ, về đề tài mà ít ai từng chạm đến trên
diễn đàn văn chương lúc ấy. Nhà văn đã lấy việc miêu tả tâm lý nhân vật làm nền
c) Sức sống tiềm tàng của Mị trong "Vợ chồng A Phủ", hay ánh sáng tảng, khi mùa xuân đến nhà văn để nhân vật của mình vùng dậy, sức sống tiềm tàng
nhân đạo Tô Hoài thắp lên giữa những đêm dài nô lệ tăm tối? trỗi dậy trước hết là nhờ những đổi thay bên ngoài. Trên bản của những người Mèo
đỏ, trai gái đem váy áo ra phơi trên những mỏm đá, nhìn xa xa như những chú
Nếu như truyện ngắn chỉ dừng lại ở việc khắc họa số phận bi thương của
bướm sặc sỡ khổng lồ đầy màu sắc. Mùa xuân cũng làm thay đổi những đóa hoa
những con người bị dồn đường cùng thì đã là một thành công rất lớn. Nhưng tác
thuốc phiện khiến chúng trở nên sặc sỡ hơn. Trai gái rủ nhau ném pao, tung còn, hát
phẩm của Tô Hoài được ra đời vào những năm sau Cách mạng, một thời đại mới,
những câu hát giao duyên quen thuộc:
một trang sử mới, bởi vậy tác giả không hề để cho nhân vật của mình lao vào bóng
tối như chị Dậu, cũng chẳng để nhân vật giết người, rồi giết mình trong một tiếng kêu
"Mày có con trai con gái
đầy ai oán như Chí Phèo. Ông đã để cho nhân vật Mị thực sự trỗi dậy, sống với một
Mày đi làm nương Ngô
sức mạnh phản kháng tiềm tàng, mãnh liệt.
Tao không có con trai con gái
Những giọt nước mắt chát đắng của Mị là biểu hiện đầu tiên của sự Tao đi tìm người yêu"
phản kháng, không chấp nhận cuộc sống tù đày.
Tất cả làm cho người đàn bà đã từng chịu nhiều khổ đau phải lay động, có
Sức sống tiềm tàng mãnh liệt ấy, trước tiên và đơn giản nhất được bộc lộ sự vận động. Tiếp đó là "tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi" – tiếng sáo gọi bạn tình
trong những phản ứng ngầm tỏ rõ việc Mị phủ định cuộc sống nơi mình đang chết vọng vào tâm hồn Mị "thiết tha bồi hồi" Nhà văn lách sâu vào đêm tình mùa xuân để
dần chết mòn đi từng ngày. Khi về làm dâu nhà thống lý Pá Tra, "Có đến hàng mấy khơi dậy sức sống tiềm tàng trong nhân vật này. Thiên nhiên của Hồng Ngài, không
tháng, đêm nào Mị cũng khóc" - những giọt nước mắt ấy là sự phản kháng yếu ớt khí của mùa xuân năm ấy khiến cho Mị không khỏi xao động, khiến cho lòng Mị
của Mị đối với giai cấp cầm quyền bóc lột tàn bạo sức lao động của người dân miền không thể lặng yên mà cứ mãi xao xuyến, xốn xang.
núi. Cuộc sống đối với Mị giờ đây đã chẳng còn ý nghĩa khi tất cả khát vọng, niềm
"Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể
tin, lòng tự tôn bị chà đạp, rẻ rúng, để rồi cuối cùng Mị phải tìm đến lá ngón, chọn cái
ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới."
chết để giải thoát bản thân khỏi gông xiềng hủ tục. Phải chăng với cô gái trẻ, cái chết
Mùa xuân năm ấy ở Hồng Ngài đẹp và gợi cảm biết bao: "Trên đầu núi, các nương
chính là lời tố cáo đanh thép nhất đối với giai cấp cầm quyền, thể hiện sự phủ nhận
ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh
quyết liệt với cuộc sống "địa ngục trần gian" mà cô đang trải qua? Chi tiết này cho
nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa... Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa
thấy sự phản kháng mạnh mẽ trong tâm hồn Mị, bản thân Mị tìm đến lá ngón ở đây
lúc gió thổi và cỏ ranh vàng ửng... Trong các làng Mèo, những chiếc váy hoa đã đem
lại là một biểu hiện rất rõ ràng của lòng khao khát hạnh phúc, cuộc sống tươi đẹp.
ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm, sặc sỡ... Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười
Ngòi bút của Tô Hoài đã đào sâu vào trong tận cùng ý thức của nhân vật để khơi dậy
ầm trên sân trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi..."
chút ánh sáng của niềm ham sống và khát vọng tự do mãnh liệt.
Chính không gian rộn rã sắc màu cùng tiếng sáo tha thiết và âm thanh cuộc sống
Sự thức tỉnh trong ý thức của Mị được nhà văn đặt vào trong một hoàn bên ngoài đã đánh thức cô Mị ngày xưa. Tiếng sáo như chạm vào nỗi nhớ, khơi dậy
cảnh "điển hình" - ấy là khi mùa xuân về trên miền núi cao Tây Bắc. trong tiềm thức của cô gái trẻ những kỷ niệm khi xưa. Mị nghe tiếng sáo vọng lại,
thiết tha bồi hồi. Mị ngồi nhẩm lại bài hát của người đang thổi... Mị lẩm nhẩm lời bài
Mùa xuân là mùa của sự sống và khát vọng, chính vì vậy mà cái không khí hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu
ngày xuân ở Hồng Ngài đã tác động mạnh mẽ vào tâm hồn vốn đang chết dần đi hạnh phúc.
Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc Quá trình hồi sinh của Mị không được nói đến một cách dễ dãi, hời hợt.
biệt quan trọng. "Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài Tâm trạng nhân vật được miêu tả theo trình tự rất logic, nếu có hoàn cảnh làm nó
hát của người đang hỏi". "Ngày trước Mị thổi sáo giỏi... Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi tha hóa thì ắt sẽ có hoàn cảnh làm nó thức tỉnh. Con người tưởng như đã chết từng
lá cũng như thổi sáo", "Tay Mị vang tiếng gọi bạn đầu làng", "mà tiếng sáo gọi bạn bước được hồi sinh, Mị như một đóa hoa ban Tây Bắc trước lúc vào xuân, nhìn bề
yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường", "Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những ngoài mỏng manh, yếu đuối nhưng bên trong sức sống tiềm tàng vẫn luôn âm ỉ và
cuộc chơi, những đám chơi", "trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo"... mãnh liệt. Tô Hoài đã thực hiện một cuộc giải phẫu tâm lí đê tìm ra một sự vận động
biện chứng trong tâm hồn Mị. Nghe thấy tiếng sáo, tất cả cứ đang bồi hồi rộn ràng
Sự phản kháng âm thầm diễn ra trong tâm thức và hành động của Mị trong Mị. Hạnh phúc như đang ở ngay trước mắt, Mị vào trong căn buồng tối tăm của
trong đêm tình mùa xuân là tiền đề vững chắc cho cuộc nổi dậy đấu tranh mình, xắn một miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho thêm sáng. Đây là một chi tiết có chiều
chống lại cường quyền. sâu về nghệ thuật, Mị đang tự tay thắp lên ngọn lửa trong tim mình, ngọn lửa của
tình yêu cuộc sống mãnh liệt, khát khao hạnh phúc. Trong đầu Mị vẫn rập rờn những
Thời khắc để ngọn lửa sống trong lòng Mị bùng lên đã đến, đấy là một
tiếng sáo. Tiếng sáo như thôi thúc Mị quấn lại tóc, "với tay lấy cái váy hoa vắt phía
"đêm tình mùa xuân". Và chúng ta cũng hồi hộp theo ngọn đèn của tác giả "từng
trong vách" để đi chơi hội. Những biến động mạnh mẽ trong tâm hồn Mị chính là sức
bước rọi sâu vào miền thâm u của thế giới nội tâm nhân vật".
sống tiềm tàng mãnh liệt bấy lâu bị vùi lấp. Nó đang chuyển hóa thành hành động và
Trong không khí mùa xuân tưng bừng và nô nức ấy, tiếng sáo chính là âm kéo theo những hành động tiếp theo.
thanh tác động mạnh mẽ nhất đến tâm hồn Mị. Tiếng sáo ấy đã khơi dậy sức sống
ẩn náu trong Mị như đã nguội tắt. Tác giả đã dụng công miêu tả chi tiết tiếng sáo rất Nhưng giữa lúc lòng ham sống của Mị trỗi dậy mạnh mẽ thì ngay sau đó
nhiều lần. Âm thanh ấy khiến Mị nhớ lại những bài hát ngày xưa. Mị đâu còn là con nó lại bị vùi dập phũ phàng không thương tiếc: A Sử bước vào, thản nhiên, lầm lì,
người "chết dần chết mòn về nhân tính" như Chí Phèo. Tiếng sáo thấm vào trái tim trói đứng Mị vào cây cột nhà như trói cả khát vọng và ước mơ của cô gái trẻ vào
Mị, thức tỉnh sự câm lặng bấy lâu. Tiếng sáo ấy chính là tiếng sáo của hạnh phúc, là bóng đêm thăm thẳm của sự tuyệt vọng, hiện thực nghiệt ngã lại trở về với Mị.
biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Nó đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài để Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác Mị, không trói được tinh thần Mị, cô vẫn sống
đánh thức miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị. Đánh thức sức sống vẫn được bảo lưu trong những tiếng sáo thổn thức ngoài kia. A Sử hỏi nhưng Mị không nói. Trong khi
đâu đó trong cõi lòng thiếu nữ Tây Bắc này. Bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới rộn ấy thì tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, quyến rũ. Nó là biểu tượng của sự sống,
rã, "chiêng đánh ầm ĩ" và bữa rượu tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa, trong cái nồng tình yêu, tự do, mà bấy lâu nay Mị dường như đã quên rồi, nay đang trở lại. Tiếng
nàn của bữa rượu, Mị nhẩm lại bài hát của người đang thổi, Mị dần có khái niệm về sáo theo sát từng bước diễn biến tâm trạng nhân vật, nó chính là ngọn gió thổi bùng
thời gian, về cuộc sống. Những suy nghĩ trong tâm trí bỗng chốc bật ra thành hành lên đốm lửa trong lòng Mị. Tiếng sáo từ chỗ là một sự việc của thực tại bên ngoài
động, rồi "Mị cũng uống rượu". Để ý kĩ ta sẽ thấy rằng, Mị uống rượu "ực từng bát", nhân vật ("tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngòai đường"), đã xâm nhập thế
đó đâu phải là cách người ta vẫn thường hay thưởng rượu. Mị uống rượu như nuốt giới tâm hồn Mị, trở thành một hiện hữu của đời sống bên trong ("trong đầu Mị đang
bao cay đắng tủi hờn, như để quên, quên đi hiện tại để nhớ về quá khứ và sống rập rờn tiếng sáo"). Hành động không nói ấy chắc hẳn là vì Mị đang sống trong quá
trong quá khứ ấy, lấy cái đắng cay của men rượu để mà quên đi cái đắng cay của khứ, cả tâm trí đang nghe tiếng gọi của tiếng sáo.
đời. Men rượu chính là tác nhân cuối cùng để Mị trở lại với chính con người mình,
để trở lại với sự sống: "thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như Mị dường như đã quên hết thực tại, quên đi cả nỗi sợ cố hữu của mình.
những đêm Tết ngày trước" Mị cảm thấy mình vẫn trẻ lắm, Mị muốn đi chơi. Mị thấy Rõ ràng, khát vọng sống trong Mị vẫn đang được bảo lưu ở đâu đó. Nó giống như
cái vô nghĩa của cuộc sống hiện tại: "nếu có nắm là ngón trên tay, Mị sẽ ăn cho chết hòn than đang cháy âm ỉ dưới lớp tàn nguội lạnh và chỉ cần trận gió thổi tới là nó có
ngay chứ không buồn nhớ lại nữa". Niềm khao khát được sống như đang nhảy múa thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động của ngoại cảnh làm nên cuộc nổi
trong lòng Mị. Đối với cô gái người Mèo ấy, cái chết lúc ấy thật sự là một sự giải loạn trong Mị là không nhỏ. Nhưng sức mạnh tiềm ẩn không thể nào dập tắt mới là
thoát chứ không phải là sự hèn nhát. Mị muốn vượt thoát ra khỏi căn buồng nhưng mấu chốt quyết định sức sống của mỗi cá nhân. Tô Hoài đã thể hiện được tư tưởng
chẳng khác nào cái phòng gia, giam hãm tâm hồn và tuổi trẻ của mình. Biết bao năm nhân đạo sâu sắc của mình khi dành cho nhân vật sự ưu ái. Ông thương cảm, đồng
trời tưởng như sức sống và khao khát được sống trong Mị đã bị vùi lấp mất, tưởng cảm xót xa với những số phận bị chà đạp về phẩm chất, tâm hồn, những con người
Mị đã an phận trong cái kiếp nô lệ đày đọa nhưng không phải vậy. Mị đã ý thức được là nạn nhân của chế độ phong kiến.
về sự bất công phi lí, "không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau", ý thức về
quyền sống và hạnh phúc của chính mình. Người con gái ấy đã thực sự vượt thoát Tưởng rằng sức sống mãnh liệt của Mị sẽ bị vùi dập lần nữa, nhưng trong
ra khỏi trạng thành chai lì vô cảm của một "con rùa nơi xó cửa". bóng tối, Mị mơ màng theo tiếng sáo, Tiếng sáo có lần đã đưa Mị theo những cuộc
chơi, đám chơi. Nhưng rồi quá khứ ra đi, hiện tại ở trước mắt. Mị chỉ thấy xung
quanh toàn bóng tối, không một tiếng động, "Cô vùng bước đi" nhưng chân tay đau
không cựa được, Mị không nghe tiếng sáo nữa. Nỗi đau thể xác đã kéo Mị trở về còn Mị thì làm dâu gạt nợ. Hai con người này đang cùng chung hoàn cảnh, số phận.
thực tại. A Phủ bị trói mấy đêm rồi nhưng đêm nào cũng vậy. Mị dậy đốt lửa sưởi và thản
nhiên như không có gì bên cạnh. Mỗi đêm, đêm nào cũng vậy khi ngọn lửa bùng, Mị
Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh nhìn sang biết A Phủ còn sống nhưng không nói gì. "Nếu A Phủ là cái xác chết đứng
liệt giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn bạo lạnh lùng. Lúc mới đấy, cũng thế thôi." bởi người con gái ấy đã chai sạn, chai lì cảm xúc, sự thản nhiên
bị trói, Mị vẫn sống trong tâm trạng say mê với tiếng sáo, với những đám chơi Tết đến lạnh lùng ấy xét đến cùng cũng là bởi đã chịu quá nhiều đắng cay và khổ đau.
ngoài kia. "Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi". Mị như Cái chế độ ấy đã bóp nghẹt sự sống của con người, khiến cho con người ta trơ lì và
quên mình là đang bị trói, quên những đau đớn thể xác, đến nỗi trong giây phút niềm vô cảm đến tột cùng, khiến cho con người ta dửng dưng trước mọi nỗi đau và sự
khát khao cuộc sống mãnh liệt. Mị đã vùng bước đi!" Nhưng thực tế phũ phàng là nhức nhối. Nào đâu Mị phải là người nhẫn tâm, chẳng qua khi ấy nỗi đau đã ngấm
những vòng dây trói đang thít chặt, dẫu ước mong mãnh liệt đến mấy, Mị không vượt vào tâm thức Mị, khiến trái tim cả cô gần như tê liệt sức sống. Tội ác trong nhà tù
qua nó được. Hai biểu tượng của ước mơ và thực tại hiện ra trong hai âm thanh trái thống lý Pá Tra vẫn diễn ra hằng ngày, việc A Phủ bị trói đứng cũng chỉ như phác
ngược – tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khan! thêm một nét chì lên bức hoạ tăm tối mà thôi. Trước những người cùng cảnh ngộ, Mị
"Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa chẳng còn đủ nước mắt để xót thương. Lúc ấy, chỉ còn Mị với ngọn lửa vô tri vô giác
vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa". ngoài kia.
Thực tại phũ phàng đã lấn át, bóp nghẹt những ước mơ, khát vọng tươi sáng. Kết
cục ấy nói lên rằng chỉ có những phản kháng tự phát, nhân vật không thể giải thoát Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa "bởi tâm hồn Mị
khỏi tình cảnh bị giam hãm đày đọa, không thể giải phóng thực sự cho những ước đã khép kín và câm lặng rồi ý chính dòng nước mắt lấp lánh của A Phủ đã làm tan
vọng hạnh phúc. chảy sự vô cảm trong lòng Mị, Mị bồi hồi trước một người cùng cảnh ngộ. "Ngọn lửa
vừa bập bùng lóe sáng, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một
dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen sạm". Mị chợt nhớ cái đêm
mình cũng bị trói đứng vào cột nhà như thế kia, cũng nước mắt chảy xuống miệng,
Cuộc trỗi dậy tinh thần của Mị như một đợt sóng ngầm lặng lẽ nhưng xuống cổ không lau đi được. Nhưng vào đêm ấy, Mị đã trở dậy thổi lửa và trông thấy
mãnh liệt. Nó sẽ tuôn trào thành những đợt sóng mới, mạnh mẽ hơn lúc nào hết, "một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" của A Phủ.
