You are on page 1of 12

THỂ LOẠI VĂN HỌC: TRỮ TÌNH

I.Từ nguyên:
“Trữ tình” là từ khá quen thuộc với nhiều người. Và chắc hẳn, không ít trong chúng ta
nghĩ rằng, “trữ tình” có nghĩa là “cất giấu, chứa đựng tình cảm”. Điều này có cơ sở của nó. Bởi
trong tiếng Việt, trong số các hình vị “trữ”, hình vị “trữ” gốc Hán với nghĩa “cất, chứa” trong
cách hiểu trên chiếm tỉ lệ lớn nhất, được dùng phổ biến nhất. Số lượng từ có sự tham gia cấu tạo
của hình vị này cũng nhiều nhất. Chẳng hạn: trữ lượng, tích trữ, trữ chứa, dự trữ, lưu trữ,…
Tuy nhiên, cách hiểu trên lại là một sự nhầm lẫn. Vậy, “trữ tình” nghĩa là gì? Mấu chốt
nằm ở hình vị “trữ”. Đây cũng là một hình vị gốc Hán, cũng mang nghĩa động từ như “trữ” với
nghĩa “cất, chứa” (bộ bối hoặc miên). Tuy nhiên, chúng chỉ là hai yếu tố đồng âm. “Trữ” trong
“trữ tình” thuộc bộ thủ (liên quan đến hoạt động của tay), nghĩa gốc là “tháo ra, cởi ra”, rồi phái
sinh nghĩa “tuôn ra, bày tỏ ra, biểu đạt ra”. Như vậy, “trữ tình” có thể hiểu là “bày tỏ, biểu đạt
tình cảm”. Trong quá trình hành chức, nghĩa của từ này bị thu hẹp dần. Từ điển tiếng Việt của tác
giả Hoàng Phê giảng “trữ tình” là “có nội dung phản ánh hiện thực bằng cách biểu hiện những ý
nghĩ, xúc cảm, tâm trạng riêng của con người, kể cả bản thân người nghệ sĩ, trước cuộc sống”
II. Khái niệm: Trữ tình là một trong những thể loại văn học bên cạnh tự sự, kịch, kí và chính
luận phản ánh đời sống bằng bộc lộ trực tiếp ý thức của con người, nghĩa là con người tự
cảm thấy mình qua những ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình đối với thế giới và
nhân sinh. Trữ tình cũng tái hiện các hiện tượng đời sống, như trực tiếp miêu tả phong cảnh
thiên nhiên hoặc thuật lại ít nhiều sự kiện tương đối liên tục tạo điều kiện để chủ thể bộc lộ
những cảm xúc, chiêm nghiệm, suy tưởng của mình.
III. Đặc trưng của tác phẩm trữ tình
1. Biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người
Loại hình trữ tình luôn luôn thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức của nhân vật
trữ tình. Cảm xúc trữ tình luôn luôn được thể hiện ở “thì hiện tại”. Nó vừa mang tính cá
thể hóa của tình cảm lại vừa có thể chứa đựng ý nghĩa toàn nhân loại, chẳng hạn như
tình yêu: “Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ, không thương một kẻ nào?/ Hãy
đốt đời ta muôn thứ lửa/ Cho bừng tia nắng đọ tia sao!”(Bài thơ tuổi nhỏ - Xuân Diệu).
Nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng là sự biểu hiện thế giới chủ quan của con người
trước cuộc đời. Tuy nhiên, do phương thức tổ chức, kiểu tái hiện đời sống và sự giao tiếp
nghệ thuật khác nhau nên sự biểu hiện đó ở những thể loại văn học cũng khác nhau. Trong
các tác phẩm thuộc thể loại trữ tình thì tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ,… được trình
bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu của tác phẩm. Ở đây, tác giả có thể biểu hiện
cảm xúc cá nhân của mình mà không cần kèm theo bất cứ một sự miêu tả biến cố hay sự
kiện nào: “Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương/ Nhớ ai dãi
nắng dầm sương/ Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao” (Ca dao)
Bốn câu ca dao trên thể hiện tình cảm của người ra đi đối với quê hương, người thương...
là nỗi buồn, sự nhớ nhung lúc xa xôi, cách trở. Ngoài những tình cảm, nỗi niềm đó, người
đọc không biết cụ thể hơn về chàng trai và cô gái, về mối quan hệ cụ thể của hai người với
nhau.
