You are on page 1of 26

“Thơ ca làm cho tất cả những gì đẹp nhất trên đời trở thành bất tử” (Shelly)

Bằng trải nghiệm văn học, hãy bàn luận về ý kiến trên.

Bài làm

“Thượng Đế đã chết” – lời khẳng định của triết gia Friedrich Nietzsche như hồi
chuông thức tỉnh một nền văn hóa tôn giáo Tây phương thời đó, đang bị tha hóa và
lún sâu dần vào chủ nghĩa Hư vô. Để rồi hôm nay, còn đó những đức tin bị xói
mòn, những cái đẹp đánh rơi, đời sống tâm hồn bị quên lãng trước thời đại vật chất
lên ngôi… Liệu mọi thứ sẽ tiến tới huỷ diệt? Đâu là cái nôi nuôi dưỡng, là đôi cánh
bay cao cứu rỗi những giá trị tốt đẹp của con người? Phải chăng, nghệ thuật – như
nhà văn Anh Shelly phát biểu – sẽ làm tròn sứ mệnh của nó: “Thơ ca làm cho tất cả
những gì đẹp nhất trên đời trở thành bất tử”?

“Những gì đẹp nhất trên đời” là các giá trị có ý nghĩa tồn tại trong đời sống con
người, hoặc hiển lộ trước mắt, hoặc khuất lấp sâu kín đòi hỏi người ta phải tinh tế
mới phát hiện và thấu triệt. Làm cho những giá trị ấy trở nên “bất tử” – tức mang
sức sống mãnh liệt và bền bỉ theo thời gian, trong lòng người, ấy là sứ mệnh mà
thơ ca hướng tới, là thiên chức của mỗi người cầm bút trên hành trình nặng lòng
với văn chương. Đời người ta là hữu hạn. Chính con người cũng phải chấp nhận
giới hạn của thời gian, thừa nhận quy luật tất yếu của tạo hoá về một sự sống có
điểm dừng. Bởi vậy, đặt ra vấn đề “bất tử hoá” những gì đẹp nhất trên đời với một
thể loại văn học, Shelly khẳng định bản chất của thơ ca, đồng thời thách thức
những người nghệ sĩ tài hoa trong cuộc chiến với sự đào thải trong nghệ thuật và
sự khắc nghiệt của các giá trị khác trong cuộc đời.

Thơ ca “bất tử hoá” những giá trị tốt đẹp trong đời sống xã hội...

Văn học là mĩ cảm về cái đẹp. Mảnh đất hiện thực cuộc sống muôn màu là kho
tàng quý báu dắt lưng vốn mỗi người nghệ sĩ trên hành trình sáng tạo, nhưng anh
không phải người thợ chụp cho bằng hết mọi hiện hữu của cuộc đời. “Cái đẹp man
mác khắp vũ trụ” – cái đẹp tinh vi và diệu vợi, những giá trị đáng trân quý thường
không hiển lộ trước mắt đòi hỏi nhà văn phải “phát hiện cái đẹp chính ở chỗ mà
không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật” (Hoài Thanh) để đem
đến cho bạn đọc những khám phá mang tính phát hiện về đời sống. Cái đẹp không
chỉ là đối tượng của thơ ca. Chính cái đẹp cũng khơi nguồn ở chủ thể những cảm
hứng sáng tạo không ngờ, rung động đến xúc cảm sâu kín trong lòng anh, thôi thúc
anh cầm bút và viết đôi điều về cuộc đời. Người xưa thường “tức cảnh sinh tình”.
Chẳng thế mà người ta thử tài nhau bằng những bài thơ ứng đối, thích thú cảnh
thiên nhiên mà nên tình nên ý như Hồ Chí Minh đúc kết: “Cổ thi thiên ái thiên
nhiên mỹ/ Sơn thuỷ yên hoa tuyết nguyệt phong”. Cái đẹp vốn hiện tồn trong
khoảnh khắc người thơ “thiên ái” ấy bỗng trở thành bất tử, bởi thơ ca lưu tồn đến
ngàn đời. Chẳng thế mà có một “Điểu minh giản” đưa người về chốn Thiền thi tĩnh
mịch “Nguyệt xuất kinh sơn điểu/ Thời minh tại giản trung” (Vương Duy), một
“Côn Sơn ca” vẫn vang âm tâm sự thi nhân: “ Côn Sơn suối chảy rì rầm/ Ta nghe
như tiếng đàn cầm bên tai” (Nguyễn Trãi), một bức tranh làng cảnh nhân tình Việt
Nam trong thơ Nguyễn Khuyến, hay một núi non hùng vĩ “Ngàn thước lên cao
ngàn thước xuống” theo bước hành quân anh bộ đội cụ Hồ… Cái đẹp của khoảnh
khắc ấy chẳng thể trường tồn vĩnh cửu theo biến chuyển thời gian, nhịp sống thời
đại. Nhưng bằng sức mạnh của nghệ thuật, nó có thể vượt ranh giới không gian
thời gian mà hoá thành bất tử: “Văn học nằm ngoài các định luật của sự băng hoại.
Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết.” (Sedrin)

Tự nhiên không phải cái đẹp duy nhất của cuộc sống. Chính những giá trị thuộc về
văn hoá, về truyền thống, bản sắc của mỗi dân tộc mới làm nên con người mỗi
quốc gia. Nhà văn không xuất thân từ môi trường chân không, mảnh đất quê hương
chính là nơi trao anh sự sống và là chốn anh quay về tựa nương, vun đắp. Mỗi
mạch máu, nhịp đập đều ít nhiều sức sống của dân tộc, của thời đại, của những kế
thừa ngàn năm. Ngòi bút anh trăn trở, khao khát đưa văn hoá mình thành những
giá trị của thì hiện tại, tiếp nối mạch nguồn và duy trì sự sống. Với Nguyễn Bính –
nhà thơ với chất “quê mùa” thứ thiệt cũng có những cảm thức riêng mình về cái
đẹp của văn hoá trong thời đại khủng hoảng các giá trị: một cái tôi lỡ dở của kẻ lạc
loài bất an với thời cuộc; nên khát khao lắm: “Hoa chanh nở giữa vườn chanh/
Thầy u mình với chúng mình chân quê” . Người thơ đã gắn chặt hồn mình với hồn
dân tộc, bấu víu lấy những gì là chân, là thật, là gần gũi mộc mạc nhất để không
trôi theo dòng ngoại lai ồ ạt, nên thế giới thơ cũng thật quê làm sao! Như những
con sóng va đập giữa hai bờ nông thôn và thành thị, Nguyễn Bính gợi lòng ta lại
với “bến sông, quán lẻ, mưa dầm”, thương nhớ “hoa xoan phơi phới bay” và cả
miếng trầu hàng cau thắm duyên vợ chồng ấy nữa…

Con người ta chỉ có thể tả vỏ của cái khác và phơi ruột của chính mình!

Có cả một “ruột” Nguyễn Bính trong cái “vỏ” “Tương tư”. Có phải chăng đó chỉ là
nỗi tương tư nghìn đời của đôi lứa tự tình, là xúc cảm thầm kín của những trái tim
đang nhớ, đang thương, đang yêu thầm một kẻ? Phải chăng “thôn Đoài – thôn
Đông”, “tôi – nàng”, “bên ấy – bên này”, “trầu – cau”… đơn thuần là khát vọng
hạnh phúc lứa đôi diễn giải cho tâm tình kẻ tương tư nọ? Và cái “ngày qua ngày”,
cái “cách một đầu đình”, câu hỏi “bao giờ bến mới gặp đò” chỉ là sự kể lể diễn giải
khoảng cách thời gian, không gian tâm lý, cái nghịch lý trữ tình trong xúc cảm
thăng hoa của kẻ yêu? Có lẽ là không. Ẩn sau tiếng nói tình tự, là sự cất tiếng của
cái tôi lãng mạn – cái tôi cá nhân đơn côi bơ vơ chỉ có thể hóa giải khi tìm được sự
đồng điệu và nơi nương náu cho tâm hồn. Bi kịch của cái kiếp “sống lìa đàn” là
không có tận cùng. Bởi phù hoa huyễn hoặc thì chối bỏ người: “Phù hoa thôi hết
mộng huy hoàng/Sớm nay sực tỉnh sầu đô thị”; mà một lần “lỡ bước sang ngang”
thì kẻ hồi hương và đất cũ cũng có những ngăn cách vô hình đầy phũ phàng:

“Không còn ai ở lại nhà

Hỏi còn ai nữa để hoa đầy vườn

Trăng đầy ngõ, gió đầy thôn

Hỏi về quê cũ có buồn không anh?”

Nguyễn Bính là cái lỡ dở muôn đời ấy. Trang thơ thấm trang đời, để rồi mỗi chữ
viết ra là một lần se thêm cái tơ “duyên bút mực”, dẫu long đong nhưng là quy luật
của đời văn chương vậy!

Thế giới nghệ thuật thể hiện quan niệm, thế giới quan và nhân sinh quan của người
cầm bút như thế, thậm chí là cả những đau đớn, những giọt nước mắt của nhà thơ
trước sự nhoè mờ của cái đẹp trong cuộc đời. Bảo rằng Nguyễn Bính là “quê”, ấy
là mặt cảm xúc trữ tình và bút pháp nghệ thuật, chứ tư tưởng thì chẳng cũ, chẳng
quê chút nào! Những nhà văn, nhà thơ lớn bao giờ trước hết cũng phải là người
nghệ sĩ của dân tộc mình. Thơ Êxênhin sống mãi trong lòng người đọc bởi thơ ông
đã thấm đẫm tâm hồn Nga, tính cách Nga. Những trang văn của Kawabata với “Xứ
tuyết”, “Cố đô” Ngàn cánh hạc,... sẽ chẳng xúc động lòng người đến thế nếu không
phải thắm đượm trong đó cái hồn dân tộc Nhật, cái chất văn hoá Nhật truyền thống
tiềm ẩn trong mỗi nếp nghĩ nếp làm, mỗi tâm hồn tính cách, mỗi nghi thức trà
đạo... Thơ Nguyễn Bính dù không có những tìm tòi cách tân đột phá, nhưng vẫn là
một giá trị có ý nghĩa, bởi nó nuôi dưỡng và “bất tử” những gì đẹp nhất, đáng trân
quý nhất của thời ấy, bây giờ… Bởi “Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê ẩn
náu trong ta” (Hoài Thanh) – một chiều cả gió nọ, hồn quê tình quê bám đầy trái
tim ta!