bằng chứng là hành động cởi dây trói cho A Phủ đã đặt bút viết lên một chương mới
cho cuộc đời Mị, mở ra những tháng ngày tươi đẹp sau này, thể hiện rõ nét nhất sức Dòng nước mắt của một người con trai ương bướng, gan góc, tưởng
sống tiềm tàng ẩn sâu trong tâm hồn người con gái Tây Bắc. chẳng hề sợ hãi bất cứ điều gì ở đời. Dòng nước mắt như hình ảnh của sự uất ức
trước một nỗ lực bất thành trong một quá trình chống trọi lại thực tại cay đắng. Và
Ở đây, Tô Hoài đã đặt nhân vật của mình vào một hoàn cảnh thật căng
cũng chính dòng nước mắt ấy cũng đã kéo Mị về quá khứ, và rồi một nỗi cảm
thẳng, làm bộc lộ những động lực tiềm ẩn sâu xa trong đời sống tâm hồn nhân vật,
thương vô hạn dâng ngập lên trong lòng của người con gái ấy. Mị thương mình, rồi
với một diễn biến, phát triển được dẫn dắt hợp qui luật. Nếu không có A Phủ đánh A
thương cả người đàn bà bị nó trói ba ngày, trói đến chết. Và vì thế, cảm giác dửng
Sử để người ta cởi trói cho Mị đi kiếm lá thuốc cho chồng thì có lẽ Mị cũng phải chịu
dưng dường như đã biến mất hoàn toàn, Mị đã có cảm giác rất rõ về sự đồng cảm
chết như một người đàn bà ngày trước trong nhà này. Vì thế sự xuất hiện của A Phủ
và đồng cảnh. Sức phản kháng trỗi dậy mạnh đến mức đã chi phối toàn bộ cả suy
như một định mệnh trong cuộc đời của Mị, nói đúng hơn là của cả hai người.
nghĩ. Mị đã nghĩ một cách rành rọt là Mị sẽ chết nếu cởi dây trói cứu A Phủ, rồi phải
Sau cuộc nổi loạn không thành ở đêm tình mùa xuân, Mị tiếp tục rơi chết trên cái cọc ấy. Nhưng "Mị làm sao cũng không thấy sợ", đó chính là sức mạnh
vào trạng thái tê liệt, cô lại trở về là cái xác không hồn. Nhưng với sự xuất hiện của tình thương. Mị đã không sợ chết, nhất là cái chết ấy có gắn với sự giải thoát,
của A Phủ, cùng sự việc A Phủ bị trói đứng chờ chết đã thức tỉnh trong Mị tình dám chết để cho người khác được sống.
yêu thương và khao khao sống mãnh liệt không thể nào dập tắt.
Cảnh ngộ, tình thương và lòng căm thù đã thức tỉnh ý thức Mị, tâm hồn
Sức sống tiềm tàng của Mị không chỉ được khắc họa trong đêm tình mùa
Mị. Qua "ngọn lửa bập bùng", Mị "lé mắt trông sang" Mị xúc động khi nhìn thấy "một
xuân mà còn dữ dội và mãnh liệt trong chính đêm đông cứu A Phủ. Mị đã gặp được
dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm mắt đô xám đen lại" của A Phủ. Mị nhớ lại
một người mà không ngờ tới rằng đó là người sẽ giải phóng cuộc đời mình, đó là A
đêm năm trước, A Sử cũng trói đứng Mị như thế. Mị khẽ thốt lên lời than: "Trời ơi!..."
Phủ. Đó cũng là lí do tại sao tác phẩm có nhan đề "Vợ chồng A Phủ". Thời gian cũng
Mị nguyền rủa cha con thống lí: "Chúng nó thật độc ác". Bao cảnh thương tâm đồng
trôi qua, cho đến cái đêm A Phủ bị trói đứng vào cây cọc gỗ giữa mùa đông lạnh giá
hiện trong tâm hồn Mị: bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi,
vì để hổ bắt mất bò. A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, phóng khoáng, vì đánh lại
nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này". Mị tự thương
con quan mà bị phạt vạ hết sức vô lí và trở thành nô lệ không công cho nhà thống lí,
cảnh ngộ mình, thương A Phủ trên bờ vực thẳm, khi tử thần đã gõ cửa: "Cơ chừng
này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết". Mị nghĩ của Mị và A Phủ. Hai mảnh ghép khổ đau và cùng cực tựa vào nhau để vượt lên sự
đến thân phận mình, tưởng như là cam chịu: "Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta để trình nghiệt ngã của số phận. Mị đã tự vùng lên, tự giải phóng cho chính cuộc đời mình
ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi...". Mị ý thức được, A khỏi áp bức và bất công. Tô Hoài đã để nhân vật mình được con đường sáng ngay
Phủ không thể chết, "việc gì mà phải chết thế". Con đường thức tỉnh của con người trong đêm đông tối tăm trên núi cao, tự cứu lấy đời mình, sống với cuộc sống xứng
thức tỉnh là con đường vòng, có lúc ngập ngừng do dự, có lúc quyết liệt. Mị cùng thế, đáng với con người. Ấy chính là giá trị nhân đạo sâu sắc và mới mẻ mà nhà văn
Mị tưởng tượng A Phủ trốn thoát, Mị sẽ bị thế mạng trên cái cọc oan nghiệt ấy! Đám muốn gửi gắm. Đó cũng là khẳng định và khao khát của nhân dân Tây Bắc về khát
than vạc hẳn lửa. Hình như bóng tối cho Mị sức mạnh, "trong tình cảnh này, làm sao vọng tự do cháy bỏng. Tác giả Tô Hoài đã lách sâu ngòi bút nhân đạo của mình để
Mị cũng không thấy sợ...". tìm ra cho nhân vật con đường đúng đắn nhất, để nhân vật đi theo ánh sáng của
cách mạng cũng chính là để cho nhân vật làm chủ cuộc đời mình, tự mình thoát ra
Nếu như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng hạnh phúc, thì đêm đông khỏi xiềng xích, đồng thời đây cũng là giá trị hiện thực mới mẻ khi tác giả đề cao vai
cứu A Phủ lại gắn liền với khát vọng tự do trong Mị - một con người tưởng như đã bị trò của Đảng trong việc giải phóng nhân dân.
nô lệ hóa hoàn toàn. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén tưởng đã tắt lịm đi, nay bỗng
Tình huống truyện diễn ra thật bất ngờ, tự nhiên nhưng vẫn rất lôgic, phù
bật dậy trào dâng mạnh mẽ. Ý nghĩ cứu A Phủ đã mạnh hơn cả nỗi lo sợ cho chính
hợp với sự phát triển tính cách của nhân vật mà trước đó đã từng có khát vọng
mình. Mặc dù đây là hành động tự phát nhưng là kết quả của một quá trình, nó minh
mãnh liệt trong đêm mùa xuân năm trước. Hành động cắt dây trói cứu A Phủ của Mị
chứng sức sống tiềm tàng, âm ỉ không ngừng trong con người Mị.
là hành động cắt đứt, đoạn tuyệt với quá khứ khổ đau cho cả hai người. Như chim
Từ suy nghĩ đó đã dẫn đến hành động của Mị. Có một điều thú vị ở đây là xổ lồng, họ băng xuống dốc núi, bay về phía tự do.
Mị đã hành động trong bóng tối, khi "đám than đã vạc hẳn lửa" và tối như bưng. Lần Đây là đoạn văn bản lề khép mở hai cuộc đời. Đóng lại một kiếp khổ nhục,
này, sức sống trong Mị mãnh liệt đến mức chẳng cần men rượu, chẳng cần những nô lệ để đi vào một cuộc đời chồng vợ chủ động xây dựng cuộc sống mới. Tô Hoài
cơn say để bùng lên. Lần này cũng chẳng cần ngọn lửa hơ tay bởi ngọn lửa của sức đã làm cho mạch truyện chuyển biến hợp lí, khiến cho tác phẩm không có những vết
sống, của khao khát được tự do và hạnh phúc trong lòng Mị đang rừng rực cháy. Mị cắt, và những chỗ ghép giả tạo. Cũng cần lưu ý giọng văn ở đoạn này rất đa dạng.
"rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây". Một câu văn ngắn với dấu phẩy khiến Giọng kể, giọng bán trực tiếp của nhân vật của và giọng nhân vật, … Những giọng
hành động của Mị dứt khoát và cảm giác rõ nét hơn về tốc độ nhanh thoăn thoắt. Đó này góp phần mổ xẻ tâm trạng Mị khá thành công, khá sinh động và có sức thuyết
là đỉnh cao của đời Mị và cũng là nơi tập trung giá trị nhân văn. Hành động của Mị, phục người đọc.
tuy không thể đoán trước nhưng vẫn nằm trong mạch chảy của nội tâm nhân vật. Bằng cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên, cách dẫn dắt câu
Cắt dây trói cứu A Phủ, Mị đã cát dây trói tinh thần trói buộc mình bấy lâu nay. chuyện chặt chẽ và nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế bậc thầy thì Tô Hoài đã vẽ nên
Nhưng, tính cách Mị có sự hợp lí, quy luật mà vẫn gây cho ta sự bất ngờ, ngạc nhiên bức chân dung cô Mị tĩnh lặng nhưng ẩn chứa sau bức tranh ấy là một sức sống
thú vị. mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như mạch ngầm trong mắt. Làm ta yêu thêm hình
Vừa mới nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ chạy ảnh về một cô Mị ở Hồng Ngài thoát khỏi cảnh đọa đầy để vươn đến tương lai hạnh
đi, "Mị nghẹn lại", "đứng lặng trong bóng tối", một sự im lặng đầy giông bão. Đó phúc. Môt cô Mị với sức sống tiềm tàng mãnh liệt để có thể làm du kích ở Phiềng Sa
chính là sự giằng xé đấu tranh âm thầm nhưng dữ dội. Ở lại hay chạy đi, sự sống sau này.
