You are on page 1of 8

Thạch Lam - một nét văn êm ả

Mưa trên sông phơi phới, cỏ trên sông thắm tươi


Sáu triều vua như giấc mộng, chim bâng khuâng hót
Chỉ vô tình bậc nhất là liễu ở Đài Thành
Vẫn y nguyên trong bóng khói của dải đê mười dặm.
Văn xuôi Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX đã cho ra đời ba nhà văn kiệt xuất mà tôi nguỡng
mộ cả đời: ấy là Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, và Thạch Lam. Văn Vũ Trọng Phụng
gào thét và đau đớn, Nguyễn Tuân thì kiêu bạc mà sang trọng, chỉ có Thạch Lam tinh tế,
thanh đạm, nhẹ nhàng như bước chuyển của tâm hồn Việt Nam trong sáng, giản dị trên
những trang văn tuyệt bích.
Thưa các bạn độc giả, Thạch Lam trong tôi là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của
nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Tác phẩm của ông không hấp dẫn bạn đọc
bằng những chi tiết xung đột gay cấn, mà gây xúc động độc giả bằng lối kể chuyện tâm
tình, tâm sự về những cảnh đời, cảnh sống tối tăm, tù túng, tội nghiệp. Hôm nay, tôi
muốn kể cho các bạn về Thạch Lam - nhà văn kì diệu có thể làm mọi nỗi khổ đau trở nên
dịu dàng.

Cuộc đời ngắn ngủi mà cao đẹp


Thạch Lam (1910-1942) là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng thuộc nhóm Tự Lực văn
đoàn. Ông cũng là em ruột của 2 nhà văn khác nổi tiếng trong nhóm Tự Lực văn
đoàn là Nhất Linh và Hoàng Đạo. Ngoài bút danh Thạch Lam, ông còn có các bút danh
là Việt Sinh, Thiện Sỹ.
Thạch Lam sinh ra tại Hà Nội trong một gia đình công chức gốc quan lại, thuở nhỏ chủ
yếu sống ở quê ngoại, phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Thạch Lam là người con
thứ 6 trong gia đình 7 người con (6 trai, 1 gái). Nguyên tên ban đầu của ông do cha mẹ
đặt là Nguyễn Tường Vinh. Đến năm Thạch Lam 15 tuổi, thấy mình học chậm, cần tăng
thêm tuổi để học "nhảy" 4 năm, ông làm lại khai sinh, thành Nguyễn Tường Lân.
Cha là Nguyễn Tường Nhu thông thạo chữ Hán và chữ Pháp, làm Thông phán Tòa sứ,
thường được gọi là Thông Nhu hay Phán Nhu. Mẹ là bà Lê Thị Sâm, là con gái đầu lòng
cụ Lê Quang Thuật (tục gọi Quản Thuật), người gốc Huế đã ba đời ra Bắc, làm quan võ ở
huyện Cẩm Giàng.
Thủa nhỏ ông học trường sơ học Cẩm Giàng tới 14 tuổi. 15 tuổi, đỗ bằng cơ thủy, xin
tăng 4 tuổi để được vào học ban thành chung. Ðỗ bằng Thành Chung năm16 tuổi, sau đó,
vào học trường canh nông, được một năm, xin thôi, vào học trường Albert Sarraut.
Khi đã đỗ Tú tài phần thứ nhất, Thạch Lam thôi học để làm báo với hai anh. Buổi đầu,
ông gia nhập Tự Lực văn đoàn do anh là Nguyễn Tường Tam sáng lập, rồi được phân
công lo việc biên tập tuần báo Phong hóa và tờ Ngày nay của bút nhóm này. Đến tháng
2 năm 1935, thì ông được giao làm Chủ bút tờ Ngày nay.
Năm 1935, Thạch Lam lấy vợ là bà Nguyễn Thị Sáu, người Ninh Bình. Theo hồi ức của
bà Nguyễn Thị Thế thì bản tính Thạch Lam "ưa tĩnh mịch nên khi có con, vú em được
lệnh cấm không được ru và cũng cấm không được để nó khóc. Ngoài cổng, có khi chú
còn cho treo một cái biển đề: "Ai hỏi gì xin lên tòa soạn". Và bà Thế kết luận, những
tháng ngày cuối đời, Thạch Lam "khó tính đến nỗi hầu như chỉ có thím là chiều chuộng
được chú, còn tôi và mẹ tôi cũng đành chịu".