Thơ ca “bất tử hoá” những giá trị tốt đẹp trong tâm hồn người…

Cái làm nên con người xã hội là những phức tạp của đời sống tinh thần. Mỗi con
người là một tiểu vũ trụ với thế giới riêng tư, những bí ẩn mà khoa học chưa thể
giải thích tường minh, còn nghệ thuật thì đang nỗ lực cắt nghĩa ở những chiều sâu,
bề xa sâu kín nhất. Để rồi những giá trị Người, những xúc cảm Người đi vào trong
thơ hiện lên không chỉ mang tính phổ quát toàn nhân loại, mà còn là cái đẹp rất đỗi
cụ thể, cá nhân, gần gũi và chân thực. Cái đẹp là gì nếu không phải là tình yêu –
thứ cứu rỗi con người thoát khỏi tầm thường vụ lợi mà trở nên tâm hồn nhân hậu
cao thượng: “Tôi yêu em chân thành, đằm thắm/ Cầu cho em được người tình như
tôi đã yêu em” (Puskin); tình yêu – thứ xúc cảm nhân bản khó nắm bắt nhưng lại
làm nên “một chiều” người ta được sống thực sự với chính mình: “Làm sao cắt
nghĩa được tình yêu/ Có nghĩa gì đâu một buổi chiều!” (Xuân Diệu); và rồi, cũng
tình yêu – làm cho trái tim thổn thức người phụ nữ biết bản lĩnh hướng tới lý tưởng
cuộc đời mình: “Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể” (Xuân Quỳnh).
Mọi cung bậc của tình yêu đi vào thơ ca thành thứ cảm âm riêng, mang tần số
riêng, cộng hưởng với những rung động trong tâm thức riêng tư mỗi con người.
Chính tình yêu – cái đẹp ấy đánh thức cái đẹp của lòng người. Đến lượt nó, đi vào
thơ ca, hoá thành biểu tượng bất tử! Cái Đẹp lại là gì, nếu không phải là tình cảm
gia đình thiêng liêng và sâu sắc đi sâu vào tiềm thức con người, là bếp lửa sớm tối
bà “ấp iu nồng đượm”, là lời ru “cánh cò bay lả” những ngày con ấu thơ mà trọn
kiếp con người con chẳng thể hiểu hết, là lời mộc mạc chân tình nhưng thấm thía
mỗi “người đồng mình” “nói với con” trước những chuyến đi xa…? Và cái Đẹp là
gì, nếu chẳng phải những tâm tình rất thực của tấm lòng người cha với đứa con bé
bỏng trong hoàn cảnh éo le rất đời:

“Con ơi con hãy tha thứ cho cha

Cha chẳng thể nào sống cùng mẹ được

Đời cha nắng gắt

Mẹ con cần suối mát đời vui

Con lớn khôn trên đời

Hãy yêu thương mẹ

Và hãy hiểu cho cha”

Thơ Lưu Quang Vũ bao giờ cũng rất riêng như thế. Tâm sự của một gia đình đổ
vỡ, một hạnh phúc chia đôi ư? Nó vẫn rất đẹp, nếu như người ta sống đẹp, nghĩ
đẹp. Thơ ca đã thực hiện được sứ mệnh của nó, bảo lưu những điều đẹp đẽ nhất
của đời sống, của hồn người. Để rồi một lúc nào đó trong đời, khi trái tim dậy sóng
cần nơi vỗ về ủi an, thơ ca lại trở thành liều thuốc hữu hiệu nhất. Bởi cái đẹp bao
giờ cũng mang sức mạnh cảm hoá, và nhà văn thì là "Người vẫn còn mang vết
thương đã toan đi chữa vết thương cho người khác. Tôi nghĩ nghề viết và người
viết cũng đơn giản vậy, chữa lành, an ủi những vết thương của người đời để làm
dịu vết thương của chính mình.” (Nguyễn Ngọc Tư)
Có nhiều cách để “bất tử” cái đẹp. Không phải bao giờ lời khẳng định chắc nịch
cũng đủ sức thuyết phục và có sức mạnh thắng thế. Đôi khi văn học phải khẳng
định bằng cách đối đầu, thách thức, phủ định, hoặc chất vấn. Làm gì có cái gì đơn
giản khi đứng trước bể đời và lòng người. Cái Thiện và cái Ác, thiên thần và ác
quỷ, cái hôm qua, hôm nay, cái mai sau, cái bề trước, bề sau bề xa hay cái bày ra
trước mắt và cái khuất lẩn tranh sáng tranh tối... Nếu không có tài năng, nhà văn
không thể phân biệt cái đẹp – xấu. Nếu không đủ bản lĩnh, anh ta cũng khó lòng
thể hiện phát hiện khám phá riêng của mình về cái đẹp trên trang giấy, và lên tiếng
cứu lấy cái đẹp với thời đại. Một tài năng lớn, một phong cách thực sự chính là
những kẻ biết viết và dám viết thế đó. “Không có lối đi chung nào cho hai nhà
thơ”- khẳng định của Thanh Thảo cũng là lời gọi dẫn người viết gia nhập vào hành
trình khổ hạnh đi “bất tử cái đẹp” của văn chương: sáng tạo nên lối đi của riêng
mình. Bản ngã riêng ấy chỉ xuất hiện khi tư tưởng nhà văn đạt đến độ chín, ngòi
bút sắc sảo và cá tính hơn trong nghệ thuật thể hiện. Thế giới gốc – nguyên mẫu
vốn chỉ có một. Muốn nắm bắt “cái đẹp man mác vũ trụ”, anh không thể đứng
nguyên một góc nhìn nhìn đời bằng con mắt phàm phu thông thường, trùng lặp
người xưa. Phát hiện về cái Đẹp thường xuất hiện trong hệ quy chiếu khác, tư duy
khác và một tâm hồn cởi giải những định kiến về đời sống và con người. Cái Đẹp
cũng chỉ xuất hiện khi người ta chiến thắng nỗi sợ cá nhân và đủ can đảm đối lập
với chuẩn mực trở thành tất yếu của đám đông đương thời. Một Hồ Xuân Hương
đầy bản lĩnh với độc đáo có vậy mới xứng danh “thơ Quỷ”, trở thành “Bà chúa thơ
Nôm”. Nếu thơ Xuân Hương cũng nhất mực tao nhã trang trọng như thơ Bà Huyện
Thanh Quan, hay yểu điệu sướt mướt như lời Ngọc Hân công chúa “Ai tư vãn”,
hoặc đi theo thơ Đoàn Thị Điểm với những ước lệ tượng trưng, thì chắc chắn
không thể có thứ thơ như “rau vườn mới hái” làm lòng người nể phục. Một ông Tú
như “cây sầu đông ngoài tươi mà trong rầu héo”, với những tiếng cười buốt sắc
như thuỷ tinh vỡ, cào nát bộ mặt giả dối ô trọc của chế độ thực dân nửa phong kiến
ngay trên mảnh đất Thành Nam đã phá vỡ cái chuẩn chung của thơ ca Trung Đại,
để rồi “những lời trào lộng kiêu bạc” “lệch chuẩn” không giấu nổi cái “tủy cốt
chung tình” của một tấm lòng nặng nợ với đời. Đi khỏi cái chuẩn chung, thi nhân
khẳng định tiếng thơ riêng trên văn đàn, tiếng thơ như một lời chất vấn, một sự xác
lập mạnh mẽ. Những cây bút ấy khẳng định quyền uy, sức sống của cái đẹp vô
cùng nhân bản: ý thức cá nhân của con người. Để rồi chính sự tự ý thức của những
con người tiến bộ ấy cũng là cái Đẹp được người đời trân trọng và tụng ca!

Thơ ca bất tử cái đẹp, suy cho cùng là để hướng thiện, hướng thiện con người,
“dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp” (Pautopxki). Cho thấy đời vô thường và người
bất toàn, văn học dù nói cái “bi kịch” cũng là đích đến “thanh lọc” (Aristole) mà
thôi. Không khuyên răn con người níu lấy cái chấp niệm ngoài mình, thơ thiền dẫn
đường tới hiện thực nên có: hiện thực của tâm hồn mình. Con người hãy tự đốt
đuốc mà đi, thắp sáng ngọn lửa trong tim mà kiếm tìm “chân như”, truy cầu bản
thể, phát hiện Con Người mà triết gia Điogen thời xưa nung nấu, tìm ý nghĩa sống
đích thực mà kịch Shakespeare sau này hãy còn ám ảnh: “Tobe or not tobe”. Vượt
qua quy luật hằng thường:

“Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai”

mà hội nhập tiểu vũ trụ cá nhân vào đại vũ trụ để sống thuận theo quy luật bằng
bản tâm trong sạch bất diệt, mỗi người tất sẽ tìm thấy “đoá mai” cuộc đời mình.
Đoá mai nơi “đình tiền tạc dạ” hay chính là đoá mai của thiền tâm bất hoại chẳng
phải vẫn luôn hiện hữu tự thuở “nhân chi sơ” đấy sao? Trước cát bụi của vô
thường, nghệ thuật đánh thức và bung nở những giá trị trân quý. Hơn cả thức tỉnh,
nó là cuộc hành hương trở về với thiện căn của mỗi người! Cái đẹp – vốn dĩ vẫn
tiềm tàng trong tâm hồn mỗi người đấy thôi!

Thơ ca bản thân nó là cái đẹp. Xúc cảm thẩm mĩ, tư tưởng thẩm mĩ đem đến cho
bạn đọc những mĩ cảm chân chính. Điều này không thể có nếu không có những
người viết chân chính, và nếu thiếu đi những bạn đọc chủ động trên hành trình tìm
kiếm, thưởng thức, đối thoại với cái đẹp nơi nghệ thuật.

Sau cùng, hãy tin cái đẹp bất tử:

“Lorca bay sang ngang

trên chiếc ghi ta màu bạc

li-la, li-la, li-la…”

(Thanh Thảo)

Đặng Thị Thu – THPT Chuyên Lê Hồng Phong – Đội tuyển HSGQG Nam Định
Văn chương có khả năng bào chế thuốc giảm đau cho con người?

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 – Công nghệ 4.0 đã tác động đến tất cả
các ngành, các lĩnh vực. Ngày nay, máy móc và con người đã có thể giao tiếp với
nhau, đem lại hiệu quả không nhỏ cho sự phát triển của xã hội. Thế nhưng, dẫu
máy móc có nâng đỡ con người lên tận sao Hỏa, Cung Trăng thì nó cũng không thể
hóa giải hết những áp lực tinh thần mà con người đối mặt hứng chịu giữa xã hội bề
bộn, đầy biến động. Dẫu là những môn nghệ thuật thuần túy như hội họa, âm nhạc,
sân khấu, vũ đạo… cũng khó lòng mà thay thế nghệ thuật ngôn từ – văn học. Phải
chăng, văn học sẽ luôn hoàn thành sứ mệnh của mình - bào chế thuốc giảm đau cho
con người?

Mỗi cá thể đều mang trong mình những nỗi đau - những khối u tận sâu trong
tâm hồn. Văn học thực hiện sứ mệnh cao cả của mình, “bào chế” - phát minh ra
“thuốc giảm đau” - chữa lành những vết thương tổn của con người. Đặt ra vấn đề
những giá trị của văn học, đó chính là khả năng giáo dục, giúp chữa lành tâm hồn
con người bằng những giá trị cao đẹp, hay nói rộng hơn, đó chính là tính nhân loại
của văn học. Văn học tạo ra những giọt mát lành ủi an, vỗ về tâm hồn con người
khiến con người từ đó trưởng thành và lớn lên.