hay cái chết? Và khi đứng trước cái chết. Mị đã "vụt chạy" theo A Phủ. Trời tối lắm
nhưng chưa bao giờ lòng Mị sáng như thế, chưa bao giờ ngọn lửa của khát vọng
Như vậy, có thể nói, nhân vật Mị là kết tinh đặc sắc nhất của ngòi bút
sống trong Mị lại cháy mãnh liệt đến thế. Mị băng đi với tất cả sức sống trẻ trung của
Tô Hoài khi viết về cuộc sống và con người miền núi Tây Bắc.
mình, sức sống bị kìm hãm bấy lâu nay được bung ra, được tuôn chảy. Mị đã vượt
qua nỗi sợ cố hữu với thần quyền và cường quyền để chọn con đường sống. Một Qua việc phát hiện, miêu tả sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị, Tô Hoài
kết cấu chặt chẽ: Mị đã cứu A Phủ, thì tại sao lại không tự cứu mình? và "hai người không chỉ ngợi ca đó là vẻ đẹp trong tâm hồn của người lao động miền núi bị áp bức
lẳng lặng đỡ nhau lao xuống núi". mà còn khẳng định sức sống tiềm tàng ấy chính là sức mạnh là vũ khí giúp họ vùng
lên giả phóng cuộc đời bất hạnh của mình để đến với tự do, hạnh phúc. Cách nhìn
này mang giá trị nhân sinh sâu sắc.
Nhìn bề ngoài ta tưởng hành động của Mị là sự liều lĩnh. Thực chất, quá
trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ xuất phát từ yếu tố bên trong, là logic tâm lí
hoàn toàn hợp lí, là một quá trình tự nhận thức: Nhận thức tại xã hội tàn bạo, lạnh Qua nhân vật Mị, Tô Hoài đã phản ánh chân thực bức tranh cuộc sống
lùng. Mị cứu A Phủ bởi cô thấy sự bất công, phi lí sắp giết chết một con người vô tội của người phụ nữ miền núi thật tù đọng và đầy bất hạnh. Nhà văn còn khẳng định
và nhận thức "người" cũng là để qua đó nhận thức, soi sáng "mình". Mị không hề ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất, khát vọng tự do hạnh phúc cùng sức sống mãnh liệt trong
bồng bột, không hề ngẫu hứng, Mị đã cảm nhận được sự đồng điệu trong tâm hồn tâm hồn người lao động. Mị thực sự đổi đời khi cùng A Phủ đến với khu du kích
Phiềng Sa. Nhân vặt Mị đã đi từ hình tượng con người nô lệ sang hình tượng con
người khởi nghĩa. Điều này thể hiện tư tưởng nhân đạo chưa từng có trong văn học
Ngày tết dù chẳng có nhiều quần áo đẹp như nhiều chàng trai khác, trên
truyền thống. Đó là chủ nghĩa nhân đạo cách mạng gắn với đấu tranh, gắn niềm tin
cổ vẫn lằn một chiếc vòng vía đeo từ nhỏ, như A Phủ vẫn hòa cùng đám bạn thổi
vào tương lai đầy triển vọng của con người.
kèn, thổi sáo tìm người yêu. A Phủ trở thành niềm mơ ước của bao cô gái Mèo. Họ
kháo nhau: "Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng
2. Nhân vật A Phủ mấy lúc mà giàu". Người ta đùa vậy thôi chứ A Phủ nghèo lắm. Không có cha mẹ,
không có ruộng nương, không có bạc, suốt đời làm thuê, làm sao A Phủ lấy nổi vợ.
"Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông như cuốn Bách Nếu ở xã hội khác, A Phủ xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Thế mà A Phủ bị chà
khoa Toàn thư mà không viện sĩ nào, không học giả nào có thể sánh được" (Trần đạp, bị đối xử bất công. Nếu không được Mị giải thoát, chắc A Phủ đã chết trong tay
Đăng Khoa). Ông có vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục tập quán của cha con thống lí Pá Tra.
nhiều vùng miền khác nhau, lối trần thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo,
cách miêu tả đậm chất tạo hình lay động lòng người. Ông đã viết thành công tác
phẩm Truyện Tây Bắc, trong đó có truyện Vợ chồng A Phủ. Qua truyện ngắn này, Tô b) Phẩm chất, tính cách của A Phủ
Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng
quyết tâm đi theo kháng chiến để giành lấy tình yêu, hạnh phúc. Tiêu biểu cho Cá tính gan góc của A Phủ đã bộc lộ từ năm 10 tuổi. Cá tính ấy lại được
những con người ấy là A Phủ, một trong những nhân vật thành công nhất của Tô chính cuộc sống hoang dã núi rừng cùng hoàn cảnh ở đợ làm thuê vất vả cực nhọc
Hoài trong tác phẩm này. hun đúc nên một A Phủ có cá tính mạnh mẽ, táo bạo. Vừa xuất hiện, A Phủ đã lôi
cuốn người đọc bằng những hành động mạnh mẽ, dự dội: "chạy vụt ra", "vung tay
Năm 1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi thực ném", "xộc tới nắm" "kéo dập đầu, xé, đánh tới tấp…". A Phủ là một người thẳng
tế này đã đem đến cho nhà văn cái nhìn sâu sắc và tình cảm thắm thiết với người và thắn, nóng tính, thật thà, chất phác. A Phủ đánh A Sử để trừng trị thói con quan ỷ thế
cảnh Tây Bắc. "Vợ chồng A Phủ" được in trong tập "Truyện Tây Bắc". Tác giả cho A làm càn. Anh bị người nhà thống lí bắt, đánh suốt đêm đến mức "mặt A Phủ sung
Phủ xuất hiện đột ngột trong trận đánh nhau với A Sử - con trai thống lí, rồi bị bắt, bị lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu", "hai đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù".
đánh đập, bị phạt vạ phải ở trừ nợ. Sau đó mới kể lai lịch của A Phủ. Cách giới thiệu
này vừa gây chú ý cho người đọc vừa nhấn mạnh tính cách mạnh mẽ của A Phủ.
Dù vậy, A Phủ "chỉ im như cái tượng đá" thể hiện sự gan góc, dám làm
a) Hoàn cảnh nghèo khó và số phận bất hạnh của A Phủ dám chịu. Khi đã phải sống thân phận của kẻ làm công trừ nợ, anh vẫn là chàng trai
của tự do. Dù phải quanh năm một mình "đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò
A Phủ xuất hiện khá đột ngột gây ấn tượng mạng cho người đọc, đó là tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa…", việc gì A Phủ cũng làm phăng phăng chẳng hề
cảnh A Phủ đánh A Sử. Người đọc tưởng đây là nhân vật có máu mặt trong bản làng tính toán thiệt hơn. Vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất một con bò, A Phủ thật thà vác
nhưng không, thân phận của A Phủ không khác Mị là mấy. A Phủ cũng như Mị, họ về nửa con bò hổ ăn dở và thản nhiên nói với thống lí "cho tôi mượn cây súng. Tôi đi
đều là những người dân nghèo bị gia đình thống Lí Pá Tra áp bức, bóc lột và trở lấy con hổ về". Anh coi đó là một việc rất dễ dàng. Thống lí không cho, anh cãi lại
thành con nợ - nô lệ. Song họ đều có tình yêu và khát vọng giải phóng. Nhưng A Phủ cũng rất điềm nhiên. Anh không biết sợ cái uy của bất kì ai. Con hổ hay thống lí cũng
cũng khác Mị: Thời thơ ấu Mị còn có cha, có mẹ, có một gia đình để được yêu thế thôi. Kể cả khi lặng lẽ đi lấy cọc và dây mây rồi đóng cọc để người ta trói đứng
thương, đùm bọc, thì A Phủ mười tuổi đã bị mồ côi cả cha lẫn mẹ trong một trận dịch mình chết thế mạng cho con vật bị mất, A Phủ cũng làm việc ấy một cách thản nhiên.
khủng khiếp. A Phủ thành đứa trẻ bơ vơ, bị người làng bán đổi lấy thóc dưới vùng Là người mạnh mẽ, gan góc, A Phủ không sợ cả cái chết.
thấp. A Phủ không chịu đã chốn lên vùng cao, làm thuê làm mướn kiếm sống và đã
lưu lạc đến vùng Hồng Ngài.
Bị trói đứng, đói, khát trong cái lạnh cắt da, A Phủ không cam chịu, anh
nhai đứt hai vòng dây trói, song không thoát. A Phủ khóc tuyệt vọng. Nước mắt của
Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh "chạy nhanh
chàng trai mạnh mẽ, yêu tự do phải cay đắng buông tay trước số phận nghiệt ngã
như ngựa", "biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại giỏi cày và săn bò tót rất bạo". Vượt
làm rung động trái tim người đọc. Ta càng thấy rõ hơn bộ mặt tàn bạo của chế độ
lên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ sống rất hồn nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống bình
phong kiến, chúa đất ở miền núi khi xưa.
yên chính nghĩa, bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về
mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn quyết làm điều đó. Ta thấy
ở đây A Phủ là một con người liều lĩnh và chí khí.
