You are on page 1of 17

ĐỘC TIỂU THANH KÍ

“Tiếng thơ ai động đất trời


Nghe như non nước vọng lời nghìn thu”
Những câu thơ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du vẫn mãi trường tồn trong lòng người
đọc. Ông là nhà thơ hiện thực và nhân đạo lớn nhất trong nền văn học và cũng là người có
tư tưởng tiến bộ nhất trong xh thời xưa. Thơ ông đề cập sâu sắc đến nỗi đau từ cổ chí kim
của con người nhất là người phụ nữ - những “kiếp hồng nhan” hay những kẻ tài hoa mà bạc
mệnh. Không chỉ ‘’ Truyện Kiều’’ mà “Đọc Tiểu Thanh kí” cg là một trong những tác phẩm
tiêu biểu nhất của đại thi hào Nguyễn Du.
Tuyệt tác trên cũng chính là kết quả của chuyến đi sứ TQ nói về cuộc đời bất hạnh của
nàng TT. Cô được biết đến là người con gái thông mình, nhiều tài nghệ thuật như thi ca, âm
nhạc. 16 tuổi cô về làm vợ lẽ cho một nhà quyền quý đó cũng là khi bóng tối u ám đã bắt
đầu xảy đến với .Vì vợ cả hay ghen bắt cô phải sống một mình trên Cô Sơn, cạnh Tây Hồ.
Nhưng không dừng lại ở đây, đến năm 18 tuổi vì sống trong sự cô đơn, buồn tủi, sinh bệnh
mà TT đã từ giã cuộc đời mình. Nàng vốn là người tài sắc vẹn toàn nhưng rồi cái quy luật
phũ phàng của trời đất đâu có tha riêng cho một ai: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”! .
Sau khi mất, vợ cả tìm cách đốt hết đi những bức hoạ và bài thơ chứ những tâm tư của
nàng chỉ còn lại một ít mà tác giả đã gọi tác phẩm của này là ’’ phần dư’’. Và phải chăng,
chính những tập thơ còn sót lại đã mang đến cho Nguyễn Du những cảm xúc hay viết thay
cho nỗi niềm oan ức của TT chăng?
Nguyễn Du từng viết trong “Truyện Kiều” rằng:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Và đó cũng chính là tâm trạng của ông khi bước tới ngọn núi Côn Sơn đã lụi tàn qua năm
tháng:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khuê
Độc điếu song thiền nhất chỉ thư”
Nguyễn Du đã chèo con thuyền xuôi dòng chảy của thì quá, vượt qua những dòng kí ức đã
theo thời gian, ông như trực tiếp đứng bên cạnh cảnh mà vẽ tình. Vườn hoa bên Tây Hồ là
cảnh đẹp trong quá khứ, nhưng h/a hiện tại chỉ còn là bãi hoang. ‘’ Tẫn’’ là tận, là sự thay
đổi tận cùng khốc liệt, hay không còn lưu lại 1 chút dấu vết nào cả. Không chỉ là đổi thay
của cảnh vật mà còn là dông bể của cuộc đời, tiếng thở dài, tiếc nuối thật sót xa. Đó không
chỉ là sự thay đổi nghiệt ngã của cảnh vật mà còn là của con người, từ một vườn hoa đẹp,
lộng lẫy, sức sống căng tràn bao nhiêu thì nay lại trở nên tàn tạ, hoang phế bấy nhiêu. Cũng
vì thế tác giả đã hình dung những thay đổi của cuộc đời người. Thời gian cũng đã cướp đi
biết bao nhiêu thứ từ con người, phải chăng đó là sự mỏng manh,hay của cái đẹp, là sự xuất
chúng, hơn người của tài năng cũng tàn phai theo? Tiểu Thanh chẳng hề ngoại lệ. Nàng có
tài, có sắc , có danh nhưng cũng chính vì sự khắc nhiệt của xh phong kiến, của những suy
nghĩ cổ hủ mà khiến cho bông hoa như nàng cũng phải lụi tàn trước ngọn lửa ghen tuông
bùng cháy dữ dội như muốn thiêu đốt hết trọn cái tài cái sắc của nàng.
Tác giả đã sử dụng những từ ngữ rất đắt , từ số ít đã được sử dụng 2 lần. ‘’ độc điếu’’ là
khóc thương một mình, ‘’ nhất chỉ thư’’ là một cuốn sách còn lại. Nguyễn Du và TT phải
chăng họ là một sợi dây đồng cảm đang kết nối với nhau, đó là tiếng nói đồng điệu của
những con người đa tài nhưng số phận chẳng được trọn vẹn như cái tài ấy. Nàng thì cô đơn
giữa chốn không người, cảnh vất thê lương hoang tàn còn ông thì cô đơn giữa dòng đời bởi
chẳng ai hiểu được ông . Sự cô đơn của cả người xưa, người nay, 1 lòng đau tìm đến 1 lòng
đau. Một giá trị nhân đạo đã được thể hiện rõ ở đây, sự đồng cảm, sự sẻ chia của tác giả,
cũng như nhân dân đời nay muốn cảm thương cho số phận của nàng.
Nguyễn du gợi nên nỗi xót xa, thương cảm cho cái đẹp bị trò đời trêu đùa đến nhẫn tâm,
đến khi bị tàn lụi, bị huỷ hoại thậm tệ là lìa xa trần thế mới thôi.
Ngọn đuốc tâm hồn được thắp lên ở hai câu thơ đầu cũng chính là tiền đề để Nguyễn Du
giãi bày những tâm sự của mình với người và phảng phất đâu đó còn là tâm sự của mình
với chính mình:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”
Cảm xúc được đại thi hào giãi bày không phải là thứ nước ào ạt, có thể chạm và cảm nhận
dễ dàng mà nó là một giọt nước mát lành nhưng chua chát vạn phần. Hai hình ảnh ẩn dụ và
nhân hoá đã khái quát 2 nỗi oan lớn của cuộc đời tiểu thanh. Hình ảnh “chi phấn” để ẩn dụ
cho nhan sắc của nàng, nhan sắc ấy không chỉ đẹp mà còn bất tử và trường tồn mãi mãi
đồng thời khát quát nỗi oan thứ nhất của nàng ‘’ hồng nhan bạc mệnh’’ . Dường như đó là
tiếng nói bất bình của Nguyễn Du bởi lẽ vẻ đẹp của người phụ nữ bị xã hội rẻ rúng, coi
thường, ông đã dám đứng lên nói về số mệnh của người phụ nữ, dưới sự kìm hãm của xh
thời đó, để phần nào có thể gạt bỏ đi những suy nghĩ cổ hủ . Văn chương vốn “vô mệnh”
nay lại thành hữu mệnh, có lẽ đó là ẩn dụ cho tài năng của nay cũng phải “luỵ”, đó cg là
những tài năng vốn có của TT nhưng nàng đã không được thoả sức thể hiện như xh ngày
nay, mà bị kìm hãm ‘’ tài mệnh tương đố’’. Tác giả đã sót thương cho số phận của TT, phẫn
nộ trc quy luật của cuộc đời, để rồi đặt ra 1 câu hỏi ‘’ có sắc, có tài rồi cũng để làm gì?’’.