Tuy chỉ là một mái tranh vách đất, thế nhưng "nhà cây liễu" là nơithường lui tới của các
văn nghệ sĩ. Ngoài các thành viên trong Tự Lực văn đoàn, còn có: Thế Lữ, Vũ
Hoàng,Đinh Hùng, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Tuân, Huyền Kiêu, Nguyễn Xuân
Khoát...
Theo những gì mà người thân của Thạch Lam kể lại, mặc dù cao tới 1m70 nhưng ông
thuộc dạng thể chất yếu. Vì thế mà ông rất năng chơi thể thao và có thời kỳ, ông cùng
người anh rể tương lai tên gọi Nguyễn Kim Hoàn đi học võ nghệ.
Một tuổi thơ nhọc nhằn cộng với cuộc sống lao lực vì miếng cơm manh áo đã làm Thạch
Lam sớm mắc căn bệnh lao phổi, một căn bệnh nan y thời bấy giờ. Ông mất tại "nhà cây
liễu" vào ngày 27 tháng 6 năm 1942, lúc mới 32 tuổi, khi đang còn trong độ tuổi rực rỡ
trên văn đàn.
Ông ra đi để lại người vợ trẻ cùng với ba đứa con thơ trong cảnh nghèo. Gia đình đã an
táng ông nơi nghĩa trang Hợp Thiện, nay thuộc quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội.

Cây bút trữ tình tài hoa


Thạch Lam khác với những người cùng thời, kể cả các anh. Trong khi mọi người thi nhau
viết tiểu thuyết luận đề, hoặc hiện thực xã hội, với những mục đích chính xác: lên án xã
hội hoặc cổ vũ quần chúng theo con đường mới. Thạch Lam cũng muốn "tố cáo và thay
đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác" đấy, như ông viết trong "Lời nói đầu" tập Gió đầu
mùa, nhưng Thạch Lam không cải thiện, giáo huấn mà ông nhờ thiên nhiên, nhờ tình
cờ nói hộ để gián tiếp "gơị ý" cho ta biết chỉ một "sự" cỏn con như vậy cũng có thể thay
đổi định mệnh con người; ta có thể sống cao hơn, nhân ái hơn, tại sao không nghĩ ra? Và
tất cả chỉ chênh vênh trên một "sợi tóc", ai cũng có thể "làm nên" hay "làm xuống" những
truyện tầy đình. Từ chối chỉ đạo mà chỉ gợi ý, Thạch Lam đã làm công việc của một nhà
thơ trong văn và ông coi ngẫu nhiên như một tất yếu của cuộc sống. Ông tìm đến một
phong cách hoàn toàn khác - giản dị và trong trẻo, để rồi những đóng góp về nghệ thuật
ngôn ngữ của ông được nhắc đến khá nhiều và có ảnh hưởng sâu đậm trong quá trình
hiện đại hóa nền văn học dân tộc.
Tác phẩm đầu tay Gió đầu mùa  tuy được độc giả hoan nghênh, nhưng sách của Thạch
Lam tương đối vẫn bán chậm nhất trong Tự Lực văn đoàn. Tập tiểu luận Theo
giòng chứng tỏ Thạch Lam có một quan niệm rõ ràng về sáng tác và một lý luận văn học
chặt chẽ.
Những tác phẩm đã in của ông gồm Gió đầu mùa, truyện ngắn, Ðời Nay, Hà nội,
1937. Nắng trong vườn, truyện ngắn, Ðời Nay, Hà nội, 1938. Ngày mới, truyện dài, Ðời
Nay, Hà Nội, 1939. Theo giòng, tiểu luận văn học, Ðời Nay, Hà Nội, 1941. Sợi tóc,
truyện ngắn, Ðời Nay, Hà Nội, 1942. Hà Nội băm sáu phố phường, Ðời Nay, Hà Nội,
1943.