Nếu Mị là kiểu nhân vật tâm lý thì A Phủ lại là nhân vật hành động táo
bạo, quyết liệt. Khi miêu tả A Phủ, nhà văn phối hợp vừa tả vừa kể, nhấn mạnh các
chi tiết cụ thể, ấn tượng để khắc họa những đặc điểm, tính cách nhân vật. Cùng với Phủ là nhân vật được xây dựng đang trên bước "tìm đường, nhận đường" để sau
Mị, A Phủ đã góp phần hoàn thiện chân dung con người miền núi Tây Bắc: Số phận này sang Phiềng Sa gặp A Châu, trở thành du kích trở về giải phóng quên hương.
đau thương nhưng giàu sức sống, tình cảm và khát vọng. Người đọc cũng mong có
một kết thúc tốt đẹp đến với A Phủ và Mị. Bởi họ là những con người không chịu
Qua cuộc đời và số phận của A Phủ, Tô Hoài đã tố cáo tội ác dã man của
khuất phục trước cường quyền gian ác. Nếu chị Dậu trong "Tắt Đèn" của Ngô Tất Tố giai cấp thống trị ở miền núi, tiêu biểu là cha con thống lí Pá Tra đã đẩy con người
chạy ra khỏi nhà lý thống trong đêm tối, cái đêm đen cũng đen như cuộc đời của chị, hiền lành, chất phác vào tình trạng thảm hại, bị cướp đoạn sức lao động, quyền làm
người ta mong chị sẽ gặp được ánh sáng soi rọi của cách mạng, thì ở đây, người người, trở thành nô lệ. Viết về họ, nhà văn luôn thể hiện lòng thương cảm với những
đọc cũng mong A Phủ và Mị chạy thoát khỏi nhà lý thống, gặp được ánh sáng của
đau khổ, bất hạnh của họ. Ông đồng tình với sự phản kháng và mở ra cho họ một lối
Cách mạng ở cuối đường.
thoát. Qua đây, chúng ta cũng thấy nhà văn có sở trường quan sát nhạy bén và khả
năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính của con người. Đó là hai yếu tố giúp nhà
văn xây dựng nhân vật A Phủ đơn sơ mà đặc sắc.
Khi miêu tả nhân vật A Phủ, nhà văn miêu tả qua những hành động khi bị
đánh đập, để thấy được sức sống kiên cường của anh. Số phận của nhân vật A Phủ
cũng giống như số phận của bao người dân miền núi khác, như Mị. Họ đã phải luôn III. TỔNG KẾT
đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng. Nhưng họ 1. Về nội dung
đã đấu tranh để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình. Nhân vật A
Phủ đã được khắc họa thành công, sở trường quan sát nhạy bén và khả năng thiên - Qua tác phẩm, tác giả lên án bọn thực dân, chúa đất độc ác dã man tàn
phú trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố giúp nhà văn dựng được một bạo; bày tỏ sự cảm thông thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân nghèo miền núi và
hình tượng đặc sắc chỉ bằng mấy nét đơn sơ. Thông qua nhân vật A Phủ, giá trị hiện khẳng định sức sống ngoan cường, khát vọng tự do tiềm tàng ở người lao động.
thực và nhân đạo của tác phẩm càng đậm nét. - Qua tác phẩm, nhà văn còn phản ánh quá trình đấu tranh từ tự phát đến
c) Sự thống nhất hai tính cách trong con người A Phủ: phản kháng và tự giác, chỉ ra con đường đấu tranh để giải phóng của người dân miền núi dưới ách
cam chịu áp bức của bọn thực dân phong kiến.
2. Về nghệ thuật
Khi đọc "Vợ chồng A Phủ", có những ý kiến băn khoăn, A Phủ có tính
- Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với
cách tự do, ngang bướng luôn phản kháng mỗi khi không chịu nổi điều gì nhưng tại
những nét riêng (cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian,
sao: Sau khi bị đánh đập, xử tội phải ở nợ cho nhà thống lí, A Phủ vẫn tự tay cầm
tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề...).
dao, lê bước chân tập tễnh của mình đi giết lợn phục dịch chính những kẻ đã hành
hạ, đánh đập, biến mình thành con nợ? Sao khi để hổ vồ mất một con bò, A Phủ cãi - Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh
lại thống lí nhưng vẫn tự mình phải vác cọc, đóc cọc, mang dây mây đến cho tên ác thấm đượm chất thơ.
bá trói mình vào đó?
- Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn. Truyện có kết cấu,
bố cục chặt chẽ, hợp lí; dẫn dắt những tình tiết đan xen, kết hợp một cách khéo léo,
Những chi tiết ấy có gì mâu thuẫn với tính cách của một con người vốn tạo sức lôi cuốn.
mãnh liệt, can trường? Điều đó cũng dễ hiểu, nhà văn Tô Hoài quả là một tay bút già
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng rất thành công. Mỗi nhân vật được
dặn, ông đã nhìn rõ hai mặt đối lập ấy trong một con người: mâu thuẫn mà thống
sử dụng bút pháp khác nhau để khắc họa tính cách khác nhau trong khi họ có số
nhất. Một con người cường tráng, bất khuất và một con người thân phận tôi đòi đều
phận giống nhau. Tác giả tả ngoại hình, tả tâm lí với dòng kí ức chập chờn, những
có trong A Phủ. A Phủ đánh con quan vì không chịu được điều vô lí, A Phủ phải giết
suy nghĩ thầm lặng để khắc họa nỗi đau khổ và sức sống của Mị, còn A Phủ thì tả
lợn cho kẻ đã áp bức mình ăn, phải đóng cọc lấy dây trói cho chính mình vì thân cô
ngoại hình, hành động và những mẩu đối thoại ngắn để thấy tính cách giản đơn.
thế cô không thể nào khác được. A Phủ không tự mình bỏ trốn khi chỉ có một mình
rong ruổi cùng đàn trâu ngựa ngoài nương rừng, gò bãi vì cam phận. Cũng như Mị, - Ngôn ngữ tinh tế mang đậm màu sắc miền núi. Giọng điệu trần thuật có
sau khi bố chết, Mị có thể ăn lá ngón để giải thoát nhưng "ở lâu trong cái khổMị quen sự pha trộn giữa giọng người kể với giọng nhân vật nên tạo ra chất trữ tình.
rồi". Vì ai trong cái nhà này, sống trên đất Hồng Ngài này cũng thế cả thôi. Đó là sự
cam chịu, cam phận của người nông dân trên các vùng núi cao khi ánh sáng của
Đảng chưa đến được với họ. Họ chưa được giác ngộ, chưa có những người cùng 3. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"
khổ cùng kết lại thành sức mạnh chống lại cường quyền. Vì thế có ý kiến cho rằng: A
Nhà văn Tô Hoài từng chia sẻ: "Đất nước và người miền Tây đã để
thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên… Hình ảnh Tây Bắc đau cô Mị của chúng ta đã thật sự không còn sức mạnh để chống cự lại điều gì. Nếu xem
thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí giá trị hiện thực của một tác phẩm là phản ánh chân thực cuộc sống thì "Vợ chồng A
tôi", bởi vậy mà tác phẩm "Truyện Tây Bắc" nói chung và đoạn trích "Vợ chồng A Phủ" là bản cáo trạng hùng hồn về người phụ nữ miền núi, vừa chịu gánh nặng của
Phủ" nói riêng như một món nợ lòng mà nhà văn dành cho Tây Bắc, dành cho con phong kiến miền núi, vừa bị chói chặt trong xiềng xích của thần quyền.
người nơi đây. Tác phẩm không chỉ là một trong những đỉnh cao trong sự nghiệp
sáng tác của Tô Hoài, không chỉ thể hiện sở trường của ông trong ngòi bút viết về Nhà văn đã sử dụng những chi tiết rất sinh động, mang giá trị bóc trần
mảng đề tài miền núi mà còn làm sáng lên khả năng nắm bắt, miêu tả đầy tinh tế quá bản chất xã hội vô nhân đạo đạt đến mức đỉnh điểm. Ở đó thân phận những con
trình diễn biến tâm lí nhân vật, từ đó đưa tác phẩm lên đỉnh cao văn chương, trở người lao động mới mong manh làm sao! Ta sao có thể làm ngơ trước hình ảnh cô
thành một sáng tác xuất sắc của nền văn nghệ kháng chiến nước nhà. gái trẻ đẹp ngồi quay sợi trước cửa nhà bên cạnh tảng đá và cái tàu ngựa, hình ảnh
Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc dài 8 tháng, ghi dấu cô Mị lặng lẽ ngồi hơ lửa trong những đêm đông buốt giá, ngay cả khi sức sống tiềm
sự trưởng thành của ngòi bút Tô Hoài trong sự chiếm lĩnh mảng đề tài miền núi, tàng của người con gái trỗi dậy mãnh liệt nhất, Mị muốn đi chơi nhưng chồng cô đi
mảng đề tài tới nay vẫn còn nhiều mới lạ với bạn đọc. Tác phẩm được tổ chức chặt chơi về khuya đánh Mị ngã dúi xuống đất và trói đứng cô vào cột nhà trong buồng
chẽ, rất sinh động và tự nhiên, không cần những nút thắt quá biến động những vấn tối. Sự bất lực của Mị chảy ra theo dòng nước mắt mặn chát, những giọt nước mắt
thu hút được bạn đọc là bởi tác giả đã có cái nhìn hiện thực sắc bén. Nhà văn Nga Mị không có cách gì lau đi được. Những chi tiết ấy làm cho câu chuyện được nới
Sê-khốp nói: "Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ". rộng thêm, sinh động thêm.
