You are on page 1of 4

Grandi từng khẳng định: “Không có nghệ thuật nào là không hiện

thực”. Cuộc sống là nơi bắt đầu và là nơi đi tới của văn chương. Hơn
bất cứ một loại hình nghệ thuật nào, văn học gắn chặt với hiện thực
cuộc sống và hút mật ngọt từ nguồn sống dồi dào đó. Ai đó đã từng ví
văn học và cuộc sống như thần Ăng Tê và Đất Mẹ. Thần trở nên vô
địch khi đặt hai chân lên Đất Mẹ cũng như văn học chỉ cường tráng và
dũng mãnh khi gắn liền với hiện thực đời sống. Đầu tiên và trên hết,
văn chương đòi hỏi tác phẩm nghệ thuật chất hiện thực.
Hiện thực xã hội là mảnh đất sống của văn chương, là chất mật làm
nên tính chân thực, tính tự nhiên, tính đúng đắn, tính thực tế của tác
phẩm văn học. Một tác phẩm có giá trị hiện thực bao giờ cũng giúp
người ta nhận thức được tính quy luật của hiện thực và chân lý đời
sống. Những tác phẩm kinh điển bao giờ chở đi được những tư tưởng
lớn của thời đại trên đôi cánh của hiện thực cuộc sống. Cánh diều văn
học dù bay cao bay xa đến đâu vẫn gắn với mảnh đất cuộc sống bằng
sợi dây hiện thực mỏng manh mà vô cùng bền chắc.
Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời : gốc rễ
để bắt nguồn nên một tác phẩm là cuộc đời, văn học ghi chép và phản
ánh thực tại đời sống vào tác phẩm của mình. Văn học sẽ không là gì
cả nếu không vì cuộc đời : tác phẩm văn học sẽ trở nên vô nghĩa,
không có giá trị nếu không vì con người và phản ánh đời sống con
người. Mà có cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học :
yêu cầu đặt ra với văn chương là văn chương phải bám sát đời sống
thực, phản ánh đời sống vốn có theo cách riêng của mình một cách
độc đáo và sáng tạo nhất. Từ đó ta thấy được câu nói trên có nghĩa là :
Văn học phải khai thác sâu vào đời sống con người, phản ánh những
góc khuất trong đời sống mà con người không nhìn thấy để từ đó con
người có cái nhìn toàn diện, đầy đủ và chính xác hơn về cuộc đời.
Tác giả Nguyễn Du đã cho ra đời tác phẩm " Đọc Tiểu Thanh kí"
với câu mở đầu đã nói lên lòng cảm khái trước sự thay đổi của cuộc
đời con người:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư”
Dịch: “Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang”
Câu thơ đã gợi lên hình ảnh vườn hoa đẹp bên Tây Hồ nay đã trở
thành bãi hoang chẳng còn lại gì. Nghĩa là tình cảm sa sót giữa một
bên là cái đẹp một bên là sự hủy diệt. Đó là sự thay đổi đến tàn khốc
của hiện thực, của số phận cái đẹp. Câu thơ cũng làm hiện lên chân
dung của tác giả đang đứng giữa hiện tại mà bâng khuâng trước quá
khứ vàng son... Vạn vật dù xấu dù đẹp, dù lớn dù nhỏ đều chịu sự
nghiệt ngã của thời gian vô tình.
Địa danh Tây Hồ trong tiếng nói của cái đẹp đã gợi nhắc tới nàng
Tiểu Thanh - một người con gái xinh đẹp đã gửi thân đến cuối đời
trên đất Cô Sơn. Vì thế câu thơ còn là lời cảm khái trước số phận
người con gái đẹp bị hủy hoại:
“Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”
Dịch: “Thổn thức bên song mảnh giấy tàn”
Câu thừa đề đã triển khai ý của câu khai đề bằng tiếng khóc của
Nguyễn Du với phận má hồng. “Độc điếu” nghĩa là một mình ta khóc
thương. “Nhất chỉ thư” là một tập sách. Nghĩa cả câu là viếng nàng
qua một tập sách nhỏ. Tập sách không phải là một cuốn sách thông
thường, đó là sự hiện diện của một cuộc đời nhan sắc tài hoa, là chân
dung tinh thần của một cuộc đời bạc mệnh. Cuốn sách đó còn là tài, là
tình của nàng Tiểu Thanh. Hiểu nàng thương nàng thì đọc cuốn sách
phải rưng rưng rơi lệ. Bản dịch đã bỏ qua hai chữ quan trọng “độc” và
“nhất”. Đó có phải là một lòng đau đang gặp một hồn đau. Câu thơ
như khắc vào tâm trí người đọc một cảnh ngộ cô đơn giữa hiện tại
không có người sẻ chia để tìm về quá khứ, tìm kẻ tri âm. Người khóc
