You are on page 1of 88

NHỮNG BÀI VĂN LÍ LUẬN HAY

Nhà phê bình người Nga Belinxky viết: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc
sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó
không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó” (Lí luận văn học, NXB Giáo dục,
1993, trang 62).
Bằng hiểu biết về văn học, anh (chị) hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.
Bài làm
Dostoevsky khi lí giải động lực khiến mình cầm bút đã nói rằng: “Tôi hãy còn một trái tim, một
dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ”. Còn R. Tagore mong muốn sau khi từ giã
cõi đời, được nhắn nhủ lại một lời: “Tôi đã từng yêu”. Có phải bởi những nhà văn, nhà thơ vĩ đại
– những con người đã sống, đã sống hết mình và yêu hết mình với cuộc đời, với con người bởi
thấm thía sâu sắc rằng: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả,
nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những
câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó” (Lí luận văn học, NXB Giáo dục, 1993, trang 62).
Saltykov Shchedrin đã từng nói: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó
không thừa nhận cái chết”. Vậy điều gì đã khiến các tác phẩm nghệ thuật bất tử? Ở tài
năng hay ở tấm lòng người cầm bút? Ý kiến của nhà phê bình Nga Bielinxky trên đây đã
khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng, thậm chí, quyết định tư tưởng, tình cảm, hay nói cách
khác, cái tâm của người cầm bút quyết định sức sống của một tác phẩm nghệ thuật, ở đây
được hiểu là tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học chỉ sống được trong những tư tưởng, tình
cảm mãnh liệt của người cầm bút mà thôi.
Trước hết, qua nhận xét của mình, Belinxky muốn lên án thứ văn chương “miêu tả cuộc sống chỉ
để miêu tả”. Đúng là văn học nghệ thuật ra đời để miêu tả, phản ánh hiện thực cuộc sống con
người. Nhưng đó không phải là mục đích duy nhất của văn học. Nếu văn học chỉ miêu tả cuộc
sống đơn thuần không thôi thì đó đâu khác bức ảnh, bản photo nguyên xi, máy móc, vô hồn về
cuộc sống. Và liệu rằng các tác phẩm ấy có thể cung cấp cho người đọc nhiều hiểu biết chính xác,
phong phú, khách quan hơn các công trình khiên cứu khoa học được chăng? Sao chép nguyên
xi hiện thực, mô phỏng cuộc sống một cách vụng về, văn học nghệ thuật sẽ không còn là văn học,
sẽ “chết” như cách nói của Belinsky.
Vậy điều gì giúp cho các tác phẩm văn học, mặc dù vẫn miêu tả, thể hiện những khám phá về
cuộc sống lại không trở thành những bức ảnh vô hồn hay những bản thống kê chi tiết đến khô
cứng, lạnh lùng? Belinsky đã chỉ ra rằng, tác phẩm ấy phải là “tiếng thét khổ đau” hoặc là
“lời ca tụng hân hoan”, tức là phải in đậm bầu cảm xúc mãnh liệt của người nghệ sĩ. Bởi lẽ văn
học là làm theo quy luật của tình cảm. Văn học là sự lên tiếng thôi thúc của trái tim. Nhà văn chỉ
viết được khi “trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”. Nếu như các ngành khoa học loại bỏ cái tôi
trong nghiên cứu thì các ngành nghệ thuật, trong đó có văn học lại lấy cái tôi làm điểm tựa cho
sự sáng tạo. Viên Mai đã từng nói: “Làm người thì không nên có cái tôi nhưng làm thơ không
thể không có cái tôi”. Thơ nói riêng và văn học nói chung không thể thiếu cái tôi - ở đây là dấu
ấn tư tưởng tình cảm của người nghệ sĩ. Làm sao nhà văn có thể viết khi đứng trước hiện thực
cuộc sống, trái tim anh không hề rung động, không hề xúc cảm? Hiện thực cuộc sống, dù
phong phú, kì diệu đến mấy mà không được thổi hồn bởi tình cảm mãnh liệt của người cầm bút
thì cũng chỉ là những hình ảnh lay lắt, không có sức sống trong tác phẩm mà thôi. “Đừng cậy
thời đại anh hùng nếu tâm hồn anh cứ bé” - ấy là lời nhắn nhủ chân thành, lời khuyên răn
chính mình của nhà thơ Chế Lan Viên. Cho hay, đó cũng chính là điều sinh tử với người cầm bút.
Tình cảm không chỉ là “khâu đầu tiên” mà còn là “khâu cuối cùng” trong quá trình hình
thành một tác phẩm văn học. Văn học chỉ sống được trong tấm lòng đồng cảm của người học.
Vậy làm sao tác phẩm nghệ thuật có thể lay động sâu xa tâm hồn người đọc, có thể khiến độc giả
cùng vui, buồn, xôn xao, giận hờn, đau khổ, căm phẫn… cùng nhân vật khi mà nhà văn không
thực sự xúc cảm, không viết từ chiều sâu con tim? “Thơ muốn làm cho người ta khóc, trước tiên
mình cũng phải khóc, muốn làm cho người ta cười, trước hết mình phải cười”. Nhà văn phải đau
cái đau của nhân vật, phải buồn cái buồn của nhân vật, vui cái vui của cuộc sống, của con
người, khi ấy tác phẩm của anh mới có “sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại” (Hoài Thanh).
Cảm xúc trơ lì, sáo mòn; tình cảm nông cạn, hời hợt, giả dối; tác phẩm chỉ là những con chữ vô
hồn, xác ép khô không gây xúc động nơi người đọc. Chỉ những gì xuất phát từ trái tim mới đi đến
những trái tim. Với ý nghĩa ấy, tác phẩm văn học đã bắc nhịp cầu linh
diệu nối liền trái tim nghệ sĩ với tâm hồn độc giả để trong đời này có nhiều yêu thương, sẻ
chia hơn.
Nhà văn Nga Gercen đã từng cho rằng: “Nhà văn là một nỗi đau khổ”. Khổ đau trong cuộc đời,
các nhà văn đã thấu hiểu sâu sắc “mọi nỗi đau đớn của con người thời đại, đã rung động tận đáy
tâm hồn với những lo âu, bực bội, tủi hổ,… của loài người” (Đặng Thai Mai). Nguyễn Du đã viết
“Truyện Kiều” bởi “nỗi đau đớn lòng” trước những điều Người đã “trông thấy”, đã từng trải
qua trong cuộc đời. “Truyện Kiều” là tiếng kêu đứt ruột về những kiếp sống bị đọa đày. Ai biết
trong mười lăm năm lưu lạc của mình, Thúy Kiều đã từng bao lần rơi lệ, đã từng bao lần bị
đánh đập, hành hạ? Và ai biết được,người nghệ sĩ có trái tim nhân đạo vĩ đại
– Nguỹen Du đã bao lần nhỏ lệ trước “số phận một con người” bất hạnh, đau đớn, ê chề. “Tố
Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”. Nỗi đau ấy đã lại một lần thôi thúc Người viết nên hai câu thơ,
mà hôm nay và mai sau hãy còn vang vọng:
“Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Không cầu kì, hoa mỹ, đó là những lời huyết lệ, những lời tâm can của chính Nguyễn Du.
Những câu thơ như thế, có gì hay, có gì mà hấp dẫn muôn triệu trái tim, muôn triệu tâm hồn?
Phải chăng bởi đó là “tiếng thét khổ đau”, bởi đó là sự trào dâng mãnh liệt của cảm xúc, của tình
yêu thương con người. Mượn cốt truyện của người xưa nhưng Nguyễn Du không sao chép nguyên
xi. Người đã thổi hồn cho những con chữ, những hình tượng sống dậy mãi trong tâm hồn, trong
những sướng khổ, buồn vui của biết bao thế hệ con người Việt Nam hôm nay và mai sau.
Khác với Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương cũng viết về người phụ nữ, nhưng với tâm trạng của
người trong cuộc, hay đúng hơn, viết bằng sự trải nghiệm của chính bản thân mình. Những vần
thơ của Xuân Hương là sự lên tiếng của một thân phận. Bất hạnh trong cuộc đời riêng, Xuân
Hương tìm đến thơ như người bạn tâm tình - nơi gửi gắm, kí thác những nỗi niềm suy tư. Đọc
thơ Hồ Xuân Hương, người đọc có thể bị cuốn đi bởi các câu thơ mỉa mai sát sàn sạt, những lời
mắng chửi té tát, không thương tiếc với bọn “hiền nhân quân tử”, những vua chúa, sư sãi giả dối,
hợm hĩnh, vô luân,… Nhưng đằng sau những nụ cười “rất mạnh, rất sâu” ấy là những giọt nước
mắt, những “tiếng thét khổ đau” cho thân phận người phụ nữ. Để rồi đọc thơ bà, ta thấy “cần
phải khóc” trước những cảnh “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”, trước cảnh ngộ “Trơ cái hồng
nhan với nước non”. Khao khát mãnh liệt về tình yêu, về hạnh phúc, nhưng cuối cùng, nữ sĩ được
gì ngoài “kiếp lấy chồng chung”, ngoài thứ tình cảm chia năm sẻ bảy “Mảnh tình san sẻ tí con
con”. Hồ Xuân Hương muốn vượt thoát tất cả, muốn “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung” để
không còn những cảnh “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”. Nhưng cái xã hội phong kiến bất công
phi nhân tính ấy đâu có để nữ sĩ sống hạnh phúc, bình yên như mong muốn. Cho nên tiếng thơ Hồ
Xuân Hương đọng lại một niềm đau, không dễ quên, không thể nguôi.
Trong truyện ngắn nổi tiếng “Chí Phèo”, Nam Cao lại quay tấm gương cuộc sống, cho ta thấy
một kiếp sống tủi nhục trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng. Ấy là Chí Phèo, một nạn
nhân đau khổ của một xã hội cạn khô tình người với những ác quỷ mang bộ mặt người. Sinh ra
không tình yêu thương của mẹ cha, Chí Phèo lớn lên trong sự đùm bọc của những người
như: anh thả ống lươn, bà cụ mù lòa, bác phó cối nghèo nhưng tốt bụng. Nhưng những người
năm ấy, như chính những câu văn tái hiện rất ngắn gọn của Nam Cao, lướt qua cuộc đời Chí như
những cơn gió. Phần còn lại của cuộc đời, Chí đâu có gì ngoài những năm tháng tù tội, những
lần rạch mặt ăn vạ, những khinh bỉ, miệt thị của người đời? Gặp Thị Nở, cứ tưởng cuộc đời Chí
sẽ bừng sáng, sẽ ngời lên hồi chuông an lành nhưng hạnh phúc, tình yêu thoảng qua như hơi
cháo hành, như ảo ảnh về nguồn nước giữa sa mạc khô tình người. Người nhen lên ngọn lửa
lương tri, tình người cũng chính là người dập tắt hi vọng trở về với cuộc đời của Chí. Và khi
“mất thiên thần, người đã chết”. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời. Chí đã chết
khi miệng còn “ngáp ngáp” như muốn thanh minh, muốn bày tỏ với cuộc đời, với con người. Còn
gì đau đớn hơn thân phận của con người ấy? Viết về những số phận bất hạnh ấy, ngòi bút Nam
Cao đâu chỉ nhằm phản ánh chân xác thực trạng con người bị tha hóa trong xã hội cũ. Đằng sau
câu chữ, cách xưng hô có vẻ lạnh lùng, dửng dưng, miệt thị ấy là một trái tim ấm nóng tình yêu
thương con người. Nam Cao đã từng mong muốn viết lên những tác phẩm làm cho “người gần
người hơn” thì với Chí Phèo, ông đã làm được điều đó. Bởi lẽ nhà văn đã “đứng trong lao khổ
mở hồn ra đón lấy những vang vọng của đời” cho nên những tác phẩm của ông, những “tiếng
đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” sẽ còn sống mãi.
Mặt trời không chỉ có mây đen mà còn có những tia nắng vàng, cuộc sống không chỉ có những nỗi
khổ đau mà còn có những niềm vui sướng. Văn học phản ánh hiện thực, không chỉ là phản ánh
những đau khổ mà còn ngợi ca những vẻ đẹp, những niềm vui của cuộc sống, của con người.
Hài kịch “Người lái buôn thành Venice” của Shakespeare là tiếng cười ngạo nghễ, sung
sướng; là lời ngợi ca hân hoan sự chiến thắng của chủ nghĩa nhân văn cao cả. Thơ Xuân Diệu là
“bầu xuân”, là “bình chứa muôn hương” của tuổi trẻ, sức sống và tình yêu:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất Của
yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa Tháng
giêng ngon như một cặp môi gần” (Vội
vàng)
Người ta gọi thơ Xuân Diệu là “nguồn sống dào dạt chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ
này” phải chăng bởi nhà thơ đã đốt cháy xúc cảm say mê mãnh liệt với cuộc đời. Cuộc sống
muôn đời vẫn vậy. Thế nhưng những cảnh sắc của cuộc sống đi qua tâm hồn nồng nàn tình yêu
cuộc đời của Xuân Diệu lại ánh lên những màu sắc diệu kì, lại ngân lên những thanh âm du
dương. Thế giới, qua cặp mắt “xanh non biếc rờn” của thi sĩ họ Ngô là khu vườn tình ái, nơi
ong bướm đang trong “tuần trăng mật”, nơi chim muôn ca lên “khúc tình si”, nơi tạo hóa đắm
chìm trong “cặp môi gần” của tháng giêng. Đó còn là bữa tiệc thịnh soạn, phong phú của
cuộc sống “nở hoa dâng tặng người muốn hái”. Đẹp làm sao! Làm sao Xuân Diệu có những
cảm nhận tinh tế, diệu kì ấy nếu nhà thơ dửng dưng, vô cảm với cuộc đời. Chính niềm khao khát
giao cảm với cuộc đời, chính niềm yêu sống đến cuồng si, mãnh liệt đã giúp thi sĩ
phát hiện ra vẻ đẹp của cuộc sống. Những vần thơ như “lòng” Xuân Diệu mở ra, như tay
Xuân Diệu muốn chìa ra mời mọc, gợi mời con người. Sao có thể không nhớ, không yêu những
vần thơ say đắm, thiết tha đến dường vậy! Thơ Xuân Diệu, tự bản thân nó không phải sự mô
phỏng cuộc sống. Đó là lời tụng ca hân hoan, đắm đuối trước vẻ đẹp đích thực của cuộc sống.
Cũng như Xuân Diệu, Chế Lan Viên đã cất lên tiếng hát ngợi ca vẻ đẹp giá trị của cuộc sống
trong những năm tháng đất nước độc lập, tiến lên xây dựng cuộc sống mới, chế độ mới. “Những
ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả
Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn! Trái
cây rơi vào áo người ngắm quả,
Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn, Mặt
trời đến mỗi ngày như khách lạ,
Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn…” (“Tổ
quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”)
Bước ra từ những tháp Chàm đổ nát để hòa nhập với cuộc đời, Chế Lan Viên như thoát khỏi
“thung lũng đau thương” để tìm đến “cánh đồng vui”. Ấy là cuộc sống mới của những con
người mới. Nhà thơ thấy cuộc đời thật đẹp, thật phong phú, mến yêu biết bao nhiêu. Lần đầu tiên
trong cuộc đời, nhà thơ cảm nhận được vẻ đẹp đích thực của cuộc sống. Sung sướng lắm! Tự hào
lắm! Bởi được sống, được cống hiến, và thấy đời mình có ý nghĩa. Những lời thơ ấy đã ngân vang
điệu nhạc rạo rực, say mê, hân hoan của hồn người. Âm hưởng của khúc nhạc thần kì ấy sẽ còn
vang vọng và dư ba.
Như vậy, có thể nói tình cảm là điều kiện không thể thiếu để có tác phẩm nghệ thuật đích thực.
Cảm xúc chân thành mãnh liệt, tự nó đã là giá trị của tác phẩm văn học. Nó cũng chính là
“cái hơi thở, cái sức sống của những tác phẩm vĩ đại”. Nhưng nếu chỉ có tình cảm không thôi,
văn học liệu có dược sức sống, sức hấp dẫn kì diệu đến vậy hay không? Belinsky thêm một lần nữa
nhấn mạnh vào vai trò đặc biệt quan trọng của tư tưởng đúng đắn, sâu sắc ở người viết. Tác
phẩm nghệ thuật sẽ sống khi nó “đặt ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó”. Theo tôi
hiểu, những “câu hỏi” ở đây là những vấn đề nhà văn trăn trở, nghĩ suy về cuộc sống, về con
người. Ấy là những “câu hỏi của cuộc sống” (Tố Hữu). Những câu hỏi ấy thể hiện cách nhìn,
nhận thức, quan niệm nghệ thuật về con người, về xã hội của nhà văn. Nói cách khác, đó là sự
hiện hình của tư tưởng nhà văn được biểu hiện trong tác phẩm. Tư tưởng nghệ thuật là một
trong những yếu tố quyết định tầm vóc của nhà văn và giá trị của tác phẩm. Nguyễn Khải từng
nói: “Giá trị của một tác phẩm văn học trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó”. Còn
Korolenco thì nhấn mạnh: “Tư tưởng là linh hồn của tác phẩm văn học”. Tư tưởng sai lầm,
lệch lạc, văn học sẽ trở thành công cụ gây tội ác. Lỗ Tấn đã từng nói: “Làm một thầy thuốc kê
đơn bốc thuốc bậy chỉ giết chết có một người, làm một viên võ tướng điều binh khiển tướng bậy
chỉ nướng hết một đạo quân, còn làm một nhà văn viết bậy có thể gây tác hại đến ba thế hệ.” Có
được ảnh hưởng hết sức quan trọng như vậy bởi nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng của văn học.
Văn học không chỉ là “công cụ khám phá, hiểu biết và sáng tạo thực tại xã hội” mà còn tham gia
vào quá trình cải tạo xã hội. Nói như Thạch Lam, đó là “thứ khíi giới thanh cao và đắc lực mà
chúng ta có để tố cáo và thay đổi thế giới giả dối và tàn ác”. Văn học góp phần làm cho cuộc
sống con người tốt đẹp, trong sáng hơn. Vậy nếu nhà văn chỉ đơn thuần tái hiện
vẹn nguyên cuộc sống mà không gửi gắm một tư tưởng tiến bộ nào, liệu rằng văn học có thể
hoàn thành nhiệm vụ cao cả ấy không? Hơn ở đâu, nhà văn phải thể hiện, phải đặt ra và giải
quyết những vấn đề quan trọng về nhân sinh. Để mỗi người đọc, đến với tác phẩm, đều phải day
dứt, ám ảnh về điều đó, để rồi tự tìm ra được câu trả lời cho những vấn đề về con người. Tìm
hiểu sâu sắc về bản chất cuộc sống, về bản chất con người cho hay cũng là nhu cầu tiếp nhận
chính đáng của người đọc. Độc giả tìm đến tác phẩm văn chương đâu phải chỉ để hiểu biết về
hiện thực cuộc sống, mà còn muốn tìm hiểu ý nghĩa, giá trị, bản chất của cuộc sống, để tìm câu
trả lời cho những băn khoăn, trăn trở, nghĩ suy của bản thân mình. Bởi vậy, tác phẩm nghệ thuật
phải “đặt ra những câu hỏi” và có thể, còn cần phải “trả lời những câu hỏi đó”. Nam Cao, qua
số phận bi kịch của Chí Phèo đã cất lên câu hỏi: Làm thế nào cứu vớt những con người đang
đứng trên vực thẳm của sự tha hóa nhân tính và nhân hình? Làm thế nào để xã hội này không
còn những Chí Phèo? Câu hỏi ấy vang vọng, văng vẳng suốt thiên truyện, đau đáu mãi không
nguôi. Nó hiện hình trong lời kết án đau đớn tuyệt vọng của Chí Phèo trước khi tự kết liễu đời
mình: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này?”.
Nhà văn dẫu không trả lời trực tiếp, nhưng qua tác phẩm của mình, Nam Cao đã ngầm đưa ra
câu trả lời cho bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí. Phải tiêu diệt xã hội đại ác, vạn ác
này; phải tiêu diệt những con quỷ dữ Bá Kiến, Đội Tảo,… để cuộc đời này không còn những Chí
Phèo. Và quan trọng hơn, để cứu rỗi những linh hồn tội lỗi như Chí Phèo, cần có một “lòng tốt
bình thường”- tình người chân thành, mộc mạc như Thị Nở. Chỉ tình người mới cứu được tính
người. Ấy là thông điệp nhân sinh, là câu trả lời sâu sắc, đúng đắn của Nam Cao cho những vấn
đề bức xúc của xã hội. Cũng như thế, Thạch Lam, trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, không
dừng lại ở việc miêu tả cuộc sống tù túng, quẩn quanh, vô nghĩa, mòn mỏi đến tội nghiệp của
những người dân nơi phố huyện nghèo. Nhà văn còn đặt ra những câu hỏi, những thông điệp sâu
sắc: Hãy cứu lấy những đứa trẻ, hãy cứu lấy tương lai của phố huyện. Điều mà Thạch Lam trăn
trở không phải vấn đề cơm áo, sưu thuế, bất công xã hội mà còn là quyền sống có ý nghĩa của
con người. Xã hội Việt Nam trước Cách mạng như “ao đời phẳng lặng” nhấn chìm mọi sự sống,
lăm le muốn cướp đi ý nghĩa thực sự của cuộc sống đối với mỗi con người. Hai đứa trẻ - những
mầm xanh mới đâm chồi nảy lộc trên mảnh đất cạn khô nhựa sống của phố huyện liệu có trở
thành bà cụ Thi điên, liệu có là chị Tí hay bác phở Siêu, gia đình bác xẩm? Câu trả lời ấy,
Thạch Lam không nói nhưng rõ ràng, nhà văn đã hé mở cho người đọc điều đó. Tại sao chị em
Liên không nhập vào không khí tù đọng của phố huyện mà tối tối lại cố thức chờ đoàn tàu qua?
Có phải đoàn tàu đem đến cho Liên và An nhận thức ở đâu đó ngoài phố huyện còn có một miền
đời, một cuộc sống khác ý nghĩa hơn? Như thế, con người phải tự vượt lên để không bị hoàn
cảnh, để không bị cuộc sống vô nghĩa nhấn chìm. Đó chính là chiều sâu nhân đạo trong sáng tác
của Thạch Lam.
Ý kiến của Belinsky đã đặt ra yêu cầu hết sức đúng đắn, cần thiết, quan trọng với người cầm bút:
ấy là anh phải có cái tâm trước cuộc sống, con người. Đó cũng chính là bài học đối với những
nghệ sĩ. Muốn có được tác phẩm sống mãi với thời gian, anh phải sống sâu sắc với cuộc đời,
nói như giáo sư Đặng Thai Mai phải biết “sâu sắc cảm thấy mọi nỗi đau đớn con người trong
thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những lo âu, bực bội, tủi hổ và cả những ước
mong tha thiết nhất của loài người”. Để viết nên tác phẩm, nhà văn phải “tìm
tòi…, phải yêu rất nhiều và phải chịu nhiều đau khổ” (Gioócgio Xang). Và lịch sử văn học,
thực chất chính là lịch sử của những tư tưởng vĩ đại của người nghệ sĩ.
Tìm hiểu ý kiến của Belinsky, tôi càng thấm thía quy luật đào thải nghiệt ngã nhưng công
bằng của thời gian, của công chúng. Có những tác phẩm dù trung thành với nguyên tắc phản ánh
hiện thực, thậm chí hết sức hiện thực nhưng không thể hiện tư tưởng, tình cảm sâu sắc nào.
Những tác phẩm ấy chỉ là bức ảnh vô hồn, thậm chí rơi vào tự nhiên chủ nghĩa bởi tình cảm, tư
tưởng miệt thị con người, bi quan với cuộc đời. Lại có những tác phẩm chỉ đắm chìm trong cảm
xúc hay mê mải chạy theo những tư tưởng kì vĩ. Chỉ những tác phẩm nào có sự hòa quyện cao độ
giữa tư tưởng đúng đắn, sâu sắc với tình cảm chân thành, mãnh liệt của người cầm bút mới có
giá trị và sức sống bền lâu.
Thế nhưng, văn chương trước hết là văn chương, nghệ thuật trước hết là nghệ thuật. Nói đến
nghệ thuật là nói đến cái hay, cái đẹp của nghệ thuật. Tư tưởng, tình cảm sâu sắc, mãnh liệt đến
mấy mà không được chuyển tải qua hệ thống phương tiện nghệ thuật giàu giá trị thẩm mỹ thì
không thể thức tỉnh, lay động tâm hồn người đọc. Gogol đã rất khổ tâm khi “những tình cảm
thật quý có thể trở nên tầm thường khi diễn đạt ra thành lời”. Người nghệ sĩ vĩ đại không chỉ có
cái tâm mà còn phải có cái tài để cái tâm được tỏa sáng lung linh.
“Rồi nhân dân sẽ còn trìu mến tôi mãi mãi vì tôi đã dùng thơ đánh thức những tình cảm tốt
lành, vì trong thế kỉ tàn khốc của chúng ta, tôi ngợi ca tự do và lòng thương những kẻ khốn
cùng”. Bất cứ nghệ sĩ nào đã sống sâu sắc với cuộc đời, đã đau đớn, mừng vui với những vui
buồn, sướng khổ của loài người đều có quyền tự hào và tin tưởng như Puskin về sự tồn tại
vĩnh hằng của những tác phẩm nghệ thuật chân chính của mình.
Để hiểu hơn về cách viết phần lí luận trong bài nghị luận văn học, trước hết hãy đọc bài văn
dưới đây và thực hiện những yêu cầu sau:
Xác định vấn đề nghị luận trong đề bài: Đề bài yêu cầu bàn về những vấn đề nào?
Với mỗi vấn đề, người viết đã dùng những lí lẽ nào để làm sáng tỏ?
Xác định bố cục bài viết : Giải thích, Bàn luận, Chứng minh, Đánh giá, Liên hệ.

Có phải bởi những nhà văn, nhà thơ vĩ đại - những con người đã sống, đã sống hết mình và
yêu hết mình với cuộc đời, với con người bởi thấm thía sâu sắc rằng: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ
chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời
ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó

1. Giải thích ý kiến trên:


- Saltykov Shchedrin đã từng nói: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ
mình nó khổng thừa nhận cái chết”. Vậy điều gì đã khiến các tác phẩm nghệ thuật bất tử? Ở tài
năng hay ở tấm lòng của người cầm bút?

- Ý kiến của nhà phê bình Nga Belinsky trên đây đã khẳng định vai trò đă ̣c biêṭ quan trọng,
thâ ̣m chí, quyết định của tư tưởng, tình cảm, hay nói cách khác, cái tâm của người cầm bút
quyết định sức sống của mô ̣t tác phẩm nghệ thuật, ở đây được hiểu là tác phẩm văn học. Tác
phẩm văn học chỉ sống được trong những tư tưởng, tình cảm mãnh liệt của ngưòi cầm bút mà thôi.

2. Phân tích, chứng minh tính đúng đắn của câu nói:

- Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả:

+ Trước hết, qua nhận xét của mình, Belinsky muốn lên án thứ văn chương “miêu tả cuộc sống
chỉ để miêu tả”. Đúng là văn học nghệ thuật ra đời để miêu tả, phản ánh hiện thực cuộc sống con
người. Nhưng đó không phải là mục đích duy nhất của văn học.

+ Nếu văn học chỉ miêu tả cuộc sống đơn thuần không thôi thì đó đâu khác bức ảnh, bản photo
nguyên xi, máy móc, vô hồn về cuô ̣c sống. Và liệu rằng các tác phẩm ấy có thể cung cấp cho
người đọc nhiều hiểu biết chính xác, phong phú, khách quan hơn các công trình nghiên cứu
khoa học được chăng? Sao chép nguyên xi hiện thực, mô phỏng cuộc sống một cách vụng về,
văn học nghê ̣ thuâ ̣t sẽ không còn là văn học, sẽ “chết” như cách nói của Belinsky.

- Tác phẩm nghệ thuật phải là “tiếng kêu đau khổ”:

+ Vậy điều gì giúp cho các tác phẩm văn học, mặc dù vẫn miêu tả, thể hiện những khám phá về
cuộc sống lại không trở thành những bức ảnh vô hồn hay những bản thống kê chi tiết đến khô
cứng, lạnh lùng? Belinsky đã chỉ ra rằng, tác phẩm ấy phải là tiếng thét khổ đau hoă ̣c lời ca
tụng hân hoan, tức là phải in đâ ̣m bầu cảm xúc mãnh liêṭ của người nghệ sĩ.

+ Bởi lẽ văn học là làm theo quy luâ ̣t của tình cảm. Văn học là sự lên tiếng thôi thúc của
những trái tim. Nhà văn chỉ viết được khi “trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”. Nếu như các
ngành khoa học loại bỏ cái tôi trong nghiên cứu thì các ngành nghệ thuật, trong đó có văn học lại lấy
cái tôi làm điểm tựa cho sự sáng tạo. Viên Mai đã từng nói: “Làm người thì không nên có cái tôi
nhưng làm thơ không thể không có cái tôi”. Thơ nói riêng và văn học nói chung không thể thiếu
cái tôi - ở đây là dấu ấn tư tưởng tình cảm của người nghệ sĩ.

+ Làm sao nhà văn có thể viết khi đứng trước hiêṇ thực cuô ̣c sống, trái tim anh không hề rung
đô ̣ng, không hề xúc cảm? Hiện thực cuộc sống, dù phong phú, kì diệu đến mấy mà không được
thổi hồn bởi những tình cảm mãnh liệt của người cầm bút thì cũng chỉ là những
hình ảnh lay lắt, không có sức sống trong tác phẩm mà thôi. “Đừng cậy thời đại anh hùng nếu tâm
hồn anh cứ bé” - ấy là lời nhắn nhủ chân thành, lời khuyên răn chính mình của nhà thơ Chế Lan
Viên. Cho hay, đó cũng chính là điều sinh tử với những người cầm bút.

+ Tình cảm không chỉ là “khâu đầu tiên” mà còn là “khâu cuối cùng” trong quá trình hình thành
một tác phẩm văn học. Văn học chỉ sống được trong tấm lòng đồng cảm của người đọc. Vậy
làm sao tác phẩm nghệ thuật có thể lay động sâu xa tâm hồn người đọc, có thể khiến độc giả cùng
vui, buồn, xôn xao, giận hờn, đau khổ, căm phẫn... cùng nhân vật khi nhà văn không thực sự xúc
cảm, không viết nên từ “chiều sâu con tim”?

o “Thơ muốn làm cho người ta khóc, trước tiên mình phải khóc, muốn làm cho người ta cười,
trước hết mình phải cười”. Nhà văn phải đau cái đau của nhân vật, phải buồn cái buồn của
nhân vật, vui cái vui của cuộc sống, của con người, khi ấy tác phẩm của anh mới có sức “đồng
cảm mãnh liệt và quảng đại”.

o Cảm xúc trơ lì, sáo mòn; tình cảm nông cạn hời hợt, giả dối; tác phẩm chỉ là những con chữ vô
hổn, xác bướm ép khô không gây xúc động nơi người đọc.

o Chỉ những gì xuất phát từ trái tim mới đi đến những trái tím. Với ý nghĩa ấy, tác phẩm văn học
đã bắc nhịp cầu linh diệu nối liền trái tim nghệ sĩ với tâm hồn độc giả, để trong đời này có nhiều
yêu thương, sẻ chia hơn.

* Chứng minh bằng tác phẩm văn học cụ thể:

+ Nhà văn Nga Gercen đã từng cho rằng: “Nhà văn là một nỗi đau khổ”. Khổ đau trong cuô ̣c đời,
các nhà văn đã thấu hiểu sâu sắc “mọi nỗi đau đớn của con người thời đại, đã rung động tận
đáy tâm hồn với những lo âu, bực bội, tủi hổ,... của loài người” (Đặng Thai Mai). Nguyễn Du đã
viết Truyện Kiều bởi “nỗi đau đớn lòng” trước những điều Người đã “trông thấy”, đã từng trải
qua trong cuộc đời.
o Truyện Kiều là tiếng kêu đứt ruột về những kiếp sống bị đoạ đày. Ai biết trong mười lăm
năm lưu lạc của mình, Thuý Kiều đã từng bao lần rơi lệ, đã từng bao lần bị đánh đập, hành hạ? Và
ai biết được, người nghệ sĩ có trái tim nhân đạo vĩ đại – Nguyễn Du đã bao lần nhỏ lê ̣ trước
“số phận một con người” bất hạnh, đau đớn ê chề. “Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”.
Nỗi đau ấy đã một lần thôi thúc Người viết nên hai câu thơ, mà hôm nay và mai sau hãy còn
vang vọng:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng cũng là lời chung. (Truyện

Kiều)

o Không cầu kì, hoa mĩ, đó là những lời huyết lệ, những lời tâm can của chính Nguyễn Du.
Những câu thơ như thế, có gì hay, có gì mà hấp dẫn muôn triệu trái tim, muôn triệu tâm hồn?
Phải chăng bởi đó là tiếng thét khổ đau, bởi đó là sự trào dâng mãnh liệt của cảm xúc, của tình
yêu thương con người.

o Mượn cốt truyện của người xưa nhưng Nguyễn Du không sao chép nguyên xi. Người đã
thổi hồn cho những con chữ, những hình tượng sống dâ ̣y và sống mãi trong tâm hồn, trong
những sướng khổ, buồn vui của biết bao thế hệ con người Việt Nam hôm nay và mai sau.