Còn đối với Tố Hữu thơ là một vũ khí đấu tranh cách mạng. Nói đến cách mạng cũng
chính là nói đến lực lượng đông đảo của quần chúng cách mạng: “Tôi buộc lòng tôi với mọi
người/ Để tình trang trải với trăm nơi/ Để hồn tôi với bao hồn khổ/ Gần gũi nhau thêm
mạnh khối đời.” (Từ ấy). Chẳng cần miêu tả bất kì hình ảnh nào về lực lượng quần chúng
nhưng cũng thấy được tinh thần đoàn kết, chiến đấu không chỉ của riêng nhà thơ mà còn của
cả dân tộc.
Thông qua tác phẩm trữ tình, người đọc cảm nhận trước hết là thế giới nội tâm, là thái độ
xúc cảm và tâm trạng của nhân nhân trữ tình đối với con người, cuộc đời và thiên nhiên.
Điều này chứng tỏ sự biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của tác giả là đặc điểm tiêu biểu,
đầu tiên của tác phẩm trữ tình.
2. Phản ánh thế giới khách quan nhằm biểu hiện thế giới chủ quan
Tác phẩm trữ tình làm sống dậy cái thế giới của hiện thực khách quan, giúp ta đi sau vào
thế giới của những suy tư, tâm trạng, nỗi niềm – một phương diện rất năng động, hấp dẫn
của hiện thực.
Tác phẩm trữ tình biểu hiện cảm xúc chủ quan của tác giả nhưng điều đó cũng được xác
định trong mối quan hệ giữa con người và thực tại khách quan bởi vì mọi cảm xúc, tâm
trạng, suy nghĩ của con người bao giờ cũng đều là cảm xúc về cái gì, tâm trạng trước vấn đề
gì, ... Do đó, hiện tượng cuộc sống vẫn thể hiện trong tác phẩm trữ tình. Các chiến sĩ cách
mạng đã dùng thơ ca là một vũ khí đấu tranh cách mạng. “Thân thể ở trong lao, tinh thần ở
ngoài lao” như thế đó. Người cha già của dân tộc cả đêm nằm trằn trọc không ngủ được vì
xót thương cho các chiến sĩ đang phải trải qua gian lao, vất vả: “Đêm nay Bác không ngủ”
vì “Bác thương đoàn dân công/ Đêm nay ngủ ngoài rừng/ Rải lá cây làm chiếu/ Manh áo
phủ làm chăn/ Ngoài trời mưa lâm thâm/ Làm sao cho khỏi ướt!/ Càng thương càng nóng
ruột/ Mong trời sáng mau mau.” (Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ)
Trong sự tương phản sâu xa giữa cuộc sống thôn dã bình lặng với cuộc sống thành thị
đầy biến động. Người đọc có thể hiểu dễ dàng qua trực cảm: “Đôi ta cùng ở một làng/
Cùng/ Đi một qua ngõ vội vàng chi anh/ Em nghe họ nói mong manh/ Hình như họ biết
chúng mình với nhau.” (Chờ nhau – Nguyễn Bính)
Ngoài những nét chấm phá về một bức tranh thiên nhiên với những vẻ đẹp nhẹ
nhàng, tinh tế, là tâm trạng và cảm xúc của nhà thơ:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
(Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử)
Trong tác phẩm trữ tình không phải chỉ có cảm xúc, tâm trạng suy nghĩ mà sự kiện đời
sống khách quan luôn là điểm tựa cho những cảm xúc và suy nghĩ tình cảm, là cội nguồn
không bao giờ cạn để nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc và suy tưởng. Phạm Đăng Dư cho
rằng: “Nếu tách rời những sự kiện đời sống khách quan này thì cảm xúc và ý nghĩ sẽ không
có cơ sở hiện thực để nảy sinh, như cánh diều không dây nối liền mặt đất. Sự kiện và hình
ảnh đời sống luôn đan xen vào tâm trạng. Những chi tiết đời sống chân thực bao giờ cũng
có khả năng dồn nén sức biểu cảm, khơi gợi tình cảm mãng liệt, có sức dư ba lớn”
Hiện thực khách quan được phản ánh một cách cô đọng trong thơ tự nhiên đã làm tăng
sức biểu cảm, tăng sức gợi cảm, một phẩm chất cơ bản của trữ tình. Mặc dù, thể hiện thế giới
chủ quan của con người, tác phẩm trữ tình vẫn coi trọng việc miêu tả các sự vật, hiện tượng
trong đời sống khách quan bằng các chi tiết chân thật, sinh động. Những chi tiết chân thật,
sinh động trong đời sống dễ khêu gợi những tình cảm sâu sắc, mới mẻ. Như vậy, tác phẩm
trữ tình cũng phản ánh thế giới khách quan nhưng chức năng chủ yếu của nó là nhằm biểu
hiện những cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ, ... của con người.
