You are on page 1of 72

Văn chương có đau mới hay 

   Trần Đình Sử 


 Thứ sáu, 24 Tháng 6 2016 08:36 
 font size

Không Tử xưa có nói “Thi (Kinh thi, thơ ca – TĐS) khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán”. Khả dĩ hưng, là
gây niềm hưng khởi, cổ vũ. Khả dĩ quan, nghĩa là giúp nhận thức, biết nhiều chuyện. Khả dĩ quần, nghĩa là tập hợp, gọi
đàn. Khả dĩ oán, là nói lên niềm oán hận, đau đớn. Khổng Tử đã rất tinh ý khi để chữ oán ở vị trí cuối cùng, không coi là
quan trọng hàng đầu, mặc dầu đã không bỏ quên nó. Vào những năm thời Mao Trạch Đông, trong một dịp đi sang giao
lưu với giới văn chương Nhật Bản, nhà văn Trung Quốc Tiền Chung Thư có bài nói chuyện Thi khả dĩ oán (in trong Tiền
Chung Thư văn tập, 2004, tr. 635 – 647). Ông bảo người ta bỏ quên lời dạy này của Khổng Tử đã quá lâu, cho nên trong
văn học tuyền chỉ nghe một thứ tiếng ngợi ca, ngọt ngào, hào sảng, mà không nghe thấy tiếng thương đau. Mà cuộc sống
thì đâu phải chỉ có tiếng reo vui, tiêng hào hùng, tiếng phấn khởi. Tiền Chung Thư sau khi dẫn lời của Khổng, liền kiểm
kê lại văn học Trung Quốc mấy nghìn năm, xem các thứ thơ hưng, quan, quần, oán trong lịch sử thế nào.  Ông dẫn rất
nhiều rồi  đi đến kết luận, tiếng vui, tiếng lạc chỉ có ít trong thơ, trong sử, phần nhiều không thật, còn tiếng đau, tiếng bi
thì rất nhiều và thật. “Oán hận nhi ca” mới là tiếng thật. Nhạc phủ có “Bi ca hành”, mà không có lạc nhi hành. Tư Mã
Thiên có câu “bất bình tắc minh” nghĩa là bất bình thì kêu lên. Ông lại có câu “phát phẫn trước thư”, nghĩa là có uất đau
thì mới viết sách. Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long cũng nói “Trai đau mà thành ngọc.” Thi phẩm của Chung Vinh tuy
có chỗ phân tán, song khi bình thơ “thượng phẩm”, phân biệt với trung phẩm và hạ phẩm đều nêu các bài thơ oán, thơ
hận, thơ đau. Nhà viết kịch Lí Ngư cho biết cả đời ông toàn là ủ ê đau đớn, không khi nào dược nở mày nở mặt, chỉ khi
sáng tác hướng tới nơi ảo cảnh mới thật sự có được niềm vui. Cái cười của ông trong kịch là tương phản với nỗi đau của
đời ông, chứ không phải phản ánh cuộc đời ấy. Hàn Dũ đời Đường đã nói “Đại phàm vật khi bất bình thì phải kêu
(minh)”, rồi dẫn Khuất Nguyên, Tư Mã Thiên, Trang Chu, Tương Như, coi là những tiếng kêu đau mới hay, sau đó mới
nói đến Mạnh Giao, rồi nói đến mình, đều cùng một loại. Văn học Trung Quốc cổ có rất nhiều bài bi thu, thương xuân,
khóc tình, khóc đời kiệt tác. Tiền Chung Thư  nói quan niệm thơ văn đau là tư tưởng chung có tính nhân loại. Điều thú vị
là các nhà văn nhà thơ suy nghĩ rất giống nhau. Nietsche cho rằng người làm thơ như con gà mái đau khi đẻ, nó có đau
thì mới đẻ. Có đau thì mới sáng tác, chứ sướng vui thì chỉ có thi ca tầm thường. Kêu đau là tiếng tự nhiên, rất tự nhiên,
không vì mục đích nào khác. Nhà thơ Áo Franz Grillparzer bảo, con trai đau không biết kêu thì nó cho ngọc. Flaubert cho
rằng phong cách nhà văn toát ra từ nỗi đau của con trai, cũng cùng ý ấy. Heiner hỏi: “Thơ ca của con người phải chăng là
hòn ngọc do đau đớn như con trai mà có?” Nhà thơ Anh A. E. Housman nói thi ca là một sự trút xả, như cây thông chảy
nhựa nơi lở loét, hay như con trai cho ngọc ở nơi đau. Một nhà thơ Ý nói: Vui sướng khiến người ta khoa trương, ồn ào,
còn đau thương khiến người ta nén lại. Người Trung Quốc hay nói khi vui thì hoa lòng nở tung, trái tim mở ra (khai tâm),
vui đến mức miệng không khép lại được. Như thế, tiếng vui bay hơi, hở hương, chẳng bao lâu mà nhạt. Trái lại khi buồn
thì lòng nặng như đá đeo, lòng quặn thắt lại, lòng bị cắt đứt (đoạn trường). Goethe nói khi vui lòng như mang cái gì hình
tròn, êm ái, khi đau lòng mang một vật hình nhiều cạnh. Cái hình tròn chỉ một loáng nó đi qua, cái hình có góc cạnh còn
vướng mắc mãi. Các nhà thơ lãng mạn phương Tây cũng nói rất nhiều nỗi đau. “Thơ ca đẹp nhất là những thơ ca nói lên
niềm đau đớn”. Có người nói: “Thơ ca đích thực là thơ ca xuất phát từ trái tim đau nỗi đau của nhân loại, đồng loại”. Lại
nói “Bài thơ đẹp nhất là bài thơ tuyệt  vọng, chỉ thuần tuý là nước mắt”. “U uất là điệu tình cảm phù hợp nhất của thi ca”.
Nhà mĩ học Ý là Croce nói “Thi ca là sản phẩm của sự bất như ý”. Một nhà lí luận Thuỵ Sĩ viết cuốn văn học sử bi kịch,
cho rằng “thơ ca, văn học thường bắt nguồn tư nỗi đau ẩn giấu”. Tóm lại ông Tiền Chung Thư là nhà bác học, ông dẫn đủ
cô kim, đông tây chỉ để khẳng định một điều, thơ ca, văn học nhân loại xưa nay có nhiều thứ, những chỉ những ai động
đến nỗi đau con người thì văn chương mới hay.
Văn học Việt Nam cổ điển có nhiều tác phẩm tuyệt đỉnh cũng đều là văn thơ đau. Đó là thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,
Đặng Trân Côn, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Đình Chiểu. Thơ cười như Nguyễn Khuyễn, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
cũng đều do đau đớn với đời mà sinh ra. Không có ai vui, phấn khởi mà làm nên thơ văn vĩ đại, bất hủ. Bảo Ninh là
người lính chiến trường, chứng kiến biết bao đồng đội đã hi sinh, dồn nén nỗi đau mà thốt ra tự nhiên thành Nỗi buồn
chiến tranh. Nguyễn Huy Thiệp phải đau đớn với đời mới có tiếng cười cay nghiệt. Văn chương đau ở ta vốn không
nhiều, mà còn chưa được đánh giá đúng mức, nếu không muốn nói là còn định kiến và kì thị. Phải chăng nói đau thì thiếu
lạc quan, thiếu tin tưởng, một tiêu chí của văn chương cách mạng? Niềm tin con người gắn với sự thật. Chính do nói
nhiều điều không thật mà văn học một thời đã mất đi niềm yêu mến. Văn chương nói thật thì mới có niềm tin yêu lâu
bền. Mà có tin thật thì mới có động lực trong cuộc sống. Không thể xây dựng niềm tin bằng ảo ảnh hoặc bằng che giấu.
Đã đến lúc chúng ta nên nhìn lại quan niệm văn học ta. Cuộc sống đâu phải chỉ có tiếng reo vui, tiêng hào hùng, tiếng
phấn khởi. Tôi nhớ nhà văn Ngô Thảo có lần lấy câu tục ngữ Nga, “Một nửa cái bánh mì là bánh mì, nhưng một nửa sự
thật không phải là sự thật”. Cũng vậy văn chương mà chỉ có tiếng khen, tiếng vui, không có tiếng oán thán, đớn đau thì
cũng không phải là sự thật. Hàng ngày xem báo chí trong nước, báo giấy và báo mạng, xem tin vui nhiều hay tin buồn,
tin đau đớn nhiều? Tin thành công nhiều hay tin thất bại nhiều? Tin lãng phí, thất thoát, nợ xấu nhiều hay tin chống được
tham nhũng nhiều? Tin bị lấn chiếm nhiều hay tin giành lại lãnh thổ nhiều? Vậy mà văn chương ít có tiếng oán thì mới
lạ. Phải nói rằng báo chí chúng ta thật giỏi. Họ nhiều khi phanh phui được sự thật, hé lộ những sai sót chết người. Nhân
dân sẽ mang ơn họ. Nhưng còn văn học thì sao? Đã có bao nhiêu tác phẩm nói được nối đau của người dân, của dân tộc?
Đã có bao nhiêu tác phẩm nêu lời ai oán? Có bao nhiêu tác phẩm khóc cho các số phận bất công? Có tác phẩm nào kêu
cho những mảnh đời tan vỡ? Tôi không có điều kiện đọc nhiều, không tự trả lời được. Nhưng theo quan niệm chung, văn
học thiên về nêu gương, nêu người tốt việc tốt, nêu gương người tử tế khó mà xuất phát từ nỗi đau. Ta đã có tác phẩm
nào như Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn? Có tác phẩm nào như Cung oán ngâm khúc? Có tác phẩm nào như Ai tư
vãn? Chẳng nhẽ nhà văn Việt Nam hiện thời không biết đau, không hiểu oán là thế nào? Tôi hoàn toàn không tin điều đó.
Vậy có gì vướng mắc phải gỡ cho ra. Tính từ thời đổi mới đã ba mươi năm qua rồi mà tác phẩm lớn được coi là chưa có,
các tác phẩm cứ bằng bằng như đồi thấp, không có đỉnh. Lại có ý kiến cho rằng nhà văn ta thiếu tài. Tôi chưa bao giờ cho
là như thế. Hãy nhìn lại xem, nhà văn ta đã sống sâu, sống thật với nỗi đau của nhân dân ta trong suốt  mấy thế kỉ qua hay
chưa? Đã thấy nỗi đau đứt ruột về nỗi tthống khổ của con người hay chưa? Làm gì có con trai có tài và con trai bất tài.
Mọi con trai đau đớn đều cho ngọc. Cái tài tự nó chưa là gì cả, nó chỉ có nghĩa khi đem dùng vào việc gì. Rất có thể ta đã
phí tài vào việc miêu tả những cái không quan trọng, dùng vào nơi không đúng chỗ. Hãy bớt đi lời ngợi ca, bớt đi lời
khen  ngợi, hãy sống thật sự với nỗi đau của lòng mình, và để nó toát ra tự nhiên dưới đầu ngọn bút. Khi ấy ta sẽ thấy
thiên tài xuất hiện. Hãy làm người bình thường, khi đau thì kêu. Xưa ta chê nhà thơ lãng mạn không đau mà rên, hàm ý là
giả đối. Nhưng nếu đau thật mà không kêu thì có giả dối hay không? Nay mỗi người hãy tự  hỏi mình có đau hay không?
Nếu anh chị có đau thật, đau sâu, đau lớn, đau không thể chịu nỗi nữa, không thể ngồi yên, đau như chưa bao giờ đau như
thế,  tôi tin cậy hoàn toàn ở anh chị, tin hoàn toàn vào Văn học Việt Nam.
Lý luận
Chân - thiện - mỹ mãi là đích hướng của văn chương
07:31 26/12/2005
Từ xưa đến nay, hướng tới chân - thiện - mỹ luôn là mục đích của văn chương. Bởi văn chương là một sản phẩm
do con người tạo ra, mà con người thì khác muôn loài ở bản chất muốn vươn tới những điều tốt đẹp, nên văn
chương luôn là một hoạt động vì con người, với khát vọng làm cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn. Điều ấy không
có gì phải bàn nếu nhìn lại nền văn chương nước nhà suốt chiều dài lịch sử, kể cả văn chương dân gian và văn
chương bác học.
Cho đến nay, về mặt lý thuyết, các nhà văn và bạn đọc cũng không ai phủ nhận điều này; nhưng về thực tiễn sáng tác và
thưởng thức thì những năm gần đây đã có một bộ phận  mon men vượt ra ngoài quỹ đạo đó. Vì thế, trở lại vấn đề này vẫn
có tác dụng đối với đời sống văn chương.
1. Khái niệm chân - thiện - mỹ có nhiều tầng ý nghĩa. Nhưng cách hiểu chung nhất: chân là cái thật, cái đúng, là lẽ
phải, đối lập với cái giả, cái sai trái.Nói đến cái chân của văn chương là nói tác phẩm văn chương phải chân thực,
phản ánh được bản chất, chân lý của cuộc sống. Những truyện thần thoại dẫu hoang đường đến mấy cũng để mọi
người hiểu bản chất của cuộc sống. Ví như, truyện Thánh Gióng để mọi người thấy sức vươn dậy kỳ diệu của cộng đồng
dân tộc trước  nạn ngoại xâm; truyện Chử Đồng Tử - Tiên Dung nói về khát vọng tình yêu của con người Việt Nam vượt
qua tất cả sự “môn đăng hộ đối” để xây dựng hạnh phúc; tác phẩm Chinh phụ ngâm thể hiện những bất hạnh của con
người trong các cuộc chiến tranh...
Cái chân là nền tảng, là tiên đề để thực hiện cái thiện và cái mỹ. Một tác phẩm không có được cái chân thì cái thiện
và cái mỹ cũng dễ bị chuệch choạc, khó lòng có được. Tự cái chân cũng đã bao hàm một phần cái thiện và cái mỹ. Vì
vậy, mấy chục năm nay, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn chương phản ánh chân thực cuộc sống xây dựng và
chiến đấu vì Tổ quốc. Cái chân là tiêu chuẩn chi phối sự thành công của một tác phẩm. Đối với mỗi nhà văn, sự trung
thực cũng chính là điểm tựa để có thể từ đó bộc lộ tài năng, kết tụ thành những tác phẩm có giá trị. Những tác phẩm tô
hồng và bôi đen cuộc sống đều là những tác phẩm không có được cái chân nên dễ bị cuộc sống đào thải. Những năm gần
đây, văn chương của chúng ta không có tác phẩm nào nằm trong  hai thái cực này, nhưng từng phần trong tác phẩm phạm
phải với mức độ khác nhau thì vẫn có.
Thiện là điều lành, điều tốt, đối lập với điều ác. Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử đấu tranh không ngừng
giữa cái thiện với cái ác và không phải bao giờ cái thiện cũng chiến thắng. Nhưng một tác phẩm văn chương thì phải là
một tác phẩm hướng thiện. Dẫu một tác phẩm lấy cái ác làm đề tài thể hiện thì tư tưởng thoát ra vẫn phải là cái
thiện, như tiểu thuyết “Tội ác và trừng phạt” của Đốtxtôiépxki miêu tả kỹ lưỡng tâm lý và hành động của một kẻ
giết người, cũng là để con người ăn năn và hướng tới điều thiện Rax con nhi cốp). Nhà văn Aimatốp miêu tả một kẻ
đào ngũ trong chiến tranh vệ quốc của Liên Xô cũng là để khẳng định những kẻ hèn nhát không có đất sống, là người
phải sống xứng đáng và dũng cảm...
Tiếc rằng, một vài tác phẩm của chúng ta những năm qua không có được điều rạch ròi này. Có nhà văn nữ miêu tả truyện
ngoại tình lại thi vị hóa nó là “một nửa cuộc đời”, hay có nhà văn miêu tả người anh hùng dân tộc với lời nói thô tục và
hành vi đê tiện...
Mỹ là cái đẹp. Tác phẩm văn chương phải đẹp thì mọi người đều thống nhất. Nhưng thế nào là đẹp thì lại có nhiều ý
kiến khác nhau. Cái đẹp ở đây không phải chỉ là cái đẹp của  hình thức nghệ thuật. Nhưng nội dung và hình thức biểu
hiện hay đi liền với nhau. Một hình thức rối rắm, xộc xệch, lủng củng thường không thể chứa đựng được điều gì tốt đẹp.
Những sáng tác tự phong là “thơ hiện đại” của một số người trong những năm qua, cầu kỳ và rối rắm thái quá, hoặc với
“những bài tình nhớt đêm”, những cuộc loạn luân với hình bóng tiền nhân qua “Bóng đè”... thì thật xa vời với tiêu chí
mỹ.
2. Những tác phẩm văn chương nổi tiếng của dân tộc ta cũng như của các dân tộc trên thế giới còn lưu lại đến ngày nay
đều là những tác phẩm có giá trị chân - thiện - mỹ cao. Dẫu không phải các dân tộc đều đúc kết thành lý luận, nhưng sự
thưởng thức tự nhiên của mọi người, của mọi thế hệ như đều lấy chân - thiện - mỹ là tiêu chuẩn để đáng giá, là tấm
gương soi giá trị tác phẩm văn chương. Các thế hệ nhà văn mọi dân tộc đều có khát vọng hướng tới giá trị chân - thiện -
mỹ dẫu mỗi dân tộc có những biểu hiện độc đáo riêng. Đi sâu vào nền văn chương nước nhà, từ thơ ca và truyện cổ dân
gian, đến thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, rồi Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của
Nguyễn Đình Chiểu, thơ mới 1930-1945 và nền văn chương hiện đại... tất cả đều thấm đẫm giá trị chân - thiện - mỹ.--
PageBreak--
Tuy vậy, trong dòng chảy êm đềm của văn chương dân tộc, cũng không khỏi có những lạch rẽ, những đá gợn. Tôi muốn
nói đến cái kết thúc không thiện và không mỹ trong một dị bản của truyện Tấm Cám. Ấy là Tấm giội chết Cám bằng
nước sôi rồi lấy thịt làm mắm gửi cho người dì ghẻ. Ấy là những dị bản tục được thêm thắt và lan truyền gắn vào thơ Hồ
Xuân Hương... Thì đấy là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa cái cao cả và cái thấp hèn, giữa cái đẹp và cái xấu.
Tôi cho rằng: những dị bản ấy không phải là mạch chính của truyện Tấm Cám và thơ Hồ Xuân Hương. Trong lịch sử, cái
ác không phải bao  giờ cũng bị đánh bại hoàn toàn, nó vẫn lúc ẩn lúc hiện, trong hai hiện tượng trên nó đã nhấp nhô in
bóng vào văn chương. Trong nền văn chương của các dân tộc trên thế giới với những mức độ đậm nhạt khác nhau, cũng
có những hiện tượng tương tự.
Nhưng không vì thế mà lấy lý do bênh vực những hiện tượng kỳ quặc, chệch hướng chân - thiện - mỹ cho một vài tác
phẩm đã bị dư luận phê phán những năm qua. Điều đáng nói là lại có những ý kiến bênh vực cho những hiện tượng lệch
lạc ấy. Lẫn lộn giữa cái thật và cái giả, giữa cái thiện và cái ác, giữa cái đẹp và cái xấu là một vấn đề nguy hiểm. Bởi vì,
đằng sau một quan niệm sẽ kéo theo một thực tiễn sáng tác và một bộ phận công chúng thưởng thức.
3. Vươn tới chân - thiện - mỹ là mục đích của văn chương. Đồng thời chân - thiện - mỹ cũng là nên tảng lý luận cơ
bản nhất của văn chương mà mọi người cầm bút phải thấm nhuần và mọi người thưởng thức văn chương cần am hiểu.
Các cơ quan quản lý văn hóa văn nghệ, các nhà xuất bản, cơ quan báo chí hơn ai hết phải hiểu thật sâu sắc vấn đề này.
Bởi một tác phẩm có giá trị chân - thiện - mỹ sẽ đem lại nhiều điều tốt đẹp cho đông đảo công chúng; ngược lại, một tác
phẩm thiếu giá trị chân - thiện - mỹ sẽ có sức hủy hoại rất lớn. Thuốc bổ thường lâu thấm, mà ma túy thì nhanh ngấm và
khó chữa. Nhưng điều đáng mừng là, dân tộc ta có một truyền thống tôn thờ những giá trị chân - thiện - mỹ, nên đối với
những điều ngược lại nhân dân ta có sức đề kháng cao. Minh chứng là, phản ứng của nhân dân trước những truyện kinh
dị nhập cho trẻ em, hay mỗi khi xuất hiện những tác phẩm có giá trị độc hại, lệch lạc thường được quần chúng lên tiếng
phê phán. Và có nhà văn nữ cũng khá nổi nang mà viết tác phẩm chỉ toát lên toàn điều ác, không có một chút nhân hậu
nào nên Nhà xuất bản Phụ nữ đã từ chối không in. Đó là điều đáng mừng đối với một nền văn chương trong khi mở cửa
hội nhập với thế giới đầy phức tạp...
4. Phải khẳng định rằng, lịch sử phát triển văn chương của dân tộc ta luôn gắn liền với các giá trị chân - thiện - mỹ.
Những tác phẩm dù mang âm hưởng anh hùng ca hay thấm đẫm bi thương thì cũng đều có mục đích chung là làm
cho con người và cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo hay Chinh phụ
ngâm, Truyện Kiều; từ thơ thiền, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm hay văn chương yêu nước và cách mạng thế kỷ XX; từ
văn chương dân gian đến thơ mới, thơ hiện đại... những tinh hoa của nó bao giờ cũng mang đầy đủ những tiêu chí
giá trị ấy. Sự thực thì dòng chảy của văn chương dân tộc, tuy không liền mạch, thẳng dòng, nhưng bao giờ cũng
ào ạt, vạm vỡ. Chỉ lấy thí dụ văn chương của thế kỷ XX mà trước đây chúng ta chia làm nhiều dòng văn học,
nhưng nó cũng đều nằm trong một dòng chung là đổ vào biển cả, hội nhập cùng nhân loại. Văn chương thế kỷ XX
của dân tộc ta là một thời kỳ rất đáng tự hào. Tuy chưa có được những tác giả thực sự tầm cỡ làm thế giới phải
kinh ngạc, nhưng cũng đã có nhiều tác giả được thế giới trân trọng. Dù các tác giả ấy có đứng ở vị trí nào trong
dòng chảy của dân tộc, thì họ cũng để lại một giá trị nhân văn tỏa ra từ chỗ đứng của họ, có tác dụng xây dựng và
cải tạo con người và cuộc sống với những mức độ khác nhau, trừ những tác giả và những tác phẩm giả, ác và xấu.
Bây giờ, từ những phức tạp trong dòng chảy của văn chương hiện đại, liệu tiêu chí chân - thiện - mỹ có còn là đích hướng
tới của văn chương? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy nhìn lại văn chương của nhân loại thì sẽ rõ. Mỗi dân tộc trong
lịch sử phát triển văn chương của mình, tuy cao thấp, lớn nhỏ không đồng đều, và mỗi dân tộc có một bản sắc riêng, có
thể nói là rất khác nhau; nhưng tất cả đều giống nhau ở một điểm: những tác phẩm còn lại đều là những tác phẩm phản
ánh chân thật con người và cuộc sống của dân tộc ấy ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Những tác phẩm ấy đều hướng
con người đến một giá trị đạo đức tốt đẹp như tình thương yêu, sự chung thủy, lòng nhân ái, đức hy sinh...; còn mọi tư
tưởng ngược lại đều bị chôn vùi, có thể nó có xuất hiện nhưng không bao giờ được truyền bá.
Vì vậy, chân - thiện - mỹ là tiêu chuẩn để đánh giá, là tấm gương soi giá trị văn chương. Từ xưa đến nay và mãi mãi về
sau, chân - thiện - mỹ là lý luận cơ bản nhất, là thực tiễn sáng tác, là đích hướng tới của mọi nền văn chương nghệ thuật.
Đã là nghệ sĩ, đã lấy văn chương nghệ thuật để phụng thờ thì đây là điều đầu tiên, cũng là điều cơ bản nhất phải luôn
luôn tâm niệm
Đinh Quang Tốn
Vai trò ca nhân (Suối nguồn)
"Hàng ngàn năm trước đây, có một người lần đầu tiên tìm ra cách tạo ra lửa. Người đó có lẽ đã bị thiêu sống bằng
chính ngọn lửa mà anh ta dạy những người anh em của mình cách thắp lên. Anh ta bị coi là một kẻ xấu vì đã có quan hệ
với ma quỷ, thứ mà loài người luôn khiếp sợ. Nhưng từ đó trở đi, loài người có lửa để giữ ấm, để nấu nướng, để thắp
sáng trong hang động. Anh ta đã để lại cho họ một món quà mà họ từng không hiểu và anh ta đã xua bóng tối ra khỏi trái
đất này. Nhiều thế kỷ sau, có một người lần đầu tiên tạo ra cái bánh xe. Người đó có lẽ đã tan xác dưới những bánh xe
mà anh ta dạy những người anh em của mình cách làm. Anh ta bị coi là một kẻ phạm tội vì đã mạo hiểm vào vùng đất
cấm. Nhưng từ đó trở đi, loài người có thể đi tới mọi chân trời. Anh ta đã để lại cho họ một món quà mà họ đã không
hiểu và anh ta đã mở những con đường trên mặt đất.
"Những người đó - những người không chịu phục tùng và luôn đi đầu - đứng ở chương mở đầu của tất cả những truyền
thuyết mà loài người ghi lại về thủa sơ khai. Promete đã bị xích vào một tảng đá và bị những con kền kền xé xác - bởi vì
anh đã ăn cắp ngọn lửa của những vị chúa trời. Adam bị buộc phải chịu đau khổ - bởi vì anh ta đã ăn quả cấm trên cây
thiện-ác. Dù truyền thuyết gì đi chăng nữa, ở sâu trong trí nhớ, loài người biết rằng vinh quanh của chúng ta đã bắt đầu từ
một cá nhân và cá nhân đó đã phải trả giá cho lòng dũng cảm của mình.
"Trong những thế kỷ qua, đã có những người đặt bước chân đầu tiên của họ trên những con đường mới; họ không được
trang bị vũ khí gì ngoài tầm nhìn của riêng họ. Họ có mục đích khác nhau, nhưng tất cả đều có một số điều chung: bước
chân của họ là bước chân đầu tiên, con đường của họ là con đường hoàn toàn mới, nhãn quan của họ không hề do vay
mượn, và phản ứng mà họ nhận được luôn là sự căm ghét. Những nhà phát minh vĩ đại - những nhà tư tưởng, những nghệ
sĩ, những nhà khoa học, những nhà sáng chế - đều phải đơn độc chống lại những người cùng thời với họ. Tất cả những ý
tưởng mới và vĩ đại đều bị chống đối kịch liệt. Tất cả những phát minh mới và vĩ đại đều bị lên án. Đông cơ máy đầu tiên
bị coi là ngu xuẩn. Chiếc máy bay đầu tiên bị coi là không tưởng. Chiếc máy dệt đầu tiên đã bị coi là ác quỷ. Việc gây mê
bị coi là tội lỗi. Nhưng những người đó, với tầm nhìn không vay mượn, vẫn tiếp tục tiến lên. Họ đã chiến đấu, họ đã đau
khổ và họ đã phải trả giá. Nhưng họ đã chiến thắng.
"Một người sáng tạo không bao giờ bị thôi thúc bởi khát vọng phục vụ đồng loại của anh ta, bởi vì chính đồng loại của
anh ta luôn chối bỏ món anh ta đem tặng họ; đồng thời món quà đó phá hủy cuộc sống bình thường của anh. Anh sáng
tạo vì động cơ duy nhất: chân lý. Chân lý của riêng anh, và lao động của riêng anh để đạt tới chân lý theo cách riêng của
anh. Mục đích và cuộc đời anh ta nằm ở một bản giao hưởng, một quyển sách, một cỗ máy, một trường phái triết học,
một cái máy bay hay một tòa nhà. Nó không nằm ở người nghe nhạc, người đọc sách, người vận hành máy, người đi theo
trường phái triết học, người đi máy bay hay người sống trong ngôi nhà mà anh ta tạo ra. Sự sáng tạo, chứ không phải
những lợi ích mà người khác được hưởng từ sự sáng tạo ấy. Sáng tạo là cách anh ta thể hiện chân lý của mình. Anh ta đặt
chân lý này lên bên trên mọi thứ, bất chấp tất cả loài người.
"Tầm nhìn, sức mạnh, và lòng dũng cảm của anh ta đến từ linh hồn của anh ta. Tuy nhiên, linh hồn của một người lại
chính là cái tôi của anh ta. Cái tôi là thực thể làm công việc nhận thức. Cái tôi có chức năng tư duy, cảm giác, đánh giá và
hành động.
"Những người sáng tạo luôn là những người có cái tôi. Cái tôi chính là toàn bộ bí mật về sức mạnh của họ - cái tôi ấy đầy
đủ trong bản thân nó, tự vận động trong bản thân nó, và tự tái tạo trong bản thân nó. Cái tôi là nguyên nhân đầu tiên, là
nguồn năng lượng, là động lực sống, là cội rễ của tất cả. Người sáng tạo không phục vụ cái gì và không phục vụ bất cứ ai
khác. Anh ta sống vì chính bản thân mình.
"Và chỉ có bằng cách sống vì bản thân, anh ta mới có thể đạt được những thành tựu vinh quang của loài người. Đó chính
là bản chất của sự thành công...
"Loài người có thể tồn tại nhờ trí tụê của mình. Loài người đến trái đất mà không được trang bị vũ khí nào. Bộ óc là thứ
vũ khí duy nhất của họ. Động vật kiếm thức ăn bằng sức mạnh cơ bắp. Loài người không có móng vuốt, không có răng
nanh, không có sừng; họ cũng không có sức mạnh cơ bắp vượt trội. Loài người phải tự trồng trọt hoặc săn bắn để có thức
ăn. Để trồng trọt, họ phải có một quá trình tư duy. Để săn, họ cần có vũ khí, và để làm ra vũ khí - họ cũng cần một quá
trình tư duy. Từ nhu cầu đơn giản nhất này cho đến nhưng khái niệm tôn giáo trừu tượng nhất, từ cái bánh xe cho đến tòa
nhà chọc trời, tất cả những gì con người đại diện và tất cả những gì con người có đều đến từ một thuộc tính đơn nhất của
con người - đó là chức năng tư duy của bộ óc.
"Nhưng bộ óc lại thuộc về cá nhân. Không có cái gọi là bộ óc tập thể. Không có cái gọi là một ý nghĩ tập thể. Một thỏa
thuận do một nhóm người đạt được thực ra chỉ là một thỏa hiệp hoặc là giá trị trung bình rút ra từ những ý nghĩ cá nhân.
Đó chỉ là một hệ quả có tính phát sinh. Hành động chủ yếu, tức là quá trình tư duy - phải do mỗi cá nhân thực hiện độc
lập. Chúng ta có thể chia một bữa ăn cho nhiều người. Nhưng chúng ta không thể tiêu hóa nó trong một cái dạ dày tập
thể. Không ai có thể sử dụng phổi của mình để thở cho người khác. Không ai có thể sử dụng bộ não của mình để nghĩ hộ
kẻ khác. Tất cả mọi chức năng của thể xác và linh hồn đều có tính cá nhân. Chúng không thể bị chia sẻ hoặc chuyển giao
cho người khác.
"Chúng ta thừa kế những sản phẩm tư duy của người khác. Chúng ta kế thừa cái bánh xe. Chúng ta tạo ra một chiếc xe
ngựa. Xe ngựa thô sơ trở thành xe ô-tô. Ô-tô trở thành máy bay. Nhưng trong suốt quá trình đó, những gì chúng ta nhận
được từ người khác chỉ là sản phẩm cuối cùng trong quá trình tư duy của họ. Cái động cơ thúc đẩy quá rình này chính là
khả năng sáng tạo, nhờ nó mà chúng ta lấy những sản phẩm cuối cùng kia làm nguyên liệu để sử dụng và sáng tạo ra sản
phẩm mới. Khả năng sáng tạo này không thể đem cho hoặc nhận, không thể chia sẻ hoặc vay mượn. Nó thuộc về các cá
thể người đơn lẻ. Khả năng sáng tạo là tài sản của người sáng tạo. Loài người có thể học lẫn nhau. Nhưng học luôn chỉ là
sự trao đổi nguyên vật liệu. Không ai có thể cho ai khả năng tư duy. Và khả năng tư duy ấy lại là phương tiện duy nhất
giúp chúng ta tồn tại.
"Loài người không được cho sẵn bất cứ cái gì trên mặt đất này. Tất cả những gì anh ta cần - anh ta phải làm ra chúng. Và
ở đây loài người đối mặt với sự lựa chọn cơ bản nhất của mình: anh ta chỉ có thể tồn tại được theo một trong hai cách -
bằng cách làm việc độc lập với bộ óc của riêng anh ta, hay là trở thành một kẻ ăn bám sống nhờ bộ óc của những người
khác. Người sáng tạo chọn cách thứ nhất. Kẻ ăn bám thì chọn cách thứ hai. Người sáng tạo một mình đối mặt với tự
nhiên. Kẻ ăn bám đối mặt với tự nhiên thông qua những trung gian.
"Mối quan tâm của người sáng tạo là chinh phục tự nhiên. Còn mối quan tâm của kẻ ăn bám là chinh phục con người.
"Người sáng tạo sống với lao động của mình. Anh ta không cần ai khác. Mục đích cơ bản của anh ta là chính bản thân
anh. Kẻ ăn bám sống cuộc đời thứ cấp. Anh ta cần những người khác. Những người khác trở thành động lực chính của
anh ta.
"Nhu cầu cơ bản của người sáng tạo là sự độc lập. Một bộ óc biết tư duy không thể hoạt động dưới sự cưỡng bức theo bất
cứ hình thức nào. Nó không thể bị đóng yên cương, không thể hy sinh hay khuất phục trước bất cứ điều gì. Nó đòi hỏi sự
độc lập tuyệt đối trong cả chức năng và động cơ. Đối với một người sáng tạo, tất cả những mối quan hệ với con người
đều là thứ yếu.
"Nhu cầu cơ bản của một kẻ thứ sinh là củng cố quan hệ của anh ta với mọi người để được họ nuôi sống. Anh ta đặt quan
hệ lên trên hết. Anh ta tuyên bố rằng loài người tồn tại là để phục vụ người khác. Anh ta rao giảng về chủ nghĩa vị nhân
sinh."
"Vị nhân sinh là học thuyết đòi hỏi con người phải sống vì người khác và đặt những người khác lên trên bản thân mình.
"Không ai có thể sống vì người khác. Một người không thể chia sẻ linh hồn anh ta, cũng giống như anh ta không thể chia
sẻ thể xác của anh ta. Nhưng những kẻ sống thứ sinh đã lợi dụng chủ nghĩa vị nhân sinh như một thứ vũ khí để lợi dụng
và đảo ngược lại những nguyên tắc đạo đức cơ bản của loài người. Loài người đã được dạy dỗ tất cả những giới luật để
phá hủy người sáng tạo. Loài người đã được dạy dỗ rằng phụ thuộc lẫn nhau chính là một đức hạnh.
"Một người cố gắng sống vì người khác là một người luôn lệ thuộc. Anh ta là một kẻ ăn bám trong động cơ của mình, và
anh ta cũng biến những người mà anh ta phục vụ thành những kẻ ăn bám. Mối quan hệ này chẳng tạo ra cái gì khác ngoài
sự suy đồi cho cả hai bên. Cái gần nhất với quan hệ này trong thực tế chính là chế độ nô lệ. Chế độ nô lệ về mặt thể xác
là đáng ghê tởm, thì nô lệ về tinh thần còn ghê tởm đến mức nào? Kẻ bị buộc làm nô lệ vẫn còn có chút danh dự. Vì anh
ta còn dám chống lại chế độ nô lê và coi nó là xấu xa. Còn những người tự biến bản thân thành nô lệ nhân danh tình yêu
thương - họ là những sinh vật thấp hèn. Họ đã hạ thấp phẩm giá con người và hạ thấp khái niệm tình yêu thương. Thế mà
dây chính là cốt lõi của chủ nghĩa vị nhân sinh.
"Loài người đã được dạy dỗ rằng đức tính tốt đẹp nhất không phải là đạt được một cái gì đó mà là cho đi một cái gì đó.
Nhưng một người không thể cho đi những gì mà anh ta không tạo ra. Đầu tiên phải có sáng tạo, sau đó mới là phân phối,
nếu không thì chẳng có gì để phân phối cả. Phải có người sáng tạo trướck hi có những người hưởng lợi từ sự sáng tạo.
Thế mà chúng ta lại được dạy dỗ để ngưỡng mộ những kẻ sống thứ sinh - những kẻ phân phát những món quà mà họ
không tạo ra; chúng ta được dạy để xếp họ lên trên những người đã sản sinh ra những món quà đó. Chúng ta ca ngợi công
việc từ thiện. Nhưng chúng ta lại nhún vai coi khinh những nỗ lực để thành công.
"Loài người đã được dạy dỗ rằng mối quan tâm đầu tiên của họ là giúp cho người khác bớt khổ đau. Nhưng khổ đau là
một căn bệnh. Chỉ khi có người bị bệnh thì mới cần có người đến để giúp giảm bớt sự đau đớn. Còn nếu chúng ta biến
việc giảm khổ đau thành phép thử lớn nhất của đức hạnh thì chúng ta đã biến khổ đau thành một thứ quan trọng nhất
trong cuộc sống. Do vậy người ta sẽ mong muốn được nhìn thấy những người khác đau khổ - để người ta có thể trở thành
người đức hạnh. Đó chính là bản chất của chủ nghĩa vị nhân sinh. Trong khi đó, người sáng tạo không quan tâm đến bệnh
tật, họ quan tâm đến cuộc sống. Nhưng công việc của người sáng tạo lại giúp loại bỏ hết bệnh này đến bệnh khác, cả
bệnh tật của thể xác lẫn bệnh tật của tâm hồn. Thành quả của họ giúp giảm nhẹ khổ đau nhiều hơn bất cứ một người theo
chủ nghĩa vị nhân sinh nào có thể làm.
"Loài người đã được dạy dỗ rằng đồng tình với người khác là một đức hạnh. Nhưng người sáng tạo lại luôn bất đồng.
Loài người đã được dạy dỗ rằng bơi theo dòng nước là một đức hạnh. Nhưng người sáng tạo luôn bơi ngược dòng. Loài
người đã được dạy dỗ rằng đứng tụ tập bên nhau là một đức hạnh. Nhưng người sáng tạo lại luôn là người đứng một
mình.
"Loài người đã được dạy dỗ rằng cái tôi đồng nghĩa với sự xấu xa, và việc không-có-cái-tôi là đức hạnh lý tưởng. Nhưng
người sáng tạo là người vị kỷ theo nghĩa tuyệt đối, còn người không có cái tôi là kẻ không tư duy, không cảm nhận,
không đánh giá và khbn ông hành động. Bởi vì tư duy, cảm nhận, đánh giá và hành động là những chức năng của cái tôi.
"Đây là chỗ mà sự đánh tráo khái niệm này có tác hại khủng khiếp nhất. Sự đánh tráo này đưa con người đến chỗ không
có lựa chọn - và không có tự do. Thay vì hai thái cực tốt và xấu, chúng ta chỉ còn hai khái niệm: vị kỷ hay vị nhân sinh.
Sự vị kỷ bị coi là hy sinh những người khác cho bản thân mình. Còn vị nhân sinh trở thành hy sinh thân mình vì những
người khác. Điều này đã vĩnh viễn trói một người vào những người khác và khiến cho anh ta không còn lựa chọn nào
khác ngoài sự đau khổ: sự đau khổ mà anh ta phải mang vác để thỏa mãn người khác và sự đau khổ mà anh ta gây ra cho
người khác để thỏa mãn bản thân anh ta. Đến khi người ta thêm vào một điều khoản - rằng con người phải tìm kiếm niềm
vui trong việc hy sinh bản thân thì cái bẫy đã hoàn toàn sập xuống. Con người bị ép phải coi khổ dâm là lý tưởng - vì nếu
không, họ chỉ còn một lựa chọn là bạo dâm. Đây là vụ lừa đảo lớn nhất mà loài người đã thực hiện.
"Đây chính là công cụ mà theo đó sự phụ thuộc và khổ đau được duy trì như nền tảng của cuộc sống.
"Sự lựa chọn mà chúng ta phải có không phải là giữa hy sinh bản thân và hy sinh người khác. Sự lựa chọn phải là giữa
sống độc lập và sống lệ thuộc. Giữa nguyên tắc sống của người sáng tạo với nguyên tắc sống của những kẻ thứ sinh. Đây
chính là vấn đề cơ bản. Nó là lựa chọn giữa sống và chết. Nguyên tắc sống của người sáng tạo được xây dựng trên những
nhu cầu của một bộ óc biết tư duy và do đó giúp con người tồn tại được. Nguyên tắc sống của nhưng kẻ thứ sinh được
xây dựng trên nhu cầu của một bộ óc không có khả năng tồn tại. Tất cả những gì bắt nguồn từ cái tôi độc lập của con
người đều lành mạnh. Tất cả những gì bắt nguồn từ sự lệ thuộc của con người vào người khác đều là xấu xa.
"Người vị kỷ theo nghĩa tuyệt đối không bao giờ bắt người khác hy sinh ình. Anh ta sống vượt ra ngoài nhu cầu sử dụng
những người khác, dù dưới bất cứ hình thức nào. Anh ta không hoạt động thông qua họ. Trong những lĩnh vực cốt lõi
nhât - tức là trong mục đích, động cơ, tư duy, khát vọng, năng lực - anh ta không quan tâm tới người khác. Anh ta không
sống vì bất cứ ai - và anh ta không yêu cầu ai phải sống vì anh ta. Đây là hình thức duy nhất để tình bằng hữu và sự tôn
trọng lẫn nhau giữa người với người có thể tồn tại.
"Năng lực của mỗi người có thể khác nhau, nhưng nguyên tắc cơ bản vẫn giữ nguyên: mức độ độc lập, chủ động, và tình
yêu công việc của mỗi người là yếu tố quyết định tài năng của anh ta với tư cách là một người lao động và quyết định giá
trị của anh ta với tư cách một con người. Sự độc lập là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá phẩm chất và giá trị của loài
người. Anh ta là ai và anh ta tự tạo ra cái gì; chứ không phải anh ta đã làm được hoặc không làm được gì cho người khác.
Không có gì có thể thay thế được phẩm giá cá nhân. Và không có tiêu chuẩn nào khác cho phẩm giá cá nhân ngoài tính
độc lập.
"Tất cả những quan hệ hợp lý đều không có chuyện người này phải hy sinh vì người khác. Một kiến trúc sư cần có khách
hàng, nhưng anh ta không đặt lao động của anh ta xuống dưới nhu cầu của khách hàng. Khách hàng cần kiến trúc sư,
nhưng họ cũng không ký hợp đồng xây nhà chỉ vì họ muốn cho anh ta tiền công xây dựng. Loài người trao đổi sản phẩm
lao động với nhau thông qua sự đồng thuận tự nguyện vì lợi ích của cả hai bên, khi lợi ích cá nhân của cả hai bên cùng
được thỏa mãn và họ cùng mong muốn có trao đổi đó. Nếu họ không muốn có trao đổi đó, họ không bắt buộc phải làm
việc với nhau. Họ có thể tìm kiếm người khác. Đây là mối quan hệ bình đẳng duy nhất có thể có ở loài người. Bất cứ
những dạng quan hệ nào khác đều chỉ là quan hệ giữa chủ và tớ, hoặc giữa nạn nhân và đao phủ.
"Chưa từng có công trình nào được hoàn thành nhờ tập thể, nhờ quyết định của đa số. Tất cả những thành tựu trong công
việc sáng tạo đều được thực hiện dưới sự chỉ đạo của một suy nghĩ cá nhân đơn nhất. Một kiến trúc sư cần rất nhiều
người để xây nên một tòa nhà. Nhưng anh ta không yêu cầu họ biểu quyết về bản thân thiết kế của mình. Họ làm việc
cùng nhau thông qua thỏa thuận tự do và mỗi người trong họ đều tự do hoạt động trong bổn phận hợp lý của mình. Một
kiến trúc sư sử dụng thép, kính, bê tông, do những người khác sản xuất ra. Nhưng nguyên liệu vẫn chỉ là thép, kính và bê
tông cho đến khi người kiến trúc sư chạm vào chúng. Những gì anh ta làm với chúng là sản phẩm và tài sản của riêng
anh. Đây là hình thức hợp tác hợp lý duy nhất giữa người và người.
"Quyền đầu tiên của con người trên trái đất này là quyền có cái tôi. Bổn phận đầu tiên của một con người là bổn phận với
chính mình. Nguyên tắc đạo đức của anh ta là không bao giờ để người khác quyết định mục đích sống của anh ta. Bổn
phận đạo đức của anh ta là phải làm những gì anh ta khao khát, miễn là khao khát đó không do người khác quyết định.
Bổn phận đạo đức này phải chi phối sự sáng tạo, tư duy và lao động của anh ta. Những kẻ ăn cướp, những kẻ theo chủ
nghĩa vị nhân sinh, hay những kẻ độc tài dĩ nhiên không sống theo bổn phận này.
"Một con người luôn nghĩ và làm việc một mình. Một con người không thể ăn cắp, lợi dụng hay cai trị một mình. Ăn cắp,
lợi dụng hay cai trị luôn đòi hỏi phải có nạn nhân. Chúng bao hàm sự lệ thuộc. Chúng là lãnh địa của những kẻ sống thứ
sinh.
"Những người cai trị người khác không phải là những người vị kỷ. Họ chẳng tạo ra cái gì cả. Họ tồn tại hoàn toàn thông
qua những người khác. Mục đích của họ nằm trong đối tượng mà họ cai trị, trong hành vi nô dịch hóa người khác. Họ
cũng lệ thuộc chẳng kém gì những người ăn xin, những người làm công tác xã hội và lũ kẻ cướp. Ở đây, hình thức lệ
thuộc không quan trọng.
"Nhưng loài người đã được dạy dỗ để coi những người sống thứ sinh - những tên bạo chúa, những ông hoàng, những kẻ
độc tài - như những ví dụ tiêu biểu của lòng vị kỷ. Qua sự đánh tráo khái niệm này, loài người bị lừa vào chỗ hủy diệt cái
tôi của bản thân họ và của những người khác. Mục đích của sự lừa đảo này là để hủy hoại những người sáng tạo. Hoặc để
kìm kẹp họ. Hai điều này thực sự là một.
"Từ lúc bắt đầu của lịch sử loài người, hai đối thủ đã luôn đứng đối mặt nhau: người sáng tạo và người sống thứ sinh. Khi
người sáng tạo đầu tiên tạo ra cái bánh xe, kẻ sống thứ sinh lập tức đáp lại. Anh ta tạo ra chủ nghĩa vị nhân sinh.
"Người sáng tạo - mặc dù bị chối bỏ, thù nghịch, ngược đãi và bóc lột - vẫn đi tiếp về phía trước và kéo cả loài người đi
theo bằng sức của mình. Những kẻ sống thứ sinh không đóng góp gì vào quá trình này ngoài việc gây ra những trở ngại.
Trận đấu bây giờ được khoác một cái tên mới: cá nhân chống lại tập thể.
"'Lợi ích chung' của tập thể đã được chọn làm quyền và lý do để bào chữa cho tất cả chế độ chuyên chế bạo ngược đã
từng có trong lịch sử loài người. Cái tập thể đó có thể là một sắc tộc, một giai cấp, hay một quốc gia. Tất cả những cơn ác
mộng trong lịch sử đều được thực hiện với động cơ trá hình là chủ nghĩa vị nhân sinh. Đã từng có hành vi ích kỷ nào có
sức phá hoại ngang với những thảm họa chết chóc do những người đi theo chủ nghĩa vị nhân sinh gây ra? Lỗi nằm ở chỗ
loài người không có đạo đức hay ở chỗ nguyên tắc đạo đức của loài người đã sai từ trong bản chất? Những tên đạo phủ
khủng khiếp nhất lại thường là những người nhiệt tình nhất. Họ nhiệt tình tin rằng có thể đạt được một xã hội hoàn hảo
nhờ máy chém và đội hành quyết. Không ai nghi ngờ quyền giết người của họ bởi vì họ giết người với động cơ vị nhân
sinh. Người ta chấp nhận việc ai đó phải bị hy sinh vì những người khác. Diễn viên có thể thay đổi, nhưng nội dung vở bi
kịch thì vẫn giữ nguyên. Một người đấu tranh cho nhân quyền luôn khởi đầu bằng những tuyên bố về tình yêu nhân loại
và luôn kết thúc bằng một biển máu. Điều đó đang diễn ra và sẽ tiếp tục diễn ra chừng nào loài người vẫn còn tin rằng
một hành vi được coi là đức hạnh nếu nó không xuất phát từ cái tôi. Niềm tin này cho phép những kẻ theo chủ nghĩa vị
nhân sinh hành động và ép buộc nạn nhân của họ phải chấp nhận điều đó. Những người lãnh đạo của những phong trào
tập thể luôn tuyên bố không cần gì cho bản thân họ. Nhưng hãy quan sát những gì họ đã gây ra.
"Điều đức hạnh duy nhất mà con người có thể làm cho nhau và cái thỏa thuận duy nhất ối quan hệ hợp lý giữa người với
người là - Buông nhau ra!
"Bây giờ hãy quan sát những thành quả của một xã hội xây dựng trên nguyên tắc của chủ nghĩa cá nhân. Đó, đất nước
của chúng ta. Đất nước hùng mạnh nhất trong lịch sử loài người. Đất nước của những thành tựu, của sự thịnh vượng và
của nền tự do vĩ đại nhất trong lịch sử. Đất nước này không dựa trên sự phục vụ quên mình, sự hy sinh, hay bất cứ lời
giáo huấn nào khác về chủ nghĩa vị nhân sinh. Nó được xây dựng dựa trên quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người.
Hạnh phúc của mỗi cá thể chứ không phải của ai khác. Một động cơ riêng tư, cá nhân và vị kỷ. Hãy nhìn vào những kết
quả chúng ta có được. Hãy nhìn vào lương tâm của chính mình.
"Đây là một xung đột rất cổ xưa. Loài người đã đến rất gần với sự thật, nhưng mỗi lần họ tiến được đến gần thì sự thật lại
bị phá hủy và các nền văn minh cứ nối tiếp nhau sụp đổ. Văn minh là một quá trình tiến đén một xã hội tôn trọng sự riêng
tư. Người nguyên thủy tồn tại hoàn toàn trong cộng đồng chung, bị cai trị bởi luật lệ của bộ tộc anh ta. Văn minh hóa là
một quá trình giải phóng mỗi người khỏi mọi người.
"Giờ đây, trong thời đại của chúng ta, chủ nghĩa tập thể - nguyên tắc của những kẻ sống thứ sinh và những kẻ ăn bám,
con quái vật thời cổ đại, đã sổng chuồng và trở nên điên cuồng hơn bao giờ hết. Nó đã đẩy loài người đến một mức độ
tăm tối về nhận thức chưa từng có trên trái đất. Nó đã đạt tới sức mạnh kinh khủng mà nó chưa bao giờ đạt được. Nó đã
đầu độc bộ óc của tất cả mọi người. Nó đã nuốt chửng hầu hết châu Âu. Và nó đang nhấn chìm đất nước của chúng ta
xuống vực thẳm.
"Tôi là một kiến trúc sư. Tôi có thể đoán công trình kiểu gì sẽ mọc lên nếu tôi biết nguyên tắc đặt móng của công trình
đó. Chúng ta đang tiến gần tới một thế giới mà tôi không cho phép mình được sống ở đó.
"Bây giờ các vị đã biết tại sao tôi phá huỷ Cortlandt.
"Tôi đã thiết kế Cortlandt. Tôi đã đưa nó cho các vị. Và tôi đã phá hủy nó.
"Tôi phá hủy nó bởi vì tôi không muốn nó tồn tại. Nó là một con quái vật kép. Nó là con quái vật trong hình dạng thực và
là con quái vật trong ý nghĩa biểu tượng. Tôi phải phá hủy cả hai điều đó. Hình dáng thực của nó đã bị bóp méo bởi hai
kẻ sống thứ sinh dám tự ình cái quyền được điều chỉnh những gì họ không làm ra và không có khả năng làm. Người ta
cho phép họ làm việc đó bởi vì người ta nghiễm nhiên cho rằng mục đích nhân đạo của tòa nhà có thể thay thế tất cả
những quyền khác. Họ nghiễm nhiên cho rằng tôi không có quyền chống lại điều đó.
"Tôi đã đồng ý thiết kế Cortlandt với mục đích được nhìn thấy nó mọc lên giống hệt những gì tôi đã thiết kế và không với
một lý do nào khác. Đó là cái giá mà tôi đặt ra cho lao động của tôi. Tôi đã không được thù lao.
"Tôi không đổ lỗi cho Peter Keating. Chuyện đó nằm ngoài khả năng của anh ta. Anh ta đã ký hợp đồng với những người
chủ của anh ta. Nhưng bản hợp đồng đã bị bỏ qua. Người ta đã hứa với anh ta rằng tòa nhà sẽ được xây đúng như bản
thiết kế. Nhưng lời hứa đó đã bị lãng quên. Ngày nay, người ta coi tình yêu của một người với tính toàn vẹn trong công
việc và quyền bảo vệ nó là những thứ có giá trị mơ hồ và không cần thiết. Các vị đã nghe công tố viên nói điều đó. Tại
sao tòa nhà này bị biến dạng? Chẳng vì lý do gì cả. Những hành vi như thế không bao giờ có lý do nào cả. Lý do duy
nhất của nó là sự phù phiếm cảu một vài kẻ thứ sinh muốn có quyền với tài sản của người khác, cả tài sản vật chất lẫn tài
sản tinh thần. Ai đã cho phép họ làm điều đó? Không cụ thể một ai trong số những người có thẩm quyền. Không ai thèm
để ý đến việc cho phép hay ngăn cấm hành vi đó. Không ai chịu trách nhiệm. Không ai đứng ra chịu lỗi. Đó chính là bản
chất của tất cả các hoạt động tập thể.
"Tôi không được trả cái mà tôi đòi hỏi. Nhưng những ông chủ dự án Cortlandt lại có cái mà họ muốn. Họ muốn một bản
thiết kế để xây một tòa nhà càng rẻ càng tốt. Họ không tìm được ai có khả năng đáp ứng yêu cầu này. Tôi có khả năng đó
và tôi đã làm việc cho họ. Họ đã lợi dụng công trình của tôi và bắt tôi phải đem hiến nó như một món quà. Nhưng tôi
không phải là người theo chủ nghĩa vị nhân sinh. Tôi không tặng quà kiểu này.
"Người ta nói rằng tôi đã phá hủy chỗ ở cho những người nghèo. Người ta quên rằng nếu không có tôi, thì không thể có
khu nhà này cho người nghèo ở. Tôi không quan tâm tới việc giúp người nghèo. Nhưng những người quan tâm đến người
nghèo cần có tôi để có thể giúp được người nghèo. Người ta tin rằng sự nghèo khổ của những cư dân tương lai trong tòa
nhà này cho họ quyền làm bất cứ điều gì đối với công trình của tôi. Rằng nhu cầu của họ cho phép họ có quyền quyết
định cuộc đời của tôi. Rằng bổn phận của tôi là phải đóng góp bất cứ những gì người ta cần ở tôi. Đây chính là tín điều
của kẻ thứ sinh. Tín điều này đang nuốt chửng cả thế giới này.
"Tôi tới đây để nói rằng tôi không công nhận quyền của bất cứ ai với bất cứ giây phút nào trong cuộc sống của tôi. Tôi
không công nhận quyền của bất cứ ai với bất cứ phần sức lực nào của tôi. Bất cứ thành quả nào của tôi. Bất kể đó là ai,
họ đông tới đâu hay nhu cầu của họ lớn đến mức nào.
"Tôi muốn tới đây để nói rằng tôi không tồn tại vì người khác.
"Cần phải nói rõ điều này. Thế giới này đang bị diệt vong vì đã quá lạm dụng khái niệm hy sinh bản thân.
"Tôi muốn tới đay để nói rằng sự chính trực trong công việc sáng tạo của một người quan trọng hơn bất cứ nỗ lực từ
thiện nào. Những người không hiểu được điều này chính là những kẻ đang hủy diệt thế giới.
"Tôi muốn tới đây để tuyên bố những nguyên tắc của tôi. Tôi không tồn tại theo bất cứ nguyên tắc nào khác.
"Tôi không thừa nhận bất cứ nghĩa vụ nào đối với loài người ngoại trừ một nghĩa vụ: tôn trọng sự tự do của họ và không
tham gia vào một xã hội nô dịch. Đối với tổ quốc của tôi, nếu nó không còn tồn tại (như nó phải tồn tại[171]), thì tôi sẽ
xin được vào tù 10 năm. Tôi sẽ sống mười năm đó để tưởng nhớ và biết ơn vì những gì tổ quốc này đã từng có trong quá
khứ. Đó sẽ là hành vi thể hiện lòng trung thành của tôi, thể hiện rằng tôi từ chối sống và làm việc cho cái xã hội đã thế
chỗ vào tổ quốc cũ của tôi.
"Đó cũng chính là hành vi thể hiện lòng trung thành của tôi với tất cả những người sáng tạo đã từng sống và phải chịu
khổ đau bởi những thế lực chịu trách nhiệm về vụ Cortlandt mà tôi phá nổ. Cho tất cả những giờ đồng hồ mà họ bị buộc
phải sống trong cô đơn, trong ruồng bỏ, trong tuyệt vọng và ngược đãi - và cho cả những trận chiến mà họ đã chiến
thắng. Cho tất cả những người sáng tạo có tên tuổi - và cho cả những người sáng tạo đã sống, đấu tranh và chết một cách
âm thầm trước khi họ đi tới đích. Cho tất cả những người sáng tạo đã bị phá hủy cả về thể xác lẫn tâm hồn. Cho Henry
Cameron. Cho Steven Mallory. Cho một người không muốn được nêu tên nhưng đang ngồi trong căn phòng này và biết
rằng tôi đang nói về ông ấy."
Roark đứng, hai chân anh dang rộng, cánh tay duỗi thẳng dọc theo người, đầu ngẩng cao - như thể là anh đang đứng
trước một tòa nhà chưa xây xong. Sau đó, khi anh ngồi xuống bàn dành cho bị cáo, rất nhiều người trong phòng cảm thấy
họ vẫn nhìn thấy anh đang đứng. Họ nhìn thấy bức tranh về một khoảnh khắc không bao giờ thay thế được.
Bức tranh đó vẫn nằm trong đầu họ trong suốt những cuộc tranh cãi pháp lý diễn ra sau đó. Họ nghe quan tòa nói với
công tố viên rằng bị cáo đã thay đổi lời bào chữa: anh ta đã thừa nhận hành vi phá hủy của mình, nhưng đã không thừa
nhận mình có tội; do đó nảy sinh vấn đề liệu bị cáo có bị mất trí tạm thời không. Bồi thẩm đoàn có quyền quyết định liệu
bị cáo có nhận thức được bản chất và tầm quan trọng của hành vi đó hay không; và nếu có thì liệu bị cáo có nhận thức
được hành vi đó là sai trái không. Công tố viên không phản đối. Bầu không khí trong phòng có một vẻ im ắng khác lạ.
Công tố viên tin chắc rằng ông đã thắng. Ông phát biểu kết thúc. Không ai nhớ là ông đã nói gì. Quan tòa hướng dẫn bồi
thẩm đoàn đứng dậy và rời phòng xét xử.
Mọi người bắt đầu đứng lên, nhẩn nha chuẩn bị ra về. Họ nghĩ họ sẽ phải chờ thêm nhiều giờ nữa. Wynand ở cuối phòng,
và Dominique ở đầu phòng, đều ngồi bất động.
Một viên cảnh sát tòa án đi đến hộ tống Roark rời phòng xử án. Anh đứng lên cạnh bàn bị cáo. Anh nhìn Dominique, rồi
Wynand. Sau đó anh quay người và đi theo viên cảnh sát.
Khi anh đi tới cửa phòng thì có những tiếng gõ sắc nét vang lên. Mọi người im lặng trong chốc lát; rồi họ nhận ra đó là
tiếng gõ ở cửa phòng của bồi thẩm đoàn. Bồi thẩm đoàn đã có phán quyết về vụ án.
Những người đang đứng thì vẫn đứng yên, như bị đóng băng, cho đến khi quan tòa quay trở lại ghế ngồi. Bồi thẩm đoàn
đi thành hàng vào phòng xét xử.
"Bị cáo hãy đứng lên và quay mặt về phía bồi thẩm đoàn," thư ký phiên tòa nói.
Howard Roark bước lên và đứng quay mặt về phía bồi thẩm đoàn. Ở cuối phòng, Gail Wynand cũng nhỏm dậy và đứng
nghiêm.
"Thưa ông Foreman, bồi thẩm đoàn đã có phán quyết cuối cùng chưa?"
"Chúng tôi đã có."
"Phán quyết của bồi thẩm đoàn là gì?"
"Vô tội."
Cử động đầu tiên của Roark không phải là nhìn thành phố bên ngoài cửa sổ. Anh cũng không nhìn quan tòa hay
Dominique. Anh nhìn Wynand.
Wynand quay ngoắt người và bước khỏi phòng. Ông là người đầu tiên rời phòng xét xử.