Theo báo Thanh Nghị (số 17, ra ngày 16-7-1942), Thạch Lam còn để lại hai tác phẩm
khác, nhan đề Huyền và Thập niên đăng hỏa. Theo Ðỗ Ðức Thu, Thạch Lam muốn
viết Thập niên đăng hỏa "Mười năm đèn lửa" nhưng cái chết đến quá sớm. Ðinh Hùng
cũng nhắc đến thời kỳ thập niên đăng hoả: "Anh sẽ viết Thập niên đăng hoả, một thiên ký
kể lại thời kỳ suốt mười năm anh dan díu với ả phù dung. Hiện anh đã ly dị cùng ả rồi,
nhưng "mười năm đèn lửa biết bao nhiêu tình"? (xem bài Ðỗ Ðức Thu, Ðinh Hùng, trên
Thế Kỷ 21, số này). Theo Tú Mỡ, Thạch Lam có viết kịch. Trong Từ điển văn học, Hà
Nội, 1984, Nguyễn Hoành Khung nhắc đến tuỳ bút "Nghệ thuật ăn Tết", bên cạnh "Hà
Nội băm sáu phố phường".
Khi Ðời Nay, cho in Hà Nội băm sáu phố phường, có hứa ở trang đầu: "Chúng tôi sẽ còn
sưu tầm văn phẩm về đủ các loại của Thạch Lam để in ra Thạch Lam văn phẩm toàn tập.
Tập Hà Nội băm sáu phố phường này là bước đầu trong công việc ấy". Tiếc rằng Ðời
Nay đã không tiếp tục công việc sưu tầm văn bản của Thạch Lam, và ngày nay trở thành
công việc của chúng ta.
Có thể nói, những sáng tác của nhà văn Thạch Lam khá khiêm tốn về số lượng bởi cuộc
đời của một nhà văn tài hoa quá ngắn ngủi, nhưng những gì ông để lại không phải là số
lượng đồ sộ của những tác phẩm lớn mà là một phong cách nghệ thuật độc đáo.
Ngôn ngữ của ông rất đặc biệt, giản dị mà làm say đắm lòng người. Những tác phẩm của
ông không gân guốc, nhưng thâm trầm và kín đáo. Mỗi truyện ngắn của nhà văn Thạch
Lam như một bài thơ hàm súc, cô đọng với một dư ba vang vọng. Ở đó, “cái ngữ điệu
nhỏ nhẹ và man mác thi vị, những cảm xúc tinh tế của một tâm hồn dễ rung động” đã làm
nên một phong cách ngôn ngữ rất riêng, độc đáo và đặc sắc. Nghệ thuật ngôn ngữ của
Thạch Lam khá thanh thoát nhưng không hề sáo rỗng mà vẫn toát lên vẻ bình dị hiếm có.
Sinh thời, nhà văn Nhất Linh và nhiều người khác đều cho rằng Thạch Lam viết hay hơn
cả trong Tự lực văn đoàn. Năm 1937, khi tập truyện ngắn “Gió đầu mùa” của Thạch Lam
xuất bản, Khái Hưng là người đầu tiên nhận ra Thạch Lam là nhà văn của cảm giác. Đến
năm 1943, khi viết lời Tựa cho tập tùy bút “Hà Nội băm sáu phố phường” chính Khái
Hưng cũng là người đầu tiên phát hiện: “Thạch Lam thực sự là một nghệ sĩ, một thi sĩ về
khoa thẩm vị”. Ngôn ngữ trần thuật của Thạch Lam luôn hướng tới vẻ đẹp của đời sống
hàng ngày. Nó tránh xa sự chau chuốt và bác học của ngôn ngữ văn chương trung đại.
Ông tìm đến với lối văn giản dị, gọi đúng tên những sự vật, hiện tượng, không tránh né
với những lời ăn tiếng nói của đời sống hàng ngày được đi vào trong trang văn Thạch
Lam một cách tự nhiên: “Khốn nạn cho Dung, từ bé đến nay không phải làm công việc
nặng nhọc, bây giờ tát nước, nhổ cỏ, làm lụng đầu tắt mặt tối suốt ngày” trong tác phẩm
“Hai lần chết”.
Ngôn ngữ miêu tả của Thạch Lam cũng khá chân thực nhưng đầy chất thơ. Đó là thứ
ngôn ngữ như những sợi tơ giăng mắc vào không gian. Những câu văn ngắn dài theo
mạch cảm xúc, những hình ảnh thân thuộc được thi vị hóa “Chiều, chiều rồi. Một buổi
chiều êm ả như ru văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa
vào” trong “Hai đứa trẻ”.