3. Tình cảm điển hình trong tác phẩm trữ tình
Trong tác phẩm trữ tình không chỉ có nội dung mang tính cá thể mà còn có nội dung
mang tính phổ biến và tính thời sự. Khi trữ tình, con người thường cất tiếng nói riêng tư,
nhưng nhờ sự tự ý thức, bộc lộ phần “thăng hoa” nhất của tinh thần nên con người trữ tình
bao giờ cũng tự khái quát, nâng cao mình hơn con người có thực ngoài đời để nhập vào
tiếng nói văn hóa của thời đại.
Tác phẩm trữ tình bao giờ cũng mang đậm dấu ấn riêng của tác giả. Đó là những nỗi
niềm chủ quan thầm kín nhưng khi sáng tác nhà thơ luôn luôn nâng mình lên thành người
mang tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ cho một loại người, một thế hệ và cả những chân lí phổ
biến. Bê-lin-xki đã diễn đạt điều đó bằng một câu nói hàm súc: “Bất cứ thi sĩ nào cũng
không thể trở thành vĩ đại nếu chỉ do ở mình và miêu tả mình – dù là miêu tả những nỗi đau
của mình hay những hạnh phúc của mình. Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại là những
đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ hoãn sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi vì họ là khí
quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và của nhân loại”.
Từ phạm trù cái ta cộng đồng bước chuyển sang phạm trù cái tôi có phân biệt là đã
chuyển qua một nền văn hóa mới, văn hóa đô thị hiện đại. Người ta đã nói nhiều về một thời
đại chữ tôi trong văn chương.
Trước hết cái tôi ấy bắt nguồn từ những chủ thể sáng tạo mới và những cơ sở xã hội đã
sinh ra nó. Một thế hệ nghệ sĩ mới đã xuất hiện cùng với cả một hệ thống các quan niệm
thẩm mĩ mới những phạm trù nghệ thuật mới. Thế hệ nghệ sĩ mới này đã đề cao cái tôi như
là một đối tượng khám phá của nghệ thuật như là điểm hội tụ sáng láng nhất của cuộc sống
con người. Con người cá nhân, cá thể và những nỗi lòng thầm kín riêng tư được miêu tả đến
tận ngõ ngách của tâm hồn. Thứ nghệ thuật đầy tính chủ quan này đã cho phép các nhà Thơ
mới bộc lộ cái tôi của mình một cách đầy đủ qua việc đưa ra một quan niệm mới về nghệ
thuật, về con người, về người nghệ sĩ. Nhà thơ còn thể hiện cái tôi nghệ sĩ với một quan
niệm nghệ thuật hồn nhiên của mình. Nghệ thuật đến với nhà thơ như một bản năng, một
thiên hướng bẩm sinh, không gắn gì với nhân sinh thế sự:
“Tôi là người bộ hành phiêu lãng
Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi.”
(Cây đàn muôn điệu – Thế Lữ)
“Tôi là kết tinh của ánh trăng trong
Sao không cho tôi đến chốn Hư Không?”
(Tắm trăng – Chế Lan Viên)
Thơ trữ tình là tiếng nói riêng tư, nhưng thường tiếng nói riêng tư đó cũng không đi quá
xa những nỗi niềm và số phận, những khát khao chung của mọi kiếp người thuộc về một thời
đại, một dân tộc cụ thể. Ở đây, tình cảm riêng tư của nhà thơ bao giờ cũng giữ vai trò quan
trọng tạo nên giá trị của tác phẩm. Những tác phẩm trữ tình có giá trị được người đọc yêu
mến xưa nay bao giờ cũng thắm đẫm suy tư và dằn vặt của cá nhân nhưng đồng thời cũng
đánh đồng tình cảm, tâm trạng, ... của cả một lớp người, một thời đại nhất định.