KỲ THI HỌC SINH GIỎI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN


KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
LẦN THỨ XII, NĂM 2019

ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN 10


Thời gian: 180 phút (không kể thời gian giao đề)
Ngày thi: 20/4/2019
(Đề thi gồm 01
trang)
Câu 1 (8,0 điểm)
Ngày 05/01/2019, chương trình We Choice Awards 2019 - chủ đề Mặt trời ẩn trong tim đã được tổ chức với
thông điệp: 
Có những người mang trong mình trái tim như mặt trời. Họ truyền cảm hứng và lòng tin, giúp chúng ta mỉm cười
vì được chiếu rọi dù là giữa những mịt mù của cuộc sống. Họ giống như chúng ta, có xuất phát điểm như bất cứ ai, họ
đến từ bất cứ nơi nào trong xã hội – thế nhưng, họ khiêm nhường giấu trong tim mình những mặt trời rực rỡ đó, để nó
âm thầm lan toả hơi ấm của mình cho tất cả những người ở cạnh bên. Họ là những người có mặt trời ẩn trong tim.
  Hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của anh/chị về lẽ sống với mặt trời ẩn trong tim.
Câu 2 (12,0 điểm)
Bàn về văn học, nhà  thơ Thanh Thảo cho rằng:
Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc. Nó giúp con
người sống “ra người” hơn, sống tốt hơn.
(Theo Nhà văn nói về môn Văn – Văn học và tuổi trẻ, NXB Giáo dục, 2015)
Bằng trải nghiệm văn học, anh/chị hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.

-------------- HẾT --------------

(Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm)

Họ và tên thí sinh: Số báo danh:


KỲ THI  HỌC SINH GIỎI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN
KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
LẦN THỨ XII, NĂM 2019

HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN: NGỮ VĂN 10


(Hướng dẫn chấm gồm 04 trang)
A. YÊU CẦU CHUNG
- Giám khảo cần nắm được nội dung trình bày trong bài làm của học sinh, tránh đếm ý cho điểm. Vận dụng linh hoạt
hướng dẫn chấm, sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí, khuyến khích những bài viết có cảm xúc, sáng tạo.
- Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách nhưng nếu đáp ứng những yêu cầu cơ bản của đề, diễn đạt tốt vẫn cho điểm tối
đa.
- Điểm bài thi làm tròn đến 0,25 điểm.
B. YÊU CẦU CỤ THỂ
Câu Yêu cầu cần đạt Điểm
1 Ngày 05/01/2019, chương trình We Choice Awards 2019 chủ đề Mặt trời ẩn trong tim đã được tổ chức 8,0
với thông điệp: 
Có những người mang trong mình trái tim như mặt trời. Họ truyền cảm hứng và lòng tin, giúp chúng ta
mỉm cười vì được chiếu rọi dù là giữa những mịt mù của cuộc sống. Họ giống như chúng ta, có xuất
phát điểm như bất cứ ai, họ đến từ bất cứ nơi nào trong xã hội – thế nhưng, họ khiêm nhường giấu trong
tim mình những mặt trời rực rỡ đó, để nó âm thầm lan toả hơi ấm của mình cho tất cả những người ở
cạnh bên. Họ là những người có mặt trời ẩn trong tim.
Hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của anh/chị về lẽ sống với mặt trời ẩn trong tim.
TRƯỜNG THPT KHGD
* Yêu cầu về kĩ năng
Biết cách làm bài nghị luận xã hội. Lập luận chặt chẽ, bố cục, luận điểm rõ ràng, diễn đạt trong sáng,
không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
* Yêu cầu về kiến thức
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách nhưng cần làm rõ được các ý chính sau:
1.1. Giải thích 
- Mặt trời tự thân nó đã có sức lan toả mạnh mẽ, là biểu tượng bất diệt của ánh sáng, sự sống, niềm hy
vọng…
- Mặt trời ẩn trong tim là một biểu tượng rất đẹp đẽ và ý nghĩa. Mặt trời vĩ đại ấy lại khiêm nhường
2,0
được ẩn sâu trong trái tim. Những mặt trời ấy âm thầm toả sáng và sưởi ấm, mang đến cảm hứng và lòng
tin cho chúng ta - dù là giữa đêm đông mịt mù của cuộc sống 
- Đây là một lẽ sống đẹp, cao quý, có ý nghĩa truyền cảm hứng về tình người, về niềm tin, sự quyết tâm
và khát vọng để biến giấc mơ thành hiện thực.

4,0
1.2. Bình luận
- Trong cuộc sống, ánh sáng và bóng tối, niềm vui và nỗi buồn, cái tốt và cái xấu… luôn là những cặp
phạm trù song song tồn tại. Thế nhưng, sứ mệnh của con người là luôn hướng về ánh sáng để đẩy lùi
bóng tối, hướng tới những niềm vui, những điều tốt đẹp để vượt lên nỗi buồn, chiến thắng cái xấu, cái
ác… Những điều đó cần bắt nguồn từ nhận thức của mỗi cá nhân, từ đó lan tỏa giá trị sống tốt đẹp đến
cả cộng đồng.
- Sống với mặt trời ẩn trong tim là sống với những trái tim chứa đầy tình yêu thương, lòng nhiệt thành,
sự đam mê, nghị lực, niềm tin, niềm lạc quan…, có những việc làm, hành động tốt đẹp nhưng thầm lặng,
khiêm nhường, không mưu cầu được người khác ngợi ca, tôn vinh. 
- Lẽ sống với mặt trời ẩn trong tim ấy có nhiều ý nghĩa tích cực:
+ giúp bản thân mỗi người có đủ sức mạnh và nghị lực chiến thắng những khó khăn, vượt qua chông gai
bão tố, gặt hái được thành công, tạo nên những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống. Đó là lẽ sống đẹp tự thân
lung linh tỏa sáng.
+ góp phần vào sự phát triển tốt đẹp của cộng đồng, làm cho cuộc sống của bản thân mỗi người trở nên
có ý nghĩa.
+ góp phần lan tỏa giá trị sống, truyền cảm hứng sống tốt đẹp tới cộng đồng, thắp lửa dẫn đường cho
những hành động đáng quý.
(Học sinh cần lấy dẫn chứng để làm rõ luận điểm; ví dụ: bé Hải An, hoa hậu H'hen Niê...)

2,0
1.3. Liên hệ, rút ra bài học
- Mỗi người hãy sống tích cực, có ý nghĩa với mặt trời ẩn trong tim để giúp cho xã hội ngày càng tốt đẹp
hơn.
- Tôn vinh những hành động đẹp, những con người, việc làm truyền cảm hứng tích cực trong xã hội.
- Cảnh tỉnh, phê phán những người sống ích kỉ, chỉ nghĩ đến bản thân hoặc không dám xông pha, dâng
hiến, tỏa sáng...

2 Bàn về văn học, nhà  thơ Thanh Thảo cho rằng: 12,0
Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc. Nó
giúp con người sống “ra người” hơn, sống tốt hơn.
(Theo Nhà văn nói về môn Văn – Văn học và tuổi trẻ – NXB GD, 2015)
Bằng trải nghiệm văn học, anh/chị hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.
TRƯỜNG THPT LÊ QUÝ ĐÔN QUẢNG TRỊ
* Yêu cầu về kĩ năng
Biết làm bài nghị luận văn học; vận dụng tốt các thao tác giải thích, phân tích, chứng minh văn học; biết
kết hợp kiến thức lí luận với kiến thức về tác phẩm để bàn luận, đánh giá; văn viết có hình ảnh và giàu
cảm xúc, có giọng điệu riêng; diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
* Yêu cầu về kiến thức
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các yêu cầu sau:
2.1. Giải thích  2,0
- Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc: Nhờ
văn chương mà con người được trải nghiệm cuộc sống, sống thêm nhiều cuộc đời, biết thêm nhiều thời
đại, khám phá những điều mới mẻ về cuộc sống và chính mình. Từ đó, trí tuệ, tâm hồn con người được
mở rộng ra, lớn thêm lên, sâu sắc hơn.
- Nó giúp con người sống “ra người” hơn, sống tốt hơn: văn học tác động sâu sắc đến con người, khơi
dậy chất người trong con người, làm nảy nở những xúc cảm cao đẹp, giúp con người hướng thiện, sống
tốt đẹp hơn, hướng đến những giá trị nhân đạo cao cả.
🡪 Ý kiến trên khẳng định, đề cao các chức năng của văn học: Văn chương có sứ mệnh cao cả là làm
giàu thêm nhận thức của con người về thế giới xung quanh, về chính bản thân mình; bồi đắp, giáo dục,
nâng đỡ, thanh lọc tâm hồn con người. 
2.2. Bình luận 2,0
- Xuất phát từ đặc trưng của văn học: Văn học phản ánh cuộc sống một cách tổng hợp, toàn vẹn trong
mọi quan hệ đa dạng, phức tạp. Tác phẩm văn học là kết quả nhận thức, khám phá mới mẻ, sâu rộng của
nhà văn về cuộc sống, con người. Nhờ đó, văn học đem đến cho người đọc một thế giới tri thức mênh
mông về đời sống vật chất và tinh thần của nhân loại từ xưa đến nay. 
- Văn học giúp người đọc được trải nghiệm, hình dung, liên tưởng, tưởng tượng, thấu hiểu…, mở rộng,
nâng cao nhận thức, đem đến những hiểu biết, khám phá lớn rộng, sâu sắc, mới mẻ.
- “Văn học là nhân học” (Gorki). Đến với tác phẩm văn học, con người được thanh lọc tâm hồn. Một
tác phẩm văn học chân chính phải lấy con người làm gốc, làm cho tâm hồn con người trở nên trong
sạch, nhân ái, lạc quan yêu đời, biết lên tiếng đấu tranh chống lại cái xấu cái ác, ca ngợi những phẩm
chất tốt đẹp, hướng con người tới Chân, Thiện, Mĩ, góp phần nhân đạo hóa con người.
2.3. Chứng minh 6,0
Học sinh có thể chọn những dẫn chứng khác nhau để làm rõ ý kiến trên, quá trình chọn và phân tích dẫn
chứng cần đảm bảo những yêu cầu sau:
+ Chọn được dẫn chứng tiêu biểu, toàn diện
+ Phân tích dẫn chứng cần chỉ ra được những trải nghiệm về cuộc sống, thấu hiểu về số phận, nhân cách
hay chiều sâu tâm hồn con người trong tác phẩm (ở “những tầng mức” và “những chiều sâu đáng kinh
ngạc” như thế nào); nhận ra giá trị nâng đỡ, thanh lọc tâm hồn con người của tác phẩm.

2.4. Đánh giá, mở rộng 2,0


- Ý kiến là lời tâm sự, chia sẻ của một người cầm bút luôn yêu quý và trân trọng văn chương, ý thức
được sứ mệnh cao cả của văn chương với con người. 
- Tuy nhiên, những sứ mệnh cao cả của văn chương chỉ thực sự thấm thía khi được chuyển tải bằng
những hình thức nghệ thuật độc đáo, sáng tạo, giàu tính thẩm mỹ…
- Từ đó đặt ra yêu cầu đối với người nghệ sĩ: có cảm quan hiện thực sắc sảo, có tầm tư tưởng lớn lao,
chan chứa tình yêu thương con người, có tài năng sáng tạo nghệ thuật…
- Ý kiến cũng là định hướng để người đọc tìm hiểu, tiếp cận tác phẩm trong tầm cao, bề rộng nhận thức,
chiều sâu vẻ đẹp tư tưởng, tình cảm. Người đọc luôn phải có khát vọng hướng thiện, có ý thức nâng cao
năng lực cảm thụ tác phẩm…
TỔNG ĐIỂM TOÀN BÀI 20,0
--------- HẾT ----------
TRƯỜNG THPT KỲ THI HỌC SINH GIỎI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN KHU VỰC DUYÊN
CHUYÊN  HẢI VÀ 
        THÁI NGUYÊN ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
(Đề thi gồm 01 trang) LẦN THỨ XII, NĂM HỌC 2018 – 2019

ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN 11


Thời gian: 180 phút (Không kể thời gian giao đề)

Câu 1: (8.0 điểm)


“Phẩm giá con người là những viên đá quý, viên đá đó còn lấp lánh đẹp đẽ hơn nếu được lồng vào cái giá khiêm
tốn”. 
Anh/chị hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên.
Câu 2: (12 điểm)
Nghĩ về thơ, Thanh Thảo tâm sự: "Kỳ lạ, là thơ. Lúc ta cất công tìm nó, thì nó chạy đi đâu, còn lúc tình cờ, ta chợt
nghe trong mình một tiếng nói, cứ như ai mượn ta hay nhập vào ai, không rõ bắt đầu, không định kết thúc.”
Bằng những hiểu biết về các tác phẩm thơ anh/chị  hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

-------------- HẾT --------------


Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm
    Họ và tên thí sinh: …..……………………. Số báo danh: .……………………
HƯỚNG DẪN CHẤM
Câu 1 (8.0 điểm)
1.Giải thích: (2,0 điểm)
+ Phẩm giá con người: là phẩm chất tốt đẹp, cao quý của con người.
+ Viên đá quý: là hình ảnh gợi lên cái đẹp, sự trong sáng, luôn được trân trọng, nâng niu.
+ Khiêm tốn:Là đức tính tốt mà mỗi người cần trau dồi, rèn luyện. Đó là sự kính nhường, có ý thức và thái độ đúng
mực trong việc đánh giá bản thân, không tự mãn, tự kiêu, không tự cho mình hơn người.
+ “viên đá đó còn lấp lánh đẹp đẽ hơn nếu được lồng vào cái giá khiêm tốn: Phẩm giá của con người càng đẹp hơn, càng
tỏa sáng và có giá trị hơn khi những phẩm giá ấy được gắn liền với lòng khiêm tốn 
=> Câu nói khẳng định, sự khiêm tốn làm phẩm giá con người trở nên cao quý hơn, toàn vẹn hơn.
2.Phân tích,lý giải và chứng minh vấn đề: (6,0 điểm)
- Mỗi người sinh ra đều nỗ lực hoàn thiện phẩm giá của bản thân. Khiêm tốn là đức tính, phẩm chất có ý nghĩa
quan trọng khảng định giá trị con người. Đó thái độ không tự đề cao mình, đánh giá đúng mực về khả năng của bản thân,
luôn tích cực học hỏi người khác.
-Biểu hiện của tính khiêm tốn: Tính khiêm tốn được thể hiện ở một số phương diện sau:
+ Trong quá trình nhận thức của mỗi cá nhân khi suy đoán hay trình bày một vấn đề nào đó trước đám đông.
+ Thể hiện trong cách phát ngôn: sử dụng từ ngữ giản dị, dễ hiểu, có sức tác động đến lòng người, không “đao to
búa lớn” hay “cao siêu huyền bí”.
+ Thái độ ứng xử của mỗi người: luôn nghiêm khắc với mình, rộng lượng với người, luôn “kính trên nhường dưới”
- Ý nghĩa của tính khiêm tốn:
+ Sự khiêm nhường trong cuộc sống giúp chúng ta có thể hài hòa trong mọi mối quan hệ, thân thiện trong giao tiếp
+ Khi biết khiêm nhường, không tự mãn với những gì mình có, không kiêu căng trước những thành công đạt được,
nhìn nhận đúng khả năng của bản thân chúng ta sẽ có động lực để vượt qua những trở ngại thực hiện những hoài bão, ước
mơ. Trên hành trình bước đến thành công, người khiêm nhường học hỏi được nhiều điều hữu ích, mở mang thêm hiểu
biết, hoàn thiện bản thân nhiều hơn.
- Khiêm tốn là đức tính quý nhưng cũng không nên khiêm nhường thái quá mà trở nên nhút nhát, thụ động, hèn
yếu.
- Bên cạnh đó có những người chưa ý thức hết giá trị của tính khiêm tốn luôn tự cao, tự mãn, kiêu căng, khoe
khoang. Những người đó sẽ chỉ nhận lại sự xa lánh của mọi người; tầm nhìn cũng hạn hẹp dần, vì “điều chúng ta biết chỉ
là một giọt nước, điều chúng ta không biết mênh mông như đại dương”.
- Chứng minh: Học sinh sử dụng dẫn chứng trong thực tế cuộc sống.
3. Đánh giá và rút ra bài học nhận thức và hành động: (2,0 điểm)
Câu nói giản dị nhưng đã nêu lên một bài học thấm thía với cuộc đời mỗi chúng ta. Để có thể trở thành một người
biết khiêm tốn chúng ta cần nỗ lực rèn luyện hàng ngày, tự tu dưỡng chính mình để ngày một hoàn thiện về mọi mặt.
Khiêm tốn thể hiện sự trưởng thành của một con người: “Chùm lúa chín sẽ cúi đầu, quả táo chín sẽ đỏ mặt”, nó đã
nhắc nhở chúng ta rằng, thành công nhờ đức tính khiêm tốn”
Câu 2:
1. Giải thích: (2,0 điểm)
- Lúc cất công tìm nó thì nó chạy đi đâu: Lúc người nghệ sĩ gò câu ép chữ, gượng mình viết thơ. Cảm xúc không
chân thật, sản phẩm viết ra chỉ là một sáng tác mang tính hô hào, cổ động, đó chỉ là sản phẩm mang hình thức thơ, thiếu
cảm xúc hoặc cảm xúc nhạt nhẽo, vô vị, người ta đọc rồi quên ngay. Đó là những xác chữ không hồn nằm thẳng đơ trên
trang giấy. Thơ không phải là sự ghi chép, lắp ghép câu chữ, dụng công sáng tác.
- Lúc tình cờ, ta chợt nghe trong lòng mình một tiếng nói, cứ như ai mượn ta hay nhập vào, không rõ bắt đầu,
không rõ kết thúc: Thơ đến bất chợt trong giây phút, thôi thúc người nghệ sĩ cầm bút viết, viết như một sự hối thúc mà
không biết đã bắt đầu như thế nào, kết thúc ra sao, cảm xúc dào dạt thăng hoa. Đó là những khoảnh khắc xuất thần của
nhà thơ tạo nên những sáng tác 
=> Khẳng định bản chất của thơ ca, thơ bắt nguồn từ cảm xúc . “Thiếu tình cảm thì có thể trở thành người thợ làm
những câu có vần chứ không làm được nhà thơ” (nhà thơ Cuba. Jose Marti)
2. Bình luận: (3,0 điểm)
2.1. Nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng là sản phẩm của cảm xúc. 
- “Tình cảm là sợi dọc của văn. Còn lời văn là sợi ngang của tư tưởng. Cái sợi dọc có ngay thẳng thì cái sợi ngang
mới kết thành được. (Lưu Hiệp trong “Văn tâm điêu long”)
-  “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói cuả tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư” (Lê Ngọc
Trà)
-  L. Tôn x tôi :”Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người và ước mơ cháy bỏng vì một
xã hội công bằng, bình đẳng bác ái”
=> Tình cảm, cảm xúc làm cho nghệ thuật thăng hoa và có sức sống mãnh liệt.
2.2. Tình cảm, cảm xúc giữ một vị trí trọng yếu trong cảm hứng của người làm thơ.
- Từ muôn xưa Việt Nam đã dùng thơ ca để nói lên những nỗi vui, buồn, mừng giận, âu lo,ước mong thầm kín
trong lòng mình. 
              +  Ngô Thì Nhậm “Tình cảm dồi dào thì thơ nảy sinh”
              + Eliot: Thơ là một lối thoát của cảm xúc
- Tình cảm đó còn lúc tình cờ, ta chợt nghe trong mình một tiếng nói, cứ như ai mượn ta hay nhập vào ai, không rõ
bắt đầu, không định kết thúc.” Cảm xúc trong thơ đến bất chợt tình cờ, không có ý sắp đặt, bởi cội nguồn của thơ ca là
cảm xúc dồi dào mãnh liệt của tâm hồn nhà thơ khi va chạm với cuộc đời
- Nhưng những cảm xúc bất chợt đó không phải là những tình cảm dễ dãi mang tính bản năng mà là tình cảm được
lắng đọng qua cảm xúc thẩm mĩ. Đó là những phút lóe sáng khi  tâm hồn nghệ sĩ đạt đến độ chín nhất “thơ là sự chín đỏ
trong cảm xúc” (vận dụng kiến thức lí luận về thơ ca)
- Những cảm xúc bất chợt đến đã toát lên tư tưởng sâu sắc, mới mẻ. Thơ không chấp nhận những triết lý khô khan,
giáo điều. Chính giây phút thăng hoa nhà thơ  viết được những vần thơ có ý nghĩa, kết đọng ở bề sâu. Qua mỗi vần thơ ta
cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ và những tư tưởng nhân văn tiến bộ hướng đến giá trị Chân Thiện Mĩ.
- Tiếng lòng thổn thức của nhà thơ phải được thể hiện qua thủ pháp nghệ thuật đa dạng phong phú “Thơ ca bắt rễ
từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”. Thế giới nghệ thuật đó luônẩn chứa cá tính sáng tạo,độc đáo của người nghệ sĩ. 
3. Chứng minh (5,0 điểm)
- Học sinh có thể vận dụng những hiểu biết của mình để làm sáng tỏ vấn đề:
+ Thơ Nguyễn Du hoặc  Hồ Xuân Hương
+ Đây thôn Vĩ Dạ - Là sự thăng hoa của cảm xúc sau bao tháng ngày ấp ủ tình cảm với thôn Vĩ với người con gái
xứ Huế. Khi nhận bức bưu thiếp của Hoàng Cúc, trái tim nghệ sĩ đã trào dâng cảm xúc mãnh liệt viết nên “Đây thôn Vĩ
Dạ”.
+ “Bên kia sông Đuống” – Hoàng Cầm
+  “Tràng giang” của Huy Cận.
4.Đánh giá – Mở rộng (2,0 điểm)
- Nhận xét của Thanh Thảo đã đề cao vai trò của cảm xúc. Để có được những cảm xúc bất chợt đến và tạo nên sáng
tácchứa đựng những tư tưởng cao đẹp người nghệ sĩ phải sống trọn vẹn từng khoảnh khắc với cuộc đời.
- Không có tài năng nghệ thuật đủ chín, câu chữ, tứ thơ non nớt, hình ảnh nhạt nhòa thì dù có trái tim có căng tràn
nhựa sống, cảm xúc tuôn trào cũng không thể có thơ.
- Thái độ tiếp nhận của người đọc..

HỘI CÁC TRƯỜNG CHUYÊN  ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LẦN THỨ XII
VÙNG DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ MÔN NGỮ VĂN - KHỐI 11
TRƯỜNG THPT CHUYÊN TRẦN PHÚ Thời gian làm bài: 180 phút
ĐỀ ĐỀ XUẤT  (Đề này có 02 câu; gồm 01 trang)

Câu 1 (8 điểm)
Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến sau: 
Một người không biết nói cho người khác nghe, và không biết lắng nghe người khác, càng học nhiều càng biết
rộng thì càng trở nên vô dụng.

Câu 2 (12 điểm)


Từ nhận xét về văn Thạch Lam, Phan Huy Dũng viết:
... Nghệ thuật chính là một sự chế ngự chất liệu, vật liệu thông qua những phương thức, phương tiện diễn tả đặc
thù.
         (Theo Nguyễn Thành Thi, Thạch Lam - văn và người, 
NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2001, trang 91)
Anh/ chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy liên hệ với Hai đứa trẻ của Thạch Lam và Chí Phèo của Nam Cao để
làm sáng tỏ vấn đề.

-------------- HẾT --------------


HƯỚNG DẪN CHẤM
Môn: Ngữ văn (Khối 11)
(Hướng dẫn chấm gồm 07 trang)
Câu Nội dung Điểm
I. Về kĩ năng: 
Câu - HS biết cách làm bài nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lý. Biết vận dụng các thao tác giải thích,
1 phân tích, chứng minh, bình luận… Đưa ra được ý kiến riêng khi giải quyết vấn đề.
- Bài viết có bố cục mạch lạc, hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng, dẫn chứng phong phú thuyết phục.
- Bài viết có chất văn, trình bày sạch sẽ, khoa học.
II. Về kiến thức: Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách nhưng luận điểm phải rõ ràng, lí lẽ và dẫn
chứng hợp lí. Khuyến khích bài làm sáng tạo. Cần làm rõ được các ý chính sau:
1. Giải thích
- Một người không biết nói cho người khác nghe tức là kĩ năng giao tiếp kém, không có khả năng thuyết
phục người khác bằng lời nói.
- không biết lắng nghe người khác là không chịu nghe, hoặc không tiếp thu lời nói, ý kiến của người
khác.
- học nhiều biết rộng là tầm hiểu biết, những tri thức rộng rãi, phong phú.
🡪 Ý kiến được diễn đạt dưới hình thức phủ định nhằm mục đích khẳng định mối quan hệ gắn bó mật 2,0
thiết giữa nói – nghe và học của con người trong cuộc sống, đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng, sự cần
thiết của nói và nghe sẽ giúp cho việc học rộng biết nhiều trở nên hữu dụng.  

2. Bình luận
- Học và biết là sự tích lũy tri thức, hiểu biết của con người. Nói cho người khác nghe, nghe người khác
nói là sự giao tiếp, tương tác của con người trong cuộc sống. Đây là hai nhân tố quan trọng quyết định
sự thành công của con người.
- Học rộng biết nhiều mà không biết nói cho người khác nghe thì vốn tri thức hiểu biết cũng trở nên vô
dụng, vì:
+ Kĩ năng giao tiếp kém, khả năng nói và thuyết phục người khác hạn chế, sẽ không thể hiện, khẳng
định được mình trước cuộc đời, kiến thức hiểu biết mãi chỉ là mớ lí thuyết suông, vô giá trị.
+ Ngược lại, người biết nói cho người khác nghe, sẽ vận dụng được kiến thức tài năng của mình vào
cuộc sống, tự khẳng định được vị thế của mình và có tác động tích cực đến người khác, tập thể. Đó là
5.0
con đường dẫn tới thành công.
+ Trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay, nói cho người khác nghe càng là một kĩ năng sống cần thiết
của con người thời hiện đại.
- Không biết lắng nghe người khác cũng là một điều rất tai hại khi con người học rộng biết nhiều:
+ Rơi vào tình trạng bảo thủ cố chấp, kiêu căng ngạo mạn hoặc vô cảm vô tâm.
+ Tự tách mình ra khỏi nhân loại, tự cô lập mình.
+ Kiến thức dù rộng đến mấy cũng thụt lùi lạc hậu và dễ mắc sai lầm.
+ Lắng nghe người khác còn là phương pháp học hỏi trau dồi kiến thức hữu hiệu, tạo nên mối quan hệ
tương tác hữu ích trong cuộc sống.
- Phê phán những kẻ mọt sách, kĩ năng sống kém; những kẻ kiêu căng ngạo mạn ếch ngồi đáy giếng...
3. Bài học 1.0
- Luôn trau dồi kiến thức sách vở và đời sống.
- Chú trọng rèn luyện các kĩ năng sống, đặc biệt là kĩ năng nói và nghe...
Tổng điểm 8.0
I. Yêu cầu chung: Hiểu đúng đắn vấn đề, nắm được cách làm bài văn nghị luận văn học. Biết phân tích
Câu dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề. Bài viết nêu được ý kiến riêng, có sức thuyết phục. Bố cục rõ ràng,
2 lập luận chặt chẽ. Hành văn trôi chảy. Văn viết có cảm xúc. Không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ
pháp, chính tả.
II. Yêu cầu cụ thể: Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các yêu
cầu sau:
1. Giải thích ý kiến
- Nghệ thuật có hai ý hiểu: để chỉ một hình thái ý thức khác với khoa học, triết học; để chỉ tính chất
nghệ thuật của một tác phẩm văn học.
- Chất liệu, vật liệu là các chi tiết của hiện thực cuộc sống mà nhà văn quan sát được, là vốn sống mà
nhà văn tích lũy được, là những tính cách xã hội, đề tài, phạm vi hiện thực... mà nhà văn muốn khám
phá và thể hiện.
- Phương thức, phương tiện là các phương tiện ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, cú pháp, các biện pháp tu
từ...); là các phương thức  tổ chức lời văn, kết cấu tác phẩm, bút pháp nghệ thuật... đặc biệt, độc đáo
1.0
phù hợp với đối tượng phản ánh, với phong cách tác giả, phù hợp với phương pháp sáng tác và đặc
trưng thể loại... Từ đó đem đến cho người đọc một cách nhìn một cách cảm nhận mới mẻ, giầu phát
hiện đối với hiện thực.
🡪 Ý kiến Phan Huy Dũng đã đi sâu vào một phương diện của lao động sáng tạo văn học, khẳng định sự
độc đáo của các tác phẩm có thể cùng đề tài, cùng chất liệu, nhưng  vẫn để lại những dư âm khác nhau
trong tác phẩm và người đọc chính là nhờ vào sự chế ngự - làm chủ, sáng tạo trong cách lựa chọn vật
liệu chất liệu của đời sống và ngôn từ, là tài năng phát hiện hiện thực và sử dụng các phương thức nghệ
thuật để diễn tả phát hiện đó.
2. Bình luận
- Ý kiến trên là một nhận thức đúng đắn và sâu sắc về đặc trưng của văn học và bản chất của quá trình
sáng tạo nghệ thuật.
- Từ thực tế đời sống muôn màu, mỗi một người nghệ sĩ có tài năng phải là người tự tạo nên cho mình
một cái nhìn, sự khám phá riêng biệt để sàng lọc từ bể đời rộng lớn những số phận con người, những
hiện tượng đời sống, những vấn đề nhân sinh,... những nguồn vật liệu chất liệu riêng không trùng lặp
với người khác. 3,0
- Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo đòi hỏi người nghệ sĩ không chỉ có được những chất liệu vật
liệu của riêng mình, mà còn có năng lực biết chế ngự chất liệu, vật liệu thông qua những phương thức,
phương tiện biểu đạt mang tính đặc thù, là cách xử lí chi tiết đời sống riêng, là những vân chữ không
thể trộn lẫn, khiến tác phẩm văn học, hình tượng nghệ thuật do người nghệ sĩ đó sáng tạo ra là duy nhất
và không thể lặp lại, thậm chí ngay cả với chính tác giả của nó. Từ đó, tạo nên sức lôi cuốn hấp dẫn, tác
động đến bạn đọc từ thế giới nghệ thuật do chính người nghệ sĩ sáng tạo nên.
🡺 Đây chính là vấn đề phong cách, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
🡺 Đây cũng là đòi hỏi nghiêm ngặt dành cho công phu của người nghệ sĩ trên con đường sáng tạo nghệ
thuật.
3. Chứng minh: qua Hai đứa trẻ của Thạch Lam và Chí Phèo của Nam Cao 6,0
- Chất liệu, vật liệu trong văn của Thạch Lam và Nam Cao chính là đề tài về kiếp sống của những con
người nhỏ bé, cùng khổ trong xã hội cũ; là những chi tiết về cuộc đời ,số phận nhân vật văn xuôi, mảng
hiện thực đời sống thôn quê, huyện lị. Cùng  chất liệu, vật liệu này đã có rất nhiều nhà văn có tên tuổi
khai thác như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Trần Tiêu, Tô Hoài...
- Tuy nhiên, Thạch Lam và Nam Cao đã chế ngự chất liệu vật liệu ấy bằng những phương tiện, phương
thức diễn tả đặc thù, in đậm cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn. 
+ Cùng hướng tới những kiếp người cùng khổ trong xã hội cũ,Thạch Lam đặc biệt nhạy cảm với nỗi
đau khổ của con người nhỏ bé bị chôn vùi trong một cuộc sống vô danh vô nghĩa, trong bóng đêm của
nghèo khổ, vô vọng; bộc lộ khát vọng được sống trong ánh sáng của một sự sống đích thực. Truyện của
Thạch Lam không có mâu thuẫn, xung đột, không có những bi kịch có thể gọi thành tên, chỉ có những
cảm nhận da diết đầy xót thương về kiếp người. Nam Cao quan tâm tới những thân phận bị tha hóa tới
mức lưu manh hóa với sự sống bế tắc cùng đường; sáng tác của ông là tiếng kêu thức tỉnh nhân tính, đòi
quyền sống cho con người đã bị xã hội vùi dập cả nhân hình, nhân tính. Truyện của Nam Cao phản ánh
mối xung đột giai cấp gay gắt, khốc liệt, số phận người nông dân lâm phải những bi kịch đau thương( bi
kịch tha hóa,bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người) bởi sự áp chế của giai cấp thống trị và những thế lực
tinh thần.
+ Về phương thức phương tiện diễn tả đặc thù: Thạch Lam chọn loại truyện ngắn tâm tình, truyện phi
cốt với cách kể chuyện chậm rãi, tiết điệu thả, điểm nhìn trần thuật luôn được trao cho nhân vật; với chi
tiết sự kiện rất ít nhưng gợi nhiều vấn vương,câu văn giầu nhạc tính, cách tổ chức lời văn giàu hình ảnh
đối lập, giầu ý nghĩa biểu trưng; bút pháp miêu tả nội tâm với những rung động mơ hồ mong manh tinh
tế... thấm đượm chất thơ chất trữ tình. Truyện ngắn Nam Cao có cốt truyện đầy đặn, giầu xung đột kịch
tính, nhiều sự kiện biến cố; điểm nhìn trần thuật biến chuyển linh hoạt, giọng văn đa thanh phức điệu
với sự kết hợp của nhiều yếu tố ngôn ngữ; bút pháp miêu tả tâm lí tài tình với một thế giới nội tâm đầy
phức tạp; kết cấu song trùng đầu cuối tương ứng nội hàm nhiều ý nghĩa.
4. Đánh giá:
- Trong thế giới văn chương, chính tài năng nghệ thuật ,cá tính sáng tạo sẽ giúp cho người nghệ sĩ có
được một vị trí xứng đáng trên văn đàn và làm cho diện mạo văn học thời kì ấy trở nên phong phú, đa
dạng (Thạch Lam và Nam Cao chính là gương mặt tiêu biểu chứng minh cho qui luật sáng tạo này).
- Dấn thân vào con đường văn chương, người nghệ sĩ phải thực sự nghiêm túc, có ý thức cao trong việc
chế ngự vật liệu chất liệu thông qua những phương thức phương tiện đặc thù để tạo dựng cho mình một
thế giới nghệ thuật riêng, một phong cách nghệ thuật độc đáo. 2.0

Tổng điểm 12.0


* Lưu ý:
- Trên đây chỉ là những gợi ý có tính chất định hướng, giám khảo cần thảo luận kĩ về yêu cầu nội dung và biểu
điểm để bổ sung cho hoàn chỉnh trước khi chấm.
- Giáo viên linh hoạt khi chấm bài. Cần khuyến khích, trân trọng những tìm tòi, sáng tạo riêng cả trong nội dung
và hình thức của bài làm.
- Giáo viên cho điểm lẻ đến 0.25.