+ Khác với Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương cũng viết về người phụ nữ, nhưng với tâm trạng của
người trong cuô ̣c, hay đúng hơn, viết bằng sự trải nghiêm
̣ của chính bản thân mình.

o Những vần thơ của Xuân Hương là sự lên tiếng của một thân phận. Bất hạnh trong cuộc đời
riêng, Xuân Hương tìm đến thơ như người bạn tâm tình - nơi gửi gắm, kí thác những nỗi niềm suy
tư. Đọc thơ Xuân Hương, người đọc có thể bị cuốn đi bởi những câu thơ mỉa mai sát sàn sạt,
những lời mắng chửi té tát, không thương tiếc với bọn “hiền nhân quân tử”, những vua
chúa, sư sãi giả dối, hợm hĩnh, vô luân,...

o Nhưng đằng sau những nụ cười “rất mạnh, rất sâu” ấy là những giọt nước mắt, những
tiếng thét khổ đau cho thân phâ ̣n người phụ nữ. Để rồi đọc thơ bà, ta thấy “cần phải khóc”
trước những cảnh “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”, trước cảnh ngộ “Trơ cái hồng nhan với
nước non”. Khao khát mãnh liệt về hạnh phúc, nhưng cuối cùng, nữ sĩ được gì ngoài “kiếp lấy
chồng chung”, ngoài thứ tình cảm chia năm sẻ bảy “Mảnh tình san sẻ tí con con”.

o Hồ Xuân Hương muốn vượt thoát tất cả, muốn “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”, không
còn những cảnh “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”. Nhưng cái xã hội phong kiến bất công phi
nhân tính ấy đâu có để nữ sĩ sống hạnh phúc, bình yên như mong muốn. Cho nên tiếng thơ Hồ
Xuân Hương đọng lại mô ̣t niềm đau, không thể lãng quên, không thể nguôi ngoai.
+ Trong truyện ngắn nổi tiếng Chí Phèo, Nam Cao lại quay tấm gương cuộc đời anh Chí để ta thấy
một kiếp sống tủi nhục trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng.

o Chí Phèo, một nạn nhận đau khổ của một xã hội cạn khô tình người với “con quỷ mang bộ mặt
người”. Sinh ra không tình yêu thương của mẹ cha, Chí lớn lên trong sự đùm bọc của những
người như anh thả ống lươn, bà cụ mù phó cối dù nghèo nhưng tốt bụng. Nhưng những năm tháng
ấy, như chính những thước phim để nhà văn tái hiện rất ngắn gọn của Nam Cao, lướt qua cuộc
đời Chí như cơn lốc cuốn qua.

o Cái còn lại của cuộc đời, Chí đâu có gì ngoài những năm tháng tù tội, những lần rạch mặt ăn vạ,
những khinh bỉ, miệt thị của người đời. Gặp thị Nở, cứ tưởng Chí sẽ bừng sáng, sẽ ngời lên hồi
chuông an lành nhưng hạnh phúc, tình người lại thoảng qua như hơi cháo hành, như ảo ảnh
về nguồn nước giữa sa mạc cạn khô. Người nhen lên ngọn lửa của lương tri, tình người cũng chính
là người dập tắt hi vọng trở về với cuộc đời của Chí.

o Và khi “mất thiên thần, người đã chết” . Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở vẻ với cuộc đời.
Chí đã chết khi miệng “ngáp ngáp” như muốn thanh minh, muốn bày tỏ với cuộc đời, với con
người. Có đau đớn nào đau đớn hơn thân phận của con người ấy?

o Viết về những số phận bất hạnh, ngòi bút của Nam Cao đâu chỉ nhằm phản ánh chân xác
thực trạng con người xã trong xã hội cũ. Đằng sau câu chữ, cách xưng hô có vẻ lạnh lùng,
dửng dưng miệt thị ấy là mô ̣t trái tim ấm nóng tình yêu thương con người. Nam Cao đã có
lí tưởng muốn viết lên những tác phẩm làm cho “người gần người hơn” thì với Chí Phèo, ông đã
làm được điều đó. Bởi lẽ nhà văn đã “đứng trong lao khổ mở hồn ra để đón lấy những vang động
của đời” cho nên tác phẩm của ông, những “tiếng đau loát ra từ những kiếp lầm than” sẽ còn
sống mãi.

- Tác phẩm còn là “lời ca tụng hân hoan”:

+ Bầu trời không chỉ có mây đen mà còn có những tia nắng vàng, cuộc sống không chỉ có
những nỗi khổ đau mà còn có những niềm vui sướng. Văn học phản ánh chân thực, không chỉ là
phản ánh những đau khổ mà còn ngợi ca những vẻ đẹp và niềm vui của cuô ̣c sống, của con
người.

+ Thơ Xuân Diệu là “bầu xuân”, là “bình chứa muôn hương” của tuổi trẻ, sức sống và tình yêu:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật; Này

đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của

yến anh này đây khúc tình si;


Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,

Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gỗ cửa; Tháng

giêng ngon như một cặp môi gần; (Vội vàng)

o Người ta gọi thơ Xuân Diệu là “nguồn sống dào dạt chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ
này” phải chăng bởi nhà thơ đã đốt cháy xúc cảm say mê mãnh liêṭ với cuô ̣c đời.
o Cuộc sống muôn đời vẫn là vậy. Thế nhưng những cảnh sắc của cuộc sống đi qua tâm hồn
nồng nàn tình yêu cuộc đời của Xuân Diệu lại ánh lên những màu sắc diệu kì, lại ngân lên
những thanh âm du dương. Thế giới, qua căp mắt “xanh non biếc rờn” của thi sĩ họ Ngô là khu
vườn tình ái, nơi ong bướm đang trong “tuần trăng mật”, nơi chim muông ca lên “khúc tình si”,
nơi tạo hoá đắm chìm trong “cặp môi gần” của tháng giêng. Đó còn là bữa tiệc thịnh soạn, phong
phú của cuộc sống “nở hoa dâng tặng người muốn hái”. Đẹp làm sao!

o Làm sao Xuân Diêụ có những cảm nhâ ̣n tinh tế, diêụ kì ấy nếu nhà thơ dửng dưng, vô
cảm với cuộc đời. Chính niềm khát khao giao cảm với cuô ̣c đời, chính niềm yêu sống đến
cuồng si, mãnh liêṭ đã giúp thi sĩ phát hiện ra vẻ đẹp của cuộc sống. Những vần thơ như
“lòng” Xuân Diệu mở ra, như tay Xuân Diệu muốn chìa ra mời mọc, gợi mời con người. Sao có
thể không nhớ, không yêu những vần thơ say đắm, thiết tha đến dường vậy! Thơ Xuân Diệu,
tự bản thân nó không phải sự mô phỏng cuộc sống. Đó là lời tụng ca hân hoan, đắm đuối vẻ đẹp
đích thực của cuộc sống.

+ Cũng như Xuân Diệu, Chế Lan Viên đã cất lên tiếng hát ngợi ca vẻ đẹp giá trị của cuô ̣c sống
trong những năm đất nước đô ̣c lâ ̣p, tiến lên xây dựng cuô ̣c sống mới, chế độ mới.

Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả Dù mai

sau đời muôn vạn lần hơn!

Trái cây rơi vào áo người ngắm quả, Đường

nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn, Mặt trời đến

mỗi ngày như khách lạ,

Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn..

(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?)

o Bước ra từ những tháp Chàm đổ nát để hoà nhập với cuộc đời, Chế Lan Viên như thoát khỏi
“thung lũng đau thương” để tìm đến “cánh đồng vui”. Đấy là cuộc sống mới của những con
người mới. Nhà thơ thấy cuộc đời tươi đẹp, phong phú, mến yêu biết bao nhiêu.
o Lần đầu tiên trong cuộc đời, nhà thơ cảm nhận được vẻ đẹp đích thực của cuộc sống. Sung
sướng lắm! Tự hào lắm! Bởi được sống, được cống hiến, và thấy đời mình có ý nghĩa. Những lời
thơ ấy đã ngân vang điệu nhạc rạo rực, say mê, hân hoan của hồn người. Âm hưởng của khúc
nhạc thần kì ấy sẽ mãi còn vang vọng và dư ba.

- Tác phẩm nghệ thuật sẽ sống khi nó “đặt ra những câu hỏi” và “trả lời những câu hỏi
đó”:
+ Như vậy, có thể thấy tình cảm là điều kiện không thể thiếu để có tác phẩm nghệ thuật đích thực.
Cảm xúc chân thành mãnh liệt, tự nó đã là giá trị của tác phẩm văn học. Nó cũng chính là “cái hơi
thở, cái sức sống của những tác phẩm vĩ đại”.

+ Nhưng nếu chỉ có tình cảm không thôi, văn học liệu có được sức sống, sức hấp dẫn kì diệu đến
như vậy hay không? Belinsky thêm một lần nữa nhấn mạnh vào vai trò đă ̣c biêṭ quan trọng của
tư tưởng đúng đắn, sâu sắc ở người viết. Tác phẩm nghệ thuật sẽ sống khi nó đặt ra những câu
hỏi và trả lời những câu hỏi đó.

+ Theo tôi hiểu, những “câu hỏi” ở đây là những vấn đề nhà văn trăn trở, nghĩ suy về cuộc sống,
về con người. Ấy là những “câu hỏi của cuộc sống” (Tố Hữu). Những câu hỏi ấy thể hiện cách
nhìn, nhận thức, quan niệm nghệ thuật về con người, về xã hội của nhà văn. Nói cách khác, đó là
sự hiện hình của tư tưởng nhà văn được biểu hiện trong tác phẩm.

+ Tư tưởng nghê ̣ thuâ ̣t là mô ̣t trong những yếu tố quyết định tầm vóc của nhà văn và gỉá trị
của tác phẩm. Nguyễn Khải đã từng nói: “Giá trị của một tác phẩm trước hết là ở giá trị tư tưởng
của nó”. Còn Korolenco thì nhấn mạnh: “Tư tưởng là linh hồn của tác phẩm văn học” . Tư
tưởng sai lầm, lêch
̣ lạc, văn học sẽ trở thành công cụ gây tô ̣i ác. Lỗ Tấn đã từng nói: “Làm một
thầy thuốc kê đơn bốc thuốc bậy chỉ giết chết có một người, làm một viên võ tướng điều bình
khiển tướng bậy chĩ nướng hết một đạo quân còn làm một nhà văn viết bậy có thể gây tác hại đến
hai ba thế hệ”.

+ Có được ảnh hưởng hết sức quan trọng như vâ ̣y bởi nhiêm ̣ vụ cao cả, thiêng liêng của văn
học. Văn học không chỉ là “công cụ khám phá, hiểu biết và sáng tạo thực tại xã hội” mà còn tham
gia vào quá trình cải tạo xã hội. Nói như Thạch Lam, đó là “thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà
chúng tạ có “để” tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác”. Văn học góp phần làm
cho cuô ̣c sống con người tốt đẹp, trong sáng hơn.

+ Vậy nếu nhà văn chỉ đơn thuần tái hiện vẹn nguyên cuộc sống mà không gửi gắm một tư tưởng
tiến bộ nào, liệu rằng văn học có thể hoàn thành nhiệm vụ cao cả ấy không?

o Hơn ở đâu, nhà văn phải thể hiên,̣ phải đă ̣t ra và giải quyết những vấn đề quan trọng về
nhân sinh. Để mỗi người đọc, đến với tác phẩm, đều phải day dứt, ám ảnh về điều đó, để rồi tự
tìm ra được câu trả lời cho những vấn đề về con người.
o Tìm hiểu sâu sắc về bản chất cuộc sống, và bản chất con người cho hay cũng là nhu cầu tiếp
nhận chính đáng của người đọc. Đô ̣c giả tìm đến với tác phẩm văn chương đâu phải chỉ để
hiểu biết về hiện thực cuộc sống, mà còn muốn tìm hiểu ý nghĩa, giá trị, bản chất của cuô ̣c
sống, để tìm câu trả lời cho những băn khoăn, trăn trở, nghĩ suy của bản thân mình. Bởi
vậy, tác phẩm nghệ thuật phải đặt ra những câu hỏi, và có thể, còn cần phải trả lời những câu hỏi
đó.
+ Nam Cao, qua số phận bi kịch của Chí Phèo, đã cất lên câu hỏi: Làm thế nào để cứu vớt
những con người đang đứng trên vực thẳm của sự tha hoá nhân tính và nhân hình? Làm thế nào
để xã hội này không còn những Chí Phèo? Câu hỏi ấy vang vọng, văng vẳng suốt thiên truyện,
đau đáu mãi không nguôi. Nó hiện hình trong lời kết án đau đớn tuyệt vọng của Chí Phèo trước
khi tự kết liễu đời mình: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh
chai trên mặt này?”. Nhà văn dẫu không trả lời trực tiếp, nhưng qua tác phẩm của mình, Nam Cao
đã ngầm đưa ra câu trả lời cho bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí. Phải tiêu diệt xã hội
đại ác, vạn ác này; phải tiêu diệt những con quỷ dữ bá Kiến, Đội Tảo,... để cuộc đời này không
còn những Chí Phèo. Và quan trọng hơn, để cứu rỗi những linh hổn tội lỗi như Chí Phèo, chỉ cần
có một lòng tốt bình thường - tình người chân thành, mộc mạc như thị Nở. Chỉ tình người mới cứu
được tình người. Ấy là thông điệp nhân sinh, là câu trả lời sâu sắc, đúng đắn của Nam Cao cho
những vấn đề bức xúc của xã hội.

+ Cũng như thế, Thạch Lam, trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, không dừng lại ở việc miêu tả cuộc
sống tù túng, quẩn quanh, vô nghĩa, mòn mỏi đến tội nghiệp của những người dân nơi phố huyện
nghèo. Nhà văn còn đạt ra những câu hỏi, những thông điệp sâu sắc: Hãy cứu lấy những đứa trẻ,
hãy cứu lấy tương lai của phố huyện. Điều Thạch Lam trăn trở không phải vấn đề cơm áo, sưu thuế,
bất công xã hội mà là quyền sống có ý nghĩa của con người. Xã hội Việt Nam trước Cách mạng như
“ao đời phẳng lặng” nhấn chìm mọi sự sống, lăm le muốn cướp đi ý nghĩa thực sự của cuộc sống
đối với con người. Hai đứa trẻ - những mầm xanh mới đâm chồi nảy lộc trên mảnh đất cạn khô
nhựa sống của phố huyện liệu có trở thành bà cụ Thi điên, liệu có là chị Tí hay bác phở Siêu, gia
đình bác xẩm? Câu trả lời ấy, Thạch Lam không nói nhưng rõ ràng, nhà văn đã hé mở cho người
đọc điều đó. Tại sao chị em Liên không nhập vào không khí tù đọng của phố huyện mà tối tối lại cố
thức để chờ đoàn tàu qua? Có phải đoàn tàu đem đến cho Liên và An nhận thức ở đâu đó ngoài phố
huyện còn có một miền đời, một cuộc sống khác ý nghĩa hơn? Như thế, con người phải tự vượt lên
để không bị hoàn cảnh, để không bị cuộc sống vô nghĩa nhấn chìm. Đó chính là chiều sâu tư tưởng
nhân đạo trong sáng tác của Thạch Lam.

+ Khác với Nam Cao, Thạch Lam,... các nhà văn, nhà thơ cách mạng trước và sau đó nhờ sự soi
sáng của lí tưởng Đảng, nhờ giác ngộ cách mạng đã giải quyết những câu hỏi về con người,
cuô ̣c đời trực tiếp hơn.

o Tố Hữu qua bài thơ Tiếng hát sông Hương đã chỉ ra tương lai tươi sáng cho những kiếp
người tủi nhục ê chề như cô gái trên sông. Cũng thương yêu những con người đau khổ, ở đây là
người kĩ nữ như các nhà thơ lãng mạn trước đó, nhưng nhờ nhận thức khách quan, biện chứng
về quy luật cuộc đời, nhờ nhân sinh quan cách mạng khoẻ khoắn, Tố Hữu đã tìm ra cho những
người bất hạnh con đường đi đích thực.
o Còn Tô Hoài, qua Vợ chồng A Phủ đã chỉ rõ con đường cần phải đi để những số phận trâu
ngựa, những kiếp nô ỉệ tự giải thoát ấy là tìrri đến với cách mạng. “Hạnh phúc là đấu tranh”. Đó
là ý nghĩa tích cực của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ gieo vào Ịòng người đọc.

+ Nhưng cũng cần thấy rằng, không nhất thiết nhà văn phải trả lời câu hỏi. Nhà văn có thể chỉ là
bác sĩ gọi ra bệnh của bệnh nhân. Điều mà nhân loại thiếu là những người biết đặt ra câu hỏi. Tìm
được câu hỏi, tôi tin chắc rằng tự người đọc sẽ tìm được câu trả lời. Có phải vì vậy mà Shekhov
chủ trương “nói thật, nói thẳng với mọi người”. “Hãy nhìn lại mình, hãy xem chúng ta đang
sống tồi sống tẻ như thế nào” và chỉ cần có vậy bởi ông tin chắc rằng “khi đã thấu hiểu thế nào họ
cũng phải tạo cho mình một cuộc sống khác tốt hơn”.

3. Đánh giá, bàn luâ ̣n mở rô ̣ng – bổ sung:

- Ý kiến của Belinsky đã đặt ra yêu cầu hết sức đúng đắn, cần thiết, quan trọng với người cầm bút:
ấy là anh phải có cái tâm trước cuộc sống, con người.

- Đó cũng chính là bài học đối với những nghệ sĩ. Muốn có được tác phẩm sống mãi với thời
gian, anh phải sống sâu sắc với cuộc đời, nói như giáo sư Đặng Thai Mai phải biết “sâu sắc
cảm thấy mọi nỗi đau đớn của con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với
những lo âu, bực bội, tủi hổ và cả những ước mong tha thiết nhất của loài người”.

4. Liên hê ̣ - bài học sáng tác và tiếp nhâ ̣n:

Để viết nên tác phẩm, nhà văn phải “tìm tòi..., phải yêu rất nhiều và phải chịu nhiều đau khổ”
(Gioocgiơ Xang). Và lịch sử văn học, thực chất chính là lịch sử của những tư tưởng vĩ đại của
người nghệ sĩ.

- Tìm hiểu ý kiến của Belinsky, tôi càng thấm thía quy luật đào thải nghiệt ngã nhưng công
bằng của thời gian, của công chúng.

+ Có những tác phẩm dù trung thành với nguyên tắc phản ánh hiện thực, thậm chí hết sức hiện thực
nhưng không thể hiện tư tưởng, tình cảm mãnh liệt, sâu sắc nào. Những tác phẩm ấy chỉ là bức ảnh
vô hồn, thậm chí rơi vào tự nhiên chủ nghĩa bởi tình cảm, tư tưởng miệt thị con người, bi quan
với cuộc đời.

+ Lại có những tác phẩm chỉ đắm chìm trong cảm xúc hay mê mải chạy theo những tư tưởng kì vĩ.

+ Chỉ những tác phẩm nào có sự quyện hoà cao độ giữa tư tưởng đúng đắn, sâu sắc với tình cảm
chân thành, mãnh liệt của người cầm bút mới có được giá trị và sức sống bền lâu.

- Thế nhưng, văn chương trước hết vẫn là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật.
+ Nói đến nghệ thuật là nói đến cái hay, cái đẹp của những hình thức nghệ thuật. Tư tưởng, tình
cảm có sâu sắc, mãnh liệt đến mấy mà không được chuyển tải qua hệ thống phương tiện nghệ thuật
giàu giá trị thẩm mĩ thì khồng thể thức tỉnh, lay động tâm hồn người đọc.

I. Kết bài:

1. Khẳng định lại vấn đề:

Gogol đã rất khổ tâm khi “những tình cấm rất quý có thể trở nên tầm thường khi diễn đạt ra
thành lời”. Người nghệ sĩ vĩ đại không chỉ có cái tâm mà còn phải có cái tài để cái tâm được
toả sáng lung linh.

2. Liên hê ̣ mở rô ̣ng:

“Rồi nhân dân sẽ còn trìu mến tôi mãi mãi vì tôi đã dùng thơ đánh thức những tình cảm tốt lành,
vì trong thế kỉ tàn khốc của chúng ta, tôi ngợi ca tự do và lòng thương những kẻ khốn cùng”. Bất
cứ nghệ sĩ nào đã sống sâu sắc với cuộc đời, đã đau đớn, mừng vui với những vui buồn, sướng khổ
của loài người đều có quyền tự hào và tin tưởng như Puskin về sự tồn tại vĩnh hằng của những
tác phẩm nghệ thuật chân chính của mình.

Đề bài:
Nhà nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai có viết:
“Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại ấy lại là cuộc sống,
trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã biết đời sống xã hội của thời đại, đã sâu sắc cảm
thấy mọi nỗi đau đớn của con người trong thời đại, đã rung động tận tâm hồn với những nỗi lo âu,
bực bội, tủi hổ, cái sức sống của những tác phẩm vĩ đại”
(Quá trình bồi dưỡng nghề viết văn của tôi, in trong “Công việc viết văn”, Trường viết văn
Nguyễn Du, xuất bản 1995, trang 81).
Bình luận ý kiến trên.
(Đề thi chọn học sinh giỏi Văn lớp 12 PTTH năm học 1988 – 1989)
Đoạn văn dài trong đề làm ta bối rối và không thể xác định vấn đề nghị luận. Hãy bình tĩnh. Bất
kì đoạn văn nào cũng chỉ có mô ̣t ý chính, và các ý phụ khác bổ sung ý chính đó. Ý chính
chính là vấn đề nghị luâ ̣n bạn cần xác định và khái quát lên được. Vậy thì trong đoạn trên,
vấn đề nghị luận là gì? Hãy suy nghĩ khoảng 5 phút.
Chắc bạn đã nhận ra, đoạn văn trong đề được cấu tạo theo kiểu Tổng – phân – hợp, cho nên vấn
đề nghị luận sẽ là câu đầu tiên, và các câu khác là những biểu hiện cụ thể cho vấn đề đó.
Như vậy, chính đề bài đã cho ta sẵn hướng triển khai bài viết. Dựa vào sơ đồ trên, có thể viết
bài được rồi chứ?
Sau đây là phần giải thích rất hiệu quả cho đề bài trên:

“Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại ấy lại là cuộc sống” – một
nhận xét mang tính lí luận về sự liên hệ giữa văn học và cuộc sống; nhưng ngòi bút của Đặng
Thai Mai vẫn sắc sảo trong việc lí giải theo nguyên tắc diễn dịch: “họ đã biết đời sống xã hội của
thời đại” là cái nền, là cơ sở vững chắc để nhà văn “sâu sắc cảm thấy mọi nỗi đau đớn của con
người trong thời đại”, và trên cơ của những rung động phong phú về đời sống tâm hồn của “con
người” thời đại ấy mà vươn tới tầm cao của những giá trị tâm hồn “loài người”. (Trần Văn
Toàn, bài giải Nhất)
Bây giờ, hãy thử xác định vấn đề nghị luâ ̣n của đề sau:
Đề bài:
“Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của
nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo. Không nên ăn bám vào người khác.
Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay… Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy, nhưng sử dụng có sáng tạo thì
văn sẽ bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng thì chỉ như nhà giàu giữ của. Dùng
chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không
linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp.”
Bình luận ý kiến trên đây của nhà văn Nguyễn Tuân và bằng thực tế cảm nhận văn học của mình
làm rõ những vấn đề mà nhà văn đặt ra.
(Đề thi chọn học sinh giỏi Văn lớp 12 toàn quốc năm học 1994 – 1995)

Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ.

Nhà văn không chỉ học tập mà còn là người phát triển ra
ngôn ngữ của nhân dân ngôn ngữ sáng tạo

Cũng cùng một vốn ngôn Dùng chữ như đánh cờ


ngữ ấy, nhưng sử dụng có tướng, chữ nào để chỗ nào
sáng tạo thì văn sẽ bề thế và phải đúng vị trí của nó.
kích thước.

Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp.

Ý kiến của nhà văn Nguyễn Tuân đã khẳng định vai trò quan trọng của ngôn ngữ trong tác phẩm văn
học. Nó làm nên sức hấp dẫn và khẳng định tài năng sáng tạo của nhà văn

Bạn đã tự tin vào lựa chọn của mình chưa? Nếu chưa thì tham khảo dàn ý sau để có câu trả
lời cuối cùng nhé !

I. Mở bài:

- Ngôn ngữ là đặc trưng, là chất liệu cơ bản, là phương tiện biểu đạt của văn chương. Xét ngôn
ngữ của một tác phẩm có thể thấy được tài năng của nhà văn .

- Các nhà văn có tài thường có ý thức khi sử dụng ngôn ngữ. Nguyễn Tuân là một người như thế
. Bởi thế, khi nói chuyện với các nhà văn trẻ , Nguyễn Tuân đã khẳng định : “Ở đâu có lao động
…cứng đơ, thấp khớp”.

II. Thân bài:

1. “Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ . Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ
của nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo. Không nên ăn bám vào ngôn
ngữ của người khác.”
- Mỗi dân tộc có một ngôn ngữ riêng . Nhưng không phải con người vừa sinh ra đã có tất cả mà
phải trải qua hàng nghìn, hàng triệu năm vốn ngôn ngữ của con người mới được như ngày nay .

- Làm cho ngôn ngữ của dân tộc đó trở nên trong sáng, phong phú hơn còn tuỳ thuộc vào các nhà
văn, nhà thơ. Họ như những con ong cần mẫn hút mật cho đời. Một nhà thơ nước ngoài đã từng
thấm thía giá trị cao quý của lao động trong thi ca :

Phải phí tổn ngàn cân quặng chữ Để

thu về một chữ mà thôi

Những chữ ấy làm cho rung động

Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài .

- Các nhà văn không phải ngẫu nhiên có vốn ngôn ngữ như họ đã có, mà họ phải lăn trải vào
đời, phải lao đô ̣ng, phải học tâ ̣p, tích luỹ từ ngôn ngữ nhân dân. Ngôn ngữ văn học tuy so với
ngôn ngữ nhân dân không phong phú bằng nhưng xét về mặt biểu cảm hay để thể hiện một điều gì
đó thì nó lại đạt mức độ tinh tế và sắc nét hơn .Tuy nhiên, ngôn ngữ văn học phải dựa vào ngôn ngữ
nhân dân thì mới có sức sống. Chẳng thế mà Nguyễn Thi để cho chị Út Tịch nói : “Còn cái lai
quần cũng đánh” nghe dân dã làm sao ! Hay trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân, ngôn ngữ
của nhân vật Tràng và thị là ngôn ngữ rất quen thuộc trong nhân dân nhưng rất giàu tính biểu cảm
(đoạn gặp gỡ giữa Tràng và thị).
- Học tập ngôn ngữ nhân dân nhưng “ Nghệ thuật không phải là sự sao chép tự nhiên”, tất
nhiên là về mọi mặt , kể cả ngôn ngữ . Mỗi nhà văn phải có mô ̣t phong cách, có mô ̣t giọng văn
riêng . Cũng như nhà văn Liên Xô Tuốc-ghê-nhép nói : “Cái quan trọng trong tài năng văn học
là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của
bất kì một người nào khác”.

- Chứng minh bằng lao động nghệ thuật và tài năng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân, Nguyễn Du ,
Xuân Diệu , Tố Hữu…

2. “Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay (…) . Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy, nhưng sử dụng nó
sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước . Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào
phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt là văn cứng đơ, thấp khớp.”

-Nhà văn tài năng phải có vốn ngôn ngữ phong phú của chính tâm hồn mình. Ngôn ngữ nhà văn
phong phú sẽ làm cho văn giàu hình tượng , giàu nhạc tính . Nhưng điều quan trọng hơn cả là
phải biết lựa chọn , sử dụng ngôn ngữ thích hợp vì như Nguyễn Tuân đã khẳng định : “Cũng
cùng một vốn ngôn ngữ ấy , nhưng sử dụng nó sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước . Dùng
chữ như đánh cờ tướng , chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó . Văn phải linh hoạt . Văn
không linh hoạt là văn cứng đơ, thấp khớp”

– Bởi vì ngôn ngữ văn học trước hết phải chính xác . Tuy nhiên, ngôn ngữ văn học chính xác
nhưng không cứng nhắc mà uyển chuyển , mềm mại . Bởi vì thơ văn sinh trưởng từ tâm hồn
con người nên sự chính xác của ngôn ngữ văn học có sự khác biệt với sự chính xác của khoa học .
Chính vì thế mà Nguyễn Du viết :

Cỏ non xanh dợn chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Có bản chép :

Cỏ non xanh rợn chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Hoặc :

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa


Nếu dùng chữ tận thì trước mắt ta chỉ là thảm cỏ xanh mênh mông , còn dùng chữ rợn thì đã có sự
sống bên trong của thảm cỏ xanh ấy. Nhưng chữ dợn chính xác hơn cả vì thảm cỏ không chỉ có
sức sống mà dường như sức sống ấy đang sôi động , nhảy múa trước mắt ta .

– Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ có khả năng diễn đạt tinh tế, biểu cảm và giàu hình ảnh (dẫn chứng
đoạn văn mở đầu Hai đứa trẻ của Thạch Lam và đoạn văn tả cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù
của Nguyễn Tuân – phân tích khả năng miêu tả tinh tế, biểu cảm , giàu hình ảnh) . Hay người Việt
Nam yêu Truyện Kiều không thể quên được những câu thơ tả cảnh mùa thu của Nguyễn Du với
âm hưởng ca dao dịu dàng , man mác :

“Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng”

Đó là một cảnh thu long lanh mĩ lệ đầy chất thơ mà mãi đến những thế kỉ sau người dân Việt Nam
cũng không thể nào quên .

- Để có được vốn ngôn ngữ phong phú nhà văn phải lấy vốn từ cuộc sống , từ nhân dân, phải bám
rễ sâu vào đời để tích luỹ, học tập . Nhưng khi sử dụng ngôn ngữ phải biết sáng tạo vì “Dùng
chữ như như đánh cờ tướng , chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó . Văn phải linh hoạt .
Văn không linh hoạt là văn cứng đơ, thấp khớp” . Những con chữ nếu không được đạt đúng chỗ thì
nó sẽ trở nên “cứng đơ, thấp khớp” không linh hoạt .

3. Ý kiến của Nguyễn Tuân cho thấy ông rất quan tâm đến vấn đề ngôn ngữ văn học nói
chung và ngôn ngữ văn xuôi nói riêng . Tuy ngôn ngữ không phải là yếu tố duy nhất làm nên tác
phẩm văn học có giá trị nhưng nó yếu tố góp phần tạo nên giá trị của tác phẩm . Nguyễn Tuân
cũng được xem là “nhà luyện đan ngôn từ”

=> Khâu đầu tiên trong bài NLVH có vận dụng kiến thức LLVH: Hãy luôn nhớ thao tác cụ thể
hóa và khái quát hóa.

2. Kiến thức lí luâ ̣n văn học phải liên kết với vấn đề nghị luâ ̣n:
Các giáo trình, tài liệu lí luận văn học cung cấp cho ta các kiến thức nền tảng, các thuật ngữ và các
luận điểm lí luận văn học cơ bản. Nhiệm vụ của chúng ta là phải vận dụng các kiến thức ấy để làm
rõ một vấn đề nghị luận cụ thể trong bài. Ta sẽ làm điều đó như thế nào?
Trước hết, hãy xem lại một phần đưa lí lẽ trong bài viết đầu bài.

Vậy điều gì giúp cho các tác phẩm văn học, mặc dù vẫn miêu tả, thể hiện những khám phá về cuộc
sống lại không trở thành những bức ảnh vô hồn hay những bản thống kê chi tiết đến khô cứng, lạnh
lùng? Belinsky đã chỉ ra rằng, tác phẩm ấy phải là “tiếng thét khổ đau” hoặc là “lời ca tụng hân
hoan”, tức là phải in đậm bầu cảm xúc mãnh liệt của người nghệ sĩ. Bởi lẽ
văn học là làm theo quy luật của tình cảm. Văn học là sự lên tiếng thôi thúc của trái tim. Nhà văn
chỉ viết được khi “trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”. Nếu như các ngành khoa học loại bỏ cái tôi
trong nghiên cứu thì các ngành nghệ thuật, trong đó có văn học lại lấy cái tôi làm điểm tựa cho sự
sáng tạo. Viên Mai đã từng nói: “Làm người thì không nên có cái tôi nhưng làm thơ không thể
không có cái tôi”. Thơ nói riêng và văn học nói chung không thể thiếu cái tôi - ở đây là dấu ấn tư
tưởng tình cảm của người nghệ sĩ. Làm sao nhà văn có thể viết khi đứng trước hiện thực cuộc
sống, trái tim anh không hề rung động, không hề xúc cảm? Hiện thực cuộc sống, dù phong phú,
kì diệu đến mấy mà không được thổi hồn bởi tình cảm mãnh liệt của người cầm bút thì cũng chỉ
là những hình ảnh lay lắt, không có sức sống trong tác phẩm mà thôi. “Đừng cậy thời đại anh
hùng nếu tâm hồn anh cứ bé” - ấy là lời nhắn nhủ chân thành, lời khuyên răn chính mình của
nhà thơ Chế Lan Viên. Cho hay, đó cũng chính là điều sinh tử với người cầm bút.
Tình cảm không chỉ là “khâu đầu tiên” mà còn là “khâu cuối cùng” trong quá trình hình thành
một tác phẩm văn học. Văn học chỉ sống được trong tấm lòng đồng cảm của người học. Vậy làm
sao tác phẩm nghệ thuật có thể lay động sâu xa tâm hồn người đọc, có thể khiến độc giả cùng vui,
buồn, xôn xao, giận hờn, đau khổ, căm phẫn… cùng nhân vật khi mà nhà văn không thực sự xúc
cảm, không viết từ chiều sâu con tim? “Thơ muốn làm cho người ta khóc, trước tiên mình cũng
phải khóc, muốn làm cho người ta cười, trước hết mình phải cười”. Nhà văn phải đau cái đau của
nhân vật, phải buồn cái buồn của nhân vật, vui cái vui của cuộc sống, của con người, khi ấy tác
phẩm của anh mới có “sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại” (Hoài Thanh). Cảm xúc trơ lì, sáo
mòn; tình cảm nông cạn, hời hợt, giả dối; tác phẩm chỉ là những con chữ vô hồn, xác ép khô không
gây xúc động nơi người đọc. Chỉ những gì xuất phát từ trái tim mới đi đến những trái tim. Với ý
nghĩa ấy, tác phẩm văn học đã bắc nhịp cầu linh diệu nối liền trái tim nghệ sĩ với tâm hồn độc
giả để trong đời này có nhiều yêu thương, sẻ chia hơn.

Belinsky thêm một lần nữa nhấn mạnh vào vai trò đặc biệt quan trọng của tư tưởng đúng đắn, sâu
sắc ở người viết. Tác phẩm nghệ thuật sẽ sống khi nó “đặt ra những câu hỏi và trả lời những
câu hỏi đó”. Theo tôi hiểu, những “câu hỏi” ở đây là những vấn đề nhà văn trăn trở, nghĩ suy về
cuộc sống, về con người. Ấy là những “câu hỏi của cuộc sống” (Tố Hữu). Những câu hỏi ấy thể
hiện cách nhìn, nhận thức, quan niệm nghệ thuật về con người, về xã hội của nhà văn. Nói cách
khác, đó là sự hiện hình của tư tưởng nhà văn được biểu hiện trong tác phẩm. Tư tưởng nghệ
thuật là một trong những yếu tố quyết định tầm vóc của nhà văn và giá trị của tác phẩm. Nguyễn
Khải từng nói: “Giá trị của một tác phẩm văn học trước hết là ở giá
trị tư tưởng của nó”. Còn Korolenco thì nhấn mạnh: “Tư tưởng là linh hồn của tác phẩm văn
học”. Tư tưởng sai lầm, lệch lạc, văn học sẽ trở thành công cụ gây tội ác. Lỗ Tấn đã từng nói:
“Làm một thầy thuốc kê đơn bốc thuốc bậy chỉ giết chết có một người, làm một viên võ tướng
điều binh khiển tướng bậy chỉ nướng hết một đạo quân còn làm một nhà văn viết bậy có thể gây
tác hại đến ba thế hệ.” Có được ảnh hưởng hết sức quan trọng như vậy bởi nhiệm vụ cao cả,
thiêng liêng của văn học. Văn học không chỉ là “công cụ khám phá, hiểu biết và sáng tạo thực
tại xã hội” mà còn tham gia vào quá trình cải tạo xã hội. Nói như Thạch Lam, đó là “thứ khi giới
thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi thế giới giả dối và tàn ác”. Văn học
góp phần làm cho cuộc sống con người tốt đẹp, trong sáng hơn. Vậy nếu nhà văn chỉ đơn thuần
tái hiện vẹn nguyên cuộc sống mà không gửi gắm một tư tưởng tiến bộ nào, liệu rằng văn học
có thể hoàn thành nhiệm vụ cao cả ấy không? Hơn ở đâu, nhà văn phải thể hiện, phải đặt ra và
giải quyết những ván đề quan trọng về nhân sinh. Để mỗi người đọc, đến với tác phẩm, đều
phải day dứt, ám ảnh về điều đó, để rồi tự tìm ra được câu trả lời cho những vấn đề về con
người. Tìm hiểu sâu sắc về bản chất cuộc sống, vè bản chất con người cho hay cũng là nhu cầu
tiếp nhận chính đáng của người đọc. Độc giả tìm đến tác phẩm văn chương đâu phải chỉ để hiểu
biết về hiện thực cuộc sống, mà còn muốn tìm hiểu ý nghĩa, giá trị, bản chất của cuộc sống, để
tìm câu trả lời cho những băn khoăn, trăn trở, nghĩ suy của bản thân mình. Bởi vậy, tác phẩm
nghệ thuật phải “đặt ra những cau hỏi” và có thể, còn cần phải “trả lời những câu hỏi đó”.