4. Nhân vật (Chủ thể) trữ tình trong tác phẩm trữ tình
Nhân vật trữ tình chính là chủ thể trữ tình, người tự phát ngôn, tự miêu tả, tự bộc lộ.
Nhân vật trữ tình thường là tác giả. Nhân vật trữ tình là người trực tiếp thổ lộ những
cảm xúc và suy nghĩ trong tác phẩm trữ tình.
Trong tác phẩm trữ tình cái tôi trữ tình giữ một vị trí đặc biệt quan trọng, vì nó là nguồn
trực tiếp duy nhất của nội dung tác phẩm, cái tôi trữ tình thường xuất hiện dưới dạng nhân
vật trữ tình. Nhân vật trữ tình là người trực tiếp thổ lộ những suy nghĩ và cảm xúc trong bài
thơ. Nhân vật trữ tình không có diện mạo, tiểu sử, hành động, lời nói, quan hệ cụ thể nhưng
được thể hiện qua giọng điệu, cảm xúc, cách cảm, cách nghĩ.
Khi nói đến nhân vật trữ tình cũng cần phân biệt nhân vật trữ tình với nhân vật trong tác
phẩm trữ tình. Nhân vật trong tác phẩm trữ tình là đối tượng để nhà thơ suy tư, cảm xúc,
suy nghĩ của mình, là nguyên nhân trực tiếp khơi gợi nguồn cảm hứng cho tác giả, gửi gắm
tâm sự, cảm xúc, suy nghĩ... của mình, là nguyên nhân trực tiếp khơi gợi nguồn cảm hứng
cho tác giả. Ví dụ, bà Bủ, bà Bầm, Lượm, mẹ Suốt, bà má Hậu Giang trong thơ Tố Hữu.
“Bầm ơi có rét không bầm?
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.”
(Bầm ơi – Tố Hữu)
Hay nhân vật ông đồ trong bài thơ cùng tên của Vũ Đình Liên: “Mỗi năm hoa đào nở/ Lại
thấy ông đồ già/ Bày mực tàu giấy đỏ/ Bên phố đông người qua.”
Khi đọc một bài thơ, trước mắt chúng ta không chỉ xuất hiện những cảnh thiên nhiên, sinh
hoạt, những con người mà còn một hình tượng của một ai đó đang ngắm nhìn, rung động,
suy tư về chúng, về cuộc sống nói chung. Hình tượng ấy chính là nhân vật trữ tình. Đó là
tâm hồn, nỗi niềm, tấm lòng, ... mà người đọc cảm nhận được qua tác phẩm thơ ca:
“Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trăng
Ngồi lên để thả cái hồn thơ”
(Em lấy chồng – Hàn Mặc Tử)
Nhân vật trữ tình còn là người đại diện cho một lớp người, một giai cấp, một dân tộc để
phát biểu. Lời lẽ riêng tư và ý nghĩa chung thường hòa nhập trong những lời nhân vật trữ
tình. Ví dụ, lời bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, là người phụ nữ, mà cũng là lời của biết bao
phụ nữ:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.”
Tuy nhiên, có nhiều trường hợp nhân vật trữ tình không phải là hiện thân của tác giả. Do
tính chất tiêu biểu, khái quát của nhân vật trữ tình nên nhà thơ có thể tưởng tượng, hóa thân
vào đối tượng để xây dựng nhân vật trữ tình theo quy luật điển hình hóa trong sáng tạo nghệ
thuật. Có thể coi đây là những nhân vật trữ tình nhập vai.
5. Lời thơ trong tác phẩm trữ tình
Lời thơ trữ tình bộc lộ qua các từ miêu tả tâm trạng, sự đánh giá, phán xét, khẳng định
và phủ định với những câu hỏi, lời mời, lời cảm thán, lời gọi, lời chào, lời hẹn họ, lời tiếc
nuối, nhắn nhủ: “Chiều chiều mây phủ Sơn Trà/ Lòng ta thương bạn nước mắt và lộn cơm.”
(Ca dao)
Lời thơ của loại hình trữ tình là lời văn đặc biệt. Trước hết, lời thơ trong tác phẩm trữ
tình bao giờ cũng giàu ý nghĩa. Lời thơ trữ tình còn mang tính chất lạ hóa, để có thể quyến
rũ, hấp dẫn, ám ảnh người đọc.