--------------------- HẾT---------------------

Người ra đề: ÂN THỊ VÂN CHI


(ĐT: 0982.646.769)

KỲ THI HỌC SINH GIỎI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN


KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
LẦN THỨ XII, NĂM 2019

ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN 11


Thời gian: 180 phút (không kể thời gian giao đề)
Ngày thi: 20/4/2019
(Đề thi gồm 01
trang)

Câu 1. (8,0 điểm)


        Phải chăng sống là nỗ lực không ngừng để vượt thoát những định kiến trong mình? 
Câu 2.(12,0 điểm)
Một nhà văn đích thực như một bức tranh treo trên tường mà khi tháo nó ra thì vĩnh viễn để lại khoảng trống. 
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy chứng minh bằng một tác giả trong chương trình Ngữ văn lớp 11.
-------------- HẾT --------------

(Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm)

Họ và tên thí sinh: Số báo danh:


KỲ THI  HỌC SINH GIỎI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN
KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
LẦN THỨ XII, NĂM 2019

HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN: NGỮ VĂN 11


(Hướng dẫn chấm gồm 04 trang)

A. YÊU CẦU CHUNG


- Giám khảo cần nắm được nội dung trình bày trong bài làm của thí sinh, tránh đếm ý cho điểm. Vận dụng linh hoạt
hướng dẫn chấm, sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí, khuyến khích những bài viết có cảm xúc, sáng tạo.
- Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách nhưng nếu đáp ứng những yêu cầu cơ bản của đề, diễn đạt tốt vẫn cho điểm tối
đa.
- Điểm bài thi làm tròn đến 0,25 điểm.
B. YÊU CẦU CỤ THỂ
Câu  Ý Yêu cầu cần đạt Điểm
1 Phải chăng sống là nỗ lực không ngừng để vượt thoát những định kiến trong mình?  8,0
 (TRƯỜNG THPT CHUYÊN LAM SƠN – THANH HÓA)
* Yêu cầu về kĩ năng
- Biết cách làm bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội, bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, vận
dụng tốt các thao tác lập luận, dẫn chứng tiêu biểu, chọn lọc. 
- Bài viết trong sáng, mạch lạc, giàu xảm xúc; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
* Yêu cầu về kiến thức
1.1. Giải thích 2,0
- Định kiến trong mình: là lối mòn trong nhận thức tư duy, là những suy nghĩ đã định hình sẵn
trong mỗi người mà chưa có sự tìm hiểu thấu tháo.  Định kiến trong mình có thể là những suy
nghĩ sẵn có về con người và cuộc sống  xung quanh, cũng có thể là những định kiến về chính bản
thân mình.
- Câu hỏi ở đề bài gợi mở về một cách sống mạnh mẽ, tích cực và linh hoạt cho mỗi người: nỗ
lực không ngừng để vượt thoát những định kiến trong mình, cố gắng liên tục để phá bõ những
suy nghĩ, nhận thức có sẵn về cuộc sống, con người và về chính bản thân mỗi người
1.2. Bình luận 5,0
- Định kiến trong mỗi người hình thành từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Một phần là do ta chịu
ảnh hưởng bởi những định kiến của những người xung quanh. Mặt khác sâu xa hơn là do chúng 
ta không cố tìm mà hiểu vừa cẩu thả, lười nhác vừa ích kỉ, bảo thủ.
- Định kiến trong mỗi người chính là một rào cản rất lớn trong việc nhận thức cuộc sống và con
người. Khi vượt thoát được những định kiến, ta sẽ có cái nhìn sâu sắc và toàn diện , thấu hiểu và
nhân văn hơn. Vậy nên, vượt thoát định kiến trong mình chính là tiền để để ta hiểu đời, hiểu
người, từ đó góp phần kiến tạo cuộc sống .
- Định kiến trong mình còn là một trở ngại trong việc nhận thức và khám phá bản thân. Vì thế, nỗ
lực vượt thoát những suy nghĩ, nhận thức sẵn có về chính mình sẽ giúp ta phá bỏ được giới hạn,
đánh thức và phát huy những tiềm lực trong mình. Đấy chính là cách để ta thực hiện sứ mệnh
sống: hoàn thiện bản thân và thể hiện, khẳng định mình.
- Cần phân biệt rõ định kiến và chính kiến để biết vượt thoát định kiến chứ không từ bỏ chính
kiến. Bảo vệ chính kiến là con người bản lĩnh nhưng giữ định kiến lại là biểu hiện của sự bảo thủ,
thiếu hiểu biết. Vượt thoát định kiến là cách sống tích cực để ta hoàn thiện mình nhưng từ bỏ
chính kiến lại là lối sống tiêu cực hèn nhát khiến ta đánh mất mình. 
(Học sinh đưa ra được những dẫn chứng tiêu biểu, xác đáng để làm sáng tỏ. Khuyến khích học
sinh chia sẻ dẫn chứng gắn với trải nghiệm của bản thân.)

1.3. Mở rộng vấn đề 1,0


- Cần nhận thức sâu sắc được tác hại của định kiến để từ đó có ý thức và quyết tâm nỗ lực vượt
thoát những định kiến trong mình.
- Về thực chất vượt thoát định kiến là cả một quá trình thay đổi tư duy nên không bao giờ dễ
dàng, đòi hỏi mỗi người cần kiên trì học hỏi, tìm hiểu, đồng thời phải dũng cảm và bản lĩnh để
thay đổi

2 Một nhà văn đích thực như một bức tranh treo trên tường mà khi tháo nó ra thì vĩnh
viễn để lại khoảng trống. 
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy chứng minh bằng một tác giả trong chương
trình Ngữ văn lớp 11.
 (TRƯỜNG THPT CHUYÊN BẮC GIANG)
* Yêu cầu về kĩ năng
- Có kĩ năng viết bài văn nghị luận văn học, biết huy động các kiến thức lí luận, kiến thức về tác
giả, tác phẩm để làm bài. 
- Vận dụng các thao tác lập luận phù hợp, lí lẽ xác đáng, trình bày khoa học, diễn đạt lưu loát,
không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
* Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có nhiều cách trình bày khác nhau, song cần đạt được những
nội dung cơ bản sau:
2.1. Giải thích 2,0
- Nhà văn đích thực: là nhà văn chân chính, sáng tạo nên được những tác phẩm có giá trị tư
tưởng và nghệ thuật cao, tác động tích cực đến con người và cuộc sống của con người.
- Một nhà văn đích thực như một bức tranh treo trên tường mà khi tháo nó ra thì vĩnh viễn để lại
khoảng trống: Cách nói hình ảnh “bức tranh treo trên tường... khi tháo nó ra... để lại khoảng
trống„ về vị trí của những nhà văn lớn, nhà văn để lại ấn tượng sâu sắc và chiếm được tình cảm
yêu quý ở người đọc.
🡪 Một nhà văn đích thực phải là nhà văn tạo nên được dấu ấn riêng đậm nét trong sự nghiệp sáng
tác để từ đó hình thành nên phong cách nghệ thuật nổi bật, có một vị trí vững chắc trong lòng độc
giả.

2.2. Bình luận: Khẳng định ý kiến đúng đắn, sâu sắc. 3,0
* Tư chất của người nghệ sĩ:
- Nghệ thuật yêu cầu người nghệ sĩ phải có cá tính sáng tạo, phải có khuôn mặt sáng tạo, có
tiếng nói, giọng nói riêng. Đó là bản sắc sáng tác của nghệ sĩ.
- Cá tính sáng tạo là tư chất vô cùng quan trọng, quan trọng tới mức nó là tiêu chuẩn về sự sống
còn của nghệ sĩ. Vì vậy, người nghệ sĩ phải tìm cho được cái bản sắc của mình. 
* Phong cách nghệ thuật:
- Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức
là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình. Chính sự độc đáo đó tạo nên
phong cách nghệ thuật. Một khi tác giả sáng tác văn học tạo được dấu ấn riêng biệt, độc đáo
trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống, biểu hiện rõ cái độc đáo qua các phương diện
nội dung và hình thức của từng tác phẩm, nhà văn đó được gọi là nhà văn có phong cách nghệ
thuật.
- Căn cứ vào PCNT, người đọc có thể xác định tác phẩm của nhà văn này mà không thể của nhà
văn kia. Đồng thời cũng căn cứ vào đó, người đọc hiểu thêm về con người với toàn bộ năng lực,
mối quan tâm, sở trường,.. của người nghệ sĩ. Điều đó tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm và hứng
thú cho người đọc. 
PCNT là sự trưởng thành của một nhà văn: nhà văn nào cũng có nét riêng, chỉ ở những nhà văn
thực sự tài năng mới có phong cách. Sự nở rộ của PCNT vì thế cũng là dấu hiệu về sự trưởng
thành của một nền văn học.
Như vậy, một nhà văn đích thực là phải có phong cách như một bức tranh treo trên tường mà khi
tháo nó ra thì vĩnh viễn để lại khoảng trống.

2.3. Chứng minh: 6,0


- Yêu cầu HS chọn được một tác giả có phong cách nghệ thuật nổi bật, tiêu biểu của một giai
đoạn, trào lưu, thời đại, dân tộc (cả những tác giả văn học nước ngoài).
- Phân tích một hoặc nhiều tác phẩm của tác giả đó trên hai bình diện: nội dung, hình thức để
xác định được những nét tiêu biểu, độc đáo của tác giả đó, khẳng định được phong cách riêng,
một nghệ sĩ chân chính, tạo được vị trí trong nền văn học, giai đoạn văn học (ưu tiên những bài
viết có sự mở rộng tác phẩm của tác giả được HS lựa chọn).
- Bài viết phải xác định rõ nhưng biểu hiện riêng, độc đáo trong tác phẩm để làm nên “khuôn
mặt sáng tạo, tiếng nói, giọng nói riêng”. Phân biệt với những bài viết chỉ đi phân tích tác phẩm
một cách chung chung, không nắm vững lí luận, không biết cách triển khai phần chứng minh.
2.4. Đánh giá, mở rộng: 1,0
- Với nhà văn - người sáng tạo: Phải luôn ý thức để tạo nên được phong cách riêng độc đáo
bằng tài năng và tâm huyết của mình.
- Với bạn đọc - người tiếp nhận: Phải cảm nhận được cái độc đáo, cái riêng có giá trị nghệ thuật
cao trong tác phẩm của nhà văn, đánh giá được vị trí của những nhà văn có phong cách.
TỔNG ĐIỂM TOÀN BÀI 20,0

------HẾT------
KỲ THI  HỌC SINH GIỎI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN
KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
LẦN THỨ XII, NĂM 2019

ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN 11


Thời gian: 180 phút (không kể thời gian giao đề)
Ngày thi: 20/4/2019
(Đề thi gồm 01
trang)

Câu 1 (8,0 điểm)


Có một gã khổng lồ đang say ngủ trong mỗi con người. Khi gã khổng lồ đó thức giấc, những phép màu sẽ xảy ra.
(Frederick Faust)
(Dẫn theo Ba người thầy vĩ đại, Robin Sharma, Nguyễn Xuân Hồng dịch, 
NXB Lao động, 2017, tr.127)
Từ ý kiến trên, anh/chị hãy chia sẻ suy nghĩ về một gã khổng lồ trong con người.
Câu 2 (12,0 điểm)
Trong bài Truyện ngắn đầu tiên, K. Pauxtopxki cho rằng:
Chỉ có người nào nói được với mọi người những điều mới mẻ, có ý nghĩa và thú vị, nhìn thấy những gì mà người
khác không nhận ra, người đó mới có thể là nhà văn.
(Bông hồng vàng và Bình minh mưa, NXB Văn học, 1999, tr.56)
Anh/chị hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.

-------------- HẾT --------------

(Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm)

Họ và tên thí sinh: Số báo danh:


KỲ THI  HỌC SINH GIỎI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN
KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
LẦN THỨ XII, NĂM 2019

HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN: NGỮ VĂN 11


(Hướng dẫn chấm gồm 04 trang)
A. YÊU CẦU CHUNG
- Giám khảo cần nắm được nội dung trình bày trong bài làm của học sinh, tránh đếm ý cho điểm. Vận dụng linh hoạt
hướng dẫn chấm, sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí, khuyến khích những bài viết có cảm xúc, sáng tạo.
- Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách nhưng nếu đáp ứng những yêu cầu cơ bản của đề, diễn đạt tốt vẫn cho điểm tối
đa.
- Điểm bài thi làm tròn đến 0,25 điểm.
B. YÊU CẦU CỤ THỂ
Câu  Ý Yêu cầu cần đạt Điểm
1 Có một gã khổng lồ đang say ngủ trong mỗi con người. Khi gã khổng lồ đó thức giấc, những 8,0
phép màu sẽ xảy ra. (F. Faust)
Từ ý kiến trên, anh/chị hãy chia sẻ suy nghĩ về một gã khổng lồ trong con người.
 (TRƯỜNG THPT CHUYÊN VĨNH PHÚC)
* Yêu cầu về kĩ năng
- Biết cách làm bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội, bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, vận
dụng tốt các thao tác lập luận, dẫn chứng tiêu biểu, chọn lọc. 
- Bài viết trong sáng, mạch lạc, giàu cảm xúc; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
* Yêu cầu về kiến thức
1.1. Giải thích 2,0
- Một gã khổng lồ đang say ngủ: cách diễn đạt hình ảnh, chỉ một trong những năng lực, phẩm
chất có sức mạnh lớn lao vẫn tiềm ẩn trong mỗi con người (học sinh có thể nêu những năng lực,
phẩm chất khác nhau, ví dụ như: sự sáng tạo, sự dũng cảm, sự chủ động dấn thân, sự tự tin, sự
quyết liệt theo đuổi mục tiêu, tình yêu thương…)
- Khi gã khổng lồ đó thức giấc, những phép màu sẽ xảy ra: khi một trong những năng lực, phẩm
chất tiềm ẩn trên được đánh thức, bộc lộ, con người có khả năng làm được nhiều điều kì diệu, phi
thường, làm thay đổi chính bản thân mình và cuộc sống xung quanh.
🡪 Ý kiến khẳng định, khích lệ mỗi người biết khơi dậy, đánh thức những năng lực, phẩm chất
tiềm ẩn để tạo nên những thành quả, biến chuyển kì diệu, phi thường trong cuộc sống.
1.2. Bình luận
* Khẳng định sự đúng đắn, sâu sắc của ý kiến. Lý giải bằng những lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục: 2,0
- Năng lực, phẩm chất của con người được hình thành, bồi đắp dần theo hành trình sống, quá
trình trưởng thành. Trong đó, có những năng lực, phẩm chất tiềm ẩn, chưa được bộc lộ.
- Có những hoàn cảnh, điều kiện thử thách mà ta tưởng mình không thể vượt qua, đòi hỏi sự bộc
lộ của những năng lực, phẩm chất đặt biệt.
- Khi những năng lực, phẩm chất ấy được bộc lộ, đánh thức, sẽ có những phép màu kì diệu xảy
ra, như: những thành công tốt đẹp, những giá trị xuất sắc, những kì tích đỉnh cao, những bước
ngoặt thay đổi lớn lao, những tác động và lan tỏa mạnh mẽ…
* Chia sẻ suy nghĩ về một gã khổng lồ trong con người:
Vì đây là dạng đề mở, nên học sinh có thể lựa chọn các năng lực, phẩm chất khác nhau. Tuy
nhiên, học sinh cần làm rõ được vấn đề trọng tâm: năng lực, phẩm chất tiềm ẩn ấy là gì? Được
đánh thức trong hoàn cảnh nào? Khi năng lực, phẩm chất đó được đánh thức, con người có thể 2,0
làm được những điều kì diệu gì?
(Học sinh đưa ra được những dẫn chứng tiêu biểu, xác đáng để làm sáng tỏ. Khuyến khích học
sinh chia sẻ gắn với trải nghiệm của bản thân.)
1.3. Mở rộng vấn đề 2,0
- Để đánh thức được phẩm chất tiềm ẩn của mình, mỗi người cần nỗ lực, cố gắng hiểu mình, tin
mình: mình là ai? có điểm mạnh điểm yếu gì?, cần làm gì để sống tốt hơn?...
- Những năng lực, phẩm chất tốt đẹp, cần thiết không có sẵn mà cần mỗi người tự nỗ lực hình
thành, bồi đắp, biết cách đánh thức…
- Giúp mỗi người có cách nhìn nhận, đánh giá người khác toàn diện, tích cực hơn: hiểu, tin, trân
trọng năng lực, phẩm chất của người khác, biết khơi dậy điều tốt đẹp, có sức mạnh lớn lao của
những người xung quanh.
- Tránh: ảo tưởng vào sự khổng lồ của những năng lực, phẩm chất không có sẵn và những phép
màu không dễ dàng xuất hiện, xảy ra; tránh dựa dẫm, ỷ lại vào những sức mạnh bên ngoài mà
quên rèn luyện, bồi đắp, tin tưởng vào những năng lực, phẩm chất của chính mình…

2 Trong bài Truyện ngắn đầu tiên, K. Pauxtopxki cho rằng: 12,0
Chỉ có người nào nói được với mọi người những điều mới mẻ, có ý nghĩa và thú vị, nhìn thấy
những gì mà người khác không nhận ra, người đó mới có thể là nhà văn.
(Bông hồng vàng và Bình minh mưa, NXB Văn học, 1999, tr.56)
Anh/chị hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.
(TRƯỜNG THPT CHUYÊN BIÊN HÒA – HÀ NAM
TRƯỜNG THPT CHUYÊN NGUYỄN CHÍ THANH – ĐĂK NÔNG)
* Yêu cầu về kĩ năng
- Có kĩ năng viết bài văn nghị luận văn học, biết huy động các kiến thức lí luận, kiến thức về tác
giả, tác phẩm để làm bài. 
- Vận dụng tốt các thao tác lập luận, lí lẽ xác đáng, trình bày khoa học, văn viết có cảm xúc,
giọng điệu riêng; diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
* Yêu cầu về kiến thức
Học sinh có nhiều cách trình bày khác nhau, song cần đạt được những nội dung cơ bản sau:
2.1. Giải thích 2,0
- nói được những điều mới mẻ, có ý nghĩa và thú vị: nhà văn phải có những khám phá mới mẻ về
cuộc sống, con người, bộc lộ những tư tưởng, tình cảm có ý nghĩa sâu sắc, lớn lao, được thể hiện
qua những hình thức nghệ thuật độc đáo, hấp dẫn.
- nhìn thấy những gì mà người khác không nhận ra: nhà văn phải có cái nhìn mang tính khám
phá và phát hiện về cuộc sống, con người (phát hiện những điều mới mẻ hoặc có khám phá mới
trước những điều đã quen, đã cũ).
🡪 Ý kiến của Pauxtopxki là một định nghĩa về nhà văn, đòi hỏi để trở thành nhà văn phải có cá
tính sáng tạo, phong cách nghệ  thuật độc đáo.
2.2. Bình luận: Khẳng định ý kiến đúng đắn, sâu sắc. 3,0
- Nghệ thuật là lĩnh vực đòi hỏi sự sáng tạo, độc đáo, mới mẻ. 
Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi
và sáng tạo những gì chưa có (Nam Cao).
- Văn học lấy chất liệu từ hiện thực cuộc sống, con người. Hiện thực cuộc sống luôn vận động,
biến đổi không ngừng, là mảnh đất màu mỡ khơi nguồn cảm hứng sáng tạo cho các nhà văn.
Cũng có khi viết về một đề tài cũ nhưng nhà văn phải có cái nhìn khám phá, phát hiện những
điều mới mẻ, thú vị, nhờ đó tác phẩm mới có giá trị và khơi gợi được hứng thú ở người đọc.
- Phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn được biểu hiện qua tác phẩm với những sáng tạo cả
về nội dung lẫn hình thức: điểm nhìn độc đáo, mang đến những đề tài mới, chủ đề mới, những
quan niệm, triết lí mới mẻ, sâu sắc, giàu ý nghĩa; được thể hiện bằng những phương thức,
phương tiện nghệ thuật độc đáo, thú vị…
- Phong cách nghệ thuật độc đáo khẳng định phẩm chất, tầm vóc của nhà văn, tạo nên những
sáng tác giàu giá trị, góp phần làm nên diện mạo phong phú và sự phát triển cho văn học.

2.3. Chứng minh 6,0


Học sinh có thể lựa chọn phân tích một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu; song trong quá trình phân
tích, bình giá cần chú ý những điểm sau để làm sáng rõ vấn đề đặt ra trong đề bài:
- Qua những tác phẩm ấy, các tác giả đã mang đến những cái nhìn, phát hiện mới mẻ gì về hiện
thực cuộc sống, con người?
- Nhà văn đã gửi gắm đến bạn đọc những tư tưởng gì mới mẻ, sâu sắc ?
- Nhà văn đã chuyển tải bức thông điệp của mình bằng những hình thức nghệ thuật độc đáo như
thế nào?
- Từ đó đánh giá về những giá trị mới mẻ, ý nghĩa của tác phẩm và khái quát phong cách nghệ
thuật độc đáo của nhà văn.
2.4. Đánh giá, mở rộng 1,0
- Đây là ý kiến đúng đắn, giúp ta thấy được tầm quan trọng của cá tính sáng tạo, phong cách nghệ
thuật độc đáo của nhà văn trong quá trình sáng tác.
- Nhận định đã đặt ra yêu cầu đối với người sáng tác và người tiếp nhận:
+ Với người sáng tác: phải sống sâu sắc, có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, trí tưởng tượng phong
phú và có tài năng nghệ thuật độc đáo…
+ Với người tiếp nhận: phải biết phát hiện, trân trọng những đóng góp mới mẻ, giá trị của nhà
văn qua tác phẩm.
TỔNG ĐIỂM TOÀN BÀI 20,0

------HẾT------
KỲ THI HỌC SINH GIỎI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN
KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
LẦN THỨ XII, NĂM 2019
ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN 10
(Đề thi gồm 01
Thời gian: 180 phút (không kể thời gian giao đề)
trang)
Ngày thi: 20/4/2019

Câu 1 (8,0 điểm)


Triết gia người Anh Fransis Bacon cho rằng: Tri thức là sức mạnh.
Nhà khoa học của thế kỉ Albert Einstein lại khẳng định: Trí tưởng tượng quan trọng hơn tri thức.
Hãy trình bày suy nghĩ của anh/chị về hai nhận định trên.

Câu 2 ( 12,0 điểm)


Một nhà văn bị đánh dấu một cách không thể phai nhòa bởi thời điểm sinh ra và bởi thời đại của anh ta, cho dù
anh ta không tham dự một cách trực tiếp vào hành động chính trị, cho dù anh ta gây ấn tượng là một kẻ cô đơn, cuốn lại
trong cái người ta gọi là “tháp ngà” của anh ta. Và nếu anh ta làm thơ, những bài thơ đó là hình ảnh của thời đại anh ta
sống và không thể được viết ra ở một thời kì nào khác. 
(Patrick Modiano, Giải Nobel Văn học 2014)
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng những hiểu biết về bài thơ Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão) và Độc Tiểu
Thanh kí (Nguyễn Du), hãy làm rõ điều đó.

-------------- HẾT --------------

(Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm)

Họ và tên thí sinh: Số báo danh:


KỲ THI  HỌC SINH GIỎI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN
KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
LẦN THỨ XII, NĂM 2019
HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN: NGỮ VĂN 10

Câu Ý Nội dung Điểm


1
1 Giải thích
Câu nói của Bacon: 1,0
 Tri thức: Những hiểu biết, kiến thức có hệ thống về sự vật, hiện tượng tự nhiên hoặc xã
hội. Những hiểu biết, kiến thức này thường đã được chứng minh, được cộng đồng thừa
nhận.
 Sức mạnh: khả năng để thực hiện một việc gì đó.
=> Câu nói của Bacon khẳng định vai trò, tầm quan trọng của hiểu biết, kiến thức.
Câu nói của Albert Einstein: 1,0
Trí tưởng tưởng: là khả năng tạo ra trong trí óc hình ảnh những cái chưa có hoặc không có
trong đời sống. Trí tưởng tượng của con người rất phong phú, không cần tuân theo quy tắc,
đường mòn và không cần đảm bảo tính chính xác.
I
=> Câu nói của Albert Einstein có kết cấu so sánh, trong đó nhấn mạnh vai trò của trí tưởng
tượng.
2 Bình luận, chứng minh
2.1. Câu nói của Bacon là một ý kiến đúng đắn, sâu sắc:
 Tri thức giúp mỗi con người lý giải được các hiện tượng khi đối diện với tự nhiên, xã
hội, khám phá tìm ra các quy luật cuộc sống, nâng cao chất lượng lao động sản xuất ...
do đó giúp con người có thể tồn tại, phát triển.
1,5
 Tri thức giúp cho chúng ta có thể thực hiện những ước mơ, hoài bão của bản thân; giúp
chúng ta tự tin khi đối diện với những khó khăn.
 Ngược lại, không có tri thức hoặc không chịu tích lũy tri thức sẽ khiến cho con người trở
nên lạc hậu, gặp khó khăn, thất bại trong cuộc sống.
2.2. Câu nói của Albert Einstein cũng hoàn toàn có lý, thuyết phục: 1,5
 Trí tưởng tượng là tiền đề của tri thức. Trí tưởng tượng sẽ tạo nên hình ảnh, giá trị chưa
có, nó kích thích khả năng khám phá, nghiên cứu của con người, từ đó tạo ra những
kiến thức mới.
 Trí tưởng tượng là khởi nguồn của mọi sự sáng tạo – điều tối quan trọng đối với tư duy.
2.3. Hai ý kiến trên không phủ định mà bổ sung cho nhau:
 Hai ý kiến đều cho thấy các nấc thang để đi đến chân lý của loài người.
 Nếu có tri thức mà không có tưởng tưởng thì sẽ dễ tạo thành những lối mòn tư duy, trói 1,0
buộc khả năng sáng tạo của con người. Ngược lại có tưởng tượng mà không có tri thức
thì dễ trở thành viển vông, hão huyền, xa rời thực tế.
3 Mở rộng, nâng cao vấn đề 2,0
 Bài học về nhận thức: cần nhận thức rõ cả tri thức và trí tưởng tượng đều rất quan trọng
đối với nhân loại cũng như trong cuộc sống của mỗi một con người. Cần đồng thời tích
lũy tri thức cũng như phát triển năng lực tưởng tượng. Cần trân trọng những thành quả
từ tri thức và tưởng tượng của người khác.
 Liên hệ với khả năng tiếp nhận tri thức và phát triển óc tưởng tượng của người Việt Nam
đặc biệt là thế hệ trẻ.

Câu 2 (12 điểm)


I- Kĩ năng
Học sinh biết cách làm bài nghị luận về một vấn đề văn học. Luận điểm rõ ràng, lô gíc; lập luận sắc sảo, thuyết phục.
Phân tích tác phẩm bám sát vào vấn đề cần làm sáng tỏ. Văn giàu cảm xúc, hình ảnh; không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ,
chính tả....
II- Kiến thức
Học sinh có thể trình bày vấn đề theo những cách khác nhau, song bài viết phải làm nổi bật được các nội dung chính sau:
Ý Nội dung kiến thức cần đạt Điểm
1. Giải thích 2,0
- Mỗi người đều chịu ảnh hưởng, chi phối  bởi thời đại, bởi giai đoạn lịch sử mà anh ta đang sống, kể cả
những người không tham gia các hoạt động chính trị xã hội, sống đơn độc, khép kín, ít giao tiếp với mọi
người.
-  Thơ ca là tiếng nói của cá nhân nhà thơ nhưng lại ghi dấu rõ nét thời đại sản sinh ra nó.
-Ý kiến nhấn mạnh mối quan hệ giữa thơ ca với hiện thực cuộc đời  của người nghệ  sĩ, của thời đại mà
anh ta sống.
2 Bàn luận 4,0
- Đây là ý kiến sâu sắc.
- Cuộc đời mỗi người bị giới hạn bởi một quãng thời gian nhất định nhưng mỗi cá nhân bao giờ cũng được
thừa hưởng những thành quả mà lớp người đi trước để lại, thụ hưởng những thành tựu do con người thời
đại mình tạo nên, bị chi phối  bởi những tâm tư, tình cảm của con người thời đại, đồng thời cũng  mang cả
những hạn chế về nhận thức, tư tưởng, tình cảm của thời đại ấy.
-Thơ ca là  thể loại ra đời  từ những cảm xúc mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ. Nhưng đó là những cảm
xúc chân thành, nảy sinh từ một cảnh ngộ cụ thể trong cuộc sống. Vì vậy  nó mang hơi thở, mang linh hồn
sự sống. Đây chính là dấu ấn thời đại trong tác phẩm thi ca.
- Những tình cảm, cảm xúc của cá nhân bị chi phối và giới hạn bởi tư tưởng, tình cảm của thời đại mà anh
ta  sống. Vì vậy, những vần thơ cất lên từ  thế giới tâm hồn nhà thơ bao giờ cũng in bóng thời đại ấy. Nó là
tấm gương phản chiếu tâm hồn nhà thơ, nhưng cũng là tâm hồn con người thời đại.
- Những bài thơ hay bao giờ cũng đem đến cho người đọc những nhận thức thú vị về thời đại mà nó  ra
đời.
3 Phân tích bài thơ  Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão) và Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du) để làm sáng tỏ ý 4,0
kiến.
*Tỏ lòng
- Bài thơ ra đời trong những năm tháng đất nước bị  quân Mông - Nguyên xâm lược, nhà Trần lãnh đạo
nhân  dân đứng lên đánh giặc bảo vệ bờ cõi. Thế giặc mạnh như chẻ tre, nhưng với quyết tâm cao độ, với
ý chí bền bỉ quân dân nhà Trần vẫn kiên cường đứng lên giết giặc lập nhiều chiến công. Nhưng cuộc chiến
không phải diễn ra trong ngày một ngày hai. Thế trận giằng co nhưng  triều đình và toàn thể  tướng lĩnh
quân đội vẫn bền bỉ, kiên gan đánh giặc, vẫn khao khát lập công đền nợ nước.
-Bài thơ là tâm tư, tình cảm, ý chí, khát vọng và nỗi day dứt, trăn trở của Phạm Ngũ Lão, người trực tiếp
tham gia vào cuộc kháng chiến và đã lập những chiến công , góp phần to lớn cho thắng lợi của trận chiến.
-Bài thơ cũng là bức tranh hào hùng về con người thời đại, về cả một dân tộc trong cuộc kháng chiến
chống giặc ngoại xâm:
+Hình ảnh nhà thơ  cũng là hình ảnh những người trai thời Trần- những người anh hùng thời đại mang
hoài bão lớn lao và tinh thần chiến đấu bền bỉ kiên cường.
+Hình ảnh ba quân chính là cả dân tộc đang bừng bừng khí thế trước họa xâm lăng. (Phân tích những hình
ảnh, từ ngữ gợi ra hiện thực đó).
+Tâm tư, tình cảm của Phạm Ngũ Lão cũng là tâm trạng chung của tướng lĩnh thời Trần, những người lập
bao chiến công hiển hách mà khát vọng  cứu nước vẫn còn chưa thỏa.
* Đọc Tiểu Thanh kí
- Bài thơ được viết vào thế kỉ XVIII, khi xã hội phong kiến Việt Nam đang trên đà xuống dốc và khủng
hoảng trầm trọng. Tư tưởng bảo thủ của Nho giáo và những lễ giáo phong kiến hà khắc đã  chi phối cách
nhìn nhận đánh giá con người. Con người được đánh giá không dựa trên tài năng mà trên địa vị xã hội,
đẳng cấp của gia đình, dòng tộc. Lớp người tài hoa bị khinh rẻ, coi thường, không được sống xứng đáng
với những gì họ có. Nỗi bất hạnh ấy càng lớn hơn gấp nhiều lần ở những người phụ nữ, vốn bị coi là phận
con ong, cái kiến trong xã hội. Nhưng thế kỉ XVIII, khi những vấn đề đạo đức rường cột bị đảo lộn thì ý
thức về quyền sống, quyền hạnh phúc, khát vọng tự do của con người nảy nở khiến cho nỗi đau về thân
phận bèo bọt của kiếp tài hoa càng nổi lên....
- Bài thơ  là nỗi xót xa, thương cảm, bất bình của nhà thơ trước số phận bất hạnh của một người con gái tài
sắc có tên là Tiểu Thanh và những dự cảm, mong ước  của tác giả khi nghĩ đến thân phận mình.
- Bài thơ phản chiếu cuộc sống và tâm tư của con người thời đại:
+ Đem đến cho người đọc cái nhìn sâu sắc về một xã hội mà thân phận người tài sắc, nhất là người phụ nữ
chịu bao oan trái, khổ đau vì sự bất công, lạnh lùng, tàn bạo của xã hội, của người đời.
+Nỗi đau xót, niềm tin và cả những  khắc khoải mong ước của Nguyễn Du về số phận của lớp người tài tử
giai nhân cũng là tâm trạng của biết bao trí thức phong kiến tiến bộ, có lòng nhân đạo  cao cả, có cái nhìn
và  những dự cảm sáng  suốt về tương lai.
4 Đánh giá 2,0
-Hai bài thơ là tiếng nói cá nhân của mỗi nhà thơ nhưng lại mang âm hưởng chung của thời đại, của giai
đoạn lịch sử mà họ sống.
-Những dấu ấn của thời đại có được là do những quan sát, trải nghiệm chân thực của mỗi người nghệ sĩ
trong cuộc đời.
- Khi những tình cảm chân thực lại có được hình thức biểu hiện  giàu tính nghệ thuật sẽ tạo nên sức sống
cho tác phẩm văn chương.
-Bài học cho người cầm bút và tiếp nhận văn học.

---HẾT---

Cuộc sống thay đổi khi chúng ta thay đổi là nhan đề cuốn sách của Andrew Matthews). Suy nghĩ của anh chị về ý kiến
trên.
2.1. Giải thích:
- Thay đổi: làm cho trở nên khác trước.
-  Cuộc sống thay đổi: cuộc sống khác với trước đó. Hàm ý tựa đề: cuộc sống  biến đổi, phát triển theo hướng ngày càng
tốt đẹp hơn,  văn minh, tiến bộ hơn. 
-  bản thân thay đổi: bản thân khác với trước đó tức là từ bỏ những thói quen, suy nghĩ, tính cách đã định hình để hoàn
thiện bản thân.
–> Vấn đề được đặt ra: chúng ta là một phần của cuộc sống. Cuộc sống sẽ tốt đẹp nếu bản thân mỗi con người tốt đẹp.
Bởi vậy sự thay đổi cuộc sống bắt đầu từ những thay đổi trong bản thân ta.
2.2. Bàn luận
- Tại sao chúng ta phải thay đổi?
           + Cuộc sống luôn vận động, biến đổi không ngừng. Thay đổi để thích nghi với môi trường sống là quy luật tất yếu
của sự sinh tồn.
           + Những diện mạo, thói quen suy nghĩ, hành động cũ nếu duy trì lâu sẽ trở thành lạc hậu, bảo thủ, lực cản của sự
phát triển. Vì vậy, nó cần phải bị loại trừ, phủ định.
          + Chỉ có thay đổi, con người mới hình thành những đặc điểm, phẩm chất mới tối ưu hơn, giúp bản thân thêm hoàn
thiện. Sự thay đổi cũng sẽ mang lại niềm cảm hứng mới, giúp mỗi người thêm yêu đời, yêu bản thân và hứng thú hơn với
công việc…
- Tại sao nói khi chúng ta thay đổi thì cuộc sống sẽ thay đổi?
+ Cuộc sống là tất cả những gì tồn tại trên thế gian này. Đó là chính ngôi nhà ta ở, ngôi trường ta học, vùng đất ta sinh ra,
lớn lên,làm việc, là môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội, là truyền thống, phong tục, tập quán...tóm lại là những gì
tạo nên thế giới này.
         + Bản thân mỗi chúng ta là một phần của cuộc sống. Mọi sự thay đổi dù rất nhỏ, thầm lặng, tích cực của mỗi người
đã, đang và sẽ làm cho cuộc sống dần có những thay đổi tốt đẹp hơn; nỗ lực không ngừng tự hoàn thiện mình bởi hiểu
rằng, đó là cách thiết thực và ý nghĩa nhất góp phần quyết định một thể giới hòa bình, dân chủ, tiến bộ, văn minh.
             - Thay đổi bản thân là thay đổi cách nhìn, cách nghĩ, phá vỡ giới hạn, khai phóng năng lực tiềm ẩn, tự vượt để
hoàn thiện bản thân. Đó là một quá trình lột xác đau đớn, cần có thời gian và sự bền tâm vững chí.
- Thay đổi nhưng không được đánh mất mình; thay đổi phải mang đến hạnh phúc, giá trị tích cực cho bản thân và cộng
đồng. 
- Chứng minh
        + Chắc hẳn chúng ta vẫn chưa quên Renato Soru – người con thân yêu của đất nước Italia, đồng thời là ông
chủ tập đoàn Tiscali nổi tiếng đã thất bại ra sao khi thâm nhập vào thị trường nước Đức rộng lớn với biết bao đối thủ
cạnh tranh. Không hề lùi bước, Renato Sorn đã thay đổi chiến lược kinh doanh của mình, để biến Tiscali thành tên tuổi
hàng đầu thế giới và đưa tên ông vào danh sách những con người thành công nhất thế giới. Mỗi chúng ta cũng cần điều
chỉnh để phù hợp với môi trường như thế.
                       + Stephen Hawking
Đề bài : Suy nghĩ của anh/chị về bài học được rút ra từ câu chuyện sau:

        Ngày xưa, bên sườn của một núi lớn có một tổ chim đại bàng. Một trận động đất xảy ra làm rung chuyển ngọn núi,
một quả trứng đại bàng lăn xuống và rơi vào trại gà dưới chân núi. Một con gà mái tình nguyện ấp quả trứng ấy. Đến
ngày kia trứng nở ra một chú đại bàng con xinh đẹp, nhưng buồn thay chú chim nhỏ được nuôi lớn như một con gà. Cũng
chẳng lâu sau con đại bàng đó cũng tin tưởng nó chỉ là một con gà không hơn không kém. Đại bàng yêu gia đình và ngôi
nhà đang sống, nhưng tâm hồn nó vẫn khao khát một điều gì đó cao xa hơn. Một ngày, trong khi đang chơi đùa trong sân,
đại bàng nhìn lên trời và thấy những chú chim đại bàng đang sải cánh bay cao giữa bầu trời. “ Ồ đại bàng kêu lên – Ước
gì tôi có thể bay lên giống những chú chim đó” Bầy gà cười ầm lên “anh không thể bay với những con chim đó được.
Anh là một con gà và gà không biết bay cao”. Đại bàng tiếp tục ngước nhìn gia đình thực sự của nó, mơ ước có thể bay
cao cùng họ. Mỗi lần đại bàng nói ra mơ ước của mình, bầy gà lại bảo nó điều không thể xảy ra. Đó là điều đại bàng cuối
cùng đã tin là thật. Rồi đại bàng không mơ nữa và tiếp tục sống như một con gà. Cuối cùng sau một thời gian dài sống
làm gà, đại bàng chết.
Hướng dẫn chi tiết:
Nội dung

1. Giải thích, nêu ý nghĩa câu chuyện: 


      - Tóm tắt câu chuyện:  Đại bàng là loài vật biểu trưng cho sức mạnh. Chúng thuộc về trời xanh, thuộc về
những điều kì vĩ. Chú đại bàng được nhắc đến trong câu chuyện lại rơi vào một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, đó là khi chú
phải sống lạc giữa một đàn gà và nhầm tưởng mình cũng là loài vật nhỏ bé. Đại bàng không nhận thức được mình là ai và
mình có khả năng gì. Đáng chú ý ở chỗ đại bàng có ước mơ, đại bàng khao khát được bay lên trời xanh”Ồ - đại bàng kêu
lên – Ước gì tôi có thể bay như những con chim đó nhưng ước mơ ấy nhanh chóng bị đè bẹp, đập vỡ bởi những lời nói
của những người xung quanh. Vì không nhận thức được bản thân, không tin vào khả năng và dám thực hiện ước
mơ của mình nên con chim cao quý ấy đã phải lãnh nhận một kết cục đáng buồn: Đại bàng đã sống và chết như
loài gà nhỏ bé.
- Rút ra ý nghĩa: Chú đại bàng là một ẩn dụ cho một kiểu người cho xã hội – những con người có ước mơ có hoài bão
nhưng lại thiếu niềm tin vào chính mình. Mỗi con người đều mang cho mình khả năng tiềm ẩn và để biến ước mơ
thành hiện thực con người cần có một ý chí vững chắc, một niềm tin mạnh mẽ vào khả năng của mình. Có như vậy con
người mới phát huy được năng lực thực sự của bản thân, trở thành” những con đại bàng” sải cánh trên trời xanh.
2.Phân tích và lý giải:
  a)  Tin vào chính mình là tin vào những khả năng, tin vào lập trường của mình. Niềm tin tưởng vào chính mình là xuất
phát từ sự nhận thức đúng đắn về bản thân – nhận thức được mình là ai, mình đến từ đâu, mình có thể làm gì. Tuy nhiên
ý thức về bản thân thôi chưa đủ, con người phải tự trang bị cho mình sự dũng cảm, sự vững vàng vượt qua mọi lời nói
của những người xung quanh để thực hiện ước mơ của mình. Làm được điều đó con người sẽ dần bước gần hơn tới ước
mơ, hoài bão.
b) Tại sao con người cần phải nhận thức được bản thân và tin tưởng vào chính mình :
+ Nhận thức đúng đắn vào bản thân là một yếu tố quan trọng . Khi con người biết mình là ai, mình đến từ đâu, mình có vị
trí như thế nào trong xã hội, khi đó mỗi người sẽ hiểu mình cần làm gì cho xứng đáng. Nhận thức đúng đắn mình là ai
mình sẽ không bị nhòa đi giữa một thế giới hàng triệu cá thể
+ Sự tự nhận thức về bản thân đó phải đi cùng với một niềm tin vững chắc và một quyết tâm cao độ. Khả năng con người
là vô hạn và đôi khi bị ẩn giấu. Cuộc sống bình thường với nhịp độ trầm lặng, đều đều làm cho khả năng của con người
không được bộ lộ hết. Phải được đặt trong những khả năng đặc biệt với những thử thác đặc biệt, con người mới có thể tự
khám phá ra. Thử thách đặc biệt ấy có thể là những ước mơ, những dự định lớn lao. Lúc ấy sự tự nhận thức và tin tưởng
vào chính khả năng đóng vai trò quyết định đến sự thành bại của con người. Có niềm tin con người sẽ vượt qua được sức
mạnh, vượt qua mọi rào cản, mình giúp con người có thể gạt bỏ được những định kiến, những phủ định của mọi người
xung quanh để dấn thân vào những con đường đã chọn.
+ Những giá trị lớn trong cuộc đời chỉ được tạo nên bởi những con người có nhận thức đúng đắn về bản thân và niềm tin
vào khả năng của chính mình. Điểm lại phát minh khoa học lớn trên thế giới, những thành tựu vĩ đại về mọi mặt xã hội,
chẳng phải tất cả đều được tạo nên bằng sự quyết tâm, kiên trì và niềm tin vững chắc của những người thực hiện hay sao?
Hay gần đây nhất là câu chuyện cảm động của Nguyễn Thế Hoàn được huy chương vàng Olympic Toán quốc tế năm
2014 khi vượt lên những khó khăn về hoàn cảnh. Thử hỏi, nếu cậu ấy mặc cảm về chính mình, không can đảm vượt qua
mọi rào cản về kinh tế, về những định kiến xã hội, liệu cậu ấy có được thành công vang dội như ngày hôm nay không?
Đó là một bài học quan trọng cho tất cả những ai đang bước trên những con đường chinh phục ước mơ.
- Phê phán :
Trong cuộc sống ngày hôm nay, chúng ta dễ dàng bắt gặp những con người giống chú đại bàng trong câu chuyện, bởi
không nhận thức đúng về bản thân và không tin tưởng vào khả năng của chính mình mà sống một cuộc sống tầm thường,
vô nghĩa. Con người luôn bị những định kiến xã hội kéo lại, không dám bước lên con đường chinh phục ước mơ. Dám
ước mơ và hành động để chinh phục ước mơ, con người mới có thể làm được những điều vĩ đại.
3 Bình luận:
- Bài học con đại bàng để lại đã nhắc nhở chúng ta vai trò của niềm tin cuộc sống. Nó lay tỉnh những con người đang ngủ
quên trong sự bằng lòng với cuộc sống tầm thường của hiện tại, bị những định kiến xã hội làm cho mềm yếu, hãy biết
sống cho ước mơ, hãy biết khẳng định bản thân qua những hành động cụ thể. Đó là con đường dẫn con người đến chân
trời của thành công và hạnh phúc.
- Tin vào chính mình, điều đó không có nghĩa con người trở nên bảo thủ, mù quáng. Niềm tin cần phải gắn liền với một
sự nhận thức đúng đắn, một ước mơ cao đẹp. Cuộc đời mỗi con người sẽ trôi đi vô nghĩa nếu chúng ta chịu bằng lòng với
những gì mà mình đang có, nếu chúng ta ngừng ước mơ và cố gắng. Ta sẽ không biết thực sự mình là ai, mình có khả
năng tuyệt diệu đến nhường nào nếu ta dễ dàng từ bỏ mơ ước vì lời phán xét của những người xung quanh. 
- Liên hệ bản thân: Cá nhân người viết cảm nhận được câu chuyện có tác động như thế nào đối với cuộc sống hiện tại,
người viết tự nhìn nhận bản thân và tin tưởng vào khả năng của mình hay chưa …
Anh/chị hãy viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của mình về những điều câu chuyện trên gợi ra.
1.1 Giải thích ý nghĩa của câu chuyện:
- Đại bàng là loài vật biểu trưng cho sức mạnh. Chúng thuộc về trời xanh, về những điều lớn lao, kỳ vĩ. Con đại bàng
trong câu chuyện khi bị rơi vào hoàn cảnh đặc biệt: sinh ra và lớn lên giữa đàn gà đã không nhận thức được mình là ai,
khả năng của mình đến đâu. Từng có lúc ước ao bay lên trời cao nhưng đại bàng đã nhanh chóng từ bỏ, ước mơ của nó dễ
dàng bị đè bẹp bởi lời nói của những con gà. Cuối cùng, đại bàng chấp nhận một kết cục đáng buồn: sống và chết như
những con gà nhỏ bé.
- Con người có thể bị “đồng hóa”, trở nên tầm thường, nhỏ bé đi trong một môi trường sống không thuận lợi. Sở dĩ đại
bàng sống và chết như một con gà là bới nó không may phải sinh ra và lớn lên giữa một bầy gà. Để có thể bay lên trời
cao như chính đặc tính của loài mình, đại bàng cần có một sự nỗ lực và bản lĩnh lớn ... Đáng tiếc con đại bàng trong câu
chuyện đã không có được điều đó. Nó không thể chiến thắng được hoàn cảnh mà mình rơi vào.
=> Cần có niềm tin vào khả năng, sức mạnh của chính mình. Khi đó, bạn mới có thể đạt được những ước mơ lớn
lao, cao đẹp của mình.
1.2 Suy nghĩ, bàn luận về những điều câu chuyện gợi ra:
- Việc nhận thức đúng về khả năng của bản thân rất quan trọng.
- Điều cần thiết không kém khác là cần phải biết ước mơ, có hoài bão khát khao những điều lớn lao, cao đẹp.
- Để đạt đến những thành công lớn cần nỗ lực, có bản lĩnh, vượt lên hoàn cảnh, tin vào chính mình, không chịu
ảnh hưởng quá nhiều từ những người xung quanh.
- Trong xã hội hiện nay, ta dễ dàng bắt gặp những con người giống như chú đại bàng trong câu chuyện: không
đánh giá đúng năng lực của bản thân, thiếu niềm tin vào chính mình, dễ dao dộng trước những tác động bên
ngoài, bằng lòng với cuộc sống tầm thường, nhạt nhẽo ... Câu chuyện như một lời cảnh tỉnh, nhắc nhở mỗi chúng
ta sống sao cho đẹp, cho huy hoàng.
1.3. Liên hệ bản thân:
- Người viết nêu những tác động của câu chuyện đối với chính bản thân mình. Có thể chia sẻ những chiêm nghiệm: đã
nhận thức đúng về khả năng của bản thân chưa, có đủ tự tin để thực hiện những ước mơ lớn không ...
               Chuyện kể rằng, có một vòng tròn rất hoàn mỹ. Nó rất tự hào về thân hình tròn trĩnh đến từng milimet của
mình. Thế nhưng một buổi sáng thức dậy, nó thấy mình bị mất đi một góc lớn hình tam giác. Buồn bực, vòng tròn ta đi
tìm mảnh vỡ đó. Vì không còn hoàn hảo nên nó lăn rất chậm. Nó bắt đầu ngợi khen những bông hoa dại đang toả sắc
bên đường, nó vui đùa cùng ánh nắng mặt trời, tâm tình cùng sâu bọ… Một ngày kia nó tìm được một mảnh hoàn toàn
vừa khít và ghép vào. Nó lăn đi và nhận ra mình đang lăn quá nhanh. Đến nỗi, không kịp nhận ra những bông hoa đang
cố mỉm cười với nó. Vòng tròn thấy rằng, cuộc sống khác hẳn đi khi nó lăn quá nhanh. Nó dừng lại, đặt mảnh vỡ bên
đường rồi chầm chậm lăn đi. 