Thông qua lăng kính đầy tình yêu thương, lòng nhân ái, tác giả đã thể hiện được chủ
nghĩa nhân đạo tích cực, mới mẻ chưa từng có trên diễn đàn văn chương Việt Nam. Sự xuất hiện của A Phủ đã tạo thêm tình huống để hoàn chỉnh bức tranh
Được thể hiện thông qua cuộc đời, số phận 2 nhân vật Mị và A Phủ. Hai nhân vật đó. Cuộc đời nô lệ của A Phủ cũng chính là sự lặp đi lặp lại những bi kịch như chính
trung tâm từ trong bóng tối đau khổ, ô nhục đã vươn ra ánh sáng của hạnh phúc, tự cuộc đời Mị. Lí do mà thống lí Pá Tra buộc A Phủ trở thành nô lệ không công thực
do. chất cũng không phải hẳn do cuộc ẩu đả với trai làng, ở đây nói lên một thực trạng
đáng buồn lúc bấy giờ khi quan lại quá lợi dụng quyền lực của mình, pháp luật không
a) Giá trị hiện thực có quyền định đoạt. Vậy nên mới xuất hiện cảnh xử kiện quái gở nhất trên đời mà
chúng ta được chứng kiến tại nhà thống lí. Kết quả là người con trai khỏe mạnh vì lẽ
Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã miêu tả chân thực số phận nô lệ cực công bằng mà phải đem cuộc đời mình đi trả nợ oan. Cảnh ngộ của Mị và A Phủ ít
khổ của người dân lao động nghèo Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền nhiều đã gợi cho chúng ta liên tưởng đến cuộc đời của Chí Phèo, chị Dậu,… là
phong kiến miền núi qua việc khắc hoạ hai số phận bất hạnh tiêu biểu là Mị và A những hình tượng nghệ thuật được đúc kết từ chính cuộc đời đau khổ trong xã hội
Phủ. cũ.

Mị là một cô gái xinh đẹp, nết na, có tài thổi lá hay như thổi sáo, được Nhưng, nếu chỉ dừng lại ở việc phân tích giá trị hiện thực, nhân đạo dưới
nhiều người yêu mến, theo đuổi, lẽ ra cô phải được sống một cuộc sống tự do, hạnh khía cạnh phơi bày, tố cáo, lên án, phê phán qua cảnh ngộ bi thảm của hai nhân vật
phúc, thì trái lại Mị lại khổ từ trong trứng nước. Bố mẹ nghèo, cưới nhau không có thì chưa đủ. Nhiều tác phẩm hiện thực phê phán xuất sắc vẫn bị xem là có hạn chế
tiền, phải vay nợ nhà thống lí 100 đồng bạc trắng, đến khi mẹ Mị mất, cha Mị đã già, trong tầm nhìn khi chỉ thương xót mà không tìm được lối ra cho nhân vật của mình.
số nợ ấy vẫn chưa trả được. Thống lí Pá Tra muốn Mị làm con dâu gạt nợ. Lợi dụng Giá trị hiện thực lúc ấy chưa được toàn vẹn. Tô Hoài, trong khi đào sâu vào hiện
tục lệ cướp vợ của người Mèo, cho cướp Mị về. Vậy là không cần cưới hỏi, không thực đã tìm ra tất yếu con đường mà ông dành cho nhân vật của mình. Sự đè nén
cần tình yêu vẫn là hợp lẽ. Đáng nói ở đây, chúng bắt Mị về để cúng trình ma nhà quá nặng nề, những đau khổ chồng chất mà bọn thống trị gây ra sẽ dồn tới sự phản
thống lí, Mị sẽ chết rũ ở trong cái nhà này, sống không bằng chết. "Con ma nhà kháng tất yếu. Và nếu gặp được ánh sáng soi đường, họ sẽ đến được thắng lợi. Nhà
thống lí" là một nỗi ám ảnh suốt cuộc đời Mị, bọn phong kiến đã cao tay đến mức văn cũng là một người đã được lí tưởng của cách mạng soi đường, giác ngộ lí
"ngu dân" để dễ trị. Chẳng ai dám lên tiếng bênh vực cô Mị xinh đẹp, nết na, vậy mà tưởng cách mạng một cách nhanh chóng nên chính ông đã có con đường riêng cho
Tô Hoài đã phanh trần bản chất bóc lột ẩn sau những phong tục, tập quán. Mị sống sự giác ngộ chân chính ấy. Với sở trường xấy dựng nhân vật bằng cách miêu tả tâm
cuộc sống địa ngục trần gian, bị bóc lột như nô lệ, thứ nô lệ người ta không phải mua lí nhân vật, Tô Hoài tìm ra logic của sự phát triển tính cách, và đã tạo ra một giá trị
mà vẫn có quyền hành hạ. Dần dần Mị cũng quên luôn cả việc mình là người. Kết hiện thực vô cùng mới mẻ, độc đáo cho tác phẩm và nó mang sức thuyết phục cao
quả trong hoàn cảnh sống tù túng ấy thật chua xót "ở lâu trong cái khổ, Mị khổ quen nhất. Tô Hoài chỉ ra quá trình tha hóa nhân cách của nhân vật Mị thời kì đầu, Mị làm
rồi" cố nhẫn nhục để rồi tê liệt về ý thức, chai lì về cảm xúc… Nỗi khổ nhục của Mị việc nhiều quá, bị đày đọa khổ sở quá, mãi rồi cũng thành quen, rồi cam chịu. Mị
thật đã có thể so sánh với bi kịch cuộc đời Chí Phèo khi "Đánh mất cả nhân tính lẫn không còn muốn ăn lá ngón để tự tử nữa, Mị như một cái máy, không cảm xúc,
nhân hình", Chí Phèo đôi khi còn có thể nghênh ngang, dọa nạt người khác, nhưng không ước ao… Liệu rằng cô ấy có thể thức tỉnh nữa không? Câu trả lời giăng mắc,
ám ảnh trong tâm trí bạn đọc để rồi chính tác giả đã trả lời câu hỏi ấy "Có". Nếu đã
có một hoàn cảnh tha hóa con người Mị thì tất yếu cũng sẽ có một hoàn cảnh mang Ngoài ra, giá trị hiện thực của truyện còn được gia tăng bằng màu sắc địa
Mị trở lại, khôi phục sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong người con gái này. Đó là phương rất đậm nét với cảnh sắc, phong tục, sinh hoạt của người Mèo, bản sắc tâm
tiếng sáo Mị chợt nghe được trong một đêm mùa xuân đầy hương sắc. Tất cả như hồn độc đáo của các nhân vật. Cùng một số phận, một cảnh ngộ nhưng diễn biến
sống lại, Mị có khái niệm trở lại về thời gian, Mị thấy lòng mình "thiết tha bồi hồi" và tâm lí của Mị rất khác A Phủ. Nếu A Phủ mạnh mẽ, bộc trực, dứt khoát thì Mị dường
lập tức sống lại quãng đời niên thiếu tươi đẹp. Tiếng sáo gọi bạn yêu khơi dậy trong như chín chắn nhưng lại yếu đuối hơn.
Mị ao ước, khát khao về hạnh phúc, tình yêu còn dang dở. Tiếng sáo lay động sức
mạnh bền vững nhất, Mị thấy rằng "mình vẫn còn trẻ lắm" rằng "bao nhiêu người có b) Giá trị nhân đạo
chồng vẫn đi chơi xuân". Để rồi những suy nghĩ chực chờ bung ra thành hành động.
"Mị lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát". Rồi say, Mị lịm mặt ngồi trước nhà, ngọn Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm văn học bắt nguồn từ truyền thống
lửa của sức sống tiềm tàng đang cháy hừng hực. Mị quả quyết thay váy áo để đi nhân đạo của người Việt Nam. Chủ nghĩa nhân đạo là sợi chỉ hồng xuyên suốt quá
chơi, điều mà bao năm nay Mị không nhớ tới. Đây là một bước ngoặt tâm lí trong trình lịch sử phát triển văn học, từ cội nguồn văn học dân gian đến văn học hiện đại.
cuộc đời Mị, và chính tác giả cũng đã dành sự ưu ái ấy cho nhân vật của mình dưới Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm rất phong phú, đa dạng: biểu hiện ở lòng
lăng kính nhân văn, nhân đạo. Sự trỗi dậy của Mị tuy bị A Sử dập tắt ngay sau đó, A thương người; lên án tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp lên con người; khẳng
Sử đánh Mị, trói đứng cô vào cột nhà, nhưng ý chí Mị lúc này đang ý thức về quyền định, đề cao con người về các mặt phẩm chất, tài năng, những khát vọng chính như
sống, về khát vọng tự do, hanh phúc. Mị lại biết khóc, những giọt nước mắt trong khát vọng về quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền tự do, về công lí, chính nghĩa; đề
khoảnh khắc tàn nhẫn này sẽ lưu giữ mãi như một vết thương trong lòng cô. cao những quan hệ đạo đức, đạo lí tốt đẹp giữa người với người.