và người được khóc, người quá khứ và người hiện tại đều đồng điệu
một nỗi cô đơn. Chính nỗi đau là sợi dây xe kết hai tâm hồn đồng
điệu. Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đã vượt thời gian, không
gian, tấm lòng thương người tài hoa bạc mệnh.
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”
Son phấn là vật dụng gắn liền với người phụ nữ, là ẩn dụ về nàng
Tiểu Thanh, một người vô cùng xinh đẹp. Văn chương là ẩn dụ cho
tài hoa trí tuệ của nàng. Hai câu thực đầy ý vị ngậm ngùi, xót thương,
như một tiếng khóc thầm cho số phận người con gái tài hoa bạc mệnh.
Từ đó ta cũng có thể thấy được thái độ của tác giả: Ngợi ca vẻ đẹp
của Tiểu Thanh như là một vẻ đẹp hoàn thiện hoàn mĩ. Đặt trong xã
hội cũ, người phụ nữ bị coi thường khinh miệt, đó còn là thái độ lên
án xã hội bất nhân đương thời. Tài của Tiểu Thanh là tài làm thơ
nhưng đáng tiếc là giỏi làm thơ bao nhiêu thì số phận nàng lại bất
hạnh bấy nhiêu, nàng chết đoản, tập thơ cũng bị đốt. Nguyễn Du đặt
ra câu hỏi về quyền sống cho người phụ nữ.
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn”
“Phong vận kì oan ngã tự cư”
“Cổ kim hận sự” là nỗi hận muôn đời của cả người xưa và người
nay, là nỗi hận mang tính quy luật. Vậy nên có thể nói chuyện của
Tiểu Thanh là nỗi hận muôn đời của người thời sau. Hận vì sự vô lý,
hễ người có tài, có sắc thì lại bị vùi dập. Nỗi hận dồn tụ lại từ bao đời
hỏi trời mà trời cũng bất lực. Nỗi oán hận nhức nhối bế tắc, biết là vô
lý nhưng không sao giải tỏa được. Giọng điệu trong câu luận ấy như
rất bất bình, oán trách, xót xa.
“Phong vận kì oan” là mắc nỗi oan lạ của những khách văn chương,
vì thấy giữa mình và kẻ tài hoa có những điểm tương đồng: có tài nên
phải long đong. Tự nhận mình “ngã tự cư” là sự thể hiện ý thức cá
nhân về nỗi đau, ý thức về người tài hoa bạc mệnh càng sâu sắc hơn.
Hóa ra trong nỗi đau của mọi kiếp tài hoa có nỗi đau của Nguyễn Du,
ba chữ đó đã đưa ta đến nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Du. Khi ý thức
cá nhân trỗi dậy, tác giả cũng có ý thức hơn về bản thân mình.
“Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Câu hỏi tu từ có hướng tới một con số: 300 năm có lẻ. Cái nhìn về
tương lai dài, tuy cụ thể nhưng lại dằng dặc. Với câu hỏi về hậu thế,
nhà thơ mong mình có một chút may mắn như Tiểu Thanh, mong 300
năm sau cũng có người khóc cho ông cùng với bao kẻ tài hoa khác,
chia sẻ những tâm sự với ông của cuộc đời, đồng tình với những tiếng
kêu trong xã hội. Nhà thơ không hỏi quá khứ, không hỏi hiện tại mà
đau đáu một câu hỏi hướng về tương lai. Hướng tới tương lai phải
chăng vì hiện tại đang bế tắc nhưng vẫn khát vọng chứ không tuyệt
vọng.
Nguyễn Du khóc Tiểu Thanh hay người đời sau khóc Nguyễn Du là
nhờ những áng văn thơ mà họ để lại cho đời. Như vậy văn chương
chân chính là sợi dây kết nối những tâm hồn, những trái tim biết yêu
thương.
"Đọc Tiểu Thanh kí" chính là một áng thơ hay đi sâu vào khai thác
cuộc đời con người và tác phẩm thấm đượm tình yêu thương.
Các nhà văn chân chính là những người có tâm hồn đẹp đẽ. Họ lấy
tâm hồn mình để soi sáng những cảnh đời tối tăm, an ủi người nghèo
khổ, vạch trần và lên án cái xấu, biểu dương, ca ngợi cái tốt… Những
điều đó có tác dụng rất lớn tới quá trình cảm thụ và vươn lên của con
người. Hình tượng điển hình trong thơ văn truyền cho người đọc một
tình yêu mãnh liệt đối với cái đẹp, cái cao cả của cuộc sống; đồng thời
cũng chỉ ra đâu là cái xấu, cái ác cần lên án và xóa bỏ để cuộc đời và
con người ngày càng tốt đẹp hơn. Vì vậy câu nói: “Văn học không chỉ
là văn chương mà thực chất là cuộc đời. cuộc đời là nơi xuất phát
cũng là nơi đi tới của văn học.” là một câu nói hoàn toàn chuẩn xác
khi nói về bản chất của văn học.

You might also like