                 Hãy bình luận về ý nghĩa triết lí của câu chuyện trên .

2. Về nội dung
Bài làm cần đạt được những ý cơ bản sau:
- Khái quát được ý nghĩa triết lí cuả câu chuyện về chiếc vòng tròn:
Chiếc vòng tròn là biểu tượng của sự hoàn hảo. Bài học về cái vòng tròn cho chúng ta thấy một điều tưởng như nghịch lí
đó là: đôi khi sự khiếm khuyết thiếu hụt chính là biểu hiện chứng tỏ con người là con người với ý nghĩa đúng đắn, nhân
bản nhất. Đây chính là triết lí về con người bất toàn. Chính sự bất toàn là động cơ để con người hoà nhập cùng cộng đồng
và vươn tới những giá trị tốt đẹp và ngày một hoàn thiện.
- Bàn luận về triết lí trên: đây là một triết lí khá sâu sắc.
+  Triết lí này đã nhìn nhận con người và đời sống ở góc độ nhân bản, con người bao giờ cũng có phần Con và
phần Người, phần ưu điểm và hạn chế, tích cực và tiêu cực. Xét từ góc độ triết học, sự tồn tại của hai mặt đối lập và
thống nhất trong cùng một cá thể là một tất yếu.
+ Quá trình sống, học tập, lao động, hoà nhập với cộng đồng của con người là một quá trình học hỏi, đấu tranh,
vươn đến sự hoàn thiện. Đó chính là ý nghĩa cuộc sống, ý nghĩa tồn tại của mỗi con người.  . 
         - Mở rộng, nâng cao vấn đề, liên hệ thức tiễn: 
+ Trong cuộc sống, mỗi con người cần biết rõ những hạn chế, khiếm khuyết của mình để khắc phục vươn lên, học
hỏi mọi người, hoàn thiện bản thân; mặt khác, trong hành trình đó, con người không nên cầu toàn, không nên đòi hỏi bản
thân sự hoàn hảo tuyệt đối, vì đó là điều không thể. Nên biết chấp nhận mình để hoà nhập với cộng đồng.
+ Cần có cách nhìn nhận đánh giá con người và ứng xử theo quan điểm nhân bản: đó là biết đề cao những mặt
tích cực, độ lượng, chấp nhận và chia sẻ những mặt hạn chế; giúp đỡ nhau cùng hoàn thiện
Câu chuyện về cái vòng tròn là một thông điệp triết lí về sự tồn tại của con người. Đặt trong thời kì hội nhập và
phát triển của xã hội hiện nay, triết lí nhân sinh của câu chuyện là bài học sống và ứng xử sâu sắc với tất cả mọi người.
Đối với các bạn trẻ đang ở độ tuổi phát triển và hoàn thiện nhân cách thì triết lí trên càng có giá trị thực tiễn trong hành
trang vào đời
(Học sinh có thể lấy những dẫn chứng, cứ liệu khác nhau để minh họa, liên hệ thực tiễn phù hợp với nội dung
nghị luận. Giám khảo cần trân trọng những bài viết có cách trình bày tự nhiên, chân thực; không rơi vào lan man, công
thức, khẩu hiệu, sáo rỗng).

          VẾT ĐEN TRÊN TỜ GIẤY TRẮNG


Chuyện xảy ra tại một trường trung học.
 Thầy giáo giơ cao một tờ giấy trắng, trên đó có một vết mực đen và đặt câu hỏi với học sinh:
- Các em có thấy gì không?
Cả phòng học vang lên câu trả lời:
- Đó là một vết mực đen.
Thầy giáo nhận xét:
 Các em không trả lời sai. Nhưng không ai nhận ra đây là một tờ giấy trắng ư?
Và thầy kết luận:
 Con người thường chú tâm đến những lỗi lầm nhỏ nhặt của người khác mà quên đi những phẩm chất tốt đẹp của họ.
Khi đánh giá một sự việc hay một con người, thầy mong các em đừng quá chú trọng vào vết đen mà hãy nhìn ra tờ
giấy trắng với nhiều khoảng sạch mà ta có thể viết lên đó những điều có ích cho đời. Đáng gì một chấm đen, một vệt
đen mà bỏ đi cả trang giấy trắng quý giá.
Trong số các học sinh ngồi trong lớp có một cậu bé tên là Cô-phi. Cậu bé Cô-phi năm nào nay chính là Cô-phi
An-nan, người đã trở thành tổng thư ký Liên hiệp quốc và là một sứ giả thiện chí trong các cuộc đàm phán, một nhà hòa
giải nổi tiếng thế giới từng được trao tặng giải Noben Hòa bình. Khi được hỏi về bí quyết dẫn đến những thành công
trong cuộc sống và trong sự nghiệp chính trị, Cô-phi An-nan đều kể lại câu chuyện vết mực đen trên tờ giấy trắng.
( Bức thư của người thầy – NXB Văn hóa thông tin 2005).
Suy nghĩ của anh (chị) về câu chuyện trên.
Học sinh có thể trình bày theo các cách khác nhau. Tuy nhiên cần thể hiện được nội dung cơ bản sau:
- Ý nghĩa của câu chuyện mang đến một bài học về cách nhìn nhận, đánh giá sự việc và con người trong cuộc sống.
Thực tế hiếm có sự việc và con người hoàn hảo. Điều quan trọng là khi nhìn nhận về một sự việc hoặc một con người,
chúng ta biết bỏ qua những hạn chế ấy để nhận ra những điều tốt đẹp đáng trân trọng khác.
- Đây là một bài học quý giá vì trong đời sống con người sẽ có nhược điểm hoặc đã từng mắc lỗi lầm. Đó là những
điều rất dễ nhận thấy và ta thường chỉ nhìn vào những điều dễ thấy ấy để kỳ thị và coi thường họ, bỏ qua họ trong cuộc
đời. Đường đời không phải lúc nào cũng trải đầy hoa hồng và nhiều khi cuộc sống đặt trước mắt ta nhiều khó khăn thử
thách, thậm chí là thất bại, mất mát khiến ta dễ chán nản, tuyệt vọng, buông xuôi. Hai cách ứng xử trên đều sai lầm.
- Chúng ta cần có một thái độ sống tích cực, cần có một tấm lòng bao dung, vị tha, cần có một cái nhìn giàu tính nhân
văn khi nhìn nhận về sự việc hoặc con người xung quanh ta để đánh giá một cách đúng đắn nhất.
- Chúng ta không thể làm những vết đen đã có biến mất hoàn toàn nhưng có thể giúp tờ giấy trắng trở nên có ý nghĩa,
khi đó vết đen sẽ phai mờ và không ai còn để ý đến nó nữa.
HS lấy dẫn chứng cụ thể phù hợp để làm sáng tỏ.
Trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng được một bức tượng đài mang tính chất bi
tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm. Hãy phân ích bài văn tế để làm rõ vẻ đẹp hiếm có của hình tượng
nghệ thuật này.   
I- Mở bài
NĐC là tác gia lớn của dòng văn thơ yêu nước chống Pháp ở nửa cuối thế kỉ XIX. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là
tác phẩm tiêu biểu của ông. Với tác phẩm này, lần dầu tiên trong văn học trung đại xuất hiện một bức tượng đài nghệ
thuật hoàn chỉnh, mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước, chống ngoại xâm.
II- Phân tích
1. Mở đầu bài văn là bối cảnh xuất hiện người nghĩa sĩ đánh Tây
           Hỡi ôi! Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ
Câu văn mở đầu đã khái quát được bối cảnh thời đại và sự xuất hiện hình ảnh người nông dân chống giặc. Thông
qua sự hồi tưởng của tác giả, hình ảnh người nông dân đánh giặc hiện lên với vẻ đẹp ngày càng hoàn chỉnh.
2- Khi đất nước chưa có giặc họ hiện ra hết sức nhỏ bé, thầm lặng 
Nhớ linh xưa: Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó/ Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung/ Chỉ biết
ruộng trâu ở trong làng bộ …
a- Chữ cui cút vẽ lên dáng dấp âm thầm, đơn độc trong công việc làm ăn. Chữ toan lo nói lên những toan tính, lo
lắng vì cuộc sống luôn khó khăn, thiếu thốn. Một chữ tả dáng dấp, một chữ gợi nội tâm, chỉ vài từ ngư, nhà thơ đã thể
hiện đúng cái nét bản chất của những người nông dân ở một đất nước có nền nông nghiệp lạc hậu.
b- Tác giả còn đối lập cái họ quen làm là việc ruộng đồng với cái họ chưa từng ngó là việc chiến trận để một lần
nữa khẳng định bản chất nông dân của những người  nghiã sĩ. 
3- Khi đất nước có giặc người nông dân đã trở thành người nghĩa sĩ.. Quá trình ấy diễn ra như thế nào?
a- Lúc đầu họ trông chờ vào triều đình. 
- Phép so sánh trông tin quan như trời hạn trông mưa đã cực tả niềm mong đợi da diết, cháy bỏng. Nhưng càng
trông chờ, họ càng thất vọng vì triều đình đã bỏ rơi nhân dân trong cơn binh lửa. Trong khi đó thì kẻ thù ngang dọc trên
mảnh đất quê hương, xâm phạm đến tấc đất, ngọn rau, bát cơm, manh áo, phá vỡ cuộc sống bình yên của họ. 
- Lòng căm thù giặc cứ lớn dần lên theo thời gian chờ đợi. NĐC đã dùng những hình ảnh phóng đại như muốn tới
ăn gan, muốn ra cắn cổ để cực tả lòng căm giận của họ.
- Gắn bó với mảnh đất quê hương, người nông dân nhận thức rất rõ bản chất của kẻ thù. Thành ngữ treo dê bán
chó đã khái quát chính xác bản chất bịp bợm, giả dối của giặc Pháp. 
b- Xuất phát từ lòng yêu nước, từ sự nhận thức đúng đắn bản chất kẻ thù mà họ đã tự nguyện đứng lên đánh giặc
để bảo vệ mảnh đất quê hương. 
- Cách diễn đạt dưới hình thức phủ định nào đợi, chẳng thèm đã làm nổi bật tinh thần tự nguyện đứng lên đánh
giặc của những người nông dân CG.
- Với tinh thần tự nguyện đó, từ người nông dân họ đã trở thành người nghĩa sĩ bởi nghĩa sĩ là người làm việc
nghĩa một cách vô tư, không tính toán thiệt hơn, không cần đủ điều kiện mới làm. Bất chấp sự thiếu thốn họ đã đem hết
ánh sáng tâm hồn mình mà hiến dâng cho Tổ Quốc.
4- Hình ảnh người nghĩa sĩ trong chiến trận 
a- Nổi lên tinh thần chiến đấu bất chấp sự thiếu thốn hy sinh. 
- Dù thiếu thốn về trang bị vũ khí, về kiến thức trận mạc chưa hề biết đến 18 ban võ nghệ, 90 trận binh thư, chỉ có
manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi nhưng họ đã xông trận với một khí thế ngút trời. 
- Họ coi giặc cũng như không, liều mình như chẳng có, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ, nào sợ thằng Tây bắn
đạn nhỏ, đạn to mà xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có, mà đâm ngang chém ngược, hè trước ó sau khiến cho mã
tà ma ní với tàu sắt, tàu đồng đạn nhỏ, đạn to cũng phải thất kinh hồn vía.  
- Họ chiến đấu với khí thế đạp trên đầu thù mà xốc tới, bất chấp sự hy sinh, đầy ý chí quyết thắng. Hình ảnh đó
oai phong lẫm liệt như hình tượng các dũng sĩ trong những thiên anh hùng ca thuở xưa nhưng lại gần gũi, sống động.
b- Về nghệ thuật: 
- Tái hiện lại bức tranh công đồn đó, tác giả đã dùng những từ chỉ hành động mạnh như đốt, chém, đạp, lướt, xô,
xông, hè,ó…; phép đối từ ngữ như trống kì/ trống giục; lướt tới/ xông vào; đạn nhỏ/ đạn to; đâm ngang/ chém ngược; hè
trước/ ó sau; đối ý như ta thì manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi còn địch thì đạn nhỏ đạn to, tàu
sắt tàu đồng....Chính những biện pháp nghệ thuật đó đã tạo nên  nhịp điệu nhanh, mạnh, dứt khoát, sôi nổi của khí thế
công đồn hết sức khẩn trương, quyết liệt, hào hứng.
- Miêu tả người nghĩa sĩ xông trận, NĐC đã sử dụng những chi tiết tả thực nhưng có chọn lọc, đậm đặc chất sống,
mang tính khái quát, đặc trưng cao như manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi. Nhà thơ sử dụng nhiều
khẩu ngữ nông thôn như  nào đợi mang, chi nài sắm, nhà dạy đạo, cũng như không,  như chẳng có. Ngôn ngữ miêu tả là
thứ ngôn ngữ  sắc thái Nam Bộ với đánh, đeo, chém rớt, thằng Tây, hè, ó, trối, kệ … Vì thế hình ảnh người nông dân –
nghĩa sĩ hiện lên hết sức chân thực với vẻ đẹp mộc mạc, với  tư thế hiên ngang coi thường mọi khó khăn thiếu thốn. 
5- Từ không khí hào hùng bài văn bỗng chùng xuống trong không khí bi thương trước cái chết của những
người nghĩa sĩ. 
a- Không chỉ con người mà thiên nhiên cũng nhỏ lệ tiếc thương: Đoái sông CG cỏ cây mấy dặm sầu giăng/ Nhìn
chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
b- Nhưng hành động xả thân vì nghĩa của họ đã nâng tâm hồn nhà thơ lên và để lại những lời ngợi ca bi tráng.
Nhà thơ ngợi ca lối sống cao cả của họ. Dù biết trước sẽ thất bại nhưng họ không chấp nhận lối sống quăng vùa hương,
xô bàn độc, chia rượu lạt, gặm bánh mì ….nghĩa là làm tay sai cho giặc. Họ chấp nhận sự hy sinh để bảo vệ tấc đất ngọn
rau, bát cơm, manh áo và lưu lại danh thơm tiếng tốt cho đời.
III- Tổng kết
   Bài văn tế đã dựng lên một bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ CG đã dũng cảm chiến đấu
hy sinh vì Tổ quốc, đánh dấu một thời kì khổ nhục nhưng vĩ đại của dân tộc. Bài văn có sự kết hợp nhuần nhuyễn chất
trữ tình và tính hiện thực; ngôn ngữ bình dị, trong sáng, sinh động xứng đáng là một thành tựu nghệ thuật xuất sắc của
văn chương trung đại. 
Xuất dương lưu biệt

Sinh vi nam tử yếu hi kỳ


Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di
Ư bách niên trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si
Nguyện trục trường phong đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi

Bài thơ Xuất dương lưu biệt được sáng tác năm 1905, khi Phan Bội Châu  từ biệt các bạn đồng chí lên đường tìm đường
cứu nước.Tác phẩm là tiếng nói hăm hở của một trang nam nhi quyết tâm hoàn thành sự nghiệp phục quốc.
 Làm trai phải lạ ở trên đời – Há để càn khôn tự chuyển dời – Trong khoảng trăm năm cần có tớ - Sau này muôn thuở há
không ai (Tôn Quang Phiệt dịch). 
Làm trai “tam thập nhi lập”, hẳn một người đã từng đậu Giải nguyên năm Canh Tý (1900) như Phan Bội Châu không
phải vướng bận băn khoăn về ý nghĩa làm trai như Giải nguyên Nguyễn Công Trứ thuở xưa, mặc dù cách nói cũng cùng
một kiểu: “Thông minh nhất nam tử - Yếu vi thiên hạ kỳ” (Chí nam nhi). Ông Giải San lúc ấy thừa điều kiện để đi theo
con đường tiền nhân, nhưng cuối Phan Bội Châu lại theo một ngã rẽ khác hẳn. Chữ “kỳ” của Nguyễn Công Trứ bó hẹp
trong “bút trận” – thi cử đỗ đạt làm quan, phụng sự vô điều kiện cho triều đình phong kiến, còn Phan Bội Châu  khẳng
định một cách đầy tự hào về ý thức cá nhân mạnh mẽ của mình.
Điều cốt tủy trong suy nghĩ, tình cảm của nhà thơ gửi cả vào phần hậu giải, là bức thông điệp mà Phan Bội Châu gửi gắm
lại bạn bè trước giờ lưu biệt:
Non sông đã chết, sống thêm nhục - Hiền thánh còn đâu học cũng hoài - Muốn vượt biển Đông theo cánh gió – Muôn
trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
. Đúng ra, với đề tài “lưu biệt”, trong thơ xưa vốn dĩ hay nói về cảm xúc bịn rịn lưu luyến hay nỗi hận sầu của người trai
“chí chưa thành, danh chưa đạt”. Vậy mà Phan Bội Châu đã dành hai câu luận để nói về thời thế một cách sâu sắc: ông
đạt sự sống chết, vinh - nhục của một đời trai trong mối liên hệ với vận nước, bằng tất cả nỗi đớn đau của người dân mất
nước. Phan Bội Châu không hề có một chút e dè khi ông phê phán gay gắt cả một nền học cũ đã lỗi thời bằng thái độ
đoạn tuyệt dứt khoát. Nước mất – dân ngu, đó chính là lời kết tội của ông với cả chế độ phong kiến và giáo lý Khổng -
Mạnh đã mục ruỗng. Chính sự bảo thủ ấy đã tiếp tay cho kẻ thù đặt ách thống trị lên đất nước. Phan Bội Châu đã xác
định con đường khác với một Nguyễn Công Trứ bi quan yếm thế khi nếm trải “Vào trường danh lợi vinh liền nhục” để
rồi ao ước “làm cây thông đứng giữa trời mà reo”; khác với một Tú Xương từng nguyền rủa chế độ thi cử và “Sĩ khí rụt
rè gà phải cáo – Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi” mà vẫn lận đận lều chõng mong được chen chân vào rồi cay cú “Tám
khoa không khỏi phạm trường qui”. Hai câu kết hào hùng hiện rõ tư thế bậc đại trượng phu dám phá bung cả khuôn khổ
lề thói cũ, đem đến một quan niệm làm trai mới mẻ:
Nguyện trục trường phong đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi
Con người nhà thơ hiện ra giữa không gian vũ trụ mới hào hùng, phóng khoáng làm sao! Cái hào sảng của trường phong
- trận gió dài, cơn gió mạnh, cái mênh mông của đông hải - gắn với chí lớn con người muốn tát cạn biển đông đã dồn nén
vào một chữ “khứ” - gắn với hành trình ra đi ngùn ngụt hùng tâm tráng chí. Vang vọng trong câu thơ hào khí của bậc nữ
lưu Triệu Trinh Nương thuở nào: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, chém cá kình ở biển Đông, chứ không cúi đầu làm thê
thiếp kẻ khác”. Phan Sào Nam đã bộc lộ ý chí cứu nước qua hình tượng thật đẹp kết lại bài thơ: Ngàn con sóng bạc nhất
tề cùng bay lên, cả đất trời như đã hoà theo quyết tâm cứu nước của người anh hùng. Con đường của Phan Bội Châu là
con đường hành động, thái độ của Phan Bội Châu là thái độ không cam chịu chờ thời. Không một chút do dự băn khoăn,
bài thơ là dự báo về những việc kinh thiên động địa trong tương lai của người anh hùng khiến cho thực dân Pháp và bọn
bán nước phải run sợ kinh hoàng. Bài thơ thổi một luồng sinh khí vào văn chương thời đại, mở ra những trang đầy hào
khí của văn thơ yêu nước đầu thế kỷ, tiếp nối tinh thần bất khuất của dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập của thế
kỷ trước, có giá trị động viên bao thế hệ yêu nước nối tiếp người chiến sĩ Phan Bội Châu.
Bước ngoặt cuộc đời nhân vật Mị*
Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) là tác phẩm xuất sắc của văn xuôi kháng chiến chống Pháp, tạo xúc động cho người đọc
người xem về số phận của Mị - cô con dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra. Truyện ngắn này tiềm ẩn những yếu tố điện ảnh,
giàu giá trị tạo hình và tinh tế trong sử dụng ngôn ngữ tạo dựng không gian truyện. Nét đặc sắc của truyện không chỉ tập
trung trong không gian mùa xuân Hồng Ngài, nhà văn đã tập trung vào tiếng sáo như phản chiếu sức sống tiềm tàng của
nhân vật Mị, mà còn thể hiện đặc sắc trong đêm cắt dây trói cứu A Phủ . Bảy đoạn văn đặc tả không gian tương phản
sáng – tối thể hiện sâu sắc bước ngoặt cuộc đời Mị.
Mở ra là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Bóng đêm dày đặc ấy là ám ảnh cuộc đời đầy bóng tối
của Mị. Nỗi buồn thân phận còn hiện hình khi A Phủ đang bị trói đứng chờ chết ở cái cọc oan khiên anh đã tự đóng
xuống để ràng buộc cuộc đời con ở gạt nợ. Dẫu cho hàng đêm Mị ra ngồi sưởi lửa thì cũng không thể xua tan đi giá rét đã
đóng băng trong tâm hồn cô.
Ngọn lửa sưởi bùng lên cũng là lúc A Phủ lại mở mắt thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác
chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Ngôn ngữ lột tả tột cùng hình ảnh
một người vô cảm, hành động theo thói quen. Trong nỗi đau của mình, Mị không để ý đến nghịch cảnh của người khác,
vả lại những cảnh này đã quá quen thuộc ở nhà thống lý. Lửa sáng mà lòng tối! Cho đến cái đêm quyết định ...
Ngọn lửa bập bùng sáng lên cũng là lúc Mị nhận ra dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A
Phủ – nỗi uất ức của một người sắp chết trong tuyệt vọng. Đó là lúc Mị nhớ lại cảnh mình từng bị trói, đến người đàn bà
bị trói đến chết ở cái nhà này. Cùng ký ức là nhận thức chúng nó thật độc ác. Nhưng suy nghĩ ấy mới chỉ là dấu hiệu của
lòng thương cảm mà chưa hất bỏ được cái bóng ám ảnh con ma nhà thống lý – định mệnh sẽ trói buộc Mị đến chết. Lửa
bập bùng soi những ý nghĩ phảng phất của Mị.
Rồi đám than đã vạc hẳn lửa, cũng là thời khắc Mị nhớ lại đời mình. Ngọn lửa sức sống tiềm tàng như than hồng trong
tro đã giúp cô vượt lên nỗi sợ hãi, hình thành ý định giải cứu A Phủ – dẫu phải trói thay, chết trên cái cọc ấy, làm sao Mị
cũng không thấy sợ. Theo lôgic tư duy ấy, tất yếu sẽ phải là trong nhà đã tối bưng, cùng lúc Mị cắt dây trói cứu A Phủ.
Hành động ấy như hệ quả tất yếu của tình thương, sự bừng sáng của nhận thức, đồng cảm. Nhưng kết thúc hành động ấy,
Mị chưa cắt sợi dây trói vô hình buộc chặt đời mình với nhà thống lý (như nhiều bài viết tham khảo kết luận vội vàng!).
Nhà văn hạ xuống đoạn một câu diễn tả khoảnh khắc sau phút hốt hoảng của Mị: Mị đứng lặng trong bóng tối.
Tiếp liền đó, ông đảo trật tự câu tả ở đoạn sau: Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Đây mới là
thời điểm Mị thật sự cắt sợi-dây-trói-vô-hình, tự giải thoát khỏi cảnh nô lệ. Hành động ấy là ánh sáng vượt qua bóng tối
dày đặc của không gian, khẳng định khát vọng sống, khát vọng tự do mãnh liệt của nhân vật. Một trường đoạn dụng công
nghệ thuật của Tô Hoài đã làm rõ sự thức tỉnh và gặp gỡ của những con người đau khổ, vượt lên bóng tối đời mình.
------------------------------------------------------------ TRẦN HÀ NAM
* VỢ CHỒNG A PHỦ – trích đoạn phần 1 – giảng dạy trong chương trình Văn học lớp 12.
TUYÊN NGÔN CỦA NAM CAO TRONG ĐỜI THỪA *
Đời Thừa là tác phẩm gắn với những trăn trở của Nam Cao - cây bút hiện thực luôn đấu tranh vượt lên chính mình. Cốt
truyện xoay quanh những xung đột nội tâm của nhà văn Hộ – một người luôn ý thức tình trạng “sống thừa” trong sự
nghiệp văn chương và trong đời sống gia đình.
Đề tài người trí thức nghèo trong xã hội cũ ở các tác phẩm của Nam Cao luôn đặt trong cái nhìn đầy suy tư về thiên chức
nghệ sĩ, về xung đột giữa cái đẹp với đời thường cơm áo gạo tiền. Suy cho cùng, những vấn đề của tác phẩm đã vượt qua
ý nghĩa phê phán xã hội thông thường mà đã hướng tới một ám ảnh dường như trở thành định mệnh với người nghệ sĩ:
cái nghèo và sáng tạo nghệ thuật. Nhân vật Hộ đã chia sẻ cảm xúc ấy với Từ – vợ anh: “… tôi mê văn quá nên mới khổ.
Ấy thế, mà tuy khổ thì khổ thật nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã
đổi” Cái khổ – hiểu theo cách của người nghệ sĩ sáng tạo, không nằm ở những giá trị vật chất (“hắn khinh những lo lắng
tủn mủn về vật chất” và “ Đói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lí tưởng”). Điều Nam Cao muốn nhấn
mạnh trong Đời Thừa chính là chỗ đứng của người nghệ sĩ giữa cuộc đời. Nghệ sĩ cũng là con người, với những nhu cầu
vật chất thiết thân và những mối quan hệ ràng buộc : gia đình, xã hội. Khi Hộ phải điên người lên xoay tiền nuôi vợ con,
Nam Cao đã để cho nhân vật nghĩ đến một giải pháp thoả hiệp : “Ta đành phí đi một vài năm để kiếm tiền. Khi Từ đã có
một số vốn con để làm ăn” Nhưng trong sáng tạo, thoả hiệp đồng nghĩa với đánh mất mình, và Hộ đã phải trả giá khi đón
nhận những đứa-con-tinh-thần èo uột. Lời sỉ mắng Hộ dành cho chính mình thật thấm thía: “Sự cẩu thả trong bất cứ
nghề gì cũng là một sự bất lương rồ. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện!”. Suy nghĩ ấy đặt vào hoàn
cảnh hiện nay hẳn làm không ít người phải giật mình.
Xung đột gay gắt âm thầm của nhân vật đã bùng nổ thành đoạn cao trào khi Hộ gặp hai người bạn văn giữa lúc đang nghĩ
đến nghĩa vụ của một ông chủ gia đình tốt. Tột cùng của khát vọng chưa thành đã làm nên phát ngôn đầy hứng khởi khi
Hộ vì chuyện văn chương, quên hẳn vợ con,… đỏ tai, giộng một cái vỏ chai bia xuống mặt bàn khẳng định: “Một tác
phẩm thật giá trị phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn (…) làm cho người gần người hơn” và cụ thể hoá
một cách bốc đồng : “Cả một đời tôi, tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyển ấy sẽ ăn giải Nobel và dịch ra đủ mọi
thứ tiếng trên hoàn cầu!”. Đó là nhu cầu tự khẳng định chính đáng. Nhưng trớ trêu thay, nhân vật lại tự phủ định chính
mình ngay sau đó bằng hành động đánh đuổi vợ con ra khỏi nhà, chà đạp lên chính nguyên tắc tình thương của mình.
Nam Cao đã gửi vào Đời Thừa rất nhiều suy tư của người nghệ sĩ chân chính trước cuộc sống. Khi kết thúc tác phẩm
bằng giọt nước mắt ân hận của Hộ và vòng tay ôm chồng dịu dàng của Từ – khoảnh khắc “người gần người hơn”, phải
chăng nhà văn muốn đưa ra một cảnh tỉnh của cuộc sống với tâm hồn nghệ sĩ; đồng thời nhà văn cũng hướng về người
đọc, mong tìm thái độ bao dung cho những con người luôn phải đối mặt với bi kịch của khát vọng… Ý nghĩa Tuyên ngôn
nghệ thuật là thế chăng?
TRẦN HÀ NAM
*. Giảng dạy trong chương trình lớp 11
TẤM LÒNG LÃO HẠC (+)
“Lão Hạc” của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943. Câu chuyện về số phận thê thảm của người nông dân Việt Nam trong
bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc sống cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Đặc biệt, tác giả đã
diễn tả tập trung vào tâm trạng nhân vật chính – lão Hạc – xoay quanh việc bán chó đã giúp ta hiểu thêm tấm lòng của
một người cha đáng thương, một con người có nhân cách đáng quý và một sự thực phũ phàng phủ chụp lên những cuộc
đời lương thiện.
Con chó – cậu Vàng như cách gọi của lão là hình ảnh kỷ niệm duy nhất của đứa con. Hơn thế, cậu Vàng còn là nguồn an
ủi của một ông lão cô đơn. Lão cho cậu ăn trong bát, chia xẻ thức ăn, chăm sóc, trò chuyện với cậu như với một con
người. Bởi thế, cái ý định “có lẽ tôi bán con chó đấy” của lão bao lần chần chừ không thực hiện được. Nhưng rồi, cuối
cùng cậu Vàng cũng đã được bán đi với giá năm đồng bạc.
Cậu Vàng bị bán đi! Có lẽ đó là quyết định khó khăn nhất đời của lão. Năm đồng bạc Đông Dương kể ra là một món tiền
to, nhất là giữa buổi đói deo đói dắt. Nhưng lão bán cậu không phải vì tiền, bởi “gạo thì cứ kém mãi đi” mà một ngày lo
“ba hào gạo” thì lão không đủ sức. Cậu Vàng trở thành gánh nặng, nhưng bán cậu rồi lão lại đau khổ dày vò chính mình
trong tâm trạng nặng trĩu.
Khoảnh khắc “lão cố làm ra vui vẻ” cũng không giấu được khuôn mặt “cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”. Nỗi
đau đớn cố kìm nén của lão Hạc như cắt nghĩa cho việc làm bất đắc dĩ, khiến ông giáo là người được báo tin cũng không
tránh khỏi cảm giác ái ngại cho lão. O ng giáo hiểu được tâm trạng của một con người phải bán đi con vật bầu bạn trung
thành của mình. Cảm giác ân hận theo đuổi dày vò lão tạo nên đột biến trên gương mặt: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại.
Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão
mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Những suy nghĩ của một ông lão suốt đời sống lương thiện có thể làm người đọc
phải chảy nước mắt theo: “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”. Bản chất của một con người
lương thiện, tính cách của một người nông dân nghèo khổ mà nhân hậu, tình nghĩa, trung thực và giàu lòng vị tha được
bộc lộ đầy đủ trong đoạn văn đầy nước mắt này. Nhưng không chỉ có vậy, lão Hạc còn trải qua những cảm giác chua chát
tủi cực của một kiếp người, ý thức về thân phận của một ông lão nghèo khổ, cô đơn cũng từ liên tưởng giữa kiếp người –
kiếp chó: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút…
kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn”. Suy cho cùng, việc bán chó cũng xuất phát từ tấm lòng của một người cha thương
con và luôn lo lắng cho hạnh phúc, tương lai của con. Tấm lòng ấy đáng được trân trọng! Hiện thực thật nghiệt ngã đã
dứt đứa con ra khỏi vòng tay của lão, cái đói cái nghèo lại tiếp tục cướp đi của lão người bạn cậu Vàng. Bản thân lão như
bị dứt đi từng mảng sự sống sau những biến cố, dù cho cố “cười gượng” một cách khó khăn nhưng lão dường như đã
nhìn thấy trước cái chết của chính mình. Những lời gửi gắm và món tiền trao cho ông giáo giữ hộ sau lúc bán chó có ngờ
đâu cũng là những lời trăng trối. Kết cục số phận của lão Hạc là cái chết được báo trước nhưng vẫn khiến mọi người bất
ngờ, thương cảm. Quyết định dữ dội tìm đến cái chết bằng bả chó là giải pháp duy nhất đối với lão Hạc, để lão đứng
vững trên bờ lương thiện trước vực sâu tha hoá. Kết thúc bi kịch cũng là thật sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão
Hạc, nhưng để lại bao suy ngẫm về số phận những con người nghèo khổ lương thiện trong xã hội cũ.
TRẦN HÀ NAM
+ SGK NGỮ VĂN 8 – CHƯƠNG TRÌNH CCGD
Lòng nhân ái của Thạch Lam qua truyện ngắn “Hai đứa trẻ”
(Trần Hà Nam – GV Văn Lê Quý Đôn- Bình Định)
1. Thạch Lam (1910 – 1942) là cây bút có tài nhất trong Tự lực Văn đoàn. Hàng loạt những truyện ngắn của ông ghi dấu
ấn của một  tấm lòng nhân ái , như làn gió đầu mùa se lạnh, thấm đẫm niềm cảm thông trước những số phận bất hạnh,
những cuộc đời chìm trong bóng tối. Thấp thoáng trong những câu chuyện của ông bóng hình kỷ niệm của những ngày
tháng đã hằn sâu trong ký ức tuổi thơ Thạch Lam. Hai đứa trẻ, tác phẩm thấm đượm tình người, như minh chứng tiêu
biểu cho một tấm lòng nhân ái.
2. Có người đã nhận xét, mỗi truyện ngắn Thạch Lam như một bài thơ trữ tình. Thế Lữ, một người bạn của ông đã nhận
xét: “Sự thực của tâm hồn mà Thạch Lam diễn trong lời của văn chương phức tạp nhiều hình nhiều vẻ, nhưng bao giờ
cũng đằm  thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương”. Tình thương với con người
trong Hai đứa trẻ hình thành trên nền không gian phố huyện nghèo đầy bóng tối, với những cuộc đời lầm lụi, vất vả mưu
sinh: mẹ con chị Tý, bác phở Siêu, gia đình bác Xẩm. Nhưng những nhân vật được ông dành cho “chút lệ thầm kín”, yêu
thương chân thành nhất có lẽ là hai chị em Liên và An. Bởi hai đứa trẻ chính là một mảng đời nghèo túng của hai chị em
Thạch Lam tại phố huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). Thế giới phố huyện hiện ra qua góc nhìn trẻ thơ chứa đựng những bí
mật mơ hồ. Hơn ai hết, Thạch Lam hiểu rõ tâm trạng của những em bé không có tuổi thơ khắc khỏai, đau đớn  thế nào,
bởi đó chính là những gì nhà văn đã từng trải nghiệm. Tất thảy những gì nhà văn đem đến trong câu chuyện không có cốt
truyện này: không gian đìu hiu phố huyện, thời gian đi dần vào đêm khuya, đến những khỏanh khắc sống của Liên và An
chờ đợi chuyến tàu cuối cùng băng qua phố huyện… mang ý nghĩa thông điệp của một tấm lòng chân thành : đừng bao
giờ lãng quên những cuộc đời trong bóng tối! Và chính ông là người đã khơi dậy những nguồn sáng lạ kỳ để mỗi người
đọc chúng ta  thấm thía vẻ đẹp bình dị và sâu sắc của con người.
3. Thạch Lam là người ý thức rõ hơn hết về thiên chức của người cầm bút chân chính trong lời tựa  Gió đầu mùa : “Văn
chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên. Mà trái lại văn chương là một thứ  khí giới
đắc lực và thanh cao mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác; vừa làm cho lòng người
được thêm trong sạch và phong phú hơn lên". Quan niệm ấy đã thể hiện trên từng trang văn, từng dòng cảm xúc ở Hai
đứa trẻ, làm nên phẩm chất hàng đầu ở văn Thạch Lam, làm người đọc được sống cùng thế giới của lòng nhân ái. Tấm
lòng ấy giúp ông tạo dựng được không khí thắm đượm tình người, đi sâu khai phá những vẻ đẹp rất người và nói lên
những tâm tình khát vọng con người. Người đọc có dịp thẩm thấu những nét đời thường một cách tinh tế mà nếu vô tình
chúng ta rất dễ bỏ qua, trong một câu chuyện đan xen những yếu tố hiện thực – thi vị trữ tình, với những ấn tượng và cảm
giác không thể phai mờ về cuộc sống và con người phố huyện.
4. Đó là cuộc sống đã được nhà văn tái hiện bằng tất cả những ấn tượng đậm nét nhất của một thời dĩ vãng. Không gian
được dựng lên bằng hồi tưởng giúp ta suy tưởng sâu sắc hơn về cuộc sống của con người trong những hòan cảnh đầy ám
ảnh bóng tối phủ chụp lên cuộc đời. Mỗi một chi tiết của phố huyện như khơi dậy bao nỗi niềm con người. Từ một nhịp
sống chậm chạp, nặng nề, rời rạc mở đầu với “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ từng tiếng một vang ra
để gọi buổi chiều”, một cảm giác lắng buồn cứ tăng dần cùng âm thanh “ếch nhái” đến “tiếng muỗi vo ve”. Sự yên tĩnh
không đem lại cảm giác êm ả cho lòng người mà tiếp liền đó là những hình ảnh hiện lên qua ánh nhìn của cô bé Liên,
một đôi mắt đầy bóng tối. “Cái giờ khắc của ngày tàn” cũng mở ra những cuộc đời tàn héo.
5. Những cuộc đời ấy thấp thoáng trong quang cảnh chợ vãn: “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào
cũng mất”, “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa,
thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Những nét phác hoạ đơn sơ ấy làm tăng nét
hiện thực điển hình của phố huyện. Những chi tiết ấy không chỉ chứng tỏ năng lực quan sát  tinh tường của nhà văn mà
còn cắt nghĩa cụ thể cho độ nhạy cảm của một tâm hồn không bỏ qua bất cứ một biểu hiện nhỏ nhặt bình thường của
cuộc sống để từ đó khơi ln những liên tưởng về thân phận con người. Để rồi, ông hướng sự quan tâm của người đọc về
những số phận cụ thể: mẹ con chị Tý ngày đi mò cua bắt tép, tối dọn hàng nước, chiều nào cũng thế, theo một chu kỳ đều
đặn “từ chập tối cho đến đêm”, một bà cụ Thy nửa điên nửa tỉnh thoáng hiện nhưng khó quên, một gánh phở bác Siêu với
chấm lửa nhỏ và vàng hiện lên từ đêm tối, một gia đình bác Xẩm… những con nguời ấy đã tô đậm cuộc sống phố huyện
về đêm, hoà cùng gian hàng tạp hoá của chị em Liên và An.
6. Cuộc sống ấy chìm trong bóng tối, ảm đạm và buồn tẻ. Ánh sáng cứ bị lấn át dần. Thạch Lam đã xây dựng bức tranh
phố huyện bằng thủ pháp đối lập ánh sáng và bóng tối rất quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn. Nhưng ngôn ngữ giàu sức
gợi của nhà văn đã đem đến ý nghĩa hiện thực đậm nét cho tác phẩm. Ánh sáng và Bóng tối không phải là những ý niệm
tượng trưng trong văn Thạch Lam mà hiện hình cụ thể trong từng khung cảnh , từng mảnh đời, ẩn chứa những xung đột
ngấm ngầm của cuộc sống tưởng như bình lặng. Viết về bóng tối, nhưng thực chất nhà văn muốn hướng người đọc về
ánh sáng. Ông dùng ánh sáng để soi tỏ từng bí ẩn của tâm hồn con người. Ấn tượng về bóng tối, ánh sáng gắn với cảm
nhận của một cô bé Liên – bóng dáng người chị thân yêu của chính tác giả, dẫn dắt người đọc khám phá những góc khuất
của tâm hồn con người phong phú và sâu sắc. Thông qua đó, nhà văn cũng nói lên đầy đủ sự thông cảm thương yêu đối
với con người bé nhỏ.
BỨC TỨ BÌNH TRONG VIỆT BẮC
Việt Bắc của Tố Hữu (10.1954) là trường ca tuyệt đẹp về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ đã đi
vào lòng người bằng giọng điệu ân tình chung thủy, khắc hoạ sâu sắc nỗi niềm của những người con rời “thủ đô kháng
chiến”, hoà quyện tình cảm dân tộc và cách mạng.
Ta về mình có nhớ ta...
Nỗi nhớ là cảm xúc chủ đạo của toàn bài thơ, gắn với « ta – mình » là miền ký ức của người đi : Ta về ta nhớ những hoa
cùng người. Sự nối tiếp, đan xen hoa – người là mạch cảm xúc của đạon thơ đặc sắc này.
Tố Hữu gói trọn bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông trong những sắc màu hài hoà nhất. Tácgiả chọn những thời điểm nên
thơ, tao ấn tượng không phai :
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Nét son của bức tranh này là màu đỏ tươi của hoa chuối, điểm vào không gian xanh bao la. Người đọc có thể nhớ đến thơ
Nguyễn Trãi :
Hoè lục đùn đùn tán rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ...
Mùa đông trong câu thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè, không lạnh lẽo, bởi sắc đỏ hoa chuối cũng như phun
trào từ giữa màu xanh của rừng.
Bên cạnh sắc hoa là nét đẹp của người thật khoẻ khoắn : « Nắng ánh dao gài thắt lưng » là hình ảnh người Việt Bắc. Con
người nơi « đèo cao », càng nổi bật trong ánh nắng, thành một điểm sáng giữa mùa đông, mang nét kiêu hãnh của núi
rừng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Sức sống mùa xuân lan toả. Giữa nền trắng hoa mơ, nổi bật hình ảnh « người đan nón ». Người Việt Bắc hiện lên ở nét
đẹp cần mẫn, chịu thương chịu khó. Không một âm vang, nhưng vẻ đẹp của mùa xuân vẫn sinh động nhờ hoạt động của
con người. Sợi nhớ, sợi thương đan dày trong tâm tưởng, con người đẹp tự nhiên trong những công việc tỉ mẩn hàng
ngày.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Không gian nỗi nhớ đọng lại hình ảnh ngọt ngào thân thương nhất của « cô em gái hái măng ». Aán tượng màu vàng đẹp
như bức vẽ tả thực vừa làm xao xuyến lòng người rong tiếng ve dóng dả gọi hè, gọi cả màu vàng đất trời về phủ kín cánh
rừng. Câu thơ gợi nhớ vẻ đẹp của một « cô hái mơ » trong thơ Nguyễn Bính. Nhưng ở đây cô gái Việt Bắc mang vẻ đẹp
khoẻ khoắn mộc mạc hơn.
Rừng thu trăng dọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Không gian về đêm hoàn chỉnh vẻ tuyệt mỹ của núi rừng. Đêm thu và ánh trăng như lan toả vào màu xanh núi rừng. Nỗi
nhớ cũng mênh mang như ánh trăng, ngọt ngào « tiếng hát ân tình thủy chung ». Tình người bâng khuâng gợi cảm xúc
đồng điệu kẻ ở – người đi.
Mỗi mùa mang một nét riêng và bốn mùa hoà chung màu sắc đa dạng, đọng lại những khoảnh khắc đáng nhớ, khi trái tim
nhà thơ bắt nhịp cùng không gian – cảnh vật. Đó là tình yêu đích thực, rung động chân thành của nhà thơ. Cũng là tấm
lòng của những người con cách mạng với Việt Bắc.
TRƯƠNG YẾN THANH
.------------------------------------------------------------------------------------------
Địa chỉ : TRẦN HÀ NAM, trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Bình Định
NHỮNG CHÂN DUNG BIẾM HOẠ
(“HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA” của Vũ Trọng Phụng)
Nhà văn Thanh Thảo từng cho rằng tác phẩm “Số Đỏ” của Vũ Trọng Phụng có thể làm cho ta giật mình vì có thể tồn tại
trong ta một “Xuân tóc xám, Xuân tóc trắng”. Bởi thế, tác phẩm ra đời đến nay đã gần bảy mươi năm nhưng xứng đáng
được xem “là cuốn tiểu thuyết có thể làm vinh dự cho văn học mọi thời đại” (Nguyễn Khải). Trong chương trình THPT,
trích chương XIV - Hạnh phúc của một tang gia, phần nào giúp ta cảm nhận rõ những chân dung khó quên của xã hội
thượng lưu tư sản.
Xoay quanh cái chết của cụ cố Tổ, bộ mặt đám con cháu đại bất hiếu được nhà văn dựng lên với tất cả sự sắc sảo
của “ông vua phóng sự đất Bắc”. Màn bi hài kịch bắt đầu ngay từ cách chữa bệnh cho chết với sự huy động hùng hậu của
lang băm đông lang băm tây và cả thuốc Thánh đền Bia “công hiệu đến nỗi làm cho người ta mất mạng”. Một cái chết
được báo trước vì đó là thời điểm của một đám con cháu đua nhau hưởng lợi. Nhìn từ một góc khác, đó là dịp công nghệ
lăng xê phát huy hết công suất khi tang lễ là nơi khoe mốt “áo tang tân thời” của ông Typhn, tài chụp ảnh của cậu Tú
Tân, huân huy chương và … râu của đám bạn cụ cố Hồng và ông Văn Minh – con trai và cháu nội cụ Tổ. Những khuôn
mặt cũng biểu cảm theo mốt: cụ cố Hồng “nhắm nghiền mắt mơ màng” , ông Văn Minh “đăm đăm chiêu chiêu”, cô
Tuyết vì vắng bạn giai mà “buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám”. Không khí đám tang là cao trào của sự bát
nháo “Tây, Tàu, Ta đủ cả”… mà với những câu văn tác giả nhắc nhở “Đám cứ đi” để người đọc khỏi nhầm mà người ta
cứ ngỡ đám ma là đám hội! Sự giả dối đến ghê tởm hiện hình ra từng câu văn đặc tả chân dung cận cảnh, trung cảnh và
toàn cảnh: sau vẻ sang trọng của quan khách, người ta thấy bóng đáng đàn dê cụ với cặp mắt hau háu nhìn làn da trắng
của cô Tuyết mà “cảm động hơn cả khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán não nùng”; sau những “giai thanh gái lịch” tranh
thủ “chim nhau” là âm thanh “vui vẻ ý nhị rất xứng đáng với tư cách của những người đưa đám”. Nhưng trâng tráo nhất
là ông phán mọc sừng – kẻ gây ra cái chết của cụ cố Tổ: hắn hãnh diện với nỗi nhục mọc sừng đã đem lại món lợi vài
nghìn bạc, đến lúc hạ huyệt lại đóng màn kịch với tiếng khóc bất hủ “Hứt! Hứt! Hứt” và dáng lả oặt cùng lúc tuồn “tờ
giấy bạc 5 đồng gấp tư” để thanh lý hợp đồng với thằng Xuân tóc đỏ thật sòng phẳng. Tác giả đã ném vào trong tiếng
cười toàn bộ sự khinh bỉ, ghê tởm của mình với toàn bộ “xã hội chó đểu” ấy.
Những chân dung ấy được phác lên để nhà văn lý giải cách thằng Xuân tóc đỏ ‘ma cà bông, hạ lưu, nhặt ban
quần” đuờng hoàng bước chân vào xã hội thượng lưu dâm và đểu ấy là hợp lý. Vì bản chất thật của nó phù hợp với bọn
người đạo đức giả kia. Đó cũng là lời cảnh tỉnh của nhà văn về bọn người chỉ biết theo đuổi dục vọng xấu xa, đồng tiền
nhơ bẩn.
TRẦN HÀ NAM
Ý thức cộng đồng và số phận cá nhân 
(nhìn lại bi kịch của Chí Phèo)  - Nguyễn thị Từ Huy

Sinh 1972, trong ban giảng huấn khoa ngữ văn của trường đại học sư phạm Hà Nội, cùng với Nguyễn Thanh Sơn,
Nguyễn Thị Từ Huy thuộc thế hệ phê bình trẻ của Việt Nam hôm nay. (L.T.S).Nguyễn Thị Từ Huy học chuyên Văn PBC
khoa 1987-1989.

