You are on page 1of 3

BIỂU TƯỢNG GIỌT NƯỚC MẮT

1. “Mỗi khi đặt bút lên tờ giấy trắng trong tinh khiết, tôi cảm thấy sung sướng vô
vàn, sung sướng đến chảy ra nước mắt “ ( nguyễn tuân ) . Và ông thường đau đáu
tưởng mình có thể chết nếu mất đi quyền viết. Văn chương hay nghề viết cao quý
đến thế cũng bở cái tình, cái khát vọng bộc lộ, giãi bày cảm xúc xuất phát từ chân
tâm thực ý, từ cốt cách và tấm lòng của những người văn nhân nghệ sĩ.
2. “Nếu những nỗi đau khổ từ lâu bị kiềm chế ,nay sôi sục dâng lên trong lòng thì tôi
viết” (nekrasov)
3. Văn chương khởi phát từ tấm lòng từ giọt nước mắt chảy trong lồng ngực tác giả.
“Giọt nước mắt” hiện thân cho những giá trị cảm xúc chân thành nhất, thiêng liêng
nhất, vĩ đại nhất và giá trị nhất. Đó có thể là giọt nước mắt của niềm vui cũng thể là
giọt nước mắt của nỗi buồn nhưng chúng đều rơi vì sự đồng cảm dạt dào với vạn vật
xung quanh của người nghệ sĩ. Là minh chứng rõ nét nhất phản chiếu hay chứng
minh năng lực xúc cảm của tâm hồn tinh tế nơi người viết. Nhấn mạnh sự giàu tình
yêu thương của người viết trước những nỗi thông khổ của loài người.
4. Giọt nước mắt là những rung cảm tinh tế của một tâm hồn nhạy bén trước những
hỉ nộ ái ố trong cuộc đời, đó là sự khúc xã hiện thực thông qua lăng kinh nhân văn.
5. + Văn chương là loài cây nảy nở sinh sối nhờ bám rễ chắc chắn vào mảnh đất hiện
thực. Để cây văn ấy lớn lên ra hoa kết trái buộc những người thợ của mình phải
chăm bón tù thứ nước đặc biệt mang tên nước mắt. Nước mắt từ đâu? Giữa lòng
mảnh đất nuôi dưỡng con người đầy những khổ đâu, oan trái bất công liệu là một
nhà văn chân chính có thể nhắm mắt làm ngơ, ngoảnh mặt quay đầu trước những số
phận khốn cùng tuyệt vọng?
6. + Thiên chức của anh ta không cho phép anh ta sống một cuộc đời như vậy, việc
anh ta cần cũng như bắt buộc và nhận thức phải làm là lượm nhặt từng chút một
những cảm xúc của mình trên mọi dấu chân mình đã đi qua nơi cuộc sống, để rồi
cùng đau cùng thấu cùng dằn vặt khôn nguôi vs loài người đó là khi những cảm xúc
được tích tự dân trào và đó cũng là lúc anh ta khóc, nước mắt kotraof ra bên ngoài
những lại chảy ngược vào tận cùng của những vách ngăn tim. Như cái
cách“Andecxen dã lượm lặt những hạt trơ trên luống đất của những người dân cày,
ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp lều, từ đó lớn lên và nảy nở
những đóa hoa thơ đẹp, chúng an ủi trái tim của những người cùng khổ” (Pautopxki)
7. + Độc giả: Nhà văn Heinrich Boll từng khẳng định rằng: “Tác giả tôi không sống
trên ngọn hải đăng tỏa ánh trong sạch phát hiện cái dơ bẩn quanh mình, để rồi lên
tiếng mắng chửi cái dơ bẩn ấy. Tác giả tôi sống trên đất đã làm nên anh ta, đau nỗi
đau của đất đã làm nên anh ta”. Chỉ khi người nghệ sĩ hòa mình vào hiện thực với
những tình cảm chân thành như thế, tác phẩm của anh mới thực sự chạm đến trái
tim độc giả. Rung cảm trước kiếp người lầm than chính là phẩm chất quan trọng làm
nên cái tài của người nghệ sĩ, là ccow sở tất yếu, đầu tiên để gây dựng nên những
áng thên văn, thiên thơ. Mọi cảm xúc của người nghệ sĩ dường như khác lạ so với
người bình thường bất kể yêu ghét thù hằn buồn vui hay thương cảm đều đạt đến
độ mãnh liệt. Bất kể viết về cái j anh ta cũng phải thâm nhập vào đối tượng vs một
trái tim nóng hổi, với một tấm lòng rộng mở. Nghệ thuật sinh ra chỉ vì con người vậy
nên tác phẩm cần phải thể hiện suự đồng cảm với nỗi đau của con người. Chỉ khi tình
cảm trong tác phẩm đủ lớn, đủ sâu thì trái tim cả độc giả và nhà văn mới hòa chung
cùng nhịp đập, để người đọc có thể tin rằng dù cuộc đơì có khốn khó đến đâu văn
chương cũng không bỏ rơi con người.