NT đối lập ‘’ vô mệnh’’ và ‘’ hữu thần’’ khẳng định cái mất đi, cái bị đốt, bị dập vùi. Còn
cái còn lại là sự bất tử, không thể trôn đốt là sự tinh anh. Phần tinh tuý lại thì lại có thể trôn
TT, đốt sách TT nhưng cái tài năng, nhan sắc vẫn còn bởi người đời sau luôn thấu hiểu
đồng cảm, chân trọng.
Hai câu luận vẫn là niềm thương cảm ấy nhưng giờ đây còn vang lên tiếng nói của tri âm
nghe mà nhói lòng người:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong lưu kì oan ngã tự cư”
Từ nỗi oan của TT, ND đã khái quát thành cái nhìn về số phận con người trong xã hội
phong kiến gọi là nỗi hờn kim cổ , nỗi bất bình , uất tức từ xưa- TT, đến nay- tác giả chưa
được giải quyết. Nhưng rồi khi ngẩng đầu lên hỏi trời thì trời cũng chỉ biết lặng thinh
không nói một lời khiến cái hận càng thêm hận, thấm thía lại càng thêm thấm thía khi trời
không đáp con người cũng chỉ biết bất lực, bế tắc. Hoặc trời không hiểu cho nỗi oan khuất
của người, nỗi oan của người tài tình. Tác giả từ khóc thương cho người mà dần khóc
thương cho chính số phận của mình. ông đã giải thích hận sự của cổ kim suất phát từ ‘’
phong vận kì oan’’ từ nghịch cảnh đau sót khi sở hữu tài năng, nhan sắc thì phải chấp nhận
1 số phận nghiệt ngã. Đây quả là nỗi oan lạ lùng. Chính vì thế mà ND cũng nhận mình là
người cùng hội cùng thuyền với những người mang nỗi oan đó. Phải chăng khi đặt mình
cùng vào chiếc thuyền khiến cho tiếng nói tri âm, tri kỉ lại càng vang thêm sâu sắc thêm
nhường nào.
‘’ Thương những kẻ giai nhân tài tình
Trót đa mang vì một chữ tình’’
Nguyễn Du đau đớn, căm giận trước cái đẹp, cái thiện đang dần bị thế lực hắc ám chà đạp,
những con người như Tú Bà, Mã Giám Sinh hay Sở Khanh được ông miêu tả bằng tất cả sự
căm phẫn. Tại sao những kẻ như vậy lãi vẫn sống yên bình? Nhưng người như Tiểu Thanh
hay Thuý Kiều, lại phải chịu biết bao sóng gió cuộc đời để rồi người thì ra đi mãi mãi.
Đau đớn trước cái ngang trái của cuộc đời và giờ đây Nguyễn Du lại tự thương cho chính
bản thân mình và đó vô tình trở thành một nét mới trong văn học trung đại- cảm hứng tự
thương:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
Hai câu kết mở ra là cả một thế giới nội tâm của Nguyễn Du. Tác giả cất tiếng hỏi dành cho
hậu thế 300 năm. Con số này ứng với khoảng thời gian từ khi TT sống cuộc đời oan ức cho
đến khi ND biết đến số phận nàng . Gắn với thành ngữ ‘’ Tam thế’’ của nhà phật. Quá khứ
là truyện của TT, hiện tại ND khóc cho TT ,tương lai mong hậu thế sẽ hiểu. Câu hỏi tu từ ở
cuối bài bày tỏ niềm khao khát, mong muốn tìm được sự thấu hiểu, thương cảm. Tiếng
khóc của người đời là thứ mà Nguyễn Du luôn tìm kiếm bởi đó là tiếng vang của sự tri âm,
đồng cảm. Câu kết cũng hé mở tác giả đang rất cô đơn nên mới tìm về quá khứ và mong
muốn tương lai. Tiếng khóc tự thương là nét mới của tinh thần nhân đạo, thức tỉnh nỗi đau
của chính mình. 2 câu cuối đã phá tính quy phạm vốn có của văn học trung đại để lên án
mạnh mẽ những kẻ không chân trọng giá trị của con người đặc biệt là những con người tài
hoa. Nhưng giờ đây, tiếng nói đó của t/g đã được mọi người đồng cảm, công nhận về số
phận của ng phụ nữ. Bởi xh ngày nay đã gần như không còn những hiện thực đó mà mn
luôn tôn trọng, kính nể những người phụ vừa có tài lại có sắc.
ND cũng sử dụng tài tình phép đối và khả năng thống nhất những mặt đối lập trong hình
ảnh và ngôn từ để làm rõ thêm những điều ông muốn truyền tải. t/g đã đem lòng thương
cảm của mình để khóc cho người con gái Tiểu Thanh, khóc cho một lớp người “phong vận
kì oan”. Chính vì lẽ đó mà Nguyễn Du đã lưu dấu ấn của mình trong lòng bạn đọc để rồi nở
hoa thành những lẽ sống đẹp, nhân nghĩa.
Nhàn
Thơ khởi phát từ lòng người, chứa đựng biết bao nhiêu rung cảm, trăn trở nơi người cầm
bút. Vì thế một tác phẩm muốn vượt lên sức mạnh của thời gian, của lòng người thì phải ẩn
chứa trong nó những tình cảm, suy nghĩ thật và phải được viết lên từ mồ hôi, nước mắt của
nhà thơ. “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một bài thơ như thế! Với “Nhàn” ông đã gửi
tới người đọc những quan niệm, triết lí sâu sắc về con người, thời đại mà cho đến tận ngày
nay người ta vẫn phải suy ngẫm.
Xuyên suốt bài thơ “Nhàn” là tâm hồn tràn ngập niềm vui và sự thanh tịnh trong tâm hồn
tác giả. Có thể xem đây là điểm nhấn, là tinh thần chủ đạo của bài thơ. Chỉ với 8 câu thơ
đường luật nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mang đến cho người đọc một cuộc sống an nhàn
nơi đồng quê êm ả. Đồng thời ‘’ nhàn’’ cũng chính là 1 triết lý sống hay một thái độ sống.