Trước hết, cần xuất phát từ việc nhìn lại cấu trúc thời gian và kết cấu của truyện ngắn này.
Tác phẩm mở đầu bằng cái buổi chiều Chí Phèo uống say và lên cơn chửi. Buổi chiều đó kéo dài qua những đoạn hồi cố
nhằm dựng lại cuộc đời Chí, trượt xuống thành buổi tối khi cái bóng xệch xạc dưới trăng làm hắn quên ý định báo thù,
nảy sinh từ sự vô vọng của tiếng chửi, và rẽ vào nhà Tự Lãng. Sau cuộc rượu với kẻ tri kỷ cuồng, đêm đó hắn gặp kẻ tri
âm của đời mình: Thị Nở. Sáng hôm sau hắn tỉnh, không chỉ là tỉnh khỏi giấc ngủ đêm hôm trước, mà tỉnh khỏi cơn say
mênh mông suốt đời hắn, tỉnh khỏi kiếp sống sinh vật, kiếp quỷ dữ. Hắn buồn và hồi tưởng lại những mơ ước thuở xa
xưa. Hắn ốm, bát cháo hành của Thị Nở mang lại cho hắn sinh lực, hạnh phúc và hy vọng về tương lai. Hắn tìm thấy lại ý
nghĩa của cuộc đời, muốn làm hoà với mọi người. Thời điểm đó, vào cái buổi sáng hôm đó, hắn hoàn toàn không còn là
Chí Phèo trước đây nữa. Hắn đã là một ý thức đầy đủ về giá trị và thân phận của mình. Và năm ngày tiếp theo, quãng
thời gian sống trong tình yêu với Thị Nở, hắn đã làm một người lương thiện thực sự. Câu chuyện về Chí dừng lại ở cái
buổi trưa ngày thứ sáu, sau khi bị Thị Nở chối từ, Chí Phèo giết Bá Kiến và tự vẫn. Nhưng tác phẩm chỉ thực sự kết thúc
với những lời bàn tán xì xầm của làng Vũ Đại và thái độ của Thị Nở một ngày sau khi Chí chết.
Như vậy, Chí Phèo - con quỷ dữ và quá trình biến thành quỷ dữ đã thuộc về quá khứ, còn hiện tại của câu chuyện được
mở ra từ cái thời điểm khởi đầu cho sự hồi sinh của Chí, cũng là khởi đầu cho một kết thúc đau đớn sẽ đến kề ngay sau
đó.
Do vậy, quá trình lưu manh hoá người nông dân và trách nhiệm của cái nghèo trong việc huỷ hoại nhân cách họ sẽ dễ
dàng bị gạt sang một bên khi chúng ta bàn đến nhiệm vụ nghệ thuật cơ bản của tác phẩm. Còn lại, những vấn đề: bi kịch
của con người bị từ chối quyền làm người, bi kịch của con người với môi trường thiếu nhân tính, khát vọng đổi đời, khát
vọng hoàn lương, vấn đề quyền sống...tất cả có lẽ đều liên quan đến cái chết và câu hỏi của Chí: "Ai cho tao lương
thiện?"
Ai cho Chí Phèo làm người lương thiện? Câu hỏi này xưa nay vốn đã tưởng tìm thấy câu trả lời chính xác và dứt điểm ở
các thế lực là cơ chế xã hội, cường hào ác bá và định kiến xã hội. Thực ra câu trả lời không hoàn toàn đơn giản như vậy.
Tính chất phức tạp là ở chỗ câu hỏi đó đáng ra trước tiên Chí Phèo phải tự đặt ra cho mình chứ không phải cho Bá Kiến.
Chí Phèo không chỉ là bi kịch của con người bị từ chối quyền làm người, hơn thế còn là bi kịch của con người tự từ chối
quyền làm người. Anh ta phải chịu một phần trách nhiệm về cái chết của mình, một cái chết không hoàn toàn nâng cao
anh ta, mà ở một khía cạnh khác, còn cho thấy sự bất lực của anh ta.
Là một nghệ sĩ chân chính, Nam Cao đã nhìn thấy những nguy cơ ẩn giấu trong cái đặc tính vốn từng làm nên sức mạnh
của dân tộc: ý thức cộng đồng.
Thời đại Nam Cao, ý thức về con người cá nhân có điều kiện phát triển. Các nhà thơ mới công nhiên phô bày, khẳng định
cái tôi cá nhân. Văn học lãng mạn đòi giải phóng cá nhân bằng cách đưa ra những mẫu người có bản lĩnh, dám đối lập
với toàn bộ xã hội, dám bảo vệ cá tính riêng, chấp nhận đơn độc trong những lựa chọn của mình. Nam Cao lặng lẽ ủng hộ
cuộc đấu tranh đó bằng một cách khác, bằng cách chỉ ra rằng: nếu quá lệ thuộc vào cộng đồng, con người sẽ tự thủ tiêu
mình; và nếu cộng đồng cho phép mình can thiệp quá sâu vào đời sống của mỗi cá nhân, nó sẽ huỷ diệt cá nhân đó.
Chí Phèo thực chất là bi kịch về sự yếu đuối của cá nhân trước sức mạnh của ý thức cộng đồng. Ý thức này vừa là áp lực
bên ngoài vừa là một phần trong thẳm sâu con người Chí, nó khiến Chí bị khuất phục trước cuộc sống.
1. Từ nỗi sợ cô đơn....
Ngay đoạn mở đầu truyện, Nam Cao đã triệt để bóc trần cái đời bị loại trừ một cách tuyệt đối của Chí Phèo, thân phận bị
bỏ rơi, quan hệ giữa hắn với cộng đồng, nỗi khốn khổ, sự cô độc mà hắn phải gánh chịu. Tiếng chửi xác định thế đối lập
của hắn với toàn bộ xã hội, toàn bộ nhân thế và toàn bộ vũ trụ. Sự thu hẹp dần phạm vi đối tượng chửi (hắn chửi trời,
chửi đời, chửi tất cả làng Vũ Đại, chửi những đứa nào không chửi nhau với hắn, và cuối cùng chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra
thân hắn) bộc lộ tình thế bi đát của một cá nhân bị cô lập. Bị chính những người đẻ ra bỏ rơi, Chí Phèo chỉ còn mối liên
hệ duy nhất với cộng đồng làng Vũ Đại, chính cộng đồng đó đã cho hắn cơ hội trưởng thành, dù là với thân phận đi ở.
Nhưng sau khi ở tù về, mối liên hệ ấy đã hoàn toàn bị cắt đứt. Quan hệ của Chí với cộng đồng, từ đó được thiết lập trên
sự đe doạ, cướp giật, hắn dùng sức mạnh để áp chế, cưỡng bức cộng đồng phải chịu hắn. Và Chí Phèo, mặc dầu trong
cơn say triền miên vô tận, không ý thức được những việc mình làm ("hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập
nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc...Hắn đâu biết vì hắn làm tất cả những việc ấy trong khi người
hắn say") (tr.38) vẫn không thể chấp nhận được tình trạng bị bỏ rơi, hắn vẫn muốn được là thành viên của cộng đồng, ý
thức ấy đã ăn sâu vào máu hắn.
Trong nỗi sợ cô đơn, hắn tìm cách xác lập lại mối liên hệ đã bị cắt đứt bằng những phương thức giao tiếp tuyệt vọng: la
làng, ăn vạ, chửi.
La làng là một phản ứng quen thuộc khi một người gặp nguy hiểm, cần sự trợ giúp của cộng đồng. Khi ăn vạ, người ta
cũng la làng để tìm sự ủng hộ ngầm và để làm mất mặt người bị ăn vạ (người ta chỉ mất mặt khi nhược điểm của mình bị
bóc trần trước mắt những người khác, từ quan niệm này nảy sinh thói sĩ diện hão, tin rằng những đánh giá của cộng đồng
làm nên nhân cách của mình) nhằm dễ dàng phạt vạ người đó. Chí Phèo kêu làng không phải để tìm sự trợ giúp mà tìm
sự đồng loã. Hắn cần được chứng kiến, cần được thể hiện sự tồn tại của mình trước mọi người. Đó là điều mà Thị Nở đã
không hiểu được khi hắn vừa dằn thị xuống vừa kêu làng. Trong vô thức hắn sợ cô đơn đến mức, ngay cả trong hành
động riêng tư nhất có thể hắn cũng muốn có sự chứng kiến của người khác. Chi tiết này của Nam Cao cho phép liên
tưởng đến Kafka. Ở phương Tây, những năm hai mươi, trong thế giới của Kafka, cô đơn là "giá trị quý báu nhất đang bị
nghiền nát bởi cái áp đảo hiện diện ở khắp nơi"1. Nguy cơ của con người là ở chỗ cái riêng tư không còn được bảo vệ khi
anh chàng K. lúc nào cũng bị hai phái viên của lâu đài cặp kè, cả trong lúc ngủ với vợ. "Sự cô đơn bị cưỡng hiếp" 2 làm
nên sức ám ảnh cho tác phẩm của Kafka. Sau đó hai thập kỷ, ở Việt Nam, trong thế giới Nam Cao, cô đơn là thứ đáng sợ
nhất đối với anh Chí làng Vũ Đại. Chí bám vào cộng đồng như bám vào một chiếc phao cứ lạnh lùng tuột khỏi tay Chí.
Dân làng thực ra đã tạo nên một sức mạnh hậu thuẫn cho hắn trong những lần đòi nợ Bá Kiến: "vả lại những người đứng
xem đã về cả rồi, hắn thấy hắn hình như trơ trọi. Cái sợ cố hữu trong lòng thức dậy, cái sợ xa xôi thủa ngày xưa...(tr.27)ï.
Con quỷ dữ của làng Vũ Đại đã phải lấy sức mạnh từ bên ngoài và từ sự mê hoặc của rượu.
Chửi là một hình thức gây hấn với người khác hoặc là một phương thức trả thù của kẻ yếu. Với Chí Phèo, chửi là để
mong có được sự hồi đáp từ phía cái cộng đồng mà hắn đã không còn có thể trò chuyện được nữa. Hắn chửi vì hắn sợ
phải im lặng và sợ sự im lặng của người khác. Giá hắn biết hát thì có lẽ hắn không cần chửi (tr.38). Hắn hẳn đã hy vọng
rằng bằng cách đó không cho phép người khác lảng tránh mình.
Tuy vậy những phương thức giao tiếp ấy đã bị lạm dụng đến mức chúng trở nên vô nghĩa đối với dân làng Vũ Đại.
Người ta không còn quan tâm đến những nỗ lực tuyệt vọng của Chí nữa. Bản thân hắn cũng không ý thức được tính chất
tuyệt vọng trong những hành động của mình, cho đến cái buổi chiều được Nam Cao chọn làm điểm khởi đầu cho câu
chuyện. Hắn đã thất bại hoàn toàn với "ângón" chửi. Quan trọng hơn, hắn cảm nhận được sự thất bại ấy. Với hắn đó là
một mối thù lớn. Mối thù bị loại bỏ. Và tất cả những ai không đếm xỉa đến hắn đều là kẻ thù của hắn, đều phải chịu trách
nhiệm về sự cô độc của hắn, nghĩa là tất cả mọi người. Do vậy mà hắn phải "âbáo thù vào bất cứ ai. Hắn phải vào nhà
nào mới được, bất cứ nhà nào. Hắn sẽ rẽ vào bất cứ ngõ nào hắn gặp để đập phá đốt nhà hay lăn ra kêu làng nước. Phải
đấy, hắn sẽ rẽ vào bất cứ cái ngõ nào hắn gặp...(tr.38)". Hắn không cần biết một nhà nào hay một người nào cụ thể.
Những hành động "âtrả thù" mà hắn toan tính thực ra đều nhằm mục đích gây chú ý cho mọi người. Thế nên khi nhìn
thấy cái bóng1 quần quật dưới chân mình, khi thấy mình không còn quá lẻ loi nữa, hắn đã lập tức quên ý định báo thù, bù
vào đó, hắn đã có một "cuộc nhậu đẹp" với kẻ "tri kỷ" Tự Lãng, một kẻ cũng đơn độc gần bằng hắn. Vì thế, khi Tự Lãng
đã say bò ra và hỏi: "người ta đứng lên bằng cái gì?" thì Chí Phèo vần ngửa lão ra, để mặc lão thế rồi lảo đảo ra về.
Những kẻ như lão chỉ có thể đứng lên với sự nâng đỡ của người khác. Mà Chí thì không thể nâng lão đứng dậy được vì
chính hắn còn thảm hại hơn lão, hắn cũng đang cần một người giúp đỡ. Người đó là Thị Nở. "Nhưng hắn đứng lên làm
sao được. Thị quàng tay vào nách hắn, đỡ cho hắn gượng ngồi. Rồi thị kéo hắn đứng lên. Hắn đu vào cổ thị, hai người lảo
đảo đi về lều" (tr.45)". Chí Phèo đã đứng lên như vậy. Rồi tiếp theo đó, hắn tỉnh.
Nỗi sợ cô đơn được Chí nhận thức một cách đầy đủ sau khi tỉnh. "Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn
thay cho đời! (...) Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng
sợ hơn đói rét và ốm đau"ï(tr.46). Có thể hiểu buổi chiều và buổi tối hôm Chí gặp Thị Nở (một cái mốc quan trọng trong
đời Chí, điều này không cần phải bàn cãi nữa!) là sự kết thúc cho giai đoạn quỷ dữ. Và buổi sáng hôm sau chính là điểm
khởi đầu của một giai đoạn mới- giai đoạn làm người. Biểu hiện đầu tiên của tính người trong Chí, đấy là nỗi buồn và
cảm giác cô độc. Nỗi buồn giúp hắn cảm nhận cuộc sống trong sự mới mẻ, hấp dẫn và gợi lại mơ ước xa xưa về một mái
ấm bé nhỏ. Cảm giác cô độc cho hắn hình dung trước những bất trắc đang chờ đón khi hắn đã ở cái dốc bên kia của đời.
Và hắn sợ.
Người nông dân Việt Nam ít có mặc cảm cô đơn, vì họ gắn bó khăng khít với họ hàng, tông tộc, bà con, xóm giềng, đất
nước, những cộng đồng lớn nhỏ xung quanh họ. Người Việt rất chú trọng đến sức mạnh của tình đoàn kết, tinh thần đùm
bọc cưu mang lẫn nhau. Họ không thích sự nổi trội đặc biệt của một cá nhân nào đó, vượt hơn hẳn so với những người
còn lại ( trừ phi cá nhân đó có một tầm vóc lớn hơn hẳn hoặc đã được thánh hoá). "Xấu đều còn hơn tốt lõi"ï. Họ muốn
hoà lẫn vào người khác. Hạnh phúc của họ chính là một cuộc sống ổn định hoà hợp với mọi người xung quanh. Bát cháo
hành của Thị Nở đối với Chí vô cùng thơm ngon vì nó giúp hắn cảm nhận một cách sâu sắc hương vị của sự chia sẻ, giúp
hắn hiểu thế nào là được người khác cho, được quan tâm chăm sóc. "Bởi vì lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho"
(tr.47). Cho chính là biểu hiện cao nhất của sự san sẻ, đùm bọc, điều mà Chí rất cần và rất thiếu.
Bát cháo hành Thị Nở trong cảm nhận của Chí không chỉ được xem như bằng chứng của tình yêu mà còn là dấu hiệu của
tình làng nghĩa xóm. Chí không dừng lại ở mơ ước về một gia đình êm ấm với Thị Nở. Hắn còn mơ đến việc tìm được
bạn, tìm được một chỗ trong cộng đồng. "Vì thế mà bát cháo hành của Thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm
bạn được, sao lại gây kẻ thù? (tr.48). "Trời ơi, hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao! Thị Nở
sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao mọi người lại không thể được. Họ sẽ nhận lại hắn vào cái
xã hội bằng phẳng lương thiện của những người lương thiện... (tr.49)".
Chí không mong điều gì khác ngoài sự hoà hợp với mọi người. Hắn đã nghĩ một cách đơn giản rằng Thị Nở có thể giúp
hắn bước vào thế giới lương thiện. Chỉ khi được mọi người chấp nhận, Chí mới thực sự cảm thấy là một người lương
thiện đúng nghĩa........<Còn tiếp>2....đến cái chết như một cô đơn tuyệt đối.
Thực ra, cuộc đời Chí Phèo có thể kết thúc theo ba hướng: hoặc tiếp tục sống làm con quỷ làng Vũ Đại, hoặc bảo vệ con
người mới của mình bằng cách bỏ làng ra đi tìm đến một vùng đất mới, hoặc là chết để làm ma của làng, nhưng là một
con ma lương thiện. Nam Cao đã chọn cách thứ ba, vì tất yếu Chí phải hành động như thế.
Thị Nở và bát cháo hành đã biến bản năng muốn gia nhập cộng đồng của Chí (tiềm ẩn trong các hành động chửi, la làng,
ăn vạ) thành một ý thức đầy đủ và mãnh liệt. Sở dĩ Chí Phèo có thể tồn tại ở làng như vậy cho đến nửa đời người là vì lúc
nào hắn cũng say. "Chưa bao giờ hắn tỉnh để nhớ rằng có hắn ở đời". Và khi hắn tỉnh, khi hắn biết rằng có hắn ở đời thì
cũng liền ngay đó hắn hiểu rằng đời không thể có hắn được. Nhưng hắn cũng không còn có thể say lại để quên đi tất cả,
để không biết gì như trước đây nữa. Trong tất cả những thứ mà lần đầu tiên Chí được hưởng thụ vào năm ngày cuối cùng
của đời mình, chỉ duy nhất hơi cháo hành là thứ hắn cảm nhận được, là thứ ám ảnh hắn lúc tuyệt vọng, lúc mọi thứ tuột
khỏi tay hắn. Hơi cháo hành như mùi vị của hạnh phúc thoáng qua giờ đã trở nên không có thực, và vĩnh viễn không bao
giờ có thực nữa. Đó là một chút tình mong manh nhưng dai dẳng không thể dứt bỏ nổi. Hắn không thể sống, dù ở làng
Vũ Đại hay ở nơi khác, mà thiếu nó được. "Hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức"
(tr.52). Vì hơi cháo hành mà lần đầu tiên trong đời hắn khóc, tiếng khóc của một con người nuối tiếc cái hạnh phúc
không phải để cho mình nhưng lẽ ra mình có thể được hưởng. Tiếng chửi cuối cùng của Chí không còn là một thứ
phương tiện giao tiếp nữa. Đó là tiếng lảm nhảm tuyệt vọng của kẻ đã nhìn thấy trước tương lai duy nhất dành cho mình:
Cái Chết.
Ai là kẻ phải chịu trách nhiệm về cái chết của Chí? Bá Kiến, đại diện cho bọn cường hào ác bá, thế lực bức hại người lao
động? Bà cô Thị Nở, đại diện cho cái xã hội của những người lương thiện với định kiến hẹp hòi? Hay chính Chí Phèo với
sự yếu đuối của một nhân cách quá lệ thuộc vào cộng đồng?
Đương nhiên Bá Kiến là kẻ trực tiếp đẩy Chí sa ngã. Và Chí đáng lẽ phải thù oán Bá Kiến, lại khiến cho dân làng Vũ Đại
oán thù và tẩy chay đến không còn cơ hội để quay trở lại với họ nữa.
Trong thế giới của Nam Cao, Chí Phèo không phải là kẻ duy nhất sống ngoài lề xã hội. Chí có những người anh em cùng
chung cảnh ngộ bị cô lập, như Đức trong Nửa Đêm, Lang Rận trong truyện ngắn cùng tên, có thể kể thêm Cu Lộ trong
Tư Cách Mõ... ở một môi trường mà thái độ của những người khác góp phần tạo nên nhân cách phẩm giá của một người,
thậm chí có thể quyết định chuyện sống chết của người đó thì phản ứng của Chí Phèo cũng không khó giải thích. Trong
Nửa Đêm, sau khi cho độc giả chứng kiến cảnh một đứa bé vô tội bị tẩy chay vì những tội lỗi của bố nó, Nam Cao đã
viết: "Thì ra những người rất hiền lành cũng có thể là những người rất ác. Có điều họ không có cách để làm ác". (Tuyển
Tập Nam Cao, sđd, tập 1, tr.73). Thực ra họ cũng có cách để làm ác, khi họ không chấp nhận sự vô tội của một người vô
tội, không thừa nhận sự phục thiện của một người muốn phục thiện, không chấp nhận hạnh phúc của người khác. Nam
Cao có xây dựng một loại nhân vật không muốn cho người khác được sung sướng (ông có hẳn truyện Nhìn Người Ta
Sung Sướng kể về một bà già rất khó chịu mỗi khi vợ chồng con gái mình có những biểu hiện hạnh phúc, và bà nhất định
sẽ bắt cô cháu dâu tương lai hầu mình đủ mười bốn năm mới thôi, quyết không cho cô ấy sung sướng ngay với cháu trai
mình). Bà cô Thị Nở cũng thuộc loại này. Bà phản đối cuộc hôn nhân của cháu gái trước hết vì bà nhục cho ông cha bà,
sau đó là vì bà tủi cho thân bà, uất ức cho cái đời không chồng của bà. Bà đố kỵ ngay với đứa cháu bất hạnh. Bà không
có hạnh phúc, vậy thì cháu gái bà cũng đừng hòng mong điều đó.
Nam Cao không ngại phơi bày những hủ tục, những thói tật kìm hãm sự phát triển của con người, ngăn cản con người
sống hạnh phúc. Những day dứt của ông được phát biểu qua lời của nhân vật Thứ trong tiểu thuyết Sống Mòn: "Đó là tại
thói quen. Không phải cái thói quen của riêng mình, nhưng là cái thói quen lưu truyền đã mấy đời, đến nỗi nó nhập vào
máu chúng ta. Tư tưởng, tính tình, cảm giác, hành động của chúng ta đều khuôn theo những thói tục. Những lề lối sẵn
trong thời đại chúng ta. Thời thế thay đổi, lòng người đổi. Thế kỷ sau sẽ lọc máu cho chúng ta trong trẻo lại.
Y thở dài nghĩ bụng nhưng tại sao ta lại không thể nghĩ chuyện lọc máu ngay từ bây giờ"1.
Tham vọng của Nam Cao là muốn lọc máu cho cả dân tộc. Nam Cao đã khám phá ra những gì mà mỗi chúng ta không
muốn để lộ ra. Ông giúp con người tự nhìn vào tận sâu trong tâm hồn mình để hiểu mình một cách thấu đáo hơn và có đủ
can đảm để thay máu. Chỉ cần như thế, ông đã hoàn thành xuất sắc cái sứ mệnh nhà văn mà ông đã từng nêu ra đây đó
trong các tác phẩm của mình.
Dấu hiệu hiện đại của tác phẩm Nam Cao biểu hiện ở ranh giới thiện ác giờ đây không còn quá rành mạch nữa. Những
người lương thiện ở làng Vũ Đại sẽ tự đánh giá về mình ra sao khi chính họ là nguyên nhân dẫn đến cái chết của một con
người. Điều bi đát là bản thân họ không thể ý thức được, không thể hình dung nổi điều đó.
Không ai được chứng kiến cuộc đối thoại giữa Chí Phèo và Bá Kiến, lúc Chí Phèo bộc lộ sự kiêu hãnh của một con
người đã tự lấy lại phẩm giá. Cuộc đối thoại đó là cuộc đối thoại có giá trị nhất trong đời Chí, là điều mà ắt hẳn Chí muốn
được mọi người biết đến. Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao đã để cho cả nhà Bá Kiến hôm đó đi vắng, chỉ mình cụ
Bá ở nhà. Cuộc đối thoại đòi quyền làm người, trong thực tế, đã chìm lỉm vào hư vô. Và hắn la làng, cách giao tiếp quen
thuộc của hắn, nhưng bi đát thay, cũng như xưa nay, khi hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến. Vì vậy, lúc dân
làng có mặt thì tất cả đã kết thúc. Họ chỉ thấy sự việc mà không bao giờ biết được nguyên nhân đích thực của nó. Chí
Phèo hiểu rằng dù hắn có tu tỉnh thì cái quá khứ của hắn cũng không cho phép hắn trở thành người lương thiện giữa mọi
người, hắn sẽ không được họ chấp nhận. Hắn muốn dùng cái chết của mình để chiêu tuyết cho đoạn đời tội lỗi trước kia
và rung một tiếng chuông cảnh tỉnh cho sự khắt khe của dư luận. Nhưng ước vọng của Chí đã theo hắn và Bá Kiến xuống
mồ. Đó là một bí mật trọn vẹn đối với người dân làng Vũ Đại. Tội nghiệp Chí Phèo, "mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói
nhưng không ra tiếng". Những điều mà Chí muốn nói với dân làng, với cái xã hội của những người lương thiện không
bao giờ còn được nói ra nữa. Họ không bao giờ biết đến cái mong ước làm người lương thiện của Chí. Họ cũng không
bao giờ biết được rằng chính họ có thể cho Chí một cơ hội, rằng chính họ đã có thể cứu vớt một linh hồn, rằng chính họ
đã phê duyệt vào cái án tử hình của Chí.
Bi kịch của Chí ở đây là bi kịch của một giá trị không được biết đến, không được thừa nhận, không được thấu hiểu. Chí
đã chết một cái chết vô ích. Cái chết đó thực sự vô nghĩa khi người ta xếp Chí cùng hàng với Bá Kiến "Thằng nào chứ
hai thằng ấy chết thì không ai tiếc! Rõ thật bọn chúng nó giết nhau"(tr.54). Câu chuyện không kết thúc bằng cái chết của
Chí mà kết thúc bằng sự đánh giá của cộng đồng về cái chết ấy. Chính với cách kết thúc như vậy, Nam Cao đã đẩy Chí
tới tận cùng nỗi bất hạnh. Trong những lời bàn tán của người dân làng Vũ Đại người ta nhắc đến Bá Kiến nhiều hơn là
Chí Phèo. Và sự đánh giá mà người đời dành cho Chí hoàn toàn ngược với cái mong muốn mà vì nó hắn đã phải trả giá
bằng cả tính mệnh (Chí Phèo hẳn cũng muốn để lại tiếng thơm!). Thay vì thấu hiểu và chia sẻ, người ta đã vui mừng,
thoả mãn. Những giông bão trong tâm hồn Chí thực sự chẳng để lại một dấu vết nào trên cái làng êm ả đó. Thậm chí cả
Thị Nở là người duy nhất có thể cảm thông và thấy được bản tính hiền lành của Chí "Sao có lúc nó hiền như đất" (tr.54),
cũng không hiểu được khát vọng làm người trong hắn. Chí Phèo không có Chúa làm kẻ chứng nhân vô hình cho sự thức
tỉnh linh hồn. Chí Phèo là một cô độc tuyệt đối, điều mà hắn sợ nhất trên đời. Vào thế kỷ XVI, lúc mà ở phương Tây, con
người cá nhân đang trên đường hình thành, Montaigne có nói: "Điều lớn nhất trên thế giới, đó là biết thuộc về chính mình
(...). Không nên trao mình cho người khác mà chỉ trao mình cho chính mình mà thôi". (Essais, 1580. Trích theo Lịch Sử
Cá Nhân Luận, Alain Laurent, NXB Thế giới, 2001, tr.39-40). Chí Phèo, bằng cái chết, đã trao mình cho người khác, mà
tiếc thay, đã không được đón nhận.
Trở lại với cuộc đối thoại giữa Chí và Bá Kiến, cần lưu ý rằng Chí Phèo chỉ có thể dõng dạc tuyên bố: "Tao muốn làm
người lương thiện!". Hắn không thể kiêu ngạo mà thông báo rằng: "Ta đã là người lương thiện", mặc dù trong thực tế
đúng là như vậy, hắn đã hoàn toàn thay đổi trong những ngày sống chung với Thị Nở. Hắn không đủ tự do để tự biến
mình thành người lương thiện và tự hào về hành động của mình, và cũng không đủ mạnh để dám trả giá cho việc làm
người lương thiện. Hắn chết vì thấy rằng không ai cho hắn lương thiện. "Ai cho tao lương thiện?". Vậy ra sự lương thiện
của hắn lại phụ thuộc vào người khác chứ không phải vào chính bản thân hắn!!!
Chí Phèo đã không thể hình dung rằng người ta vẫn có thể lương thiện mà không cần được cho phép, không cần được
dung nạp. Chí đã không thể cứ lặng lẽ làm một người lương thiện ngoài lề xã hội. Chí Phèo chưa thể hiểu được bản thân
giá trị của cá nhân Chí có thể đặt ngang cân với toàn bộ xã hội còn lại. Bị chi phối bởi ý thức cộng đồng, Chí tuyệt đối tin
là nhân cách của mình phụ thuộc vào sự đánh giá của cộng đồng về mình, tin rằng thái độ che chở đùm bọc của người
khác cấp cho hắn một thân phận và sự đánh giá của người khác cấp cho hắn một diện mạo1. Chí đã đồng nhất lương
thiện với việc làm hoà với mọi người.
Chí Phèo không có được cái bản lĩnh của một người mang trong nó sức mạnh cá nhân và sức mạnh của một trình độ học
vấn đủ để anh ta muốn khẳng định giá trị riêng của mình. Bản lĩnh của Chí Phèo là dám chết khi không còn có thể tiếp
tục phạm tội nhưng lại không thể làm một thành viên của xã hội lương thiện. Bản lĩnh đó là chỗ mạnh nhưng đồng thời
cũng là chỗ yếu đuối của Chí. Sự khinh bỉ của những người lương thiện đã giết chết Chí Phèo, đã giết chết Lang Rận, đã
làm cho Đức phát điên. Nhân vật của Nam Cao chọn cái chết để tránh nỗi nhục nhã trước sự khinh bỉ của người khác và
để tránh, điều này thật phi lý, việc mình trở thành nỗi nhục của người khác.
Hành động chết của Chí không phải là một hành động tự do theo cái nghĩa là Chí đã tự do quyết định số phận của mình.
Cái chết ấy có thể xem như một nỗ lực cuối cùng để tìm cách hoà nhập cộng đồng. Sự hoán cải thực sự có thể biến Chí
thành một người lương thiện nhưng chưa thể biến Chí thành một nhân cách tự chủ. Và, theo Nam Cao, không có một
nhân cách tự chủ thì không thể sống mà làm người lương thiện được.
Nam Cao đau xót trước một thực tế: áp lực của dư luận xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến nhân cách của con người. Trong
Tư Cách Mõ ông đã nói: "Hỡi ôi! Thì ra lòng khinh trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác
nhiều lắm; nhiều người không biết gì là tự trọng, chỉ vì không được ai trọng cả; làm nhục người là một cách rất diệu để
người sinh đê tiện..."(Tuyển Tập Nam Cao, sđd, tập 1, tr.203). Dư luận xã hội thường thiên kiến, tàn nhẫn, vô tình. Và
một khi ý thức cá nhân còn chưa phát triển ở mức độ cao, thì ý thức cộng đồng còn có thể phát huy cái sức mạnh vô giới
hạn của nó.
Chí Phèo cho ta thấy một cá nhân có thể bị nghiền nát dưới sức mạnh của ý thức cộng đồng như thế nào. Chí Phèo đã
tuyệt vọng hướng tới một giá trị không thể gọi tên. Nếu ta đi tìm định nghĩa về sự lương thiện thì đây, câu trả lời của Chí:
Lương thiện là được người khác chấp nhận. Đó không thể là chuẩn mực của một giá trị. Cái chết của Chí, do vậy, là một
thất bại hơn là một chiến thắng của tính thiện, của khát vọng hoàn lương. Bằng sự thất bại của Chí (và cùng với Chí là sự
thất bại của của Đức, Dì Hảo, của Nhu1, của Lang Rận2, cu Lộ...), Nam Cao muốn người nông dân Việt Nam có ý thức
sâu sắc về những vấn đề của mình, và đối mặt với chúng để vượt qua chúng. Song, hơn nửa thế kỷ qua, niềm mong mỏi
của ông đã được đáp ứng ở mức độ nào?
Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao nếu có một chiều sâu thì đó là khả năng chạm tới đáy thẳm của ý thức cộng đồng. Chạm
tới nó để cảnh báo về sự nguy hiểm, năng lực tàn phá, huỷ diệt, sự trì níu và làm tụt hậu của nó. Điều khiến người nghệ sĩ
day dứt là phải vượt qua cái đáy thẳm đó để, trước khi đến được chân trời xa xôi của văn minh, ít nhất cũng đến được
miệng vực, tức là mặt đất của sự công bằng, không thiên kiến, nơi cá nhân có vị trí độc lập với cộng đồng. Và nếu như
thời hiện đại lấy con người cá nhân với cái tôi biết suy nghĩ làm cơ sở cho tất cả thì phải chăng, Nam Cao còn một điều
day dứt nữa: Làm thế nào để xoá bỏ nỗi sợ cô đơn. Bởi vì con người cá nhân chỉ có thể phát triển khi người ta không còn
quá khiếp sợ nỗi cô đơn để có ý thức về tự do của mình.
Nguyễn Thị Từ Huy

1 Những trích đoạn của Chí Phèo được lấy trong cuốn Tuyển Tập Nam Cao, tập1, NXB Văn Học,1997
1, 2 Nghệ Thuật Tiểu Thuyết, Milan Kundera, NXB Đà Nẵng, tr.18 và tr.115
1 Trong văn học, cái bóng thường được dùng như biểu tượng của sự cô đơn, kẻ đơn độc chỉ còn có cái bóng của mình là
bạn, cho nên xem bóng như người tri kỷ để thổ lộ tâm tình: "Ngồi đây ta nói sự đời/ Ta ngồi ta nói, bóng ngồi bóng nghe"
(Tản Đà- Nói Chuyện Với Bóng). Chí Phèo đương nhiên không xem bóng là kẻ tri âm hoặc kẻ song trùng hay bản chất
thứ hai của mình (quá cao siêu đối với Chí). Chí nhìn thấy ở nó một nhân dạng, một hình bóng của con người, dù méo
mó, xệch xạc, thu gọn rồi lại dài loang ra. Một nhân ảnh tơi tả, kì dị cũng đủ xoa dịu nỗi hận bị bỏ rơi của Chí.
1 Tuyển Tập Nam Cao, sđd , tập 2, NXB Văn học, 1997, tr.231.
1 Điều băn khoăn được nói ra trong những lời cuối cùng của Chí: "Làm thế nào cho mất những mảnh chai trên mặt
này?". Đây không phải vấn đề hình thức bên ngoài quan trọng hơn đời sống nội tâm. Cũng không phải nỗi lo rằng cái bề
ngoài là thứ dễ nhận biết còn nội tâm thì khó hoặc không thể nắm bắt. Đây là sự đồng nhất hình thức bên ngoài với các
giá trị của nhân cách, là quan niệm cho rằng hình thức phản ánh bản chất bên trong của con người. Những vết mảnh chai
trên mặt Chí gắn với một quá khứ không thể nào thay đổi được nữa. Quá khứ đó huỷ hoại hiện tại và giết chết tương lai
của Chí, chỉ vì nó không bị xoá bỏ trong ý thức của cộng đồng bao quanh Chí.
1, 2 Nết hiền lành đến mức đần độn của Nhu (hay của dì Hảo) được Nam Cao trình bày như một giá trị đã hoàn toàn bị
phá sản trong cuộc sống hiện tại. Nam Cao lên án chính cái đức ở hiền thụ động ấy chứ không bảo vệ nó để chống lại sự
sắc sảo một cách hiệu quả của cô em, Nhượng. Nếu như trong Chí Phèo còn thể đổ lỗi cho Bá Kiến, bà cô Thị Nở, thì
trong ở hiền, Nhu phải chịu trách nhiệm về bất hạnh của chính mình. Và cũng khó mà nói được rằng qua vụ thắt cổ tự tử
của Lang Rận, Nam Cao muốn đề cao chữ "tiết" và đức trọng danh dự của người nông dân. Cùng lắm ta chỉ thấy ở đó
một nạn nhân, một cái chết vô lý mà nguyên nhân là sự độc ác của dư luận và sự hèn yếu của người đàn ông không đủ
bản lĩnh để chịu trách nhiệm về việc mình đã làm, một việc không phải là tội lỗi gì ghê gớm mà nhìn ở một góc độ khác,
đó còn là một trong những quyền cơ bản của con người: quyền được yêu (Lang Rận và Mụ Lợi đều là những người
không bị hôn nhân ràng buộc). Lang Rận chết không vì bảo vệ một danh dự hãõo huyền mà vì không thể đối mặt với sự
khinh bỉ của những kẻ không là mẫu mực của đạo đức mà lại tự cho mình cái quyền xâm phạm vào tự do của người khác.
Nam Cao nhận thấy bi kịch của con người không sống cho chính mình mà sống cho hình ảnh của mình trong mắt người
khác; người ta tự bóp nghẹt mình, tự gò mình theo một khuôn mẫu chung và dẫn tới hậu quả là tự thủ tiêu mình. Sự lặp đi
lặp lại của chủ đề này trong nhiều tác phẩm của Nam Cao chứng tỏ ông xem nó là một vấn đề lớn, có nghĩa là, theo ông,
dân tộc muốn phát triển không thể không giải quyết nó bằng một quá trình mà ông gọi là "lọc máu".

FPT Corporation, All rights reserved. By xuannt@hn.fpt.vn Sep 20, 1999 


--------------------------------------------------------------------------------
Nam Cao và niềm khát vọng về một cuộc sống có phẩm giá, có tư cách

Nam Cao (1915 - 1951) tên thật là Trần Hữu Trí, quê ở làng Đại Hoàng, nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam
Hà. Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, có lúc Nam Cao dạy học ở một trường tư thục, nhưng khi trường bị đóng cửa,
ông sống bằng nghề viết báo, viết văn, làm gia sư. Năm 1943, Nam Cao gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc ở Hà Nội. Bị
khủng bố, ông phải lánh về quê và tham gia Tổng khởi nghĩa tại đó. Năm 1946, Nam Cao có mặt trong đoàn quân Nam
tiến vào đến Nam Trung Bộ. Sau đó, ông lên chiến khu Việt Bắc, làm công tác tuyên truyền, báo chí, văn nghệ ở Trung
ương, tham dự chiến dịch biên giới năm 1950. Tháng 11 năm 1951, trên đường vào công tác vùng địch hậu, Nam Cao bị
giặc Pháp phục kích bắt và bắn chết tại bốt Hoàng Đan ở Ninh Bình.

Trong công tác, Nam Cao là một người chu đáo, có tránh nhiệm. Sau Cách mạng Tháng Tám, nhiều bạn bè đã nhìn thấy
ông làm việc rất hăng say. Khi làm báo, làm việc ở xưởng in bên cạnh anh em công nhân, ở chiến dịch biên giới, hay
trong đoàn cán bộ vào vùng địch hậu, người ta như bắt gặp một Nam Cao khác, không phải một Nam Cao rụt rè, nhút
nhát, mà một Nam Cao dũng cảm, xông xáo, xung phong đi đầu trong khó khăn.

Nam Cao bắt đầu viết từ năm 1936. Ngoài truyện, ông còn làm thơ, soạn kịch. Nhưng chỉ từ năm 1941, với truyện Chí
Phèo, ông mới thể hiện rõ tài năng độc đáo và xác định chắc chắn vị trí của mình trong nền văn học dân tộc.

Nói về sáng tác của mình trước Cách mạng Tháng Tám, trong một bản tự thuật, Nam Cao kể lại: "Ngoài những truyện
ngắn đăng trên tờ Tiểu thuyết thứ bảy và một số sách nhi đồng (Truyền bá, Hoa mai)... đã viết một số tiểu thuyết dài,
nhưng vì bị kiểm duyệt bỏ hay vì dài quá không in được: Ngày lụt, Cái mấu, Chuyện người hàng xóm, Sống mòn v.v...
(trừ bản thảo Sống mòn vẫn còn giữ được, còn lại đều mất hết vì đã bán cho các nhà xuất bản cả rồi).

Do tình hình tác phẩm bị thất lạc rất đáng tiếc như vậy, cho nên ngoài vài vở kịch và dăm bài thơ không có gì đặc sắc và
do đó ít được nhắc đến, tác phẩm của Nam Cao đến được với người đọc hôm nay chỉ gồm hơn 60 truyện ngắn, một tiểu
thuyết và mấy tập bút ký.