Lời thơ đầy chất huyền bí và trình bày rõ rệt trạng thái tình cảm của nhà thơ khi chiêm
ngưỡng đối tượng. Chính sự lạ hóa trong lời thơ còn góp phần diễn tả những cung bậc nội
tâm phức tạp của con người. Lời văn trong tác phẩm trữ tình đòi hỏi bộc lộ những tình cảm
mạnh mẽ, những ý tập trung, hàm súc do đó nó phải tìm cho mình những lời văn phù hợp
với yêu cầu gây ấn tượng mạnh, không phải chỉ bằng ý nghĩa của từ mà còn bằng cả âm
thanh, nhịp điệu của từ ngữ nữa. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người khẳng định đặc
điểm quan trọng nhất của lời văn trong tác phẩm trữ tình là giàu nhạc điệu. Nhạc tính
này, do đặc điểm ngôn ngữ của từng dân tộc, được biểu hiện khác nhau.
6. Ngôn ngữ trong tác phẩm trữ tình:
6.1. Ngôn ngữ có tính hàm súc, cô đọng
Để có một vần thơ lắng đọng, các nhà thơ phải lao động hết mình để lựa chọn ra những
ngôn từ thơ tốt nhất diễn tả được cảm xúc tình cảm của mình. Đó là sự gọt giũa về mặt ngôn
từ để tạo ra những từ ngữ thơ mà đọc lên người đọc ấn tượng và hiểu thấu nội dung tư tưởng
nhà thơ gửi gắm: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng/
Đây mùa thu tới, mùa thu tới/ Với áo mơ phai dệt lá vàng” (Đây mùa thu tới – Xuân Diệu).
Hay “Ngoài thềm rơi chiếc lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.” (Đêm Côn Sơn –
Trần Đăng Khoa)
6.2. Ngôn ngữ giàu tính nhịp điệu
Trong thơ, sự phân dòng của lời thơ nhằm mục đích nhịp điệu, tạo ra nhịp điệu thơ. Cuối mỗi
dòng thơ đều có chỗ ngắt nhịp. Tuỳ theo số chữ trong mỗi dòng mà nhịp thơ thể hiện khác
nhau.Và theo từng cung bậc tình cảm thì nhà thơ sử dụng thể thơ 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8
chữ hoặc dài hơn, hoặc ngắn hơn chen nhau…Ngoài ra, trong các thể thơ Việt nam như lục
bát, song thất lục bát tứ tuyệt, hát nói…là những cấu tạo nhịp điệu đặc biệt, có lưng, vần,
chân, lối ngắt nhịp riêng độc đáo: “ Ngày xuân mơ nở trắng rừng/ Nhớ người đan nón chuốt
từng sợi giang/ Ve kêu rừng phách đổ vàng/ Nhớ cô em gái hái măng một mình/ Rừng thu
trăng rọi hòa bình/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.” (Việt Bắc – Tố Hữu)
6.3. Ngôn ngữ thơ giàu tính nhạc, tính hoạ
Bằng những âm thanh luyến láy, bằng những từ ngữ trùng điệp, sự phối hợp bằng trắc
và cách ngắt nhịp, nhà thơ đã xây dựng nên những câu thơ, những hình tưọng thơ có sức
truyền cảm lớn, tạo nên những cung bậc tình cảm tinh tế của người nghệ sĩ: “Chú bé loắt
choắt/ Cái xắc xinh xinh/ Cái chân thoăn thoắt/ Cái đầu nghênh nghênh” (Lượm – Tố
Hữu).