Mở đầu bài thơ Nôm số 73, triết lí “nhàn” được thể hiện qua bức chân dung về cuộc sống:
“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
NBK rời chốn quan trường về giữa thôn quê sống như một “lão nông tri điền”, với đầy đủ
công cụ lao động của nhà nông: mai để đào đất, cuốc để xới đất, cần để câu cá. Cách sử
dụng các từ ngữ liệt kê thể hiện cuộc sống lao động của người bình dân đã sẵn sàng. Với
điệp từ được lặp đi lặp lại 3 lần thể hiện sự rành rọt ‘’ một...một...một’’ cho thấy 1 sự chuẩn
bị chu đáo, tất cả mọi thứ đã ss, ông đã lựa chọn 1 cuộc số giản
dị, đơn sơ và chất phát. Có thể gọi đây là hiện tươngj phá vỡ tính quy phạm và là 1 cách
Việt hoá thể thơ Đường Luật. Với cách ngắt nhịp 2/2/3 thể hiện sự thong thả, chậm rãi gợi
ra nhịp sống thong thả, tâm thế sống qua thai, ung dung tự tại khắc hoạ chân dung NBK- 1
ng có chi thức, địa vị trong xh nhưng ông đã từ bỏ quan trường trở về sống giữa thôn quê
như 1 ‘’ lão nông chi điền’’ . NBK đã hướng tới cái nhàn trong tâm, không vướng bận danh
lợi, tâm nhàn chứ thân không nhàn. Ông trở về với cs vất vả , tự cung tự cấp, phẩm chất
lương thiện của những người nông dân nghèo, ông không trông cậy vào bất kì ai, không
mang theo vàng ngọc chốn quan trường để về quê hương hưởng lạc.Dẫu không màng
chuyện thế sự nơi quan trường nhưng Trạng Trình vẫn mang tấm lòng ưu ái suốt đời lo cho
dân, cho nước.
Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm về với vui thú ruộng đồng như để khẳng định một thái độ sống
khác đời, khác người, đầy bản lĩnh:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao”
Có thê bói cặp câu thức này đã đc NKBK sd phép đối tương phản để kđ sự đối lập gay gắt
giữa quan niệm sống của ng và ta. Câu thơ như chia nửa, tạo hai đối cực: một bên là nhà
thơ xưng “ta” một cách ngạo nghễ, một bên là “người”; một bên là “dại” của ta, một bên là
“khôn” của người; một “nơi vắng vẻ” với một “chốn lao xao”. Ta chủ động tìm đến nơi
vắng vẻ, ấy là nơi không có người cầu cạnh ta và ta cũng không cầu cạnh người. Nơi vắng
vẻ còn là chốn tĩnh tại của thiên nhiên, là nơi thanh thản của tâm hồn. Chốn lao xao là nơi
quan trường đua chen, tranh quyền đoạt lợi, là nơi thành thị náo nhiệt.Nhưng hai câu thơ là
1 cách nói mỉa mai, kẻ tưởng mình khôn hoá ra là dại, kẻ nhận mình dại hoá ra là khôn.
Nguyễn Bỉnh Khiêm có 2 câu thơ khác cắt nghĩa điều này rõ hơn:
“Khôn mà ác hiểm là khôn dại,
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.”
Hai câu thơ luận đã gợi mở cho người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao của
Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm tận
hưởng những ưu đãi của thiên nhiên ban tặng. Cuộc sống đạm bạc nhưng thanh cao. Trở về
với tự nhiên, mùa nào thức ấy. Hai câu thơ như vẽ bộ tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt với
bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Có mùi vị, có hương sắc. Không nặng nề, không ảm đạm.
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá” nói như Xuân Diệu là có cảm giác “ăn giá tuyết, uống
băng đông”. “Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” thì vừa có nước trong, vừa có hương thơm
thanh quý. Không những thế, những hình ảnh “măng”, “trúc”, “giá”, “hồ sen” còn mang ý
nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn
với lòng mình. Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với
thiên lương của m
Đến hai câu thơ kết dường như đúc kết được tinh thần, cốt cách cũng như suy nghĩ của
Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống dứt
khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão – Trang, có
phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích
cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm lên
án. Hai câu thơ này là triết lý và sự đúc rút Nguyễn Bỉnh Khiêm trong thời gian ở ẩn.
Nhàn không phải là một lí tưởng nó là một trạng thái sống. Nhàn ở đây là sự thanh thản
của tâm hồn không bận tâm bởi danh lợi chứ không phải là cái nhàn hưởng thụ của kẻ lười
nhát. Nhàn là không để lòng vấy bẩn bởi sự tranh đoạt quyền lợi, hơn thua với người đời
chứ không phải là quên đời, sống ít kỉ, vô trách nhiệm Bằng chứng là khi từ quan Nguyễn
Bỉnh Khiêm vẫn tham vấn chính sự cho nhà Mạc. Nhàn vừa là một khát vọng sống tiềm ẩn
trong tâm thức của những nhà Nho có nhân cách vừa là một kiểu phản ứng của người trí
thức

Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không hề đi ngược lại đạo đức Nho học,
rất hài hòa với tinh thần Lão Trang và cả Phật giáo. Một chữ “nhàn” nhưng lại khái quát
toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đồng thời bộc lộ trọn vẹn một
nhân cách của bậc đại hiền tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống bình dân thôn giã chốn
làng quê để đối lập với cả xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát.

VĂN10: CHỨNG MINH BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO LÀ BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
THỨ 2 CỦA DÂN TỘC
“Bình Ngô Đại cáo” - Bản tuyên ngôn độc lập hùng hồn và đẫm nước mắt
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận định “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà
nó ra đời”. Những áng văn ra đời không chỉ mang trong mình ý nghĩa văn chương mà còn
mang cả tầm vóc lịch sử. “Bình Ngô đại cáo” chính là một tác phẩm như thế. Không những
là áng “thiên cổ hùng văn” của Nguyễn Trãi, “Cáo Bình Ngô” còn có ý nghĩa như một bản
tuyên ngôn độc lập. Ra đời sau chiến thắng giặc Minh của quân khởi nghĩa Lam Sơn, bài
cáo đã vút cao tinh thần độc lập dân tộc, tinh thần yêu nước còn được nhân dân ghi nhắc
đến muôn đời.
“Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”
Đó là lời ca tụng nổi tiếng của vua Lê Thánh Tông dành cho Nguyễn Trãi sau hơn hai mươi
năm bị hàm oan tày trời. Trong suốt bao năm qua, Nguyễn Trãi luôn được nhớ tới như một
truyền kỳ, vừa là một nhà tư tưởng, nhà chính trị đại tài của dân tộc - một bậc anh hùng
toàn tài hiếm có, người đã có công trong việc phò tá vua Lê xây dựng nghiệp lớn, vừa là
một nhà văn, nhà thơ kiệt xuất của nền văn học trung đại Việt Nam. Trọn cả cuộc đời cống
hiến cho nước, cho dân, lập được những kì tích sáng chói, Nguyễn Trãi trở thành một anh
hùng dân tộc vĩ đại, kế tục truyền thống của Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo…
đời trước, sát cánh với người anh hùng cứu nước Lê Lợi đương thời. Chủ nghĩa anh hùng
yêu nước của ông thể hiện rất rõ nét trong nhiều kiệt tác văn chương của ông. Cuộc đời và
sự của ông được đúc kết trong câu thơ của Chế Lan Viên:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hoá thành văn”
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?)