8. “Thử hỏi nếu Victor Hugo không đau nỗi đau của thời đại, của những kiếp người
lầm than giữa chốn cạm bẫy, dối lừa và khổ đau của xã hội nhiễu nhương Pháp nửa
đầu thế kỉ XIX thì làm sao ông có thể viết lên tuyệt tác bất hủ “Những người khốn
khổ”? Thử hỏi nếu đại thi hào Nguyễn Du, không đau đớn, không trào “nước mắt”
trước phận đàn bà trong xã hội phong kiến bất công thì làm sao lại có những trang
Truyện Kiều lừng lẫy? Tất cả là vì “văn chương ấy được viết nên từ huyết lệ” (Lâm
Ngữ Đường)”
9.
10. 4 Giữa xã hội nhố nhăng, giữa những nghịch lí mà bọn cường hào ác bá tạo nên,
Nam Cao đã đau đớn cho phận làm người của Chí Phèo. Bằng bút lực của mình, Nam
Cao đã thay lời muốn nói, đã gián tiếp tố cáo một góc của xã hội đen tối- nơi mà
những tên như Bá Kiến thỏa sức ức hiếp dân lành, đẩy những con người lương thiện
đi đến bước đường lưu manh, sống người không ra người, thú không ra thú. Mọi nỗi
đau của Nam Cao, dường như biểu lộ rõ nhất thông qua giọt nước mắt của Chí Phèo
khi bị Thị Nở cự tuyệt. Khi lòng tràn đầy phẫn uất và tuyệt vọng, Chí đã uống, nhưng
càng uống lại càng tỉnh, càng uống thì men rượu lại gợi ra hình ảnh “bát cháo hành”-
đó là nỗi ám ảnh, là nhát dao khắc sâu thêm nỗi đau của hắn. Chính vì thế, Chí Phèo
“ôm mặt khóc rưng rức”. Đó là lần đầu tiên trong tác phẩm Chí Phèo khóc, và đó là
biểu hiện rõ ràng nhất của nhân tính, giọt nước mắt là “miếng kính biến hình vũ trụ”
khẳng định bản chất tốt đẹp của con người. Chí Phèo vật vã đau đớn, thấm thía nỗi
đau không cùng khi nhận thức bi kịch đời mình: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Thông qua ngòi bút hiện thực sắc lạnh, Nam Cao đi sâu vào cái bi, cái tệ nạn trong
đời sống con người thời đại nhưng ông không hề bôi nhọ con người mà trái lại nhà
văn đặt trọn niềm tin của mình vào con người, thể hiện một tấm lòng đau người, đau
đời tha thiết. Cũng từ đó, ta nghiệm ra rằng nhà văn đã đắm mình rất sâu vào cuộc
sống để “thấu thị” tâm tư xúc cảm của loài người, để mượn ngôn từ cứu rỗi thế gian
nhơ bẩn, để đau trước cái hiện thực tàn khốc và cuối cùng là để bênh vực những
kiếp người “đang cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hay số phận đen đủi dồn đến chân
tường” (Nguyễn Minh Châu)
11. +Còn nhớ, Thạch Lam từng viết: “Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận
mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ”. Nhà văn chân chính không chỉ dừng lại ở lòng thấu
cảm trước nỗi đau của con người mà hơn thế, họ còn đau cho những những con vật
được tạo hóa ban cho sự sống. Như nhà văn Nguyễn Huy Thiệp trong tác phẩm
“Muối của rừng”, ông đã mượn nhân vật chính trong tác phẩm là ông Diểu để gián
tiếp nói lên lòng thương cảm, nỗi xót xa đối với muông thú nơi hoang dã- những sinh
linh nhỏ bé, đứng trên sợi dây sinh tử mỏng manh vì sự tàn nhẫn của con người. Ông
Diểu sau khi bắn được con khỉ đực, và đối diện với ánh mắt của nó đã cay đắng hiểu
ra rằng “hóa ra ở đời trách nhiệm đè lên từng sinh vật quá nặng nề”, thể hiện một sự
thức tỉnh của lương tâm con người. Nỗi niềm đau đớn, xúc cảm của tác giả, được
bộc lỗ hết thảy qua ánh mắt của cặp vợ chồng khỉ, ánh mắt của chúng như đang cầu
khẩn, van xin một con đường sống, ánh mắt tố cáo những hành vi tàn phá thiên
nhiên của con người.