Thơ được xây dựng bằng những hình tượng nghệ thuật có sức gợi cảm lớn. “Thi trung
hữu hoạ”, trong thơ thể hiện những bức tranh hoàn mỹ mà người đọc có thể hình dung khi
cảm nhận những vần thơ khắc hoạ. Đó là tính hoạ trong thơ: “Nào đâu những đêm vàng bên
bờ suối/ Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan/ Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương
ngàn/ Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới/ Đâu những bình minh cây xanh nắng rọi/ Tiếng
chim ca giấc ngủ ta tưng bừng/ Đâu những ngày lênh láng máu sau rừng/ Ta đợi chết mảnh
mặt trời gay gắt...” (Nhớ rừng – Thế Lữ)
6.4. Ngôn ngữ thơ phải có tính biểu hiện
Văn học nói chung, thơ ca nói riêng phản ánh hiện thực cuộc sống qua hình tượng nghệ
thuật. Nghĩa là điều mà nhà nghệ sĩ nhận thức, suy tư về cuộc sống luôn được thể hiện một
cách gián tiếp. Để làm được điều này người nghệ sĩ đi vào khai thác khả năng biểu hiện của
ngôn ngữ. Đó là cách tổ chức sắp xếp ngôn ngữ sao cho từ một hình thức biểu đạt có thể có
nhiều nội dung biểu đạt. Đó là quá trình chuyển nghĩa tạo nên lượng ngữ nghĩa kép trong thơ:
“Ngày ngày mặt trời đi quan trên lăng/ Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ/ Ngày ngày dòng
người đi trong thương nhớ/ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” (Viếng lăng Bác –
Viễn Phương).
Thơ trữ tình – Thể loại tiêu biểu nhất của trữ tình
Thơ trữ tình mang tất cả những đặc trưng trên của thể loại trữ tình đã xác đinh ở phần
nói trên. Đề cập đến thơ trữ tình chúng ta sẽ đi sâu để tìm hiểu về đặc điểm của thể loại này
thông qua các yếu tố:
 Nhân vật trữ tình (chủ thể bộc lộ tình cảm/ chủ thể trữ tình): Chủ thể trữ tình là khái niêm
dùng để chỉ người thể hiện thái độ, cảm xúc, tư tưởng của mình trong suốt văn bản thơ.
Đọc thơ trữ tình, trước mắt ta không chỉ xuất hiện những cảnh thiên nhiên, cảnh sinh hoạt,
nhũng con người, sự kiện mà còn gợi lên hình tượng một ai đó đang ngắm nhìn, đang rung
động, suy tưởng về chúng. Hình tượng ấy gọi là chủ thể trữ tình trong thơ. Chủ thể trữ tình
thường xuất hiện trực tiếp với các đại từ nhân xưng: “tôi”, “ta”, “chúng ta”, “anh”,
“em”,...hoặc nhập vai vào một nhân vật nào đó, cũng có thể là chủ thể ẩn. Các hình thức
[tr.63, SGK Ngữ
xuất hiện nêu trên của chủ thể trữ tình có thể thay đổi, xen kẽ trong một bài thơ.
văn 1 CTST, tập 1]

 Vần và nhịp là những yếu tố quan trọng tạo nên nhạc điệu trong thơ
Vần tạo nên sự kết nối, cộng hưởng âm thanh giữa các dòng thơ. Đồng thời làm cho
thơ dễ nhớ, dễ thuộc hơn. Cách gieo vần phụ thuộc vào yêu cầu và quy cách riêng của mỗi thể
thơ. Nhưng nói chung, xét về vị trí, có vần chân (cước vận) là vần giữa các chữ ở cuối dòng
thơ: “ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!/ Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” (Tây Tiến – Quang Dũng)
và vần lưng (yêu vận) là giữa chữ cuối của dòng trước với chữ ở gần cuối hay khoảng giữa
của dòng thơ sau, hoặc giữa các chữ ngay trong một dòng thơ. Xét về thanh điệu, có thanh
bằng (B) và thanh trắc (T). [tr.63, SGK Ngữ văn 10 CTST, tập 1]
Nhịp (hay ngắt nhịp) là cách tổ chức, sắp xếp sự vận động của lời thơ, thể hiện qua các
chỗ dừng, chỗ nghỉ khi đọc bài thơ. Cách ngắt dòng, ngắt nhịp trong từng lời thơ, câu thơ tạo
nên hình thức của nhịp thơ. Nhịp thơ là nhân tố tạo nen bước đi của thơ với âm thanh vang,
chậm, dài, ngắn, nhặt, khoan,...
Trước hết, ngắt nhịp liên quan đến xuống dòng. Điều này phụ thuộc vào số lượng chữ
của dòng thơ. Ví dụ thơ Lục – Bát luân phiên ngắt dòng 6-8, thơ song thất lục bát luôn phiên
ngắt dòng 7-7-6-8, các thể thơ 4 chữ, 5 chữ...đều có nhịp ngắt dòng riêng.