Tư tưởng nghệ thuật là một trong những yếu tố quyết định tầm vóc của nhà văn và giá trị của tác
phẩm. Nguyễn Khải từng nói: “Giá trị của một tác phẩm văn học trước hết là ở giá trị tư tưởng
của nó”. Còn Korolenco thì nhấn mạnh: “Tư tưởng là linh hồn của tác phẩm văn học”. Tư
tưởng sai lầm, lệhc lạc, văn học sẽ trở thành công cụ gây tội ác. Lỗ Tấn đã từng nói: “Làm
một thầy thuốc kê đơn bốc thuốc bậy chỉ giết chết có một người, làm môṭ viên võ tướng điều
binh khiển tướng bậy chỉ nướng hết một đạo quân còn làm một nhà văn viết bậy có thể gây tác
hại đến ba thế hệ.” Có được ảnh hưởng hết sức quan trọng như vậy bởi nhiệm vụ cao cả, thiêng
liêng của văn học. Văn học không chỉ là “công cụ khám phá, hiểu biết và sáng tạo thực tại xã
hội” mà còn tham gia vào quá trình cải tạo xã hội. Nói như Thạch Lam, đó là “thứ khí giới
thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi thế giới giả dối và tàn ác”. Văn học
góp phần làm cho cuộc sống con người tốt đẹp, trong sáng hơn.
Văn học là sự lên tiếng thôi thúc của trái tim. Nhà văn chỉ viết được khi “trong tim ta cuộc
sống đã tràn đầy”. Nếu như các ngành khoa học loại bỏ cái tôi trong nghiên cứu thì các
ngành nghệ thuật, trong đó có văn học lại lấy cái tôi làm điểm tựa cho sự sáng tạo. Viên Mai đã
từng nói: “Làm người thì không nên có cái tôi nhưng làm thơ không thể không có cái tôi”. Thơ
nói riêng và văn học nói chung không thể thiếu cái tôi - ở đây là dấu ấn tư tưởng tình cảm của
người nghệ sĩ. Làm sao nhà văn có thể viết khi đứng trước hiện thực cuộc sống, trái tim anh
không hề rung động, không hề xúc cảm?

Tình cảm không chỉ là “khâu đầu tiên” mà còn là “khâu cuối cùng” trong quá trình hình
thành một tác phẩm văn học. Văn học chỉ sống được trong tấm lòng đồng cảm của người học.
Vậy làm sao tác phẩm nghệ thuật có thể lay động sâu xa tâm hồn người đọc, có thể khiến độc
giả cùng vui, buồn, xôn xao, giận hờn, đau khổ, căm phẫn… cùng nhân vật khi mà nhà
văn không thực sự xúc cảm, không viết từ chiều sâu con tim?
Nhà văn phải đau cái đau của nhân vật, phải buồn cái buồn của nhân vật, vui cái vui của cuộc
sống, của con người, khi ấy tác phẩm của anh mới có “sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại”
(Hoài Thanh). Cảm xúc trơ lì, sáo mòn; tình cảm nông cạn, hời hợt, giả dối; tác phẩm chỉ là
những con chữ vô hồn, xác ép khô không gây xúc động nơi người đọc. Chỉ những gì xuất phát
từ trái tim mới đi đến những trái tim. Với ý nghĩa ấy, tác phẩm văn học đã bắc nhịp cầu linh diệu
nối liền trái tim nghệ sĩ với tâm hồn độc giả để trong đời này có nhiều yêu thương, sẻ chia hơn.
Quan niêm ̣ của Tố Hữu:
+ Nội dung quan niệm: "câu thơ" là sản phẩm lao động sáng tạo của nhà thơ, cũng là
hình thức tồn tại của những tư tưởng tình cảm mà nhà thơ gửi gắm. "Đọc" là hành động
tiếp nhận và thưởng thức của người đọc. "Tình người" là nội dung tạo nên giá trị đặc
trưng của thơ là nội dung tình cảm, cảm xúc của thơ. Từ ý nghĩa cụ thể của từ ngữ, có thể
hiểu ý kiến của Tố Hữu đề cập đến giá trị của thơ từ góc nhìn của người thưởng thức, tiếp
nhận thơ: giá trị của thơ là giá trị của những tư tưởng tình cảm được biểu hiện trong thơ.
Tình cảm, cảm xúc càng sâu sắc mạnh mẽ, càng lớn lao đẹp đẽ sẽ càng khiến thơ lay động
lòng người.
+Cơ sở quan niệm của Tố Hữu: đặc trưng của thơ là thể hiện tư tưởng qua sự rung
động của tâm hồn, qua các cung bậc của tình cảm. Với người làm thơ, bài thơ là
phương tiện biểu đạt tình cảm, tư tưởng. Với người đọc thơ, đến với bài thơ là để trải
nghiệm một tâm trạng, một cảm xúc và tìm một sự đồng cảm sẻ chia về mặt tình cảm với
nhà thơ sẻ chia những điều đang làm mình trăn trở. Vì thế, khi đến với một bài thơ, người
đọc chú ý tới tình cảm, cảm xúc chứ ít chú ý tới hình thức biểu đạt cảm xúc ấy (vốn là
công việc của nhà nghiên cứu). Tuy nhiên, nói "không thấy câu thơ" không có nghĩa là
"câu thơ" không tồn tại mà là "câu thơ" đã đồng nhất với tình người, là nội dung cảm
xúc đã lặn vào trong chính cái hình thức biểu đạt và hình thức trở thành dạng tồn tại, hình
thức tồn tại của tình cảm.
Đánh giá và đề xuất ý kiến: hai ý kiến không hề mâu thuẫn mà là sự bổ sung để
mang đến một nhận thức tương đối toàn diện về thơ. Từ hai ý kiến này có thể xác định: thơ
hay là thơ lay động tâm hồn con người bằng cảm xúc, tình cảm. Song để có thơ hay, nhà
thơ bên cạnh sự sâu sắc của tình cảm, sự phong phú của cảm xúc cần nghiêm túc trong
lao động nghệ thuật mà trước hết là lựa chọn, chỉnh sửa và sáng tạo trong sử dụng ngôn
ngữ.
1. 1. Chương 3 : NHỮNG BÀI VĂN HAY CỦA HỌC SINH GIỎI
Nghị luâ ̣n văn học :
Bài văn hay 1: Nhà thơ Nguyễn Đình Thi cho rằng: Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất
của tâm hồn khi đụng chạm tới cuộc sống.
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ bằng một bài thơ trong chương trình Ngữ
Văn 10.

Bài là m
Từng nốt nhạc du dương trầm mặc của Bản Sonate Ánh trăng đều khiến lòng người lặng đi vì
xúc động. Phải chăng Beethoven đã viết bản nhạc bằng những xúc cảm tinh tế mà mãnh liệt nhất
ngay khi nhìn thấy cảnh sống của cha con cô gái mù. Quy luật của nghệ thuật nói chung là bắt
nguồn từ dòng tình cảm. Thơ ca cũng thế. Nguyễn Đình Thi từng nói "Thơ là tiếng nói đầu tiên,
tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm tới cuộc sống".
Người thợ làm bánh làm ra chiếc bánh thạch bằng một tình yêu với món bánh quê nhà, người họa sĩ
vẽ bức tranh mùa thu bằng cái hồn say đắm thiên nhiên đất nước. Còn nhà thơ viết câu thơ bằng
chính rung động của mình trước bất kỳ khía cạnh nào của cuộc sống xung quanh. "Thơ" là một thể
loại trữ tình dùng ngôn từ, vần và nhịp để biểu thị nội dung. Nguyễn Đình Thi cho thơ là tiếng nói
đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn, tức thơ dùng để biểu thị, bộc lộ thứ tình cảm sâu kín
trong trái tim. Thơ nói hộ trái tim người nghệ sĩ, thơ gảy khúc đàn từ chính rung động của thi nhân.
Nhưng phải là tiếng nói "đầu tiên", "thứ nhất", tức những rung cảm chợt xuất hiện, chợt nảy sinh khi
nhà thơ vừa "đụng chạm tới cuộc sống". Ý kiến của Nguyễn Đình Thi đã đề cập đến đặc trưng cơ
bản của thơ: Thơ ca bắt nguồn từ tình cảm, tâm tư và cũng là công cụ để bộc lộ tình cảm mãnh liệt.
Jose Martin cho rằng "thiếu tình cảm thì chỉ có thể trở thành người thơ làm những câu có vần chứ
không thể trở thành nhà thơ". W Goethe thì nói "thơ ca là bùng cháy của trái tim". Xuất phát từ đặc
trưng văn học nói chung là phản ánh đời sống khách quan qua lăng kính chủ quan, qua sự sàng lọc
và gửi gắm tư tưởng, tình cảm của tác giả. Thơ cũng là một thể loại của văn chương và thơ không
đứng ngoài quy luật ấy. Thơ phản ánh cuộc sống, ấy là lúc các nhà
thơ khám phá cuộc đời, là khi Huy Cận nhìn thời thế mà cất bút lên viết "Tràng Giang" buồn mênh
mang, khi Tố Hữu nhớ lại ngày mình được ánh sáng của Đảng chiếu rọi mà viết nên “Từ ấy”.
Nhưng thơ là một thể loại trữ tình, vạch xuất phát của thơ là tình cảm, đích đến của thơ cũng là thể
hiện tình cảm, là đem sự thật kia vào câu chữ để mỗi chữ vang lên đều như một nốt nhạc thăng hoa
từ tình cảm của thi nhân. Người nghệ sĩ đến với thi ca là để được giãi bày. Anh nhìn thấy một cụ già,
một em nhỏ, anh thương cho cụ già kia, rạo rực nét ngây thơ của em nhỏ kia. Tình cảm xuất hiện rất
nhanh, lần đầu tiên thôi nhưng dâng lên mãnh liệt đến nỗi anh phải dùng thơ mà diễn đạt. Người
viết bộc lộ cảm xúc của mình về cuộc sống nhưng lại vô tình (hay cố ý) thỏa mãn được nhu cầu
khám phá tình cảm, tình người tri âm của độc giả khi đến với thơ ca. Thế giới nứt làm đôi, vết nứt
xuyên qua trái tim người nghệ sĩ và khi đến với người đọc thì nó đã nhuốm máu nhà thơ. Vệt máu
ấy đọng lại trong tim người đọc như một vùng sáng, tìm đến trái tim họ để cùng sẻ chia, hàn gắn.
Nếu đến với khoa học vật lý, hóa học, người ta chỉ tìm thấy những định luật, định lý khô khan thì
đến với văn chương người đọc cùng hòa mình trong cảm xúc của tác giả. Không phải tự nhiên đâu
mà Mạc Ngôn, nhà Nobel văn học năm 2012 lại nói "Bạn có thể tìm thấy mọi thứ tôi muốn nói
trong tác phẩm của tôi". Thơ như một ngọn núi cao hiểm hóc nhưng thơ mộng, người đọc không dễ
leo lên mà vẫn muốn leo lên để thấy thi nhân đã cảm nhận thế giới như thế nào.
Nếu coi nền văn học Việt Nam là bầu trời đầy sao rực rỡ thì không ít những nhà thơ trung đại là
ánh sao sáng rực, chiếm một góc trời. Con người trung đại làm thơ bắt nguồn từ tình cảm, có
những thứ tình cảm rất riêng, rất tinh tế nhưng vẫn nói được tiếng nói của nhiều kiếp người nơi ấy.
Nguyễn Du là một tác gia điển hình cho điều đó. Người đời ca ngợi Nguyễn Du với “Truyện Kiều”
nhưng tôi lại thích một Đại thi hào trong "Độc Tiểu Thanh kí".
Độc Tiểu Thanh ký là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn thi nhân. Sống trong thời
đại đầy biến động, nơi số phận con người như thuyền trên nước, trôi nổi bấp bênh, Nguyễn
Du lại tìm thấy tập thơ của nàng Tiểu Thanh khi xưa và chẳng ai xui khiến ông tìm về viếng nàng.
Chính niềm xót thương đồng cảm ấy - thứ tình cảm đầu tiên nảy sinh ấy đã thành dòng sông cảm
hứng để ông viết nên bài thơ này. Nhìn thời thế, nhìn cuộc sống, nhà thơ nghĩ đến sức mạnh của
thời gian:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư Độc điếu song tiền
nhất chỉ thư”
Đọc hai câu đề, người đọc có thể nói: Sống lâu như vậy rồi, quan niệm thời gian trong câu này đâu
còn là thứ "tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất". Xin thưa rằng chiêm nghiệm thì đã lâu, nhưng chỉ
trong hoàn cảnh viếng nàng Tiểu Thanh này, nỗi sợ mới lên đến đỉnh điểm. Tây Hồ đẹp vậy mà giờ
đã hóa gò hoang, điêu tàn, chết chóc. Chữ "tẫn" như ẩn chứa cả sức mạnh hàng vạn năm. Nguyễn
Du thốt lên chữ ấy vì ông sợ cái sức mạnh khủng khiếp của thời gian, nỗi sợ phần nào giống với Hồ
Xuân Hương "văng vẳng trống canh dồn". Trước đó người đọc từng cảm nhận đại thi hào thương
cho nàng Kiều nhưng đó là tình thương đối với người trong nước. Ở đây người ta lại gặp một tri
âm tiếc thương, cảm thông vượt cả thời gian, xuyên không gian ra ngoài biên giới. Đây không
phải là "tiếng nói đầu tiên, thứ nhất" xuất hiện trong
tâm khảm thi nhân là gì? Hình ảnh một người với một mảnh giấy bên một song cửa, viếng một
người, hai người họ đã là tri âm.
Khi đại thi hào "đụng chạm tới cuộc sống" đâu đâu cũng chỉ thấy bóng người khuất oan, đâu đâu
cũng chỉ mang nỗi đau vạn cổ, như trong "Văn tế thập loại chúng sinh" ông thương đứa trẻ mới
lọt lòng:
“Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé Lỗi giờ sinh lìa mẹ
lìa cha
Lấy ai bồng bế vào ra
U ơ tiếng khóc thiết tha não lòng”
Còn ở đây ông thương cho tất cả cái tài, cái đẹp trong xã hội:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu Văn
chương vô mệnh lụy phần dư”
Son phấn là ẩn dụ cho người con gái hay sắc đẹp nói chung, văn chương là ẩn dụ cho cái tài nói
chung, chúng có "thần chôn vẫn hận", "không mệnh đốt còn vương". Bằng nghệ thuật nhân hóa,
bằng "con mắt nhìn suốt sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời", tấm lòng nhà thơ nhìn thấu con
người và sự việc, xoa dịu cả nỗi khắc khoải nhất, oan uổng nhất (xuất phát từ nỗi oan của nàng Tiểu
Thanh) để rồi hết lòng trân trọng cái tài, cái đẹp nhưng cũng hết lòng đồng cảm, xót thương. Hai
câu thực đối nhau nhưng là đối tương đồng. Tất cả hình ảnh, ngôn từ đều hướng đến bày tỏ nổi
lòng của tri âm. Ấy là tâm tư hồn thi sĩ vậy. Tâm hồn như sợi dây đàn, một khi đã rung lên thì ngòi
bút tràn trề cảm xúc.
Thương cho người chỉ là một nửa trái tim, nửa còn lại, thi hào thương cho chính bản thân mình:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn Phong vân kì oan
ngã tự cư”
Nỗi oan trời không biết đất không hay, đó là cái nỗi oan gì vậy? Tự nhận mình là "ngã tự cư", một
kẻ cùng hội cùng thuyền với những người bất hạnh ấy, phải chăng Nguyễn Du đang rất đau. Lần
đầu tiên người ta thấy được lời than trực tiếp cho cái tôi của mình trong văn học, quả là một ngòi bút
đi trước thời đại. Trong ca dao cũng có "thân em", "thân cò" nhưng biết thân ấy là ai? Nguyễn Du
đã thật sự dùng thơ làm tiếng nói tâm hồn nên thậm chí còn dám xưng danh bằng một câu hỏi:
“Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp
Tố Như”
Nhưng tình cảm của nhà thơ không giống "ba trăm năm nữa" chỉ là con số tưởng tượng. Ba
trăm năm hay vài thế kỷ nữa trôi qua, trong tương lai, có ai còn khóc cho ông như ông đang khóc
nàng Tiểu Thanh, có ai còn nhớ đến cái tên Tố Như không? Nguyễn Du xưng danh để khao khát
nhưng khi kết hợp với câu hỏi tu từ thì lại có phần khắc khoải, mơ hồ, bất lực. Hỏi chỉ để hỏi thôi,
hỏi nhưng chẳng có lời nào vọng lại. Đọc đến câu thơ này, tiếng nói của tâm hồn nhà thơ đã được
bộc bạch rõ. Đụng tới nỗi đau của mình và của mọi kiếp người trong cuộc sống, lòng nhà thơ đã
rung, tay nhà thơ đã viết, những câu từ như lời nói phát ra từ cổ họng, tự kêu, tự thương, tự mơ ước
cho chính mình. Dấu chấm câu kết thúc, người đọc vẫn
thấy dư vang của một thời - cái cuộc sống mà thi nhân đã đụng chạm, đã nằm trong đó, đã bị cái
gai của cuộc sống cắm vào. Nhưng dư âm càng sâu hơn nữa đó là sự trân trọng với tác giả, cái tài và
cái đẹp, đồng thời đồng cảm, thương xót, ước mơ. Và câu hỏi xưa của cụ Nguyễn, ngày nay đã có
nhiều lời đáp lại. Georges Baudard - nhà văn nước ngoài từng nói "Trên thế giới không có nhà
văn nào để lại chấn động mạnh mẽ đến nhân dân nước mình như Nguyễn Du ở Việt Nam". Đúng
vậy, người ta yêu Nguyễn Du là yêu một tâm hồn, một tài năng biểu đạt tâm hồn xứng là bậc thầy
của dân tộc.
Ý kiến mà Nguyễn Đình Thi đưa ra là hoàn toàn đúng đắn và ý nghĩa. Nó đúng không chỉ với
Nguyễn Du mà còn đúng với rất nhiều nhà thơ trung đại khác. Ta được thấy thái độ chống lại số
phận của Hồ Xuân Hương, thấy tấm lòng yêu thiên nhiên và tấc dạ ưu thời mẫn thế của Nguyễn
Trãi trong "Cảnh ngày hè". Đến văn học hiện đại, ta lại cảm nhận được không khí rầm rộ, rộn ràng
của các nhà thơ kháng chiến, thấy thái độ hào hứng của Phạm Tiến Duật trong "Bài thơ về tiểu đội
xe không kính", của Tố Hữu trong "Từ ấy", của Chế Lan Viên trong "Tiếng hát con tàu". Và không
chỉ trong thơ, trong văn, bất kỳ môn nghệ thuật nào cũng cần tình cảm. Tôi từng đắm say bức tranh
"Bữa ăn tối cuối cùng" của Leonardo De Vinci. Tôi thấy ở đó một tình thương vô ngần của đạo, và
của chính nhà họa sĩ.
Nguyễn Đình Thi đã tạo ra một ngọn hải đăng cho các thi sĩ chèo thuyền về đúng hướng.
Những ai đang viết thơ, hãy viết chúng bằng cả tấm lòng mình, hãy huy động tất cả vẻ đẹp của tâm
hồn và dòng máu vào trang viết, để người đọc khi đến với tác phẩm cũng phải sống hết mình với
nó, khám phá nó như tìm đường đến với ngọn hải đăng giữa biển khơi. Có vậy lịch sử văn chương
mới thực sự đi lên bền vững.
Nền văn học vẫn chảy trôi và phát triển, thi ca muôn đời vẫn là lãnh địa của cảm xúc và trái tim khi
nhà thơ lấy chúng ra từ hiện thực. Tôi đắm mình trong đó và tôi nghĩ mình đã đạt đến một mức nào
đó đòi hỏi của người đọc thơ: yêu và khám phá.