Thạch Lam luôn tâm niệm: “Văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc
sự thoát ly hay sự quên…, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực làm cho
lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Đó có thể coi là "Tuyên ngôn văn học" của Thạch Lam. Quả thật, trong toàn bộ gia tài
sáng tạo của ông, hầu như không một trang viết nào lại không thắm đượm tinh thần đó.
Thạch Lam đã hướng ngòi bút về phía lớp người lao động bần cùng trong xã hội đương
thời. Khung cảnh thường thấy trong truyện ngắn Thạch Lam là những làng quê bùn lầy
nước đọng, những phố chợ tồi tàn với một bầu trời ảm đạm, những khu phố ngoại ô
nghèo khổ, buồn, vắng...
Trong khung cảnh ấy, các nhân vật cũng hiện lên với cái vẻ heo hút, thảm đạm của số
kiếp lầm than - Đó là mẹ Lê, người đàn bà nghèo khổ, đông con, góa bụa ở phố chợ Đoàn
Thôn; là bác Dư phu xe ở phố Hàng Bột; là Thanh, Nga với bà nội và cây hoàng lan trong
một làng quê vùng ngoại ô; là cô Tâm hàng xén với lối đường quê quen thuộc trong buổi
hoàng hôn...
Tất cả những cảnh, những người ấy đều được mô tả bằng một số đường nét đơn sơ, thưa
thoáng nhưng vẫn hết sức chân thực. Tác phẩm của Thạch Lam vì thế có nhiều yếu tố
hiện thực, tuy nhân vật không dữ dội như Chí Phèo, lão Hạc của Nam Cao, hay bị đày
đọa như chị Dậu của Ngô Tất Tố... Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam chính
là ở lòng nhân ái và vẻ đẹp tâm hồn quán xuyến trong mọi tác phẩm của ông.
Nhân vật Thạch Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân
ái Việt Nam. Thạch Lam đôi khi còn đặt nhân vật của mình vào vùng ranh giới tranh
chấp giữa cái thiện và cái ác, để rồi tự bản thân con người bằng việc thức tỉnh của lương
tri, của phẩm giá, xác lập chỗ đứng tốt đẹp cho mình trong cuộc sống đầy bùn nhơ của xã
hội cũ. Đó là trường hợp của nhân vật Thanh trong truyện ngắn “Một cơn giận” hoặc
Thành trong truyện ngắn “Sợi tóc”.
Ai cũng biết đến Thạch Lam với những truyện ngắn giàu tính nhân văn, nhưng ông còn là
một người nghệ sĩ thanh lịch và lãng tử của đất Hà thành. Hãy nghe ông biện giải về đất
và người chốn văn vật, để thấy rõ ân tình mà Thạch Lam dành cho Hà Nội sâu nặng biết
bao:
“Người Pháp có Paris, người Anh có London, người Tàu có Thượng Hải… Trong các
sách vở, trên các báo chí, họ nói đến thành phố của họ một cách tha thiết, mến yêu…
Chúng ta cũng có Hà Nội, một thành phố có rất nhiều vẻ đẹp, vì Hà Nội đẹp thật (chúng
ta chỉ còn tìm những vẻ đẹp ấy ra), và cũng vì chúng ta yêu mến”.
Với “Hà Nội băm sáu phố phường”, Thạch Lam như dắt tay người đọc rong ruổi qua
từng con phố của Hà Nội xưa, cùng ngắm và say cái hào hoa, cái phong nhã của con
người và sản vật Hà thành. Hai mươi mốt bài kí nhỏ như hai mươi mốt bức họa đầy hoài
niệm, dựng nên hình bóng Hà Nội xưa. Ta sẽ bắt gặp nhiều cảnh đời qua những mẩu
chuyện ngắn hết sức xúc động. Qua những trang viết của ông, người đọc còn nhận ra
rằng, đằng sau một Hà Nội phồn hoa vẫn còn có một Hà Nội tĩnh lặng chứa bao nỗi lo
toan của những mảnh đời nhọc nhằn cơ cực.