Tuyên ngôn độc lập được hiểu là văn bản dùng để tuyên bố, khẳng định nền độc lập, chủ
quyền của một quốc gia, đặc biệt là sau khi quốc gia ấy vừa giành chiến thắng trong cuộc
chống sự xâm lược của ngoại bang. Một tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập thì
trước hết tác phẩm ấy phải viết trong hoặc sau một cuộc chiến. Nội dung của bản tuyên
ngôn bao giờ cũng có ba nội dung: khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc; tuyên bố thắng
lợi; tuyên bố hòa bình. Đối chiếu với những tiêu chuẩn ấy, “Bình Ngô đại cáo” đáp ứng đầy
đủ.
Cáo là một thể loại quen thuộc, cũng như chiếu, biểu, hịch,… mà trong chốn cung cấm tôn
nghiêm hay dùng để ban bố những sắc lệnh quan trọng trong một thời điểm của vua hoặc
người đứng đầu. Nhưng “Bình Ngô đại cáo” là một bản đại cáo khác xa với ý nghĩa thông
thường, mang tính thời vụ đó. Bởi Nguyễn Trãi đã đưa khát vọng, niềm tự hào, kiêu hùng
của nhân dân và của chính bản thân ông để một văn kiện lịch sử nhằm thông báo sự kiện
trọng đại có tính chất quốc gia này mang theo một sức sống trường tồn, bất hủ.
“Bình Ngô đại cáo” là bài cáo được viết bằng cổ văn do Nguyễn Trãi soạn thảo vào mùa
xuân năm 1428, thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo về việc giành chiến thắng
trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, khẳng định sự độc lập của nước Đại Việt. Đây được
coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam, sau bài thơ thần “Nam quốc sơn hà”.
Song, “Bình Ngô đại cáo” không phải chỉ được tiếp nhận chủ yếu như một văn bản hành
chính mà còn được đón nhận như một kiệt tác văn chương. Vì thế khúc tráng ca bất diệt ấy
lại trở thành một khúc khải hoàn về một kỉ nguyên mới của dân tộc, kỉ nguyên hoàn toàn
độc lập, tự do.
Sê-khốp đã từng khẳng định: “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong
cốt tủy”. Sê-khốp coi tinh thần nhân đạo là phẩm chất bắt buộc phải có trong mỗi người
cầm bút, là tiêu chuẩn, điều kiện để đánh giá mức độ chân chính của nhà văn. Bởi tác phẩm
văn học chân chính thể hiện cái tâm của người nghệ sĩ, phải hàm chứa tinh thần nhân văn
sâu sắc, chứa đựng niềm vui, nỗi khổ đau của con người. “Bình Ngô đại cáo” chính là một
tác phẩm như thế. Tinh thần nhân văn được Nguyễn Trãi thể hiện trong bài cáo trước hết
nằm ở quan niệm về tư tưởng nhân nghĩa của ông. Ngay từ đầu, Nguyễn Trãi đã khẳng
định sự đấu tranh này là vì lợi ích của nhân dân:
“Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Nhân nghĩa vốn là một tư tưởng đạo Nho, là mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ
sở của tình thương và đạo lí. Nhưng ở đây, với bốn chữ “yên dân”, “trừ bạo”, Nguyễn Trãi
đã nâng nó lên một tầm cao mới, trở thành một lý tưởng xã hội, một đạo lý dân tộc có giá
trị đến muôn đời: việc nhân nghĩa ở đời cốt là lo cho dân được ấm no, giúp cho dân được
yên ổn. Nguyễn Trãi đã khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi
thời đại - dân là nòng cốt, là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia. “Yên dân”, tức
là làm cho cuộc sống của nhân dân được yên ổn, no đủ, hạnh phúc. Nhưng để được “yên
dân” trước phải lo “trừ bạo”, có nghĩa phải vì nhân mà dám đứng lên diệt trừ bạo tàn, đánh
tan quân xâm lược.
Ở đây, có thể nói Nguyễn Trãi đã sử dụng tài tình nghịch lí “gậy ông đập lưng ông”: ông
dùng chính những luận điểm kinh điển về nhân nghĩa của tư tưởng Trung Hoa từng được
các bậc thánh hiền như Khổng Tử, Mạnh Tử,… đúc kết lại mà bọn tướng Minh đều đã
thuộc nằm lòng để quật lại bọn chúng. Đối với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” không còn là
một quan niệm đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội, cả cuộc đời ông chưa từng có
một giây phút nào ngưng lo nghĩ cho dân cho nước:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
(Cảnh ngày hè)
Bậc anh hùng ấy lo cho dân bằng tất cả tình thương tận sâu nơi đáy lòng. Dân giàu, nước
mạnh, dân no đủ, nước thái bình, đây là giấc mơ Nguyễn Trãi luôn khắc khoải suốt cả cuộc
đời dẫu cho cuộc đời ấy phải chịu nhiều đắng cay và oan khuất, hơn hết, nó còn là cả một
học thuyết nhân sinh ấp ủ đã đến lúc bật ra thành lời. Nếu giấc mơ kia là của bậc đại nhân,
thì cái lõi tư tưởng của giấc mơ là của bậc đại trí. Đó là tư tưởng nhân nghĩa đã được
Nguyễn Trãi vạch rõ ngay trong hai câu mở đầu “Bình Ngô đại cáo”, một tư tưởng rất tiến
bộ, tích cực, phù hợp với tinh thần của thời đại và cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
Nguyễn Trãi nêu lên một tư tưởng đầy nhân văn để từ đó, đi đến khẳng định chân lý độc
lập của dân tộc. Bằng lối văn biền ngẫu nhịp nhàng, giọng điệu đầy hào hùng, khí thế, Bình
Ngô đại cáo đã mở màn với những lời khẳng định “Đại Việt là đất nước của chúng ta”.
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Đây là đoạn văn đã chạm khắc vào lịch sử dân tộc những giá trị bất khả xâm phạm về nền
độc lập một cách đầy đủ nhất. Lối lập luận so sánh sắc bén, đa chiều đã khẳng định những
phương diện cốt lõi để định danh chủ quyền của mỗi quốc gia. Nếu thế kỉ XI lũ giặc Tống
hồn xiêu phách lạc khi nghe âm hưởng của bài thơ thần Nam quốc sơn hà vang lên bên bến
sông Như Nguyệt, hay đến thế kỉ XX thực dân Pháp cũng chẳng còn cái cớ nào kéo sang
xâm phạm nước Nam sau khi nghe những lời dõng dạc của chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản
Tuyên ngôn Độc lập, thì ở thế kỉ XV, Nguyễn Trãi cũng đã khẳng định một cách hùng hồn
về lãnh thổ Việt Nam với lũ giặc ngoại xâm. Chỉ một từ “ta” mang ý sở hữu, Nguyễn Trãi
cũng đã dõng dạc khẳng định rằng lãnh thổ Đại Việt là bất khả xâm phạm. Chỉ một từ “ta”
mà người đọc cũng có thể cảm nhận được giọng điệu tự hào, khí thế khi Nguyễn Trãi hùng
hồn tuyên bố chủ quyền đất nước với quân giặc để rồi sau này, chúng ta gặp lại sự tự hào
ấy trong thơ văn cách mạng của Nguyễn Đình Thi:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta”
(Đất nước)
Hay Tố Hữu:
“Mây của ta, trời thắm của ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.”