Những truyện ngắn viết trước Cách mạng của Nam Cao đáng chú ý nhất là Chí Phèo, Dì Hảo, Nhỏ nhen, Cái mặt không
chơi được, Lão Hạc, Trẻ con không được ăn thịt chó, Một bữa no, Sao lại thế này, Điếu văn, Từ ngày mẹ chết, Mua
danh, ở hiền, Trăng sáng, Đôi móng giò, Lang Rận, Tư cách mõ, Đời thừa, Mua nhà, Những truyện không muốn viết,
Cười, Quên điều độ, Nước mắt, Đón khách... Tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao hoàn thành năm 1944, nhưng mãi đến
năm 1956, sau khi nhà văn mất, mới được xuất bản lần đầu. Truyện ngắn có giá trị nhất của Nam Cao viết sau Cách
mạng Tháng Tám là Đôi mắt. Ngoài ra, trong thời gian này, ông còn có nhật ký ở rừng thể hiện rõ những chuyển biến tư
tưởng của nhà văn trong những ngày tham gia kháng chiến.
Nam Cao quan tâm đến cả sinh hoạt nông thôn và thành thị, miêu tả nhiều loại người, đặc biệt là nông dân và trí thức
nghèo. Nhưng dù miêu tả thành phần xã hội nào, ông vẫn đi sâu vào các số phận, các kiếp người, như chính nhà văn
thường nói. Thái độ thương cảm, lòng trắc ẩn của ông dành nhiều cho những người cùng khổ, những người "dưới đáy"
của xã họi những người hiền lành chất phác, nhưng đời sống quá vất vả, cơ cực, số phận hết sức hẩm hiu. (Nghèo, Dì
Hảo, Lão Hạc, Một bữa no, Từ ngày mẹ chết, ở hiền).

Một loại nhân vật khác phần lớn cũng từ nông dân lao động nghèo mà ra, nhưng do những hoàn cảnh đặc biệt đưa đẩy,
đã trở thành những tay trộm cướp, lưu manh, những con người bị tha hóa, bị què quặt cả về thể xác và tinh thần. Những
con người ở bên lề xã hội hay phá phách này, cùng với những người điên, những người câm, những người dị dạng kỳ
quặc đủ loại, càng tô đậm thêm bộ mặt cùng quẫn, bế tắc, mất nhân tính của xã hội (Chí Phèo, Đôi móng giò, Lang Rận,
Tư cách mõ...).

Một loại nhân vật thứ ba khá đông đúc trong tác phẩm của Nam Cao, khác với hai loại người trên ở chỗ có trình độ học
vấn, có ý thức hơn về thân phận, có nhiều băn khoăn suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, về giá trị làm người. Đó là
những thầy giáo tiểu học, những viên chức nhỏ, những người làm báo, viết văn. Chính qua những người như Thứ, như
Điền, như Hộ, như Độ, nhà văn đã trực tiếp gửi gắm những suy nghĩ của mình về cuộc sống, về nghệ thuật (Trăng sáng,
Đời thừa, Sống mòn, Đôi mắt...).

Thông thường, ở một tài năng viết truyện, viết tiểu thuyết, thì sức mạnh tư duy sáng tạo tập trung ở nghệ thuật xây dựng
nhân vật. Nam Cao, với khuôn khổ hạn chế của truyện ngắn, đã xây dựng được cả một loạt nhân vật để lại những ấn
tượng khó phai mờ ở người đọc. Nhiều nhân vật của Nam Cao thật sự là những phát hiện mới mẻ, hết sức độc đáo, có
khả năng tái sinh trong văn học về sau. Đó là các nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận, Trạch Văn Đoành. Người
ta cũng rất khó quên những nhân vật như Bá Kiến, Lão Hạc, dì Hảo, Thứ, Hộ, văn sĩ Hoàng. Nhân vật của Nam Cao rất
sinh động. Người đọc tưởng như có thể nhìn thấy họ đang đi lại, ăn uống, nói năng, cười khóc trước mặt mình. Chất
sống ở những nhân vật của Nam Cao là do chất sống của cuộc đời thực mang lại. Nhà văn chọn lựa rất tinh những mẫu
người, những chi tiết đặc sắc nhất để đưa vào tác phẩm.

Trong miêu tả nhân vật không phải lúc nào Nam Cao cũng chú ý đến ngoại hình. Nhưng, khi cần, Nam Cao cũng chứng
tỏ biệt tài khắc họa ngoại hình nhân vật. Thí dụ như trường hợp Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận, Trạch Văn Đoành. Những
con người với ngoại hình không bình thường, quái dị ta vẫn gặp ở ngoài đời, nhưng ngòi bút của Nam Cao khiến chúng
ta nhìn chăm chú hơn vào họ và giật mình sửng sốt: hóa ra một phần của cuộc sống đã biến dạng, đã xấu xí, đã thoái
hóa đến như vậy!

Nam Cao thể hiện sở trường ở miêu tả nội tâm, miêu tả diễn biến tâm lý của nhân vật. Nhà văn thường để cho nhân vật
tự bộc lộ suy nghĩ, tâm trạng của mình, một mình tự nói với mình, sử dụng rộng rãi biện pháp độc thoại nội tâm, độc
thoại bên trong. Điều này hết sức rõ rệt ở những nhân vật trí thức như Điền, như Hộ, như Thứ. Nhưng ngay cả những
người tăm tối mà sự sống tưởng như chỉ quy vào tồn tại sinh vật, như Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận, anh cu Lộc. Cũng có
đời sống nội tâm. Đời sống nội tâm, sự suy nghĩ, trăn trở là dấu hiệu của tính người, của trình độ sống.

Nét đặc trưng có sức lôi cuốn mạnh nhất trong tài năng và phong cách của Nam Cao là chất trữ tình ấm áp, lây truyền,
thấm đậm hầu hết các trang viết của ông. Chất trữ tình này bắt nguồn từ nỗi buồn thương, đau đời của ông trước nỗi
khổ không cùng của con người, từ lòng khao khát của ông về một cuộc sống có tình người, có phẩm giá, có tư cách. Chất
trữ tình này cũng tăng thêm do chỗ nhà văn thường đi sâu vào tâm hồn, tâm trạng nhân vật, trực tiếp bày tỏ thái độ, tình
cảm, tư tưởng của mình về cuộc sống, do tính chất tự truyện trong nhiều tác phẩm của ông.

Tài năng của Nam Cao thể hiện rõ ở chỗ: hầu như chỉ viết về cái hằng ngày, cái đời thường, với một cách viết khá dung
dị và tự nhiên, ngòi bút của ông đã tái hiện những cảnh đời, nêu lên những chủ đề có tính chất xã hội và nhân văn sâu
sắc, phảng phất mùi vị triết lý, khiến người đọc không chỉ một thời mà nhiều thời đọc đi đọc lại tác phẩm của ông. Tác
phẩm của Nam Cao như những câu hỏi cứ xoáy sâu vào tâm trí người đọc, không phải câu hỏi "tồn tại hay không tồn
tại", "sống hay không sống", mà là sống như thế nào cho ra sống, sống thế nào cho có phẩm giá, có tư cách, và muốn
như vậy con người phải làm gì? Tư tưởng nhân văn chứa đựng trong các tác phẩm của Nam Cao không đơn thuần là
lòng thương người, sự cảm thông với những con người bất hạnh, mà thức tỉnh danh dự làm người, buộc con người phải
suy nghĩ về thực trạng mình đang sống, tìm cách để thoát ra khỏi kiếp sống thừa, sống mòn vô nghĩa. Đó là tư tưởng
nhân văn mang nội dung tích cực. Dễ hiểu vì sao sau Cách mạng Tháng Tám, nhà văn đau đời, thương người ấy lại thiết
tha như vậy với cuộc sống mới, say mê hoạt động như vậy, vừa với tư cách là nhà văn, vừa với tư cách công dân.

Nam Cao cũng là nhà văn có phần đóng góp quan trọng bậc nhất vào sự phát triển ngôn ngữ văn xuôi dân tộc.

Cũng như nhiều nhà văn hiện thực thời kỳ 1932 - 1945, Nam Cao rất chú ý khai thác tiếng nói hằng ngày của người dân,
sử dụng có chọn lọc tiếng địa phương, tiếng nghề nghiệp trong tác phẩm của mình. Ngôn ngữ của ông phong phú, biến
hóa, đầy sức sống, vừa có tính chuẩn mực của ngôn ngữ văn học dân tộc, vừa không rơi vào tình trạng "sách vở", trau
chuốt thái quá thành nghèo nàn, giả tạo mà ta có thể bắt gặp trong một số tác phẩm lãng mạn thời đó. So với các nhà
văn cùng thời, ngôn ngữ của Nam Cao đến bây giờ là ngôn ngữ ít cũ đi nhất. Chỉ cần đọc lại truyện Chí Phèo, thậm chí
chỉ đoạn mở đầu truyện này, viết cách đây đã hơn nửa thế kỷ, ta sẽ thấy ngay ngôn ngữ của Nam Cao giàu có và sinh
động như thế nào, hiện đại như thế nào.

Nam Cao là một nhà văn trong ý nghĩa đích thực và cao quý của khái niệm này. Ông là một nghệ sĩ, một nhà tư tưởng,
một bậc thầy về tiếng Việt. Người đọc hứng thú, tự nguyện đến với ông vì tính chất chân thực, nhân bản sâu xa trong
những tác phẩm của ông, vì ông sớm cảm nghe được một cách chính xác khuynh hướng hiện đại trong sáng tác văn học
và thể hiện nó một cách thành công qua việc lựa chọn và miêu tả những hiện tượng tiêu biểu của cuộc sống, qua cách kể
chuyện, cấu tạo tác phẩm và sử dụng ngôn ngữ thật mới mẻ và sáng tạo.

Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh


(Tạp chí Xưa và Nay) 
FPT Corporation, All rights reserved. By e-news@hn.fpt.vn Sep 20, 1999
--------------------------------------------------------------------------------
Về nhân vật Thị Nở
Khi xây dựng nhân vật Thị Nở, nhà văn Nam Cao thẳng cánh hạ bút những dòng này: "Người ta không ai sợ kẻ khác
phạm đến cái xấu, cái nghèo, cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy". Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như ba mặt của
một lô cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân vật Thị Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thị chỉ có
ba điều ấy không? Nhà văn Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai "dự án thiết kế ban đầu" này?
Tôi cho rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là một biểu hiện nguyên khối của con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, chứ
không hề sắm vai con người xã hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết bao nhiêu thành phẩm của tạo hóa có phải thứ
nào cũng đẹp cả đâu! Đã là giới tự nhiên thì vừa có cái hoàn toàn đẹp, có cái hoàn toàn xấu, lại có cái vừa đẹp vừa xấu.
Thị Nở xấu xí như thể một bộ phận của tự nhiên xấu xí, là chuyện có thực. Hơn nữa, thị ăn ngủ, yếm áo, nghĩ ngợi... lúc
nào cũng cứ "vô tâm" như không vậy, thì đó chẳng phải là đặc tính hồn nhiên bậc nhất của tự nhiên đó sao! Cho nên
trước sau, toàn bộ con người Thị Nở hiện diện với tư cách là cả một khối tự nhiên thô mộc. Mà đã là tự nhiên thì dù thế
nào đi nữa, tự nó có vị trí, quyền năng riêng của nó. Nam Cao đã xây dựng chân dung Thị Nở dưới sự chỉ đạo của luồng
ánh sáng tư tưởng này (cũng xin lưu ý điều đang nói ở đây hoàn toàn khác với thứ chủ nghĩa tự nhiên, cái mà Nam Cao
đã từng bị mang tiếng).
Thì đây, sau lần "ăn nằm" với Chí, tức là sau cái hành động tạo hóa đầy màu nhiệm này, cả Thị Nở lẫn Chí đều được thay
đổi. Thị Nở đã hoàn toàn chìm đắm trong cơn đam mê tột cùng của bản năng thiên tạo. Thị đã quên hết thảy mọi ràng
buộc của đời sống thường nhật, quên bà cô, quên bặt cả những định kiến tầng tầng lớp lớp của cái xã hội làng Vũ Đại.
Khi mà cả làng Vũ Đại quay lưng với Chí, thì chỉ duy nhất mình thị đến với Chí một cách hồn nhiên hết mực. Thế là cái
thiên chức (sự chăm lo), thiên lương (tình thương, lòng tốt), những gì gọi là năng lực đàn bà trong thị bỗng động đậy, đòi
được thể hiện. Nhưng khác với thị, trong khi hưởng thụ Chí lại là người không hẳn vô tư. Trong con người anh ta cũng
bắt đầu xuất hiện ý thức sở hữu duy nhất, triệt để đối với thị, một ý thức về tình yêu của giống người: vừa dâng hiến vừa
đòi hỏi. Chính vì thế mà Chí đã nghĩ xa xôi đến một tổ ấm, thứ hạnh phúc bình dị theo kiểu con người. Chí đã khóc khi
ăn bát cháo hành, tức là đã khóc vì cái hạnh phúc lần đầu tiên được hưởng thụ theo cung cách của một tổ ấm. Vì không
thể vô tư được nên khi phải chờ đợi Thị Nở, Chí Phèo đã sốt ruột, tức tối. Trong khi đó, cuối cùng thị đã đến để trút giận,
rồi "ngoay ngoáy cái mông đít" ra về cũng theo một cách vô tâm nhất, không mảy may băn khoăn tiếc nuối, không tính
toán xem lợi hại thế nào, bỏ lại Chí trong nỗi đau phụ bạc (theo cách nghĩ của Chí). Vậy là, cái khối tự nhiên vô tâm Thị
Nở kia va đụng vào con người xã hội Chí Phèo vụ lợi này thành ra ắt phải đổ vỡ. Quan hệ Thị Nở - Chí Phèo đến đây đã
trở thành hạt nổ quyết định bắn vào quả nổ lớn tiếp theo - tấn kịch ắt phải bùng nổ, đẫm máu, vỡ nát (như đã thấy ở phần
cuối truyện). Đây là một quan hệ có tính cách khai sáng. Nhờ đó mà cái đầu mụ mị và đầy thù địch của Chí bỗng thay đổi
hẳn. Chí Phèo bắt đầu thấy "thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao". Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Không còn nghi ngờ gì nữa, thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức toàn bộ tâm hồn Chí, làm cho đời sống
tâm hồn của hắn rung lên từng nếp xếp bấy nay nằm ngủ. Thị Nở đã mang quyền lực của thiên tạo - chiếc đũa thần yêu
thương gõ vào cái hộp tối đen đầy bất trắc ấy, thổi vào đó những đốm lửa nhân văn ấm áp, và trên thực tế đã kéo được
Chí ra khỏi cõi rồ dại ấy rồi. Đi theo tiếng gọi cảm động của tình yêu, Chí đã bước những bước chập chững, non nớt về
với cõi người. Tội đồ bất đắc dĩ mang về nước chúa phục thiện. Ai ngờ, ngoắt một cái, Chí lại nốc rượu, lại xách dao đi...
Thế là cả một công trình do thị tạo dựng bỗng chốc đổ vỡ tan tành. Tại thị cả, người chỉ biết cho, chứ không biết giữ mà,
khổ thế!
Xét toàn bộ hành trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần một - đi ở tù, lần hai - tình yêu với Thị Nở. Sự
kiện lần một không được miêu tả mà chỉ nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai thác triệt để sự kiện lần hai,
và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba truyện. Nói như thế để thấy rằng sự có mặt của Thị Nở trong
cuộc đời Chí (tuy mới chỉ vẻn vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa lý và quan trọng đến ngần nào. Giả dụ vắng
bóng Thị Nở, thì nhân vật Chí Phèo chả có gì đáng nói đáng bàn lắm.
Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô mộc, khiếm khuyết về hình thể, Thị Nở đã bảo toàn trong mình những phẩm
chất "nhân chi sơ, tính bản thiện" của giống người: thiên lương, thiên chức, thiên năng - lớp bản chất nằm ở bề sâu khuất
chưa bị tha hóa. Cho nên Thị Nở đã thoát ra khỏi cái lốt bọc xấu xí ấy để trở thành một người đàn bà đáng trọng. Thế mới
biết Nam Cao thương nhân vật của mình biết mấy!
Thử đặt lại vấn đề: tại sao Nam Cao cứ phải để cho Thị Nở xấu xí và ngẩn ngơ như thế? Có thể để cho thị xấu vừa thôi,
hoặc không xấu tí nào cũng được chứ sao? Thậm chí thị có thể là một người hoàn toàn lành lặn cả diện mạo lẫn tâm hồn?
Thi pháp truyện truyền thống khi xây dựng nhân vật bao giờ cũng tuân theo nguyên tắc đồng nhất giữa các mặt của một
tính cách: ngoại hình và phẩm hạnh, ngôn ngữ và tính nết, hành động và suy nghĩ... Cô Tấm đã đẹp là đẹp hết từ trong ra
ngoài. Chị Dậu của Ngô Tất Tố cũng vậy. Quan phụ mẫu trong Bước đường cùng (của Nguyễn Công Hoan) khi diện
mạo, cử chỉ, điệu bộ, lời nói đã xấu xa thì phẩm cách cũng không ra gì... Nhưng đến Nam Cao, ông tiến hành ngược hẳn,
và phong phú hơn nhiều: có thể bề ngoài xấu nhưng tâm hồn đẹp (mụ Lợi trong Lang Rận), hoặc tâm địa xấu xa nhưng
lại được che đậy bởi mã ngoài khá đẹp (Kha trong Truyện tình, vợ của Phúc trong Điếu văn...), hoặc chỉ nội một phương
diện tâm hồn thôi cũng vừa có đẹp, vừa có xấu (Điền, Hộ, Thứ - các nhân vật trí thức)... Ông đã nhận thức con người với
tất cả tính chất phức tạp không cùng của nó, và mô tả chúng theo nguyên tắc không đồng nhất. Thị Nở thuộc loại đầu tiên
- loại nhân vật là một khối không thống nhất giữa các mặt của một tính cách. Nam Cao đã triệt để đi theo nguyên tắc này.
Thêm nữa, nếu để ý ta thấy Nam Cao đã không chỉ nhận thức thực tại qua và chỉ qua những nhân vật mang ý nghĩa điển
hình xã hội với tư cách là đại diện tiêu biểu của một chủng loại người, mà còn cả ở những hiện tượng riêng lẻ, dị biệt
(nhiều khi oái oăm, trái khoáy) của cuộc đời. Những thứ ấy không phải là nhiều, nhưng rõ ràng đã có, từng có. Chúng
được thể hiện ở cấp độ chi tiết, hình ảnh, tình huống truyện... và cao hơn là cấp độ nhân vật. Kiểu thân phận Lão Hạc, Bá
Kiến, Thứ, Điền... có nhiều trong thực tại, chứ còn Lang Rận, Mụ Lợi, Trương Rự, thì chỉ là cá biệt, không tiêu biểu. Thị
Nở cũng là một mảnh vụn dị biệt và đơn nhất của dòng đời. Nam Cao là người không ngại, và nhiều khi tỏ ra đầy nhiệt
hứng sục sạo vào những chỗ lồi lõm, nham nhở của cõi người.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, nhân vật Thị Nở phải nói là hiện tượng đột xuất. Truyện cổ Việt Nam không có một
hình ảnh đàn bà nào như Thị Nở. Nhìn rộng ra, trong ca dao đôi khi bằng cách ngoa ngôn, dân gian cũng đã có lần chê
bai những ngừoi đàn bà thuần xấu xí: "Con gái Sơn Tây yếm thủng tày dần", hoặc vừa xấu xí vừa đoảng tính: "Lỗ mũi
mười tám gánh lông...". Ta còn có thể tìm thấy thêm những câu tục ngữ ca dao khác "kể xấu" về người đàn bà nữa. Vậy
thì, một người lớn lên từ mái tre xóm rạ, sành ngôn ngữ bùn đất quê kiểng như Nam Cao không thể không biết đến những
bài ca "ngoa ngoắt" kiểu ấy.
Đến đây, câu hỏi trên kia có phần sáng tỏ. Rõ ràng, Nam Cao có chủ định, có quan niệm hẳn hoi khi xây dựng nhân vật
của mình. Ông đã nhất quán từ đầu đến cuối để cho nhân vật Thị Nở của mình thậm xấu như vậy.
Hiểu được đúng và trả lại ý nghĩa cùng kích thước có tầm khái quát cho hình tượng nhân vật Thị Nở, một lần nữa tác
phẩm Chí Phèo sẽ sống dậy với nhiều tầng nghĩa thú vị...

Văn Giá
Số Đỏ  của Vũ Trọng Phụng - hài kịch tha hoá:
Vũ Trọng Phụng gọi tác phẩm của mình là tiểu thuyết hoạt kê - lấy cái cười chĩa mũi dùi vào cái đáng cười của xã
hội thượng lưu tư sản, tấn hài kịch xã hội ấy cường điệu hoá nhưng lại chỉ rất đúng vào bản chất xã hội dâm và đểu, làm
nên sự thăng tiến của một thằng lưu manh một bước lên hàng danh giá: Xuân Tóc Đỏ. Bức chân dung độc nhất vô nhị
trong văn học hiện thực Việt Nam đã đưa Số Đỏ  lên hàng một trong những tác phẩm có thể làm “vinh dự văn học của
mọi thời đại” (ý Nguyễn Khải). Bản thân nhà văn là người ý thức rất rõ về vai trò của tiểu thuyết trong tuyên ngôn của
mình : Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết, còn tôi và những người cùng chí hứơng với tôi muốn tiểu thuyết là
sự thực ở đời. Bởi vậy Số Đỏ dù là một tiểu thuyết hoạt kê, nhưng về cốt lõi vẫn là một sự thực được cảm nhận qua lăng
kính của nhà văn, tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc điển hình hoá.
Không gian trong tác phẩm có độ nén chặt và chỉ bằng vài ba nét miêu tả của nhà văn đã hiện ra một bối cảnh
điển hình gắn với loại người thượng lưu tư sản thành thị: sân quần – bót cảnh binh - nhà Phó Đoan - tiệm Âu hoá – nhà
cụ cố Hồng – sân quần. Trên nền không gian ấy là những nhân vật rối tự diễn vai trò của mình một cách xuất chúng: bà
Phó Đoan – me Tây thủ tiết với hai đời chồng có cậu Phước con cầu tự “em chã!”, ông bà Văn Minh với chủ trương Âu
hoá quái đản, cụ cố Hồng với câu nói bất hủ “Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi!”, và hàng loạt những phán mọc sừng, cô Tuyết
tân thời, nhà chính trị bảo hoàng Joseph Thiết, đốc tờ Trực Ngôn, sư ông tân thời Tăng Phú, nhà thiết kế thời trang Typn,
những cảnh binh kiêm cua-rơ Min Đơ, Min Toa… tạo thành một phông nhân vật châu tuần quanh nhân vật trung tâm
Xuân Tóc Đỏ. Mặc dù, như có người nhận xét tư tưởng Vũ Trọng Phụng mang màu sắc bi quan định mệnh, nhưng nhãn
quan sắc bén của “ông vua phóng sự đất Bắc” đã giúp nhà văn chỉ ra những tính cách không thể khác hơn trong bối cảnh
không gian như vậy. Thời gian gắn với các sự kiện, biến cố liên tục trong đời thằng Xuân chỉ vỏn vẹn 6 tháng, đem lại
cho nó vinh quang tột đỉnh không phải do từ lá số của ông thầy bói mù, mà từ bản chất tinh ranh ma quái của nó. Xuân
Tóc đỏ đã tiến dần trên từng nấc thang danh vọng, từ thằng thành ông, từ vô học thành sinh viên trường thuốc, giáo sư
quần vợt và hài hước hơn cả là thành “cái hy vọng của Đông Dương”, “anh hùng cứu quốc”…
Không gian và thời gian trong Số Đỏ là một không gian dồn dập những sự kiện với tốc độ thay đổi nhanh chóng, với
hàng loạt những biến cố bất ngờ, tưởng chừng ngẫu nhiên nhưng có sự sắp đặt rất hợp lô-gic của tác giả nên tất cả những
yếu tố tình cờ kia lại được lý giải một cách hợp lý từ sự hội ngộ của những nhân vật tương đồng về bản chất theo kiểu
“ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Bắt đầu từ bước ngoặt đầu tiên, bà Phó Đoan me Tây dâm đãng bỏ tiền ra chuộc thằng
Xuân từ bót cảnh binh, thằng Xuân bắt đầu mon men ở ngưỡng cửa của những kẻ quyền quí, để rồi nhanh chóng sau đó,
nó đã long trọng tuyên bố vai trò của mình “kể từ hôm nay…tham dự vào một phần cải cách xã hội…”. Cải cách xã hội –
ngôn từ điêu trá ấy gắn với tiệm may Âu hoá, để biến con gái nhà lành thành hư hỏng, với những cải cách đến tận nội y
theo tinh thần của ông Typn, phải làm sao đến lúc…không còn mặc gì mới thật là “văn minh, tiến bộ” (!). Vũ Trọng
Phụng đã dựa trên cơ sở nguyên mẫu đời sống, với những cải cách tân thời bấy giờ, những phong trào bịp bợm của thực
dân Pháp tạo ra với những khẩu hiệu rất kêu : Vui khoẻ trẻ trung, để đưa ra những giai thanh gái lịch chỉ làm mỗi việc là
chim nhau, cười tình với nhau, đưa nhau đi khách sạn, có nhiệm vụ thiêng liêng là làm hư hỏng danh tiết con gái nhà
lành! Thế giới thượng lưu rởm đời ấy không phải không chứa đựng những mâu thuẫn, nhưng đó là loại mâu thuẫn tạo
nên tiếng cười chứ không phải là những xung đột mang tính chất bi kịch, đó cũng là nét đặc trưng của tác phẩm.  
Vũ Trọng Phụng đã tỏ rõ thiên tài của mình khi tạo nên những bức tranh hiện thực có tính dự báo độc đáo, bằng ngòi bút
cường điệu hoá nhưng lại tô đậm bản chất xã hội rõ hơn bao giờ hết. Điều đó khiến tiếng cười của ông có giá trị cảnh báo
và thức tỉnh. Bản thân thằng Xuân là một nhân vật mặt nạ, không có quá trình mâu thuẫn bên trong. Tất cả các nhân vật
của Số Đỏ đều không có xung đột nội tâm, hay chính xác hơn là những biểu hiện nội tâm được ngoại hiện hoá, để tác giả
bóc trần bản chất nhân vật rõ ràng hơn. Cái giả trá, kệch cỡm, lố lăng cứ lồ lộ qua từng dòng văn của Vũ Trọng Phụng:
Bà Phó Đoan dù Nhật, ví da và chó bước xuống…Còn đây là chân dung ông Văn Minh: Ông phân vân, vò đầu rứt tóc,
lúc nào cũng đăm đăm chiêu chiêu, thành thử lại thành ra hợp thời trang, vì mặt ông thật đúng cái mặt một người lúc
gia đình đương là tang gia bối rối…,còn rất nhiều những câu văn tương tự như vậy hàm chứa thái độ giễu nhại của nhà
văn với những quái thai của xã hội đương thời. 
Hành trạng của thằng Xuân được diễn giải từ chỗ vô tình đến chỗ ý thức rõ về vị trí của nó trong một xã hội luôn che đậy
sự bẩn thỉu bằng vẻ hào nhoáng bên ngoài. Và cứ thế, nó bước dần lên đỉnh cao danh vọng. Một sự thăng tiến rất hợp qui
luật vì lẽ như chính nó từng tuyên bố trước cả gia đình của cụ cố: “Tôi mà xấu thì cũng chả ai đẹp!”. Để rồi từ chỗ là một
kẻ được tô trét đủ thứ hư danh, nó đã biết lợi dụng hư danh ấy để thực hiện những mưu mô xảo quyệt đưa mình lên: bỏ
truyền đơn hãm hại đối phương, diễn thuyết như một nhà hùng biện trước công chúng, để vênh váo và đắc thắng trong
vai trò một anh hùng cứu quốc! Vũ Trọng Phụng là một nhà văn biết cười, khi đặt tiếng cười đúng chỗ, điểm huyệt vào
bọn người trưởng giả, vào cả một chế độ thực dân phong kiến – nơi diễn ra đủ thứ trò ma mãnh, đủ kiểu rởm đời và là cội
nguồn số đỏ cho hạng người dâm và đểu. Vũ Trọng Phụng đã đề cập đến hầu hết những gì là thời thượng của xã hội lúc
bấy giờ bằng thái độ đối lập không khoan nhượng, bằng tiếng cười, ông xuyên thủng những thành trì kiên cố nhất. Trong
tác phẩm không tồn tại bi kịch, nhưng tính chất bi kịch của xã hội đã gắn chặt với từng màn, từng lớp hài kịch, khi nhà
văn gắn chặt từng tính cách với hoàn cảnh cụ thể, đả phá vào từng xu hướng chính trị, văn nghệ, triết học, thể thao, văn
hoá…đang là xu hướng thịnh hành trong thời kỳ cải cách cải lương phù hợp xu thế Mặt trận Bình dân ở chính quốc! 
Nguyên tắc điển hình hoá đã tạo nên những chân dung đáng cười trong một xã hội đáng cười, mang đến giá trị sâu sắc
cho tác phẩm Số Đỏ. Có thể nói, Vũ Trọng Phụng đã kết hợp cái nhìn sắc sảo, óc phân tích tỉnh táo của một cây bút
phóng sự bậc thầy với niềm căm uất không nguôi của một con người nghèo gia truyền với một xã hội chó đểu. Tài năng
và nhiệt tình của nhà văn đã làm nên một kiệt tác hiện thực trào phúng đặc sắc.
Th.s TRẦN HÀ NAM
 (Giáo viên trường THPT chuyên Lê Quí Đôn, Bình Định)
Đề luyện tập: Quan niệm về cái Đẹp của Nguyễn Tuân trong truyện ngắn Chữ người tử tù.
BÀI VIẾT THAM KHẢO:
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) cả một đời văn đi tìm cái Đẹp. Nhưng khác với Thạch Lam, tâm hồn ông hướng về vớ i
những nét toàn thiện toàn mĩ , vượt lên khỏi giới hạn của cái bình thường, luôn nhìn nhận thế giới và con người ở phương
diện thẩm mĩ – văn hoá.
Vang bóng một thời như là một điểm xuất phát của quan điểm nghệ thuật mang dấu ấn cá tính con người tài hoa tài tử
Nguyễn Tuân. Mười một truyện ngắn dựng lên những chân dung đặc sắc khó quên của một thời quá vãng, tiêu biểu cho
khuynh hướng thoát li của Nguyễn Tuân trước cách mạng : những thú chơi tao nhã, những con người của quá khứ xa
xăm, thực ra là một cách cắt nghĩa cho tấm lòng của nhà văn vốn nặng tình cùng thời vàng son dĩ vãng. Nhưng ẩn chứa
trong tập truyện là một tâm hồn dân tộc yêu tha thiết những giá trị đã trở thành truyền thống. Bên cạnh đó, tác phẩm còn
là nơi gửi gắm tâm sự yêu nước, tâm trạng bất hoà của một người trí thức luôn cảm thấy bức bối trong khuôn đời chật
hẹp. Cảm hứng đặc biệt mãnh liệt của Nguyễn Tuân gắn với những nhân vật đối lập với trật tự khuôn phép phong kiến,
thể hiện tập trung trong truyện ngắn Chữ người tử tù, giúp ta hiểu sự chân thành sâu lắng của Nguyễn Tuân trong cái vỏ
khác người kiêu bạc.
Tác phẩm là câu chuyện xoay quanh nét chữ của Huấn Cao – người tử tù bất khuất. Xung quanh trục chính của câu
chuyện là những nhân vật thầy thơ lại, viên quản ngục và Huấn Cao. Họ vốn là kẻ thù với nhau trong cuộc sống, nhưng
lòng yêu cái Đẹp giúp họ tìm đến với nhau như những người bạn tâm giao.
Cho đến tận thế kỉ XXI, trên văn đàn vẫn còn những cuộc tranh luận sôi nổi xung quanh Chữ người tử tù về nhân vật
chính của tác phẩm: Chữ hay là người tử tù Huấn Cao mới là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm này của Nguyễn Tuân?
Điều đó cho thấy tính phức tạp, đa nghĩa của tác phẩm. Chính vì vậy, sức hấp dẫn của tác phẩm vẫn còn nguyên vẹn. Tuy
nhiên cần phải nhìn nhận tác phẩm này từ quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước cách mạng, đồng thời gắn với
đặc trưng “văn học là nhân học” để xácđịnh rõ tư tưởng của Chữ người tử tù. Trước cách mạng, Nguyễn Tuân là đại diện
cho khuynh hướng thoát li trong văn học lãng mạn bằng việc đề cao những vẻ đẹp “vang bóng một thời”. Lấy cái tôi làm
trung tâm để nhìn nhận cuộc sống, ít nhiều trong tác phẩm, người nghệ sĩ lãng mạn bao giờ cũng muốn bộc lộ chính
những suy ngẫm, tâm trạng của riêng mình. Không phải ngẫu nhiên tác phẩm lại chọn nguyên mẫu Cao Bá Quát để tạo
dựng hình tượng Huấn Cao, vì ít ra nhà văn cũng cảm nhận được mối quan hệ tương đồng giữa bản thân mình với nhân
vật. Mặt khác, trước cách mạng, Nguyễn Tuân luôn lấy tiêu chuẩn đánh giá con người ở ba khía cạnh: cái Tài – cái Đẹp –
cái Thiên Lương nên Huấn Cao là hình tượng độc đáo giúp nhà văn phát biểu quan niệm về con người của chính ông một
cách toàn diện. Chữ – thư pháp vốn là sở hữu của bậc văn nhân tài tử thời xưa, là phương tiện diễn tả thần thái, tinh hoa
của con người, là hiện hình cụ thể của chủ thể thẩm mĩ. Vì vậy, không thể xem chữ là nhân vật trung tâm của tác phẩm.
Con người và những vẻ đẹp Người bao giờ cũng là trung tâm cảm hứng của văn học lãng mạn, chữ của Huấn Cao thực
chất là sự lí giải một góc tâm hồn Huấn Cao, là lời ca tụng cái đẹp Con Người trong hoàn cảnh tưởng chừng chỉ tồn tại
những điều xấu xa.
Xem Huấn Cao là nhân vật đại diện cho cái Tài – cái Đẹp – cái Thiên Lương theo quan niệm Nguyễn Tuân cũng cần phải
xét đến vai trò của viên quản ngục và thầy thơ lại. Bởi, cái đẹp chỉ thật sự có ý nghĩa khi có người biết thưởng thức. Đó
cũng là một khía cạnh chủ đề của tác phẩm mà nhà văn muốn thông qua những nhân vật của mình phát biểu. Sẽ không ai
biết đến Huấn Cao vào những thời khắc khốc liệt nhất của đời ông nếu như không có những người như quản ngục, thơ
lại. Hai nhân vật này cùng Huấn Cao làm nên “ba đốm sáng đặc biệt” trên nền hiện thực tăm tối.
Tác phẩm hấp dẫn người đọc trước hết ở lối dựng chuyện rất ấn tượng của Nguyễn Tuân. Bản thân ông ý thức rất rõ về
việc tạo không khí cho tác phẩm để từ đó diễn giải về số phận, tính cách nhân vật. Vốn là một người rất am hiểu văn hoá
phương Đông, tiếp thu ảnh hưởng của cha, Nguyễn Tuân có biệt tài tái hiện những hình ảnh xa xăm của mộtt thời “một
đi không trở lại”. Không khí cổ điển bao trùm toàn bộ tác phẩm ngay từ câu đầu tiên: “Nhận được phiến trát của quan
Sơn-Hưng-Tuyên đốc bộ đường…”, để từ đó những con người của một thế giới xa xưa hiện ra trước mắt ta nguyên hình
rõ nét. Nhân vật chính chưa xuất hiện mà tác phẩm lại bắt đầu từ tâm trạng nửa lo – nửa mừng của viên quan đứng đầu
nhà ngục khi nghe tin Huấn Cao sẽ bị áp giải đến nơi mình cai quản. Bổn phận của một bề tôi trung thành là phải làm
tròn chức trách nên trong cuộc trao đổi giữa ngục quan với thuộc cấp đã hiện lên một kẻ mẫn cán trong phận sự. Hoàn
cảnh đề lao đã tạo nên con người theo khuôn phép, cẩn trọng đúng mực như ngục quan. Nhưng để thấy con người thực
của ngục quan và nỗi băn khoăn của ông ta cần phải gắn cùng một hoàn cảnh khác, tâm trạng khác. Bởi qua những dòng