Tất cả những món quà Hà Nội, từ bánh tây, bánh cuốn, xôi lúa, cơm nắm, tiết canh, lòng
lợn, phở, bún ốc, miến lươn, bún chả, bánh giầy giò, bánh ít, cốm, bánh cốm, bánh xu
xê... đến những món quà Tàu như phán sì thoòng, chí mà phù, mìn páo, súi ìn, sa cốc
màng... dưới ngòi bút Thạch Lam, mỗi món đều tỏa ra một không gian văn hóa, quây
quanh người bán, người ăn, người làm món ăn, thức ăn, khung cảnh và cả thời gian đã
trôi qua trên bước đi của món ăn ấy từ xưa đến nay. Ông tạo không khí tương giao giữa
những linh hồn đã làm thành khung cảnh văn hóa đó, thành một Hà Nội riêng, và mỗi lần
ghé lại chốn ấy của Thạch Lam qua tiếng rao bánh giầy giò, chúng ta thấy lại không gian
văn hóa của tất cả những nơi còn giữ được chất thiêng của kiếp người trên hương vị các
món.
Thạch Lam đẹp thật, đẹp như con chữ yên ả dưới ngòi bút của ông, nhưng đời ông ngắn
quá. Mỗi lần lắng nghe hồi ức của Nguyễn Tường Giang - đứa con út của Thạch Lam –
nói về bố, tôi lại thấy xót xa:“Mẹ tôi thường kể rằng, cha tôi yêu hoa cẩm chướng, viết
văn thật sớm vào buổi sáng, dạy học thêm một tuần đôi ba giờ, đến tờ báo vào những giờ
đẹp nhất trong ngày… Người thích thơ Nguyễn Nhược Pháp, yêu văn Nguyễn Tuân, hay
ngồi đánh cờ tướng với bạn bè ở tòa soạn khi rảnh rỗi, hoặc ông với cây đàn tranh để lên
bàn, lơ đãng và thanh thản gẩy lên những thanh âm theo cảm hứng, một bản cò lả hay
nam ai. Thi sĩ Huy Cận, khi tôi gặp ông năm 1995 để tìm kiếm một số kỷ niệm về cha tôi,
đã kể với tôi rằng, có lần ông đến tòa báo tìm cha tôi, khi nghe tiếng đàn tranh vọng ra,
đã đứng nép vào bên cửa để nghe, chỉ dám gõ cửa khi tiếng đàn đã dứt. Ông nói với tôi:
“Cha anh đánh đàn rất hay”, rồi ông vội vã lật vài trang sách khoe tôi về những kỷ niệm
ông viết về cha tôi: “Tôi đã từng quen Thạch Lam, con người mảnh khảnh tưởng như chỉ
một làn gió có thể đẩy đi, một thân hình tưởng như chỉ làm bằng cảm giác, cái khối cảm
giác ấy đã hóa thân vào văn”…
Đọc Thạch Lam, tôi hình dung ông là một người Hà Nội hào hoa, phong nhã, nhẹ nhàng
trong hành động, nhân từ trong suy nghĩ, một nhà văn bằng cả cái tinh tế của hồn mình để
cảm nhận những gì dịu dàng, bé nhỏ nhất trong đời. Văn Thạch Lam đẹp, tinh tế; con
người Thạch Lam hồn hậu và rất mực tài hoa - đó là lý do vì sao Thạch Lam luôn chiếm
được cảm tình đặc biệt của người đọc nhiều thế hệ. Thạch Lam cũng đã phát huy tối đa
sự phong phú của tiếng Việt và ngôn ngữ của ông luôn hướng tới cái đẹp của sự bình dị
khác hẳn với sự chau chuốt, bóng bẩy và tượng trưng của giai đoạn văn học trung đại.
Ông là cây bút có đóng góp đáng kể cho sự phát triển của thể loại văn xuôi trong văn học
Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945.