Trước hết, để trở thành một thứ “thuốc”, văn học đi từ chọn thảo dược - chọn
góc nhìn, tình cảm để thấu hiểu, đồng cảm với nỗi đau của con người. Chẳng phải
kỳ diệu như đũa thần của bà tiên, ông bụt, văn học tác động lên con người từ
những gì giản đơn, chân thành nhất. Mà để được chữa lành và bình phục, trước tiên
tâm hồn con người phải được thấu hiểu. Bởi thế những tác phẩm văn học chính là
tấm gương phản chiếu chân thực, hiểu rõ những yêu cầu bức thiết và khát vọng, hỉ
nộ ái ố của quần chúng. Như ai đó từng viết:
“ Có phải con người- sự hoàn thiện tuyệt vời và nỗi đau muôn thuở
Đã cho ngòi bút anh sức mạnh vượt thời gian”

Các nhà văn, nhà thơ qua từng thời kì chẳng phải vì thế mà luôn soi chiếu tâm
hồn con người, thấu được nỗi đau của họ và cất tiếng nói đòi công bình hay sao?
Nguyễn Du với ngòi bút như có máu, với đôi mắt nhìn thấu sáu cõi, đi ngược lại
với quan niệm của thời đại, bỏ qua lời ai oán trách móc “Đoạn trường cho đáng
kiếp tà dâm!” mà cảm thông, nâng niu số phận của người phụ nữ “Thanh lâu hai
lượt, thanh y hai lần”. Hay Nam Cao hiểu số phận của những “Chí Phèo” mang vẻ
ngoài là kẻ rạch mặt ăn vạ, ông bỏ qua lời đồn đại, định kiến của xã hội đương thời
mà cho Chí một loài “thảo dược” - bát cháo hành, dù phút chốc thôi cũng đủ để
khơi dậy bản tính thiện lương của anh nông dân canh điền ngày trước. Không có
nhà văn, ai sẽ là người lắng nghe, thấu cảm nỗi đau đời, nỗi đau thân phận của con
người?

Thứ “thảo dược” mà L.Tonxtoi chọn cho Anna Karenina chính là cách ông
cho nhân vật của mình thoát khỏi gọng kìm kẹp của xã hội hà khắc mà sống thực
với trái tim của chính mình. Ý định đầu tiên của nhà văn là phải phê phán nghiêm
khắc người đàn bà bội bạc đã phá hoại nền móng gia đình. Nhưng vì đòi hỏi hiện
thực và chống lại trật tự phong kiến, nhà văn thẳng thắn đã buộc phải thay đổi thái
độ với nhân vật chính trong quá trình sáng tác: cuối cùng ông đã bào chữa cho
Anna, nạn nhân của sự đè nén, trói buộc lạc hậu. Nhiều người cho rằng cái chết
của Anna cuối tiểu thuyết là một bi kịch, minh chứng cho con người không thể nào
sống theo ý mình vào thời đại đó. Và như vậy, văn học không thể được coi là một
thứ thuốc chữa lành cho con người! Nhưng ta có chăng đã nhìn sâu, L.Tonxtoi thà
để cho nhân vật chết chứ không bắt ép nàng sống một cuộc đời mà nàng không
muốn. Tôi cho rằng, khi ấy văn học mới thực sự là một loài “thảo dược” - cho con
người ta thứ cần nhất trong cuộc sống, mà với Anna - chính là thoát khỏi thực tại
khắc nghiệt, chán ghét ấy. Tự hỏi nếu Anna tiếp tục sống trong cái thế giới “gian
dối, gian trá, lừa đảo, độc ác” (như lời của chính nàng) thì liệu nàng có được hạnh
phúc? Nhà văn, văn học thấu cảm và lắng nghe tâm hồn con người, chọn loài “thảo
dược”, góc nhìn, góc cảm nhận và đặt trái tim của mình khác so với những người
cùng thời để mang lại liều thuốc chữa lành cho tâm hồn người. Nói như nhà văn
Nguyễn Văn Học: “Văn chương là phương thuốc chữa lành những vết thương
lòng.”

Không chỉ vậy, văn học bào chế ra từng loại “bột”, loại “viên nén” cho từng
bệnh nhân. Đó có thể là lòng xót xa thương cảm hay lời ngợi ca, đó cũng có thể là
tìm cho con người một chỗ dựa để quên đi niềm đau thực tại. Có người coi thiên
nhiên là người bạn để nương tựa, vịn nén. Là Lý Bạch ngao du sơn thủy, lên núi
Nga Mi đẻ ngắm trăng, thưởng nguyệt rồi “Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/Cúi đầu nhớ
cố hương.” Là Hàn Mặc Tử với giấc mộng Trăng, Hồn, Máu, với lên trăng cao để
thấy “Đầy mình lốm đốm những hào quang”. Hay có người tìm về một thời vàng
som, một thời quá vãng để quên đi niềm đau thực tại, để trân trọng những giá trị
xưa cũ còn sót lại:
“Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Là Vũ Đình Liên đang tự bào chữa cho mình viên thuốc giảm đau hay ông muốn
dành tặng cho những nhà Nho học cuối thời? Văn học bào chế viên thuốc cho
chính chủ thể trữ tình, cho nhân vật trong từng trang sách hay dành tặng cho cả
thời đại? Tâm lý con người luôn luôn khao khát tìm kiếm ai đó giống như chính
mình vậy, từ lối sống, lời nói, cử chỉ, hành động. Con người luôn bất ngờ khi tìm
thấy cái nét riêng của chính mình trong một cá thể khác. Nghệ sĩ là người tiên
phong trong cuộc tìm kiếm những nỗi đau riêng để cấu thành cái đau chung. Văn
học sẽ là một loại thuốc hữu dụng khi nó vượt lên trên giới hạn của việc phản ánh
hiện thực mà đi sâu vào tâm hồn con người, lắng nghe “tiếng thét khổ đau” và bào
chế loại thuốc cho cả nhân loại.

Có lẽ nỗi đau đại diện cho toàn thời đại, cho toàn dân tộc tiêu biểu nhất xuất
hiện trong dòng văn học kháng chiến 1945-1975. Khi toàn dân tộc ôm nỗi căm hờn
giặc ngoại xâm, nung nấu chung một lòng quyết chiến mãnh liệt, đó cũng là
khoảng thời gian ta phải đối diện với nhiều mất mát, đau thương. Và văn học, đã
bào chế ra loại thuốc diệu kỳ, ủi an nỗi đau của người ở lại, ủi an nỗi cơ cực của
người ra đi bằng những lời thơ thật hào hùng:
“Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Sao bảo dãi dầu thể xác, bao trận đánh oanh liệt người lính ra đi vì cõi vĩnh hằng.
Quang Dũng đã tạo ra thứ thuốc chữa lành tâm hồn bằng cảm hứng lãng mạn.
Những tấm áo lính rách vì bom đạn, bạc vì mưa nắng giờ đây đã trở thành những
tấm áo bào sang trọng. “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, sự hy sinh
cao quý ấy của anh đã trở thành bất tử. Không chỉ dừng lại ở những trang thơ của
Quang Dũng, vẻ đẹp ấy còn được khắc họa rõ nét trong nhiều tác phẩm khác cùng
thời kỳ như “Đồng chí” (Chính Hữu), “Nhớ” (Hồng Nguyên),... tất cả đã tạo nên
bức tượng bất tử về những người lính cụ Hồ. Sự đau thương giờ đây không còn là
đổ máu, giọt nước mắt mà niềm đau ấy được ủi an bằng những hình ảnh tráng lệ
nhất, đẹp đẽ nhất và ghi dấu biết bao sự khâm phục, tự hào. Nỗi đau của dân tộc
giờ cũng đã được chữa lành bằng nền độc lập, hòa bình, bằng tương lai ấm êm.
Phải chăng, thơ ca nói riêng và văn học nói chung, “ tạo vẻ đẹp cho những dòng
nước mắt và biến nỗi thống khổ của nhân loại thành tiếng hát vô biên.” (Đặng
Tiến). Hay như lời thơ của Muy-xê:
“Lời tuyệt vọng là lời ca hay nhất
Tiếng nấc kia chứa tuyệt bút muôn đời”

Không chỉ dừng lại ở bào chế, điều quan trọng nằm ở tác dụng của liều thuốc
tâm hồn mà văn học tác động. Đó không chỉ là thứ thuốc dịu nhẹ an ủi tâm hồn con
người, tác dụng của loại thuốc mạnh nhất - thuốc morphine, giúp con người bình
phục, trưởng thành và lớn lên. Văn học đâu chỉ là tiếng lòng đồng cảm, hơn cả nó
giúp con người “hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và
làm nảy nở ở con người khát vọng vươn tới chân lý” (M.Gorki). Bởi thế những nhà
văn vĩ đại đâu chỉ dừng lại ở vẻ đẹp ngôn từ hoa mỹ, mà ở đó ta thấy được sự uyên
bác của tư tưởng, sự sâu sắc của triết lý nhân sinh. Loại thuốc hữu dụng không chỉ
chữa lành vết thương cho con người mà sau đó tâm hồn ta lớn lên cùng những tình
cảm, nhận thức. Ta tin rằng, “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư là một liều
thuốc nhẹ nhàng, chữa lành, an ủi tâm hồn độc giả. Cuộc đời du mục trên khắp
cánh đồng Nam Bộ, từ bi kịch của Nương, tới nhận thức nỗi đau của chính người
mẹ, sự hoàn lương của người cha, hai chị em hiểu: “Dục tính và xác thịt không xấu
xa, không đáng khinh bỉ, không phải là nguyên nhân đẩy chị em đến cuộc sống với
những đổ vỡ này”. Hóa ra, căn nguyên của mọi nỗi đau lại bắt nguồn từ chính tổn
thương của một con người. Nhưng trái tim nhân đạo của Tư đã gieo cho Nương
một tia hi vọng, một mầm thiện lương, một tình thương vào mảnh đất vốn còn
ngổn ngang, lởm chởm những tàn tích. Hay sự thanh lọc con người trong “Nỗi
buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, viết về con người trong thời gian như một cách
làm nguôi ngoai đi chính tâm hồn họ. Nỗi ám ảnh về cái chết của người lính giáp
mặt với kẻ thù. Cái chết của anh lính vì quá thương mẹ, mà “đào ngũ” tìm đường
ra. Rồi lại đến nỗi ám ảnh về tình yêu của Hiền, của Vĩnh, và của Phương. Tất cả,
tất cả rồi sẽ là nguyên cớ khiến anh phải cầm bút để làm sống lại tất cả những gì
được kết đọng trong tâm trí, để giải thoát lòng Kiên, để cứu sống những người lính
đang mắc kẹt trong ám ảnh thực tại giống như Kiên vậy. Như ai đó từng nói: “Thơ
ca chân chính phải là nguồn thức ăn tinh thần phát triển, nó không phải thứ thuốc
phiện êm ái mà nhỏ nhen, độc hại.”

Không chỉ dừng lại ở tác động một chiều của văn học, người đọc - “người sử
dụng loại thuốc” phải biết đối thoại với chính mình, để sự diệu kì của thuốc xua tan
bóng tối trong tâm hồn, để phản tỉnh lương tâm, hướng tới cái Thiện. Con người
tìm đến văn học để thanh lọc, để giải phóng những bế tắc trong tâm hồn. Tiếp xúc
với một tác phẩm, lòng người diễn ra cuộc đấu tranh giữa “Thiên thần và Ác quỷ”,
giữa phần cao đẹp và thấp hèn, buộc ta phải lựa chọn, thay đổi của chính mình.
Phải chăng ta thấy “giật mình” vì mải mê trong hiện đại mà quên đi nghĩa tình quá
khứ sau khi cảm nhận “liều thuốc” trong trang thơ Nguyễn Duy? Ta thấy đôi lúc ta
chấp nhận sống theo người khác mà đánh mất mình khi đặt mình vào vị trí Giang
Minh Sài trong tác phẩm của Lê Lựu. Rồi ta thấy bản thân đôi lúc chạy theo xu
hướng đám đông, bị che mờ bởi những mộng mị của xã hội khi đọc văn Lỗ Tấn.
Thật vậy, văn học là liều thuốc cho ta một thoáng nhìn lại về chính mình, để rồi
thay đổi “mắt ta nhìn, óc ta nghĩ”, hoàn thiện bản thân mình hơn.