Bài văn hay 5 :Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình nâng cao niềm tin vào bản
thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng vươn tới chân lý.
Bài làm.
Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống, là cuốn bách khoa toàn thư về cuộc sống. Qua văn học
con người có được những hiểu biết sâu sắc hơn về tự nhiên, về xã hội, về chính bản thân mình.
Đúng như M. Gorki đã từng nhận định “văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao
niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng vươn tới chân lý”.
Vậy văn học là gì? văn học là loại hình nghệ thuật ngôn từ phản ánh hiện thực bằng cách sáng
tạo các hình tượng nghệ thuật qua đó bày tỏ thái độ quan điểm của người nghệ sĩ với cuộc sống
lời nhận định của M. Gorki đề cập đến những chức năng của văn học văn học giúp con người đọc
được tâm hồn những suy nghĩ của bản thân họ giúp khơi dậy trong họ những nhận thức mới mẻ
sâu sắc về cuộc đời giúp họ có thêm những trải nghiệm trong cuộc sống giúp rèn dũa đạo đức nhân
cách sống tốt đẹp hơn biết ứng xử một cách nhân văn lấy nữ những tình cảm mới mẻ Khát Vọng
vươn tới những chân lý cao đẹp.
Văn học là tiếng nói của tình cảm là sự giải bày và gửi gắm tâm sự qua văn học con người thấy
mình trong đó cảm nhận được những cung bậc tình cảm đa dạng trong thế giới nội tâm con người
được giải bài được đồng cảm được sẻ chia được gợi ra những tình cảm chưa có được tạo nên những
tình cảm sẵn có qua tác phẩm “Thương Vợ” của Trần tế Xương ta thấy hình ảnh bà Tú một người
phụ nữ phải chịu nhiều vất vả gánh trên vai hai gánh nặng “năm con một chồng”. Đằng sau đó ta
còn thấy tiếng uất nghẹn của một người chồng nhìn thấy nỗi cơ cực của vợ mà không thể đỡ đần
và hơn cả chính là nỗi niềm thương xót cảm phục và biết ơn sâu sắc của nhà thơ thật đáng trân trọng
tình cảm vợ chồng hay tình cảm cha con sâu nặng đẹp đẽ thân thiết qua truyện ngắn “Chiếc lược
ngà” của Nguyễn Quang Sáng người cha trong câu chuyện đã sắp phải hi sinh nhưng vẫn nhớ tới
lời dặn của đứa con bé bỏng và gửi chiếc lược ngà do chính tay mình làm với tất cả tình yêu và
công sức cho người đồng đội của mình.
Những tác phẩm đó đã chạm sâu vào trái tim bạn đọc giúp họ nhận ra tình cảm gia đình là thứ
tình cảm vô cùng thiêng liêng đáng quý mỗi con người chúng ta phải tự xây dựng và giữ gìn hạnh
phúc gia đình bền đẹp.
Văn học còn là thứ vũ khí sắc bén đánh vào tâm lý của con người bài “Hịch tướng sĩ” của Trần
Quốc Tuấn là một bài văn tuyệt hay đầy sức thuyết phục nó vừa là khích lệ lòng yêu nước Quyết
chiến đấu của các tướng sĩ đồng thời nó cũng là lời răn đe đe dọa những kẻ đang lăm le xâm lược
đất nước ta rằng chúng nhất định sẽ thất bại thảm hại vì dân tộc có lòng yêu nước nồng nàn có ý chí
chiến đấu quật cường, có vua tài tướng mạnh.
Đây là sức mạnh góp phần tiêu diệt kẻ thù xâm lược đánh thức cảnh tỉnh những cuộc chiến tranh phi
nghĩa các nhà văn nhà thơ còn dùng bút pháp nghệ thuật chơi chữ nói quá để châm biếm lên án phê
phán những thói hư tật xấu ở đời để họ kịp nhận ra và sửa đổi bản tính của mình.
Mỗi tác phẩm văn học còn là một cuộc trải nghiệm là cơ hội để ta du hành qua không gian và thời
gian vừa qua mọi bờ cõi và giới hạn trải nghiệm nhiều hơn sống nhiều hơn qua những cuộc đời
khác nhau được nhìn cuộc đời dưới nhiều lăng kính được lắng nghe nhiều luồng tư tưởng được
đối thoại với nhà văn giàu có phong phú hơn về một trải nghiệm sống từ những trải nghiệm đó văn
học giúp con người hoàn thiện thêm về nhân cách và tâm hồn của mình thông qua văn học con
đường tình cảm truyền đạt tới mọi người những bài học đạo đức nhân sinh những bài học tác động
vào con đường tình cảm trong quá trình chuyển từ giáo dục thành tựu giáo dục văn học trở thành
cuốn sách giáo khoa của cuộc sống thật vậy tìm đến những tác phẩm văn học người đọc đâu chỉ
mong chờ vài phút giây giải trí bông quơ. Trang sách đóng lại tác phẩm nghệ thuật mới mở ra
“cuộc đời là điểm khởi đầu và là điểm đi tới của văn chương”, mỗi tác phẩm như một nấc thang
nâng đỡ bước chân người đọc sách phần con để đi đến phần người càng đọc nhiều chúng ta càng
thấy bản thân mình hơn một trang sách cuộc đời lại được mở ra lại một ước mơ một khát vọng một
niềm tin mới bắt đầu.
Và chắc hẳn mỗi tác phẩm để đạt được giá trị đích thực của nó thì người nghệ sĩ ấy phải vừa có
tâm vừa có tài họ là “người cho máu”, mở rộng tâm hồn ra đón nhận những vang vọng của cuộc
đời những cung bậc tình cảm đa dạng sâu kín của con người họ giúp bạn đọc nhận ra những buồn
vui yêu ghét lời ca tụng hân hoan hay tiếng thét khổ đau mỗi tác phẩm được viết ra giống như
phát minh ra một liều thuốc mới khiến con người trở nên tốt đẹp hơn toàn diện hơn.
“ Văn học là nhân học”, văn học là để giáo dục và hoàn thiện mỗi con người, mỗi trang sách làm
nên bước ngoặt trong cuộc đời con người và nhận định của M. Gorki là hoàn toàn đúng “văn học
giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con
người khát vọng vươn tới chân lý”./.
Bài văn hay 6 :
“Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú.
Nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người”,
Đă ̣ng Thai Mai. Bài
làm.
Văn học được kết tinh bởi những tâm hồn tư tưởng và tình cảm tốt đẹp xúc cảm của nhà văn
thường bắt nguồn và nảy nở từ những điều thầm kín, bé nhỏ ẩn sâu trong đời sống tâm tư, tình cảm
của con người. Họ góp nhặt niềm vui, nỗi buồn, những eo le, bất hạnh để rồi cất lên tiếng nói riêng
lời bênh vực an ủi cho những kiếp người lầm than, cơ cực hoặc là cất lời ca vui mừng trước những
thay đổi tiến bộ của xã hội loài người. Có thể nói “văn học mang tính chất nhân văn”, cái “nhân”, là
yếu tố cốt lõi để làm nên một tác phẩm nghệ thuật. Từ đó nó gợi cho chúng ta nhớ tới tâm niệm của
nhà văn, nhà phê bình văn học Đặng Thai Mai: “Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường
trên muôn vàn cung bậc phong phú. Nhưng tiêu điểm và con người hướng đến vẫn là con người”.
Con người sống trên đời vất vả học hành, bon chen, mưu sinh luôn không ngừng tích cực sáng tạo
ra cái mới, cái hay, cái đẹp bởi vì nhiều mục đích khác nhau, có người vì mưu sinh, có người
muốn làm giàu, có người muốn đóng góp cho xã hội khẳng định bản thân... Mỗi người đi trên một
con đường riêng, có lựa chọn khác nhau, đắn đo rồi tâm huyết nhiều vấn đề, ở nhiều phương diện
khác nhau. Chung quy vẫn hướng đến phát triển loài người theo chiều hướng tốt đẹp nhất, “con
người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường”, đó là những nẻo đường muôn màu, muôn vẻ, có
đoạn bằng phẳng lại có đoạn gập ghềnh khúc khuỷu. Đời người không có ai đi trên con đường
đầy hoa hồng, có những lúc khó khăn, gian nan vất vả, gõ cửa ập đến đến hoàn toàn không báo
trước, từ đó mà “cung bậc cảm xúc” của con người có thể đổi thay, mỗi người mỗi vẻ muôn hình
vạn trạng. Văn học đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng là thi sĩ. Anh phải quan sát cuộc
sống qua thật nhiều lăng kính khác nhau, tìm kiếm trong sự sâu thẳm, âm thầm ấy những gì tinh
túy nhất của cuộc sống, khai thác thật tinh tế, chân thật chính xác cái phong phú của đời người.
Mỗi người xuất thân từ một vùng quê khác nhau mang vẻ đẹp và đặc trưng riêng, mang chủng
tộc, màu da, ngôn ngữ, tiếng nói khác nhau, có người giàu ,kẻ nghèo, người khốn cùng lầm than,
cơ cực, có người da trắng da màu... Thế nhưng dù họ là ai, dù đến và đi trên nẻo đường nào, con
người cũng xứng đáng được trân trọng. “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thở, loại
không đánh thờ là loại chuyên chú ở văn chương, loại đánh thở là loại chuyên chú ở con người”.
Tóm lại đối tượng văn học là con người, chân lý mà vẫn học hướng tới cũng là con người.
Trong văn học trung đại, thi sĩ thường mượn vẻ đẹp tươi tắn, mỹ lệ của thiên nhiên để giãi bày về
những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của mình về nghệ thuật tả cảnh, ngụ tình quen thuộc. Họ đã gửi
gắm vào thiên nhiên biết bao uẩn khúc khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải thốt lên tiếng nói
đồng cảm dành cho những mảnh đời khốn cùng, bế tắc trong xã hội.
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
(Truyện Kiều).
Người chinh phụ trong tác phẩm “Chinh Phụ Ngâm” của Đặng Trần Côn có lúc cảm thấy cảnh
vật vô hồn, thê lương nhưng có khi lại cảm nhận cả khoảng không gian và cảnh vật như đang hối
thúc, giục giã, đổi thay không tìm thấy đâu sự đồng cảm giữa con người với thiên nhiên.
“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”.
Bao trùm các sáng tác của Nguyễn Du và chủ nghĩa nhân đạo từ kiệt tác “truyện kiều”. “Đọc Tiểu
Thanh Kí”, đến “Văn Tế thập loại chúng sinh”. Tất cả cho ta thấy, niềm thương cảm của đại thi
hào đối với con người mênh mông biết chừng nào. Nội dung quan trọng hàng đầu trong các tác
phẩm của Nguyễn Du là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt
là những con người nhỏ bé, bất hạnh, người phụ nữ, người ăn mày, những ca nhi, kỹ nữ... vốn bị
xã hội cũ coi rẻ, được ông nói đến bằng cả tấm lòng yêu thương, trân trọng. Những khái quát của thi
sĩ về cuộc đời, về thân phận con người thường mang tính triết lý cao và thấm đẫm cảm xúc.
“Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Sáng tác của Nguyễn Du gắn chặt với tình đời, tình người bao la.
Nguyễn Minh Châu từng nhận định, nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống
như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác, hoặc số phận đen đủi dồn
đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đầy đến ê chề, hoàn toàn
mất hết niềm tin vào con người và cuộc đời nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con
người không có ai để bênh vực. Trong kho tàng văn chương có hàng ngàn hàng, vạn tác phẩm, có
những tác phẩm được coi là kiệt tác, được lưu danh muôn thuở, có những tác phẩm lại đang phai
dần theo thời gian, là thi sĩ anh muốn có nét chấm phá trong sự nghiệp muốn hướng tới cốt lõi
chân, thiện, mỹ. Trước hết anh phải hướng ngòi bút của mình tới những người cùng khổ, hãy gửi
vào tác phẩm một lá thư, một thông điệp, một lời nhắn nhủ, hãy lắng nghe tâm tư nỗi lòng của một
tâm hồn héo uá, cô đơn, từ đó hãy viết, viết bằng máu tủy, bằng trái tim, hãy chuyền cho độc giả
cảm xúc, cảm nhận, suy tư, trăn trở của anh, nhen nhóm ngọn lửa nhân đạo, đồng cảm vào trái tim
của họ. Để vực dậy trong họ tình yêu thương, theo Nam Cao “nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa
dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối”, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ
những kiếp lầm than, nghệ thuật xuất phát từ chính cuộc đời những cuộc mưu sinh bươn trải, tưởng
chừng bình dị mà thật phi thường. Có lẽ từ chính những điều bình dị ấy dưới lũy tre xanh, cây đa,
giếng nước, túp lều tranh. Nam Cao đã xây dựng nên hình ảnh Lão Hạc- một hình mẫu nông dân
chất phát, giàu đức hi sinh, điển hình của làng quê Việt Nam ngày nào, đã cảm động biết bao trước
hình ảnh một ông lão gầy gò, lam lũ, ăn củ khoai, củ sắn qua ngày để dành tiền cho con trai. Người
đọc đã ngậm ngùi biết bao trước hoàn cảnh khốn cùng của ông lão trước sự dằn vặt lương tâm khi
Lão bán con chó vàng. Và rồi tất cả những vỡ òa ra thành tiếng khóc, làng xót thương khi cuộc đời
đã đẩy lão đến đường cùng chết là phải ăn bả cho tự tử, lão chết trong sự đau đớn tột cùng cả về thể
xác lẫn tinh thần.
Trở lại với nhận định của Đặng Thai Mai ông khẳng định tiêu điểm mà con người hướng đến
vẫn là con người, mỗi người có một ước mơ khác nhau, sống với mục đích khác nhau, người làm
thơ, người là làm văn cũng vậy, mỗi thi nhân có một phong thái cách rất khác nhau có một cái nhìn
khác nhau nhưng chung quy ai cũng hướng ngòi bút của mình để con
người họ dùng tiếng nói ngò bút của mình để kết nối những trái tim đến với trái tim, những mảnh
đời bất hạnh tới sự nhân ái, sẽ chia.
“Có gì đẹp trên đời hơn thế, Người với người sống để yêu nhau”.
“Một người vì mọi người” và để rồi “mọi người cũng vì một người”, chúng ta sống trước hết là
vì người khác, hãy sống cho đi mà không cần nhận lại. Chính Hữu là nhà thơ quân đội ông chủ yếu
viết về người lính và dành riêng cho họ một tình cảm ưu ái, trân trọng. Từ thực tế gian nan, máu
lửa tình đồng đội đồng chí sáng chói trong rừng sâu âm u, lạnh lẽo.
“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh, Sốt run người vầng
trán ướt mồ hôi,
…Đêm nay rừng hoang sương muối, Đứng cạnh bên nhau
chờ giặc tới,
Đầu súng trăng treo”.
(Đồng chí). “Con người sống vì con người, hướng tới con người”, thông điệp đó đã chuyển đi sâu
sắc, len lỏi từng bóng cây, khe núi. Đọc truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long ta thấy
cái lặng lẽ chỉ là bề ngoài giấu kín, nhịp sống sôi động mà âm thầm trên núi cao chót vót của những
người lao động thầm lặng hết lòng vì dân, vì nước. Qua nhân vật anh thanh niên từ những gì anh
nói, anh suy nghĩ về công việc đã thấy được cuộc sống lặng lẽ mà không hề cô độc. Bởi sự gắn bó
của họ với đất nước, với mọi người. Từ đó ta chợt nhận ra rằng có lẽ trong cuộc sống chung quanh
đang có rất nhiều người âm thầm làm việc, vì đất nước, vì tương lai phát triển loài người theo
chiều hướng tốt đẹp.
Trong văn chương có những niềm hạnh phúc, trong nỗi đau tột cùng lại có ánh sáng hiu hắt đang
nhen nhóm giữa mưa giông, bão tố. Là thi sĩ dù đi trên nẻo đường nào, dù tâm đắc về đề tài gì, xin
anh hãy dành hết tâm huyết của mình khai thác các khía cạnh khác nhau của cuộc sống loài người.
Hãy cất lên tiếng nói, tiếng bênh vực kẻ yếu, để họ có niềm tin, có hi vọng vào tương lai tươi
sáng./.
Bài văn hay 7: Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà văn nhân đạo từ trong cốt tủy.
(Sê khốp).
Bài làm.
Văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải sao chép hiện thực một cách y nguyên, thời hợt, nhà
văn không để nguyên xi các sự kiện con người vào trong tác phẩm một cách thụ động, đơn giản.
Một tác phẩm văn học được coi là nghệ thuật phải là kết quả của quá trình mài giũa, sáng tạo và
trong đó phải ẩn chứa được cái tâm, tình cảm của nhà văn. Cũng như vậy một người nghệ sĩ chân
chính không phải chỉ là người có tài văn học, mà còn là người có tấm lòng bao dung, độ lượng, luôn
mở lòng với người khác. Vì thế mà sê-khốp đã đưa ra nhận định riêng của mình, “một nghệ sĩ chân
chính phải là một nhà văn nhân đạo từ trong cốt tủy”.
Là một trong những nhà văn đại diện vĩ đại của chủ nghĩa hiện thực, phê phán văn học Nga, sê-khốp
hiểu rõ hơn những yêu cầu khắt khe của nghệ thuật cũng như người nghệ sĩ. Ông
cho rằng “người nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”, vậy “người
nghệ sĩ chân chính”, là gì đó? chính là người ý thức được thiên chức của mình trong quá trình sáng
tạo, là nâng đỡ cái phần tốt đẹp để trong đời có nhiều công bằng và yêu thương hơn. Mỗi tác phẩm
mà họ sáng tác luôn hướng về con người, hướng về một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc. Sê-khốp coi
tinh thần nhân đạo là phẩm chất bắt buộc đối với người thi sĩ, đó là tiêu chuẩn, là điều kiện để đánh
giá mức độ chân chính của nhà văn, hay nói theo cách khác nếu không có nhân đạo thì không thể trở
thành nhà văn chân chính. Mặt khác sê-khốp còn đòi hỏi tình cảm nhân đạo ở người nghệ sĩ phải là
thứ căn bản, có chiều sâu từ trong cốt tủy, chứ không chỉ đơn thuần là thứ tình cảm nông cạn, mơ
hồ, hởi hợt. Tình cảm nhân đạo trở thành phẩm chất không thể thiếu của một người nghệ sĩ, cả đời
cống hiến cho văn học. Đó chính là cái tâm của người nghệ sĩ, cũng giống như đại thi hào dân tộc
Nguyễn Du đã từng thốt lên rằng.
“Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Một người nghệ sĩ chỉ có tài năng mà không có tâm cũng không thể nào viết lên được những tác
phẩm đi vào lòng người, nếu chỉ có “tâm” mà không có “tài”, thì cũng khó viết nên được tác phẩm
hay. Vì vậy mỗi người nghệ sĩ chân chính phải giữ trong mình sự hài hòa, giữa tâm và tài để dâng
hiến nhiều hơn những tác phẩm có giá trị cho nền văn học.
Ý kiến của sê-khốp hoàn toàn đúng đắn, một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải thể hiện được
cái tâm của người nghệ sĩ, phải ẩn chứa được tinh thần nhân văn sâu sắc, cao cả, chứa đựng niềm
vui cũng như những khổ đau của con người, và tác phẩm ấy sẽ ý nghĩa hơn khi nó viết ra để phục
vụ đời sống con người, giúp con người thấu hiểu nhau hơn. Theo như M. gorki, “văn học là nhân
học”, đó chính là giáo dục, là cứu vứt con người. Thực tế, không có sức mạnh giáo dục nào bằng
chính tình cảm của con người. Do vậy mọi thứ đều phải xuất phát từ tình cảm, nhờ có cái tâm, tình
cảm cao đẹp giữa người với người cũng như sự đồng cảm về số phận mà Nguyễn Du đã viết rất
thành công trong tác phẩm “Truyện Kiều”, bất hủ, từng lời thơ như chất chưa bao tình yêu thương,
xót xa, cay đắng đối với người phụ nữ, thấm đượm vào lòng người. Đó cũng chính là mong đợi
của độc giả, độc giả luôn mong đợi những trang viết chứa đựng lòng yêu thương chân thành của
nhà văn, vì chỉ những trang viết như vậy mới có sức mạnh vững bền với thời gian. Ý kiến của sê-
khốp không có ý nghĩa là phủ nhận, những tác phẩm của người nghệ sĩ khác mà chỉ muốn nhấn
mạnh và đề cao tinh thần nhân đạo là một yếu tố không thể thiếu của người nghệ sĩ.
Vậy tại sao “tâm”, tinh thần nhân đạo được xem là gốc của văn thơ, là nền tảng của sáng tạo, và
một người có tình thương yêu đồng cảm sẽ như thế nào. Tinh thần nhân đạo giúp con người đồng
cảm được với số phận của người khác, chia sẻ được những nỗi buồn, vui, được, mất, thành công
cũng như thất bại của người khác. Bên cạnh đó cũng giúp ta sống sâu sắc hơn, sống đến tận đáy
những điều mà người khác chỉ diễn ra thời hợt, thoáng chốc cũng giúp mở rộng giới hạn sống cho
con người. Nhà văn Nam Cao đã từng viết “sống đã rồi hãy viết”, phải trải nghiệm cuộc sống, nếm
trải mùi đời mới thấu hiểu được nỗi khổ của người khác. Như Nguyễn Du cả cuộc đời bươn trải
cuộc sống, cuộc sống lênh đênh, vất vả nên ông mới thấu hiểu được tâm trạng cảnh ngộ, của dân
đen để viết lên tác phẩm “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh”, viết về 10 loại người trong xã hội xưa.
Có lẽ vì thế ông được mệnh danh là đại thi hào
dân tộc, được mọi người tôn kính yêu mến. Mộng liên đường, đã nhận xét Nguyễn Du rằng “lời
văn tả hình như có máu chảy ở đầu nhuận bút nước mắt thấm trên từng tờ giấy khiến ai đọc đến
cũng thấm thía ngọt bùi”. Nguyễn Du xứng đáng là đại diện cho những nghệ sĩ chân chính, bởi
trong ông luôn ẩn chứa một tình cảm sâu sắc với các tâm luôn rộng mở với người khác.
Qua đây chúng ta thấy được cái tâm chính là cốt lõi để làm nên một người nghệ sĩ chân chính, đó
nhất định phải là tình cảm chân thành. Từ đó ta thấy nhận định của sê-khốp hoàn toàn đúng đắn,
đáng học hỏi và mỗi con người chúng ta hãy đặt cái tâm lên hàng đầu để sống trong tình yêu
thương, hòa đồng giữa con người với con người./.
Bài văn hay 8 :
Trình bày suy nghĩ của anh chị về ý kiến “Văn học là cuốn bách khoa toàn thư về cuộc
sống”.
Bài làm.
Có ai đó đã từng nói “văn học đã là đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ”. Câu nói nhằm khẳng định,
đề cao chức năng thẩm mĩ của văn học. Thế nhưng trên thực tế văn học không phải chỉ mang
thiên hướng đưa con người ta tới những gì được coi là nghệ thuật, là hoa mỹ, văn học còn là tấm
gương phản chiếu hiện thực đời thường, là lăng kính để con người nhận biết về thế giới khách
quan. Bởi vậy trong số vô vàn những nhận định về văn học, có một ý kiến nổi bật cho rằng văn
học là, “cuốn bách khoa toàn thư về cuộc sống”.
Trước tiên ta cần hiểu bách khoa toàn thư chính là cuốn sách tập hợp mọi tri thức của mọi lĩnh vực
trong đời sống, từ tự nhiên, xã hội, đến con người. Có được cuốn sách này, là có được chiếc chìa
khóa vàng để mở cửa bước vào cuộc sống. Việc so sánh văn học với cuốn bách khoa toàn thư về
cuộc sống nhằm khẳng định chức năng, vai trò to lớn của văn học trong đời sống của con người. Có
thể hiểu nếu cuốn bách khoa toàn thư có thể cung cấp vô vàn kiến thức, hiểu biết cho con người như
thế nào, thì vẫn học cũng có tác dụng kỳ diệu như thế.
Vậy tại sao văn học lại được coi là một cuốn bách khoa toàn thư về cuộc sống, nói văn học hiện
thực cuộc sống là bởi tất cả những vấn đề đang diễn ra trong đời sống của con người đều được phản
ánh thông qua các tác phẩm văn học, nên chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy bất cứ chi thức nào ở
đây. Nói cách khác văn hợc chính là kho lưu trữ toàn bộ từ cái cũ, cho tới cái mới, cái tiến bộ đổi
mới của cuộc sống con người.
Trải qua thời gian nhiều năm, với nhiều biến động của lịch sử nhưng chưa bao giờ văn học thôi
không làm cuốn “bách khoa toàn thư” nữa bởi không có một tác phẩm văn học chân chính nào lại
không cung cấp, không gửi gắm những tư tưởng, bài học, quan điểm về cuộc sống loài người.
Ngày qua ngày, càng lúc chức năng nhận thức, chức năng quan trọng nhất của văn học càng được
khẳng định và chứng minh.
Dễ thấy văn học hiện thực nhiệm vụ của quyển bách khoa toàn thư trên nhiều khía cạnh, trước
tiên phải nói rằng văn học cung cấp tri thức về mọi lĩnh vực của đời sống, từ tự nhiên, xã hội, con
người, về tự nhiên không ít các tác phẩm văn học làm ta tràn ngập, thổn thức trước những cảnh
đẹp, những địa danh mà ta chưa bao giờ được nhìn thấy, chưa bao giờ được đặt chân tới. Trong
“câu cá mùa thu”, của Nguyễn Khuyến người đọc mặc nhiên được
thưởng thức bức tranh mùa thu đặc trưng, vừa cổ điển, vừa hiện đại của riêng đồng bằng Bắc Bộ.
Một nét đẹp không lẫn với bất kỳ vùng miền nào khác. Hay với “Lặng lẽ Sa Pa” người đọc có thể
thỏa sức khám phá về tự nhiên, chiêm nghiệm về khí tượng cùng nhân vật trong truyện. Trí thức tự
nhiên qua chiếc cầu nối văn học được giao thoa, tìm đến với con người một cách nhẹ nhàng, tự
nhiên, bổ ích mà mặc nhiên không hề có áp lực, khiên cưỡng. Về xã hội văn học là ký giả trung
thành của thời đại, thơ ca. Nhiều vấn đề nóng được phản ánh một cách trực tiếp, hay gián tiếp
thông qua văn học, viết như tác phẩm “Số Đỏ” của Vũ Trọng Phụng, phơi bày hiện thực xã hội dối
ren, đồi bại, suy tàn về văn hóa sống của những con người thuộc tầng lớp thượng lưu ở thành thị
những năm trước cách mạng tháng tám. Văn học còn đào sâu, bới rễ cả những vấn đề xã hội nhức
nhối ở sâu thẳm mỗi con người mà thường thường nó bị che lấp bởi sự nhạt nhòa. “Người trong
bao” của sê-khốp là minh chứng cho điều này. Thực trạng xã hội, con người ngày nay càng trở nên
nhỏ bé, khuôn khổ, cô lập mình, đồng điệu mình, với nhịp sống buồn, ngột ngạt, tù túng đã được tái
hiện một cách đầy ám ảnh qua hình tượng nhân vật bê-li-cốp. Tuy không trực tiếp sống trong xã hội
ấy, nhưng quả thực độc giá như nhìn thấy, nghe thấy cái ngột ngạt, bức bối của cả một xã hội
đương thời, thậm chí tới nay giá trị hiện thực của “Người Trong Bao” vẫn còn nguyên giá trị về
con người. Văn học có khả năng thần kỳ, len sâu, giải mã tâm lý con người, không gì khác đó là nội
tâm. Ngôn ngữ tinh tế bậc nhất của văn học có thể chạm tới góc khuất của trái tim mỗi người, văn
học hay tác phẩm văn học là khái niệm có chiều sâu, đôi khi độc giả không chỉ cảm nhận được tư
tưởng, tình cảm của tác giả mà còn như tìm thấy chính mình trong đó, được soi tỏ để hiểu mình,
hiểu người hơn. Và đây là một trong những khám phá về con người bất ngờ của văn học, “Chí
Phèo” của Nam Cao tưởng chừng như cái con người không còn gì là nhân tính kia, tưởng chừng
như cái con người mà cả trong và ngoài đều là quỷ dữ kia sẽ chỉ sống một đời, một cách thú tính.
Nhưng chao ôi! Nam Cao đã giút ta “mò kim đáy bể” thành công, khơi dạy và chỉ ra cho ta thấy
cái người ẩn nấp rất kỹ trong con người Chí Phèo kia. Vậy là văn học vừa ghi lại nhận thức con
người, vừa phản ánh tinh tường và giúp con người khám phá con người.
Nhiệm vụ của cuốn bách khoa toàn thư còn được thể hiện qua cách mà văn học giúp chúng ta
vượt mọi không gian, thời gian. Thứ nhất, tại sao nói văn học giúp con người vượt mọi không
gian? quá rõ ràng rồi người đọc có thể đắm chìm trong không gian biển khơi, từ bình minh tới tối
muộn. Với Huy Cận trong “Đoàn Thuyền Đánh Cá”, có thể phiêu lưu lên tiên cùng Tản Đà với “Hầu
Trời”, nhìn ngắm núi rừng Tây Bắc bạt ngàn hùng vĩ trong “Tây Tiến” của Quang Dũng, hay mặc
cho tâm hồn say đắm, mộng mơ, cuồng nhiệt cùng nàng xuân rạo rực của “Vội Vàng” Xuân Diệu.
Ta có thể đi tới bất cứ đâu, nhờ văn học từ những nơi xa hoa quyền quý như phủ chúa, cung vua
lầu son gác tía, hay len lỏi xuống cả thế giới âm ti, địa ngục, thậm chí là vượt ra ngoài vũ trụ mà
không cần phải tốn công, phí sức. Văn học đã chắp cánh cho ta, đưa ta phá tan mọi rào cản, giới
hạn hữu hình, vô hình. Thứ hai văn học và là cuốn sách bách khoa toàn thư bất chấp thời gian,
nếu bạn muốn tìm về thời đại của “Thánh Gióng” của “Sơn Tinh, Thủy Tinh” của “Thạch Sanh”
của “Lạc Long Quân và Âu Cơ”, hay tới với những câu chuyện cổ tích. Nếu bạn muốn tìm về
những năm tháng rực màu kháng chiến hào hùng, hãy tìm tới “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn
Trãi, hay nếu bạn vượt thoát đến
tương lai phiêu lưu vào thế giới của truyện viễn tưởng. Như vậy quả thực đối với văn học giới hạn là
một khái niệm không tồn tại và có lẽ chính điều đó đã giúp văn học trở thành cuốn bách khoa toàn
thư tuyệt vời tới vậy.
Những người lập luận văn học không phải là khoa học, vì văn học thiên về cảm xúc nội tâm, sai! văn
học chính là một ngành khoa học tổng hợp, là khoa học của mỗi ngành khoa học, bởi phạm trù của
văn học là vô tận, ở văn học người đọc có thể tìm tòi, khai thác kiến thức từ mọi lĩnh vực của đời
sống về lịch sử địa lý, công nghệ, toán học, Vật lý học, tâm lý học tuy không chuyên sâu nhưng
kiến thức khoa học trong văn học lại rất thực tế, đời thường, ngôn ngữ trau chuốt, tinh luyện của
văn học không làm mất đi tính chính xác của khoa học mà chỉ là khiến cách tiếp cận nhận tri thức
tới người đọc tác phẩm độc đáo hơn mà thôi. Ví như trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” của
Nguyễn Tuân, không tìm kiếm đâu xa lịch sử đặc điểm địa lý của sông đà như được hiện lên đầy
sống động trước mắt ta. Hay như với một số tác phẩm truyện cười, truyện ngụ ngôn như “Đẽo
cày giữa đường” hay “treo biển” đã phản ánh chân thực những diễn biến chuyển tâm lý suy nghĩ,
hành động rất chân thực của con người, qua một hình thức tình huống rất thú vị và khôi hài, làm
được như vậy trong tác phẩm văn học chả giống như tâm lý học là gì.
Văn học còn đem đến cho chúng ta bài học về đạo đức, tình cảm, cách làm người qua đó hoàn
thiện nhân cách của mỗi cá nhân trong mỗi tác phẩm văn học không bao giờ chỉ là một câu
chuyện đơn thuần, nó là kết tinh ngôn từ, là sáng tạo của cá nhân cộng đồng. Thế nên bao giờ cũng
phản ánh một tư tưởng rất đẹp, rất nhân văn, rất thẩm mỹ của người sáng tạo ra nó. Hơn nữa văn
học đi sâu vào nội tâm con người, nên rất dễ dàng tác động vào trái tim cảm quan của độc giả, mỗi
nhân vật, mỗi số phận đều được xây dựng nhờ vào những lát cắt của cuộc đời và thông qua tác
phẩm văn học những ai đúng, sai, phải, trái của họ hiện lên đầy chân thực, khách quan dưới cái nhìn
của độc giả. Những bài học đạo đức được rút ra từ đây, những chân lý sâu sắc về cuộc đời cũng từ
đây mà được giác ngộ. Đọc truyện Kiều của Nguyễn Du chưa bao giờ Nguyễn Du trực tiếp giáo
huấn con người, ta phải nhận thức rõ ý nghĩa hiện thực ra sao, ý nghĩa nhân đạo thế nào. Hai đại thi
hào cũng không bảo người đọc nên yêu, ghét ai, nhưng phàm những ai đọc “truyện kiều” có ai
không ngại ca xót xa và khổ đau cho nàng kiều, có ai mà không ghét cay ghét đắng cái xã hội
phong kiến bất công vì cái đẹp, cũng nhờ vậy người đọc hiểu về tầm quan trọng của đạo đức con
người, từ đó hoàn thiện nhân cách sống. Như vậy đọc văn học không phải chỉ là tường lắm mà
còn để học hỏi, tra cứu, giác ngộ lý tưởng sống đúng đắn. Hoặc trong truyện ngắn “Bến Quê” của
Nguyễn Minh Châu một sự thật trớ trêu được đặt ra nhân vật chính của truyện là một nhà báo “Anh
ta đã từng đi khắp mọi nơi xa xôi kỳ vĩ của đất nước, ấy vậy mà đến cuối đời khi không còn sức để
đi nữa mới phát hiện ra ngay cái bến quê ở ngay gần nhà lại chưa bao giờ đặt chân tới”, tình huống
này rất đơn giản nhưng lại gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh con người về cách sống, đôi khi chính
những gì bình dị, quen thuộc, thân thiết nhất lại bị ta vô tình bỏ qua và trở thành thứ khó khăn nắm
bắt nhất. Bài học được lồng ghép khéo léo vào tác phẩm bỗng chốc biến văn học trở thành cuốn
bách khoa toàn thư, cuốn từ điển tra cứu lẽ sống chân chính thành quà tặng cuộc sống của cá nhân
cộng đồng.
Như vậy văn học xưa và nay đã thực sự trở thành một cuốn bách khoa toàn thư, thế nhưng để
tiếp tục và mãi mãi là một cuốn bách khoa toàn thư thì điều này lại trở thành vấn đề yêu cầu đặt ra
với người cầm bút. Để văn học thực sự là nhân học thì đương nhiên những người cầm bút hơn ai
hết phải luôn luôn chau rồi hiểu biết trí thức cho thật phong phú, theo kịp thời đại, những nội dung
tư tưởng, tình cảm được nói tới. Đương nhiên cũng phải được gọt giũa trở nên hay, ý nghĩa và giàu
giá trị, đặc biệt chủ thể sáng tạo ra tác phẩm văn học phải tích cực khơi nguồn sáng tạo, viết những
gì mới mẻ mà chưa ai biết, tất nhiên là phải, vẫn phải bảo đảm tính đúng đắn và hướng tới cái đẹp
của văn học. Chỉ có vậy văn học mới thực sự danh bất hư truyền xứng đáng là cuốn bách khoa
toàn thư về cuộc sống mới không hổ danh là “khoa học của mỗi ngành khoa học”, đi song song với
những nỗ lực của người viết, người đọc. Chúng ta cũng phải cố gắng cải thiện vốn hiểu biết, khả
năng tư duy và thụ cảm có như vậy mới đủ kiến thức để lĩnh hội những tư tưởng, tình cảm được
gửi gắm trong các tác phẩm văn học. Bên cạnh đó độc giả không nên chỉ tiếp thu tác phẩm mà lên,
cùng với tác giả đồng sáng tạo tác phẩm tức là có suy ngẫm, bổ sung và đóng góp để tác phẩm
được nhìn một cách đa chiều hơn, toàn diện hơn.
Tóm lại từ xưa tới nay, văn học với chức năng nhận thức của nó luôn luôn đáng đề cao và trân quý.
Không có văn học cuộc sống có lẽ trở nên vội vàng, nhàm chán và đảo lộn, bởi vậy mỗi cá nhân
cần ý thức được ý nghĩa to lớn trên của văn học và không ngừng làm phong phú văn học, làm như
vậy cũng có nghĩa ta đang sống chậm hơn, đúng đắn hơn, ý nghĩa hơn./.
Bài văn hay 9:
Nguyễn Tuân cho rằng “mỗi nhà văn là một phu chữ”. Em hiểu ý kiến trên như thế nào? bằng
viêc̣ phân tích vẻ đẹp của ngôn từ trong “tuyên ngôn đô ̣c lập” của Hồ Chí Minh.
Bài làm.
Trong thi đàn Việt Nam, Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn có văn phòng độc đáo và đặc
sắc nhất. Mỗi trang văn của Nguyễn Tuân đều chất chứa, hiểu biết tinh thông, đa dạng ngôn ngữ,
tài hoa, uyên bác, đặc biệt những tư tưởng được phản ánh đều được tác giả khái quát lên một
cách thẩm mỹ cao, chính bởi vậy mà Nguyễn Tuân thường trăn trở và rất nhiều về bất lực của
nghề văn. Nguyễn Tuân từng nói “Mỗi nhà văn là một phu chữ”. Hồ Chí Minh cũng là một cây bút
xuất sắc và đa tài nhất của văn học nước nhà, vậy liệu bác có phải là hình mẫu lý tưởng cho hai chữ
“phu chữ” của Nguyễn Tuân. Điều đó sẽ được sáng tỏ qua lớp vẻ đẹp ngôn từ trong “tuyên ngôn
độc lập”, áng văn chương đi liền với tên tuổi của người.
Vậy trong quan niệm của Nguyễn Tuân, thế nào là một phu chữ ?Hiểu đơn giản, thì “phu” ở đây
là chỉ những người lao động vất vả, cần mẫn, “chữ” ở đây chỉ về ngôn ngữ, câu từ. Chung quy lại
câu đó có nghĩa là mỗi một nhà văn phải là một người lao động miệt mài về ngôn từ trong tác
phẩm, trên thực tế đây không chỉ là quan niệm sáng tác của riêng Nguyễn Tuân, mà còn là phương
châm cống hiến của không ít các nhà văn, nhà thơ khác trong đó Bác Hồ. Tuyên ngôn độc lập của
bác là điển hình cho quan niệm sáng tác này, hình ảnh Bác Hồ vất vả gọt rũa trong suốt, miệt mài
cho Tuyên ngôn độc lập như hiện ra trước mắt chúng ta khi đọc tác phẩm.
Trước tiên ta thấy rằng “Tuyên ngôn độc lập”, được Bác Hồ sử dụng ngôn ngữ linh hoạt để thiết
lập một hệ thống lập luận chặt chẽ, rừng như bàn thạch. Toàn bản Tuyên Ngôn được chia làm ba
phần lớn theo kiểu kết cấu tam đoạn luận. Phần mở đầu bác khéo léo đưa ra cơ sở pháp lý của bản
tuyên ngôn chính là lời trích dẫn trong hai bản tuyên ngôn của Mỹ, và tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền của cách mạng Pháp. Phần tiếp theo Bác tiếp tục đưa ra những bằng chứng cũng là
những cơ sở thực tiễn để chứng minh pháp là kẻ có tội với nhân dân ta nói riêng, với lực lượng
đồng minh và dư luận thế giới nói chung. Phần kết thúc bác đưa ra lời tuyên bố độc lập trên cơ sở
đã được lập luận chặt chẽ. Ở trên có thể thấy phần trước được sử dụng như tiền đề để phần sau
triển khai mạch ý, còn phần sau thì được vận dụng như hệ quả tất yếu của phần trước. Thêm vào
đó mỗi phần của bài Tuyên Ngôn cũng là một lập luận sắc bén lưỡng toàn, độc đáo, khi thì là kiểu
suy luận logic (từ quyền con người đến quyền dân tộc), khi thì là loại lập luận mang tính chất phản
đề nhằm vạch trần bản chất gian xảo, nói được mà không làm được của Pháp. “Thế mà hơn 80 năm
nay bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bắc ái để cướp đất nước ta, áp bức đồng bào
ta”, hay không thể không kể đến những lập luận cứng rắn, phanh phui mọi tội lỗi của bọn thực dân
Pháp với nhân dân ta và về cả kinh tế và chính trị. Bản Tuyên Ngôn còn được bác thiết lập một hệ
thống lí lẽ sắc sảo, đanh thép, một kẽ hở được triển khai từ khái quát đến cụ thể, bắt rễ từ chính
những lý luận được cả xã hội thừa nhận, kết hợp với đó là hàng loạt các biện pháp tu từ, liệt kê, điệp
từ, điệp cấu trúc, khoa chương... đã khiến cho nhịp phách của bản tuyên ngôn càng thêm tồn dập,
hào hùng. Bác cũng đưa ra hàng loạt các bằng chứng kèm theo để tăng độ xác thực cho bài Tuyên
Ngôn, tất cả bằng chứng được đúc rút từ chính thực tế, khách quan, hơn nữa từng dẫn chứng được
đưa ra đều rất mục tiêu biểu, chọn lọc, không thừa, không thiếu, hoàn chỉnh và hiện lên đầy những
nỗi ám ảnh. Bút lực của Bác như lao động cật lực, dồn hết tâm sức trên từng câu của bản tuyên
ngôn. Hệ thống lập luận để được chính xác và ưu mỹ như vậy đằng sau chắc hẳn phải là sự lao
động trí óc miệt mài của một người cầm bút có tài, có tâm là bác. Như vậy với hệ thống, phương
cách lập luận như trên bác phải chăng chính là phu chữ đích thực trong quan điểm của Nguyễn
Tuân.
Thứ hai tuyên ngôn độc lập còn là một áng văn mà người sáng tạo ra nó đặc biệt chăm chút về ngôn
từ thể hiện. Mặc dù vẫn biết chính trị là một lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm, xong sự tỉ mỉ và cẩn trọng
với từng câu chữ của Hồ Chủ Tịch vẫn thật đáng kinh ngạc, mỗi một từ được bác đưa vào bản
tuyên ngôn gần như chính xác tuyệt đối không thể thay thế bằng một từ nào khác, ví như đoạn văn
tiêu biểu sau đây. “Bởi thế cho nên chúng tôi lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới đại biểu
cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp. Xóa bỏ hết những Hiệp
ước mà Pháp đã ký về Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”,
vậy tại sao lại không thể sửa đổi dù chỉ một chữ trong bản Tuyên Ngôn, đây sẽ là một ví dụ điển
hình. Nếu thay đổi từ “quan hệ thực dân”, thành “quan hệ” thì ý nghĩa lý luận lại hoàn toàn khác
biệt. Xóa bỏ quan hệ thực dân là xóa bỏ những áp bức bất công và ách đô hộ mà thực dân Pháp đè
nén đất nước ta bấy lâu nay. Như vậy, hoàn toàn hợp lý với lẽ phải và tư tưởng mà bản Tuyên Ngôn
đã đề cập ở trên.
Nhưng nếu chỉ là quan hệ có nghĩa là Việt Nam muốn từ bỏ luôn cả quan hệ đối ngoại với thế giới
bên ngoài, với cả những người Pháp không hề có ý định biến Việt Nam thành thuộc địa, nếu vậy
là nước ta đang tự cô lập mình, kẻ thù sẽ lợi dụng kẽ hở này để gây bất lợi cho ta, hay như nếu đổi
từ Ý về Việt Nam thành ý với Việt Nam cũng sẽ gây lỗ hổng rất lớn bất lợi, để lý lẽ đối với nước
ta vì về Việt Nam chỉ có nghĩa là những hiệp ước Pháp đơn phương đại diện cho Việt Nam, hoặc
những Hiệp ước do pháp sao chúng có liên quan đến Việt Nam. Nhưng nếu dùng từ với thay thế cho
từ về, Việt Nam lập tức trở thành kẻ sai phạm đơn phương phá bỏ hiệp ước song phương, pháp diệt
không hợp với lý luận quốc tế. Chỉ một ví dụ nhỏ như vậy cũng đã thấy bác cẩn trọng đến mức nào
khi đặt bút viết tuyên ngôn, thêm nữa trong suốt chiều dài của bản tuyên ngôn độc lập Bác luôn
xưng “chúng tôi”, “nước ta”, “đồng bào ta”, chứ không bao giờ xưng tôi (cá nhân), vừa thể hiện sự
khách quan, vừa thể hiện tình đoàn kết bền chặt của nước Việt Nam mới khiến bài Tuyên Ngôn
càng trở nên thuyết phục. Không những thế bác còn quan tâm để ý tới từng sắc thái ngôn từ, cụ thể
là với Pháp vừa tôn trọng trích dẫn bản Tuyên Ngôn, vừa nghiêm khắc cương quyết không nhân
nhượng lúc cần khoan nhượng lại mềm mỏng, khéo léo khiến kẻ thù có cố “bới vết tìm lông cũng
không tìm ra”, đối với giai đoạn thế giới bác luôn thể hiện sự coi trọng, để cao qua việc liên tục
nhắc tới vai trò to lớn của các hội nghị quốc tế đối với nền độc lập của Việt Nam. đặc biệt đối với
mọi tầng lớp nhân dân, ngôn ngữ của bác lại bao dung, xót xa ở cùng qua hàng loạt các từ chỉ quan
hệ ruột thịt, gắn bó để xây dựng được tầng tầng, lớp lớp ngôn ngữ hoàn mỹ, khúc triết tinh tế
chuyển sang tới như vậy chắc chắn Bác phải làm một người cầm bút lao động miệt mài về mặt ngôn
từ, bởi nếu không có suy nghĩ cặn kẽ, tính từ, ngôn ừ thì cho dù là thiên tài cũng khó tạo nên một tác
phẩm để đời như vậy.
Sự lao động về ngôn từ còn giúp bác bộc lộ được tình cảm, nhiệt huyết của bản thân cũng như
khái quát được những tư tưởng lớn lao mang tính nhân đạo, thế giới ngôn ngữ trong tuyên ngôn độc
lập không trực tiếp bày tỏ nhiều tình cảm, cảm xúc của người viết. Nhưng thông qua cách lập
luận, hệ thống lí lẽ, dẫn chứng mà bài đưa ra người ta vẫn có thể cảm nhận được điều này. Cách
thức Bác Hồ đưa ra từng lớp ngôn từ này nối tiếp lớp ngôn từ kia, chỉ nhằm mục đích đòi quyền
độc lập chính đáng cho dân tộc, cho thấy ngôn từ trong bài một cách rất tự nhiên đã trở thành
phương tiện để bác bộc lộ bầu nhiệt huyết, yêu nước, thương dân. Phải biết một điều rằng có ngôn
từ được tạo nên từ sự thẩm mỹ, kiên trì của văn phòng mới có mãnh lực làm cảm động lòng người
tới vậy. Bên cạnh đó cách đỉnh cao của ngôn ngữ trong tuyên ngôn độc lập và là những tư tưởng
được khái quát và nâng lên tầm triết lý, quy luật trở thành lớn lao mang tầm vóc quốc tế. Hãy nhìn
vào ngôn ngữ dịch của chủ tịch Hồ Chí Minh từ “a men” trong tiếng Mỹ chỉ có nghĩa chỉ những
người giàu và những người da trắng, nhưng dưới suy nghĩ cặn kẽ của bác, có lẽ không còn cách
nào thỏa đáng hơn khi dịch thành tất cả mọi người. Vì chỉ có dịch vậy mới công bằng với tất cả mọi
người, mới là lẽ phải tuyệt đối của bản Tuyên Ngôn, hơn nữa từ quyền tự do hạnh phúc của cá nhân,
bác khôn khéo, khéo léo suy luận ra quyền độc lập của dân tộc. Nếu bỏ qua sự suy xét kỹ càng,
tường tận của bộ óc trong việc chọn lọc và suy luận bản Tuyên Ngôn sẽ không được hoàn chỉnh
như vậy. Đây là minh chứng rõ ràng nhất về sự lao động, từ đúng kiểu phu chữ trong quan điểm của
Nguyễn Tuân.
Từ Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh có thể thấy rằng, ý kiến của Nguyễn Tuân đã nói lên một
khía cạnh rất đẹp trong văn chương nói chung. Đúng là nếu nhà văn không là một phu chữ thì tác
phẩm tạo ra cũng không thể có giá trị được. Bởi lẽ không bao giờ xuất hiện kiệt tác văn chương,
nếu người sáng tạo ra nó, tạo nên nó bằng những nét bút hời hợt, bằng sự cẩu thả thiếu chiều sâu,
bằng lao động không thực sự, cũng như Tuyên Ngôn Độc Lập sẽ không trở thành một mẫu mực
văn chính luận, một văn kiện lịch sử vô giá, một kiệt tác văn học nếu bác Hồ không dốc toàn bộ
tâm huyết, bút lực vào đó. Từ đây có thể nói trong bất kỳ thời đại nào, mỗi nhà văn cũng nên là một
phu chữ chân chính.
Như vậy thông qua ý kiến của Nguyễn Tuân, qua vẻ đẹp ngôn từ trong tuyên ngôn độc lập của Hồ
Chí Minh,chúng ta như càng thêm trân trọng tuyên ngôn độc lập nói riêng, các tác phẩm văn học
giá trị nói chung. Bởi chúng không đơn thuần là lời hay ý đẹp, mà còn là kết tinh của trí tuệ bút
lực, của rất nhiều các tác giả khác nhau. Đồng thời nếu bạn cũng là một người cầm bút hãy nhớ
phải có trách nhiệm với từng con chữ mà bạn biết ra, bởi biết đâu rằng chỉ có sự lao động thì bạn của
bạn hôm nay mới giúp bạn để lại dấu ấn thật sự trong sự nghiệp của bạn mai sau./.
Bài văn 10: Bàn về ngôn ngữ nghê ̣ thuâ ̣t, có người cho rằng lựa chọn ngôn từ là yếu tố quan
trọng góp phần làm nên sự thành công của một tác phẩm thơ ca. Bằng viêc̣ phân tích nghê ̣
thuâ ̣t, sử dụng ngôn từ trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũng. em hãy làm sáng tỏ ý kiến
trên.
Bài làm.
Ngôn từ là yếu tố hàng đầu của một tác phẩm văn học, từ xưa tới nay không có một tác phẩm văn
học nào xuất sắc về nội dung, tư tưởng mà không kiệt xuất về nghệ thuật ngôn từ. Bởi thế mà công
việc lựa chọn ngôn từ có vai trò cực kỳ to lớn đối với bất cứ một tác phẩm văn học nào, đặc biệt là
tác phẩm thơ ca. Cũng vì điều này mà có ý kiến cho rằng, “Lựa chọn ngôn từ là yếu tố quan trọng
góp phần làm nên sự thành công của một tác phẩm thơ ca”.
Làm sao để những con chữ im lặng kia nói lên được tư tưởng, tình cảm, lẩn sâu trong từng ý của
tác giả, làm sao để chữ đó có thể khiến người đọc chìm đắm vào sự thăng hoa, cảm xúc, đó mới là
lựa chọn ngôn từ. Nói về việc lựa chọn ngôn từ trong tác phẩm thơ ca quan trọng đến như vậy, bởi
những thơ ca thực chỉ cần một phần nghìn miligam quang chữ, nghĩa là ngôn ngữ thơ phải thật hay
và tinh luyện toàn bộ nội dung, nghệ thuật, tư tưởng của tác phẩm đều được phản ánh qua ngôn
ngữ cảm xúc, tình cảm của người viết được bộc lộ qua ngôn từ. Sức gợi hình, gợi cảm đối với độc
giả cũng từ đây mà được định đoạt, có thể nói một tác phẩm hay có tới quá nửa thành công nhờ
vào sự tuyệt diệu của ngôn từ.
Như vậy nhận định trên đã nêu cao vai trò yếu tố ngôn từ, trong sự thành bại của một tác phẩm thơ
ca. Từ đây có thể hiểu nhận định trên như một ý kiến, định hướng mang tính chất
kim chỉ nam cho quá trình sáng tác của giới văn nghệ sĩ. Cần hiểu rằng chỉ có sự trau truốt kỹ lưỡng
về mặt ngôn từ mới đưa thơ ca, cảnh nghệ thuật của mọi nghệ thuật mới xứng đáng với mỹ ngôn,
mà sóng Hồng từng nói, “thơ là viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời”, nếu như thơ ca mà
chỉ bộc lộ được nội dung trên nghĩa bề mặt, hay chỉ vần về theo đúng kiểu đủ từ, đủ câu thì tác
phẩm thơ đó nào phải là nghệ thuật gì cao siêu. Tác phẩm đó sẽ tan nhanh như bọt biển chứ đừng
nói gì đến thành công. Thế mới biết ngôn ngữ trong thơ quan trọng những nào.
Ý thức được điều này mà trong thi đàn Việt Nam có rất nhiều những nhà thơ tỉ mỉ từng chút trong
việc lựa chọn ngôn từ, trong số đó Nhà thơ Quang Dũng là một ví dụ với tác phẩm thơ “Tây Tiến”,
nghệ thuật sử dụng lựa chọn ngôn từ thực đã lên một tầm cao mới. Bài “Tây Tiến” thành công
vang dội khẳng định vị thế của tác phẩm trong hàng ngàn, hàng vạn tác phẩm thơ ca, khác sự
tinh tế trong ngôn từ Tây Tiến không chỉ là sự quyện hòa của cảm hứng hiện thực và cảm hứng lãng
mạn của chất “họa” và chất “nhạc” của cái “bi” và cái “tráng” mà còn bởi sự thống nhất của mạch
thơ với mạch cảm xúc chân thành của người viết thơ.
Đầu tiên ngôn ngữ Tây Tiến đẹp hào hùng, ấn tượng nhưng cũng giàu cảm xúc được thể hiện
ngay trong sự ăn khớp, đưa đẩy, hòa quyện của cái hiện thực và lãng mạn mà trước hết là hiện
thực khốc liệt.
“Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi, Mường lát hoa về
trong đêm hơi, dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm, heo
hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống, chiều chiều cai linh
thác gầm thét,
đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
Ngôn từ Quang Dũng là vậy không bao giờ che dấu hiện thực khắc nghiệt, từng từ, từng câu đều
hiện thực như thước phim tài liệu về cuộc chiến với thiên nhiên của đoàn binh Tây Tiến. Đó là
những năm tháng hành quân nơi rừng núi hiểm trở, là những tháng ngày người lính tây tiến đánh
cược với mạng sống của mình, khi đi qua những vách núi cheo leo, dốc đứng răng mọc đầy
sương mù, mây phủ, là những khi người lính Tây Tiến chơi đùa sinh tử ngay trên đường tơ kẽ tóc,
khi đi qua những vực sâu tưởng chừng không đáy, chưa kể tới về chiều những con thác gầm lên
như mãnh thú sẵn sàng nuốt chửng con người, để đêm tiếng gầm gừ đe dọa đến của chúa tể sơn
lâm, như thần chết cận kề ngay cạnh những người lính làm người đọc xúc động trước hiện thực như
vậy, cảm nhận sâu sắc điều đó ngôn ngữ phải tinh xảo tới bậc nào. Từ cách tác giả sử dụng rất
nhiều những từ ngữ đối lập nhau “lên”, “xuống”, “cao”, “thẳng” tới việc dùng liên tiếp các điệp từ
“dốc”, “ngàn thước” đều góp phần phản ánh xuất sắc hiện thực khắc nghiệt kia. Những từ láy “theo
hút”, “đêm đêm”, “chiều chiều” được đính kết, gia công thêm trong từng câu làm nổi bật sự triệt để,
nguy hiểm của không gian rừng sâu. Nhưng nghệ thuật của Tây Tiến không chỉ là cái hiện thực mà
còn là cách tác giả lựa chọn ngôn từ tinh tế tới mức cùng một không gian ấy mà ta vẫn cảm nhận
được cái lãng mạn, thơ mộng, trữ tình.
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, “Nhà ai Pha
Luông mưa xa khơi”, “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
Ngôn từ Quang Dũng “tình” quá, “ngọt” quá. Tình vì hương hoa ngào ngạt, tỏa ra từ chính những
vách núi tử thần quyện vào trong làn sương đêm. Hương hoa lạnh thấu, thuần khiết như choàng
chiếc áo thanh tú cho cả không gian, hình ảnh như những ngôi nhà nhỏ nhỏ lành yên dựa vào góc
núi, hay từng bát cơm còn nguyên mùi khói nóng sao mà đầm ấm, thân thương tới vậy. Chỉ bằng
ngôn từ, cách sắp xếp từ ngữ tài tình như sử dụng ưu ái những thanh bằng, cách gieo vần ấy gợi
cảm giác chơi vơi, kết hợp nhiều hình ảnh gợi không gian thơ mộng, đầm ấm Quang Dũng đã
tạo được nét đẹp thơ mộng, trữ tình và lãng mạn, thanh cao cho không gian thơ. Cũng nhờ vậy
mà Tây Tiến có được cả hai nét đẹp, một cương (khắc nghiệt, mạnh mẽ), một nhu (mềm mại,
ngọt ngào) gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Thành công một phần của Tây Tiến phụ thuộc
rất lớn vào sự kết hợp thẩm mỹ này trong ngôn từ của tác phẩm.
Thứ hai ngôn ngữ trong Tây Tiến đặc sắc còn là bởi kết hợp hài hòa của chất nhạc và chất họa,
Quang Dũng đã từng là nhà soạn nhạc, họa sĩ bởi vậy có lẽ đây là một yếu tố thuận lợi trong việc
đưa nhạc và họa hòa trung trong lớp ngôn ngữ Tây Tiến.
“Doanh trại bùng lên hội đuốc hoa, kia em xiêm áo từ
bao giờ,
khèn lên man điệu nàng e ấp, nhạc về Viên Chăn xây
hồn thơ”.
Quả đúng là trong thơ có hoạ, ngôn ngữ trong thơ của Quang Dũng giống như cây cỏ trong tay
người họa sĩ vẽ ra trước mắt người đọc khung cảnh tuyệt đẹp của đêm hội, cả không gian như sáng
bừng lên một sinh khí mới. Đuốc lửa sáng bập bùng, hoa rừng ngào ngạt như càng gia tăng vẻ
diễm lệ của không gian. Màu xiêm áo rực rỡ của những cô gái miền cao, như hâm nóng thêm cái rạo
rực của lòng người, vẻ diễm lệ, ngượng ngùng, e thẹn của những thiếu nữ, sự phóng khoáng hồn
hậu, chàng càng khiến đêm hội trở nên cuốn hút xua tan bao hãi hùng, rùng rợn của màn đêm thời
chiến. Bức họa đẹp, thật đẹp và hoàng hôn huyền bí. Nhưng họa đấy, mà cũng là nhạc đấy, bởi
đêm hội còn có những tiếng khèn âm thanh ca ngợi sự hoang sơ, man dại, quyến rũ lôi cuốn lạ
thường. Nhạc còn phát ra từ chính tâm hồn háo hức, hồi hộp của tâm hồn những người lính trẻ
khi hòa mình vào đêm hội nhạc cũng chất chứa trong cách ngắt nhịp 4/3 đều đặn của Quang
Dũng gợi cảm giác bình dị, nhịp nhàng cho câu thơ. Vậy là dù dùng ngôn ngữ rất tiết kiệm nhưng
rộn ràng, hiệu quả, ngôn ngữ của Tây Tiến đủ khiến con người ta ngưỡng mộ, có họa lẫn nhạc, lẫn
thơ như ngôn ngữ Tây Tiến không rối, không loạn và đa dạng biến tấu theo cảm xúc trái tim của
con người, ăn nhập và tôn vinh lẫn nhau. Tây Tiến Dũng là chuẩn mực của một tác phẩm nghệ thuật
ngôn từ.
Sự thành công trong lựa chọn ngôn từ của Tây Tiến còn thể hiện trong việc sử dụng những thứ
ngôn ngữ đa nghĩa, gợi nhiều liên tưởng mà ngắn gọn, xúc tích mang tâm hưởng bi tráng chứ không
bi lụy.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, Quân xanh màu lá dữ
oai hùng,
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, Đêm mơ Hà Nội
dáng kiều thơm, Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, Áo bào thay chiếu
anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Hình ảnh người lính Tây Tiến, được gợi lên thật hào hùng với vẻ bề ngoài lẫm liệt. Nhưng tại
sao quang Dũng lại lựa chọn dùng “không mọc tóc” thay cho dùng “Tóc không mọc”. Câu trả
lời là chỉ có sắp xếp như vậy mới làm nổi bật lên tư thế chủ động của những người lính trong
cuộc chiến với nghịch cảnh cũng như khi miêu tả sự xanh xao của da dẻ người lính. Quang
Dũng không chỉ dừng lại ở “quân xanh màu lá”, mà còn “dữ oai hùng” bi đấy nhưng được trợ sức
bởi vùng lên không thấy “lụy”, mà chỉ thấy hào hùng, vô song và khi nói về sự hi sinh của người
lính ta cũng thấy ngôn ngữ Tây Tiến thể hiện một tinh thần như thế. Những nấm mồ nằm rải rác
khắp nơi xa xứ, những thi thể không một mảnh chiếu trên thân, những cái chết không một người
thân đưa tiễn như sao hiện lên nhẹ nhàng, quá khứ như là một chuyến đi xa, một giấc ngủ dài sau
nhiều năm chinh chiến. Làm được như vậy là nhờ cách sử dụng ngôn từ tài tình của nhà thơ,
những cụm từ như “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, cho thấy sự thản nhiên, thoải mái, thanh
thản đến khó tin của lính Tây Tiến trong việc đón nhận cái chết. Thêm vào đó câu thơ “rải rác biên
cương mồ viễn xứ”, dùng 5/7 tiếng là từ Hán Việt, gọi màu sắc trang trọng, thành kính như xóa tan
đi mọi buồn đau, tan tóc thay vào đó là sự hào hùng, bất diệt của những người con hy sinh tuổi trẻ
vì đất nước. Khúc tráng ca được cất lên chính từ đây, ngôn ngữ thơ Tây Tiến đã hoàn thành xuất sắc
vai trò của mình.
Cuối cùng sự thành công vượt ngoài mong đợi của Tây Tiến còn bởi sự chân thành, thống nhất
của mạch cảm xúc tác giả với bài thơ nói chung, ngôn ngữ không chỉ bộc lộ nội dung, vẻ đẹp
thiên nhiên miền Tây, con người trong binh đoàn Tây Tiến, mà còn thể hiện được nỗi nhớ da
diết, cồn cào bùng cháy thành mạch thơ. Đầu tiên là nhớ cảnh, rồi nhớ kỷ niệm, rồi nhớ người,
rồi thao thức mãi không quên, từ câu đầu cho tới tận câu cuối, nỗi nhớ vẫn khôn nguôi. Điều đó
rất phù hợp với thứ tự triển khai mạch thơ, ngôn ngữ mà phản ánh được cảm xúc đa dạng. Như
vậy đó phải là thứ ngôn ngữ được lựa chọn kĩ càng, có chiều sâu và mang nhiều hàm nghĩa. Một lần
nữa, khẳng định chính ngôn từ làm nên thành công đáng kể cho Tây Tiến.
Tóm lại nhận định ban đầu về giá trị của ngôn từ trong thơ là hoàn toàn đúng đắn, có cơ sở, rõ ràng,
mở rộng ra mà nói không riêng gì Tây Tiến mà bất cứ tác phẩm thơ, ca nào cũng cần tới những
ngôn ngữ tinh xảo, đặc sắc nhất để kiến tạo nội dung. Bởi vậy mà đối với người đọc, khi đọc bất cứ
một tác phẩm thơ nào đừng bao giờ chỉ tìm hiểu nghĩa bề mặt của ngôn từ, hay đào sâu những tư
tưởng thầm kín được chôn sâu dưới lớp ngôn từ ngữ kia, để lĩnh hội và cảm nhận văn chương. Bên
cạnh đó mỗi nhà thơ cũng cần tích cực mở rộng vốn ngôn từ mình
kết hợp với những yếu tố khác, như đề tài, tính sáng tạo, giá trị nhân đạo, có thế thơ mới đạt tới
đỉnh cao như Xuân Diệu từng nói thơ là bà chúa nghệ thuật./.
Bài văn 11 :Bàn về mối quan hê ̣ giữa nhà văn với bạn đọc, bạn đọc với tác phẩm Chế Lan
Viên viết.
“Mình là ta đấy, thôi ta vẫn gửi cho mình, Sâu thẳm mình ư lại
là ta đấy,
Ta gửi cho mình nhen thành nửa cháy,
Gửi viên đã con, mình lại dựng lên thành”.
Bằng viêc̣ phân tích mô ̣t số tác phẩm trong chương trình Ngữ Văn 12, anh chị hãy làm rõ mối
quan hê ̣ giữa tác giả và đô ̣c giả trong quan niêm
̣ trên của Chế Lan Viên.
Bài làm.
Từ xưa đến nay mỗi khi bàn về một tác phẩm có giá trị, vai trò của người cầm bút luôn được đặt lên
hàng đầu. Tuy nhiên đi song song với công kiến tạo của tác giả, tác phẩm có trường tồn được
hay không thì lại phụ thuộc rất lớn vào công sức của độc giả. Bởi thế mà giữa nhà văn và bạn đọc
luôn tồn tại một mối quan hệ sâu sắc và bền chặt, sự tương quan thú vị ấy đã được Chế Lan Viên
từng khái quát như sau:
“Mình là ta đây thôi ta vẫn gửi cho mình, Sâu thẳm mình ư lại
là ta đấy,
Ta gửi tro mình nhen thành lửa cháy,
Với viên đã con, mình lại dựng lên thành”.
Ý kiến trên của Chế Lan Viên bàn luận sâu sắc về mối quan hệ tương tác, qua lại giữa độc giả và
tác giả thông qua tác phẩm văn học, vậy ta nên hiểu ý kiến trên như thế nào? trước tiên cần phải
hiểu rằng gặp đại từ nhân xưng mình, ta chỉ trực tiếp cho chính người đọc và tác giả. “tro” ở đây
được hiểu là những tư tưởng tình cảm nhen nhóm ẩn hiện sâu dưới lớp ngôn từ của tác phẩm, còn
“lửa cháy” là sự bùng nổ dữ dội của ý tưởng khi được độc giả khám phá. Tương tự như vậy viên
đá còn ngụ ý chỉ những tư tưởng mang tính chủ quan, riêng biệt, nhỏ bé của cá nhân người sáng
tạo ra tác phẩm, “còn dựng lên thành” là cách độc giả đồng sáng tạo tác phẩm, khái quát vấn đề
trong tác phẩm lên một tầm cao mới, lớn lao hơn thông qua cái tư duy phát triển tác phẩm của độc
giả. Như vậy thông qua ý kiến trên Chế Lan Viên muốn gửi gắm thông điệp giữa độc giả và tác giả
luôn có một sợi dây liên kết vô hình tác động qua lại lẫn nhau, đó là mối quan hệ gắn bó đồng
sáng tạo, thấu hiểu và hướng tới nhau, là sự hòa quyện về tư duy, cảm xúc, người đều có thể thổi
bùng tư tưởng thầm kín của tác phẩm mà tác giả đề cập tới làm sống dậy những điều nhà văn
muốn nói, làm rõ những gì còn nhòe mờ. Quan trọng nữa là chính người đọc đôi khi còn nâng
tầm giá trị cho tác phẩm bằng việc phát hiện ra những cái mới, cái lạ, cái lớn lao phi thường mà kể
cả tác giả cũng chưa từng chạm tới, quả là một ý kiến sâu sắc về văn học.
Vậy tại sao nói đây là ý kiến sâu sắc về văn học? Có thực là người viết và người đọc có mối quan hệ
chặt chẽ như vậy hay không? Chúng ta sẽ đi tìm câu trả lời ngay bây giờ. Thực tế đã chứng minh kỳ
thực thì bất kỳ nhà văn, nhà thơ nào khi cắt đặt bút viết cũng đều hướng tới bạn đọc, cụ thể ngay cả
khi viết cho mình thêm vào đó trong quá trình người đọc nghiên cứu
tác phẩm văn học chắc chắn họ sẽ thấu hiểu tâm tư, tình cảm của tác giả. Bởi lẽ càng tìm hiểu sâu,
càng thâm nhập vào thế giới nội tâm kín đáo của tác giả, độc giả mới mong hiểu được cặn kẽ mọi
vấn đề. Và khi đã hiểu hết mọi ngóc ngách trong tác phẩm, vì lẽ dĩ nhiên chẳng khó để độc giả thổi
bùng ngọn lửa tư tưởng của tác giả, hơn nữa khối óc của hàng trăm, hàng nghìn độc giả chắc chắn
toàn diện hơn khối óc của cá nhân tác giả. Bởi vậy những ý kiến đóng góp nhận xét thậm chí là
phê bình của độc giả sẽ càng khiến tác phẩm thêm nổi bật sáng giá ở nhiều góc cạnh, cũng giống
như một viên ngọc thô tuy giá trị nhưng chưa tinh xảo, trải qua sự soi chiếu, mài giũa, khen chê,
bình phẩm mới tìm được chỗ đứng cho mình. Như vậy đúng như quan niệm của Chế Lan Viên
độc giả và tác giả của mối quan hệ đặc biệt như thế nào, vừa gắn bó hòa quyện, vừa là động lực
thách thức nhau đào sâu tác phẩm vừa như là chiếm hữu cùng nhau nâng tầm tác phẩm.
Bởi tất cả những lẽ trên mà có lẽ ở đây, tất cả những tác phẩm chân chính đều dễ dàng tìm thấy
điều này. Sóng của Xuân Quỳnh là một thực tế điển hình, sóng đề cập đến tình yêu đôi lứa, chính
xác hơn là nói về nỗi niềm thiết tha, cháy bỏng của người phụ nữ trong tình yêu. Cùng viết về
tình yêu rạo rực của tuổi trẻ, về nỗi nhớ đau đáu khôn nguôi, trong cao dao, dân ca đã có rất nhiều.
Bởi vậy nếu chọn cách thể hiện tương tự xuân Quỳnh sẽ thất bại trong việc lấy được điểm nhìn thu
hút của độc giả và nhà thơ cần một sự lựa chọn độc đáo hơn, một hình tượng mới mẻ hoàn toàn. Vậy
là hình tượng con sóng với sự đồng điệu thú vị như tâm hồn của tuổi trẻ đã ra đời, có thể nói với
“Sóng” của Xuân Quỳnh đã lấy độc giả, lấy những đòi hỏi được đọc những gì mới lạ của độc giả
làm sống động để sáng tạo. Vậy là người viết không nhiều thì ít cũng đã đặt thị hiếu của người
đọc lên đầu ngòi bút sáng tác, có thể coi đây là sự liên kết đầu tiên của người đọc với người viết
“sóng”.
Thứ hai đến với “sóng”, người đọc sẽ đắm chìm vào cái rạo rực, nhớ thương của người con gái đang
yêu, qua đó thấu hiểu phần nào những tâm tư tình cảm trong con người nhà thơ, hoặc phát hiện ra
tư tưởng, tình cảm của nhà thơ đồng cảm với cảm xúc của riêng nhà thơ, ví như trong sóng có đoạn
Xuân Quỳnh viết.
“Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng
nhỏ, Giữa biển lớn tình yêu,
Để ngàn năm còn vỗ”.
Những câu thơ thể hiện nỗi niềm muốn được vượt thoát khỏi mọi ràng buộc để hòa quyện và bất
tử với tình yêu của người con gái, mong muốn như những con sóng kia vô tư, vô lo, thỏa sức yêu,
yêu, yêu mãi, yêu mãi tới ngàn năm. Những câu thơ ứa ra từ ngòi bút của Xuân Quỳnh cho thấy
người con gái với Xuân Quỳnh tình yêu trên hết là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao
và để được viên mãn trong tình yêu người ta cần vượt qua thách thức, phá tan mọi ràng buộc sự
hữu hạn của đời người. Tất cả những tâm tư, tình cảm đó của nhà thơ khi đọc xong, người đọc đều
hiểu, đều dễ dàng nhận thấy và đồng cảm. Mỗi độc giả yêu thích “sóng” có lẽ đều là một tri ân
của Xuân Quỳnh, mối tương quan và gắn bó giữa người cầm bút và người đọc “sóng”, càng không
cần bàn cãi.
Viết sóng nhiều đoạn Xuân Quỳnh chỉ gợi nỗi nhớ tình yêu, tâm trạng nhân vật không hiện lên trực
tiếp đòi hỏi không ai khác mà chính người đọc phải tự mày mò và “nhen”, để “tro” bùng thành
“lửa cháy”, sáng rõ và mang tầm triết cao. Giả sử như.
“Dẫu sôi về phương Bắc, dẫu ngược về phương
Nam, nơi nào em cũng nghĩ, hướng về anh một
phương”.
Câu thơ đầu đơn thuần chỉ là nỗi nhớ khắc khoải về anh mà qua cách vận dụng đầy sáng tạo cặp
từ đối ngược “xuôi bắc”, “ngược Nam” ý thơ còn nhấn mạnh cuộc đời vốn dĩ có quá nhiều trái
ngang, nhiều chuyện chẳng hề tuân theo lẽ thường nhưng chỉ cần có anh là đủ. Ngoài anh ra mọi
thứ vốn dĩ đã không còn quá quan trọng, hiểu được điều này độc giả buộc phải thâm nhập vào
chiều sâu của tác phẩm, buộc phải dùng cả trái tim và khối óc để giải mã giải mã được điều này,
cũng tức nghĩa là độc giả của “sóng” thực sự đã “nhen” thành công ngọn lửa ẩn sâu trong lớp
ngôn từ của Xuân Quỳnh. Vậy lại một lần nữa, cái khăng khít trong mối quan hệ của độc giả và tác
giả được đính chính.
Ngoài “sóng” ra “Tây Tiến” của Quang Dũng cũng là một tác phẩm bộc lộ rất nhiều khía cạnh của
mối quan hệ giữa độc giả và tác giả. Đầu tiên với “Tây Tiến”, Quang Dũng viết về nỗi nhớ của chính
bản thân mình, vậy nên những dòng thơ trôi chảy trong Tây Tiến là những dòng cảm xúc thực của
chính tác giả, người đọc, đọc tác phẩm cũng có nghĩa là đang chia sẻ với nỗi nhớ da diết của Quang
Dũng, đọc càng nhiều sự quyện hòa giữa linh hồn độc giả với tâm tư tình cảm càng đạt đỉnh cao.
Như thế lúc này hai mà như một, cẻ độc giả và tác giả đều thụ cảm trên cùng một mạch thơ đó
chẳng phải là “sâu thẳm mình”, “lại là ta đó ư”, điều này được chứng minh rất rõ qua đoạn thơ.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, Quân xanh màu lá
dữ oai hùng”, “Rải rác biên cương mồ viễn xứ, Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh, Áo bào thay chiếu anh về
đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Những câu thơ đã tái hiện hình ảnh những người lính Tây Tiến, trong khó khăn, vất vả đối mặt với
thử thách tàn khốc của chiến tranh, có người trong số đó đã vĩnh viễn hi sinh khi ra đi đến cả mảnh
chiếu trên thân cũng không có, nhưng đối với Quang Dũng lúc này họ như được khoác lên mình
tấm chiến bào uy lực, lên đường trong khúc tráng ca của sông núi, về với đất mẹ bao la. Bút Quang
Dũng tới đây như nghẹn lại, vừa rưng rưng, đau xót, thương tâm trước sự thật bi thảm của đồng
đội, vừa tràn đầy bội phục, kính ngưỡng trước độ bình thản của những anh hùng Tây Tiến. Song
song với dòng cảm xúc ấy độc giả của Tây Tiến cho dù chưa từng tận mắt chứng kiến như tác giả.
Những ai đọc Tây Tiến mà không thổn thức trước tình cảm bi thương, khó khăn của người lính
Tây Tiến, ai mà không tràn đầy lòng khâm phục, tôn vinh Họ. Vậy là qua tác phẩm độc giả làm
sống dậy những điều mà tác giả muốn thấu hiểu và
đồng điệu với tâm hồn Quang Dũng, hiểu hết những góc cạch từ đau thương tới bội phục ẩn sâu
dưới lớp ngôn từ trong Tây Tiến.
Chưa hết với Tây Tiến, người đọc thực thụ còn có thể đi vào chiều sâu và mạch cảm xúc của tác
phẩm mà phát triển, tư duy, thỏa sức khám phá những điểm mới lạ mà kể cả Quang Dũng có
khi cũng chưa từng nghĩ đến.
“Doanh trại bùng lên hội đuốc hoa, Kìa em xiêm áo từ
bao giờ,
Khèn lên man điệu nàng e ấp, Nhạc về Viên Chăn xây
hồn thơ”.
Vì không trực tiếp tạo ra các phẩm, nên tư duy của người đọc không bị o ép về giới hạn sáng tạo,
sáng tạo ở đây được hiểu là phát triển, mở rộng và phát triển ý thơ dựa trên mặt ngôn từ của tác giả.
Thế nhưng trong đoạn thơ trên “đuốc hoa” vừa có thể là đuốc lửa sáng như hoa, vừa có thể hiểu là
doanh trại có cả đuốc lẫn hoa lung linh mỹ lệ hay như chi tiết “nàng e ấp”, mối độc giả hoàn toàn
có thể hiểu theo một nghĩa khác nhau, nàng là những cô gái miền núi, cũng có thể là Đoàn văn
công phục vụ cách mạng, thậm chí có độc giả còn nghĩ đó phải chăng là hình ảnh hài hước khi
những người lính Tây Tiến giả gái góp vui cho đêm hội. Như vậy từ cùng một câu thơ, hình ảnh thơ
mỗi người đọc đều hiểu theo một cách rất khác nhau song đều được quy ra từ bài thơ của toàn bài,
nên điều rất hợp lý thú vị lúc viết Tây Tiến chưa chắc Quang Dũng nghĩ chu toàn được hết mọi
khía cạnh như vậy. Độc giả của Tây Tiến đã làm mới, làm hay, làm phong phú tinh thần của bài
thơ một cách rất tài tình, có thể hiểu được độc giả đã cùng Quang Dũng sáng tạo giá trị nội dung và
nghệ thuật cho tác phẩm.
Như vậy qua hai tác phẩm Sóng và Tây Tiến có thể thấy quan niệm của Chế Lan Viên rất phù hợp
và sâu sắc với thời đại, chỉ rõ được mối tương quan giữa người đọc tác phẩm và người viết tác
phẩm. Nếu người sáng tác ra tác phẩm sinh mệnh thì người đọc là người tiếp thêm sinh khí để tác
phẩm sống được trong nhân gian, không có tác giả người đọc biết tìm những vui, những buồn,
những bồi hồi, những rung động kia ở đâu. Không có độc giả ai là người đồng cảm với tác giả,
cùng tác giả nối dài cuộc sống cho những câu thơ, những bài văn, ai sẽ là người giúp cho tác giả
nhìn nhận tác phẩm một cách đa chiều đây. Không, không! điều đó không thể xảy ra vì vốn dĩ họ
không thể tách rời nhau.
Tóm lại chúng ta hoàn toàn đồng ý với Chế Lan Viên, nhưng cũng cần nói thêm rằng để mối quan
hệ nói trên thực sự bền chặt, mỗi tác giả trước khi đặt bút viết cần phải biết hướng ngòi bút, nghĩ
tới đối tượng của tác phẩm, để nội dung tác phẩm thực sự làm hài lòng, làm say lòng và tạo cảm
ứng chiều sâu kích thích tính đồng sáng tạo của độc giả. Tương tự như vậy chính bản thân độc giả
cũng cần rèn luyện tính kiên trì, tư duy với tác phẩm chỉ có vậy mới mong hiểu, lĩnh hội hết được
cái tâm tư, tình cảm mà tác phẩm muốn bộc lộ. Chỉ có vậy mới không phụ lòng người cầm bút, thơ
ca, văn học của nhân loại có thực sự là đỉnh cao của nghệ thuật hay không? phụ thuộc vào chính
“ta” với “mình”, tác giả và độc giả của hôm nay và mai sau./.
Bài văn 12 :
So sánh phong cách viết kí của Nguyễn Tuân trong Người lái đò sông Đà với Hoàng Phủ Ngọc
Tường trong Ai đã đă ̣t tên cho dòng sông.
Bài làm.
Trong thế giới văn chương, dường như phong cách đã trở thành một yếu tố không thể thiếu để
khẳng định tên tuổi của mỗi nhà văn. Nhà văn càng tạo được phong cách riêng độc đáo thì dấu ấn
mà họ để lại trong lòng độc giả càng sâu sắc điều này lại càng có ý nghĩa to lớn hơn bao giờ hết. Có
lẽ vậy mà không ít người đã đặt Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường cùng một cán cân để bình
xét và so sánh về phong cách viết kí của họ. Ta hãy cùng khám phá điều này qua hai bài kí nổi tiếng
Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc
Tường.
Vậy phong cách của một tác giả là gì? và tại sao phong cách lại quan trọng với một tác giả tới vậy?
Xin thưa rằng phong cách của một nhà thơ chân chính là nét riêng biệt độc đáo của nhà văn trong
quá trình nhận xét và phản ánh cuộc sống thể hiện thông qua tất cả các yếu tố trong tác phẩm từ nội
dung đến hình thức. Phong cách riêng rất quan trọng bởi vì cái riêng ấy mới tạo được cái tôi vững
chắc của nhà văn trong lòng độc giả không có phong cách sáng tác nhà văn dễ bị quên lãng và hư
vô .Đặc Biệt cũng xin nói thêm rằng đối với thể ký phong cách của người cầm bút có phần hơi
khác so với các thể loại khác . Bởi ký là trần thuật người thật việc thật. Thế nên việc tác giả sáng
tạo hay tạo dấu ấn lại càng trở thành một vấn đề nan giải khi buộc phải đáp ứng được yêu cầu hiện
thực này . Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Tuân đã làm xuất sắc điều này, vừa cân bằng được
nét đẹp của thế ký vừa phong cách hóa tác phẩm theo cách riêng của mình.
Đầu tiên chúng ta hãy cùng làm rõ phong cách viết kí của Nguyễn Tuân qua Người lái đò sông đà
như ta đã biết nhắc đến Nguyễn Tuân là người ta nhắc đến người thợ kim hoàn của tiếng Việt hay
một bậc thầy về quan niệm thẩm mỹ hay một Anh Tài với vốn ngôn từ không tưởng. Vâng và tất
cả những điều nói trên được Nguyễn Tuân bộc lộ đầy đủ qua Người lái đò sông Đà một cách không
thể thuyết phục hơn.
Thứ nhất người lái đò sông đà đã phản ánh đúng chất quan niệm nghệ thuật của Nguyễn
Tuân, luôn khám phá vạn vật ở góc độ văn hóa, thẩm mỹ, khám phá con người ở góc độ tài hoa
nghệ sĩ. Có thể thấy vào bàn tay nghệ sĩ của Nguyễn Tuân sông Đà không còn chỉ là một dòng chảy
vô tri, vô giác mà hiện lên sống động như một sinh thể và hơn thế nữa trong con mắt của Nguyễn
Tuân sông Đà từ bao giờ đã trở thành một con người với đủ mọi cung bậc cảm xúc khác nhau từ vui,
buồn, yêu, ghét, đến giận hờn, oán trách, van xin, nhung nhớ, buổi hồi, “tiếng thác nước nghe như là
oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gần mà chế nhạo”. Phải vậy
chăng, mà kí của Nguyễn Tuân vẫn thực đấy nhưng, vẫn rất nghệ thuật, đậm chất văn chương. Đó
là đối với con sông, còn đối với con người ký của Nguyễn Tuân tập trung khai thác ở góc độ tài
hoa, nghệ sĩ dễ thấy trong suốt hành trình con người vượt thác sông đà, con người qua ngòi bút
của Nguyễn Tuân trở nên vô cùng phi thường, hùng tráng. Đâu phải chỉ có những ai hoạt động
trong lĩnh vực nghệ thuật mới làm nghệ thuật được đâu. Người lái đò sông Đà trong tác phẩm
cũng ngời ngời vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tay lái ra hoa xứng đáng là một nhà nghệ thuật lớn.
Trong bối cảnh Người lái đò
sông đà phải đối diện và chiến đấu với con thủy quái đang điên cuồng gào thét, hồng hộc thế mạnh
như hùm beo mà vẫn giữ bình tĩnh, mà không một chút sợ hãi, nao núng thì còn gì tuyệt vời hơn.
Khéo léo đặt con người vào tình huống gây cấn, nhà văn đại tài Người lái đò bộc lộ những gì tài
hoa nhất, trắc Việt nhất, nghệ thuật nhất trước mắt độc giả. Các phong cách viết kí vừa thấm nhuần
người thực, việc thực, vừa chuyển giao nghệ thuật điêu nghệ thế này không của Nguyễn Tuân thì của
ai được.
Thứ hai phong cách viết của Nguyễn Tuân trong Người lái đò sông Đà còn là tài sử dụng ngôn
ngữ rất linh hoạt, khéo léo, đa sắc thái biểu cảm. Phải nói rằng ngôn từ và vị trí của ngôn từ trong
Người lái đò sông Đà được tính toán và sắp xếp một cách thần diệu, nó chuẩn xác tới độ mà ta
mường tượng như nếu thay đổi bất cứ một từ nào hay sửa lại một vài câu chữ thì văn phong sẽ kém
tinh tế, chưa hết Nguyễn Tuân có cách thiết lập ngôn ngữ thật đáng nể, kết cấu câu trùng điệp:
“nước sô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, kết hợp với cách miêu tả không trùng lập đã diễn tả xuất
thần, từng khung cảnh ấn tượng của giàn thạch trận dưới sông, cũng như tư thế hiên ngang của
Người Lái Đò Sông Đà. Thậm chí người ta đã thống kê được khoảng 300 động từ khác nhau
trong bài kí này, điều đó cho thấy bút lực phi phàm của nhà văn cũng như sự phong phú, đa dạng
về cả ý nghĩa lẫn sắc thái của ngôn từ trong Người lái đò sông Đà. Nói vậy cũng có nghĩa là chính
nhờ số lượng khủng và sự chịu khó đầu tư công phu mà người đọc có lẽ khó có thể quên được, khi
đọc bài kí này.
Thứ ba, Người lái đò sông Đà còn cho thấy phong cách viết kí vô cùng sắc sảo của Nguyễn
Tuân, khi huy động tổng lực kiến thức của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, mà đầu tiên phải kể tới là
quân sự . “Một thằng trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên trước
khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thế có giỏi thì tiến gần vào”, rồi về
thể thao nước bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”, về lịch sử, địa
lý “có vách đá chẹt lòng sông như muốn cái yết hầu”, về điện ảnh “cái thuyền xoay tít những thước
phim cũng xoay tít... khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy, cả người quay phim, cả người
đang xem”. Đọc “Người lái đò sông Đà”, chính bởi phạm trù kiến thức rộng lớn như vậy, nên ta bị
cuốn theo mạch ký tới mức không dứt ra được. Hơn thế nữa Nguyễn Tuân đã phá tan mọi giới hạn,
mở rộng trường liền tưởng, phong phú liên thông hoàn toàn giữa các lĩnh vực của đời sống, khiến
hình dung của độc giả trở nên thông thoáng, phóng khoáng nhưng lại rất đỗi nghệ thuật. Phong
cách viết kí của Nguyễn Tuân, một lần nữa chinh phục hoàn toàn bạn đọc.
Thứ tư phong cách Nguyễn Tuân đa dạng, độc đáo là thế, vậy làm sao hiểu được chút “ngọt”, chút
“thơ” của nghệ thuật. Đọc “Người lái đò sông đà” có những trang văn độc giả như nín thở trước
vẻ đẹp thanh nhã, cao khiết, tinh tế của cảnh vật. Nào là sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban, hoa gạo tháng 2 và
cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”, nào là “tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu Yên
hoa tam nguyệt hóa dương châu”, hay như “Cỏ xanh đồi núi đang ra những non búp. Một đàn hươu
cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm xương đêm. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa”.
Trời ạ sao mà ngôn ngữ và văn phong của Nguyễn Tuân có thể mơ mộng, trữ tình tới như vậy.
Đọc những câu văn thấm đậm chất thơ như thế
này, thì tâm hồn nào mà chịu nổi khỏi chút thổn thức vấn vương. Bài ký như trùng lại ở những trích
đoạn thế này, đó, ký đâu có nghĩa là ghi chép khô khan, nhàm chán, kí đối với Nguyễn Tuân là
vừa ghi nhận thực tế, vừa cảm nhận có một cách rất riêng. Tới đây không thể phủ nhận gì nữa, chất
trữ tình quyện hòa trong ngòi bút Nguyễn Tuân làm nên dư vị thật khó quên cho người lái đò sông
Đà. Văn phong của Nguyễn Tuân được làm sáng tỏ từ đây, phong cách ấy độc đáo cũng từ đây mà
được định hình.
Ai đã đặt tên cho dòng sông quy tụ đầy đủ những tinh hoa trong gòi bút viết kí của Hoàng Phủ
Ngọc Tường từ nội dung đến hình thức nghệ thuật.
Trước hết cần khẳng định rằng đây thực là một bài Ký có sự hòa quyện hài hòa giữa chất trí tuệ
và chất thơ. Nói “Ai đã đặt tên cho dòng sông” sở hữu vẻ đẹp của trí tuệ, bởi trong suốt những trang
văn của bài kí người đọc như lạc vào dòng trí thức miên man của thể loại kí về dòng sông Hương
gắn liền với xứ Huế thân thương. Ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường có khả năng huy động kiến
thức từ nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống, để làm sáng tỏ vẻ đẹp của sông Hương. Đọc ký của
Hoàng Phủ Ngọc Tường người đọc rất tự nhiên, được tiếp thêm những thông tin tri thức, khách
quan về thủy trình của sông Hương, suốt từ vùng thượng nguồn. “Nó đã là một bản trường ca
của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây bạt ngàn, mãnh liệt qua những nghềnh khác, cuộn xoáy như
cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, tới khi sông Hương lộ vẻ yêu kiều, thì về đồng bằng sông
Hương đã chuyển động một cách liên tục, khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong
thật mềm. Khi sông Hương thẹn thùng khi vào giữa lòng thành phố Huế, “kéo một nét thẳng thực
yên tâm theo hướng Tây Nam, Đông Bắc”, sau đó đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây
để gặp lại thành phố ở góc trấn Bảo Vinh cổ xưa”. Nhưng tri thức trong ký của nhà văn lồng ghép tự
nhiên, phù hợp với mạch ký trở nên hài hòa, đậm nét trí tuệ. Chưa hết Hoàng Phủ Ngọc Tường còn
cung cấp cho người những tri thức về lịch sử của dòng sông, qua mạch văn rất nhuần nhị. Thì ra
Hương không chỉ “nhu mì hiền thục” và còn trở thành một chứng minh lịch sử mang theo khí
phách hào hùng của một thời oanh liệt. Đây, chính là nơi đây đã phải chịu biết bao tổn thương suốt
những năm tháng kháng chiến, dòng sông quanh co, uốn lượn lai đang oằn mình vì đau thương.
Bất giác đọc những trích đoạn như thế này người đọc như cảm nhận, hình dung ra cả một thời lịch
sử huy hoàng. Thế mới nói chất trí tuệ như đọng trên từng dòng ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Nhưng hay là ở chỗ Hoàng Phủ Ngọc Tường đem đến cho “Ai đã đặt tên cho dòng sông” không
chỉ là vốn tri thức, mà còn là chất trữ tình miên man trong giọng văn tinh tế hướng nội. Có thể nói
ngoại trừ khi miêu tả về dòng sông Hương phía thượng nguồn, thì trong cả bài kí không có một
câu nào là vội vã, mãnh liệt, gào thét, giọng điệu của Hoàng Phủ Ngọc Tường thực rất nhẹ nhàng,
nho nhã, thanh tao. “Người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng
giữa cánh đồng châu hóa đầy hoa dại”. Cũng chính nhờ chút ngọt thanh, thơ mộng này đan xen
với vốn hiểu biết phong phú của tác giả, mà ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm được chỗ đứng
riêng trong nền văn học Việt Nam.
Thứ hai ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường có sự kết hợp hài hòa giữa chất nghị luận sắc bén và chất
suy tư đa chiều, để ý sẽ thấy ngay trong suốt bài ký tác giả gọi Sông Hương bằng rất nhiều cái tên
như “Bản trường ca của rừng già, cô gái di gan man dại và phóng khoáng,
người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở, người tài nữ đánh đàn khúc đêm khuya”, điều đáng
nói là cứ sau mỗi lần định nghĩa Hoàng Phủ Ngọc Tường ngay lập tức lý giải nguyên nhân, tại
sao khiến luận điểm bài kí được làm sáng tỏ ngay trong quá trình người đọc tiếp nhận tri thức. Chất
nghị luận sắc bén là vậy, còn thế nào là suy tư đa chiều cần phải hiểu rằng tác giả “Ai đã đặt tên
cho dòng sông” nhìn sông Hương dưới rất nhiều góc độ khác nhau, lịch sử, địa lý, âm nhạc, văn
hóa, thi ca trên Sông Hương hiện lên rất cụ thể, sống thực, tỏa sáng ở nhiều khía cạnh. Bởi vậy
nhận định “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, là một tác phẩm kí có sự kết hợp tài tình giữa nghị luận
sắc bén và suy tư đa chiều là hoàn toàn đúng đắn.
Cuối cùng ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường còn hút hồn độc giả bởi chính hình thức nghệ thuật
độc đáo, nhờ sử dụng đa dạng các biện pháp nghệ thuật, đặc biệt hai biện pháp nghệ thuật nhân
hóa, so sánh được tác giả vận dụng một cách triệt để và kết quả là sông Hương hiện lên giống
như một con người hay đúng hơn là một kiều nữ e thẹn, dịu dàng, duyên dáng, “từ đây như đã tìm
đúng đường về sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim
Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam, Đông Bắc”. Hay như chi tiết Hoàng
Phủ Ngọc Tường so sánh dòng chảy của sông Hương với dòng chảy của sông Phủ để làm nổi bật
điểm khác biệt hút hồn rất con người của sông Hương và hàng loạt những yếu tố khác. Câu phức
giọng điệu, cách miêu tả trùng lập cũng đóng vai trò không nhỏ trong việc khẳng định chất kí đặc
sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Nhìn chung cả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường khi đặt bút viết kí đều ý tưởng được
yêu cầu của thể kí, người thực, việc thực. Thêm vào đó, để gia công thêm cho tác phẩm của mình,
cả hai nhà văn đều huy động tổng lực vốn ngôn ngữ đồ số, kết hợp kiến thức của nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực. Chưa hết dù đã viết về hai con sông hoàn toàn khác nhau nhưng cả Nguyễn Tuân
và Hoàng Phủ Ngọc Tường đều không bỏ qua góc nhìn trữ tình, thơ mộng. Có vẻ như đây là chút
rung động đặc thù của người làm nghệ thuật, thấy cảnh sinh tình, thấy đẹp mà si mê, ý vị tình từ
dòng chảy của cảm xúc mà ra, làm sao mà ăn cho được. Đan xen những biện pháp nghệ thuật được
lồng ghép vào hai bài kí một cách khéo léo, tinh vi càng như lôi cuốn hấp dẫn người đọc. Giống
nhau đó, nhưng ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Tuân lại không thể gộp chung là một,
vì sao vậy? đơn giản vì hai tác giả còn có những điểm sáng riêng được thể hiện theo một cách rất
riêng. Nguyễn Tuân lập luận, khai thác nét đẹp của con người bằng phương diện thẩm mỹ nghệ
thuật, tác giả khám phá và đặt ở góc độ văn hóa thanh tao khiến cho bài kí hiện lên đẹp đẽ, thấm
đẫm văn phong nghệ thuật.Trong bài kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường ,người ta kính phục cái sắc bén
của lập luận và cái nhẹ nhàng êm đềm lãng tử . Ai đã đặt tên cho dòng sông có cái chính xác của
khoa học lại có cái thơ mộng trữ tình của con tim , có cái phóng khoáng man dại của Phương Tây
có nét dịu dàng của Phương Đông. Chính điều này làm cho cả hai nhà văn đều tạo dựng được
phong cách riêng không thể lẫn lộn trong lòng bạn đọc biết bao thế hệ qua.
Như vậy để tạo lập được phong cách cá nhân mỗi tác giả buộc phải lựa chọn cho mình một cách thể
hiện mới mẻ, hài hòa về nội dung và hình thức. Đây không còn là một vấn đề mang tính lý luận
nữa, mà có thể nói đây là vấn đề sống còn của mỗi cây bút. Nếu muốn tồn tại, làm xuất sắc, hoàn
hảo điều này Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường xứng đáng là
những bậc thầy của thế kỉ. Quay lại câu hỏi ban đầu bạn nghĩ Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc
Tường ai có phong cách viết kí tuyệt vời hơn, có lẽ thật khó để tìm ra được câu trả lời khi mà cả
hai đều xuất sắc tới vậy.
Tóm lại, một lần nữa ta trân trọng những đóng góp mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng như Nguyễn
Tuân đã cống hiến cho thể ký nói riêng, cho văn học Việt Nam nói chung. Không có họ người đọc
chẳng thể nào được thưởng thức những tác phẩm tuyệt vời về cả nội dung lẫn hình thức như vậy,
đồng thời chính sự thành công này của hai nhà văn đã tạo ra một vấn đề lớn lao. Viết văn nhất
định phải có phong cách riêng, sức sáng tạo dồi dào, vốn ngôn từ phong phú, khả năng thụ cảm tinh
tế và quan trọng nhất là một trái tim yêu nghệ thuật chân thành
Bài văn 13
Có ý kiến cho rằng “phong cách văn học biểu hiện trước hết ở cách nhìn, cách cảm thụ có tính
chất khám phá ở giọng điệu riêng biệt của tác giả”.
Bằng viêc̣ phân tích tùy bút Người lái đò sông Đà, hãy chứng minh nhận định trên.
Bài làm.
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy đòi hỏi người sáng tác phải tạo được cho mình nét
riêng biệt, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình. Tức là tác giả phải tạo cho mình một phong
cách sáng tác, nó chính là phương tiện để ta nhận diện được từng gương mặt tác giả những điều độc
đáo không thể chối lẫn ở họ. Bởi vậy mà phong cách được biểu hiện qua rất nhiều yếu tố, bàn về
vấn đề này có ý kiến cho rằng “phong cách văn học biểu hiện trước hết ở cách nhìn, cách cảm thụ có
tính chất khám phá ở giọng điệu riêng biệt của tác giả”. Đây là một nhận định vô cùng đúng đắn, là
kim chỉ nam cho quá trình sáng tác của mỗi tác giả mà có lẽ Nguyễn Tuân với “người lái đò sông
Đà” chính là một tiêu biểu cho ý kiến này.
Thật vậy, phong cách là cái còn lại từ nhà văn khi chúng ta bị bóc đi những cái không phải của bản
thân anh ta, và tất cả những cái anh ta giống người khác. Dòng chảy của cuộc sống không bao giờ
lặp lại, văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống nên nó không thể sống phản chiếu. Vì những
yếu tố mới mẻ đó, nhà văn phải có phong cách bởi lẽ bản chất của văn học là sự sáng tạo sự sáng,
tạo chính là yếu tố làm nên sự hấp dẫn, sức sống lâu bền của văn học. Bởi vậy để làm nên phong
cách không phải chuyện dễ dàng mà phải trải qua sự rèn luyện tìm kiếm, quan sát tỉ mỉ mà thành
quả chính là những biểu hiện của phong cách nghệ thuật, được thể hiện ở cách lựa chọn chủ đề,
đề tài. Để có được điều đó thì đòi hỏi tác giả phải có cách nhìn, cách cảm thụ, có tính chất khám
phá ở giọng điệu riêng biệt của tác giả. Tức là nhà văn phải tìm hiểu, quan sát sự vật, sự việc dưới
con mắt riêng biệt của mình và cảm nhận nó rung lên những rung cảm mãnh liệt, thúc đẩy ý thức,
tìm kiếm, khai thác, khai phá đi sâu vào trong vấn đề rồi từ đó thu nhập dữ liệu, dùng giọng văn,
ngồi bút độc đáo của mình để thể hiện cái mới lạ đó.
Nguyễn Tuân chính là một tiêu biểu cho phong cách văn học đó, ông là người uyên bác, tài hoa
không quá nhọc nhằn để cố gắng quan sát, tìm tòi, khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú
bạn bè nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động lòng người nhất,
mà cách thể hiện con sông Đà trong “Người lái đò sông Đà” là minh chứng cho điều đó. Trước
hết phong cách nghệ thuật của ông thể hiện qua cách khám phá vạn
vật ở góc độ văn hóa, thẩm mỹ. Dưới sự quan sát của Nguyễn Tuân sông đà không còn là một vật vô
tri, vô giác, hay một hình tượng thiên nhiên thuần túy, mà hiện lên giống một con người với hai nét
tính cách trái ngược nhau, vừa hung bạo, lại vừa trữ tình. Khi sông Đà hung bạo, nó trở thành kẻ
thù số một của con người, và lúc nào cũng làm mình, làm mẩy, giận dữ vô tội vạ với người lái đò
sông Đà. Nhưng đây chính là một nét đẹp của sông Đà, bởi lẽ sự hung bạo đó mới làm nên giá trị
thực sự của con sông, với những chiếc tuốc bin thủy điện hàng ngày phục vụ cuộc sống của con
người. Ngược lại khi sông Đà trữ tình thì nó lại biến thành một người con gái đẹp, với mái tóc dài,
óng ả, mượt mà đầy lãng mạng, nữ tính góp phần làm đẹp tô điểm cho mảnh trời Tây Bắc. Sông Đà
chân dài như một ăng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa
ban, hoa gạo tháng 2 và cuồn cuộn khối Núi mèo đốt nương.
Nếu như không có sự quan sát, tinh tế, tỉ mỉ thì Nguyễn Tuân không thể có cái nhìn về cảnh vật
cũng như đường đi của con sông Đà được. Đến với cảnh cách đá hai bên bờ sông, người đọc bắt
gặp khung cảnh vừa cao, lại vừa hẹp, dựng vách thành che khuất mọi ánh sáng mặt trời từ lúc
Bính Ngọ chợt lòng sống như cái yết hầu con nai con hổ và từ bên này sang bên kia lại đang xem
với sự lạnh lẽo âm u Đang mùa hè cũng cảm thấy lạnh rồi lại quảng mặt gần hát Nóng giày hàng
trăm cây số với lưu tốc của dòng chảy cực lớn nước sóng đá gió như xô đẩy nhau vừa như Hiệp
sức với nhau khiến cho cả luồng sóng như đăng dội lên cuộn chảy giữ dần “nước sô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió cuồn cuộn, luồng gió gầm ghê suốt năm như để nợ suýt bất cứ người lái đò sông Đà
nào qua đây”. Những hút nước sông Đà ở quảng ta Mường Lát sâu hẹp xoáy tiếp đấy Giống như
cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống
cái bi sặc, ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”... Thác nước sông Đà được tác giả quan sát từ xa đến
gần, sự hung dữ của con sông đã được thể hiện qua tiếng thác nước, âm thanh đó đã được nhân hóa
trở thành tiếng nói của một kẻ nham hiển, tráo trở, lúc thì như oán trách, lúc lại như là van xin, lúc
lại giọng gầm mà chế nhạo. Không những thế âm thanh của tiếng thác nước còn được động vật
hóa thành tiếng giống của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng sâu rừng tre nứa nổi
lửa, đang phá rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng tất cả những điều
đó đã diễn tả một con sông hung bạo một cách chi tiết tưởng tận mà ít có nhà văn nhà thơ nào làm
được hai cái nhìn sắc bén còn thể hiện qua cách cảm nhận con sông đà trữ tình thơ mộng của
Nguyễn Tuân từ trên máy bay có lúc Sông Đà giống như cái sợi dây thừng ngoằn nghèo khi hạ
Dần xuống lại thấy nó giống như một ảnh tóc trữ tình thiết tha mềm mại số nhà duyên dáng mái tóc
ấy được điểm tô Bởi màu trắng của hoa ban màu đỏ của hoa gạo ẩn hiện trong không gian khói
sương mờ ảo của đất trời Tây Bắc một vẻ đẹp thật Huyền Ảo lãng mạn không chỉ dừng lại ở đó
Nhà văn còn quan sát sông Đà trong nhiều khoảng thời gian khác nhau và nhận ra được nước sông
thay đổi theo mùa mùa xuân xanh, màu xanh ngọc bích “mùa xuân đồng xanh ngọc bích” chứ Nước
sông Đà không sang màu xanh cánh hến của sông gấm sông Lê, mùa thu Nước sông Đà lừ lừ chín
đỏ như da mặt một người mãn, bực bội gì mỗi độ thu về”.
Xong phong cách riêng biệt của Nguyễn Tuân không chỉ thể hiện ở cách nhìn, cách cảm thụ và còn
ở cả giọng điệu của tác giả. Và phương tiện chính là tài năng sử dụng ngôn ngữ của
mình, ngôn ngữ trong tác phẩm của Nguyễn Tuân không những vô cùng phong phú, đa dạng kết
hợp với vốn tri thức nhiều ngành, nhiều nghề mà còn sử dụng động từ mạnh. Ông có khả năng đặc
biệt về chơi động từ thông qua việc phát huy tối đa hiệu quả của những động từ mạnh, mà theo
thống kê sơ bộ xuyên suốt tác phẩm “Người lái đò sông Đà”, nhà văn đã dùng trên dưới 300 động
từ. Nhất là khi miêu tả sự hung bạo, nham hiểm của con sông đà hung dữ của Nguyễn Tuân rất giàu
hình ảnh, đa dạng về ngữ điệu, giọng điệu giúp người đọc cảm nhận được cái nhìn đa chiều, những
rung cảm mãnh liệt của nhà văn trước con sông đà. Kết hợp với những câu văn có cấu trúc trùng
điệp, sử dụng từ ngữ trong cùng một trường liên tưởng chia thành nhiều vế liên tục vừa góp phần
tái hiện vẻ đẹp của sông Đà.
Tóm lại tùy bút của Nguyễn Tuân rất gần với ký và đậm đà yếu tố hiện thực, từ đó thấy được cái
nhìn tinh tế, cặn kẽ và vốn tri thức của ông đã tạo nên một nét riêng biệt trong phong cách mà chỉ
Nguyễn Tuân mới có. Có thể nói một dòng sông Đà chảy qua mảnh đất tây bắc xa xôi của tổ quốc,
với những vẻ đẹp phong phú, đa dạng thì cũng có một dòng sông chỉ chảy vào trang văn của
Nguyễn Tuân, gây ấn tượng mạnh đến với độc giả. Đồng thời, góp phần làm phong phú thêm nền
văn học của dân tộc.
Như vậy phong cách văn học biểu hiện trước hết ở cách nhìn, cách cảm thụ có tính chất khám phá ở
giọng điệu riêng biệt của tác giả, là một ý kiến hoàn toàn đúng đắn. Qua đây thấy được nhiệm vụ
của mỗi nhà văn phải luôn tìm tòi, sáng tạo trâu dồi vốn kiến thức ngôn ngữ, để tạo cho mình một
phong cách riêng biệt, không thể trộn lẫn. Đồng thời độc giả cũng phải học hỏi, tiếp xúc để trở
thành bạn người đồng sáng tác với tác giả, thấu hiểu tâm tư, tình cảm mà nhà văn muốn gửi gắm
vào tác phẩm./.