Nhận định về một nhà văn kiệt xuất


 Nhận xét khái quát về sự nghiệp văn chương của ông, Từ điển bách khoa toàn thư
Việt Nam có đoạn viết:
Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm, hay ghi lại cảm xúc của mình trước số phận
hẩm hiu của những người nghèo, nhất là những người phụ nữ trong xã hội cũ, sống vất
vả, thầm lặng, chịu đựng, giàu lòng hi sinh ("Cô hàng xén"). Có truyện miêu tả với lòng
cảm thông sâu sắc một gia đình đông con, sống cơ cực trong xóm chợ ("Nhà mẹ Lê"). Có
truyện phân tích tỉ mỉ tâm lý phức tạp của con người ("Sợi tóc"). "Ngày mới" đi sâu vào
nội tâm của một cặp vợ chồng trí thức nghèo. Chưa có truyện nào có ý nghĩa xã hội rõ nét
như các tác phẩm của các nhà văn hiện thực phê phán. "Theo giòng" là một thiên tiểu
luận viết kiểu tuỳ bút, ghi lại suy nghĩ của ông về nghệ thuật tiểu thuyết, có những ý kiến
hay, nhưng chưa đi sâu vào khía cạnh nào. Cuốn "Hà Nội ba sáu phố phường" có phong
vị đậm đà của quê hương xứ sở, lại rất gợi cảm. Văn Thạch Lam nhẹ nhàng, giàu chất
thơ, sâu sắc, thâm trầm, thường để lại một ấn tượng ngậm ngùi, thương xót.
 Trong "Lời nhà xuất bản Văn học" (khi in lại tác phẩm "Gió đầu mùa" năm 1982)
cũng có đoạn viết như sau:
Giới thiệu tập truyện ngắn "Gió đầu mùa" xuất bản trước Cách mạng tháng Tám, Thạch
Lam viết: "Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự
thoát ly hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà
chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng
người được thêm trong sạch và phong phú hơn".
Có thể coi đoạn văn ngắn nói trên như là "Tuyên ngôn văn học" của Thạch Lam. Và quả
thật, trong toàn bộ gia tài sáng tạo của Thạch Lam, hầu như không một trang viết nào lại
không thắm đượm tinh thần đó. Là thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn, song trước
sau văn phong Thạch Lam vẫn chảy riêng biệt một dòng. Đề tài quen thuộc của nhóm Tự
Lực văn đoàn là những cảnh sống được thi vị hóa, những mơ ước thoát ly mang màu sắc
cải lương, là những phản kháng yếu ớt trước sự trói buộc của đạo đức phong kiến diễn ra
trong các gia đình quyền quý. Thạch Lam, trái lại, đã hướng ngòi bút về phía lớp người
lao động bần cùng trong xã hội đương thời. Khung cảnh thường thấy trong truyện ngắn
Thạch Lam là những làng quê bùn lầy nước đọng, những phố chợ tồi tàn với một bầu trời
ảm đạm của tiết đông mưa phùn gió bấc, những khu phố ngoại ô nghèo khổ, buồn, vắng...
Trong khung cảnh ấy, các nhân vật cũng hiện lên với cái vẻ heo hút, thảm đạm của số
kiếp lầm than - Đó là mẹ Lê, người đàn bà nghèo khổ, đông con, góa bụa ở phố chợ Đoàn
Thôn, là bác Dư phu xe ở phố Hàng Bột, là Thanh, Nga với bà nội và cây hoàng lan trong
một làng quê vùng ngoại ô, là cô Tâm hàng xén với lối đường quê quen thuộc trong buổi
hoàng hôn...Tất cả những cảnh, những người ấy đều được mô tả bằng một số đường nét
đơn sơ, thưa thoáng nhưng vẫn hết sức chân thực...
Tác phẩm của Thạch Lam vì thế có nhiều yếu tố hiện thực tuy nhân vật không dữ dội như
Chí Phèo, lão Hạc của Nam Cao, hay bị đày đọa như chị Dậu của Ngô Tất Tố..Cái riêng,
cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam, chính là ở lòng nhân ái, và vẻ đẹp tâm hồn quán
xuyến trong mọi tác phẩm của ông. Nhân vật Thạch Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn
ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân ái Việt Nam...Đọc truyện ngắn Thạch Lam rõ ràng ta
thấy yêu con người, quý trọng con người hơn. Và cũng từ đó ta thương cảm, nâng niu,
chắt gạn từng chút tốt đẹp trong mỗi một con người.
 Nhà văn Nguyễn Tuân:
Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và
sâu sắc…Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn
nhạy cảm và tầng trải về sự đời. Thạch Lam có những nhận xét tinh tế về cuộc sống hàng
ngày. Xúc cảm của Thạch lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối
với tầng lớp dân nghèo thành thị và thôn quê. Thạch Lam là nhà văn quý mến cuộc sống,
trang trọng trước cuộc sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch lam,
vẫn thấy đầy đủ cáo dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất
văn học...