(Ta đi tới)
Còn ở Nguyễn Trãi, ông không chỉ dừng lại ở từ “ta” mà còn đưa ra một quan niệm được
đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập: nước Việt
ta có nền văn hiến tự bao đời, có núi sông bờ cõi, ranh giới đã phân định, có phong tục tập
quán phong phú, có các triều đại sánh ngang với “Hán, Đường, Tống, Nguyên”, có nhân tài
phò vua diệt giặc. Còn nhớ trong “Nam quốc sơn hà”, Lý Thường Kiệt mới chỉ khẳng định
bằng một phương diện đó là lãnh thổ, nhưng lại ở sách trời. Đến “Cáo bình Ngô”, Nguyễn
Trãi mới nâng tầm chân lý độc lập lên nhiều phương diện rất cụ thể chứ không còn mơ hồ
như trước. Tuy nhiên sức thuyết phục trong cách khẳng định độc lập chủ quyền này ở chỗ,
nhà văn chính luận kiệt xuất ấy đem đặt trong thế so sánh giữa hai quốc gia Đại Việt với
Đại Hán. Không xét đến các yếu tố lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu, mà xét theo việc có hay
không, thì cả năm yếu tố nhà văn chỉ ra hai đất nước, hai dân tộc đều tương xứng. Cách
khẳng định chân lý độc lập vì thế mà có giá trị cao hơn, vừa chắc chắn vừa nâng tầm vị thế
của dân tộc ta ngang hàng với Đại Hán, khẳng định dân tộc Đại Việt là quốc gia độc lập là
chân lý không thể chối cãi. Cái hay mà Nguyễn Trãi đem lại không những khẳng định được
nền độc lập dân tộc mà còn cho thấy cả quá trình để sức sống độc lập ấy tồn tại đầy mãnh
liệt.
Để nêu bật tư thế độc lập tự cường của dân tộc, Nguyễn Trãi đã sử dụng cách diễn đạt sóng
đôi. Đại Việt và Trung Hoa đã bao đời song song tồn tại. Ông đã đặt các triều đại “Triệu,
Đinh, Lý, Trần” của ta ngang hàng với “Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Hoa, điều
đó cho ta thấy, nếu không có một tình yêu nước nồng nàn, một lòng tự hào dân tộc mãnh
liệt thì làm sao có được sự so sánh tinh tế và sâu sắc như vậy. Ngoài ra, câu văn còn được
tăng sức thuyết phục lên gấp bội khi Nguyễn Trãi sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính chất hiển
nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu”,“đã chia”, “cũng
khác”. Không chỉ có vậy, ông còn gọi các vị vua Đại Việt là “đế” khi trước nay hoàng đế
phương Bắc chỉ xem vua nước Việt là Vương, điều này cũng góp phần quan trọng thể hiện
ý thức về chủ quyền độc lập cao độ của tác giả.
Chỉ một đoạn văn nhỏ mà thấy cả dòng chảy lịch sử suốt năm trăm năm, với sáu lần đánh
bại quân thù. Không còn điều gì có thể tự hào hơn, không còn điều gì có thể thay đổi chân
lý đó. Những chứng cứ lịch sử năm xưa lại càng “khóa chặt” cho cơ sở lý luận về nền độc
lập dân tộc, về sự chính nghĩa trong công cuộc trường chinh bảo vệ đất nước của vua tôi
nhà hậu Lê.
Như vậy, Bình Ngô đại cáo đã ghi nhận một chân lý độc lập đầy mạnh mẽ, giàu sức thuyết
phục. Độc lập ấy có được không phải do trời định mà là do nhân định. Chính nhân dân bao
đời là người đã gây dựng nền độc lập. Biết bao xương máu đã đổ xuống, biết bao sự đồng
cam cộng khổ, bao nhiêu mồ hôi, nước mắt của nhân dân đã đổ xuống cả nghìn năm để
dựng xây nên hình hài Tổ quốc. Vì thế, đó là điều "bất khả xâm phạm". Suốt cả sáu trăm
năm khi đất nước độc lập tự chủ, lần đầu tiên chân lý chủ quyền dân tộc được vang lên một
cách dõng dạc, khí thế, tự hào đến vậy. Như vậy, có thể thấy tư tưởng nhân nghĩa, khẳng
định chủ quyền, độc lập dân tộc của Nguyễn Trãi mang đậm sắc thái của tinh thần yêu
nước truyền thống luôn chảy trong huyết quản của nòi giống Tiên Rồng.
Với những yếu tố đó, Nguyễn Trãi đã nâng tầm chân lý độc lập và khẳng định vị thế dân
tộc. Đại cáo Bình Ngô vì lẽ đó mở màn đầy đanh thép.Nền độc lập dân tộc với lý lẽ và dẫn
chứng xác thực, trở nên vô cùng thiêng liêng và "bất khả xâm phạm". Chân lý chủ quyền
dân tộc vang lên đầy khí thế và tự hào. Đó chính là nền móng vững trãi, là cơ sở pháp lý, lí
luận xác đáng để Nguyễn Trãi tiếp tục lên án những kẻ bạo ngược đã cố ý xâm phạm chủ
quyền nước ta.
“Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.”
Nguyễn Trãi đã sử dụng phép liệt kê, dẫn ra những kết cục của kẻ chống lại chân lý độc lập
của Đại Việt, vừa là lời cảnh cáo đanh thép, đồng thời cũng thể hiện niềm tự hào bởi những
chiến công của nhân dân Đại Việt.
“Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ” (Lâm Ngũ Đường), phải chăng khi viết
những câu văn liệt kê từng tội ác tày trời của quân giặc đối với dân ta, ngòi bút của Nguyễn
Trãi cũng đã nhỏ lệ, trái tim của ông cũng đã rỉ máu? Sau khi hùng hồn khẳng định Đại
Việt là một quốc gia độc lập, bản "tuyên ngôn" Bình Ngô đã đanh thép kết án tội ác của
giặc Minh đã gieo rắc tai vạ cho dân ta trải suốt hai mươi năm trời. Từ âm mưu thâm độc
đến những hành động man rợ, bạo tàn, trắng trợn mà Nguyễn Trãi đã viết trong căm hờn,
uất nghẹn, ông xót xa trước những thảm cảnh mà “quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ” do
“bọn gian tà bán nước cầu vinh”, chúng mang theo luận điệu xảo trá phù Trần diệt Hồ,
nhằm bịp bợm nhân dân.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.”
Chiến tranh đã gây ra bao đau thương , mất mát cho nhân dân ta. Chính sách đồng hóa của
nhà Minh vừa tàn bạo vừa thâm độc, bao gồm những thủ đoạn hủy diệt dã man, có thể nói
tất cả những gì là cơ sở tồn tại về vật chất và tinh thần của một quốc gia dân tộc chúng đều
tìm cách hủy diệt dần. Chúng bỏ tên nước ta, chia làm quận huyện như đất đai nhà Minh.