Bài băn 14
Có ý kiến cho rằng “kí là trần thuật người thật, việc thật”, ý kiến của anh chị về quan
niêm ̣ này? Bằng viêc̣ phân tích mô ̣t tác phẩm văn học lớp 12 hãy bình luâ ̣n ý kiến trên.
Bài làm.
Nếu như coi văn học là một cây đại thụ, thì có lẽ mỗi một loại văn học sẽ được coi như một
nhánh của cây đại thụ ấy. Điều đó được nói ở đây là mỗi nhánh cây ấy lại không hề giống nhau,
tức là mỗi thể loại văn học khác nhau lại có những đặc điểm rất khác nhau. Thơ lôi cuốn người ta
bởi ngôn ngữ hàm súc, hình ảnh độc đáo, cảm xúc chân thành, truyện cuốn hút độc giả bởi chất
tự sự thấm đẫm vị nhân văn, kịch khiến khán giả đứng ngồi không yên vì những tình tiết mâu
thuẫn đến nín thở. Vậy có bao giờ bạn đặt câu hỏi đặc trưng nổi bật của kí là gì? Trả lời cho câu
hỏi này, có ý kiến cho rằng kí là trần thuật “Người thật, việc thật”, liệu ta nên hiểu ý kiến trên
như thế nào. Hãy cùng tôi đi tìm hiểu.
Đầu tiên cần hiểu kí là một thể loại văn học cụ thể hơn là một thể loại văn xuôi, tự sự. Nói
thế là trần thuật, người thật việc thật là muốn khẳng định tính xác thực rất lớn trong thể loại
này, cũng tức là khẳng định kí có nội dung bám sát vào hiện thực đời sống để đến với những
sự việc mắt thấy, tai nghe chính xác một cách thực sự. Ở một góc độ nào đó, nhận định này gần
như đã đồng nhất kí với những tư liệu lịch sử quý giá phục vụ đời sống con người.
Giải thích về điều này, ta có thể bắt đầu nói từ đặc trưng của thể loại kí, do kí là sự ghi
chép những trải nghiệm của các tác giả về các mắt ghép của cuộc sống. Nêu nội dung của bài
kí luôn luôn đi liền với hiện thực cuộc đời một cách không thể tách rời, hơn thế nữa ký là
một tác phẩm văn học mà vẫn học thì bao giờ cũng hướng ngòi bút đến cuộc sống của con
người và lợi ích của con người đặt lên hàng đầu. Nên đương nhiên kí phải nói đến hiện thực
cái mà phục vụ trực tiếp nhu cầu mong ngóng của độc giả, vậy nên chỉ là trần thuật người
thật, việc thật là không có gì, ý kiến trên đã nêu đúng đặc trưng cơ bản nổi bật nhất của thể
loại kí, đồng thời đề cao vai trò của thể loại kí với cuộc sống khách quan….
Thực tế đã chứng minh hiện thực luôn là một thế mạnh của kí trong việc thu hút
độc giả, mọi thời đại nắm bắt được điểm mấu chốt này mà các tác giả của thế kí đều chú
trọng đặc biệt đến vấn đề người thật, việc thật. Trong các tác phẩm của mình mà tiêu biểu
phải kể đến là Hoàng Phủ Ngọc Tường với “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Đây là bài ký
nổi tiếng viết về sông Hương với văn phong tinh tế, nhẹ nhàng và đương nhiên quy tụ
đậm đà tính hiện thực khách quan. Điều đó được thể hiện xuyên suốt tác phẩm, từ việc tác
giả đặc tả thủy trình của dòng sông, đến việc cung cấp tri thức lịch sử hai năm rõ mười,
rồi tới những khám phá mà đích thân tác giả được mắt thấy, tai nghe trên lĩnh vực văn hóa,
nghệ thuật.