đầu tiên, người đọc biết đến niềm khao khát được thưởngthức tài hoa tuyệt đỉnh của thư pháp trong nét chữ tên tử tù
Huấn Cao của một người nắm quyền sinh quyền sát trong tay. Nhưng là người biết định giá cái Đẹp và đến với cái Đẹp
bằng tất cả tấm lòng, ngục quan cũng hiểu rõ tình thế khó xử của chính mình. Để nhân vật một mình lọt thỏm trong mênh
mông bóng tối của nhà ngục. Nguyễn Tuân đã thuật lại khá đầy đủ những xung đột bên trong của nhân vật. Ngôn ngữ
miêu tả tâm lý của Nguyễn Tuân đã đạt đến trình độ bậc thầy khi ông đi sâu mổ xẻ những uẩn khúc trong lòng nhân vật
một cách rất tự nhiên gắn kết với khung cảnh.
Để cắt nghĩa tâm trạng ngục quan, Nguyễn Tuân đã khắc họa khỏanh khắc ngục quan khơi lại ngọn đèn dầu sở soi sáng
khuôn mặt, đối diện chính bản thân. Đây cũng là thủ pháp thường gặp trong văn xuôi hiện đại. Nhà văn cũng đã không
ngần ngại bộc lộ cảm tình của mình với ngục quan, khi ông dùng những nét vẽ bằng ngôn ngữ phác họa chân dung nhân
vật một cách trân trọng. Phẩm chất nhân vật được khái quát đầy đủ ngay từ đầu với những nét tương hợp giữa ngôn ngữ,
ngọai hình và nội tâm của nhân vật. Đàng sau khuôn mặt bình thản như mặt nước hồ thu là cả một thế giới tâm hồn đáng
trọng: “trọng người ngay, biết giá người…” là cơ sở nhà văn khẳng định tâm hồn ngục quan như “bản đàn trong trẻo”
trong thế giới tạp âm, đối lập với “bọn cặn bã, lũ quay quắt”. Nhân vật đối lập với hoàn cảnh luôn là đặc điểm hàng đầu
trong sáng tác của Nguyễn Tuân, là chiếc chìa khóa mở tung những cửa ngách phức tạp của hồn Nguyễn Tuân, văn
Nguyễn Tuân. Đoạn đặc tả chân dung nhằm diễn giải cho tình huống thử thách xảy đến cùng ngục quan: liệu giữa con
người bản – chất và con người mặt – nạ, phía nào sẽ thắng thế? Tâm nguyện của ngục quan có cơ hội thực hiện, nhưng
bằng con đường nào phải lẽ, bản thân nhân vật phải trải qua quá trình đấu tranh căng thẳng với chính mình. Xin được chữ
Huấn Cao – con người “văn hay chữ tốt nổi tiếng một vùng” là vinh hạnh của một kẻ như quản ngục, bị giam cầm trong
bổn phận, trách nhiệm. Liệu nhân vật có vượt qua được thử thách hay không? Câu hỏi địn hình từ phía nhà văn đã gợi
được trí tò mò cho bạn đọc để làm nên một không khí khác hẳn với lối diễn giải một chiều của tiểu thuyết chương hồi,
phơi bày những phức tạp mâu thuẫn nội tâm để làm rõ nét chân dung đặc sắc của ngục quan.
Nếu Huấn Cao là nhân vật trung tâm của tác phẩm thì ngục quan chính là nhân vật đối chiếu để làm rõ cho ý đồ của nhà
văn. Thế nhưng góc nhìn đối sánh ấy lại bắt đầu từ vị thế đối lập giữa hai nhân vật. Ngay từ khoảnh khắc đầu tiên xuất
hiện giữa nhà ngục, Huấn Cao đã hiện ra sừng sững những cốt cách, khí phách của một anh hùng. Chiếc gông đeo cổ sáu
tử tù – biểu tượng dữ tợn của quyền uy và tội ác với kích cỡ “xứng đáng”, với màu “đen bóng” vì mồ hôi bao kẻ tử tội trở
nên tầm thường thảm hại trước thái độ lạnh lùng “dỗ gông” của Huấn Cao. Giữa ranh giới sống – chết mong manh, khí
phách “uy vũ bất năng khuất” (uy vũ không thể khuất phục) của Huấn Cao không thể được hiểu bằng đầu óc u tối của
đám lính lệ dựa hơi quan quyền ra oai phách lối. Chỉ có thái độ “hiền lành khác hẳn ngày thường” của ngục quan mới là
sự trọng thị thật sự của những người ý thức bản thân rõ nét. Nguyễn Tuân đã thuật lại quá trình tìm cách tiếp cận Huấn
Cao của ngục quan hoàn toàn khách quan và hợp logic phát triển trên tâm lý nhân vật. Nhưng ông cũng giúp thấy rõ
nghịch cảnh trớ trêu: một đàng tìm cách gần gũi, một đàng cảnh giác tuyệt giao. Nỗi khổ tâm của ngục quan càng tăng thì
sự lạnh lùng “khinh bạc đến điều” của Huấn Cao càng tỏ rõ sự cứng rắn, đầy bản lĩnh của người anh hùng mạt lộ. Đơn
giản một điều là họ chưa tìm thấy tiếng nói chung khi vị thế hai người được đặt trong sự đối đầu về mặt xã hội.
Đỉnh cao của xung đột đầu tiên giữa hai kẻ không cùng chiến tuyến là lúc ngục quan mạo hiểm xuất hiện trước mặt Huấn
Cao và nhận được câu trả lời đuổi thẳng. Đáp lại thái độ khinh bạc của Huấn Cao là một lời bẽ bàng của quản ngục “Xin
lĩnh ý” . Tưởng chừng sau phút đó, chuyện sẽ rẽ ngoặt sang hướng khác: kính trọng sẽ thành thù hận. Nhưng điều bất
thường là rượu thịt cung phụng cho “thú sinh bình” của Huấn Cao lại còn hậu hơn trước khiến cho nảy sinh tình huống
mới: thái độ ngạc nhiên băn khoăn về quản ngục của Huấn Cao. Ngạc nhiên là phải, vì đàng sau rượu thịt không phải là
những trò mua chuộc hạ sách mà ông Huấn Cao từng biết. Băn khoăn của Huấn Cao xoay quanh bí ẩn về nhân thân của
quản ngục. Nét đặc sắc trong nghệ thuật dựng chân dung nhân vật của Nguyễn Tuân là ở đó, ông đặt nhân vật vào những
ranh giới đòi hỏi sự lựa chọn đúng – sai, thật – giả, tốt – xấu … để khám phá thêm những mặt tiềm ẩn của tâm hồn con
người, hé lộ những mặt đa dạng của tính cách nhân vật.
Lời giải đáp cho băn khoăn của Huấn Cao đến trong một hoàn cảnh thật nghiệt ngã, ông phải đứng trước thử thách của
chính mình. Ranh giới phân định không còn nằm trong thế cho con người lựa chọn như trước, bởi đó là sự sống còn và
cái chết của chính ông. Kết cục số phận của một người tử tù là cái chết, nhưng trước cái chết con người cũng có những
phản ứng khác nhau. Một người bình thường sẽ mặt tái nhợt hốt hoảng như thầy thơ lại khi báo tin cho Huấn Cao, còn
bản thân một kẻ “chọc trời khuấy nước” như Huấn Cao lại dường như bình thản đón nhận. Người anh hùng luôn đón đợi
hiểm nguy, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, phải chăng vì vậy Nguyễn Tuân đã không dùng một từ nào mô tả phản ứng
của Huấn Cao khi nghe tin dữ đến với mình. Giây phút “lặng người đi một lát rồi mỉm cười” của Huấn Cao chính là thời
điểm mở ra thế giới thực của một con người tài hoa. Cuối cùng những “kẻ thù “ trong đời đã gặp nhau or một tấm lòng.
Thời điểm này ta cũng nhận rõ hơn vai trò của thầy thơ lại. Ông ta hoàn toàn không phải là người trung gian, kẻ đầu sai
cho chủ. Cũng giống viên quản ngục, ông ta còn giữ được “thiên lương” nhưng hoàn cảnh không cho phép ông bộc lộ
con người thực của mình. Thậm chí, so với ngục quan, thầy thơ lại còn hiêïn lên vẻ an phận thủ thường bằng dáng vẻ
khúm núm, rụt rè, hớt hải của một kẻ ý thức được thân phận của mình. Nhưng đôi mắt “biết giá người” của ngục quan đã
phát hiện được con người thực của ông ta. Thầy thơ lại chính là điểm tựa, là niềm tin giúp ngục quan đủ dũng khí vượt
qua nỗi sợ hãi thường trực trong cảnh sống nơm nớp lo âu. Có thể xem thầy thơ lại là nhân vật bổ sung cho tính cách của
ngục quan. Dẫu cho ông ta không phải là người đam mê cái đẹp thư pháp giống như ngục quan, nhưng ông ta là người
đóng vai trò xúc tác để cái đẹp tìm đến nhau. Cuộc sống rất cần loại người như thế. Trong thế giới nhân vật lý tưởng hoá
của Nguyễn Tuân, viên thơ lại này là con người của đời thường, tận tâm trong công việc và tận tâm với cả bạn bè, dám
làm những việc nguy hiểm cho tính mạng bản thân vì người khác. Không có thầy thơ lại, sẽ không có cuộc gặp gỡ giữa
Huấn Cao với quản ngục, không có cảnh tượng cho chữ “xưa nay chưa từng có”.
Khi những hận thù, ngộ nhận được xoá nhoà, nhà văn mới để Huấn Cao bộc lộ rõ con người thật bằng những lời nói cảm
động. Điều bất ngờ của Huấn Cao về quản ngục còn làm người đọc bất ngờ hơn về thái độ của Huấn Cao khi ân hận
“Thiếu chút nữa thì ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao bỗng trở nên gần gũi, rất con người sau câu
nói này. Hoá ra nhân cách cao quí của Huấn Cao ngoài thái độ bất khuất kiên cường còn có cả một tấm lòng biết trân
trọng con người. Hoá ra nụ cười Huấn Cao không chỉ là “trông chết cười ngạo nghễ” mà còn là nụ cười sung sướng tìm
được một con người có “sở thích cao quí” chính vào thời khắc số mệnh đã an bài. Cuộc gặp gỡ của những tấm lòng đã
làm nên lời giải đáp, hoá giải mọi khổ tâm, băn khoăn, sợ hãi.
Nguyễn Tuân đã dựng lên một không gian đặc biệt để ba nhân vật gặp gỡ. Đúng như ông mô tả, đây là cảnh tượng xưa
nay chưa từng có. Nhưng trang viết này đã thể hiện bút lực Nguyễn Tuân dồi dào sung mãn nhất. Cảm hứng mạnh mẽ, tô
đậm những nét độc đáo phi thường đã làm nên nhừng hình ảnh, câu văn thật phóng khoáng. Bắt đầu của sự chuyển đổi
không gian nhà ngục – vốn tối tăm ghê rợn đã bừng sáng lên trong ánh lửa cháy “rừng rực” của những bó đuốc tẩm dầu.
Xung đột Bóng tối – Ánh sáng mang ý nghĩa tượng trưng, điển hình cho một cảm hứng quen thuộc của chủ nghĩa lãng
mạn. Đây là ánh sáng khác hẳn với sắc nhợt nhạt của “những vì sao” nhấp nháy sắp rụng, với ánh leo lét của ngọn đèn
dầu sở soi sáng gương mặt ngục quan, tâm hồn ngục quan. Ánh đuốc làm bật lên ba con người đẹp đẽ trên nền hiện thực
nhà tù tàn ác xấu xa. Đối cực giữa hoàn cảnh với con người nhờ vậy tạo được ấn tượng mạnh mẽ cho độc giả, tạo một
tâm thế hào hứng đón nhận cái đẹp vượt lên thực tại tầm thường tù túng, để thậât sự thăng hoa.
Cảnh tượng đẹp nhất đánh dấu thời khắc cái Đẹp lên ngôi chính là lúc Huấn Cao viết chữ, thầy thơ lại khúm núm bưng
chậu mực, viên quan coi ngục đánh dấu lên từng con chữ. Vẫn là những con người ấy nhưng thật sự họ đã toàn tâm toàn
trí hướng về cái đẹp. Người sáng tạo, người thưởng thức, tôn vinh cái đẹp đã gặp gỡ nhau. Lời nói của Huấn Cao dành
cho quan coi ngục là lời chỉ dành cho người tri âm tri kỷ. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng bình khoảnh khắc này là
khoảnh khắc “ba đốm sáng gặp nhau”, khoảnh khắc để con người cúi đầu trước cái đẹp để thật sự cảm nhận vẻ đẹp toát
lên từ con chữ, từ tấm lụa bạch, thỏi mực thơm.
Nhà văn khép lại câu chuyện bằng lời nói của ngục quan, như hứng lấy tâm huyết hoài bão một đời của Huấn Cao: “Kẻ
mê muội này xin bái lĩnh!”. Đó là lúc cái đẹp chiến thắng tuyệt đối, là lúc “Ba người nhìn bức châm rồi lại nhìn nhau”.
Họ đã thật sự chiến thắng nỗi sợ hãi, cái chết. Đó là thời khắc hội tụ cái Tài – cái Đẹp – cái Thiên Lương.
Chữ người tử tù đã thể hiện trọn vẹn quan niệm cái đẹp của Nguyễn Tuân trước các h mạng tháng Tám. Cái đẹp đối lập
với thực tại tầm thường giả trá, cái đẹp của những con người phản ứng thực tại xã hội đương thời. Và Nguyễn Tuân cũng
đã đem lại cho người đọc thú thưởng thức văn hoá rất đặc sắc trong nét chữ tài hoa. Tài hoa ấy, tấm lòng ấy cũng là của
chính Nguyễn Tuân muốn gửi gắm lại cho cuộc đời này.
Tác gia Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
I. Những nét chính trong cuộc đời : 
 Bác sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An trong một gia đình nhà Nho nghèo yêu
nước. Thân sinh là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng thị Loan. Lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi ra
đi tìm đường cứu nước lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Thời gian hoạt động ở Pháp lấy tên là Nguyễn ái Quốc. Khi
về nước bắt đầu lấy tên là Hồ Chí Minh. 
 Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế vô sản. Tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp năm
1920. Thành lập Đảng cộng sản Việt Nam 1930. Thành lập Mặt trận Việt Minh năm 1941. Là Chủ tịch Đảng, Chủ
tịch nước khi cách mạng tháng Tám 45 thành công đến khi mất (2/9/1969). Suốt đời đấu tranh không mệt mỏi cho
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, là chiến sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc. 
 Người còn là một nhà văn hóa lớn. Vì vậy , năm1990 , tổ chức UNESCO đã kỷ niệm 100 năm sinh của Người với
tư cách "anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới". 
II. Sự nghiệp văn học :
A. Quan điểm sáng tác văn chương :
Sinh thời, Bác không có ý định trở thành nhà văn, nhà thơ, nhưng do yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, thêm vào đó yếu
tố môi trường xã hội và thiên nhiên gợi cảm xúc, cộng với nhiệt tình và tài năng , vốn văn hóa... đã khiến Bác đến với
văn chương. Nhưng trước hết, sáng tác văn thơ với Bác là hành động cách mạng.
Người quan niệm văn chương phải có chất thép, gắn bó với hiện thực cuộc sống xã hội. Trong "Khán Thiên gia thi hữu
cảm", Bác yêu cầu :
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
Thép là tính tích cực tiến bộ về mặt tư tưởng, là cảm hứng, đấu tranh xã hội của thi ca.
Người còn xác định rõ đối tượng thưởng thức văn chương là quần chúng cách mạng. Người xác định : Viết cho ai? Viết
để làm gì? Viết cái gì? Viết như thế nào?
Người yêu cầu văn chương phải có tính chân thật. Tiêu chuẩn của tính chân thật gắn với yêu cầu cao về nội dung và cả
hình thức. Nội dung bám sát hiện thực, nêu được những điển hình của hiện thực. Hình thức phải trong sáng, dễ hiểu,
được quần chúng yêu thích.
B. Các lĩnh vực sáng tác :
1. Văn chính luận : 
2. Truyện và ký 
3. Thơ 
C. Phong cách nghệ thuật :
1. Văn chính luận : Bộc lộ t duy sắc sảo, giàu tri thức văn hóa, gắn lý luận với thực tiễn, giàu tính chiến đấu, vận
dụng có hiệu quả các phương thức biểu hiện 
2. Truyện và ký : Đặt nền móng cho văn xuôi cách mạng. Truyện ngắn chủ động, sáng tạo; có khi là lối kể chân
thực, tạo không khí, có khi là giọng điệu sắc sảo, châm biếm thâm thúy và tinh tế. Đặc sắc nhất là chất trí tuệ và
tính hiện đại.
3. Phong cách thơ đa dạng, phong phú, mang đặc điểm của thi ca phương Đông. Vận dụng nhiều thể loại và phục vụ
có hiệu quả cho nhiệm vụ cách mạng. 
Tác gia NGUYỄN TUÂN
 I. Đặc điểm con người : NGÔNG
1 . Ảnh hưởng gia đình: người cha Tú tài – ngông nghênh, khinh bạc, tài hoa, am hiểu văn hoá truyền thống.
2. Tiếp thu ý thức cá nhân phương Tây
II. Quan niệm nghệ thuật :
1. Nặng tình dân tộc, quan tâm đến các giá trị văn hoá cổ truyền
2. Coi trọng nghề văn – gắn cái TÀI, cái ĐẸP, cái THIÊN LƯƠNG – luôn thể hiện nhân cách người cầm bút
III. Diễn biến tư tưởng:
1. Trước cách mạng: bi quan bế tắc
2. Sau cách mạng: hoà nhập hiện thực, thật sự “lột xác”, nhận đường.
IV. Phong cách nghệ thuật :
1. Chất tài hoa uyên bác:
a. Tiếp cận mọi sự vật ở phương diện văn hoá, thẩm mỹ để khám phá, phát hiện, khen – chê
b. Vận dụng tri thức nhiều ngành để quan sát hiện thực, sáng tạo hình tượng.
c. Luôn nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ
d. Tô đậm những nét phi thường xuất chúng
2. Sự kế thừa và phát triển phong cách:
a. Trước cách mạng :
+ Tư tưởng : tìm về vẻ đẹp vang bóng một thời, thú giang hồ xê dịch, truỵ lạc, thú ẩm thực... nhằm bộc lộ tối đa con
người cá nhân lạc lõng trước hiện thực
+ Hình tượng: Nhân vật tài hoa, đối lập cuộc đời, u buồn
b. Sau cách mạng:
+ Tư tưởng: quy thuận quần chúng một cách tự giác, hoà nhập vào hiện thực phong phú – tinh thần dân tộc và lòng yêu
nước. Thể hiện niềm vui và niềm tin gắn bó cuộc sống mới và con người mới.
+ Hình tượng : Quần chúng tài hoa nghệ sĩ, vẻ đẹp bình thường – vĩ đại.
V. Tác phẩm tiêu biểu sau cách mạng:
- Tuỳ bút “Sông Đà” – Người lái đò sông Đà
- Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi – Tờ Hoa
- Sông Đà đỏ
- Các bài viết tiểu luận và chân dung văn học – Thời và Thơ Tú Xương
Taùc gia TOÁ HÖÕU
I. Đặc điểm con người Tố Hữu (1920 – 2002):
1. Nhà thơ bắt đầu sự nghiệp thơ cùng với sự nghiệp cách mạng
2. Tâm hồn thơ Tố Hữu đậm đà bản sắc quê hương.
3. Nhà thơ gắn cuộc đời và sáng tác với các chặng đường cách mạng ⬄ con chim đầu đàn của thi ca cách mạng Việt
Nam.
II. Nội dung các tập thơ của Tố Hữu:
A. Từ Ấy (37 – 46)
(Máu lửa – Xiềng xích – Giải phóng)
1. Tư tưởng: thể hiện rõ nét người thanh niên mới giác ngộ lý tưởng cộng sản, khao khát sống và chiến đấu cho lý tưởng,
sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp cách mạng
2. Nghệ thuật: Hình thức Thơ mới, giọng điệu sôi nổi, tiếng reo vui của tâm hồn (cảm xúc và khát vọng), thể hiện chất trẻ
trung bồng bột của cái nhìn dưới ánh  sáng của “đôi mắt thần chủ nghĩa”
B. Việt Bắc (47 – 54)
1. Tư tưởng : trân trọng những con người bình thường nhưng vĩ đại – bước chuyển biến sâu sắc trong nhận thức, kết quả
những trải nghiệm trong kháng chiến.
2. Nghệ thuật “: hướng tìm tòi khám phá vào vẻ đẹp nghệ thuật dân gian truyền thống, thể hiện suy nghĩ tình cảm quần
chúng bằng chính nghệ thuật của họ ⬄ thành tựu xuất sắc của thi ca kháng chiến.
C. Gió lộng (55 – 61)
1. Tư tưởng: gắn hai nguồn cảm hứng lớn
a. Niềm vui xây dựng cuộc sống mới (Mbắc)
b. Tình cảm với miền Nam và ý chí đấu tranh thống nhất đất nước.
2. Nghệ thuật: thể hiện bút pháp lãng mạn cách mạng, gắn với không khí thời đại, tinh thần lạc quan hướng về tương lai.
D. Ra trận (62 – 71) Máu và hoa (72 -77)
1. Tư tưởng: cảm hứng lãng mạn anh hùng ca là nét chủ đạo – khuynh hướng tổng kết lịch sử – dân tộc – thời đại.
2. Nghệ thuật : thiên về triết lý, âm hưởng anh hùng ca, thể hiện ý nghĩa tuợng trưng cho tinh thần, ý chí của dân tộc,
nhân danh lương tâm thời đại hào hùng.
III. Phong cách nghệ thuật Tố Hữu:
1. Trữ tình chính trị: thơ gắn với lý tưởng cách mạng, các vấn đề lớn của thời đại, dân tộc, gắn với các sự kiện chính trị.
Thể hiện chất sử thi.
2. Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết:
“Tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói của đồng chí” 🡪 thâm nhập sâu rộng trong quần chúng
3. Nghệ thuật thơ đậm đà tính dân tộc:
a. Thể thơ: Đặc biệt thành công ở thể thơ lục bát, bảy chữ.
b. Ngôn ngữ: lối nói, từ ngữ quen thuộc của dân tộc
c. Giàu nhạc điệu
+ Thơ Tố Hữu kết hợp hai nguồn: dân tộc – cạ́ch mạng. Sức thu hút thơ ông là lòng say mê lý tưởng và tính dân tộc đâm
đà.
III. NHỮNG ÐẶC ÐIỂM CHÍNH CỦA PHONG CÁCH THƠ :
1) Ðỉnh cao của thơ trữ tình chính trị trong văn học Việt Nam hiện
đại.
    Ở đó, có sự kế tục truyền thống thơ văn yêu nước thời Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, thơ ca Xô Viết Nghệ Tĩnh ;
kết hợp với những cách tân nghệ thuật theo xu hướng hiện đại hóa. Thơ Tố Hữu là tiếng lòng của một kiểu nhà thơ mới,
đứng giữa lòng cuộc sống mà cất lời kêu gọi đấu tranh. Qua tâm hồn chan chứa yêu thương của nhà thơ, các vấn đề và sự
kiện chính trị liên quan tới vận mệnh cả dân tộc - đều thành nguồn xúc cảm nghệ thuật mãnh liệt. Do đó, khuynh hướng
sử thi và cảm hứng lãng mạn bao trùm phần lớn sáng tác của Tố Hữu. Nhân vật trữ tình luôn nhân danh Ðảng, nhân danh
cộng đồng ; tập hợp những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp ; được nâng lên tầm vóc mới - nên nhiều khi mang
vẻ đẹp phi thường.
2) Thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn. 
+ Thế giới quan của Tố Hữu, ngay từ buổi đầu, đã mang bản chất cách mạng. Khi được Mặt trời chân lí chói qua
tim, nhà thơ nhận ra con đường giải thoát duy nhất cho dân tộc Việt Nam : Cách mạng Vô sản. Bao chông gai thử thách
đang chờ đón, nhưng có hề gì, người thanh niên ấy đã nguyện Dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa. Lý tưởng cách mạng tiên
tiến của thời đại làm sục sôi nhiệt huyết trong trái tim chan chứa yêu thương. Giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc,
đem lại hạnh phúc cho mọi người đã trở thành sự nghiệp, lẽ sống tha thiết, thôi thúc nhà thơ hiến dâng trọn cuộc đời.
Quyết tâm dấn thân vì nghĩa lớn và lòng trung thành tuyệt đối tạo nên chất men say kỳ diệu, có sức lôi cuốn tự nhiên, lâu
bền. 
+ Thơ Tố Hữu thể hiện niềm vui, nỗi buồn và thái độ yêu-ghét đúng đắn. Ðó là tâm trạng của một người nguyện
gắn bó máu thịt với nhân dân. Là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí. Thơ ấy, đã vui thì vui bất tuyệt, còn đau
khổ thì Có khổ đau nào đau khổ hơn. Trái tim tự xát muối, cô đơn. Nhân sinh quan của Tố Hữu cũng mang bản chất cách
mạng sâu sắc : yêu đất nước, con người và cái Thiện ; ghét kẻ thù phi nhân, ghét cái Aïc. Nhưng không phải kiểu yêu -
ghét suông có màu sắc cải lương, bao giờ cũng dẫn đến hành động quyết liệt : tranh đấu tới cùng để bảo vệ chính nghĩa ;
lên án, tiêu diệt những thế lực phản cách mạng, thù địch với con người.
3) Giọng điệu tâm tình ngọt ngào, tha thiết, hồn
nhiên. 
    + Dù là những dòng thơ tươi xanh hay những dòng thơ lửa cháy, giọng thơ Tố Hữu vẫn một điệu sôi nổi, mãnh
liệt. Nhà thơ đặc biệt rung động với nghĩa tình cách mạng sâu nặng, luôn hướng đến đồng bào đồng chí mà chân thành
giãi bày tâm sự, kêu gọi, nhắn nhủ. Giọng thơ có cái duyên riêng của hồn thơ xứ Huế. 
    + Sống và chiến đấu, tất cả cho Tổ quốc, Tố Hữu không mảy may so hơn tính thiệt cho riêng mình. Mối quan
hệ giữa nhà thơ với quần chúng bao giờ cũng rất mực gần gũi, thủy chung, tin yêu tuyệt đối. Do đó, trong ước vọng về
một thiên đường trên mặt đất - "Người yêu người sống để yêu nhau”, tiếng lòng của nhà thơ được bộc lộ một cách hồn
nhiên.
4) Nghệ thuật thơ vừa giàu tính dân tộc vừa rất hiện đại. 
Dân tộc chủ yếu ở hình thức (thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh, kết cấu). Hiện đại chủ yếu trong đề tài, tư tưởng chủ đề
(các giá trị truyền thống được cảm nhận và thể hiện trên tinh thần mới mẻ).  
XUÂN DIỆU 
( 1916 – 1985)
 Một số điểm cần lưu ý : 
+ Xuân Diệu là nhà thơ lớn của dân tộc, ông luôn là tấm gương lao động nghệ thuật bền bỉ, dẻo dai, giàu sức sáng tạo, đạt
được nhiều thành tựu lớn trong sáng tác. 
            + Xuân Diệu là người giới thiệu, phê bình thơ rất tinh tế và sắc bén. Ông có được những thành công lớn không
chỉ ở việc giới thiệu, phê bình thơ cổ điển, thơ ca hiện đại, mà còn ở cả thơ ca nước ngoài. Ông thường chỉ ra được cái
hay, sự độc đáo ở mỗi nhà thơ qua tác phẩm của họ. 
            + Cuộc đời và thơ của Xuân Diệu gắn với quê hương đất nước. Ông có khát vọng hiến dâng sức lực và trí tuệ của
mình cho dân tộc, ông không ngại khó khăn, gian khổ, hăng hái, nhiệt tình, đi khắp mọi nẻo đường Tổ quốc để phục vụ
nhân dân … Chính vì lẽ đó, Xuân Diệu được tất cả độc giả trong nước yêu mến, ngưỡng mộ không chỉ ở thơ, mà còn ở
tấm lòng say sưa và chân thành của ông trước cuộc đời
2 – Xuân Diệu với thơ :   
2.1 – Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám : 
      Trước Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu có hai tập thơ: Thơ thơ (1938) và  Gửi hương cho gió (1945). Ông là
nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới cả về nội dung lẫn hình thức. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã khẳng
định: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, nhà thơ đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại”. 
Khác với các nhà thơ cùng thời kì, Xuân Diệu gắn bó thiết tha với cuộc sống, “Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của
một tấm lòng trần gian”. Khát vọng mãnh liệt đến với cuộc đời, giao cảm với đời là một trong những yếu tố tạo nên sức
hấp dẫn của thơ Xuân Diệu. 
      Cảm hứng về tình yêu là cảm hứng nổi bật trong thơ Xuân Diệu. Với ông, tình yêu đã trở thành lẽ sống, “làm
sao sống được mà không yêu”, mặc dầu ông cảm nhận :“ Yêu là chết ở trong lòng một ít, vì mấy khi yêu mà chắc được
yêu”. Bởi thế, ông luôn có tâm trạng Vội vàng, Giục giã . Ông sợ thời gian, ông muốn vũ trụ ngưng đọng : 
                                  Tôi muốn tắt nắng đi      
                      Cho màu đừng nhạt nắng 
                                         Tôi muốn buộc nắng lại 
                                        Cho hương đừng bay đi. 
(Vội vàng) 
hay là:      
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ 
                                Em em ơi, tình non sắp già rồi 
                                           Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai        
                                        Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn. 
(Giục giã) 
Tình yêu được Xuân Diệu diễn tả với nhiều cung bậc, từ Gặp gỡ rồi Yêu, cho đến khi Xa cách , Biệt li êm ái và với
những tâm trạng và hành động khác nhau: Có khi là sự “dại khờ”, “mời yêu” hay “ngẩn ngơ”, “nhớ mông lung”,“sầu”, …
Cũng có khi “ rạo rực” khát vọng : 
                            Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối 
                                         Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm . 
Xuân Diệu đã thể hiện được một tình yêu đích thực, không e ấp ngượng ngùng khi bày tỏ tình yêu. Ông muốn tạo
nên một không gian thấm đẫm tình yêu để gửi gắm niềm khao khát về tình yêu vô biên và tuyệt đích : 
Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ 
Phải nói yêu trăm bận đến nghìn lần 
Phải mặn nồng cho mãi mãi đem xuân 
Đem chim bướm thả trong vườn tình ái. 
(Phải nói) 
       Dẫu tình yêu có nồng cháy, mãnh liệt nhưng nó vẫn không được cuộc đời đón nhận, khiến “cái tôi” phải cầu xin: 
                                 Mở miệng vàng.. và hãy nói yêu tôi 
                                         Dầu chỉ là trong một phút mà thôi!... 
(Mời yêu) 
       Càng yêu cuộc đời bao nhiêu, Xuân Diệu càng tự đày ải trái tim của mình và càng thất vọng bấy nhiêu… Điều đó
đã tạo nên sự “cô đơn muôn lần muôn thuở cô đơn” cho nhà thơ. Đặc biệt, có khi “ cái tôi” đã lên đến đỉnh cao của sự cô
đơn, nhỏ nhen, tầm thường: 
                               Ta là Một, là Riêng là thứ Nhất 
                                         Không có chi bè bạn nổi cùng ta ! 
( Hy Mã Lạp Sơn)
“Cái tôi” gục xuống, sợ hãi, thốt lên lời rên rỉ trước cuộc đời thờ ơ, lạnh nhạt, hay đau đớn van xin : “Chớ đạp hồn em”,
“Chớ để riêng em phải gặp lòng em” và rơi vào tâm trạng tuyệt vọng : 
                             Xao xác tiếng gà, trăng ngà lạnh buốt 
Mắt run mờ, kỉ nữ thấy trăng trôi 
                                         Du khách đi, du khách đã đi rồi . 
(Lời kĩ nữ) 
       Cũng vì thế, tình yêu trong thơ Xuân Diệu gắn liền với nỗi cô đơn và sự hoài nghi. Ngay cả khi “ được yêu”
nhưng “ cái tôi” vẫn lo sợ vì cảm nhận sự biệt li, tan vỡ đang dần đến. Cho dù cùng người yêu dạo bước dưới ánh trăng
“cái tôi” vẫn cảm thấy: 
                                Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá 
                                           Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ. 
       Có thể nói, tình yêu trong thơ Xuân Diệu thời kì này rất nồng cháy, “vô biên” để rồi rơi vào bi kịch của một trái
tim hiến dâng nhầm chỗ và “say khướt đau thương”. 
      Về nghệ thuật: Xuân Diệu cảm nhận cuộc sống bằng nhiều giác quan mà đặc biệt là cảm giác ( Thơ duyên,  Vội
vàng, Nhị hồ,… ). Ông sử dụng ngôn ngữ thơ rất sáng tạo, và luôn có sự tìm tòi mới mẻ, độc đáo nhằm tạo nên sức gợi tả,
truyền cảm mạnh mẽ cho thơ (Đây mùa thu tới, Khi chiều giăng lưới, Vội vàng). Xuân Diệu đã sử dụng thành công sự
tương quan giữa các màu sắc, âm thanh nhịp điệu để tạo nên âm hưởng trong thơ (Nguyệt cầm, Thơ duyên,… ). 
      Tóm lại: Thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám biểu hiện rõ tấm lòng của một con người nặng tình với
đời song bế tắc. Tình yêu nam nữ trong thơ Xuân Diệu thời kì này được diễn tả với tất cả cung bậc của nó qua những vần
thơ uyển chuyển giàu âm thanh, màu sắc, hình ảnh…, để lại âm vang mạnh mẽ trong lòng người đọc. 
 2..2 – Thơ Xuân Diệu sau Cách mạng tháng Tám: (SGK 11)
4 – Phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu: 
              Xuân Diệu là một nhà thơ luôn gắn bó với cuộc sống và sống hết mình cho cuộc sống.
Xuân Diệu luôn có mặt trong cuộc sống, ông đặt tên cho một tập thơ của mình là Tôi giàu đôi mắt. Ông hăm hở, say mê
sáng tạo với trách nhiệm của một công dân trước cuộc sống. Thơ ông bám lấy thực tại của cuộc sống, đưa sự vật, hiện
tượng vào thơ, muốn mở rộng cánh cửa thơ cho cuộc sống tràn vào, do vậy trong thơ ông có sự bề bộn của những chi tiết
hiện thực cuộc sống. Ông muốn thơ phải có sức chứa lớn và sức phản ảnh rộng lớn phong phú. 
        Xuân Diệu là nhà thơ giàu sức sáng tạo, luôn có ý thức tìm tòi, thể nghiệm trên nhiều phương diện (cách xây
dựng hình tượng, nhịp điệu, ngôn ngữ … ). Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân tạo nên thơ hay và thơ trung
bình ở mỗi tập thơ của ông. 
           Tâm hồn thơ Xuân Diệu luôn có sự tinh tế và nhạy cảm. Đó là yếu tố bền vững trong thơ Xuân Diệu trước và sau
cách mạng. Nói cách khác, sức thanh xuân luôn tràn đầy trong tâm hồn thơ  Xuân Diệu. Tươi trẻ, hăng say như cái thuở
ban đầu yêu và đang yêu là nét nổi bật trong thơ Xuân Diệu. Sự nhạy cảm của tâm hồn đã tạo cho thơ ông thêm giàu
hương vị của cuộc đời, tác động mãnh liệt đối với nhận thức của người đọc. 
  Thơ Xuân Diệu có khi còn nặng về kể, giải bày, ít ẩn ý, thiếu hàm súc, dễ dãi, dài dòng trong nhạc điệu, từ ngữ .
Điều đó tạo nên sự hạn chế phần nào về sức truyền cảm và hấp dẫn của thơ ông đối với người đọc.   