Qua nhân vật Bê-li-cốp thuộc tác phẩm “Người trong bao” của nhà văn Sê-
khốp, tôi thấy mình đã có nhiều thay đổi nhờ vào “liều thuốc” mà tác phẩm mang
lại. Nếu trước đây, tôi như Bê-li-cốp - luôn lo lắng, sợ hãi với thực tại, chỉ chui vào
chiếc vỏ ốc của chính mình mà nhìn thế giới với ánh mắt e ngại. Đặc biệt trong xã
hội phát triển như ngày hôm nay, bên cạnh cơ hội thì luôn song hành những thách
thức lớn, người trẻ với tâm lý sợ thất bại mà ẩn mình “trong bao”, chỉ dám yên ổn
trong vùng an toàn của mình. Cho đến khi “liều thuốc” mà Sê-khốp chiếu rọi, tôi
thấy mình đã sống thật hèn nhát, thật trốn chạy, thật tẻ nhạt biết mấy. Cuối tác
phẩm, nhà văn kêu lên: “Không thể sống mãi thế này được nữa!” làm tôi bừng
tỉnh, nảy nở khát vọng dám thay đổi để chấm dứt “người trong bao” ở bên trong
mình. Thật vậy, văn học “bào chế thuốc” là một chuyện, nhưng người đọc cũng
cần chủ động soi chiếu bản thân mình, để tự hướng bản thân tới cái tích cực. Nghệ
thuật bao giờ cũng là bức thông điệp xanh, là giây phút mà người nghệ sĩ say sưa
trút cạn thâm tâm lên trang giấy rộng mở. Để rồi từ đó chúng ta nhận ra “cành vàng
đã bừng nở kì diệu sau những giây phút thăng hoa”.

Như vậy, “văn học bào chế thuốc giảm đau cho người”, giúp tâm hồn con
người bình phục và lớn lên. Đặt trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt khi dịch bệnh
Covid-19 đang diễn biến phức tạp, liệu văn học còn hoàn thành sứ mệnh ấy? Nếu
các ngành khoa học, đặc biệt ngành y tế giúp chữa lành con người từ vết thương
thể xác, duy trì sự sống vật lí thì phải chăng Covid là lời báo hiệu cho sự suy tàn
của nghệ thuật? Tôi chợt nhớ đến một khung cảnh mình đã xem trên tivi, một nghệ
sĩ vẫn say sưa biểu diễn saxaphone trước bệnh viện dã chiến, đem lại niềm vui cho
những bệnh nhân cho khu cách ly. Trong khoảnh khắc cái chết có thể lướt qua và
cướp đi mạng sống của bất kỳ người nào, con người vẫn thắp lên niềm tin bằng
những lời ca. Như nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung từng viết: “Trước một thế
giới tan vỡ hay có nguy cơ tan vỡ, nhà văn phải nhặt nhạnh từng mảnh vỡ, tái tạo
lại chính nó, đồng thời kích hoạt những dây đàn cảm xúc của con người”, văn học
vẫn luôn hoàn thiện sứ mệnh của mình, như Thanh Thảo từng nói, là “đôi nạn”
giúp người tàn tật “đứng dậy”, bước đến với mọi người. Nếu như virus được ngăn
chặn, chữa lành bằng liều thuốc vaccine, thì những quyển sách cũng chính là liều
vaccine cho tâm hồn, gắn kết người gần người hơn.

Bằng vốn sống phong phú, bằng cái tâm và cái tài của mình, nhà văn cần cho
ra đời những tác phẩm có chiều sâu, hàm chứa những giá trị nhân văn, giàu sức
gợi. Có như vậy, anh mới tạo nên một “liều thuốc tinh thần” đủ sâu sắc, đủ tác
động đến với con người, độc giả. Và liều thuốc ấy chỉ thực sự có tác dụng khi bạn
đọc tự ý thức vai trò đồng sáng tạo của mình, đồng thời tự soi chiếu, khám phá tác
phẩm ở chiều sâu, ở con mắt toàn vẹn, thì khi ấy tâm hồn con người mới thực sự
được vỗ về bởi phương thuốc diệu kỳ mà văn học ban tặng

“Có những phút ngã lòng


Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy.”
Tôi tin, trên dòng chảy văn học miên man của thời đại này, những vết thương
của con người sẽ luôn luôn có cách chữa lành, đó là những trang sách. Khi những
nỗi đau đớn ấy lấp đầy bởi yêu thương, con người và cuộc đời sẽ viết những khổ
đau lên cát, và khắc những đồng cảm, sẻ chia, hạnh phúc, hân hoan về một thời đại
lên đá. Và tôi có một niềm tin chắc chắn rằng, những hòn đá thời đại ấy, sẽ trường
tồn bất chấp không thời gian, dẫu cho thực tại có biến động, hỗn loạn …