Tiếp đến nhịp thơ còn toát ra từ cách ngắt nhịp trong từng dòng thơ, câu thơ. Ví dụ câu thơ 7
chữ thường ngắt nhịp 4/3, thơ 5 chữ thường ngắt nhịp 2/3. Việc thay đổi cách ngắt nhịp quen
thuộc trong dòng thơ là có ý đồ của tác giả, cũng là câu thơ lục bát nhưng cách ngắt nhịp khác
tạo nên ý nghĩa khác nhau. [tr.64, SGK Ngữ văn 10 CTST, tập 1]
 Từ ngữ, hình ảnh trong thơ mang lại sức gợi cảm lớn, có khả năng chứa đựng nhiều tầng
ý nghĩa. Hình ảnh trong thơ có thể được miêu tả trực quan, các hình thức láy, điệp làm cho
đường nét, màu sắc trở nên lung linh, sống động, hoặc có thể gợi tả gián tiếp bằng liên
tưởng, tưởng tượng như các biện pháp tu từ: ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ...làm cho cái vô
hình trở nên hữu hình, cái vô tri, vô giác trở nên có hồn và giàu ý nghĩa. Hình ảnh trong
thơ luôn chứa đựng tâm hồn của nhà thơ. [tr.64, SGK Ngữ văn 1 CTST, tập 1]

 Tác phẩm minh họa: Thơ duyên (Xuân Diệu) [trích SGK Ngữ văn 10 CTST, tập 1, bài 3]
- Nhân vật trữ tình: “anh” và “em”: “Em bước điềm nhiên chẳng dính chân/ Anh đi
lững chững chẳng theo gần”.
- Vần: Bài thơ chủ yếu gieo vần chân với các vần: “uyên”, “iêu”, “ân”... “Chiều mộng
hòa thơ trên hòa thơ trên nhánh duyên/ Cây me ríu rít cặp chim chuyền”
- Nhịp: Nhịp 4/3 “Con đường nhỏ nhỏ/ gió xiêu xiêu; Lả lả càng hoang/ nắng trở chiều;
Buổi ấy lòng ta/ nghe ý bạn; Lần đầu rung động/ nỗi yêu thương.”
- Từ ngữ thơ: giàu sức biểu cảm và biểu đạt: “lững đững”, “xiêu xiêu”, “điềm nhiên”,
“gạ”, “giang”, “lả lả”...
- Hình ảnh thơ: “chiều mộng”, “trời xanh ngọc”, “cành hoang”, “mây biếc”, “hoa
lạnh”...
 Tình cảm, cảm xúc trong thơ là những rung động nội tâm, những cảm nhận của nhà thơ
về cuộc sống. Tình cảm, cảm xúc trong thơ đánh thức rung động trong trái tim người đọc.
[tr.4, SKG Ngữ văn 1 CTST, tập 2]

 Cảm hứng chủ đạo trong thơ: Cảm hứng là trạng thái tâm lí dạt dào cảm xúc và sự lôi
cuốn, thôi thúc mãnh liệt đối với con người khi tiếp xúc với một hiên tượng, một sự vật
hay thực hiện một công việc, một hành động nào đó. Cảm hứng chủ đạo trong thơ là trạng
thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm thơ, tác động đến cảm xúc của
những người tiếp nhận tác phẩm. Một tác phẩm thơ có thể có nhiều cảm hứng nhưng chỉ
[tr.4, SGK Ngữ văn 1 CTST, tập
có một cảm hứng chủ đạo, vì đó là cảm hứng chính, bao trùm tác phẩm.
2]

 Tác phẩm minh họa: Tây Tiến (Quang Dũng) [trích SGK Ngữ văn 10 CTST, tập 2, bài 6]
- Tình cảm, cảm xúc trong thơ: Đó là nỗi nhớ về thiên nhiên, nhớ những ngày tháng
gian khổ hành quân và cả những người đồng đội dũng cảm. Cảm xúc trong bài thơ còn
là tinh thần lạc quan, nhí nhỏm của những con người coi thường cái đến.