Thứ ba kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” quy tụ những trải nghiệm mắt thấy tai nghe tiếp
xúc thực tế của chính tác giả bài viết. Người ta nói rằng “trăm nghe không bằng một thấy,
Trăm thấy không bằng một thứ”, có lẽ cũng trăn trở về điều này mà khi nghe nói về nền âm
nhạc cổ điển Huế trên sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tự mình trải nghiệm, rồi
đúc rút. “Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày, hay trên sân khấu nhà
hát”, như vậy không chỉ tìm kiếm tri thức trong sách vở, tài liệu hay nghe kể lại mà còn
phải tự mình trải nghiệm cảm giác. Biết sao được, đặc trưng của kí là vậy, cũng chính nhờ
những nét chân thực này mà độc giả hiểu hơn về nền văn hóa Huế. Nói thật nếu Hoàng
Phủ Ngọc Tường không đích thân đi thuyền trên sông rồi so sánh với cảm nhận khi nghe
nhạc giữa ban ngày, hay trên sân khấu vào đêm không thì chất “người thật, việc thật” chắc
cũng không thuyết phục như thế này. Vậy xin khẳng định, bài kí đã làm nổi bật nét đặc trưng
của thể kí một cách xuất sắc.
Cuối cùng tính khách quan chân thực của “Ai đã đặt tên cho dòng sông” còn bộc lộ ở
những đánh giá những quan điểm rất công bằng, . Lý trí được Hoàng Phủ Ngọc Tường đưa ra và
sau khi thống kê tìm hiểu ở phạm vi rộng, ví như để làm rõ điểm nổi bật của dòng sông khi chỉ
trọn trong lòng thành phố Huế, tác giả đã có sự so sánh nó với các dòng sông trên thế giới. Trong
các dòng sông đẹp ở các nước hình như chỉ có sông Hương là thuộc về riêng một thành phố, hay
chỉ đề ra một cách thuyết phục trong dòng chảy chậm, thực chậm của sông Hương. Hoàng Phủ
Ngọc Tường còn đặt sông Hương lên cán cân sông Ne-va chảy qua Lê nin grát, điều đó cho
thấy là những nhận xét của tác giả đưa ra một cách rất công bằng, khách quan, đậm chất kí
người thực, việc thực, khẳng định sông Hương tạo nguồn cảm hứng đa dạng cho các nhà thơ có
một dòng sông thi ca về sông hương, dòng sông không bao giờ gặp lại mình trong cảm nhận,
trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Tác giả bài kí còn không công kể ra hàng loạt những câu thơ
hay, nổi tiếng của hàng loạt các tác giả như Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Tố
Hữu, Nguyễn Du. Để mình có cho tính xác thực, khách quan thuyết phục của nhận xét được
đưa ra quả không ngoa khi nói “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đẫm chất kí người thực, việc
thực, mở rộng ra đây không những là đặc trưng của riêng “ai đã đặt tên cho dòng sông”, mà còn
là đặc trưng chung của tất cả các tác phẩm Kí, hay những hơi hướng của thể loại này. Có thể
nói nhận định ban đầu kí là một nghệ thuật người thực, việc thực hoàn toàn là có căn cứ xác
thực.
Nhưng liệu kí có hoàn toàn và nhất thiết phải 100% thực sự, trả lời là không. Chúng ta cần
phải tỉnh táo để hiểu rằng kí dẫu sao cũng là một thể loại văn học, mà văn học mang thiên hướng
nghệ thuật. Vậy nên tất yếu kí đôi khi phải sử dụng chút ít hư cấu. Nhà văn Bùi Hiển từng nhận
xét :chúng ta nên nhớ rằng trong bút kí tính xác thực của sự vật là một điều cốt yếu. Nhưng ký là
một thể loại văn học nếu vươn tới chỗ giá trị văn học thì phải hư cấu. Bởi vậy một tác phẩm kí
là không cần thiết phải hoàn toàn là sự thật, thậm chí nếu một bài kí hoàn toàn là sự ghi chép,
thống kê đơn thuần mà không lồng ghép yếu tố hư cấu thì phải chăng nó trở nên quá nhàm
chán, nó đang tự động biến mình với một tác phẩm thời sự hay sao? Nếu vậy độc giả sẽ bớt đi
sự say mê mà bản thân tác phẩm cũng không thể vươn xa tới chỗ nghệ thuật, nói đâu xa chính bài
ký mà chúng ta bàn luận phía trên, dù đậm đà tính hiện thực tới mấy vẫn ẩn chứa những nét hư
cấu rất độc đáo. Như cảm xúc của dòng sông, nỗi vấn vương tương tư của sông hương dành cho
người tình mong đợi là xứ Huế. Đó là minh chứng rõ nhất cho việc ký nên trung hòa, hư cấu cho
phù hợp với thiên hướng nghệ thuật. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là kí được phép hư cấu
quá đà, xa sự thực, tràn lan khiến tác phẩm mơ hồ, lãng mạn. Ký được hư cấu, nhưng chỉ được
hư cấu trong một phạm vi nhất định như là những yếu tố không xác thực, mà trước hết là nội
tâm, tâm trạng của con người, sự vật. Còn những yếu tố cốt yếu như tên tuổi, không gian, thời
gian, lịch sử thì tuyệt nhiên phải giữ nguyên vẹn.
Nhìn chung không riêng gì “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, mà bất cứ tác phẩm ký xuất sắc
nào cũng đều mang đậm đặc trưng người thực, việc thực. Vậy từ đây đặt ra bài học sâu sắc cho cả
người cầm bút và người đọc tác phẩm, nếu như người viết nên trau chuôi hiểu biết vốn trải
nghiệm thực tế trước khi viết các tác phẩm ký thì người đọc cũng nên biết quý trọng nâng niu các
tác phẩm ký coi đó là một tư liệu quý giá để cảm nhận và tìm hiểu về thế giới khách
quan chính sự tung hứng nhịp nhàng này giữa tác giả và độc giả với là thứ tạo nên tinh thần của
văn học nghệ thuật vị nhân sinh./.
Bài văn 15 : Nhà phê bình Hoài Thanh viết:
“Thích mô ̣t bài thơ, theo tôi nghĩ, trước hết là thích mô ̣t cách nhìn, mô ̣t cách nghĩ,
mô ̣t cách xúc cảm, mô ̣t cách nói, nghĩa là trước hết là thích mô ̣t con người”.
(Tuyển tâ ̣p Hoài Thanh, tâ ̣p II, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nô ̣i, 1982)
Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên?