Nguyễn Ngọc Khánh Huyền – THPT Kim Liên – Đội tuyển HSGQG Hà Nội
Trong lĩnh vực y học, việc người ta dùng những thành phần chất, vitamin và
kháng sinh để điều chế ra một loại dược phẩm chữa bệnh cho con người đã trở
thành một điều bình thường, hiển nhiên. Đáng nói là khi soi vào trong thế giới văn
học, dường như đã và đang có một câu hỏi như vậy được đặt ra, khiến đông đảo
những người yêu sách cùng trăn trở, băn khoăn khi liệu rằng: “Văn chương có khả
năng bào chế thuốc giảm đau cho con người”?
Từ lâu, hai khái niệm “văn chương” hay “thuốc” đều đã trở nên quen thuộc với
mỗi người chúng ta. Nếu như “thuốc” được coi là “giải dược” góp lên từ những
thành phần khác nhau giúp con người quên đi đau đớn về thể xác và chữa lành
bệnh tật thì “văn chương” lại là những sáng tạo được viết lên từ ngôn từ, thể hiện
những tư tưởng, tình cảm của người cầm bút. Vốn là một phạm trù thuộc y học,
“bào chế” là chỉ việc chế tạo ra một phương thức và ở đây đó là phương thức chế
tạo ra “thuốc”. Nhưng rõ ràng, việc đặt văn chương với việc “bào chế thuốc giảm
đau”, chính xác hơn là so sánh nó với một hoạt động của lĩnh vực khác đã làm nổi
rõ lên câu hỏi, băn khoăn của chúng ta về chức năng của văn chương đối với đời
sống của con người.
Trong suốt quá trình sinh tồn, loài người chúng ta vốn đã phải đối mặt và trải
qua biết bao hiểm họa, từ chiến tranh loạn lạc, thiên tai đến dịch bệnh hoành hành.
Chiến tranh thế giới thứ nhất, thứ hai; lũ lụt, sóng thần hay dịch cúm, Sars,… đã
khiến con người phải đối mặt với vấn đề về sức khỏe, thể chất trong thương tổn
không thể nào kể xiết. Vì vậy “thuốc” ra đời như một “sự khai phá” vĩ đại của con
người khi làm giảm đi tỉ lệ đau đớn, tử vong trên cơ thể sống. Văn chương, quả
thực cũng là một sự sáng tạo kì diệu khi là nơi để bộc bạch nỗi lòng của chủ thể ,
nơi “nơi truyền lửa” đến những cá thể khác. Nhưng suy cho cùng văn chương khó
có thể “có khả năng bào chế thuốc giảm đau” khi chính nó chỉ là sản phẩm được
tạo ra bởi trí tưởng tượng, được viết lên bằng ngôn từ. Văn chương khác với sự
hình thành của “thuốc chữa bệnh” và dĩ nhiên không thể là “viên thuốc giảm đau”,
khiến nỗi đau về thể xác của con người biến mất. Điều đó là một sự thật hiển
nhiên, không thể nào chối bỏ khi chính nhà văn Trung Quốc Diêm Liên Khoa đã
phải thừa nhận rằng: đối diện với Covid-19 là “ sự bất lực và cô độc của văn học”
“khi mọi người sợ hãi, lo lắng bất an, nó … không thể trở thành một viên giải
dược”…
Nhưng không vì thế mà con người chúng ta phủ nhận vai trò, chức năng của văn
chương trong đời sống này. Văn chương quả không thể “bào chế thuốc giảm đau”
– điều đó là đúng nhưng không đồng nghĩa với việc nó trở nên vô dụng, yếu mềm
trước những biến thiên của thời đại. Kì diệu ở chỗ, văn chương không “bào chế”,
nó “chữa lành”. “Chữa lành” những vết thương tinh thần của con người, vực dậy
con người từ sâu trong đời sống nội tâm đầy tổn thương. Bởi vậy, Phùng Quán
cũng đã từng nói rằng:
Có những phút ngã lòng
Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy
Biết rằng, văn chương là một trong những loại hình nghệ thuật sớm nhất, nó gắn
bó, bầu bạn với con người như lúa, ngô, khoai trên cánh đồng. Với đặc trưng vốn
có, văn học hướng về phản ánh hiện thực và toàn bộ đời sống nhưng chung quy lại,
văn học vẫn dành sự quan tâm đặc biệt đến con người, đến những rung động tế vi
tưởng chừng như mỏng manh nhất – đó là sự lí giải tại sao văn học muôn đời là sự
bất tử. Bởi thế, trong hầu hết các sáng tác của các nhà văn, nhà thơ như Nguyễn
Du, Nam Cao, Nguyễn Minh Châu hay V.Hugo đều đặt con người trở thành nhân
vật trung tâm của mình. Ấy là những con người “tài hoa bạc mệnh” như Thúy
Kiều, Đạm Tiên; là người nông dân trượt dài trên bước đường tha hóa nơi “Chí
Phèo”, là những mảnh đời đau khổ ngay cả khi chiến tranh đã đi qua trên “Chiếc
thuyền ngoài xa” và là “những người khốn khổ” nơi đất nước Nga rộng lớn. Nhưng
văn chương vốn không đơn thuần chỉ là phản ánh, viết về những con người ấy, văn
chương còn dành cho họ một niềm cảm thông, một niềm trân trọng, một niềm ngợi
ca. Nguyễn Du thương thay cô Kiều chịu kiếp hồng nhan bạc phận “sắc tài sao mà
lắm truân chuyên”, Nam Cao không giây phút nào ngừng tin tưởng và trân trọng
bản tính lương thiện trong tâm hồn những người dân lương thiện bị tha hóa; cũng
như Nguyễn Minh Châu dù đứng trên phương diện nào cũng đều bênh vực, cảm
thông trước cuộc đời nhiều đau đớn của người đàn bà làng chài trên “Chiếc thuyền
ngoài xa”,… Rõ ràng, sự an ủi, thấu hiểu ấm áp mà họ - những người cầm bút dành
cho mọi kiếp người là một sự “chữa lành tâm hồn” đầy kì diệu.
Đặc biệt rằng, văn chương không chỉ “chữa lành” vết thương tâm hồn của những
số phận khổ đau mà nó phản phán. Rộng ra, những trang văn còn hướng về độc
giả, dẫn lối họ về với con đường chân – thiện – mỹ qua sự nhận thức đúng sai, tốt
xấu ở đời và đưa họ ra khỏi bùn lầy của khổ đau để tiến tới một tương lai của niềm
tin và hạnh phúc.
Xã hội dần phát triển theo những bước tiến mới, sự phát triển đó tạo lên những
thuận lợi trong cuộc sống con người nhưng đồng thời nó kéo theo cả những hệ lụy
không đáng có. Ấy là sự mất dần của những “mối liên hệ”, sự “mất kết nối” giữa
người với người. Chúng ta chạy theo những thứ hiện đại, chỉ nghĩ đến lợi ích của
bản thân, sống ích kỉ nhỏ nhen hơn – nói cách khác, tâm hồn ta đang dần bị chai
sạn. Điều cốt yếu rằng khi ấy, không có thứ thuốc nào có thể làm chúng ta sống tốt
hơn, yêu thương hơn nhưng văn chương lại làm được điều đó. Văn chương chọn
cách “chữa lành” từ sâu bên trong tâm hồn. Từ việc khiến ta nhận thức những số
phận, những con người… văn chương trở thành “người thầy trong tâm hồn” ta; dạy
ta biết mở rộng lòng mình để: yêu, trân trọng, cảm thông,.. Đó là lí do tại sao, khi
đọc “Truyện Kiều”, ta biết mở lòng ra, xót xa thay những kiếp người “tài hoa bạc
mệnh” như Thúy Kiều, Đạm Tiên – những con người phải “Trải qua những cuộc
bể dâu” trong một xã hội bất công và gặp họ con người ta bỗng thấy “đau đớn
lòng”. Hay chúng ta cũng biết trân trọng những ước mơ trong sáng, giàu khát vọng
của hai chị em Liên trước hoạt động cuối cùng của đêm khuya (“Hai đứa trẻ” –
Thạch Lam) và đau đớn, căm phẫn thay chiến tranh bạo tàn đã chia cắt tình yêu đôi
lứa nơi “Hôn” (Phùng Quán), chia cắt tình cha con trong truyện ngắn “Chiếc lược
ngà” (Nguyễn Quang Sáng).
Đáng nói hơn, văn chương còn khiến ta nhận ra những thực trạng xấu xa nơi
thời đại mới mà mở lòng với cả những con người vốn ta từng khinh miệt. Với
“Bức thư gửi mẹ Âu Cơ” của Y Ban, người đọc sẽ được sống trong chính nội tâm
của nhân vật “tôi” – một cô gái “lầm lỡ” trong khoảng thời gian chờ đợi để “từ bỏ
đi một sinh mạng”. Xuyên suốt tác phẩm là lời bộc bạch đầy đau đớn mà cũng tràn
đầy trăn trở băn khoăn của “tôi” nơi bệnh viện, chịu đựng sự khinh miệt của người
y tá, bệnh nhân; sự trách cứ đầy lạnh lùng từ chính mẹ của mình “Ai dạy mày như
thế?”. Mỗi lần câu nói “Ai dạy mày như thế” được vang lên là một lần đi tìm lí do
cho “hành động tội lỗi” nhưng cũng là một lần ta soi vào chính bản thân mình, vào
thái độ của mình với những con người vốn nên được sẻ chia động viên hơn tất cả.
Để rồi từ đó, ta hiểu thấu số phận của một con người, rộng ra là thực trạng chung
của xã hội khi: tỉ lệ phá thai ở Việt Nam chạm đến mức báo động và những người
bị “cô – vắc” đều nhận lại sự đay nghiến của cả cộng đồng. “Bức thư gửi mẹ Âu
Cơ” “chữa lành” tâm hồn ta, khiến ta đồng cảm và thương thay cuộc đời của những
người con gái trẻ tuổi nhưng “lầm lỡ”, khiến ta phải tự đặt câu hỏi cho chính bản
thân về thái độ của mình và khiến toàn thể xã hội, đặc biệt là những người mẹ, là
giáo dục tự vấn rằng họ đã hoàn thành bổn phận của mình hay chưa?
Ngoài sự “mất liên kết”, bị chai sạn về đời sống tình cảm; con người còn phải
đứng trước sự khủng hoảng về tinh thần trong áp lực của một xã hội mới. Những
nỗi lo về cơm áo gạo tiền, nỗi lo về tương lai, thành tựu khiến chúng ta đứng trong
sự hoang mang và bất lực. Lúc ấy, văn chương sẽ chính là nơi dừng chân, là liều
thuốc hiệu nghiệm nhất “chữa lành” tâm hồn con người. Ngôn ngữ trong văn học
có tính vô cực về không gian và thời gian, có thể mở rộng biên độ về mọi mặt. Bởi
ta sẽ được ru mình về quá khứ - nơi những giá trị cổ truyền tồn tại trong “Vang
bóng một thời” để cảm nhận những giá trị bền vững nhất của một thời đã qua; bay
cao cùng hồn thơ đầy niềm khát yêu, khát sống của Xuân Diệu để cảm nhận “cuộc
sống đẹp nhất nơi trần thế”, “con người đẹp nhất ở tình yêu và tuổi trẻ” và tìm
kiếm ý nghĩa cuộc sống ngay trong thực tại…. Hay tìm được sự thư thái trong từng
giây phút hòa mình, ngắm nhìn, phát hiện vẻ đẹp bình dị của thiên nhiên như một
số bài thơ mà ni cô Chiyo từng viết:
A, hoa bìm bịp
dây gàu vương hoa bên giếng
đành xin nước nhà bên (Chiyo–mi)
Quả thực, văn chương cho ta biết yêu, biết thương, biết hi vọng và khao khát để
rồi hồn người nhập từng với trang văn. Con người ta, nhờ những trang văn sẽ tìm
thấy những giá trị đích thực nơi cuộc sống xô bồ, tâm hồn được làm giàu làm rộng
và không còn là những “cỗ máy lạnh lùng” bị chai sạn về đời sống tinh thần hay
sống trong áp lực, khủng hoảng.
Hơn nữa, trước những cuộc biến thiên của thời đại; chiến tranh, dịch bệnh, đói
nghèo,… con người đều phải trải qua những mất mát và đau thương không thể nào
kể xiết. Lịch sử đã ghi lại đã có khoảng 85 triệu người chết sau chiến tranh thế
giới thứ hai, gần 9 nghìn người mắc bệnh và tử vong do dịch Sars (2003) và riêng
nạn đói năm 1945 ở Việt Nam đã khiến hơn 3 triệu người dân chết đói. Những con
số ấy chỉ là một phần hậu quả về người và chưa kể những sự kiện đang còn tiếp
diễn ở thực tại (Covid-19), không có gì đau đớn hơn khi chúng ta phải trải qua
những đau thương khủng khiếp ấy. Có thể, văn chương không thể “bào chế thuốc
giảm đau cho con người”, cứu con người khỏi bạo lực, cái chết nhưng cốt yếu nó
sẽ “bào chữa tâm hồn con người”, xoa dịu đi những đau thương và vực dậy con
người bước tiếp bằng sự đồng cảm và sẻ chia sâu sắc. Bởi lẽ, đi vào thế giới văn
học, ta sẽ gặp được nhiều cuộc đời, nhiều số phận giống như ta ở thực tại vậy. Gặp
họ, ta như tìm được sự đồng điệu, tìm được sự sẻ chia mọi niềm đau, nỗi buồn. Và
hơn hết, tình yêu và niềm tin nơi con người họ chính là đôi bàn tay nâng ta khỏi
bùn lầy của đau đớn.
Với bài ca dao “Mười cái trứng”, ta thêm tin tưởng vào sự nảy chồi sau khó
khăn bởi “Còn da lông mọc còn chồi nảy cây” vậy ta sẽ tìm được gì trong trang
viết của Kim Lân? Tại truyện ngắn “Vợ nhặt”, điều đầu tiên ta thấy được đó là
khung cảnh được bao quanh bởi cái đói, cái chết. Tại đây, cái đói được ví như một
cơn lũ bất chợt ập đến và gieo rắc tai họa khủng khiếp cho người dân xóm ngụ cư,
nó “đã tràn đến xóm ngụ cư này tự lúc nào”. Xung quanh “người chết như ngả rạ”,
toàn “mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” và tiếng quạ “gào lên
từng hồi thê thiết”. Khi ấy, quả thực con người cần lương thực để sống chứ không
cần văn chương và văn chương cũng không thể nào “bào chế” hay trở thành thức
ăn cứu sống con người được. Nhưng viết lên những trang văn về nạn đói, đặt biệt
là trong thời buổi lúc bấy giờ, Kim Lân còn mang đến cho người đọc một “liều
thuốc tinh thần” theo cách rất riêng. Ông vực dậy con người khỏi khổ đau, đói
nghèo và cái chết trong tình người, hi vọng nơi anh cu Tràng, Thị và bà cụ Tứ.
Trong thời buổi “nuôi bản thân” còn không đủ, vậy mà Tràng lại chấp nhận cưu
mang một người đàn bà xa lạ, hào phóng cho không tận “bốn bát bánh đúc”. Và để
ý đến hành động chấp nhận cô con dâu của cụ Tứ và hình ảnh “Trong óc Tràng vẫn
thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”, không khó để nhận ra niềm tin vào
tương lai, niềm hi vọng vào một cuộc sống thực sự đổi thay đã trở thành một “liều
thuốc tinh thần” vực họ dậy khỏi đau thương, khốn khổ của cái đói.
Rõ ràng, “Vợ nhặt” đã “chữa lành” tâm hồn con người, xoa dịu đau thương nơi
những trái tim đang kiệt quệ vì hiện thực tàn khốc. Những gì Kim Lân gửi gắn nơi
đây âu cũng chính là tư tưởng được Sholokhov viết lên trong “Số phận con người”.
Mất mất trong chiến tranh, khó khăn trong cuộc sống là vậy nhưng hai con người
với hai hoàn cảnh khác biệt – Sokolov và bé Vania vẫn tìm đến nhau, sưởi ấm cho
nhau khỏi đau thương và cùng nhau tiến về phía trước với thiên tính Nga cao đẹp.
Cuộc sống này đây, ắt sẽ có lúc con người phải trải qua những khốn khó, khốc
liệt như vậy nhưng đó không phải là cái cớ khiến chúng ta phải suy sụp, đau
thương. Văn chương phản ánh, không phải là đưa chúng ta đến bi quan mà là để
“chữa lành tâm hồn”, củng cố thêm niềm tin vào một tương lai tươi sáng, vào tình
người và hi vọng có thể dẫn lối ta đi đến ánh sáng của tương lai. Hãy để lão
Santiago trong trang văn của Ernest Hamingway dạy ta thấu rằng: mỗi chúng ta
trong cuộc đời này đều có ước mơ và khát vọng, đều đơn độc trong chuyến hành
trình của chính mình. Đối mặt với thử thách, khó khăn trong cuộc đời điều ta cần
làm là phải vực dậy bằng chính sức mạnh nội lực của mình mà tự tin bước tiếp,
không yếu đuối, không thả mình vào hố sâu của tuyệt vọng (Ông già và biển cả -
Ernest Hemingway)
Văn chương dẫu không thể “Bào chế thuốc giảm đau cho con người” về thể xác
nhưng văn chương “chữa lành tâm hồn con người” một cách kì diệu như vậy. Văn
học làm được điều đó nhờ những tư tưởng cao cả của người nghệ sĩ gửi vào trong
trang viết và bung ra bằng những hình tượng nghệ thuật, ngôn từ đặc biệt. Văn
chương muốn “chữa lành tâm hồn” cốt phải chứa đựng những giá trị về cả mặt nội
dung, nghệ thuật như vậy. Làm được điều đó, văn học không chỉ hoàn thành
“nhiệm vụ” của mình mà còn tỏa sáng như đóa pháo bông trên bầu trời, in dấu
trong lòng độc giả nhờ sức mạnh to lớn trong việc tác động vào đời sống con
người. Nền văn học của từng thời kì, từng giai đoạn vì thế mà cũng được “nở rộ”,
“bung tỏa” theo mọi chiều kích.
Không thể phủ nhận rằng: dù trong bất kì hoàn cảnh nào, văn chương cũng
mang 1 chức năng, sứ mệnh và người nghệ sĩ cũng mang một thiên chức cao quý
và điều đó làm văn học bền vững với thời gian. Nhưng văn học không thể làm
được gì và cho ai nếu chính người đọc không mở lòng đón nhận những tác phẩm
văn học. “Văn chương có khả năng bào chế thuốc giảm đau cho con người?”
không phải là một câu hỏi một chiều để suy xét những giá trị văn học mà còn đặt ra
vấn đề về người đọc hiện đại. Khi chúng ta chọn không đọc tác phẩm văn học,
chính văn học cũng không thể làm gì trước lựa chọn đó. Muốn tái tạo đời sống, văn
chương yêu cầu sự cộng hưởng đến cả từ hai hoạt động: sáng tạo và tiếp nhận văn
học. Mặt khác, chúng ta cũng phải thừa nhận sự bất lực và có phần lép vế của văn
học trong thời đại ngày nay. Văn học không còn phải là một chiếc chìa khóa vạn
năng mở ra mọi nẻo đường đã bưng bít của nhân loại, càng không có trong mình
chiếc đũa thần hay những bảo bối. Sự bất lực của nhà văn nằm ở chỗ không thể
toàn diện tái hiện đời sống vĩ mô của con người. Nhà văn không còn và không thể
là đấng toàn năng tri nhận toàn bộ quy luật, quỹ đạo của đời sống rộng lớn của
cuộc đời. Thế nhưng đời sống là một phức thể đa diện mà một mình nhà văn không
thể tái hiện toàn bộ, mà chỉ chọn ra một khía cạnh, “một lát cắt của sự sống”
(Nguyễn Minh Châu)
Văn học không phải là thứ “ăn liền” mà người ta quên ngay sau khi gập sách, văn
hương là khúc hát của tâm hồn, là liều thuốc của tinh thần làm con người thêm
yêu, thêm tin tưởng vào cuộc đời. Xét theo bối cảnh của thực tại khi văn học không
còn là giá trị độc tôn, là duy nhất. Nhưng chừng nào câu hỏi “ Văn chương có khả
năng bào chế thuốc giảm đau cho con người?” được đặt ra thì chừng ấy, văn
chương vẫn sẽ mãi là “ngũ cốc trên cách đồng người”