Chúng đàn áp khủng bố cực kì man rợ hòng dập tắt phong trào và ý chí phản kháng của
nhân dân ta. “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn”/ “Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai
vạ”, Nguyễn Trãi sử dụng những từ ngữ biểu cảm, gợi hình gợi cảm như “nướng”, “vùi”,
“dân đen”, “con đỏ”… nhằm chỉ rõ sự bất nhân trời không dung đất không tha của giặc
Minh.
Lật lại sử sách, nhìn lại những tội ác tày trời của quân giặc gây ra cho dân ta mà chỉ biết uất
nghẹn trong lòng: Chúng bắt phụ nữ, trẻ em làm nô lệ, mua bán như một thứ hàng hóa.
Chúng rút ruột người treo lên cây, nấu thịt người làm dầu, phanh thây phụ nữ có thai,
nướng sống người làm trò chơi, chất thây người làm mồ mua vui. Không chỉ có vậy, bọn
giặc còn thực hiện một chế độ sưu thuế cống nạp nặng nề để vơ vét của cải, cướp đoạt tài
nguyên, sản vật:
“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.”
Chúng phá hoại nhân dân thôi chưa đủ, còn phá hoại cả môi trường sống xung quanh đến
nỗi tàn hại cả côn trùng, cây cỏ. Bọn man rợ còn bóc lột đến tàn kiệt sức lao động của
người dân “bị đem vào núi đãi cát tìm vàng”, “ bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc”, coi
mạng sống con người như cỏ rác mặc cho “cá mập thuồng luồng”, mặc cho “rừng sâu nước
độc”. Chúng vơ vét tài nguyên đến tận cùng “vét sản vật”, “bắt chim trả”, “bẫy hươu đen”
đến nỗi “chốn chốn lưới chăng”, “nơi nơi cạm đặt”. Giặc Minh quấy nhiễu đến nỗi sản xuất
bị đình trệ “tan tác cả nghề canh cửi”, cuộc sống nhân dân bị huỷ hoại không còn lại gì “tàn
hại cả giống côn trùng cây cỏ”, đẩy nhân dân đến bước đường cùng “nheo nhóc thay kẻ goá
bụa khốn cùng”. Chúng đã hung hăng, ngang ngược xúc phạm đến đạo lí nhân nghĩa của
đất trời và lòng người.
Còn nhớ trong “Hịch tướng sĩ”, Trần Hưng Đạo cũng có một trái tim cháy bỏng về lòng
căm thù giặc và một trái tim sắt đá quyết tâm đánh đuổi giặc ra khỏi bờ cõi nước nhà: “Ta
thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức
chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ,
nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.” Đó là tâm trạng căm phẫn tột cùng và
hào khí “sát thát” Đông A của thời Trần. Còn trong “Bình Ngô đại cáo”, cũng với một
niềm phẫn uất thấu trời, Nguyễn Trãi đã vạch trần bản chất thực của kẻ xâm lược bằng
những câu văn chất chứa biết bao nhiêu phẫn nộ, bi thương. Tội ác của giặc Minh chồng
chất đến nỗi dẫu chặt trụi tre rừng cũng không ghi hết, dơ bẩn đến nỗi nước biển Đông
cuồn cuộn cũng không rửa sạch mùi, khiến cho trời đất chẳng thể dung thứ.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?”
Hình ảnh phóng đại “trúc Nam Sơn không ghi hết tội, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
lấy cái vô tận vô cùng của tự nhiên để nói về tội ác của giặc Minh cùng câu hỏi tu từ “lẽ
nào...chịu được?” vừa nêu lên tội ác tày trời của quân giặc, vừa thể hiện sự căm phẫn tột
cùng của nhân dân ta đối với chúng. Đoạn văn chính là bản cáo trạng đanh thép của
Nguyễn Trãi về tội ác của giặc Minh.
Còn nhớ trong “Tuyên ngôn độc lập”, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã dõng dạc vạch trần
bản chất công cuộc “khai hóa” của thực dân Pháp khi thực chất chúng thi hành nhiều chính
sách dã man về chính trị, văn hóa – xã hội – giáo dục và kinh tế, vạch trần bản chất công
cuộc “bảo hộ” của thực dân Pháp là hai lần bán nước ta cho Nhật (vào năm 1940, 1945),
khiến cho “hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”, … đồng thời chỉ rõ luận điệu xảo trá, lên
án tội ác của chúng: là kẻ phản bội Đồng minh, không hợp tác với Việt Minh mà còn thẳng
tay khủng bố Việt Minh. Sự so sánh này đã một lần nữa khẳng định “Bình Ngô đại cáo”
chính là một bản Tuyên ngôn độc lập hùng hồn của dân tộc.
Trước những tội ác chồng chất của giặc như vậy, chúng ta chỉ có một con đường là đánh
đuổi chúng ra khỏi bờ cõi để trừ bạo, yên dân. Xót xa cho cảnh nước mất nhà tan, Lê Lợi -
người anh hùng áo vải đất Lam Sơn đã phất cờ khởi nghĩa:
“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống”
Cách tự xưng gần gũi ta, xuất thân nơi núi, chốn hoang dã cũng bước ra từ nhân dân nhưng
vì mến nghĩa mà đứng lên. Vị chủ tướng mang theo trong mình tấm lòng căm thù giặc sâu
sắc, há đội trời chung, thề không cùng sống với bao nhiêu trăn trở, ưu tư đau lòng nhức óc,
quên ăn vì giận, những trằn trọc, nỗi băn khoăn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vượt qua
những ngày tháng nếm mật nằm gai, thấu hiểu lẽ hưng phế ở đời, người anh hùng Lê Lợi
ấy đã trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa. Ngoài ra, hình tượng Lê lợi vừa là con người
bình dị đời thường “chốn hoang dã nương mình”, vừa là người anh hùng phất cờ khởi
nghĩa càng cho thấy tính chất nhân dân của cuộc chiến.
Ở Lê Lợi hội tụ đầy đủ những yếu tố của một nhà lãnh tụ vĩ đại: Có lòng căm thù giặc sâu
sắc, quyết tâm cao độ trong việc thực hiện lý tưởng cao đẹp khôi phục giang sơn, nền độc
lập của dân tộc “Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời...Chỉ băn khoăn một nỗi đồ
hồi”. Ông cũng là người rất biết coi trọng nhân tài “Cỗ xe cầu hiền thường chăm chăm còn
dành phía tả”, biết coi trọng vai trò của nhân dân, biết tập hợp sức mạnh của nhân dân vốn
là yếu tố tiên quyết để quyết định chiến thắng của khởi nghĩa. Thêm vào đó ở Lê Lợi còn
có khả năng thu phục lòng người tạo nên khối đại đoàn kết vững mạnh trong toàn quân,
quân sĩ trên dưới một lòng chống giặc “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ
phấp phới/Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”. Cuối cùng một
yếu tố không thể thiếu ở người lãnh đạo ấy là sự tài trí mưu lược, giỏi bày binh bố trận của
Lê Lợi “Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh/Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều”.