12. +Vượt ra khỏi nền văn học Việt Nam, ta cũng không khỏi cảm kích trước trái tim
nhân hậu của nhà thơ Nhật Bản Matsuo Basho khi ông bày tỏ niềm thương xót đến
những phận đời bơ vơ, giữa tiết trời mùa đông lãnh lẽo:
“Mưa đông giăng đầy trời
chú khỉ con thầm ước
có một chiếc áo tơi.”
Chỉ với 17 âm tiết ngắn gọn, cùng những khoảng lặng đặc trưng của thơ Haiku, nhà
thơ Basho đã vẽ lên một chân trời mơ ước, một khát vọng êm ấm. Ông mượn mưa
để nói về hiện thực khắc nghiệt của cuộc đời. Quý ngữ “mưa đông” gợi ra khung nền
khắc nghiệt, mưa là đói, là khổ, là lạnh, là rét. Giữa phông nền mưa rơi đó, chú khỉ
con là hiện thân cho con người, cho người nông dân Nhật Bản, cho những em bé
nghèo đang rét co ro, với “thầm ước” về một “chiếc áo tơi”- áo tơi nghe thật bình dị,
đáng thương làm sao! Hình ảnh “chiếc áo tơi” tuy nhỏ bé nhưng đó lại là vấn đề thật
lớn, là một khát vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn, ấm nó hơn. Và tôi tự hỏi nếu nhà
thơ Basho không quan sát, không động lòng, không đau đơn, không xúc cảm cho
những phận đời cơ nhỡ thì làm sao ông có thể khắc lên một bầu trời đầy những hoài
bão cho họ?
13. Qua đó ta có thể thấy rằng, nhà văn chân chính, dù ở đâu, dù họ là ai, dù cuộc
sống họ như thế nào thì thiên chức cao quý nhất của họ vẫn là thấu cảm với đời, đau
nỗi đau của đời, và truyền tải những xúc cảm đó đến với người đọc. Thật đúng khi
nhà văn Elsa Triolet từng nói: “Nhà văn là người cho máu”, là người chấp nhận cái
đau để viết lên tuyệt tác có nhiều giá trị cho đời. Hơn thế, “giọt nước mắt” của nhà
văn không chỉ thể hiện sự đồng cảm với con người thời đại, với những mảnh đời bất
hạnh mà nó còn mang sức mạnh cảm hóa con người, hướng con người đến những
giá trị chân-thiện-mĩ. Tuy nhiên, không phải chỉ có những điều đau thương mới khiến
nhà văn thấu cảm, mà đó còn là những niềm vui, niềm hân hoan trước cuộc đời
muôn màu. Ngoài ra, về phía người đọc, ta cũng cần soi rọi mình qua tác phẩm, để
hoàn thiện bản thân hơn, để nhận thức được những điều tốt-xấu, và biến cuộc sống
trở nên ý nghĩa hơn, có ích hơn.
14. 5.Nhà văn Hemingway từng nói rằng: “Tất cả các tác phẩm nghệ thuật đều có sự
bất tử của riêng nó. Bởi vì đó là sản phẩm bền vững của lao động và trí tuệ con
người. Rồi mai này các tranh tượng có thể tiêu tan, đền đài có thể sụp đổ, chỉ có
những tác phẩm nghệ thuật chân chính mới có khả năng vượt ra định luật băng hoại
của thời gian để tồn tại vĩnh viễn”. Để tác phẩm nghệ thuật tồn tại vĩnh cữu tất cả
chính là nhờ cái tâm tinh tế của nhà văn trước mọi thăng trầm của thời đại. Quả
không sai khi nhà văn Nguyễn Ngọc Tư phát biểu: “Tôi nghĩ nếu vẽ một biểu tượng
của nghề viết mà tôi đang theo đuổi, tôi sẽ vẽ hình ảnh của giọt nước mắt”.

You might also like