Đoàn Ngọc Anh – THPT Chuyên Hưng Yên – Đội tuyển HSGQG Hưng Yên

Sóng - Xuân Quỳnh

Sóng không chỉ là tên một thi phẩm đã gây xốn xang cho nhiều thế hệ. Sóng
không chỉ là biểu trưng cho một hồn yêu chưa từng nguôi yên. Sóng còn là một
nguồn sống, nguồn năng lượng mà nữ thi sĩ ấy đã truyền lại cho mai hậu qua mỗi
tiếng thơ mình. Và, lâu nay, lòng thơ của mỗi chúng ta, người mờ người tỏ, người
đang yêu, người đã yêu, đều từng thầm thu thầm phát thứ sóng đặc biệt ấy : sóng
Xuân Quỳnh.

Không còn phân biệt được sóng tạo nên Xuân Quỳnh, hay Xuân Quỳnh đã
tạo nên sóng. Chỉ biết rằng chị sinh ra là để dành cho thơ. Dù đầu đời, vốn học vấn
còn chưa cao, nhưng hồn thơ ở người con gái đất La Khê - Hà Đông ấy đã luôn dồi
dào và dạt dào. Dù chặng đời đầu từng dấn thân vào nghiệp múa, nhưng chị đã
sớm rời sân khấu để ra nhập thi đàn. Dù cuộc sống nhiều trắc trở với tuổi thơ lận
đận, tuổi xuân gian lao, tổ ấm đầu đổ vỡ, tổ ấm sau sóng gió, nhưng lòng chị vẫn
không khi nào nguôi thơ. Các tập thơ vẫn tuần tự ra đời theo mỗi chặng đường, từ
đầu cuộc chiến chống Mỹ đến thống nhất hòa bình : Chồi biếc, Hoa dọc chiến hào,
Gió lào cát trắng, Lời ru trên mặt đất, Tự hát, Sân ga chiều em đi, Hoa cỏ may. Cứ
thế, sóng thơ náu sẵn trong hồn đã thầm dẫn lối cho chị ra với biển lớn thi ca để trở
thành một tên tuổi nổi bật trong nền thơ Việt hiện đại. Nếu không làm thơ nữa,
Xuân Quỳnh không còn là mình. Thơ thực là nghiệp dĩ của chị.
Thơ Xuân Quỳnh là niềm đau đáu bình an giữa thời tao loạn. Khi binh lửa,
đạn bom cuốn mọi thân phận, mọi nguồn lực vào cuộc chiến, thơ ca cũng không
thể không say máu anh hùng mà cất lời sắt máu. Dù không thể cưỡng lại thời,
song, những tiếng thơ thầm kín và mãnh liệt nhất, Xuân Quỳnh vẫn chỉ dành cho
niềm khao khát yên lành : cho góc vườn đôi lứa, tổ ấm sáng đèn, vành nôi sơ tán,
chiếc tã ban mai, cho lời ru thèm mặt đất, tiếng gà nhớ nắng trưa, cho những bông
hoa nghẹn hương, những cánh chuồn lạc bão… những thứ bé mọn thôi, vô nghĩa
nữa, mà lại hằng nhen nhóm, cưu mang, chăm chút cả cõi đời. Đó mới thực là
những con sóng dưới lòng sâu của hồn thơ Xuân Quỳnh. Theo cách ấy, Xuân
Quỳnh là người đàn bà bước dưới đạn bom mà làm thơ về sự sống.

Không bị mắc kẹt bởi nguồn thơ lửa máu, nên chị không phải bận lòng tìm
lối ra như bao người khác. Tạnh bom đạn, về lại đời thường, mạch thơ Xuân
Quỳnh vẫn cứ đà xưa mà tuôn chảy. Chỉ khác là, giờ đây những tâm sự đàn bà nhất
được dịp khơi sâu, những tiếng lòng từng cắt xén được hồn nhiên biểu tỏ. Thiết tha
với một tình yêu nặng về gắn bó, chở che và chia sẻ, chị luôn trăn trở với sự mong
manh của yêu đương, sự bấp bênh của hạnh phúc, luôn băn khoăn về nỗi lạnh nhạt
của thời gian, phôi pha của tuổi trẻ, luôn nơm nớp với mưa bão bất thường, đổ vỡ
xa xôi… Đây là lúc những suy ngẫm về trái tim đập sau làn áo mỏng, về bàn tay
ngón chẳng thon dài luôn sóng sánh trong thơ chị. Những dự cảm về nhà ga của
chia ly gặp gỡ, con tàu của khát khao đi hồi hộp mỗi khi về luôn cồn cào trong thơ
chị. Những nỗi cỏ dại bị dày xéo, hoa dại bị bỏ quên, mây trắng mải phiêu dạt, lá
vàng ngày một thưa, cỏ may thèm giữ mãi, hoa cúc muốn y nguyên luôn khắc
khoải trong thơ chị… Càng lo liệu đắp bồi, càng lo âu phấp phỏng. Con sóng thơ
trong hồn chị càng về sau càng nặng trĩu những u uẩn của một lòng nữ vốn cả nghĩ
cả lo. Cất lên những nỗi niềm máu thịt ấy, Xuân Quỳnh thực là người đàn bà của
muôn thuở.

Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ ; sáng tạo và cách tân, tất tật là
nhất thể. Cho nên, tìm những miền thi cảm khác lạ cho thơ, chế tác những hình
thức tân kỳ cho thơ không phải thao thức của chị. Cứ hết mình sống, hồn nhiên
viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điệu đó
là cách thơ Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không
lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ. Thơ Xuân Quỳnh là tính linh Xuân
Quỳnh. Trường hợp Xuân Quỳnh thật điển hình cho qui luật : thơ là sự ký thác
phận người vào chữ. Có lẽ vì thế mà, dù đời thơ Xuân Quỳnh đã dừng, sóng thơ
Xuân Quỳnh vẫn vỗ khôn nguôi.

Với nhiều giải thưởng cao quý, mà mới đây là Giải thưởng Hồ Chí Minh,
Xuân Quỳnh đã được vinh danh ở bậc cao nhất dành cho những nghệ sĩ có nhiều
đóng góp với chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Và điều ấy là xứng
đáng, dù khi bầu, hội đồng giải thưởng đã từng bỏ quên.

Giờ đây, đặt chân dung nữ thi sĩ Xuân Quỳnh vào dòng thời gian, thì không
chỉ đặt chị vào vị trí đầu của top thi sĩ cùng thời Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị
Thanh Nhàn, Nhã Ca… Mà theo trục dọc, phải đặt chị trong cái mạch thưa thớt
những nữ sĩ xuất chúng của thơ Việt như Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà
Huyện Thanh Quan… Xuân Quỳnh thực là một trong những gương mặt nữ sáng
giá nhất của thơ Việt. Có lẽ vị trí ấy mới là điều công chúng nghệ thuật Việt hôm
qua và hôm nay muốn dành cho nữ thi sĩ này.

Và, vị trí ấy của Xuân Quỳnh, dường như mỗi chúng ta hôm nay ở đây cũng
đã dành sẵn trong lòng mình. Cũng như mỗi lòng yêu đã dành sẵn một bến bờ để
sóng Xuân Quỳnh tìm về vỗ mãi.