Sử sách còn ghi chuyện chàng thanh niên Nguyễn Trãi khóc theo cha đến tận ải Nam Quan
khi cha ông là Nguyễn Phi Khanh bị giặc Minh bắt giải về Kim Lăng. “Nợ nước, thù nhà”,
Nguyễn Trãi khắc sâu lời cha dặn: “Con trở về lập chí, rửa nhục cho nước, trả thù cho cha,
như thế mới là đại hiếu”. Cuộc đời Nguyễn Trãi bắt đầu bằng thảm kịch “nước mất nhà
tan”. Chính “mối hận Nam Quan” đã nhen nhóm ngọn lửa của lòng yêu nước thương nòi
trong tâm khảm Nguyễn Trãi để một ngày kia nó bùng cháy thành hoả diệm sơn đốt cháy
quân giặc. Nung nấu chí vọng “đền nợ nước, báo thù nhà”, khi nghe tin Lê Lợi khởi nghĩa
ở Lam Sơn, Nguyễn Trãi bèn trốn khỏi Đông Quan tìm vào Thanh Hoá gặp Lê Lợi, dâng
“Bình Ngô sách”, được Lê Lợi trọng dụng. Ông đã đồng cam cộng khổ với nghĩa quân
Lam Sơn suốt mười năm kháng chiến, để rồi viết nên những câu văn chân thực nhất về hiện
thực gian khổ khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mới bắt đầu:
“Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc”
“Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.”
Tuy gặp nhiều thiếu thốn, khó khăn nhưng tinh thần và lòng quyết tâm đã dâng cao như
núi, tướng sĩ và nhân dân đều bền gan vững chí, chung sức chung lòng khắc phục gian nan,
nhờ sự đoàn kết của toàn dân và chiến lược, chiến thuật đúng đắn, nghĩa quân biết dựa vào
sức dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ đã phản công giành được thắng lợi to lớn. Rõ
ràng nhận thức về vai trò, công sức của nhân dân đã được nâng lên một tầm cao chưa thấy
trong lịch sử, phản ánh đúng đắn tinh thần của thời đại chống Minh. Ở đây, Nguyễn Trãi có
cách miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn làm nổi bật lên sự hoảng sợ, hoang mang của quân
giặc ở hai trận đánh ác liệt xảy ra tại Bồ Đằng và Trà Lân, còn quân ta thì càng đánh càng
mạnh, sĩ khí càng tăng cao:
“Sĩ khí đã hăng
Quân Thanh càng mạnh
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lí An, Phương Chinh nín thở cầu thoát thân.”
Với tư tưởng nhân nghĩa cao cả, “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay
cường bạo” Nguyễn Trãi đã đưa ra một chân lý: phải giương cao ngọn cờ “nhân nghĩa, an
dân”, phải cố gắng đoàn kết lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế nước. Để làm nổi
bật giữa nhân nghĩa với hung tàn, giữa chính nghĩa với phi nghĩa, giữa chiến thắng và chiến
bại,… Nguyễn Trãi đã sử dụng nghệ thuật đối lập, tương phản rất tài tình, đem đến nhiều
niềm tin, lòng tự hào, sự hả hê cho người nghe, người đọc. Ta với giặc Minh khác nào như
mặt trời với bóng tối, như văn minh với man rợ, như tất thắng với thất bại. Ông chủ trương
cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại được nước phải biết lấy sức dân mà kháng
chiến. Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” đã
làm nên chiến thắng vẻ vang đánh dấu những mốc son chói lọi trong trang vàng sử sách.
Những thắng lợi ban đầu đã tạo thanh thế cho nghĩa quân, trở thành nỗi khiếp đảm của kẻ
thù:
“Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lí Lượng cũng đành bỏ mạng.”
Thừa thắng xông lên, nghĩa quân liên tiếp giành thắng lợi tiêu diệt giặc ở các thành chúng
chiếm đóng, tiêu diệt cả viện binh của giặc. Nguyễn Trãi tập trung bút lực kể về chiến dịch
Chi Lăng – Xương Giang. Đây là bản hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến trường
kì.
“Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.”
Nhưng ta đã có sự bố phòng chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy:
“Ta trước điều bỉnh thủ hiểm, chặt mũi tên phong.
Sau lại sai tướng chặn đường, tuyệt nguồn lương thực.”
Sau đó là những chiến thắng dồn dập. Giọng văn hăm hở như có tiếng thúc giục chiến
thắng của người viết, mạch văn dồn đuổi như cố theo kịp bước hành quân thần tốc và
những đòn đánh cấp tập của nghĩa quân:
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hai tám, Thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.”
Câu văn đúc lại, ngắn gọn, đầy hình ảnh thâm xưng phóng đại nhằm cực tả sức mạnh vĩ
đại, khí thế áp đảo của quân ta:
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn,
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông.”
Liệt kê những chiến công vang dội liên tiếp của quân dân ta cũng như tô đậm tư thế đê hèn
của quân xâm lược lúc thảm bại bằng giọng văn hào hùng sảng khoái, Nguyễn Trãi vẫn
nhằm mục đích khẳng định hùng hồn sức mạnh vô địch của tư tưởng nhân nghĩa và truyền
thống nhân nghĩa tốt đẹp của dân tộc Việt.
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.”
Cả bản đại cáo là bài tráng ca, anh hùng ca về những chiến công hiển hách, vinh quang mà
dân tộc đã chung sức, chung lòng làm nên được. Đúng là chỉ có chân lý độc lập tự do mới
đem đến khí thế, khát vọng cháy bỏng như thế. Nguyễn Trãi hẳn đã chờ, chờ suốt bao
nhiêu năm để tự mình viết lên những khoảnh khắc lịch sử chẳng bao giờ quên ấy.
Khi đánh giặc, càng đánh càng hăng, khí thế ngập đất trời bởi trái tim luôn tràn trề tình yêu
nước. Bởi thế nên quân ta mới đánh bại quân giặc. Lúc này, quân giặc hiện lên trong thật
đáng thương, thảm hại:
“Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.”
“Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.”
“Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” còn thể hiện ở việc đối đãi
với kẻ thù. Nhân nghĩa thể hiện ở tinh thần chuộng hòa bình, tinh thần nhân đạo của dân
tộc:
“Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách
lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay”
Đây là cách ứng xử vừa nhân đạo, vừa khôn khéo của nghĩa quân Lam Sơn, khẳng định
tính chất chính nghĩa cuộc chiến của ta, vừa thể hiện truyền thống nhân đạo, nhân văn,
chuộng hòa bình của dân tộc Đại Việt, vừa thể hiện tầm nhìn xa trông rộng để duy trì quan
hệ ngoại giao sau chiến tranh của dân tộc ta với Trung Hoa. Nghệ thuật đối lập đã thể hiện
rõ những nét đối cực trong cuộc chiến giữa ta và địch, từ tính chất cuộc chiến cho đến khí
thế, sức mạnh, những chiến công và cách ứng xử đồng thời cũng nói lên niềm tự hào, tự tôn
dân tộc sâu sắc của tác giả.