NAM CAO (1915-1951)


I. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ : 
1. Sinh năm 1915 trong một gia đình trung nông ở làng Ðại hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay thuộc Nam Hà).   
- Những ngày sôi nổi của tuổi trẻ, cũng như buổi đầu đến với văn học, Nam Cao làm một số thơ lãng mạn và viết những
truyện tình thơ mộng. Ở thời kỳ này ngòi bút của Nam Cao dò dẫm tìm một lối đi, tâm hồn Nam Cao dần dần đổi thay,
có được một cái nhìn đúng đắn cuộc sống. 
Những áng mây xốp bồng bềnh trôi nổi, ánh trăng xanh huyền ảo, ngọn gió mát lành thơm tho thoảng qua từ những mái
tóc, tà áo thiếu nữ, những cuộc hẹn hò, trang sức... Tất cả chất liệu ấy có lần đến với ngòi bút Nam Cao, mạng theo nhiều
mơ ước xa xôi và những nỗi buồn vẩn vơ của lứa tuổi học sinh chịu ảnh hưởng của sách báo lãng mạn. Nam Cao trong
tuổi trẻ không khỏi có lúc 
Tâm hồn tan tác làm trăm mảnh
Vương vấn theo ai bốn góc trời 
Nhưng Nam Cao chóng trở về với cuộc đời thực. Cái buồn thường sớm nhường chỗ cho những cái lo. Nỗi cơm áo, bệnh
tật, công ăn việc làm, Nam Cao không thích sự mơn trớn, vuốt ve "Nghệ thuật không thể là ...". Nam Cao tìm đến sự thật
với tấm lòng yêu thương cuộc sống, những lớp người và những cảnh đời đau khổ. Với những rung động xót xa đến cháy
lòng trước bao ngang trái, bất công của chế độ cũ, Nam Cao muốn phơi bày sự thật của cuộc đời và của lòng người. 
Nam Cao gần gũi và quen thuộc chốn đồng quê và những cảnh đời lầm than, đau khổ và chính cái làng quê ấy đã đi vào
những trang viết rất chân thật sinh động của ông. Tiếp xúc và cọ xát với nhiều loại người, nhiều số phận khác nhau, Nam
Cao đã từ cái bao quát chung để thấm thía và chiêm nhiệm cho thân phận tầng lớp và của riêng mình 
Năm 1943, Nam Cao tham gia nhóm văn hóa cứu quốc do Ðảng lãnh đạo. Khi bị khủng bố gay gắt, Nam Cao về hẳn
làng tham gia phong trào Việt minh ở địa phương. Sau ngày tổng khởi nghĩa nhà văn được bầu là chủ tịch xã ít lâu sau,
Nam Cao được điều lên công tác ở hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký toà soạn báo Tiền phong, cơ quan của hội. Năm
1946 theo đoàn quân Nam tiến vào vùng nam trung bộ. Trở về, Nam Cao tiếp tục làm công tác thông tin tuyên truyền
như viết tin, viết tài liệu, làm ca dao, xem sách. Thời gian này Nam Cao được kết nạp vào Ðảng Cộng Sản Ðông Dương.
Tháng 11-1951 trên đường vào công tác vùng địch hậu liên khu Ba, Nam Cao bị một toán phục kích bắn chết gần bốt
Hoàng đan, Ninh bình. Nam Cao ngã xuống giữa lúc đang ấp ủ cuốn tiểu thuyết lớn về quê hương chuyến đi đó nhà văn
lấy tài liệu để hoàn chỉnh tác phẩm Làng. 
2. Nam Cao là con người hiền lành trầm mặc nhút nhát đến vụng về, có vẻ như lạnh lùng khó gần. Nhà văn rất khổ tâm
về cái tật "hãi người" và "cái mặt không chơi được" (tên một truyện ngắn) của mình. Trước Cách mạng, Nam Cao luôn
sống trong tâm trạng đau khổ u uất, bất đắc chí. Ốm yếu thất nghiệp, Nam Cao sống lay lắt bằng nghề văn và dạy tư là
hai cái nghề bạc bẽo khi đó. 
Nam Cao viết văn rất sớm và khá nhiều, tài năng trưởng thành rất nhanh. Nhưng gần 10 năm viết văn trước Cách mạng.
Nam Cao hầu như không có vị trí gì trên văn đàn đương thời. Hầu hết truyện dài của Nam Cao đều phải bán bản quyền
để rồi bị vứt xó cho đến khi bản thảo bị thất lạc. Hiếm có một nhà văn có tài mà bước vào làng văn lại chật vật và bị đối
xử bất công như Nam Cao. 
Nam Cao luôn chất chứa trong lòng tâm sự của người nghệ sĩ "Tài cao phận thấp chí khí uất" (Tản Ðà) mà đó cũng là
tâm trạng "Phản kháng mãnh liệt" của người trí thức tiến bộ với cái xã hội bóp nghẹt cuộc sống con người. Nam Cao
không như kẻ khác do bất mãn cá nhân mà hằn học, thù ghét "cả giống người". Con người bề ngoài có thể lạnh lùng đó
bên trong là một tâm hồn chan chứa yêu thương. 
3. Sự gắn bó cảm động với bà con dân quê là một tình cảm nổi bật trong con người Nam Cao. Nhà văn lớn lên trong sự
đùm bọc của những người nông dân nghèo khổ ruột thịt. Ðó là bà ngoại nhà văn góa chồng năm 22 tuổi, suốt đời vất vả
cực nhọc nuôi con cháu. Ðó là người mẹ hiền lành lam lũ. Ðó là người vợ chịu thương chịu khó. Ðó là người dì nuôi đã
bế ẵm nhà văn khi còn tấm bé. Hình ảnh những con người đó trở đi trở lại trong nhiều trang viết của Nam Cao. Tác phẩm
của Nam Cao luôn luôn hiện lên cái làng Ðại Hoàng thân thiết. Hình ảnh quê hương đã nâng đỡ nhà văn lúc bi quan bế
tắc. 
Là một thanh niên tiểu tư sản, lại sống giữa xã hội đầy xấu xa. Nam Cao không phải không tiêm nhiễm nhiều cái tiêu
cực. Nhưng cái đáng quí ở Nam Cao là tự mình đấu tranh nghiêm khắc để vượt mình, vượt khỏi cuôc sống tầm thường,
nhỏ nhen, đê tiện, vươn tới cái đúng, cái đẹp, cái cao thượng. 
4. Bước đầu sáng tác: con đường hiện thực đến với Nam Cao hiện thực và quan điểm sáng tác của Nam Cao 
Ø Nam Cao ước mơ sáng tác từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường. Ông đã có thơ, truyện cười, truyện ngắn, kịch vui...
đăng báo từ năm 1938. Nam Cao ít nhiều chịu ảnh hưởng tiểu tư sản đương thời, ông chịu ảnh hưởng của văn học lãng
mạn thoát li. Thơ của Nam Cao nặng về nỗi buồn vu vơ. Nhưng truyện ngắn Nam Cao chú ý đến cảnh ngộ đau khổ trong
xã hội, kiếm ăn bằng việc mua vui cho người khác. Một cô đào hát, chết gục giữa tiếng hát của mình trên sân khấu (Cảnh
cuối cùng). Một diễn viên xiếc nghèo bị tình phụ đã giết chết người tình rồi tự sát khi biểu diễn (Hai xác chết). Hai chú
bé thổi kèn Si-ca-gô và nhào lộn trên đường phố (Hai đứa trẻ).                          
Thời kỳ này khuynh hướng phê phán xã hội cũng đã rõ nét ở Nam Cao như trong truyện ngắn "Nghèo", "Ðui mù", "Một
bà hào hiệp". Chủ nghĩa hiện thực thật sự được khẳng định ở truyện ngắn "Chí
Phèo"                                                                
Ø Trong số những nhà văn hiện thực trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Nam Cao là người có trách nhiệm nhất về ngòi
bút của mình. Suốt cuộc đời lao động văn chương nhà văn luôn suy nghĩ "Sống và viết". Trong "Trăng sáng" Nam Cao
đòi nghệ thuật phải là tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp sống lầm than "Chứ không phải là món giải trí của những người
đàn bà nhàn nhã ngã mình trên những chiếc ghế xích đu nhún nhảy" (Trăng sáng) là một tuyên ngôn cảm động, đanh
thép của quan điểm Nghệ thuật vị nhân sinh" cũng là lời tâm niệm chân thành của nhà văn tiểu tư sản nguyện trở về,
chung thủy với quần chúng nghèo khổ. 
Nam Cao chế giễu cay độc những nhà tiểu thuyết "óc đầm đìa thuốc phiện", "suốt đời nhìn trăng" nhân vật lý tưởng của
họ là những cô gái nhí nhảnh, lẳng lơ và rất giả dối, độc ác. 
Là một nhà văn chân chính, Nam Cao bao giờ cũng đặt cuộc sống lên trên nghệ thuật. Nam Cao tự nhủ phải sống cho
đúng thì viết mới đúng. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lăng đất nước ta, Nam Cao muốn "vứt cả bút đi để cầm súng", nhà
văn cảm thấy "Nếu như chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vụng về " (Bút ký Ðường Vô Nam -1946). Với Nam
Cao nghệ thuật phải hiện thực cả trong nội dung và hình thức. Tiểu thuyết của Nam Cao hình như không có sự hư cấu. Vì
vậy, đọc văn Nam Cao ta kinh ngạc về tính chân thực, điều đó khiến cho tác phẩm của nhà văn có sức thuyết phục mạnh
mẽ. 
Về phương diện lao động nghệ thuật, Nam Cao nhấn mạnh lương tâm người cầm bút, Nam Cao phê phán nghiêm khắc sự
cẩu thả trong nghề văn coi đó là sự "bất lương" đến "đê tiện" Nam Cao thấy hết trách nhiệm của người cầm bút với ý
thức trách nhiệm đầy đủ trước xã hội, phải nổ lực để "hiểu biết, khám phá, sáng tạo"  
II. ÐỀ TÀI TIỂU TƯ SẢN 
1. Truyện ngắn                        
Sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám tập trung viết về tầng lớp tiểu tư sản nghèo . 
Ø  Hầu hết các nhân vật giống nhau về cảính ngộ, tính cách... ít nhiều họ đều là hình ảnh bản thân Nam Cao. Ðó là những
học sinh thất nghiệp, những viên chức hạngbét, những giáo khổ trường tư, những nhà văn nghèo bất đắc chí ... họ "phải
bán dần sự sống để giữ cho mình khỏi chết" (Quên điều độ ). 
. Những lo lắng cơm áo hằng ngày đè nặng cuộc đời họ, giày vò tâm trí họ, tạo cho họ cái tâm trí xo ro thảm hại, cái nhịp
sống điều độ tội nghiệp. 
- Cả cuộc đời họ không một chút lạc thú, một tiếng cười vui, có chăng là tiếng cười thiểu não trong truyện "Cười". Tiếng
cười đó còn khổ hơn cả giọt nước mắt của Ðiền trong "Nước mắt" khi anh cảm thấy mình khổ quá "Khổ như một con chó
vậy" 
Ø Nam Cao viết về những nổi đau quằn quại trong tâm hồn, nhiều khi có tính bi kịch của họ. 
- Họ là những nhà văn mang tên Hộ, Ðiền, Du, có khi được gọi là hắn và xưng là tôi. Họ thường ôm ấp một hoài bão về
sự nghiệp tinh thần. Họ đã từng sẳn sàng hiến cả đời mình cho nghề văn. 
- Tác phẩm của họ có tính nhân đạo. Theo Hộ, tác phẩm có giá trị phải là "tác phẩm chung cho cả loài người. Nó ca tụng
lòng thương, tình bác ái , sự công bình... nó làm cho con người gần người hơn " 
- Ở họ giữa ước mơ và hiện thực mâu thuẫn nhau: hàng ngày chuyện áo cơm ghì sát đất . Lẽ ra ngòi bút của họ phải viết
về một cái gì đó to lớn, góp phần xây dựng nhân loại thì giờ đây, để kiếm tiền nuôi vợ con đã phải viết toàn những cái vô
vị nhạt phèo, gợi tình cảm rất nhẹ, rất nông. Họ đau đớn nhận ra rằng mình là một con người thừa. 
- Họ rơi vào mâu thuẩn giữa tình thương và sự nghiệp: họ định thoát li vợ con để rảnh rang theo đuổi văn chương. Nhưng
Hộ không thể ích kỷ tàn nhẫn như vậy. Hộ đã hy sinh sự nghiệp để giữ lấy tình thương. Rồi lại rơi vào sự nuối tiếc, sự
cục cằn thô bạo. Khi tỉnh lại, Hộ càng đau đớn hơn nữa lẽ sống cuối cùng cũng không giữ được. Hộ nói với vợ trong
tiếng nức nở : "Anh ... chỉ là... một thằng... khốn nạn"        
Ø   Người trí thức trong truyện ngắn Nam Cao còn ghi lại những quằn quại trong cuộc đấu tranh tư tưởng của người tiểu
tư sản. 
Ðấu tranh với xu hướng thoát li hưởng lạc "Quên điều độ " "Nhìn người ta sung sướng", "Trăng sáng", "Truyện
tình"         
Nam Cao thù ghét sự ích kỷ độc ác và quan niệm về kẻ mạnh "không phải là kẻ giẫm lên vai người khác để thỏa mãn
lòng ích kỷ, kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình " (Ðời thừa). 
Nam Cao luôn muốn bênh vực mọi người bằng lỗi lầm của họ. Muốn hoà giải con người bằng sự cảm thông. Truyện của
Nam Cao ghi lại những giằng xé quằn quại của người tiểu tư sản trong cảnh bế tắc, đồng thời cũng ghi lại sự chiến thắng
của tư tưởng nhân đạo.  Nam Cao và các nhân vật của mình vẫn bế tắc.  
III. ÐỀ TÀI NÔNG DÂN 
1. Những nhân vật nông dân trong truyện ngắn Nam Cao 
Mỗi tác phẩm của nhà văn là một lời tố khổ chân thực, cảm động về cuộc sống tối tăm, thê thảm của người nông dân. 
Nông thôn trong tác phẩm Nam Cao là nông thôn Việt Nam vốn triền miên trong bần cùng, giờ đây đang tiến tới thảm
họa khủng khiếp 1945. 
- Cảnh chết đói: lão Hạc ăn bả chó tự tử để tránh chết đói. 
Bà cái Tí chết vì một bửa quá no, một kiểu chết đói (Một bửa no). 
Cảnh đám cưới chạy đói (Một đám cưới). Một đám cưới của Dần trong cảnh nghèo, không đón đưa, không may mặc,
không cỗ bàn, một đám cưới có 6 người cả nhà gái nhà trai: : "cả bọn đi lũi lũi trong sương lạnh và bóng tối như một gia
đình xẩm lẳng lặng dắt nhau đi tìm chỗ ngủ ". 
- Nam Cao chú ý đến những người thấp cổ bé họng nhất, bị áp bức bất công nhiều nhất, chịu số phận đen đủi, hẩm hiu.
Những kẻ cố cùng như Binh Chức "làm thì cật lực mà quanh năm vẫn nghèo rớt mùng tơi, chỉ vì một miếng ăn mà cũng
không giữ được mà ăn, đứa nào vớ được nó cũng xoay mà đứa nào xoay cũng chịu". Như Chí Phèo bị cả xã hội bỏ rơi
ngay từ khi mới ra đời. Ðó là Thị Nở một người đàn bà ế chồng, sinh ra từ một gia đình có mả hủi, bị loài người xa lánh.
Ðó là một mụ Lợi, Cu Lộ Lang Rận, những người không được loài người coi là người. 
- Bị ức hiếp nhiều nhất có lẽ là người phụ nữ trong xã hội; trong xã hội ấy, thân phận người phụ nữ là thân phận nô lệ,
luôn bị chà đạp thô bạo, bất công có khi họ là nạn nhân khốn khổ cùng kẻ mà họ phải thờ phụng. Những thằng chồng vũ
phu, tham ăn tục uống, hành hạ vợ một cách dã man (Ở hiền, Dì Hảo, Ðòn chồng, Trẻ em không được ăn thịt chó ) 
Ði vào cuộc đời những con người bị ức hiếp nhiều nhất, càng hiền lành càng lụi xuống bùn đen, Nam Cao đã làm nổi bật
lên tình trạng bất công ghê gớm trong xã hội: "tại sao trên đời này nhiều sự bất công đến thế ?". câu hỏi không lời giải
đáp đó trongỞí hiền" một truyện ngắn có tính chất luận đề nghi vấn, cái "đạo lí ở hiền gặp lành " cũng là vấn đề Nam
Cao đặt ra trong hầu hết tác phẩm của mình. 
- Trong tác phẩm của Nam Cao ta thường gặp những nhân vật nông dân xấu xí, thô lỗ, độc ác, nhục nhã trong cuộc sống
của họ. Ðiều đó khiến cho một số người hoài nghi ý nghĩa hiện thực và nhân đạo của nhiều truyện Nam Cao. Ðúng là
trong sự biểu hiện một số truyện Nam Cao có vẻ tự nhiên chủ nghĩa. Nhưng không như những nhà văn chủ nghĩa nhìn
quần chúng như một lũ vật - người ngu dốt đầy thú tính. 
Trái lại từ cái bề ngoài xấu xí, có khi rất thú vật của người nông dân đã phát hiện ra tâm hồn con người. Nam Cao không
chỉ nói đến tình cãnh bị bóc lột về thể chất mà đi sâu vào nổi khổ, tâm hồn con người bị đày đọa, nhân phẩm bị xúc
phạm, giá trị làm người bị tước đoạt. 
Bị sỉ nhục tàn tệ, người nông dân khốn khổ chỉ có thể hoặc từ bỏ cuộc sống như Lang Rận, hoặc phải từ bỏ lòng tự trọng
nhân phẩm như Cu Lộ, Chí Phèo. 
Nam Cao đã đanh thép lên án cái xã hội chà đạp người nông dân lượng thiện và dõng dạc bênh vực nhân phẩm của họ
ngay trong khi bị nhục mạ một cách độc ác bất công. 
Trước Cách mạng tháng Tám ít có nhà văn hiểu được cách sâu xa ngõ ngách sâu kín, những hy sinh thầm lặng mà cao
quí trong tâm hồn người nông dân như Nam Cao. Ðó là chỗ mạnh trong cái tài của nhà văn nhưng trước hết là ở cái tâm
"chữ tâm kia với bằng ba chữ tài " tức là ở tấm lòng tri âm của nhà văn đối với người nông dân nghèo khổ. 
Số phận người nông dân có thay đổi được không ? câu hỏi đó, Nam Cao cũng như mọi nhà văn hiện thực phê phán chưa
trả lời được. Truyện Nam Cao bao trùm một không khí buồn thảm, u ám. Ðó là cái u ám của hiện thực. Nhưng cũng là u
ám trong tâm hồn Nam Cao. 
- Miêu tả người nông dân Nam Cao quá thiên về mặt tha hóa nặng nề, những con người xấu xí đến quái dị, ý nghĩa thẩm
mỹ rất mỏng manh. 
- Trong bi quan, bế tắc có lúc Nam Cao như mất phương hướng rơi vào khủng hoảng, khi ấy nhà văn dễ tiếp thu tư tưởng
định mệnh, ma quái: "Nửa đêm" những nhân vật chính đều là những con vật người, điên loạn trong một không khí ghê
rợn. 
IV. VÀI NÉT VỀ ÐẶC ÐIỂM NGHỆ THUẬT 
Nam Cao có một bản lĩnh nghệ thuật già dặn, một phong cách đa dạng, mới mẻ độc đáo. 
1. Phản ánh những khía cạnh chân thực 
Sức mạnh tài năng của Nam Cao thể hiện trước trước hết ở sự chân thực trong nội dung và trong hình thức nghệ thuật. 
Một đặc điểm đặc sắc của Nam Cao là từ những sự việc rất mực tầm thường quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày đã
đặt vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn. 
Ðọc Nam Cao, ta vừa thấy hiện rõ trước mắt những chi tiết chân thực cụ thể vừa vương vấn những suy nghĩ triết lý mà
tác giả gửi gắm đằng sau mỗi câu chuyện. 
Viết về người nông dân, cốt truyện đơn giản mà ý  nghĩa xã hội sâu sắc. Viết về người tri thức là viết theo dòng suy nghĩ
của nhân vật. 
Truyện của Nam Cao thường đậm đà ý vị triết lý, mang nặng suy nghĩ. Ðó là những suy nghĩ được vắt ra từ cuộc sống
vất vả, lầm than, từ những giằng xé của một tâm hồn trung thực cố bám sát vào cuộc sống và vươn tới chân lý. 
2. Chất trữ tình      
"Trong văn xuôi trước Cách mạng, chưa có ai có được ngòi bút sắc sảo, gân guốc, soi mói như của Nam Cao" (Lê Ðình
Kị văn nghệ số 54, 8-5-1964) 
Ngòi bút của Nam Cao thường lạnh lùng nhưng không hề giống cái lạnh lùng trước số phận quần chúng của các "tác giả
tả chân tư sản". Ngôn ngữ của Nam Cao  dùng cho "ông Chánh ", "bà phó " và dửng dưng khi nói đến con người nghèo
khổ thường gọi là "hắn ", "y", "thị ", "mụ ". chính giọng bình thản lạnh lùng ấy là cảm xúc nén lại khiến cho sự phẩn uất
xót thương càng tăng lên. 
Ở nhiều truyện, Nam Cao thường mở đầu bằng tiếng cười hả hê, vô tâm trước một bộ mặt xấu xí, một tình huống khôi
hài của nhân vật, nhưng khi gấp trang truyện lại, người đọc thấy xót xa rùng mình về số phận thê thảm của con người bị
đè nén, bóc lột, bị sỉ nhục thậm tệ. 
Tác phẩm của Nam Cao có một phong thái trữ tình thắm thiết. Truyện Nam Cao thường là truyện ít tình nhiều. Nhiều
truyện có tính chất tự truyện kể về cuộc đời, tâm sự tác giả. Nhà văn thường xen lẫn tự sự và trữ tình, vừa kể chuyện vừa
tham gia vào câu chuyện. Có khi Nam Cao bước hẳn vào tác phẩm trực tiếp đứng ra kể chuyện và phát biểu cảm nghĩ của
mình. 
3. Miêu tả tâm lí nhân vật 
Viết về người nghèo, Nam Cao chú ý đến những đau khổ về tinh thần của họ. Viết về người trí thức tiểu tư sản, Nam Cao
phát hiện ra bi kịch tâm hồn. 
Thế giới nhân vật của Nam Cao đông đảo mỗi nhân vật có một diện mạo tâm lý riêng. Tính cách, tâm lý nhân vật được
khắc họa rõ nét chủ yếu bằng sự soi sáng bên trong hơn là bằng miêu tả ngoại hình và hành động bên ngoài. 
Nhân vật Bá Kiến có giọng quát "rất sang " và tiếng cười "Tào Tháo" bá Kiến là một con hổ biết cười. 
Nhân vật trí thức tiểu tư sản Nam Cao chú ý cái thư thế còm ròm, xo ro, thể hiện một cuộc sống mờ nhạt thiểu não nhỏ
nhen. Có những nhân vật không miêu tả ngoại hình mà vẫn sống vì được soi sáng từ bên trong. 
Ngòi bút Nam Cao sinh động khi miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật, Bá Kiến, Chí Phèo. 
- Truyện Nam Cao kết cấu không theo trình tự thời gian: phần kết thúc đưa lên trước, thường là bắt đầu từ giữa câu
chuyện rồi mới ngược trở về trước và tiếp tục về sau (Chí Phèo, Một đám cưới, Ðời thừa, Sống mòn) 
- Nam Cao ít tả cảnh, mà có tả cảnh cũng để soi sáng nội tâm nhân vật. Cũng có trăng, trăng của anh văn sĩ lãng mạn là
"liềm vàng", "đĩa bạc là cái vú mộng tràn đầy mà thi sĩ của muôn đời mơn man" (Trăng sáng). Còn trăng trong "Chí
Phèo" thì "nhễ nhại", "rời rợi  như là ướt nước ...giẫy lên đành đạch như là hứng tình" 
- Ngôn ngữ trong truyện của Nam Cao là lời ăn tiếng nói quần chúng, giản dị mà phong phú chắc chắn mà uyển chuyển,
có khi xù xì dài dòng nhưng trong sáng đậm đà thường xen lẫn thành ngữ, tục ngữ.  
V. KẾT LUẬN 
Nam Cao thực sự là một cây bút văn xuôi đầy tài năng 
Một quan điểm nghệ thuật vững vàng. Nội dung viết ra trong tác phẩm là tấm lòng yêu thương ưu ái với tầng lớp người
biết áp bức. Văn chương của Nam Cao là "tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp lầm than" 
Nghệ thuật của Nam Cao là thứ nghệ thuật tìm tòi, sáng tạo "Biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và
sáng tạo những cái gì chưa có ". 
NGẪM THÊM VỀ CHÍ PHÈO 
TRẦN HÀ NAM·24 THÁNG 12 2015 
Khi tiếp cận truyện “Chí Phèo” của Nam Cao, lâu nay trong nhà trường  thường chỉ tập trung vào giá trị nhân đạo của
truyện ngắn này,với bi kịch  bị tước đoạt nhân tính lẫn nhân hình, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.  Đứng từ quan
điểm đấu tranh giai cấp, xem xét tính điển hình hóa của  nhân vật trong bối cảnh xã hội Việt Nam thời thực dân nửa
phong kiến, để rồi cuối cùng kết luận nghiêng về phê phán tố cáo xã hội - lên án bà cô Thị 
Nở, đại diện cho thành kiến xã hội và tố cáo Bá Kiến - đại diện tầng lớp  cường hào ác bá ở nông thôn trước cách mạng,
bênh vực cho người nông  dân bị bần cùng hóa và lưu manh hóa, cổ vũ khuyến khích tinh thần tức  nước vỡ bờ và khát
khao hướng thiện của con người... Cách tiếp cận ấy mới  chỉ là một phía, chưa toàn diện bức thông điệp mà Nam Cao
muốn gửi  gắm. 
Thực tế, tác phẩm của Nam Cao có một cách tiếp cận khác, phong phú hơn,  đa dạng hơn, không chỉ dừng lại ở tiếp cận
nhân vật loại hình mà nhân dân  đã nhận ra giá trị vượt thời gian, không gò trong khuôn hình xã hội nhất  định. Người ta
nói đến “tính cách Chí Phèo” ở những kẻ lưu manh chuyên  phá làng phá xóm, phá hoại sự yên bình của cộng đồng, quấy
rối cuộc sống  những người lương thiện. Người ta cũng có những câu truyền miệng dân  gian, nâng nhân vật của Nam
Cao lên một tiêu chí đánh giá đẹp - xấu, như:  “Trông xa thì tưởng Thúy Kiều - Lại gần thì hóa người yêu Chí Phèo”.
Cách  tiếp cận ngoài định hướng đem lại nhiều khám phá nhưng dường như chưa  được nói đến nhiều trong nhà trường.
Và như vậy, trong nhà trường, tác  phẩm đã bị hạ thấp một phần giá trị nhân sinh, tầm nhân loại... 
Cách tiếp cận này đã dẫn đến sự ra đời của những tác phẩm phái sinh từ Chí Phèo của Nam Cao, chẳng hạn như bài thơ
độc đáo “Nỗi niềm Thị Nở”  của nhà thơ Quang Huy: 
Người ta cứ bảo dở hơi 
Chấp chi miệng thế lắm lời thị phi 
Dở hơi nào dở hơi gì 
Váy em xắn lệch nhiều khi cũng tình
Làng này khối kẻ sợ anh 
Rượu be với chiếc mảnh sành cầm tay 
Sợ anh chửi đổng suốt ngày 
Chỉ mình em biết anh say rất hiền 
Anh không nhà cửa bạc tiền 
Không ưa luồn cúi không yên phận nghèo 
Cái tên mơ mộng Chí Phèo 
Làm em đứt ruột mấy chiều bờ ao 
Quần anh ống thấp ống cao 
Làm em hồn vía nao nao đêm ngày 
Khen cho con Tạo khéo tay 
Nồi này thì úp vung này chứ sao 
Đêm nay trời ở rất cao 
Sương thì đẫm quá trăng sao lại nhoà 
Người ta mặc kệ người ta 
Chỉ em rất thật đàn bà với anh 
Thôi rồi đắt lắm tiết trinh 
Hồn em nhập bát cháo hành nghìn năm 
Thực ra, cách tiếp cận của Quang Huy vẫn rất gần gũi, khi phát hiện vẻ đẹp  của nhân vật Thị Nở, sản phẩm của lòng
nhân đạo Nam Cao, khi tạo ra  người đàn bà “dở hơi” sánh với ông chỉ có một nghề “đập đầu, rạch mặt ăn  vạ”. Quang
Huy nhìn thấy cuộc gặp gỡ của “con vật ghê tởm nhất” và “con  quỷ dữ của làng Vũ Đại” đích thực là cuộc gặp của hai
con người, có phần  thi vị hóa Thị Nở và gán cho nhân vật này những suy nghĩ cảm xúc vượt ra  khỏi mẫu hình mà Nam
Cao dựng nên. Còn nhà thơ Lê Minh Quốc lại tìm  thấy trong “Chí Phèo” một tri âm tri kỉ của văn nhân thi sĩ, trong bài
thơ “Thư gửi Chí Phèo”: 
Đêm nay uống rượu với vầng trăng 
Ta chợt nhớ trái tim mình đơn độc 
Như vó ngựa bốn mùa reo lốc cốc 
Ôi ta đau khi nhớ gã Chí Phèo 
Thị Nở đâu rồi để chăn chiếu mốc meo 
Gió lùa vào căn phòng ta nghiệt ngã
Đốt bản thảo thơ sưởi lòng đêm lạnh giá 
Ngọn lửa này có nấu chín nồi cơm? 
Chí Phèo ơi, ta muôn thuở biết ơn 
Cái đói của anh - thời quay quắt đói 
Cái ngang tàng dám cầm dao rạch mặt 
Của chính anh - khi đi giữa chợ đời 
Uống rượu say không gọi: Thế nhân ơi 
Ta khật khưỡng chỉ gọi: - Ơi Thị Nở 
Bát cháo hành suốt đời ta mắc nợ 
Còn bập bềnh trôi nổi giữa vần thơ... 
Ơi gã Chí Phèo của cổ-tích-hôm-qua 
Ngang ngược nói, cười, chửi trời, chửi đất 
Cái đói eo sèo, cái buồn mửa mật 
Trăng cũng xanh xao lay lắt cuộc đời thừa 
Rượu uống say rồi sao ta lại chưa bưa 
Như Chí Phèo đòi làm người Lương Thiện? 
Ta chỉ cần Công Bằng mà vần thơ đau điếng 
Lời vừa buông ra là máu bật bờ môi 
Rượu uống say rồi ta gọi Chí Phèo ơi 
Nếu sống giữa ngày này thì anh sẽ sống 
Như kẻ thất thời? Như người lỡ vận 
Như gã làm thơ viết bằng máu của mình? 
1988  
Bài thơ viết trong bối cảnh xã hội Việt Nam đổi mới, có nhiều trăn trở trước  những giá trị xã hội đảo lộn, thể hiên khao
khát một lẽ Công Bằng, một  cách “mượn” nhân vật để tự bạch. Nhưng cách tiếp cận này cũng vẫn nằm  trong một mạch
thế sự nhân sinh của văn học sau đổi mới, một cách “làm  mới” nhân vật của Nam Cao bằng cách vận vào theo kiểu
Nguyễn Du đồng  cảm với Tiểu Thanh thuở xưa! 
Người đầu tiên tiếp cận Chí Phèo của Nam Cao như một kiểu người, mẫu  người sống dai dẳng vượt qua khuôn khổ xã
hội cũ có lẽ là Nguyễn Minh  Châu, “người mở đường tinh anh” của văn học Việt Nam hiện đại. Tác  phẩm chân dung
văn học “Nam Cao” của ông đã vẽ lại một Chí Phèo đi 
lính cho Tây, vẫn nguyên bộ dạng lưu manh, có thêm vũ khí là khẩu súng  trong tay. Chính loại Chí Phèo ấy đã hạ sát
Nam Cao. Nguyễn Minh Châu  đã đưa ra một cảnh báo về sự tồn tại của cái xấu cái ác vẫn dai dẳng, vượt  quá những
mong muốn về hành trình hướng thiện mà sinh thời Nam Cao  từng xây dựng nên. Điều này cũng rất chính xác với cảnh
báo của Nam Cao  trong phần vĩ thanh của tác phẩm: “tre già măng mọc...” trong lời dân làng  Vũ Đại và biểu tượng về
sự trở lại của “cái lò gạch cũ”! 
Từ cách tiếp cận này của Nguyễn Minh Châu, nên chăng trong quá trình  giảng dạy, chúng ta cần tập trung nhiều hơn vào
quá trình tha hóa của Chí  Phèo. Không chỉ phân tích theo hướng “con người là sản phẩm của xã hội”  để đi đến kết luận
sự tha hóa của Chí là do cơn ghen Bá Kiến - nhà tù thực  dân - làng Vũ Đại với thế “quần ngư tranh thực”... một cách đơn
giản. Cũng  không thể đổ thừa mọt cách ngây thơ là rượu đã hủy hoại lý trí và cảm xúc  của Chí. Bởi trong thực tế cuộc
sống, chúng ta thấy có nhiều kẻ không uống  rượu nhưng hành xử đúng là “Chí Phèo hiện đại”. Nam Cao đã phát hiện  ra
quy luật tha hóa nằm trong sự tự nhận thức của Chí: lần đầu đối mặt với  cường quyền, Chí bị đưa vào thiên la địa võng,
mê hồn trận của Bá Kiến để rồi sau đó cầm trên tay 1 đồng cơm thuốc, tự cảm nhận mình “oai hơn một  bậc”; sau đó, khi
được dẫn dụ đòi nợ đội Tảo và bất ngờ thành công, Chí  vênh vang tự đắc “anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”!
Đó là tiền đề cho sự tha hóa được báo trước như một tất yếu. Chả khác nào những Chí  Phèo đời nay là mấy! Chí của
Nam Cao là một nhân vật đa nhân cách, hạn  chế về nhận thức dẫn đến bước trượt dài, bị lợi dụng, bị sai khiến nhưng 
ngay cả khi lương tâm thức tỉnh, Chí vẫn bị dẫn dụ bởi động cơ trả thù kiểu  lưu manh. Ý định “đâm chết cả nhà con đĩ
Nở, đâm chết con khọm già nhà  nó” chuyển hóa thành hành động vung dao lên hạ sát Bá Kiến và tự sát vẫn  là một hành
xử đúng chất Chí Phèo. Kết cục chả giải quyết được gì ngoài sự mất mát trắng tay! Tất nhiên, Chí của Nam Cao không
thể có lựa chọn  khác, nhưng dường như trong đời sống hiện đại, nhiều kẻ không say sưa  như Chí, bằng cấp cũng tầm
đại học, nhưng vẫn để cho những toan tính  uất ức cá nhân làm cho lu mờ lý trí, hành xử chẳng khác Chí Phèo. Có điều, 
Chí Phèo tự phát theo kiểu “người nông dân nổi giận”, còn hậu duệ của Chí  thì lại có học hơn, tâm địa mưu mô lại tiếp
thu từ “cụ Bá Kiến”, nên gian 
manh khó lường! Người đọc có thể tiếc cho 5 ngày làm người của Chí Phèo  - Thị Nở trong truyện Nam Cao, nhưng liệu
Thị Nở không dở hơi nhảy  đổng lên “trút nguyên vẹn lời bà cô vào mặt Chí Phèo” như đổ dầu vào lửa,  liệu cuộc đời Chí
Phèo có khác? 
2015 
T.H.N
Tản Ðà  Nguyễn Khắc Hiếu (1888-1939)
 ___ (trích Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến)
Nguyễn Tấn Long - Nguyễn Hữu Trọng
Tản Ðà là biệt hiệu (tên ghép của núi Tản và sông Ðà), tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh năm 1888 lại làng Khê
Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (Bắc phần). Thân phụ là cụ Nguyễn danh Kế, thân mẫu là ả đào hát hay, thơ giỏi,
thường gọi Phủ Ba. Tản Ðà là con dòng thứ. Ông có hai người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn tài Tích và Nguyễn Cổn;
ngoài ra, còn người anh cùng mẹ là Nguyễn Mạn. Thuở nhỏ ông theo học Hán văn, sau nhờ người anh cả là Phó bảng
Nguyễn tài Tích làm đốc học, hết lòng chỉ dẫn nên ông nổi tiếng văn hay chữ tốt. Ngay lúc còn học ở trường Quy thức
ông nổi danh với bài Âu Á nhị châu hiện thế, được các báo Trung hoa ở Hương cảng đăng trong mục xã thuyết. Năm
1909, ông bị hỏng ở khoa thi Hương (Kỷ dậu). 
Năm 1912, ông yêu cô gái bán sách họ Ðỗ ở phố Hàng Bồ. Tản Ðà chiều theo ý muốn của nàng đã phải dùng bằng Ấm
sinh để thi Hậu bổ, nhưng bị rớt vấn đáp. Mùa thu năm ấy, ông thi Hương lại hỏng luôn. Mối tình vì đó tan vỡ ; nàng đi
lấy chồng; Tản đà đành ôm mối tình tuyệt vọng từ đây. 
Sau khi ông anh cả Nguyễn tài Tích mất, Tản Ðà ra làm báo. Vừa viết cho Ðông dương tạp chí của ông Nguyễn văn Vĩnh
(1913), vừa viết cho Nam phong thì bị ông Phạm Quỳnh vì muốn tranh thời danh mà thẳng tay mạt sát quyển Giấc mộng
con nên không hợp tác được. Ra làm chủ bút tạp chí Hữu thanh (1921); nhưng vốn là nhà thơ, không quen nghề làm báo
nên không bao lâu Hữu thanh đình bản. Ông lập Tản Ðà thư cục, rồi cho ra An nam tạp chí (1926); nhưng cũng đình bản.
Tản Ðà vào Gia định (Nam phần) ở tại Xóm Gà viết cho báo Thần chung và Ðông Pháp thời báo của ông Diệp văn Kỳ.
Nhưng rồi ông lại ra Bắc tái bản An nam tạp chí. Tờ báo này lại chết làm tan vỡ cái mộng "bồi lại bức dư đồ" của Tản
Ðà. Ông đành quay về dịch thơ Ðường cho báo Ngày nay, chú thích truyện Kiều, dịch Liêu trai chí dị cho nhà xuất bản
Tân Dân.
 Tác phẩm của ông suốt 25 năm trong nghề văn, nghề báo gồm có:
 Tiểu thuyết :Thề non nước, Trần ai tri kỷ ( truyện ngắn, 1932 ), Giấc mộng lớn, Giấc mộng con I (1916), Giấc mộng con
II (1932).
 Luận thuyết : Tản Ðà tùng văn (bản chính, bản phụ), Tản Đà văn tập (hai quyển gồm những bài viết ở Đông phương tạp
chí in thành sách 1932), Tản Ðà xuân sắc (1934), Khối tình (1918).
 Giáo khoa : Lên sáu, Lên tám, Đài gương truyện, Quốc sử huấn mông, Ðàn bà Tàu (trích dịch liệt nữ truyện).
 Dịch thuật : Đại học, Ðường thi, Liêu trai chí dị (40 truyện). Tuồng chèo : Tây Thi, Tỳ Bà hành, Lưu Nguyễn nhập
Thiên thai.
 Đến năm 1939, Tản Đà qua đời tại số 71 Ngã tư Sở, ngày 20 tháng 4 năm Kỷ mão Âm lịch, nhằm ngày 7 tháng 5 năm
1939 tại Hà Nội. 
                                                                               * 
Đem đặt Tản Đà  lên hàng đầu chiếc chiếu thi đàn Việt nam ở giai đoạn tiền chiến mở màn cho kỷ nguyên thi ca mới, có
lẽ các bạn sẽ gợn lên một thoáng ngạc nhiên; nhưng rồi sự cảm xúc ấy sẽ lắng dịu ngay khi chúng ta hiểu rằng Tản Ðà là
một hồn thơ cũ đã sớm cảm thông hồn thơ mới của lớp người trẻ; thi nhân đã đóng vai trò của nhịp cầu nối liền hai thế hệ
tân và cựu. Sau khi thực dân chiếm xong giải đất này, đặt ngay guồng máy cai trị, nhốt chặt muôn triệu linh hồn Việt
nam, tuy chậm tiến trước sức mạnh vũ bão của cơ giới văn minh, nhưng vẫn là những tâm hồn khao khát cái cao rộng của
trời xanh. Tản-Ðà tuy không phải là chiến sĩ tích cực giải phá lao lung, nhưng cũng phát lộ được ý chí "bồi lại bức dư
đồ", giãi tỏ niềm ưu ái đối với quốc gia, dân tộc. Tiếp đấy là một cuộc tấn công mới của thực dân trên địa hạt văn hóa; họ
đem cái học thuật Tây phương gieo rắc sự hiểu biết cần thiết của một trách vụ phục dịch để củng cố thế đứng vững chắc
trên thực dân địa; tuy nhiên nó cũng có khả năng tiêu hủy căn bản văn hóa cổ truyền của một dân tộc nhỏ bé. Ðó là hồi
chuông gióng lên báo hiệu sự bắt đầu suy tàn của nền học cũ. Hồn thể của Tản Ðà đã hấp thụ thâm đậm nền Nho học
Ðông phương, những mong đem sự hiểu biết của mình để thi thố với đời. Nào ngờ, ngọn gió văn minh Tây phương thổi
đùa cái căn bản tri thức của Tản Ðà tan như khói tỏa, cho nên Tản Ðà đã buồn đau khi phải chứng kiến sự thoái vị của
nền cựu học.
 Như để cứu vãn một thân bị lỡ làng, Tản Ðà đã không bắt chước các cụ thời xưa thường hay rút về an hưởng cảnh nhàn
khi chán ngán một thực tế đắng cay, hoặc lấy tay bưng bít việc đời mặc kệ sự giả dối, lật lọng, phản trắc cứ tiếp diễn; Tản
Ðà khác hơn, đã thả hồn mình trong "giấc mộng con", "giấc mộng lớn", làm một cuộc viễn du vòng quanh thế giới như
cố tìm hiểu tận cội rễ cái mới mẻ của nền tân học. Sau đấy, ta thấy Tản Ðà như  làm cuộc cách mạng trong tâm hồn, tư
tưởng liền biến đổi, thu được khoảng cách trước bước tiến của lớp trẻ; tiếng lòng của thi nhân  được diễn đạt thành tiếng
tơ réo rắt giữa cái tân kỳ của lớp người mới mà ta không cảm mấy bị lỗi nhịp hoặc sượng sùng; vì lúc bấy giờ Tản Ðà đã
trang bị cho mình những gì cần thiết trong cuộc hòa nhạc. Cũng có cái lãng mạn của J. Leiba hay Hồ Dzếnh sau khi "bị
tiếng sét ái tình" của người con gái họ Ðỗ; cũng có cái mộng mơ hư thực của Lưu trọng Lư, Thế Lữ; cũng có nỗi niềm
tha thiết với quê hương trong mấy vần thơ của Thâm Tâm, Trần huyền Trân; lại có cái say sưa của Vũ hoàng Chương;
Tản Ðà còn vượt bực hơn thi nhân trẻ ở cái ngông. Một cái ngông mà Trời còn chạy mặt; nó đã trở thành một bản án của
vị trích tiên Tản Ðà còn ghi rành rành trong quyển sổ Thiên tào: 
Bẩm quả có tên "Nguyễn khắc Hiếu"
Ðày xuống hạ giới về tội ngông.
                            (Hầu Trời)
Bây giờ ta thử lược qua khái quát những dòng tư tưởng của Tản Ðà.
 Trước nhất, hãy nói đến khuynh hướng lãng mạn. Sau khi bị tan vỡ mộng tình cùng nàng Ðỗ thị, Tản Ðà đã dành cho
tình yêu chiếm một chỗ quan trọng trong thi ca. Từ thuở ban sơ khi tim mình bắt đầu rung động, thi nhân tự hỏi: 
Quái lạ vì sao cứ nhớ nhau ?
Nhớ nhau đăng đẳng suốt đêm thâu.
Bốn phương mây nước người đôi ngả,
Hai gánh tương tư một gánh sầu.
Nhịp lòng dậy lên niềm thổn thức khi thẫn thờ cô độc đứng dưới ánh trăng suông, thảng thốt thi nhân kêu lên như than
thở: 
Mình ơi có nhớ ta chăng?
Nhớ mình đứng tựa ánh trăng ta sầu.
Nhớ thì vẫn nhớ đấy, nhưng từ lúc chàng trượt kỳ thi Hậu bổ, rồi lại thi Hương lần nhì hỏng nốt, con chim hồng của thi
nhân vội tung cánh tuyệt mù, để lại một tâm hồn sầu tủi lỡ dở bước đường mây, tan rã giấc mộng tình. Ta hãy nghe thi
nhân kêu đau trong những vần thơ nhẹ nhàng, gợi cảm: 
Duyên hồ thắm bổng dưng phai lạt,
Mối tơ vương đứt nát tan tành,
Tấm riêng, riêng những thẹn mình,
Giữa đường buôn đứt gánh tình như không !
                                                                               * 
Ái ân thôi có ngần này,
Thề nguyền non nước đợi ngày tái sinh ...
Thực tế quá đắng cay, chua chát! Thi nhân xoay đường tình vào cõi mộng. Một "giấc mộng con" cũng đã làm thỏa mãn
yêu đương còn hơn mười năm nuôi dưỡng ái tình cùng người đẹp. Tản Ðà đã đem thực tế và cõi mộng ra so sánh: 
          Nhớ mộng 
Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi,
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi.
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng,
Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán đời.
Những lúc canh gà ba cốc rượu,
Vài khi cánh điệp bốn phương trời.
Tìm đâu cho thấy người trong mộng,
Mộng cũ mê đường biết hỏi ai?
                      (Giấc mộng con)
Thất bại đường tình ở hiện thực, thi nhan xây giấc mộng tình cùng người con gái ở tận trời Tây, nàng Chu Kiều-Oanh,
phải chăng là hình ảnh nàng Ðỗ thị? Ở Giấc mộng con, chúng ta còn thấy bóng dáng người con gái mến yêu; đến bài
Tống biệt, tình ái của thi nhân lờ mờ trong sương phủ. Hãy đọc: 
            Tống biệt 
Lá đào rơi rắc lối Thiên thai,
Suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi,
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai.
Ước cũ duyên thừa, có thế thôi! 
Ðá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ nay xa cách mãi.
Cửa động, 
Ðầu non, 
Ðường lối cũ,
 Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
                                                                               * 
Bàn đến tinh thần ái quốc, chúng ta thấy bộc lộ sự bất mãn (1) ngay từ khi Tản Ðà va chạm phải cái thối nát của đám
quan lại ở chốn trường thi; chỉ vì tin ở tài bộ có thừa mà không chịu uốn mình theo khuôn phép nên bị đánh hỏng. Ðã đau
lòng trước cảnh nước nhà gặp bước suy vong lụn bại trong vòng kiềm tỏa, cương thường đạo nghĩa nghìn xưa đảo lộn, lại
thêm bọn sâu dân mọt nước tiếp tay với thực dân đục khoét mảnh giang san ra tơi tả, đau thương, thi nhân đã bày tỏ ý gì
trong bài: 
      Vịnh bức dư đồ rách 
Nọ bức dư đồ thử đứng coi,
Sông sông núi núi khéo bia cười,
Biết bao lúc mới công vờn vẽ,
Sao đến bây giờ rách tả tơi?
Ấy trước ông cha mua để lại,
Mà sau con cháu lấy làm chơi!
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ,
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi!
Tình yêu nước của Tản Ðà nhẹ nhàng, loáng thoáng. Sau khi người anh cả chết, ông nhất quyết ra làm báo vì nghĩ rằng
đấy là phương tiện để ông dùng ngòi bút khí giới muôn đời của kẻ sĩ đóng góp với non sông. Tản Ðà đã lập chí như thế
nào? Ta hãy nghe: 
Phận nam nhi tang bồng là chí,
Chữ trượng phu ý khí nhường ai. 
Non sông thề với hai vai, 
Quyết đem bút sắt mà mài lòng son.
Giá lúc bấy giờ lòng ông đen tối, ham chạy theo bả lợi danh, chỉ cần đồng ý với thực dân Vayrac, ra làm quan thì thoát
ngay cảnh nghèo dễ như bỡn. Nhưng không, lòng ông đã nặng thề cùng non nước: 
         Thề non nước 
Nước non nặng một lời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng non.
Nhớ lời "nguyện nước thề non",
Nước đi chưa lại non còn đứng không.
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
Trời Tây ngã bóng tà dương,
Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha.
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non.
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non, còn nước, hãy còn thề xưa.
Non xanh đã biết hay chưa?
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non, nước nước không nguôi lời thề.
                                                                               *
Say và ngông của Tản Ðà phải đi đôi. Nó là trạng thái tất nhiên của một tâm hồn kết tụ bởi buồn, chán và bực tức. Buồn
cho ái tình dở lỡ, bẽ bàng; chán cho tình đời đen bạc, thêm nghĩ mình sinh bất phùng thời, mang một kiếp tài hoa mà
chẳng có đất thi thố để cho phường vô tài thiếu đức múa rối trên tấn kịch xã hội. Tản Ðà mới mượn câu thơ chung rượu
khỏa lấp sầu tư để quên sự đời, quên cái thân hình phù du của con người. Tản Ðà vẫn viết "say sưa là hư đời", nhưng
trong cái đau nhừ của thể xác thi nhân đã tìm được đôi khắc sung sướng ở tâm hồn. Nhiệt độ của men rượu quả có năng
hiệu đốt cháy mọi phiền não của tâm cơ, nâng đẩy hình hài thoát khỏi thực tại chua chát, hồn phách bỗng trở nhẹ lâng
lâng. Ta hãy đọc những vần dưới đây để biết tại sao Tản Ðà cần phải say: 
        Lại say 
Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư thì hư vậy, say thì cứ say.
Ðất say đất cũng lăn quay,
Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười?
Say chẳng biết phen này là mấy,
Nhìn non xanh chẳng thấy lại là say
Quái! Say sao? Say mãi thế nầy?
Say suốt cả đêm ngày như bất tỉnh,
Thê ngôn túy tửu chân vô ích.
Ngã dục tiêu sầu thả tự do.
Việc trần ai, ai tỉnh, ai lo,
Say lúy túy nhỏ to đều bất kể.
Trời đấy nhỉ! Cái say là sướng thế!
Vợ khuyên chồng, ai dễ đã chừa ngay,
Muốn say lại cứ mà say.
Từ say đến ngông chỉ là một bước lân cận. Nếu tình yêu đã choán nhiều chỗ trong tác phẩm của ông, thì tánh ngông cũng
không chịu kém. Có người viết về cái ngông của Tản Ðà như sau: "Nếu đọc thơ Tản Ðà trên mọi khía cạnh mà không
đọc những bài thơ cũng như những đoạn văn về ngông của ông thì thật là một lỗi lầm rất lớn và có thể cho rằng như vậy
chính là chưa đọc hết thơ của Tản Ðà!" Nếu ở mười tám năm trước đây, một Trần tế Xương suốt đời phải lận đận lao đao
vì khoa cử công danh mà nảy ra tư tưởng chán đời đến độ bất cần sự đời, đâm ra lêu lỏng ăn chơi, nổi tiếng là: 
"Vị xuyên có bác Tú Xương,
Quanh năm ăn quỵt, chơi lường mà thôi."
hay: 
"Một ngọn đèn xanh, một quyển vàng,
Bốn con làm lính, bố làm quan.
Quạt nước chưa xong con nhảy ngược;
Trống chầu chưa dứt, bố leo thang."
Thật ra ngông không ai hơn. Thế rồi không bao lâu, nhà thơ Tản Ðà lại tiếp tục sự nghiệp ngông ấy. Cái ngông trong thơ
Tản Ðà gần như là một vấn đề phải có đối với ông, vì nó đã phản ảnh được cá tính cũng như cuộc sống lúc bấy giờ của
tác giả. Như mọi người đều biết, Tản Ðà làm văn nghệ nhưng suốt đời vẫn sống trong cảnh túng thiếu, nghèo nàn không
thua gì ông tú làng Vị xuyên, nghèo đến nước: 
"Ôi trời! ôi đất! ôi là tết!
Tháng cận năm cùng, gạo cũng hết."
                                 (Than tết)
hay: 
"Tết đến năm nay nghĩ cũng buồn,
Tiền thì không có, nợ đòi luôn."
                   (Tết than việc nhà)
Với cảnh nghèo cùng quẫn, tiền bạc không có, vay trước trả sau, Tản Ðà quá chán chường cuộc sống, nảy sinh tư tưởng
bất cần đời, vì ông tin rằng "bôn ba chẳng qua thời vận" rồi ông đâm ra liều lĩnh, ăn chơi cho thỏa thích, mặc đến đâu thì
đến. Làn văn chương chẳng cần mực thước, vui thì làm, buồn thì nghỉ. Những điều vừa nói, ta thấy tâm trạng của thi
nhân qua bài Còn chơi, tiêu biểu khuynh hướng ngông của tác giả: 
          Còn chơi 
Ai đã hay đâu tớ chán đời, 
Ðời chưa chán tớ, tớ còn chơi.
Chơi cho thật chán, cho đời chán,
Ðời chán nhau rồi, tớ sẽ thôi. 
Nói thế, can gì tớ đã thôi, 
Ðời đương có tớ, tớ còn chơi.
Người ta chơi đã già đời cả,
Như tớ năm nay mới nửa đời. 
Nửa đời chính độ tớ đương chơi,
Chơi muốn như sao thật sướng đời.
Người đời ai có chơi như tớ,
Chơi cứ bằng văn mãi chửa thôi. 
Chơi văn sướng đến thế thì thôi,
Một mảnh trăng non chiếu cõi đời.
Văn vận nước nhà đương buổi mới,
Như trăng mới mọc, tớ còn chơi. 
Làng văn chỉ thiếu khách đua chơi,
Dan díu, ai như tớ với đời.
Tớ đã với đời dan díu mãi,
Muốn thôi, đời cũng chửa cho thôi. 
Ðời đương dang díu, chửa cho thôi,
Tớ dám xa xôi để phụ đời.
Vắng tớ bấy lâu, đời nhớ tớ,
Nhớ đời, nên tớ vội ra chơi. 
Tớ hãy chơi cho qúa nửa đời,
Ðời chưa quá nửa, tớ chưa thôi.
Tớ thôi, tớ nghĩ buồn cho tớ,
Buồn cả cho đời vắng bạn chơi. 
Nào những ai đâu, bạn của đời?
Sao mà bỏ vắng, ít ra chơi?
Chớ ai chờ mãi, ai đâu tá?
Hay ngán cho đời chẳng muốn chơi? 
Nếu tớ như ai: cũng ngán đời, 
Ðời thêm vắng bạn, lấy ai chơi?
Cuộc đời tớ nghĩ chưa nên ngán,
Nếu ngán thời xưa tớ đã thôi. 
Tớ nhớ năm xưa nửa ngán đời,
Nghĩ đi, nghĩ lại, lại ra chơi.
Mê chơi cho tới thành dan díu,
Ðời dẫu cho thôi, tớ chẳng thôi. 
Nghĩ tớ bao nhiêu, lại nghĩ đời,
Nghĩ đời như thế, dám nào thôi.
Còn đời, còn tớ, còn chơi mãi,
Chơi mãi cho đời có bạc chơi. 
Tớ muốn chơi cho thật mãn đời,
Ðời chưa thật mãn; tớ chưa thôi.
Chẳng hay đời tớ lâu hay chóng!
Dù chóng hay lâu, tớ hãy chơi. 
Trăm năm, tớ độ thế mà thôi,
Ức, triệu, nghìn năm chửa hết đời.
Chắc có một phen đời khóc tớ.
Ðời chưa khóc tớ, tớ còn chơi. 
Trăm năm còn độ bấy nhiêu thôi,
Ngoài cuộc trăm năm, tớ dặn đời.
Ức, triệu, nghìn năm đời nhớ tớ.
Tớ thôi, tớ cũng hãy cùng chơi. 
Bút đã thôi rồi, lại chửa thôi,
Viết thêm câu nữa, hỏi đời chơi: 
"Lộng hoàn"này điệu từ đâu tới?
Họa được hay không? Tớ đố đời.
Bất mãn với thời thế, Tản Ðà cũng như bao nhiêu người khác, những lúc quá ê chề chán nản cho cuộc sống hẩm hiu,
người ta thường sống trong cõi mộng, nuôi một hy vọng ở tương lai sẽ sáng sủa, thắm tươi hơn, vì tin rằng "hết cơn bỉ
cực đến hồi thái lai" nên thi nhân tự hỏi: "có lẽ ta đâu mãi thế này", bởi thế cho nên Tản Ðà mơ mộng thật nhiều, mơ
mộng cuộc sống sẽ huy hoàng, tên tuổi sẽ sáng chói, những tác phẩm sẽ bán thật nhiều để điểm tô cho cuộc đời thêm
khởi sắc, đây ta hãy nghe thi nhân kể lại giấc mơ đó trong bài: 
              Hầu Trời 
Ðêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn, thật phách, thật thân thể,
Thật được lên tiên sướng lạ lùng! 
Nguyên lúc canh ba nằm một mình,
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.
Nằm buồn ngồi dậy đun nước uống,
Uống xong ấm nước nằm ngâm văn. 
Chơi văn ngâm chán, lại chơi trăng,
Ra sân cùng bóng đi tung tăng.
Trên trời bỗng thấy hai cô xuống,
Miệng cười mủm mỉm cùng nói rằng: 
"Trời nghe hạ giới ai ngâm nga, 
"Tiếng ngâm vang cả sông Ngân hà. 
"Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng 
"Có hay lên đọc, Trời nghe qua." 
Ước mãi bây giờ mới gặp Tiên! 
Ngườ Tiên nghe tiếng lại như quen 
Văn chương nào có hay cho lắm,
Trời đã sai gọi thời phải lên. 
Theo hai cô Tiên lên đường mây,
Vù vù không cánh mà như bay.
Cửa son đỏ chói oai rực rở!
Thiên môn Ðế khuyết như là đây? 
Vào trông thấy Trời, sụp muốn lạy,
Trời sai Tiên nữ dắt lôi dậy,
Ghế bành như tuyết, vân như mây,
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đây. 
Tiên đồng pha nước, uống vừa xong,
Bỗng thấy chư Tiên đến thật đông,
Chung quanh bày ghế ngồi la liệt,
Tiên bà, Tiên cô, cùng Tiên ông. 
Chư Tiên ngồi quanh đã tỉnh túc,
Trời sai pha nước để nhắp giọng.
Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe, 
"Dạ, bẩm lạy Trời, con xin đọc." 
Ðọc hết văn vần, sang văn xuôi,
Hết văn thuyết-lý, lại văn chơi. 
Ðương cơn đắc ý đọc đã thích,
Chè trời nhắp giọng càng tốt hơi! 
Văn dài, hơi tốt ran cung mây,
Trời nghe trời cũng lấy làm hay.
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi. 
Hằng Nga, Chức nữ chau đôi mày. 
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
 Ðọc xong mỗi bài, cùng vỗ tay. 
"Bẩm con không dám man cửa Trời, 
"Những các văn, con in cả rồi: 
"Hai quyển "Khối tình" văn thuyết lý:
 "Hai "Khối tình con" là văn chơi:
 "Thần tiên", "Giấc mộng" văn tiểu thuyết: 
"Ðài gương", "Lên Sáu" văn vị đời; 
"Quyển "Ðàn bà Tàu" lối văn dịch;
 "Ðến quyển "Lên Tám" nay là mười,
 "Nhờ Trời văn con mà bán được,
 "Chửa biết con in ra mấy mươi!" 
Văn đã giàu thay, lại lắm lối,
Trời nghe Trời cũng bật buồn cười.
Chư tiên ao ước, tranh nhau dặn: 
"Anh gánh lên đây bán chợ trời." 
Trời lại phê cho: "Văn thật tuyệt! 
"Văn trần được thế chắc có ít?
 "Lời văn chuốt đẹp như sao băng! 
"Khí văn hùng mạnh như mây chuyển! 
"Êm như gió thoảng, tinh như sương! 
"Ðầm như mưa sa, lạnh như tuyết! 
"Chẳng hay văn sĩ tên họ gì?
 "Người ở phương nao? Ta chửa biết!" 
- "Dạ, bẩm lạy Trời, con xin thưa:
 "Con tên "Khăc Hiếu" họ là "Nguyễn" 
"Quê ở Á-châu về Ðiạ-cầu. 
"Sông Ðà, núi Tản, nước Nam Việt." 
Nghe xong, Trời ngợ một lúc lâu, 
Sai bảo Thiên-Tào lấy sổ xét. 
Thiên Tào tra sổ xét vừa xong, 
Ðệ sổ lên trình Thượng đế trông:
 "Bẩm quả có tên "Nguyễn khắc Hiếu" 
"Ðày xuống hạ giới về tội ngông" 
Trời rằng: "Không phải là trời đày, 
"Trời định sai con một việc này: 
"Là việc "thiên lương của nhân loại" 
"Cho con xuống thuật cùng đời hay." 
- "Bẩm trời, cảnh con thật nghèo khó,
 "Trần gian thước đất cũng không có.
 "Nhờ trời năm xưa học ít nhiều, 
"Vốn liếng còn một bụng văn đó. 
"Giấy người, mực người, thuê người in,
 "Mướn cửa hàng người bán phường phố. 
"Văn chương hạ giới rẻ như bèo!
 "Kiếm được đồng lãi thật rất khó!.
 "Kiếm được có ít, tiêu phải nhiều, 
"Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu. 
"Lo ăn, lo mặc suốt ngày tháng, 
"Học ngày một kém, tuổi càng cao!
 "Sức trong non yếu, ngoài chen rấp,
 "Một cây che chống bốn năm chiều.
 "Trời lại sai con việc nặng quá, 
"Biết làm có nổi, mà dám theo?" 
- Rằng: "Con không nói, Trời đã biết, 
"Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết.
 "Cho con cứ về mà làm ăn, 
"Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết. 
"Cố xong công việc của Trời sai, 
"Trời sẽ cho con về Ðế khuyết" 
Vâng lời Trời dạy, lại xin ra, 
Trời sai Khiên Ngưu đóng xe tiễn. 
Xe trời đã chực ngoài Thiên môn, 
Chư tiên theo ra cùng tiễn biệt. 
Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi, 
Trông xuống trần gian vạn dặm khơi.
 Thiên tiên ở lại, Trích tiên xuống,
 Theo đường không khí về trần ai. 
Ðêm khuya khí thanh, sao thưa vắng, 
Trăng tà đưa lối về non Ðoài.
Non Ðoài đã tới quê trần giới,
Trông lên chư tiên không còn ai! 
Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy,
Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi. 
Một năm ba trăm sáu mười đêm,
 Sao được đêm đêm lên hầu Trời.
Ðọc qua ta thấy cái ngông của Tạn Ðà nhẹ nhàng, ý nhị, không quá trắng trợn như cái ngông của ông Tú Vị xuyên Trần
tế Xương: 
Vị xuyên có bác Tú Xương,
Quanh năm ăn quỵt chơi lường mà thôi.
hay là: 
Ông trông lên bảng thấy tên ông, 
Ông tớp rượu vào, ông nói ngông, 
Cụ Sứ có cô con gái đẹp, 
Lăm le xui bố cưới làm chồng.
Trình bày cái ngông của mình, trước mặt Trời thi nhân kể lể tâm sự của một khách văn chương như ông, văn rất hay
nhưng khổ nỗi "văn chương hạ giới rẻ như bèo", bởi thế cho nên: 
Kiếm được đồng lãi thật rất khó!
nhưng: 
Kiếm được có ít, tiêu phải nhiều.
Chính vì thế mà: 
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu. 
Lo ăn, lo mặc, suốt ngày tháng.
Trong khi đó thì: 
Sức trong non yếu, ngoài chen rấp, 
Một cây che chống bốn năm chiều.
Chính vì những ý nghĩ đó mà Tản Ðà ngông và muốn: 
" Tớ muốn chơi cho thật mãn đời, 
Ðời chưa thật mãn, tớ chưa thôi. 
Chẳng hay đời tớ lâu hay chóng?
Dù chóng hay lâu tớ hãy chơi."
Tình và ý thơ của Tản Ðà còn bàng bạc trong các tác phẩm. Một phần nhỏ mọn của quyển sách này không làm sao luận
cạn. Từ cái hướng nhắm của hai tác phẩm Lên sáu và Lên tám, tác giả đã lấy sự giáo dục làm lợi khí trong việc đào tạo
tinh thần đoàn kết và lòng thương nước của trẻ con; qua Ðài gương truyện và Ðàn bà Tàu đã nói nhiều về trách vụ người
phụ nữ; đến lòng ái quốc của tiên sinh được bộc lộ rải rác trong những văn thi phẩm mà chúng tôi đã luận qua khái quát ở
phần trên. Riêng phương diện tình ái, ta thấy tình yêu của Tản Ðà tuy nhẹ nhàng nhưng không kém đậm đà, tha thiết.
Ngọn lửa yêu đương đã thành hình và bốc cháy trong tâm can cũng như đã trải ra trên trang thơ nét chữ là thứ tình yêu
mang màu sắc của người phương Ðông; mặc dù yêu nhau nặng, tình cảm đã trào dâng nhưng không dám thổ lộ quá cởi
mở như người phương Tây. Nói đến cái ngông. Từ khi Tản Ðà đã lỡ bước đường mây, thua thiệt trong tình ái, lại thấy
trên sân khấu đời nhởn nhơ phường bất tài bất trí, thương cho một thân chứa đựng tài hoa mà đành khoanh tay chịu cảnh
nghèo, nhìn mọi diễn biến chán ghét trong vở bi hài kịch xã hội; ngần ấy bất mãn đã nung sôi lòng bực tức, ông đâm ra
ngông nghênh, nói theo danh từ thời đại nó là cái bốc đồng nhất thời vậy. Ngông là cái thói khinh đời, ngạo thế. Nó là cái
trạng thái khi cái tri thức bị rượt đuổi đến bước đường cùng. Bị uất ẩn mà không làm sao giải tỏa; ước định lo cho đời mà
đời chẳng cho lo; những tâm hồn bị đè nén đâm ra tư tưởng cóc cần đời. Vì thế, Tản Ðà quyết định: vậy thì cứ ăn chơi
cho thỏa thích, chơi đến đời chán mới thôi; nhưng như vậy là đã thiên về vật chất; cái tình vị tha vị xã trườc kia nay bị co
rút vào tháp ngà của cuộc sống hiện hữu được gói ghém kỹ trong một cá thể. Nói chung, cái ngông này, Tản Ðà quyết
định mang đến kỳ cùng hơi thở. Nó là một hình thức chống đối thời thế đã không chìu lòng người, mà còn hất hủi xô đẩy
Tản Ðà trở thành một con người bất đắc chí vì chưa thỏa mãn được sứ mạng thi hành cái "thiên lương (*) " mà Trời đã
giao phó. 
                                                                            *** 
(*) - Thiên lương gồm ba chất:
1) Lương tri là cái tri thức người ta vốn biết , không cần phải suy nghĩ và học tập.
2) Lương tâm là cái thiện tâm của người ta sẵn có
3) Lương năng là cái tài năng người ta không học mà có.
Thiên lương nằm trong học thuyết Vương Dương Minh. Tản Ðà chủ trương : muốn cho nước tiến bộ phải cải thiện xã
hội; muốn cải thiện xã hội phải cải thiện con người; muốn cải thiện con người phải phát triển thiên lương. Ðây là một
khía cạnh yêu nước của nhà thơ họ Nguyễn

You might also like