Vân Sơn Garden, thu 2017


TS Chu Văn Sơn

NGUYỄN BÍNH HOÀI NIỆM CỘI NGUỒN

Chu Văn Sơn

Tôi vẫn tin Nguyễn Bính là đứa con được sinh ra từ cuộc dan díu đầy nợ nần
giữa giọt mưa quê và hạt bụi phố khi trời đất dậy lên những cơn gió chuyển thời.
Cũng vẫn tin lộ trình của ông là khởi từ bến đò tận tít nẻo làng xưa để rồi lạc chân
vào cái “sòng đời” đô thị. Đến lúc “thua nhẵn cả thơ ngây”, thì ông bước từng
bước vào Thơ mới. Sau cùng, ông mới nhập hẳn vào hồn ta. Nhưng đâu chỉ thế.
Nguyễn Bính vốn thầm sống đâu đó ở trong ta cả ngàn ngàn năm rồi. Gặp thời Thơ
mới, ông bèn tách ra, bước lên thi đàn, làm mưa làm gió. Xong xuôi, tan mình vào
thứ tiếng Việt thuần nôm, ông lại trở về trú ngụ đời đời trong hồn quê của mỗi
chúng ta. Vâng, phải cả hai phía ấy nhập lại khít khao, mới vẹn tròn một Nguyễn
Bính.
Nhưng, Nguyễn Bính đâu chỉ là hiện tượng của riêng thơ Việt.
Bởi ý thức trữ tình Nguyễn Bính vốn thuộc về một nguồn mạch sâu xa trong
tâm thức con người: ý thức cội nguồn. Nó là ý thức toàn nhân loại. Đúng vậy, như
cây có cội, sông có nguồn, con người sống trên thế gian này, đến trọn kiếp phù
sinh, lúc nào chẳng chập chờn nguồn cội. Chân bước trong hiện tại mà lòng thường
tưởng nhớ xa xưa. Thì chập chờn, trằn trọc suốt một đời thơ Nguyễn Bính, chẳng
phải là niềm cố hương, là nỗi tha hương của hoài niệm cội nguồn sao ?
Nỗi niềm này đã khiến thế giới thơ ông tự phân thành hai miền không gian
rõ rệt : quê mình và quê người. Quê mình là chốn hương thôn bình lặng thanh sạch,
quê người là thị thành bụi bặm phồn hoa. Và thi sĩ như kẻ lạc bước, tiến thoái
lưỡng nan giữa hai miền không gian ấy. Không rời quê, thì thèm gió bốn phương.
Rời quê thì lập tức thấy mình thành “kiếp con chim lìa đàn”. Nên, chưa vui bước
giang hồ đã nặng buồn xa xứ. Vừa chạm chân vào phố phường đã ngấm sầu đô thị,
chưa kịp xây sự nghiệp công danh, đã mặc cảm lỗi đạo với quê nhà, để rồi luôn
dằn vặt bản thân, chì chiết chính mình. Càng xa quê chỉ càng khắc khoải nhớ quê.
Và, nhớ quê là hoài niệm cội nguồn, là nhớ thương tiếc xót tất cả những gì làm nên
mình, một thân phận, một danh phận, một sinh linh.
Chẳng vậy sao?
Hoài niệm cội nguồn, Nguyễn Bính thành tiếng lòng da diết nhất về bao giá
trị Việt nghìn đời đang có nguy cơ bật gốc khỏi một đời sống vốn bị cuộc biến
thiên dữ dội làm bao nền nếp xưa lung lay đến tận cội rễ. Ấy là thời khoa cử vàng
son với giấc mơ quan trạng vinh hoa đã tan thành dĩ vãng. Ấy là vườn cam mái
gianh bình yên bị phụ bạc, hàng cau giàn giầu chung tình bị bỏ rơi, gió ngõ trăng
thôn thanh đạm bị ngoảnh mặt. Ấy là những yếm lụa sồi, dây lưng đũi, áo tứ thân,
khăn mỏ quạ, quần nái đen chân quê bị những khăn nhung, quần lĩnh, khuy bấm
tân thời phế truất. Ấy là những thề nguyền đá vàng bị bội ước, chữ “hiếu”, chữ
“nghĩa” sâu bền thời trước bị phôi pha trước sự thôi thúc vị kỷ của chữ “tình” thời
nay… Chẳng phải chúng chính là những mất mát rụng rơi, mà càng tiếc xót, càng
không thể nào níu giữ đó sao ?
Hoài niệm cội nguồn, Nguyễn Bính thành tiếng lòng thổn thức nhất về bi
kịch lỡ dở của phận người trên đồng đất ngàn đời này. Ấy là niềm thổn thức của
những anh lái đò, chàng nho sinh, cô lái đò, cô hái mơ, cô chăn tằm, dệt cửi, rũ
lụa… ở những thôn Đoài thôn Đông. Họ là những mảnh đời lỡ dở. Đã qua đến
“Mười hai bến nước”, “Nghìn cửa sổ” mà vẫn cứ “đường dài thân ngưạ lẻ”, vẫn cứ
“sông cái chiếc đò nan”. Kẻ thì “dang dở đời mưa gió” người thì “lỡ bước sang
ngang”. Không công danh dở dang, cũng duyên phận lỡ làng. Ngay cái tôi Nguyễn
Bính cũng đầy long đong lỡ dở “Ai bảo mắc vào duyên bút mực / Suốt đời mang
lấy số long đong”. Và tình duyên của cái tôi ấy tưởng êm đềm với nếp quê, thế mà
cũng toàn dang dở lỡ làng: “Bính em một tấm lòng vàng / Đầu xanh chịu mấy lần
tang ái tình”… Chẳng phải đó là tấn bi kịch ngấm ngầm, vẫn khuất sau những luỹ
tre, chìm trong mỗi lối ngõ, giấu sau từng tấm liếp của phận người đó sao ?
Hoài niệm cội nguồn, Nguyễn Bính cũng thành tiếng lòng não nuột vào bậc
nhất của giấc mộng vượt thoát khỏi ao đời quẩn quanh tù đọng trong chốn quê
nhàm tẻ: mộng giang hồ. Trong đó, những hăm hở, thi vị của “Con tàu bạn hữu
chuyến xe nhân tình” chưa thành niềm hân hoan, thì những hoang mang, ngao
ngán “Lẽo đẽo đi trong gió bụi đời”, “Giang hồ sót lại mình tôi / Quê người đắng
khói quê người cay men” đã khiến bao chuyến hành hiệp kia thành hoang đàng. Và
sau khi giấc mộng kiêu bạc đó còn chưa tan, cái tôi ấy chỉ còn thấy thân phong trần
xa xứ cứ “bơ vơ như lũ tàn quân lìa thành”, chỉ còn biết “quê người đứng ngóng
mây lưu lạc”. Đồng thời, rời quê cũng là sa chân lỡ bước: “Từ em lưu lạc ngoài
muôn dặm / Mỗi đoạn đường đi một đoạn trường”. Hối lại, quay về, thì tất cả đà lỡ
dở, niềm ao ước hồi hương có thành sự thực, thì lại vá víu cực lòng bởi lấn bấn
hoàn hương: “Trăng đầy ngõ, gió đầy thôn / Anh về quê cũ có buồn không
anh ?”… Chẳng phải đó là tiếng lòng buồn của những khát vọng sống thật phong
ba mà rốt cuộc lại thành con gió quẩn đó sao ?
Tan mình thành bao tiếng lòng như thế, Nguyễn Bính chính là hoài niệm cội nguồn
trong mỗi chúng ta. Vâng, chừng nào ta còn chồn chân trong chốn chợ đời, chừng
ấy Nguyễn Bính còn đeo bám mỗi bước phù du của ta. Chừng nào ta còn thao thức
nỗi quê, chừng ấy Nguyễn Bính còn chong chong đến mòn cả canh khuya cùng ta.
Chừng nào ta còn dằn vặt vì đã bạc lòng với quê nghèo, bạc bẽo với đấng sinh
thành bởi trót mê lạc chốn phồn hoa, chừng ấy Nguyễn Bính còn trăn trở trong ta.
Do đó, không chỉ của thời ấy, không chỉ của xứ này, nỗi hoài niệm cội nguồn mang
tên Nguyễn Bính đã thuộc về phận người trong cuộc sống nhân gian rồi.
*
Hoài niệm cội nguồn tất phải cất lên bằng hình thức nghệ thuật của cội
nguồn. Hình thức ấy là gì nếu không phải là thể thơ dân tộc và ngôn ngữ dân gian.
Cũng rất thành công ở những thể khác, nhưng nói đến Nguyễn Bính là nói đến lục
bát. Nguyễn Bính quả là đứa con cưng của lục bát tiếng Việt. Lục bát đã ban lộc
hậu cho Nguyễn Bính và Nguyễn Bính cũng đáp đền cho lục bát thật nhiều. Không
rõ lục bát đã trao bí mật của mình cho Nguyễn Bính ra sao mà thi sĩ có thể sở hữu
toàn phần, sai khiến toàn năng được lục bát như vậy ? Chỉ biết rằng Nguyễn Bính
đã làm chủ được những đắp đổi nghịch lý của một thể thơ vốn lấy ít làm nhiều, lấy
lỏng làm chặt, lấy thưa làm mau, lấy đơn làm phức… trong cái tiết điệu co duỗi
thật nhịp nhàng của nó. Và, thi sỹ đã ký thác được vào đó điệu hồn quê để nó thành
lục bát điệu nói, hay nhờ phối theo điệu nói mà lục bát Nguyễn Bính đã chở được
hồn quê ? Thật khó phân biệt. Chỉ biết rằng, khi ta cất lên bất cứ câu nào : “Thôn
Đoài ngồi nhớ thôn Đông / Một người chín nhớ mười mong một người”, hay “Hoa
chanh nở giữa vườn chanh / Thầy u mình với chúng mình chân quê”, ”Giếng khơi
mưa ngập nước tràn / Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều”, đặc biệt là “Anh đi đó,
anh về đâu ? / Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm” là ta thấy hiện ngay ra
dấu vân tay rành rành của Nguyễn Bính.
Và, theo cách ấy, thứ tiếng Việt thuần quê, thuần nôm cũng đã có được nơi
bảo lưu yên lành, ấy là thơ Nguyễn Bính. Như một ngôi nhà Việt xưa, thơ Nguyễn
Bính được xây cất bằng thứ vật liệu tiếng Việt chưa pha tạp, chưa lai ghép. Từ
ngôn từ đến cú pháp, từ cách kiến tạo đến cách biểu đạt, hết thảy đều óng chuốt
như tre trúc, trong vắt như nước giếng khơi, mượt mà như tơ lụa. Chỉ cần điểm đôi
câu: “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay / Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”, “Mưa
chấm bàn tay từng chấm lạnh / Thế nào anh ấy chẳng sang xem”, “Mưa bụi nên em
không ướt áo / Thôn Đoài cách có một thôi đê”, “Xóm giềng đã đỏ đèn đâu / Chờ
em chừng giập miếng giầu em sang”, “Em nghe họ nói mong manh / Hình như họ
biết chúng mình… với nhau” … là thấy ngay: phải là thứ tiếng Việt ấy mới có thể
tạo nên điệu hồn quê cho thơ ấy. Vậy là, tiếng Việt đã mở kho báu của mình cấp
vốn cho Nguyễn Bính và Nguyễn Bính cũng đã khéo chi dùng mà làm giàu, làm
trong cho tiếng Việt chân quê.
*
Là một trong những đỉnh cao nhất của phong trào Thơ mới, Nguyễn Bính
cũng là gương mặt kinh điển của một mẫu nhà thơ có ở mọi nền thơ : nhà thơ chân
quê. Mỗi xứ sở khi thời thế biến thiên là lại sinh ra Nguyễn Bính của mình. Người
thơ nào cố níu giữ những giá trị ngàn đời đang có nguy cơ mai một trước sự vần
xoay, người ấy là Nguyễn Bính. Người thơ nào gắng lưu giữ hồn xưa xứ sở trước
sự xoá bỏ lạnh lùng của hiện đại, bằng chính những hình thức nghệ thuật và ngôn
ngữ quê kiểng nhất của xứ mình, người ấy là Nguyễn Bính. Và, bao trùm hơn,
người thơ nào luôn đau đáu một niềm hoài niệm cội nguồn, khi số phận đã khiến
con người bật khỏi gốc quê, người ấy chính là Nguyễn Bính.

Bởi thế, Nguyễn Bính sẽ còn tái sinh không ngừng trong lớp lớp thế hệ thơ
của mọi nền thơ.

Vân Sơn Garden, cuối thu 2018


CVS

Mạc Ngôn: “Tôi cảm thấy nhân loại đang đối mặt với nguy hiểm lớn nhất”

Xã hội nhân loại ồn ào náo nhiệt, rối loạn lộn xộn, đèn đỏ rượu xanh, xa hoa
buông thả, nhìn thì thấy vô cùng phức tạp, nhưng nghĩ kỹ lại một chút, thấy
cũng chẳng qua là người nghèo khó truy cầu phú quý, người giàu có truy cầu
hưởng thụ và lạc thú, về cơ bản chỉ là bấy nhiêu chuyện mà thôi.