Nghệ thuật chính trong toàn đoạn cáo nói về hai chặng đường chống giặc Minh của quân ta
là bút pháp đậm chất anh hùng ca được miêu tả bằng các hình ảnh rộng lớn, thể hiện sự kỳ
vĩ của thiên nhiên, dùng ngôn ngữ đặc sắc, với các động từ liên tiếp để diễn tả sự chuyển
rung liên tiếp của trận chiến, dùng những tính từ ở mức độ tối đa để tạo ra sự tương phản
sâu sắc giữa ta và địch. Thêm vào đó là nghệ thuật dùng câu văn linh hoạt, chiến thắng của
ta thì dùng câu văn ngắn thể hiện sự dồn dập, quyết đoán mạnh mẽ, oai hùng, còn thất bại
của địch thì được diễn tả bằng những câu văn dài thể hiện tính chất khôn cùng, không sao
kể hết được.
Bài cáo kết thúc. Câu văn chuyển sang nhịp khoan thai, dàn trải, trang trọng. Giọng văn
hiền hoà tươi vui:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc”
Đó là "trái ngọt hoa thơm" của cuộc đấu tranh đầy khó khăn, gian khổ. Từng câu từng chữ
vút cao, vang dội, tuyên bố nền hòa bình "vững bền, đổi mới, vững chắc" của đất nước ta.
Các hình ảnh xã tắc, giang sơn, kiền khôn, nhật nguyệt cứ tăng dần về độ lớn có sức mạnh
vũ trụ, dường như mới đủ đo được cảnh thái bình. Chân lý độc lập cứ thế mà vang xa, vang
rộng mãi. Nhưng niềm vui không ồn ào bởi Nguyễn Trãi hiểu hơn ai hết cái giá đắt của
chiến thắng, và cái ơn rất sâu của đồng bào, của trời đất tổ tông thiêng liêng đã đồng lòng
giúp đỡ. Lời tuyên bố còn chứa đựng cả đạo lý uống nước nhớ nguồn. Bởi vậy mới nói, tác
giả của bài cáo không chỉ tài năng trác việt mà đức độ cũng vô biên. Giá trị độc lập, chủ
quyền của bản đại cáo được thiết lập bởi những tư tưởng nhân văn, truyền thống đạo lý gốc
rễ như vậy.
Quy luật của tồn vong, suy thịnh là như thế, nhưng vẫn phải xuất phát từ sự đồng sức, đồng
lòng của nhân dân tướng sĩ, từ tài năng trác việt của những bậc anh hùng, từ nền tảng trọng
nhân nghĩa, chuộng hòa bình. Điểm tựa ấy có từ hàng trăm năm trước và vẫn trở nên vững
chắc cho hàng trăm năm về sau mà bài cáo như một lời nhắc nhở.
Từ đây dân tộc ta bước sang một trang mới, lời tuyên bố độc lập như vang lên đầy hào
sảng, mang tới niềm vui sướng, tự hào cho muôn triệu con dân. Bao khao khát bấy lâu nay,
giờ cả non sông rạng rỡ, đến nhật nguyệt, càn khôn cũng sáng ngời. Dân tộc từ nay có thể
ngẩng đầu kiêu hãnh và hướng tới một ngày mai tươi sáng, một kỷ nguyên xây dựng đất
nước độc lập, hòa bình.
Đây không chỉ là lời tuyên bố kết thúc còn là niềm tin tưởng, lạc quan về sự nghiệp xây
dựng đất nước. Bình Ngô đại cáo đã tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn, tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố về nên độc lập của
dân tộc là áng thiên cổ hùng văn còn mãi giá trị nghìn đời sau của đất nước ta. Không chỉ
sâu sắc về nội dung mà còn vẹn toàn về nghệ thuật. Phạm Văn Đồng có nhận định rằng
“Văn chương của Nguyễn Trãi đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ
thường”. Bên cạnh giá trị nhân đạo sâu sắc, “Bình Ngô đại cáo” , một nét đặc sắc nữa về
nghệ thuật là lời văn giấụ hình tượng. “Bình Ngô đại cáo” có ngôn ngữ trang trọng, hình
tượng tráng lệ, kì vĩ. Các thủ pháp nghệ thuật như so sánh, thậm xưng, cảm thán… được
Nguyễn Trãi sử dụng rất đặc sắc gợi cảm kì lạ. Cáo là một trong những thể văn xuôi cổ;
cách đặt câu mang tính quy phạm cổ điển. Nguyễn Trãi đã sử dụng biến hóa các kiểu câu tứ
tự, bát tự, câu tứ lục, câu song quan, câu cách cú, câu gối hạc, làm cho nhịp văn lúc co
ngắn, lúc duỗi dài, lúc nén xuống, lúc dồn dập. Khí văn mạnh mẽ, mang âm điệu anh hùng
ca. Có khi là các thi liệu văn liệu cổ đi vào bài cáo một cách thanh thoát hấp dẫn như: cần
trúc ngọn cờ, nước sông chén rượu, trúc chẻ tro bay, sạch không kình ngạc… Mở đầu là hai
chữ “yên dân”, kết thúc là”thái bình”, “chiến thắng”, là “thanh bình”, là “duy tân” điểu đó
đã thể hiện tính nhất khí, nhất quân của Bình Ngô đại cáo. Chỉ nói về phương diện nghệ
thuật, Bình Ngô đại cáo xứng dáng là bài ca thắng trận, khúc hát hòa bình của ông cha lưu
mãi ngàn thu. Trong tác phẩm này, tác giả đã kết hợp một cách uyển chuyển giữa tính chân
xác lịch sử với chất sử thi anh hùng ca qua lối văn biền ngẫu mẫu mực của một ngọn bút tài
hoa uyên thâm Hán học.
Đã sáu trăm năm trôi qua, lịch sử cũng đã lùi vào dĩ vãng, nhưng Đại cáo bình Ngô vẫn
trọn vẹn sức sống như thuở ban đầu. Bản văn kiện lịch sử mang tầm tư tưởng vĩ đại, một
luận văn tổng kết lịch sử yêu nước vô cùng xuất sắc, cũng là một áng văn chương tiêu biểu
cho ngòi bút thần Nguyễn Trãi.
Bình Ngô đại cáo, khúc khải hoàn ca, anh hùng ca sáng chói cả một thời đã hội tụ biết bao
nhiêu cảm xúc vậy như thể tiếng chuông ngân vang, đồng vọng từ quá khứ dội về, hướng
chúng ta ở thời đại nào cũng thấy tự hào, kiêu hãnh. Đọc “Cáo Bình Ngô”, bên tai ta lại
bỗng nhiên nghe thấy tiếng nói dõng dạc của chủ tịch Hồ Chí Minh như dội về từ quảng
trường Ba Đình ngày ấy: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm
nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc
đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập! Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do
và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập.”

You might also like