BÀI LÀM
Âm điệu những vần thơ tự bao giờ đã ngân vang trong trái tim tôi. Là giọng ru ngọt
ngào của mẹ, là câu thơ dậy lên màu xanh mướt của ruộng đồng, là tiếng ca lảnh lót của niềm yêu
đời… Mỗi bài thơ mở ra một hình sắc riêng, một cảm xúc riêng về thế giới. Say mê trong thi giới,
đôi khi tôi băn khoăn tự hỏi: điều gì trước nhất làm nên sức hấp dẫn của thơ ca? Tìm gặp ý kiến
của Hoài Thanh, tôi mới thấm thía:
Thích một bài thơ, theo tôi nghĩ, trước hết là thích một cách nhìn, một cách nghĩ, một
cách xúc cảm, một cách nói, nghĩa là trước hết là thích một con người.
(Tuyển tâ ̣p Hoài Thanh, tập 2, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1982)
Cảm nhận thơ ca đòi hỏi một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm. Một bài thơ là nguồn phát ra
những tần sóng dao động phong phú, mà mỗi người đọc tuỳ sở trường, cách nghĩ riêng sẽ lấy tần
số tâm hồn mình mà giao thoa. Thích một bài thơ, có ai giống ai đâu. Tuy nhiên, có thể tạm qui
về những tiêu chuẩn nào đó. Theo tôi, ý kiến của Hoài Thanh là có lí: Thích một bài thơ... trước
hết là thích một cách nhìn, một cách nghĩ, một cách xúc cảm, một cách nói, nghĩa là trước hết là
thích một con người. Thích là trạng thái, sắc độ cảm xúc yêu mến, nghiêng về cảm tính, khoái
cảm. Đứng trước một bài thơ mà như bị nam châm hút, ấy là thích vậy. Nói thích một bài thơ có
nghĩa là tác phẩm ấy phải có sức hấp dẫn riêng. Có nhiều yếu tố để gợi ra đam mê nghệ thuật, theo
người viết, trước hết là một cách nghĩ, một cách xúc cảm tức sức hấp dẫn về nội dung; một cách
nói hay sức hấp dẫn từ hệ thống các phương tiện biểu đạt. Tựu trung lại là thích một con
người. Con người ở đây không đơn thuần hay đồng nhất với con người ngoài đời mà đó là một
cá tính văn chương, một gương mặt nghệ thuật riêng. Như vậy, bằng năng lực cảm nhận thơ tinh
tế, nhà phê bình đã nói lên một khía cạnh trong vẻ đẹp thơ, đó là sự sáng tạo. Chữ một điệp lên
như một nốt nhấn, làm nổi bật tính duy nhất, riêng có của
tác phẩm nghệ thuật. một con người thực chất là phong cách nghệ thuật. Trong xã hội có vô vàn
những cá tính, hình hài riêng thì trong thơ cũng vậy, muôn hình muôn vẻ. Sẽ ra sao nếu bài thơ
nào cũng nhác giống nhau? Văn chương sẽ đi về đâu nếu tác phẩm này là bản sao của tác phẩm
kia? Khi ấy, liệu người đọc có còn say mê ngâm nga những dòng thơ. Cho nên, một bài thơ hay,
có sức sống, theo Hoài Thanh, gồm nhiều yếu tố, nhưng trước hết phải mới mẻ, độc đáo, in dấu
một phong cách riêng biệt. Mỗi tứ thơ phải như viên ngọc long lanh, lấp lánh toả ra thứ ánh sáng
riêng. Nó cuốn người đọc vào tâm xoáy của cảm xúc, làm say mê bằng nhịp điệu, ngôn ngữ.
Sáng tạo có thể xem là yếu tố đầu tiên của thơ hay vậy.
Xuất phát từ suy nghĩ cá nhân, song dường như bằng sự trải nghiệm của một đời nghiên
cứu, Hoài Thanh đã đồng cảm được những trăn trở của nhiều người đọc khi đến với một bài thơ
hay. Ai từng băn khoăn trước một câu ca dao ngọt ngào, từng say đắm một vần thơ sẽ rất thấm
thía điều này. Qui luật tiếp nhận cho thấy dường như có một vận động trái ngược. Những tác phẩm
không có gì mới sẽ bị thời gian đào thải. Nhắc đi nhắc lại điều đã cũ, diễn lại một vài cách rất
quen, cũng giống như con khướu, con vẹt bắt chước tiếng người; sớm muộn ngày một ngày hai sẽ
phôi pha. Lại có những tác phẩm mãi tồn tại mhư một dấu khắc trong trái tim muôn người,
không thôi được luận bàn. Nó ẩn chìm bao tầng sâu ngữ nghĩa, bao lớp ngôn từ độc đáo mà mỗi
người đọc bằng sự tìm tòi riêng sẽ thấy ngững tầng vỉa lấp lánh. Không phải ngẫu nhiên mà
Leptônxtôi từng tâm niệm: khi đứng trước một nhà văn, điều đầu tiên chúng ta bao giờ cũng hỏi
liệu anh ta có đem đến một cái nhìn mới, một cách thể hiện mới hay không? Tôi từng thích thú
với hình ảnh đất nước quyện trong nỗi nhớ hương cốm mới, từng ngỡ ngàng vì sao một chút
hương mong manh thế, thảng hư thế mà vương được hồn quê. Cứ ngỡ đó là một đất nước đẹp
nhất. Vậy mà đến với chương V Mă ̣t đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước một
lần nữa sống dậy trong tôi. Gần gũi mà thiêng liêng. Quá khứ trong hiện tại. Vô hình trong hữu
hình. Đất nước đâu gì xa lạ mà ngay trong miếng trầu bây giờ bà ăn. Câu thơ nghiêng nghiêng
cái nhìn của huyền thoại, của truyền thống văn hoá từ nghìn đời. Mới hay, mỗi bài thơ là một
hình sắc riêng. Người đọc đến với tác phẩm là để tìm những suy nghĩ sâu sắc, thấm thía một cách
nhìn, một cách nghĩ, một cách xúc cảm say mê trong khoái cảm thẩm mĩ mà một cách nói đem
lại.
Ý kiến của nhà phê bình có lẽ cũng có nguyên cớ từ bản chất sáng tạo của lao động
nghệ thuật. Con chim cất tiếng hót mong lưu lại giọng ca lảnh lót. Nghệ sĩ cầm bút ai chẳng
nguyện đem đến một tiếng nói mới mẻ, độc đáo. Sáng tác nghệ thuật không phải là công việc sản
xuất hàng loạt. Nó là sản phẩm cá thể, cá nhân thi sĩ làm. Tác phẩm càng không phải là sự cộng
ghép giản đơn từ người này hay người khác. Sẽ ra sao nếu tác phẩm này song sinh với tác phẩm
kia. Lối đi của văn chương muôn đời không phải con đường thẳng duy nhất, nó là vô vàn ngã rẽ,
là đại dương dạt dào hợp lưu từ muôn dòng chảy. Không sáng tạo, lặp lại người, lặp lại mình kể
như là cái chết của nghệ thuật vậy. Làm sao để từ một nguồn vút lên những âm thanh, từ một cung
đàn ngân bao cung bậc. Eptusencô có lí khi nói rằng: tự tử với đời nghệ sĩ không phải phát súng
hay sợi dây thừng mà khi ngồi vào bàn viết, không đem đến một cái gì mới mẻ thì hoá ra anh đã
tự tử từ lâu rồi. Nhìn vào lịch sử văn chương có thể thấy diện mạo đa dạng, phong phú của các
gương mặt nghệ thuật. Điều này lí giải vì sao thơ ca cho đến bây giờ vẫn là sự hấp dẫn vĩnh viễn,
vẫn không ngừng sinh sắc. Cùng viết về tình yêu, trái tim nghệ sĩ Tagor muốn dành cho người yêu
tất cả những gì đẹp nhất, có đôi mắt nào băn khoăn nhìn vào thăm thẳm trái tim người thương để
suy tư, để trăn trở. Còn Puskin, một trái tim hồn hậu, vị tha, vừa bốc men say sưa vừa dịu lắng
vào lí trí tỉnh táo lại tìm đến lẽ cao thượng: Cầu em được người tình như tôi đã yêu em. Không
lặp lại người khác đã đành, sáng tạo nghệ thuật cũng không chấp nhận sự lặp lại của một cá
nhân. Bởi đâu cùng viết về mùa thu đồng bằng Bắc bộ mà mỗi bài thơ trong chùm ba của
Nguyễn Khuyến vẫn làm bao trái tim người rung động. Một thoáng thẹn, một chút bâng khuâng
ngơ ngẩn trong Thu vịnh. Một chút man mác buồn của những câu thơ ngậm nỗi niềm thời thế
trong Thu điếu. Một mình một chén mắt đỏ hoe trong Thu ẩm. Ấy là tâm hồn Yên Đổ, tài năng
Yên Đổ. Trái tim nghệ sĩ như dây dăng giữa đất trời, chút gió thoảng qua, làm sao chẳng ngân
rung một nhịp riêng. Thế nên một điệu tâm hồn mà vút lên nhiều cung bậc, ba bài thơ thu mà bài
nào cũng thoát bay một ý vị riêng, một sức hấp dẫn riêng. Mới thấm thía muôn đời là sự đi về của
sáng tạo.
Từ trái tim đến trái tim, thơ bắc nhịp cầu giao cảm bằng những nghĩ suy sâu sắc. Hấp dẫn
người đọc, thơ trước hết phải có một cách nhìn, một cách nghĩ, một cách xúc cảm là như vậy.
Song chẳng lẽ chỉ cảm xúc mãnh liệt là đủ thôi sao? Thơ cần có đôi cánh nghệ thuật để nâng đỡ
sức mạnh trái tim. Sự hài hoà giữa nội dung và hình thức mãi là qui luật văn chương muôn đời
vậy. Thơ rất cần những ý tứ sâu sắc, những ý tứ ấy phải được chuyển tải trong một hệ thống các
phương tiện biểu hiện độc đáo. Thế nên có nhà thơ từng tâm niệm: Thơ hay là hay cả hồn lẫn
xác. Một suy nghĩ rất sâu sắc nếu chuyển tải trong hình thức vụng về sẽ không
đủ sức hấp dẫn. Lớp ngôn từ sắc sảo mà thiếu đi vẻ đẹp nội dung cũng phù phiếm như bông hoa
làm bằng vỏ bào vậy. Đọc thơ Xuân Hương, người đọc như bị cuốn vào tâm xoáy của bão táp cảm
xúc. Dẫu là tiếng thơ trào lộng hay lắng vào tâm tình sâu xa thì nổi lên vẫn là một cá tính ngang
tàng. Ngôn ngữ thơ gai góc, gập ghềnh như cái đứt gãy tự bên trong trái tim nữ sĩ. Nếu thơ Bà
Huyện Thanh Quan cổ kính, trang nhã như một toà thành, một lâu đài thì thơ Xuân Hương tươi
sắc, phong phú như đồng ruộng, nước non. Một cá tính mạnh mẽ đâu thể dung hợp trong thi
pháp tĩnh tại mà phải dồn trong thế giới thơ sống động. Người ta yêu thích thơ nữ sĩ họ Hồ có lẽ
cũng bởi lần đầu tiên sự sống sinh sắc như thế trong thơ. Bông hoa làm say lòng người bởi
hương thơm và màu sắc. Thơ giữ mãi ngọn lửa rực cháy qua bao thế hệ một phần bởi sức sáng
tạo kì diệu của nó.
Tôi còn nhớ đã bao lần đứng trước mùa thu, lắng nghe nhịp đến nhịp đi của mùa lòng
không khỏi bâng khuâng, náo nức mà không sao nói lên lời. Chỉ khi đến với những vần thơ
Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu…mới thấy từng nhịp thổn thức đang lắng trong từng con chữ.
Song không phải vì cùng một đề tài mà hai nhà thơ chỉ có nét giống nhau. Đọc Thu vịnh và
Đây mùa thu tới, tôi vẫn nhận ra những xao xuyến riêng. Thu của cụ Tam Nguyên là mùa thu ở
nông thôn, đượm vẻ buồn đồng ruộng, còn thu của Xuân Diệu lại bâng khuâng cái cảm xúc thị
thành. Một bên mùa thu đã hoàn tất còn một bên thu vừa mới chớm. Một bên trước thu mà gợi
tình, một bên tìm cảm xúc vương mang trong nhịp bước của nàng thu. Một bên là đối khách
còn bên này là kẻ đi tìm mình trong thu. Ngay cảnh vật thôi, cách miêu tả thật khác. Ám ảnh đến
thế màu xanh vời vợi trong thơ cổ nhân:
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao Cần
trúc lơ phơ gió hắt hiu
Một màu xanh ngắt là cái cao rộng, không cùng của đất trời cũng là điểm xoáy đậm đặc của
con mắt yêu say. Không gắn bó với quê hương, thi sĩ có lẩy ra được từ đất trời một màu xanh
thăm thẳm đến thế. Người Việt Nam ai chẳng một lần rung động trước màu xanh ấy.
Cũng là sắc thu nhưng cảm quan thi sĩ Thơ mới lại bắt được khoảnh khắc thu phôi phai
trong sắc lá:
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Mơ phai là màu gì? Không rõ. Câu thơ nhập nhoà giữa thực và hư. Đó là cái nhoè đi của
cảm xúc hay cảnh vật đang sinh sắc trong thơ. Cũng là màu vàng từng in dấu qua bao tác
phẩm thi ca cổ điển, nhưng bước vào thơ Xuân Diệu nó lại tái sinh một sắc mới. Ấy là màu của
mùa thu hay là màu sắc trái tim nghệ sĩ. Nếu Thu vịnh đem đến một mùa thu gợi cảm, tinh tế
bằng bút pháp cổ điển thì Đây mùa thu tới lại hấp dẫn bằng bút pháp tả thực. Người đọc chạm
đến từng con chữ là chạm tới bước đi của mùa.
Cảnh đã khác, tình cũng đổi thay. Khoảnh khắc thu sang, thi sĩ họ
Nguyễn chạnh một chút bâng khuâng, một cái thẹn vút lên nhân cách sáng ngời. Tiếng ngỗng
giữa không trung rơi vào khoảng lặng vắng chơi vơi của trái tim người. Chút ngẩn ngơ, bâng
khuâng ấy chẳng phải còn mãi ám ảnh người đọc hay sao. Với thi sĩ Thơ mới, cảm xúc không
nghiêng về nỗi niềm ưu thời mẫn thế của cổ nhân mà man mác sầu buồn. Tâm trạng đi chênh
vênh giữa náo nức và tủi sầu. Cái động thái tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì khép lại bài thơ mà vẫn
để lại giữa không cùng một cái nhìn vô định, mông lung. Thế đấy, mùa thu bao lần đi qua, mỗi
khoảnh khắc trái tim thi sĩ lại rung lên một nhịp riêng. Giữa bao vần thơ thu, mãi đi về trong
trái tim tôi một Thu vịnh, một Đây mùa thu tới. Có phải những tác phẩm ấy đã hấp dẫn tôi, mãi
sinh sắc, xanh tươi bởi mạch nguồn sáng tạo. Thế mới hay thích một bài thơ…trước hết là thích
một con người. Một Nguyễn Khuyến lắng vào thâm trầm. Một Xuân Diệu băn khoăn gửi cái
buồn vương vất vào hư không.
Ý kiến của Hoài Thanh nhấn vào cái hấp dẫn trước hết của một bài thơ. Làm nên vẻ đẹp
một bài thơ có nhiều yếu tố: tính dân tộc, tính nhân loại…nhưng cái tiên quyết vẫn là gương mặt
nghệ thuật riêng. Có những bài thơ sáng tạo, hấp dẫn người đọc bằng chính sự chân thành. Tôi
nghĩ viết hết mình cũng là sự sáng tạo vậy.
Thêm nữa, sáng tạo bao giờ cũng phải có gốc rễ sâu xa từ truyền thống. Cho nên, thích thú một
bài thơ vì nó là mạch chảy bắt nguồn từ truyền thống vậy. Suy nghĩ của Hoài Thanh không
chỉ hợp lí cho sự tiếp nhận thơ nói riêng mà với cả văn học nói chung. Càng thấm thía bài học
với nghệ sĩ: muốn tạo ra những tác phẩm có giá trị, có sức sống phải sáng tạo. Vẫn âm vang mãi
nhịp mùa thu trong những vần thơ ấy.

Nghị luâ ̣n xã hô ̣i:


Bài văn 15: Nghị luận về ý nghĩa đoạn thơ Lá Xanh- Nguyễn Sỹ Đại

"Kẻ vá trời lấp bể


Người đắp lũy xây thành Ta
chỉ là chiếc lá
Việc của mình là xanh"

Suy nghĩ của anh/chị về vấn đề đặt ra trong bài thơ trên?
Bài là m
(Lá xanh - Nguyễn Sĩ Đại)
Cuộc sống là bức tranh muôn hình vạn vẻ, là bể cạn trời sâu, là góc khuất và ánh sáng.
Mỗi người giống như là mảnh ghép trong bức tranh ấy. Chúng ta có thể đứng ở góc khuất, ở
trung tâm, nhưng đều cùng mang trong mình một sứ mệnh: làm cho bức tranh ấy càng tràn đầy sức
sống, đẹp tươi. Trong bài "Lá xanh", Nguyễn Sỹ Đại đã thể hiện triết lí sâu xa với những vần thơ
:
“Người vá trời lấp bể Kẻ
đắp xây lũy thành Ta chỉ
là chiếc lá
Việc của mình là xanh”
Thời xưa, các bậc đại hàn nho sĩ thường quan niệm về công và danh gắn liền với chí làm
trai. Còn Nguyễn Sỹ Đại, dường như lại gửi gắm trong câu thơ của mình một thông điệp khác.
"Vá trời lấp bể, đắp lũy xây thành" là những việc mà người bình thường khó có thể thực hiện
được. Nó thuộc về một lực lượng siêu nhiên, về những anh hùng, ở đây dùng để chỉ những
việc lớn lao đại sự. "Người, kẻ" tức người khác, người kia. Còn ta, Nguyễn Sỹ Đại nhấn mạnh:
"Ta chỉ là chiếc lá". Mỗi chiếc là là một phần tử của cây xanh, nó chiếm một phần nhỏ thôi
nhưng thiếu lá, cây như dòng sông cạn, quanh năm xơ xác. Dùng hình ảnh chiếc lá làm biểu
tượng cho con người, Nguyễn Sỹ Đại muốn nói chúng ta không lớn lao như vũ trụ, không vĩ đại
như bậc kỳ nhân nhưng chúng ta quan trọng như giọt nước với đại dương, như hạt cát trên sa
mạc. Thiếu mỗi cá thể ấy, làm sao có thể cấu thành tổng thể? Người ta sinh ra đã là một phần tử
rất nhỏ của xã hội, việc của ta là "xanh - sống hết mình, tỏa ra một ánh sáng riêng đúng với
khả năng, thiên chức và cống hiến cho đời. Bốn câu thơ ngắn chứa đựng triết lý sâu xa: sống có ý
nghĩa, cống hiến theo thiên chức, làm việc nghĩa cho đời.
Martin Luther King đã từng nói nếu là một người phu quét đường, hãy quét những con
đường như William Shaskpeare. Như rất nhiều những nhà danh tài khác trên thế giới cuộc đời tựa
một quả cầu, nếu may mắn ta sẽ được đứng ở chỗ đối diện với luồng ánh sáng, nếu không thì
đành phải đứng khuất sau góc đường chân trời. Nhưng điều đó không quan trọng, quan trọng
là ta đã cháy hết mình như thế nào. Tôi từng đọc một câu chuyện về một anh bạn quét rác ở Mỹ,
ngày ngày anh đều dọn sạch con đường trước cổng trường đại học, đều nở một nụ cười thật tươi
với các sinh viên, động viên họ bằng một tấm lòng chân thật. Thiết nghĩ, đó là "xanh"! Anh có
thể là chiếc lá nhỏ xíu dưới góc tối của tán bạch dương, nhưng hành động của anh đã thúc đẩy
dòng máu dồi dào nuôi toàn xã hội. Hơn nữa chúng ta sinh ra đã được hưởng ân huệ của trời đất,
được hít hà thứ hương tinh túy của sự sống ngàn đời, nếu ta như hòn gạch sần sùi, hòn gạch ấy
phải góp phần dựng xây cuộc sống, nếu ta như chiếc lá yếu ớt, ta vẫn có thể thu vào mình ô xi
cho cây quang hợp. Chúng ta là một phần của xã hội này, điều chúng ta cần làm không phải chỉ
chú tâm vào việc lớn lao, hãy bắt đầu đóng góp cho sự sống quanh
mình từ những điều nhỏ nhất vì đó là nền tảng để xây nên thế giới. Chị Đậu Thị Huyền Trâm, một
chiến sỹ công an 25 tuổi bị bệnh ung thư khi đang mang thai đứa con đầu lòng. Có người nói
cuộc sống của chị quá ngắn ngủi, chị chưa làm được điều gì vĩ đại cho cuộc sống này. Nhưng
với tôi, chị là chiếc lá xanh nhất, là ánh dương đẹp nhất, là người mẹ tuyệt vời nhất khi đã hi sinh
bản thân mình để cứu con. Cái chị đóng góp cho đời không phải là một trận chiến với kẻ thù,
một phát minh đổi thay thế giới. Cái chị mang đến cho đời là vẻ đẹp của một khúc ca làm người.
Bạn có thể mơ rất xa, ước được chạm vào nơi sâu nhất của vũ trụ này, nhưng bạn có biết
không, chính những cống hiến nhỏ nhoi mà ý nghĩa lại là biểu hiện đầu tiên để khẳng định giá
trị con người. Thanh Hải trước khi ra đi cũng để lại khát vọng:
“Một mùa xuân nho nhỏ Lặng
lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi Hay
là khi tóc bạc”
Hay anh thanh niên trong "Lặng lẽ Sa Pa" cũng là người như thế. Ta ca ngợi anh ở
những thứ lặng thầm ở sâu trong trái tim nhiệt huyết. Anh đẹp lắm, vẻ đẹp nổi rõ giữa đám lá ở
một thân cây xù xì. Một màu đỏ có thể vẽ nên ánh mặt trời, một màu vàng có thể vẽ nên lá mùa
thu, một màu hồng làm hoa đào chớm nở, màu trắng tinh khôi ẩn mình dưới lớp tuyết mùa
đông. Nhưng gộp lại chúng ta đã có bức tranh đời tươi sáng. Con người cũng vậy, có những
việc rất nhỏ nhưng ý nghĩa lại có thể từng bước lay chuyển cuộc đời.
Ý kiến được Nguyễn Sỹ Đại nêu ra là vô cùng đúng đắn và ý nghĩa. Ông không phê
phán những đại sự, nhưng lại đề cao việc cống hiến lặng thầm và ý nghĩa. Trong một bài phát
biểu của một giáo sư người Nhật phân tích điểm khác biệt giữa người Việt và người Nhật, ông cho
rằng, người công nhân Nhật nhìn thấy một cái đinh vít bị rơi họ sẽ nhặt lên cho vào kho, còn
người Việt thì không, đó là vấn đề thuộc về ý thức nghề nghiệp. Điều đó lý giải vì sao Nhật lại
phát triển như bây giờ. Tôi muốn nói với các bạn rằng, dù chúng ta là ai, chúng ta đứng ở vị trí
nào cũng hãy cháy hết mình như ngọn lửa rực cháy trong đêm lần cuối, như hạt phù sa lần cuối
cùng nằm lại với đất mẹ yêu thương, là giáo viên thì hết mình với học sinh, là kỹ sư thì hết mình
dựng xây vẻ đẹp, là nhà văn, trước khi cầm bút, hãy đảm bảo rằng mình đã sống và viết hết mình,
tấm lòng sẽ trao trọn bể chữ mênh mông.
Nhưng không phải cứ lúc nào cũng là chiếc lá. Ai đó nói rằng "Nếu không có mục đích lớn
lao, bạn chẳng thể làm được gì cả". Mục đích lớn lao là "quê hương" của tài năng. Nhưng cái cốt
lõi là phải biết dung hòa giữa bình dị và lớn lao, giữa cái cao siêu và điều nhỏ bé. Đó là trường
hợp của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, đến những Obama, Bill Clinton mà ai ai cũng biết. Obama,
trên cương vị của một người cha, chưa bao giờ vắng mặt trong buổi họp phụ huynh cho con gái;
trên cương vị của một người chồng, chưa bao giờ bỏ mặc người vợ của mình tự xoay xở. Sống
cũng như cách điều chế một dung dịch hóa học, nếu không biết cân bằng, nó sẽ nổ tung.
Tôi là một học sinh, một người trẻ, tôi từng mơ đổi thay thế giới như bạn trẻ Dư Hoài
trong phim "Tuổi thanh xuân mãi bên nhau" nhưng sau khi đọc câu nói này tôi biết mình cần làm
gì. Trước hết là học sinh tôi cần hết mình trong học tập, trong giúp đỡ mẹ cha. Tôi thấy
mình như một đám lửa có nhiều tia sáng, tia sáng mạnh nhất tôi sẽ dành trọn ở tương lai, tia
sáng xung quanh nó tôi sẽ góp vào để hoàn thành nghĩa vụ trước mắt.
Hôm nay tôi ở xa nhà, trời nắng đẹp, nơi tôi đứng may mắn là không khuất dưới bóng
râm, nhưng mỗi người vẫn là một chiếc lá xanh, một dòng nhựa ngọt. Mỗi nỗ lực dù là nhỏ
nhất cũng là chất xúc tác hữu hiệu thúc đẩy xã hội đi lên.
Bài văn 16 . NLXH : Phải chăng sống là phải tỏa sáng?
Bài làm.
“Em có muốn mình như những vì sao trên bầu trời kia không?”, đó là câu anh tôi hỏi tôi khi
tôi còn nhỏ, tôi lắc đầu khờ khạo. Anh cười nhẹ nhàng, còn anh thì rất muốn mình được sống
như những vì sao khuya, sinh ra là để thắp sáng lấp lánh luôn tỏa sáng giữa bầu trời đêm tối. Sau
này lớn lên tôi mới suy nghĩ về những lời anh nói, con người ta có phải luôn muốn mình đạt
đến đỉnh cao, luôn muốn mình thành công rực rỡ với những ước mơ của bản thân và “phải chăng
sống là phải tỏa sáng?”
Con người sinh ra ai cũng có những ước mơ, những khát vọng của riêng mình, muốn
sống một cuộc sống ý nghĩa. “Sống”, là trải nghiệm, là cống hiến không phải là tồn tại bởi tồn tại
là ta sống một cách mờ nhạt, không ấn tượng, không có sự trải nghiệm và góp sức cho cuộc đời.
Còn “tỏa sáng”, là sự bứt phá đạt được đỉnh cao thăng hoa, thành công rực rỡ hay thật sự nổi trội
trong cuộc sống của mình. “Phải chăng sống là phải tỏa sáng”, câu hỏi cho chúng ta nhiều suy
nghĩ về quan niệm sống, con người sống trên đời có cần thiết phải sống một cuộc sống đầy ấn
tượng, bản thân mình phải nổi trội, phải đạt đến đỉnh cao của cuộc sống hay không?
Con người sinh ra là để ghi dấu ấn trong cuộc sống, không phải để mờ nhạt và nhỏ bé như
hạt cát ngoài đại dương bao la. Vậy cuộc sống được “tỏa sáng”, là cuộc sống như thế nào? Không
ít người sinh ra trên đời luôn muốn mình phải nổi trội, phải đạt được những ước mơ của bản
thân . Đó là những con người có lối sống cầu cầu tiến, họ luôn có những ước mơ mà khi đạt
được sẽ đưa họ đến tầm cao của cuộc sống, như trở thành người nổi tiếng, đạt giải thưởng cao
trong các kì thi hoặc được mọi người biết đến nhờ khả năng đặc biệt nào đó. Họ không ngừng
cố gắng, tự tạo ra cơ hội nhiều hơn là chờ đợi cơ hội đến với mình. Không những vậy người
muốn mình được tỏa sáng trong cuộc sống cũng phải là người luôn kiên nhẫn, có quyết tâm,
có ý chí. Được tỏa sáng trong cuộc sống là điều tuyệt vời, ta có thể đạt được đỉnh cao, được
bước vào một chân trời mới tươi đẹp, vô cùng trở thành người nghệ sĩ tỏa sáng trong lĩnh vực
nghệ thuật, ta được sống được cống hiến hết mình với đam mê được đem tài năng, trí tuệ của
mình phục vụ cho con người. Một nghệ sĩ tỏa sáng là khi họ nổi tiếng, nổi tiếng là được nhiều
người biết đến tiếng tăm của mình. Nếu bản thân là một người có tài năng, việc được nhiều người
biết đến tài năng của mình chẳng phải là một điều rất tốt hay sao? Một người tỏa sáng họ có một
cuộc sống thật sự thăng hoa, một cuộc sống với nhiều dấu son tô đậm và ánh hào quang từ tài
năng, trí óc và sự thành công của họ, sáng lấp lánh ánh hào quang đó đưa họ đến đỉnh cao của
cuộc sống, giúp họ cháy hết mình với đam mê cuộc. Sống tỏa sáng là cuộc sống nhiều hương vị và
màu sắc nhất trong những cuộc sống có hương vị và màu sắc, sống thăng hoa như vậy sao con
người lại không muốn được tận hưởng.
Sống một cuộc sống được “tỏa sáng”, quả là tuyệt vời nhưng trong đêm tối ngôi sao nào
cũng đua nhau tỏa sáng, không có ngôi sao nào chịu mờ nhạt hơn thì đâu còn là đêm tối nữa, mà
bầu trời đã sáng lên nhờ ánh sáng của các vì sao ấy rồi. Cuộc sống này cũng vậy, không phải
cứ “tỏa sáng”, cứ nổi bật mới là cuộc sống thực thụ. Có những người sinh ra họ cũng có ước
mơ, có hoài bão nhưng ước mơ của họ không phải đạt đến đỉnh cao cuộc sống, không phải dành
những giải thưởng lớn, vinh quang, cũng không phải trở thành một người nổi tiếng được nhiều
người biết đến, mà với họ cuộc sống chỉ cần đầy đủ bình thường nhưng không tầm thường.
Trên trái đất hơn bảy tỉ người đâu có ai phê phán người có cuộc sống bình thường, đơn giản, cũng
đâu có ai ép buộc phải trở thành người tỏa sáng. Xuất phát từ những điều đơn giản, cuộc sống
đơn giản cũng đủ đem đến hạnh phúc cho người có ước mơ đơn giản. Nếu người nổi tiếng
hạnh phúc của họ là được cống hiến tài năng, trí tuệ của mình cho người khác, thì người bình
thường niềm hạnh phúc chỉ là có một công việc ổn định, một gia đình nhỏ bé yêu thương nhau.
Nếu người muốn được tỏa sáng luôn miệt mài ngày đêm nghiên cứu học tập, để đạt được thành
tích vang dội trong các cuộc thi lớn, để có được tiếng tăm, được phần thưởng lớn. Người sống
cuộc sống bình thường chỉ ngày làm việc, học tập, chăm sóc bản thân, chăm sóc gia đình, mong
chờ tháng lương hoặc tiền của mình làm ra để sống bình yên qua ngày. Chẳng ai ngăn cấm ta
chọn cuộc sống bình thường, đơn giản. Đổi lại sống như vậy ta có được những niềm vui nhỏ bé,
ấm áp, cuộc sống không quá áp lực. Đó cũng là cách sống tốt, sống giản dị mà ý nghĩa.
Sống tỏa sáng hay sống không tỏa sáng, ta không khẳng định cách sống nào là tốt hơn là
nên sống hơn, người trong cuộc sống cái gì cũng có hai mặt của nó, sống một cuộc sống của
những người nổi tiếng của những người luôn có ánh hào quang bao bọc ta không tránh khỏi
những áp lực rất lớn. Áp lực lớn nhất đó là làm sao để giữ được ánh hào quang đó của bản
thân, bởi là người nổi tiếng khi ta hết thời hoàng kim một người nổi tiếng khác lại nổi lên ta
luôn lo lắng, giữ sao cho mình có không mất vị trí bởi xã hội luôn chạy theo thứ tốt hơn cả. Đạt
được thành tích vang dội trong một kỳ thi, một lĩnh vực, áp lực của ta đó là làm sao để các kì thi
như vậy ta không bị tụt hạng, tụt điểm, không bị mất phong độ. Là người nổi tiếng ta không
tránh khỏi việc luôn bị theo dõi, đánh giá từng việc làm, hành động, bởi vạn vật luôn hướng về
ánh sáng, chiếc bóng đèn càng sáng thì thu hút càng nhiều các loại côn trùng kéo đến, là người
có cuộc sống tỏa sáng ta dễ bị mất tự do đời tư. Một người ca sĩ, diễn viên nổi tiếng luôn được
cánh nhà báo theo dõi, báo chí đề cập, một hành động nhỏ cũng bị mang ra suy xét, nhiều ý
kiến trái chiều. Không những vậy chọn cuộc sống phải tỏa sáng ta ít có thời gian riêng tư, luôn
tất bật, luôn gồng mình để đạt đến đỉnh cao quá là một mệt mỏi, áp lực, nhưng bù lại người nổi
tiếng họ thành công trong cuộc sống, việc cơm ăn, áo mặc với họ là điều không cần lo nghĩ. Họ
có thể ăn thứ mình muốn, diện những bộ đồ thật đẹp xây những ngôi nhà thật sang trọng,
không cần bận tâm đắt, rẻ, còn người chỉ sống cuộc sống bình thường, họ suy nghĩ không
quá áp lực về thời gian, về việc giữ hào quang tỏa sáng, nhưng cuộc sống của họ có phần lặng
thầm hơn, không ai biết họ thế nào, họ đã làm những gì. Thậm chí có tài năng nhưng không thể
hiện ra, người đó cũng chẳng được xã hội quan tâm, cuộc
sống bình thường luôn gắn liền với nỗi lo mưu sinh cơm, áo, gạo, tiền, ăn của ngon vật lạ, mặc đồ
đẹp đều cần phải tính toán, chi li.
Trong giới nghệ thuật hiện nay Đông Nhi là một ca sĩ nổi tiếng với dòng nhạc trẻ trung, sôi
động hợp với lớp trẻ ngày nay. Cô quả là một ngôi sao sáng trong lĩnh vực nghệ thuật đã từng
đạt nhiều giải thưởng âm nhạc trong nước và nước ngoài, vừa xinh đẹp, tài năng cô được mọi
người ngưỡng mộ và yêu quý. Trong một cuộc phỏng vấn Đông Nhi bày tỏ tâm sự của mình, cô
nói rằng mặc dù được thỏa mãn với niềm đam mê nhưng có những lúc rất tủi, rất cô đơn. Tết đến
người ta được quây quần bên gia đình còn mình thì còn bận bao nhiêu lịch diễn, có vui buồn gì
lên sân khấu cũng đều phải cười, ngày nào cũng ngủ được 5 tiếng là nhiều, rất mệt, rất áp lực. Ấy
mới thấy để cuộc sống tỏa sáng không phải điều dễ dàng và không phải ai cũng làm được.
Trong xã hội hiện nay, bên cạnh những người “Tỏa sáng” nhờ tài năng thực thụ, nhờ nỗ lực
của bản thân, cũng không ít người nổi tiếng nên nhờ những scandal gây xôn xao dư luận, tỏa
sáng như là ánh sáng chẳng đẹp đẽ gì, và cả những con người không cần sống cuộc sống nổi
trội, nhưng cũng không chấp nhận cuộc sống bình thường, sống một cách vô phương hướng,
hoặc là những người quá khao khát được tỏa sáng nên không biết lượng sức mình mà dẫn đến
những hậu quả đáng buồn. Đó là điều mà những lối sống không tốt đang bị phê phán, cần thay đổi
để sống một cuộc sống đúng nghĩa hơn.
“Phải chăng sống là phải tỏa sáng”? câu hỏi đem đến cho ta nhiều suy nghĩ và bài học,
chúng ta có thể chọn cuộc sống cho riêng mình. Nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh, khả năng của
bản thân, dù ở lối sống nào ta cũng cần phải có ước mơ, có khát vọng, luôn cố gắng xây dựng
cuộc sống tươi đẹp, nhưng cũng đừng sống quá mờ nhạt, buồn tẻ. Là một người trẻ tuổi, trước tiên
chúng ta hãy sống có lý tưởng, có ước mơ, hoài bão. Hãy cứ mạnh dạn mơ những ứớc mơ cao
cả và đừng bỏ lỡ những cơ hội để mình có thể đặt được tỏa sáng hãy sống hết mình luôn cống
hiến luôn cố gắng như vậy Cuộc sống mới trở nên ý nghĩa và nhiều màu sắc.
Nhà thơ Xuân Diệu từng nói:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, Còn
hơn buồn le lói suốt trăm năm”,
Đời người chỉ sống có một lần, vì vậy ta hãy sống cuộc sống thật sự. Đừng quá mờ nhạt mà
hãy thử chinh phục bản thân để được tỏa sáng dù chỉ một lần, sống là phải trải nghiệm ấy mới là
con người có lí tưởng, sống tốt, sống đẹp./.
Bài văn 17 : NLXH : Phía sau những lời khen…
Lời khen như một thứ gia vị không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Dù ở bất cứ
lứa tuổi hay cương vị nào thì con người cũng thích những lời động viên, khen ngợi từ người
khác dành cho mình. Tuy nhiên, lời khen luôn có hai mặt của nó. Nếu là lời khen chân thật, đúng
hoàn cảnh thì nó sẽ có tác dụng khích lệ, động viên con người phát triển theo chiều hướng tích
cực, còn những lời khen giả dối, lời khen không được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ thì nó sẽ phản
tác dụng, gây ra những hậu quả khôn lường bởi phía sau những lời khen luôn tiềm ẩn nhiều điều
mà ta không thể biết trước được.
Lời khen là lời ngợi ca, tán thưởng, khâm phục của mọi người dành cho một cá nhân nào
đó. Lời khen có hai loại là lời khen tốt và lời khen xấu. Lời khen tốt là lời khen xuất phát từ tận
đáy lòng, từ sự chân tình, không vụ lợi, và là động lực để con người phấn đấu vươn lên. Còn lời
khen xấu là những lời khen không thật lòng, ẩn chứa nhiều mưu đồ và sự giả dối. Đó chỉ là
những lời khen xã giao nhằm mục đích lấy lòng hoặc để đạt được một mục đích nào đó. Lời khen
giống như một con dao hai lưỡi, nó có thể là lời khích lệ động viên cũng có thể là cái bẫy đẩy con
người tới một việc làm xấu. Bởi vậy, con người cần phải tỉnh táo trước những lời khen của người
khác.
Có người đã từng nói rằng “Người khen ta mà khen phải là bạn ta. Những kẻ vuốt ve
nịnh bợ là kẻ thù của ta”. Những lời khen chân thành, đúng lúc, đúng chỗ sẽ giúp người được
khen có được niềm vui, niềm hạnh phúc, sự sung sướng và tự tin. Khi chúng ta làm được một
việc tốt, một lời khen kịp thời sẽ giúp ta có thêm sức mạnh, niềm tin, khiến niềm vui được lan tỏa
đến với mọi người xung quanh. Lời khen tốt là phần thưởng mà con người xứng đáng được nhận
sau những cống hiến, hi sinh và sự nỗ lực của bản thân, giúp con người có thêm sức mạnh và
ý chí để đi đến thành công. Một lời khen tốt có thể giúp một học sinh học yếu có ý chí phấn
đấu. Một lời khen tốt có thể giúp cho người sa ngã muốn hướng thiện có thêm sức mạnh để làm
lại cuộc đời. Một lời khen tốt giúp con người vượt qua thử thách…
Tuy nhiên, không phải lúc nào lời khen cũng mang lại những tác dụng tốt. Lời khen là liều
thuốc tốt cho đời sống tinh thần nhưng đôi khi nó trở thành một mối nguy hại vì có biết bao
mầm mống của sự ảo tưởng, kiêu ngạo có thể sinh ra từ đó. Những lời khen với mục đích xã giao,
không xuất phát từ cái nhìn thực tế thường là những lời khen có cánh, nó tức thì làm lan tỏa xung
quanh ta thứ hương thơm ngọt dịu, xây dựng trước mắt ta một lâu đài ảo mộng khiến ta đắm
chìm trong giấc mộng ảo đó. Bản chất của con người thường kiêu ngạo, vậy nên khi nghe lời khen
giả tạo hay thực chất đó là những lời xua nịnh thì con người dễ trở nên kiêu ngạo hơn là sự khiêm
nhường. Có thể cá nhân đó mới đạt được chút thành công bé nhỏ mà họ đã tự xem mình là trung
tâm của vũ trụ, xem mình là hơn tất cả, đến khi thất bại dễ trở nên yếu đuối.
Không chỉ vậy, phía sau những lời khen giả tạo còn là cả một sự áp lực nặng nề cho
người được khen. Vì được khen nên cá nhân đó phải gồng mình lên để sống tốt, làm việc tốt, học
thật giỏi…. Những cố gắng đó đôi khi khiến con người trở nên căng thẳng vì sợ lúc nào mọi
người xung quanh cũng đang theo dõi việc làm của mình. Lời khen giả tạo có thể làm cho con
người ngộ nhận, ảo tưởng để rồi phải sống như một con rô bốt, như một con vẹt, chỉ dám nói
hành động theo dư luận mà không dám sống là chính mình.
Tôi đã từng được nghe một câu chuyện kể về một vị tướng tài ba, có tài cầm quân. Ông chỉ
huy trận nào là thắng trận đó. Rồi ông trở thành quốc vương của cả một vùng đát rộng lớn. Ông
được mọi người tung hô, khen ngợi, nhưng rất ít lời khen thật lòng. Những đại thần thường
vây quanh ông, khen ngợi ông hết lời để được ông ban thưởng vàng, lụa. Họ nịnh bợ ông, khẳng
định với ông mình sẽ mãi trung thành và dù biết là nịnh bợ nhưng ông lại rất thích và rất tin vào
điều đó. Cho đến một ngày, đát nước xảy ra biến cố, ông kêu gọi sự hợp sức của
các đại thần nhưng họ đều lần lượt bỏ rơi ông. Đến khi ông nhận ra mình đã tin tưởng một
cách mù quáng thì đát nước đã rơi vào tay kẻ khác.
Trong cuộc sống không phải ai cũng có thể tỉnh táo trước lời khen của người khác. Bên
cạnh những người đã biết biến lời khen thành sức mạnh để phấn đấu thì một số người dẫu biết
những lời khen chỉ mang tính chất “cho vừa lòng nhau” nhưng họ vẫn ngộ nhận, tin là thật.
Một số khác lại quá coi thường lời khen hoặc lạm dụng lời khen để trêu chọc người khác, làm mất
đi những mối quan hệ tốt đẹp trong xã hội. Đó đều là những hiện tượng xấu mà chúng ta cần
khắc phục.