Vì sao người ta chán ghét nghèo khó? Bởi vì người nghèo không thể nào thoả mãn
được tất cả những dục vọng của mình. Bất luận là nhu cầu về ăn uống hay dục
vọng, bất luận là tâm hư vinh hay là thích sự hào nhoáng, bất luận là đi bệnh viện
khám bệnh không xếp hàng hay đi máy bay ngồi khoang hạng nhất, đều phải dùng
tiền bạc để đáp ứng, dùng tiền bạc để thực hiện.

Phú là vì có tiền, quý là vì xuất thân – dòng dõi và quyền lực. Đương nhiên, có tiền
rồi cũng không lo không có quý, mà có quyền lực rồi dường như cũng không lo
không có tiền. Vì phú và quý có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời, có thể
dung nhập lại thành một phạm trù.
Người nghèo khó khao khát và mong muốn được phú quý, đây là chuyện thường
tình của con người, cũng là dục vọng chính đáng. Phú quý là dục vọng chính đáng
của con người, nhưng không dùng phương cách chính đáng để đạt được thì phú
quý đó không xứng đáng. Mọi người đều chán ghét nghèo khó nhưng không dùng
phương cách chính đáng để thoát nghèo thì không đáng thoát.

Nhưng trong cuộc sống thực tế, số người không dùng phương thức chính đáng để
thoát nghèo và làm giàu ngày càng nhiều; số người dùng phương pháp bất chính để
thoát nghèo và làm giàu mà không bị trừng phạt đâu đâu cũng có; số người tuy
chửi mắng những người dùng phương thức bất chính để thoát nghèo và làm giàu,
nhưng khi bản thân mình khi có cơ hội thì cũng sẽ làm như vậy, chỗ nào cũng có…

Dục vọng của nhân loại là hố đen không thể lấp đầy, người nghèo có dục vọng của
người nghèo, người giàu có dục vọng của người giàu. Vợ của ông lão đánh cá dục
vọng lúc đầu chỉ là muốn có một bát gỗ mới, nhưng khi có bát gỗ mới rồi, bà ấy
lập tức muốn có nhà gỗ; có nhà gỗ rồi, bà ấy muốn làm quý phu nhân; thành quý
phu nhân rồi, bà ấy lại muốn làm nữ hoàng; thành nữ hoàng rồi, bà ấy lại muốn
làm nữ vương của biển cả, để chú cá vàng vốn có thể thoả mãn tất cả dục vọng trở
thành kẻ nô bộc cho bà. Điều này đã vượt quá giới hạn, giống như thổi bong bóng
xà phòng, nếu thổi lên quá lớn, tất nhiên sẽ bị vỡ.

Phàm mọi việc đều có giới hạn, một khi vượt quá, tất sẽ bị trừng phạt, đây là
triết lý nhân sinh giản dị mộc mạc, cũng là quy luật của rất nhiều sự vật trong
tự nhiên.
Trong nhân gian có rất nhiều chuyện cổ mang ý nghĩa khuyên răn đều để thức tỉnh
con người khắc chế dục vọng của bản thân. Có người kể, để bắt khỉ, người Ấn độ
làm một loại lồng bằng gỗ, trong lồng để thức ăn, khi con khỉ thò tay vào để lấy
thức ăn, tay liền không rút ra được, nếu muốn rút tay ra, buộc phải bỏ thức ăn
xuống, nhưng con khỉ nhất định không chịu buông, khỉ không có trí tuệ “buông
bỏ”. Vậy con người có trí tuệ “buông bỏ” không? Có người có, có người không.
Có người lúc có, lúc không. Con người đều có lúc nào đó không muốn buông bỏ
thứ gì đó, đây là điểm yếu của con người, cũng là tính cách phong phú tồn tại trong
con người.

Hơn 100 năm trước, phần tử tri thức tiên tiến của Trung Quốc từng đưa ra khẩu
hiệu “Khoa học kỹ thuật cứu quốc”, hơn 30 năm trước, giới chính trị gia Trung
Quốc đưa ra khẩu hiệu “Khoa học kỹ thuật hưng quốc”. Nhưng cho tới ngày nay,
tôi cảm thấy nhân loại đang đối mặt với nguy hiểm lớn nhất, chính là sự kết hợp
giữa khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ và tham vọng ngày càng bùng phát của
nhân loại. Với dục vọng bị kích thích của con người, sự phát triển của khoa học kỹ
thuật đã đi chệnh khỏi quỹ đạo thông thường là để phục vụ nhu cầu sức khỏe của
con người, thay vào đó là điên cuồng phát triển dưới sự dẫn động của lợi nhuận để
đáp ứng – kỳ thực là nhu cầu bệnh hoạn của một số ít người giàu có.

Nhân loại đang điên cuồng bóc lột trái đất:


Chúng ta khoan vào trái đất trăm ngàn lỗ thủng, chúng ta làm ô nhiễm các dòng
sông, đại dương và không khí, chúng ta tập trung lại một chỗ, dùng sắt thép và xi
măng xây nên những công trình kiến trúc kỳ quái, đặt cho nó cái tên mỹ miều là
“thành phố”, chúng ta ở trong những thành phố này thoải mái phóng túng những
dục vọng của mình, tạo ra những thứ rác rưởi vĩnh viễn khó mà tiêu huỷ được.

So với người ở nông thôn, người thành thị là có tội, so với người nghèo, người giàu
là có tội, so với nhân dân, quan chức là có tội, theo một ý nghĩa nào đó mà nói,
quan càng to, tội càng lớn, vì quan càng cao, phạm vi cai quản càng rộng, dục vọng
càng lớn, hao phí tài nguyên càng nhiều.

So với các quốc gia chưa phát triển, quốc gia phát triển là có tội, vì dục vọng của
các nước phát triển còn lớn hơn, nước phát triển không chỉ làm hại trên lãnh thổ
của mình, mà còn ảnh hưởng đến các nước khác, đến Hải phận Quốc tế, đến Bắc
cực, Nam cực, lên mặt trăng, đi lên vũ trụ làm những việc có hại một cách mù
quáng.

Địa cầu bốn bề lửa khói, toàn thân run rẩy, biển cả kêu gào, cát bụi bay khắp nơi,
hạn hán lũ lụt, bệnh tật lan tràn… đều liên quan đến sự phát triển bệnh hoạn của
khoa học kỹ thuật dưới sự kích thích bởi dục vọng tham lam của các nước phát
triển.

Trong thời đại như vậy, văn học của chúng ta kỳ thực đảm đương một trọng trách
rất lớn, trách nhiệm cứu trái đất và cứu nhân loại, chúng ta phải dùng tác phẩm của
mình nói cho mọi người biết, đặc biệt là những người giàu có do sử dụng những
thủ đoạn bất chính để đạt được tiền tài và quyền lực, họ là những người có tội, thần
linh sẽ không bảo hộ cho họ. Chúng ta phải dùng tác phẩm của mình nói với những
chính trị gia hư vinh rằng, cái gọi là lợi ích quốc gia không phải là tối cao nhất,
điều cao cả chân chính nhất là lợi ích lâu dài của toàn nhân loại.

Chúng ta phải dùng tác phẩm của mình nói với những phụ nữ có cả ngàn chiếc
váy, có cả vạn đôi giày rằng họ có tội; chúng ta phải dùng tác phẩm của mình nói
cho những quý ông sở hữu hàng chục chiếc xe hơi hạng sang biết rằng họ là người
có tội, chúng ta phải nói cho những người sử hữu máy bay riêng, du thuyền
riêng biết rằng họ là người có tội, cho dù trên thế giới này có tiền là muốn làm gì
thì làm, nhưng những việc họ muốn làm gì thì làm là phạm tội với nhân loại, cho
dù tiền của họ kiếm được là hợp pháp.

Chúng ta phải dùng tác phẩm của mình nói với những nhà giàu mới nổi, những kẻ
đầu cơ, những kẻ cưỡng đoạt, lừa đảo, những kẻ xấu xa, tham quan, vô lại biết
rằng mọi người ngồi chung trên một chiếc thuyền, nếu thuyền chìm, cho dù họ mặc
hàng hiệu, châu báu đầy người, hay đơn sơ áo vải, vô danh tiểu tốt thì kết cục đều
như nhau cả.

Chúng ta phải dùng tác phẩm văn học của mình truyền đạt cho mọi người rất
nhiều đạo lý căn bản nhất:
Ví dụ nhà xây để ở, không phải để đầu cơ, nếu nhà xây lên không ở thì đó không
phải là nhà. Chúng ta phải để mọi người nhớ lại, khi nhân loại chưa phát minh ra
điều hòa, người chết vì nóng không nhiều như bây giờ. Khi nhân loại chưa phát
minh ra đèn điện, bệnh cận thị ít hơn bây giờ nhiều. Khi chưa có tivi, thời gian
rảnh rỗi của mọi người cũng phong phú như vậy. Khi chưa có internet, số người
ngớ ngẩn dường như ít hơn bây giờ nhiều.

Giao thông thuận lợi khiến người ta mất đi niềm vui của du lịch, thông tin nhanh
chóng khiến người ta mất đi hạnh phúc của việc thư từ qua lại, thực phẩm quá dư
thừa khiến người ta mất đi mùi vị khi ăn, dễ dãi về tình dục khiến người ta mất đi
năng lực của tình cảm lứa đôi. Không cần thiết phải phát triển nhanh như vậy,
không cần thiết phải làm động vật và thực vật lớn nhanh như vậy. Vì động, thực
vật lớn quá nhanh thì ăn không ngon, bởi không có dinh dưỡng mà chứa hàm
lượng chất độc và các chất kích thích khác.

Trong sự phát triển bệnh hoạn của khoa học dưới sự kích phát của tiền bạc, tham
vọng và quyền lực đã làm cho cuộc sống của nhân loại mất mát quá nhiều cảm
nhận thú vị và đối mặt với đầy rẫy nguy cơ.

Kiếm chế một chút, chậm rãi một chút, 10 phần thông minh chỉ dùng 5 phần,
còn 5 phần để lại cho con cháu.
Vật chất cơ bản nhất để duy trì sinh mạng của nhân loại là không khí, ánh sáng mặt
trời, thực vật và nước, những thứ khác đều là xa xỉ phẩm. Đương nhiên, quần áo và
nhà cửa cũng cần thiết. Những ngày tháng tốt đẹp của nhân loại không còn nhiều
nữa.

Khi con người ở trong sa mạc, sẽ hiểu được nước và thực phẩm quý giá hơn vàng,
bạc và kim cương rất nhiều. Khi gặp động đất và sóng thần, người ta sẽ hiểu, cho
dù có bao nhiêu biệt thự hào hoa, khách sạn sang trọng, thì trong bàn tay vĩ đại của
tự nhiên cũng chỉ là một đống bùn đất. Khi con người huỷ hoại trái đất tới mức
không còn phù hợp để sống được nữa, lúc đó, quốc gia nào, dân tộc nào, chính
đảng hay cổ phiếu nào cũng trở nên vô nghĩa, đương nhiên, văn học cũng trở thành
vô nghĩa.

Văn học của chúng ta thực sự có thể khiến tham vọng của nhân loại, đặc biệt là
tham vọng của quốc gia phần nào được thu hẹp lại không? Kết luận là rất bi quan,
cho dù kết luận là bi quan, nhưng chúng ta không thể buông bỏ nỗ lực, bởi vì, đây
không chỉ là cứu người, mà đồng thời cũng là cứu chính bản thân mình.

Tác giả: Mạc Ngôn

Theo Sound Of Hope


Biên dịch: Minh Tâm

You might also like