Để rồi đến khi bắt gặp những dòng nước mắt chảy lấp lánh trên gò mà
Văn học từ Đông - Tây, kim cổ đều xem tư tưởng nhân đạo là linh hồn tác
hốc hác của A Phủ, nó đã biến thành sự đồng cảm giữa những người đồng cảnh
phẩm, là thước đo giá trị tác phẩm. Tư tưởng ấy, giá trị ấy được nhà văn thể hiện
ngộ. Toàn bộ ý thức phản kháng của Mị hiện lên trong một hình ảnh sáng rõ "Người
thông qua nhân vật chính, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Tô Hoài đã từng quan
kia việc gì phải chết?" Mị quyết định trong khoảnh khắc: cắt dây trói giải thoát cho A
niệm: "Nhân vật là trụ cột của sáng tác" là linh hồn tác phẩm để nhà văn thể hiện chủ
Phủ. Và tất nhiên, Mị cũng bỏ trốn để tự giải thoát cho mình. Hai kẻ bỏ trốn cảm
đề, tư tưởng, bộc lộ tình cảm, thái độ của nhà văn đối với cuộc đời, xã hội. Tô Hoài
thông nhau, dựa vào nhau để tạo lập hạnh phúc. Cuộc đời họ trở thành con đường đã thể hiện tư tưởng ấy qua các nhân vật của mình trong tác phẩm.
với hai bước ngoặt, kiếp sống nô lệ và chống trả kẻ thù. Chắc chắn, họ thà chết còn
hơn lại sống nô lệ, lầm than. Nhưng muốn chống lại kẻ thù, họ trông cậy vào ai?
Cách mạng đã đến với họ trong giây phút ấy. Mị và A Phủ đi theo ánh sáng của Khi nói về cuộc sống khổ đau, tối tăm của Mị và A Phủ, ẩn sâu trong
Đảng, thủy chung với Đảng là một lẽ tất yếu! Bằng sự am hiểu cuộc sống, phân tích ngòi bút là sự bênh vực và cảm thông sâu sắc của nhà văn.
vấn đề xã hội sâu sắc và miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, Tô Hoài đã tái hiện chân thật
và sinh động cuộc hành trình đau khổ, tối tăm ra phía ánh sáng cách mạng của Nhà văn xót xa khi miêu tả cuộc đời Mị lúc còn ở với cha mẹ là một cô gái
những người dân lao động miền núi, trong chế độ phong kiến. Ngoài ra đó còn là xinh đẹp, nết na, hiền thảo, có tâm hồn trong sáng và nhiều khát khao hạnh phúc.
nhận thức đúng đắn về con đường cách mạng cho bạn đọc. Đặc biệt Mị lại có tài thổi sáo, kèn lá vì thế có nhiều chàng trai say mê đêm về đứng
nhẵn cả đầu vách. Thế mà bỗng chốc, Mị trở thành con dâu gạt nợ nhưng thực chất
Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng chứa đựng thái độ của nhà văn với lại mang than phận nô lệ.
con người. Ngay giá trị hiện thực của tác phẩm, Tô Hoài đã để lại cái nhìn đầy sự ưu
ái. Khi cô đúc nỗi khổ của hai nhân vật dưới ý thức một bản cáo trạng đanh thép. Tô
Mấy tháng đầu, đêm nào Mị cũng khóc. Mị khóc vì ý thức được thân phận
Hoài gợi lên trong chúng ta sự đau xót, cảm thông. Giá trị hiện thực và giá trị nhân
của mình phải sống với người mình không yêu, phải làm việc quần quật suốt ngày
đạo trong tác phẩm gần như hòa trộn với nhau. Nhưng rõ ràng phải là một người biết
bên những tảng đá, tàu ngựa, con người khác gì đồ vật, con vật. Cuộc đời đâu còn
thông cảm, trân trọng và nâng niu con người mới có thể xét đoán tâm hồn người ta
những ngày phơi phới tự do, ngập tràn hạnh phúc trong những đám chơi ngày tết.
tinh tế như vậy. Nhà văn trước sau vẫn tin rằng hoàn cảnh dù có khắc nghiệt đến
Có lúc Mị định ăn lá ngón để quên đi những tháng ngày đẹp đẽ ấy. Nhưng chết thì ai
mấy, cũng không bao giờ có thể tiêu diệt hoàn toàn nhân tính con người. Mị đã sống
trả nợ thay cha, cha thì già rồi sao có thể cuốc nương trả nợ. Cuộc đời chỉ còn biết
lại bằng tuổi trẻ, bằng nỗi day dứt về thân phận của mình, bằng tình yêu thương,
ngày này tháng khác làm bạn với công việc, sống như kiếp trâu, kiếp ngựa, thậm chí
đồng cảm nhân hậu thông qua khát vọng sống mãnh liệt. Cả hai nhân vật đã đi đến
còn không bằng trâu ngựa. Con trâu, con ngựa làm có lúc, đêm còn được đứng gãi
con đường có ánh sáng của Đảng, thoát khỏi trốn địa ngục trần gian để làm lại cuộc
chân, nhai cỏ, còn đàn bà con gái trong cái nhà này thì làm việc cả đêm lẫn ngày,
đời như một con người.
nhà văn đã liên tưởng cuộc đời Mị với con rùa nuôi trong xó cửa, lùi lũi, câm lặng,
thân phận phụ thuộc như thể mà thôi.
Tô Hoài đã vạch trần bản chất phi lí, vô đạo của bọn thống trị khi xử tội A
Nhà văn xót xa khi tả nơi ở của Mị: "Một cái buồng Mị nằm kín mít, có một Phủ: "Mày đánh con quan làng, đáng lẽ làng xử mày tội chết, nhưng làng tha cho
chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, mày được sống, và nộp vạ…. một trăm bạc trắng. Mày không có…. thì tao cho mày
không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ mình cứ chỉ ngồi trong lỗ vuông ấy mà vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt
trông ra đến bao giờ chết thì thôi". Chi tiết gây ám ảnh về một nhà tù mà Mị là một tù mày ở làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao
nhân bị áp bức tới mức cạn khô nhựa sống. Ngày tết mọi người được đi chơi, nghỉ cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi".
ngơi nhưng Mị lại bị kìm hãm, bị trói vào cột thật dã man khiến tâm hồn Mị càng bị
rơi vào vô vọng. Song để sự vô vọng ấy không bị lùa đi đến tận cùng, Mị vẫn còn Thật nực cười, kẻ ngồi trên ghế quan tòa phán quyết lí đúng sai, lẽ công
một bếp lửa. Ngọn lửa đã sưởi ấm tâm hồn Mị mỗi khi mùa đông giá lạnh trở về. bằng lại chính là một tên kẻ cướp. Cái lí lẽ vay – trả với gia đình Mị và A Phủ đó
chẳng phải là cái lí của kẻ thống trị chuyên quyền, áp bức, cướp đoạt sức lao động,
Khi nói về A Phủ, nhà văn cũng thương cảm xót xa cho cuộc đời cậu bé quyền làm người của những người dân nô lệ? Sự tàn độc của cha con thống lí Pá
10 tuổi mồ côi bị người làng bán xuống vùng thấp lấy thóc ăn. Xót xa thương cảm khi Tra còn được tác giả thể hiện ở chi tiết: thống lí bắt chính A Phủ phải tự vác cộc,
A Phủ bị quỳ, bị đánh chửi suốt một ngày một đêm mà vẫn phải câm như thóc; phải đóng cọc, lấy dây mây để tự trói chính mình. Nếu không tìm được con hổ ăn con bò
cầm dao giết lợn để phục vụ chính kẻ đã hành hạ mình, xử mình thành ra nô lệ; phải thì A Phủ phải chết như con bò đã chết. Kiểu trói đứng con người cho đến khi người
vác cọc, đóng cọc để tự trói mình vào; phải khóc vì bị trói đau đớn, đói khát, bất lực ta phải chết dần vì đau, đói, rét là một kiểu tra tấn "gia truyền" của nhà thống lí đối
không thể làm gì được khi cái chết đã kề bên. với con dâu, người ở trong cái nhà này.