- Cảm hứng chủ đạo: là cảm hứng lãng mạn. Bút pháp lãng mạn được thể hiện ở hai
phương diện. Thứ nhất là ở nội dung cảm hứng. Đó là nỗi nhớ một thời chiến tranh
gian khổ, hy sinh; hình tượng thiên nhiên; hình tượng người lính Tây Tiến. Thứ hai là ở
nghệ thuật thể hiện. Đó là bút pháp tương phản đối lập trong việc thể hiện hiện thực
khắc nghiệt của cuộc sống chiến đấu và chấn thơ từ chính cuộc sống đó; nét bi thương
và hào hùng của hình tượng người lính; giọng điệu bi tráng của tác phẩm,… Cảm hứng
lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến tạo một dấu ấn đậm nét trong nền thơ Việt Nam thời
kỳ chống thực dân Pháp. Bài thơ được viết trong nỗi nhớ da diết khôn nguôi của Quang
Dũng về đồng đội mình, về những năm tháng đoàn quân Tây Tiến gắn bó bên nhau với
muôn vàn kỉ niệm đáng nhớ: khó khăn, niềm vui…, nỗi nhớ về khung cảnh thiên nhiên
hùng vĩ nhưng cũng rất đỗi thơ mộng trữ tình của Tây Bắc, về những con người nơi ấy,
tình quân dân ấm áp khó phai.
 Yếu tố tượng trưng trong thơ trữ tình:
Tượng trưng: là loại hình ảnh mang tính trực quan, sinh động nhưng hàm nghĩa biểu
đạt những quan niệm, tư tưởng, khái niệm trừu tượng. Chẳng hạn chim bồ câu tượng trưng
cho hòa bình, hoa hồng đỏ tượng trung cho tình yêu và lá cờ tượng trưng cho quốc gia.
Tượng trưng trong thơ trữ tình: Thông thường thơ trữ tình diễn tả thế giới nội tâm của
chủ thể trữ tình thông qua những chi tiết, hình ảnh cụ thể, gợi cảm. Tuy nhiên, một số tác
phẩm thơ trữ tình còn đi sâu vào vấn đê triết học, thông qua những chi tiết có tính tượng trưng
cao. Yếu tố tượng trưng trong thơ trữ tình là những chi tiết, hình ảnh gơi lên những ý niệm
trừu tượng và giàu tính triết, đánh thức suy ngẫm của người đọc về bản chất xấu xa của con
người và thế giới. Chẳng hạn, hình ảnh tháp Bayon trong bài thơ “Tháp Bayon bốn mặt” (Chế
[tr.59, SGK Ngữ văn 11
Lan Viên) tượng trưng cho thế giới tâm hồn đa diện, phức tạp của con người.
CTST, tập 1]

 Hình thức và cấu tứ trong thơ trữ tình:


Hình thức: là tổng hòa của thể thơ, câu thơ, lời thơ, giọng điệu, nhịp, vần, hình
ảnh,...trong thơ trữ tình. Tất cả được lựa chọn để thể hiện, liên kết chủ đề, tư tưởng chung của
tác phẩm. Chẳng hạn từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu trong bài Dáng đứng Việt Nam (Lê Anh
Xuân) toát lên âm hưởng bi tráng, hào hùng. [tr.60, SGK Ngữ văn 11 CTST, tập 2]
Cấu tứ :cách thức triển khai mạch cảm xúc và tổ chức hình tượng trong tác phẩm trữ
tình. Chẳng hạn trong bài Dáng đứng Việt Nam (Lê Anh Xuân), cấu tứ bài thơ là sự khái quát
từ tư thế hi sinh hiên ngang của anh Giải phóng trên đường băng Tân Sơn Nhất đến hình ảnh
“dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ”. [tr.60, SGK Ngữ văn 11 CTST, tập 2]

 Tác phẩm minh họa: Thời gian (Văn Cao) [trích SGK Ngữ văn 11, tập 2, bài 5]
- Tính chất tương trưng của các hình ảnh thơ:
+ Thời gian không phải là vô hình mà là một khối vật chất có thể đo lường được và có thể
cầm trên tay.
+ Hình ảnh chiếc lá khô: một ẩn dụ rất tổng quát, bộc lộ góc nhìn tạm bợ về cuộc đời con
người khắc nghiệt mà ai cũng phải trải qua, đó là quy luật sinh tử.
- Cấu tứ: Vẻ đẹp sức sống vĩnh cửu thông qua những câu thơ, những lời hát.
- Hình thức: Thể thơ tự do, kết hợp với các hình ảnh tượng trưng: “chiếc lá”, “thời
gian”, “giếng khô” đã thể hiện được quan điểm mới về cách nhìn nhận thời gian của
Văn Cao.

You might also like