 Nhà văn Vũ Ngọc Phan:
Ngay trong tác phẩm đầu tay (Gió đầu mùa), người ta đã thấy Thạch Lam đứng vào một
phái riêng...Ông có một ngòi bút lặng lẽ, điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút chuyên tả tỷ mỷ
những cái rất nhỏ và rất đẹp... Phải là người giàu tình cảm lắm mới viết được như vậy...
 GS. Phạm Thế Ngũ:
Thạch Lam là một nhà văn có khuynh hướng xã hội...Đối với ông, nhân vật thường là
những người tầm thường trong xã hội: mẹ Lê trong xóm nghèo, cô hàng xén ở phố
huyện, cậu học trò đi ở trọ, hai cô gái giang hồ trơ trọi…Và ông thường để ý vạch vẽ
cuộc đời, tình cảm cùng ý nghĩ của họ, chớ không bận tâm lắm đến việc tuyên truyền tư
tưởng cách mạng xã hội như trong các tác phẩm của Nhất Linh hay Hoàng Đạo…Ta thấy
Thạch Lam, luôn hòa đồng trong cái xã hội nhỏ bé mà ông thương xót với tất cả tâm hồn
đa cảm của ông...
 GS. Phong Lê:
Thạch Lam có quan niệm dứt khoát về thiên chức của văn chương: "Đối với tôi, văn
chương không phải một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên, trái lại, văn
chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay
đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và
phong phú hơn".
Có lẽ cả hai phương diện, vừa tố cáo, vừa xây dựng, đều được Thạch Lam chú ý; và trong
phần thành công của nó, các dấu ấn hiện thực và lãng mạn trong văn Thạch Lam đều tìm
được sự gắn nối ở chính quan niệm này.
Ở tư cách nhà văn, Thạch Lam đòi hỏi rất cao phẩm chất trung thực của người nghệ sĩ.
Ông viết: "Sự thành thực chưa đủ cho nghệ thuật. Có thể, nhưng một nhà văn không
thành thực không bao giờ trở nên một nhà văn giá trị. Không phải cứ thành thực là trở
nên một nghệ sĩ. Nhưng một nghệ sĩ không thành thực chỉ là một người thợ khéo tay
thôi"
 PGS. Nguyễn Hoành Khung:
Tình cảm của Thạch Lam chân thành, tuy nhiên, ông chỉ mới băn khoăn, thương cảm đối
với số phận người nghèo qua những câu chuyện mang một dư vị ngậm ngùi, tội nghiệp.
Về bút pháp, có thể nói Thạch Lam là nhà văn mở đầu cho một giọng điệu riêng: trữ tình
hướng nội trong truyện ngắn. Ngòi bút của ông thường khơi sâu vào thế giới bên trong
của cái "tôi", với sự phân tích cảm giác tinh tế.
Sáng tác của Thạch Lam giàu chất thơ, và đọc ông, đời sống bên trong có phong phú hơn,
tế nhị hơn; chúng "đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm tho và mát dịu"
(Nguyễn Tuân).
Ông là cây bút có biệt tài về truyện ngắn. Nhiều truyện ngắn của ông dường như không
có cốt truyện, song vẫn có sức lôi cuốn riêng. Truyện dài "Ngày mới" của ông không có
gì đặc sắc về tư tưởng và nghệ thuật.
 Khúc Hà Linh (Hiệu trưởng Trường Văn hóa nghệ thuật Hải Dương):
Thạch Lam có những tháng năm sống nơi thôn dã, nên trong tác phẩm ông chất chứa
nhiều hình bóng con người và đời sống làng quê...Ông tả nội tâm nhân vật tài tình, nhuần
nhị, tinh tế. Văn ông hài hòa giữa lãng mạn và chân thực, mà vẫn nồng nàn tình quê, nặng
lòng với dân tộc.
Thạch Lam không chỉ nổi tiếng về truyện ngắn, ông còn thành công trong thể loại bút ký.
"Hà Nội băm mươi sáu phố phường" gồm nhiều mẩu văn ngắn mà sinh động, thể hiện
vốn sống phong phú và tài hoa của ông....

TRẦN MINH THU

You might also like