Viết về nỗi đau khổ, bất hạnh của Mị và A Phủ, ngòi bút nhà văn như có Nói về nỗi khổ đau của Mị và A Phủ cùng những hành động tàn độc, vô
nước mắt, ông đã gieo vào lòng người đọc một nỗi niềm thương cảm sâu xa trước đạo của cha con thống lí Pá Tra đại diện cho giai cấp thống trị ở miền núi, nhà văn
số phận con người. nhân danh quyền con người lên án, tố cáo tội ác của chúng đối với những người dân
vô tội. Những người hiền lành, chất phác lẽ ra họ phải được sống trong yên bình,
hạnh phúc.
Xây dựng hình tượng cha con thống lí Pá Tra, nhà văn lên án, tố cáo sự
tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi. Bọn chúng không chỉ hà hiếp, áp chế
dân lành mà còn tìm mọi thủ đoạn để thủ tiêu quyền tự do và ý chí phản kháng Nói về giá trị nhân đạo của tác phẩm, chỗ sâu sắc nhất trong tấm lòng
ở người lao động. nhân đạo của nhà văn là trân trọng khát vọng tự do, hạnh phúc và phẩm chất
tốt đẹp của người nông dân cùng khổ.

Ngay đầu tác phẩm, nhà văn đã cho người đọc thấy hai cảnh đối lập: Mị
ngồi quay sợi bên những tảng đá, tàu ngựa, mặt lúc nào cũng cuối xuống buồn rười Ngòi bút nhà văn từng bước rọi sâu khám phá vào miền thâm u của thế
rượi; một bên là cảnh nhà thống lí người ra vào tấp nập, nhà có nhiều nương, nhiều giới nội tâm nhân vật, ông hiểu tâm sự, nỗi niềm và khát vọng của họ.
bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Do đâu mà nhà thống lí giàu như thế? Do thống lí "
ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muốn về bán". Câu văn kể thản nhiên nhưng cũng Khi Mị nghe thống lí Pá Trá nói với bố mình: "Cho tao đứa con gái này về
phơi bày bản chất kẻ vừa làm tay sai cho đế quốc ngoại xâm, vừa là kẻ ức hiếp ngay làm dâu thì tao xóa hết nợ cho" thì ngay lập tức, Mị bảo bố rằng: "Con nay đã biết
chính dân mình. Câu chuyện hé mở cho người đọc vì sao Mị lại có mặt trong cái nhà cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con
giàu có nhất làng này? Vì sao Mị phải làm việc quần quật, bị đối xử như một nô lệ, cho nhà giàu". Vì sao Mị phản ứng như vậy? Vì Mị đã có người yêu, vì Mị không yêu
thậm chí không bằng kiếp trâu, kiếp ngựa? Vì Mị phải trả món nợ truyền thống của A Sử và biết nhà giàu như nhà thống lí thì thật đáng sợ.
cha mẹ để lại cho nhà thống lí.

Về nhà thống lí phải sống trong khổ cực, Mị mấy lần đã nghĩ đến cái chết.
Bên cạnh đó, xây dựng nhân vật A Phủ cũng là cách tác giả tô đậm thêm Nghĩ đến cái chết nghĩa là Mị phải sống trong giằng xé, thấu hiểu nỗi đời cay đắng bị
bức tranh hiện thực cuộc sống. Từ một đứa trẻ mồ côi, vô tội, A Phủ phải lang thang nhà giàu cướp đoạt tình yêu, hạnh phúc của mình. Nhưng nhà văn đã để ý nghĩ ấy
kiếm sống, lớn lên lại trở thành nô lệ nhà thống lí vì tội dám đánh lại con quan con chỉ thoáng qua vì sự sống là đáng trân trọng, dù thế nào con người cũng phải vượt
trời. qua, phải sống.
Sống câm lặng lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, nhưng nhà văn đã sự phản kháng chống lại thân phận. Mị bị A Sử đánh dập bên bếp lửa mà vẫn cứ
nhìn thấy sâu thẳm trong tâm hồn người con gái ấy vẫn hôi hổi một hòn than nóng dậy sưởi hàng đêm không hẳn là sự chai lì mà đó cũng là sự phản kháng. Mị định ăn
vùi dưới lớp tro tàn. Nó chỉ chờ cơ hội đến là bùng cháy lên những khát khao. Đêm lá ngón mấy lần cho chết đi cũng là sự phản kháng. Sự phản kháng dù là bột phát ra
tình mùa xuân trở về, tiếng sáo, tiếng kèn, tiếng reo hò của đám trai gái đầu làng… hành động hay âm ỉ trong lòng đều là sự dồn nén, tích tụ một tinh thần quyết liệt để
đã đánh thức trong Mị niềm yêu sống mà bấy lâu nay bị vùi lấp. Mị hát nhẩm theo đến đêm mùa đông, Mị có đủ sức mạnh trỗi dậy giải thoát kiếp tôi đòi.
tiếng sáo, Mị uống rượu...Mị thấy mình còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi…Tô Hoài đã
giành trang văn đẹp và thơ mộng nhất để diễn tả niềm yêu sống, khát vọng và sức Nhà văn đã miêu tả quá trình diễn biến nội tâm và hành động của nhân
sống mãnh liệt của tuổi trẻ. Ông làm sống lại không khí văn hóa ngày hội đẹp đẽ,
vật thật tự nhiên và sống động. Đó cũng là quy luật tất yếu của sự sống mà nhà văn
đắm say của người dân tộc và chuyển hóa thành đời sống nội tâm nhân vật. Ngòi
luôn đồng tình, ủng hộ và mở ra cho họ một hướng đi, một lối thoát.
bút nhà văn đẫ thâm nhập sâu sắc, diễn tả những biến thái tinh vi của nội tâm nhân
vật, hiểu thấu những đường nét quanh co, bí ẩn và đầy phức tạp của nó để nâng niu
con người khỏi bị rơi vào tuyệt vọng. Viết truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ", nhà văn Tô Hoài đã đổ biết bao công
sức để suy ngẫm làm sao cho tác phẩm của mình phải đạt đến chiều sâu của tư
tưởng nhân đạo. Muốn vậy, nhà văn phải đi, phải nhìn, phải nghe, phải suy ngẫm,
Đỉnh cao của sự nổi loạn chống lại thân phận trâu ngựa của Mị là đoạn "phải đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử" (Nguyễn Minh Châu) để
trong đêm mùa đông Mị đứng dậy giải thoát cho A Phủ và cả chính mình. Nhà văn
khám phá phẩm chất con người, để từ đó biết yêu thương, sẻ chia, trân trọng và
đã tạo điều kiện, tạo tình huống để nhân vật có cơ hội giải thoát. Đó chính là tình
đồng tình với những khát vọng của họ, hướng họ đi vào con đường đúng đắn. Đó là
huống A Phủ đánh mất bò, bị trói đã mấy ngày đêm, dòng nước mắt bất lực của con
tấm lòng của một nhà văn lớn luôn đứng về phía con người cùng khổ để sống và để
người vốn đầy sức mạnh và sống rất tự do chẳng lẽ lại bị chết một cách thương tâm.
viết.
Chính điều đó đã thức tỉnh lòng trắc ẩn trong Mị, Mị thấy "chúng nó thật độc ác" và
tình thương người như thể thương thân, đẩy Mị đến hành động quyết liệt cắt dây trói
cứu A Phủ. Hành động quyết liệt ất cũng là hành động cắt đứt tất cả những khổ đau,
kìm kẹp, trói buộc họ trong suốt bao năm qua ở cái nhà tàn độc này. Họ thực sự
được giải phóng như cánh chim kia được tháo cũi xổ lồng bay lên bầu trời cao rộng.

Nhà văn không chỉ trân trọng khát vọng tự do của Mị và A Phủ mà còn
đồng tình với tinh thần phản kháng, đấu tranh của họ vạch ra cho họ con
đường giải phóng.

A Phủ mồ côi cha mẹ lúc mười tuổi bị người ta bán xuống vùng thấp
nhưng A Phủ không chịu, trốn về vùng cao kiếm sống thể hiện sự phản kháng mạnh
mẽ với số phận. Khi A Phủ đánh con quan vì nó phá đám cuộc chơi của bạn bè. Nhà
văn như đồng tình, hả hê miêu tả những hành động của A Phủ: ném con quay rất to
vào mặt A Sử, con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt. A Phủ xộc tới, nắm cái vòng cổ,
kéo dập đầu xuống, xé vai áo đánh tới tấp.

Khi con bò bị hổ ăn thịt, A Phủ không sợ sự uy hiếp của thống lí mà cãi lại
đòi cho đi bắt con hổ đền vào con bò đã mất. Khi được Mị cắt dây trói, A Phủ vùng
lên quật sức còn lại để cố thoát ra khỏi địa ngục tối tăm, khổ đau. Tất cả những hành
động của A Phủ đều thể hiện tinh thần phản kháng của con người bị áp bức. Nó là
sức mạnh, là tiền đề để sau này A Phủ trở thành du kích, trở về giải phóng quê
hương.

Còn với nhân vật Mị, Mị muốn đi chơi trong đêm tình mùa xuân, Mị thắp
đèn chuẩn bị váy áo chẳng cần biết A Sử ở đó và hỏi gì, đó là khát vọng và cũng là

You might also like