Một lời khen có thể khiến con người đến được tới đỉnh vinh quang nhưng cũng có thể
khiến con người rơi xuống vực sâu của sự thất bại. Vì vậy, chúng ta cần phải tỉnh táo để phân biệt
được đâu là lời khen tốt, đâu là lời khen xấu, lời khen giả tạo. Tâm lí con người rất thích được
khen bởi vậy mỗi người trong chúng ta không nên tiết kiệm lời khen nhưng cũng không nên lạm
dụng nó. Hãy học cách khen chân thành, đúng lúc, đúng chỗ và lắng nghe lời khen có chọn lọc.
Đó mới là cách sống của một người hiểu biết và thông minh.
Là một học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường, mỗi chúng ta hãy biết tỉnh táo trước mọi lời
khen. Chúng ta không nên quá khiêm tốn cũng không nên tự kiêu trước lời khen mà mình
nhận được mà hãy luôn trau dồi bản thân để trở thành một công dân có ích cho xã hội
Lời khen là một phần không thể thiếu trong cuộc sống, là động lực để chúng ta đi tới
những thành công, là bài học để mỗi người trở nên trưởng thành, cúng cáp. Bởi vậy chúng ta hãy
sử dụng lời khen đúng lúc, đúng chỗ như một món quà mà cuộc sống ban tặng cho con người.
Bài văn 18: Phía sau lời nói dối….
Người ta thường nói không có gì đẹp hơn sự thật, sự thật khiến cho con người trở nên
thực tế, tìm được những hướng đi đúng đắn cho bản thân mình. Tuy nhiên không phải lúc nào sự
thật cũng là màu hồng và không phải lúc nào con người cũng nói thật, thi thoảng con người nói
dối để khích lệ, động viên người khác hoặc để đạt được mục đích nào đó.
Bởi vậy chúng ta cần trân trọng trước những lời nói của người khác, vì sao những lời nói
dối luôn tiềm ẩn nhiều điều mà ta không thể biết trước được.
Nói dối là nói không đúng sự thật, xuyên tạc sự thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có,
bịa đặt thêm bớt để lừa dối người khác, để làm trò vui cho mình hoặc để đạt được mục đích nào
đó. Nói dối thường có hai loại, lời nói dối vô hại và lời nói dối có hại. Lời nói dối vô hại là những
lời nói dối không có ác ý, nói dối để che giấu đi sự thật tránh làm người khác đau lòng, tổn
thương, nói dối để người khác có niềm tin và động lực để vươn lên trong cuộc sống. Lời nói dối
có hại là lời nói của những kẻ hèn nhát, không dám đối diện với sự thật, nói dối có mưu đồ,
toan tính, nói dối để trêu đùa, chọc ghẹo người khác. Nói dối giống như con dao hai lưỡi vừa có
lợi vừa có hại, bởi vậy chúng ta không nên lạm dụng lời nói dối, sử dụng lời nói dối chỉ khi nào
thực sự cần thiết và cần phải tỉnh táo trước lời nói dối của người khác.
Phía sau lời nói dối có nhiều nguyên nhân và động cơ khác nhau, phía sau lời nói dối có thể
là sự yếu đuối, hèn nhát của những con người không dám đối diện với sự thật. Họ nói dối
để phủ nhận sự thật, che giấu đi sự yếu đuối họ, nói dối để tỏ ra mình là người mạnh mẽ trước mặt
người khác, nhưng khi chỉ có một mình Họ lại cảm thấy cô đơn và khóc vì mệt mỏi. Họ sợ rằng
mọi người thấy mình yếu đuối thì sẽ xa lánh, né tránh, bởi vậy họ luôn tìm cách nói dối để tạo
nên những mối quan hệ trong xã hội. Những mối quan hệ mong manh có thể sụp đổ bất cứ lúc nào
khi sự thật được hé lộ, những người nói dối thường là những người không trung thực. Bởi thế
họ luôn phải nói dối để được người khác tin tưởng, phía sau những lời nói dối có hại ấy là những
hệ lụy không ai mong muốn, những hệ quả khôn lường nói dối khiến cho người khác mất lòng
tin vào bản thân mình, dù chỉ một lần nói dối thôi thì cũng đủ để người khác nghi ngờ, đề phòng
khi bạn nói thật. Không chỉ vậy những lời nói dối còn khiến người khác cảm thấy bị tổn thương
nặng nề, khi bị lừa dối làm rạn nứt những mối quan hệ vốn đang rất tốt đẹp, nói dối thường kéo
theo nhiều hành động gian dối làm xói mòn nhân phẩm và tiền đề cho nhiều tệ nạn xã hội phát
sinh như trộm cướp.
Không chỉ vậy phía sau những lời nói dối có hại là cả một sự thật mất mát, đau đớn cho
người nghe. Lời nói dối khiến cho người nghe trở nên ngộ nhận khi họ không biết người đối
diện mình đang nói dối, họ sẽ tin tưởng một cách không đề phòng khi biết được sự thật họ cảm
thấy đau đớn vì mình bị đem ra làm trò đùa, mình chỉ là con rối trong tay người khác khiến họ xa
lánh những người xung quanh, không tin tưởng bất kỳ một ai khác. Nói dối còn có hại trực tiếp
đến những người nói dối khiến họ bị trầm cảm hoặc phấn khích quá mức, khi nói dối bộ não con
người sẽ hoạt động quá công suất bởi luôn phải bịa ra những điều không có thật, khiến cho con
người luôn ở trong trạng thái căng thẳng bất an.
Tôi đã từng đọc một câu chuyện, câu chuyện đã đem đến cho tôi nhiều bài học quý giá
chuyện kể về một cậu bé chăn cừu rất thích nói dối người khác. “Một hôm cậu đi chăn cừu, vì
cảm thấy buồn chán cậu tìm cách chọc ghẹo những bác nông dân gần đó để cho thoải mái, vui vẻ.
Cậu bắt đầu hét toáng lên sói, sói, sói, cứu cháu với, những người nông dân gần đó nghe tiếng
kêu liền chạy tới. Nhưng đến nơi chẳng thấy sói đầu đàn cừu vẫn bình an vô sự, họ tức giận bỏ
đi lần thứ hai, lần thứ ba, sự việc lặp lại tiếp diễn. Đến lần thứ tư sói đến thật nhìn thấy đàn sói
hung dữ cậu bé hốt hoảng kêu lên sói, có sói, có chó sói cứu cháu với nhưng chẳng ai đến cứu
cậu nữa bởi họ chẳng thể nào tin nổi những kẻ nói dối. Vậy là chỉ vì lời nói dối của mình mà
cậu phải chứng kiến cảnh đàn cừu của mình bị sói ăn thịt.
Tuy nhiên không phải lúc nào nói dối cũng có hại, đôi khi một lời nói dối đúng lúc sẽ
khiến cho con người có niềm tin vào cuộc sống giúp họ vượt lên sau mỗi lần thất bại, có nghị lực
để sống một cuộc sống đầy ý nghĩa, nói dối sẽ khiến cho những người nghe tiếng được cảm
giác đau lòng. Bác sĩ nói dối bệnh nhân về bệnh tình của họ để mong họ có nghị lực để chiến
đấu với bệnh tật, dù con gái của mình bị bệnh nặng nhưng người mẹ vẫn nói dối đứa con thơ rằng
nó chỉ bị ốm và ngày, khi nó khỏi bệnh mẹ và nó sẽ cùng nhau đi du lịch thế giới.
Những điều đó khiến tôi nhớ đến câu chuyện mà bà tôi thường hay kể, “có một anh học trò lặn lội
đến kinh thành để dự thi, anh đã đem sách miệt mài ba năm trời để mong được Đỗ Trạng
nguyên, để lưu danh hậu thế, rồi Anh đến kinh thành nghỉ trọ lại ba hôm, khi đi ra phố anh gặp
một ông thầy bói, anh muốn xem số phận may rủi của mình ra sao bèn ngồi xuống để xem một
quẻ. Ông Thầy bói nhìn tướng số anh không tốt ông im lặng, anh học trò không hiểu có
chuyện gì xảy ra bèn gặng hỏi? anh học trò lo lắng kể cho ông thầy bói nghe về chặng đường học
hành vất vả của mình, ông thầy bói mỉm cười và nói với anh chàng chỉ cần học hành, ôn luyện
chăm chỉ thì nhất định sẽ đỗ cao dù ông biết rằng anh đi thi sẽ chẳng được gì. Anh học trò nghèo
tin vào lời của ông thầy bói học hành ôn luyện cật lực quả nhiên kỳ thi năm đó Anh đỗ Trạng
nguyên, anh đến đa tạ ông thầy bói. Ông thầy bói chợt nhận ra rằng không phải lúc nào sự thật
cũng có lợi.
Một lời nói dối có thể khiến con người thoát khỏi tuyệt vọng, đưa họ đến đỉnh vinh
quang, mang đến cho họ niềm vui và hạnh phúc. Nhưng cũng có thể khiến con người cảm thấy tổn
thương, đau đớn bởi vậy chúng ta cần phải tỉnh táo trước những lời nói của con người.
Tuy nhiên trong cuộc sống không phải ai cũng nói thật, một số người coi nói dối là
niềm vui, là trò vui tiêu khiển, họ cảm thấy hả hê khi người khác bị lừa dối, một số khác
không tỉnh táo trước những lời nói của người, luôn tin tưởng người khác quá mức dễ rơi vào vực
thẳm tuyệt vọng, đó là những lối sống cần phải phê phán.
Mỗi người trong chúng ta nên thận trọng trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, không nên nói
dối làm mất lòng tin ở người khác và cũng không nên lạm dụng lời nói dối một cách quá mức,
làm mất đi những mối quan hệ khác trong xã hội.
Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cần phải rèn luyện cho mình đức tính
trung thực, không dối trá, hoàn thiện bản thân để trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.
lời nói dối là động lực để con người vươn lên là niềm tin để con người vươn tới đỉnh cao của
thành công, là mũi dao khiến con người tổn thương, đau khổ. Bởi vậy chúng ta không nên nói dối,
chỉ nói dối khi cần thiết, để cuộc sống trở nên văn minh, tốt đẹp hơn./.
Bài văn 19: NLXH : Theo đuổi ước mơ….
Bài làm
Nhà văn Trung Quốc - Lỗ Tấn đã từng viết: “Ước mơ không phải là cái gì sẵn có cũng
không phải cái gì không thể có. Ước mơ giống như một con đường tiềm ẩn để con người khai phá
và vượt qua”. Trong cuộc sống, hẳn mỗi người trong chúng ta đều có những ước mơ. Và để đạt
được ước mơ con người phải nỗ lực cố gắng, thậm chí phải hi sinh bản thân mình nhưng khi
đạt được chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Vì vậy chúng ta hãy luôn “Theo đuổi ước
mơ….”
Ước mơ là những mong muốn khát khao cháy bỏng trong tâm hồn con người, ước mơ
chính là cái đích mà con người vạch ra để có động lực phấn đấu. Để đạt được ước mơ con
người cần đi theo một lộ trình được vạch sẵn, đó gọi là hành trình đi đến ước mơ. Thế nhưng
cuộc hành trình đó có vô vàn những khó khăn thử thách, đòi hỏi con người phải thật sự nỗ lực cố
gắng, và phải luôn luôn nuôi trong mình niềm tin để “Theo đuổi ước mơ”.
Vậy tại sao con người phải biết “theo đuổi ước mơ”? Đối với nhiều người, ước mơ chính là
mục tiêu để con người nỗ lực phấn đấu. Họ sẽ phải vượt qua muôn vàn những khó khăn, thử
thách, phải bỏ sức lực, trí tuệ, phải đổ mồ hôi, nước mắt mới có thể đạt được. Và khi đã đạt
được ước mơ này thì con người sẽ lại có những ước mơ khác. Cứ như vậy, cuộc đời của chúng ta
sẽ là một cuộc hành trình theo đuổi ước mơ.
Theo đuổi ước mơ cũng giống như chinh phục một cuộc chạy. Nhưng đó không phải là một
cuộc chạy đơn thuần mà đó là một cuộc chạy kéo dài đến vô tận bao gồm nhiều đường chạy
khác nhau. Đó có thể là đường chạy marathon, nếu ta không biết nỗ lực cố gắng thì sẽ chẳng
bao giờ ta có thể tới được đích. Điều đó đồng nghĩa với việc con người chẳng bao giờ có thể
chạm tay đến được ước mơ. Đó cũng có thể là đường chạy vượt rào với đích đến là những
bông hoa đầy hương sắc. Để cầm được trên tay những bông hoa lộng lẫy ấy con người cần phải
tìm cách vượt qua mọi rào cản. Có thể trên những đường chạy ấy sẽ có lúc ta vấp ngã, đôi bàn
chân sẽ rớm máu nhưng nếu quyết tâm thì kết quả đạt được sẽ làm ta hài lòng. Trong bài hát
“Đường đến đỉnh vinh quang”, cố nhạc sĩ Trần Lập đã viết “Chặng đường nào trải bước trên
hoa hồng mà bàn chân không thấm đau vì những mũi gai. Đường vinh quang đi qua muôn ngàn
sóng gió […] Ngày đó, ngày đó sẽ không xa xôi. Và chúng ta là người chiến thắng. Đường đến
những ngày vinh quang không còn xa. Con đường chúng ta đã chọn…”. Tôi tin chắc rằng nếu
chúng ta nỗ lực, cố găng thì sẽ đạt được ước mơ.
Không chỉ ước mơ là một đường chạy mà ước mơ còn cho ta thấy giá trị của của thời
gian đời người. Chỉ cần một phút ta lơ là, do dự là ta có thể đánh mất ước mơ dù nó đã ở trong tầm
tay, bởi ước mơ cũng giống như một cuộc chạy nước rút, chỉ cần ta nhanh hơn người khác một
giây cũng đủ để ta làm nên kì tích và chậm chân hơn người khác một giây cũng khiến ta trở
thành người thua cuộc. Và ước mơ cũng không đến với chúng ta một cách dẽ dàng mà đôi khi
chúng ta cũng cần đến sự giúp đỡ của những người xung quanh. Nó giống như một cuộc chạy
tiếp sức, nếu cá nhân chỉ chăm chú hoàn thành đường chạy của mình mà không phối hợp với đồng
đội thì khó lòng ta giành được chiến thắng.
Nhờ theo đuổi ước mơ mà con người biết sống có kế hoạch, biết vạch sẵn ra những
bước đi để biến ước mơ thành hiện thực. Theo đuổi ước mơ cũng giống như vẽ một bức tranh
vậy. Nếu chúng ta nghĩ lâu về điều mình muốn vẽ, nếu chúng ta dự tính được càng nhiều màu sắc
muốn thể hiện, chắc chắn về chất liệu muốn sử dụng thì bức tranh trong thực tế càng giống với
những hình dung của chúng ta và khi đạt được nó thì sự phấn khích và niềm vui càng được nhân
lên gấp bội.
Đã bao giờ chúng ta tự hỏi cuộc sống sẽ ra sao nếu con người không dám ước mơ và theo đuổi
ước mơ của mình? Ước mơ là những điều ta luôn ấp ủ nên ước mơ không bao giờ biến mất mà nó
chỉ tạm lắng xuống. Nếu chúng ta không theo đuổi nó thì một thì một ngày nào đó nó sẽ quay
trở lại, day dứt trong bạn, làm cho bạn cảm thấy hối tiếc. Nếu không theo đuổi ước mơ thì cuộc
sống của chúng ta sẽ trở nên vô vị, tẻ nhạt, nhàm chán, khi không có ước mơ con người sẽ chỉ
biết nghĩ đến những gì hời hợt, nông cạn, không biết phấn đấu, không có mục tiêu…
Tôi đã từng được đọc một câu chuyện, câu chuyện ấy đã để lại cho tôi nhiều bài học có ý
nghĩa. Truyện kể về một đoàn khách đến thăm một trang trại ngựa lớn. Ông chủ đón tiếp một cách
niềm nở và kể cho họ nghe một câu chuyện. Có một cậu bé tiểu học đã rất háo hức khi được
giao bài tạp về nhà với tựa đề “Hãy thuyết trình về ước mơ của em”. Về tới nhà cậu bé nọ đã bắt
tay ngay vào công việc của mình. Đầu óc non nớt của cậu không ngừng nghĩ về trang trại
ngựa với số lượng lên tới hàng ngàn con cùng với những đường đua chạy dài. Đã từ
lâu cậu bé mơ ước sẽ được làm chủ một trang trại ngựa và cậu quyết định đưa nó vào bài tập về
nhà của mình. Cậu còn vẽ rất tỉ mỉ, chi tiết về sơ đồ trang trại trong mơ tưởng. Hạn nộp bài đã
đến, cậu bé đã được thầy khuyên nên từ bỏ ước mơ bởi theo thầy ước mơ của cậu chỉ quá xa rời
thực tế và thầy yêu cầu hãy làm lại bài và nộp vào hôm sau. Về nhà cậu bé không ngừng suy nghĩ
và cậu quyết định giữ lại ước mơ và nhận điểm kém. Sau này cậu bé ấy đã thực hiện được ước
mơ của mình. Đến đây ông chủ trang trại ngựa cất cao giọng: “Các bạn! Cậu bé đó chính là tôi.
Và đáng chú ý là cách đây vài tuần người thầy giáo đã đến và nói với tôi rằng: Cảm ơn vì em
đã cho thầy thấy chỉ cần có ước mơ con người có thể biến nó thành hiện thực”. Nhờ ước mơ mà
một cậu bé bình thường đã trở thành ông chủ trang trại giàu có. Câu chuyện trên đã nhắc nhở
chúng ta rằng phải dám ước mơ và quyết tâm theo đuổi để biến ước mơ thành hiện thực.
Thế nhưng bên cạnh những con người đang ngày đêm theo đuổi ước mơ và nỗ lực hết sức
để ước mơ trở thành hiện thực thì vẫn còn một bộ phận có những suy nghĩ lệch lạc. Một số người
được sinh ra trong những gia đình có điều kiện, được cha mẹ nuông chiều, luôn được cha mẹ đáp
ứng những nhu cầu, mong muốn của mình nên sống ỉ lại, thụ động, phụ thuộc vào sự định hướng
của gia đình mà không dám bộc lộ ước mơ. Một số khác thì theo đuổi những ước mơ quá xa
vời, thiếu thực tế. Một số lại sống bằng lòng với thực tại, ngại khó, ngại khổ khi theo đuổi ước
mơ…. Đó đều là những cách sống vô vị, nhàm chán mà chúng ta cần phải phê phán.
Ước mơ không dành cho những người lười biếng, không có lí tưởng. Ai trên đời này cũng có
ước mơ và hoài bão, quan trọng là chúng ta có dám thực hiện nó không mà thôi. Vì vậy, mỗi
người chúng ta hãy có cho mình một ước mơ, hi vọng. Nếu ai đó sống không có ước mơ, khát
vọng thì cuộc đời tẻ nhạt, vô nghĩa biết nhường nào.
“Đừng để ai đánh cắp ước mơ của bạn”. Hãy tìm ra ước mơ cháy bỏng nhất của mình và
chúng ta hãy cùng nhau thực hiện nó từ ngay hôm nay bởi không có gì là không thể làm nếu ta
có đủ quyết tâm. Hãy cháy lên để tỏa sáng và hãy biết “theo đuổi ước mơ”.

Bài văn 20 : Hãy sống trọn vẹn nhất.


Bài làm.
Mỗi con người chỉ được sinh ra và sống duy nhất một lần trên đời, chúng ta không có
quyền “đặt vé” trước cho cuộc sống của mình, mà chúng ta chỉ có thể cố gắng tạo ra cho mình một
cuộc sống tốt nhất, như mong đợi nhất, có rất nhiều cách sống, nhưng ai trên đời này cũng luôn
muốn sống một đời sung túc, viên mãn, ai cũng luôn đặt ra mục tiêu, hãy sống ý nghĩa nhất, hãy
sống trọn vẹn nhất. Vì sao vậy?
Đời người như một cái cây đầy trồi xanh và quả non, ấp ủ rất nhiều ước mơ, khát vọng,
sống trọn một đời chỉ nên luôn cố gắng làm cho những trồi xanh, trái non đó trở thành hoa
thơm quả ngọt, ấy mới là cuộc sống trọn vẹn. “Trọn vẹn”, là đầy đủ không thừa cũng không
thiếu, sống trọn vẹn là cuộc sống được viên mãn về mọi thứ, là cuộc sống mà khi con người ta
được là chính bản thân mình, tự tạo ra tự hưởng cuộc sống của mình. “Hãy sống trọn vẹn
nhất”, là lời khuyên giá trị hướng con người đến cuộc sống ý nghĩa và ý nghĩa chỉ khi ta được
sống đúng với chính mình, làm những điều mình yêu, bỏ những thứ mình ghét. Câu nói đã để lại
cho chúng ta những suy ngẫm về quan niệm sống ở đời.
Chúng ta ai cũng muốn sống một đời trọn vẹn, “sống trọn vẹn” là sống như thế nào? hãy
tưởng tượng chúng ta đang sống trong cuộc sống bế tắc, trở ngại, ta không thể làm những điều
mình muốn, giả vờ yêu thương những điều mình ghét, trước mặt mọi người là một sắc thái
nhưng khi chỉ còn một mình lại mang một sắc thái khác, hoặc cuộc sống của ta phải nghe theo ai
đó, bị người khác điều khiển. Như vậy cuộc sống có còn màu sắc, có còn ý nghĩa không? vì
thế sống trọn vẹn nhất là khi ta được sống với chính bản thân mình. Con người có kết cấu “Cái
bên trong”, và “cái bên ngoài”, hay nói cách khác là suy nghĩ nhận thức và thái độ hành động
kết hợp lai tạo thành một bản thể. “người sống trọn vẹn”, là người sống thành thật với chính
mình, là người có sự thống nhất giữa suy nghĩ nhận thức và hành động của mình. Sống thật
với chính mình là khi ta làm những điều mình muốn, loại bỏ thứ mình ghét, cử chỉ, hành động
đúng với cá tính của mình. Wiliam Artheer Ward từng nói: “ Có một điều mà ta có thể làm được
tốt hơn bất cứ ai khác, chúng ta có thể là chính mình. Là chính mình sống thật với hoàn cảnh,
tính cách của mình. Bởi không ai có thể hiểu bản thân ta như chính ta cả, cũng không ai có thể
sống thay cuộc sống của mình nên tự bản thân mình biết mình muốn gì, cần gì? nếu không đủ bản
lĩnh và lòng tin để sống thật, thì ta cũng dễ bị đánh mất bản thân mình, ảo tưởng mình là một
người khác, sống cuộc sống của người khác, mặc dù biết sự thật không phải như ta đang thể hiện
cho mọi người thấy, nhưng ta vẫn cố làm. Những điều, những người ta không ưa, ta vẫn tỏ ra
yêu quý, thân ái. Khi làm những điều như vậy bản thân sẽ chẳng được thoải mái, mãn nguyện.
Sống mà lúc nào cũng giả tạo với thiên hạ không là chính mình thâm tâm mình không bình phẳng,
chẳng phải hoài phí một đời sao?
Chúng ta nên sống thật với bản thân, sống là chính mình trong mọi hoàn cảnh như thế mới
có thể hướng đến một đời trọn vẹn. Ralph waldo Emerson từng nói: “ sống như chính mình
trong một thế giới luôn cố biến mình thành một người khác, là thành tựu lớn nhất”, và giá trị
của thành tựu này đó là ta được hưởng một cuộc sống trọn vẹn. Sống thật với bản thân mình ta sẽ
luôn tự tin thể hiện cá tính không phải lo lắng, sợ người khác thấy được bộ mặt thật của mình. Khi
ta tự tin với chính mình, ta làm chủ được cuộc sống làm những điều mình muốn, thỏa sức với
sở thích và đam mê mà không quan tâm người ngoài ý kiến thế nào. Bởi đó là đam mê, sở thích
của mình. Có sống thật với đam mê thì ta mới cảm nhận được ý nghĩa của cuộc sống, hoàn cảnh
là thứ ta nên cần chấp nhận và cố gắng vượt qua, giải quyết mọi khó khăn trong hoàn cảnh theo
suy nghĩ, nhận thức của bản thân sẽ giúp ta trở thành con người chủ động và được người khác tin
tưởng, tôn trọng ta, thêm yêu và thêm nhiệt tình với cuộc sống hơn.
“Tôi đã thành công, vậy mà lúc đầu tôi nghĩ mình sẽ không đủ can đảm để thực hiện mơ
ước với tôi đã đánh mất bản thân mình trong một thời gian rất dài. Từ nhỏ tôi rất đam mê thời
trang, tôi thường lén giấu những con búp bê trong hộc bàn và lân la khắp các tiệm may để xin vải
vụn về may quần áo cho búp bê. Tôi rất thích thú khi có ý tưởng thiết kế kiểu mới cho những bộ
trang phục mình may cho búp bê, nhưng trớ trêu ba mẹ tôi phát hiện tôi chơi búp bê với một đứa
con trai như tôi được chơi búp bê là hết sức không bình thường, ba mẹ tôi đã đánh
tôi một trận rất đau đốt hết búp bê và mấy bộ quần áo búp bê Tôi may và cấm tôi không được
đụng đến nữa. Tôi rất buồn bẵng đi một thời gian tôi ra tiệm đồ chơi mua một con búp bê
khác, hôm đó tôi gặp thằng bạn cùng lớp tôi, nó thấy tôi mua búp bê biết ở nhà tôi là con một nên
đã la toáng lên, hôm sau ra lớp nó kể hết cho mọi người nghe từ đó tôi bị gắn danh là bê đê,
đồng tính. Tôi rất buồn chán, tôi không có đồng tính chẳng qua tôi mua búp bê để thiết kế quần
áo. Nhưng dù có nói mọi người cũng cho rằng may vá, thêu thùa là việc của đàn bà, con gái. Tôi
bỏ bê sở thích của mình, vì mặc cảm, vì sợ sệt. Nhưng tôi vẫn theo dõi các chương trình thời
trang không bỏ sót chỗ nào, suốt từ đó cho đến khi lên đại học tôi luôn day dứt vì không được
thực hiện đam mê, không được là chính mình, tôi đăng ký vào trường năng khiếu khoa Thiết kế
thời trang. Nhờ sự mạnh dạn và mong muốn được là chính mình bây giờ tôi đã đang rất thành
công, rất hạnh phúc. Đó là một lời tâm sự tôi đọc được qua một tờ báo Tuổi Trẻ của một nhà thiết
kế người Mỹ, một người bản lĩnh tìm lại bản thân để được sống với chính mình quả khiến người
khác ngưỡng mộ.
Trong cuộc sống có rất nhiều người sống thật với bản thân mình, luôn cố gắng sống một
đời ý nghĩa. Nhưng trái lại cũng có những người không tạo nên cuộc sống đúng nghĩa cho bản
thân mình, đó là những người có lối sống giả, không đúng với cá tính, vì một lý do mục đích
nào đó mà họ biến mình thành con người khác với bản chất, họ nhận thức một đằng nhưng
lại làm những điều trái lại với điều họ biết hoặc có thể là những người khoe khoang, những kẻ
nịnh bợ, những người sống ảo tưởng so với sự thật của mình, những người giả tạo nói những
điều mình không cho là đúng. Mặt khác chúng ta nên sống thật với bản thân là chính mình,
nhưng cũng không nên thái quá khiến người khác khó chịu, tự biến mình thành kẻ cố chấp, bảo
thủ khi chỉ thực hiện theo suy nghĩ của mình. Họ quan tâm tập thể hoặc thể hiện cá tính “nổi
loạn”, theo chiều hướng tiêu cực như cách ăn mặc, nói năng đi ngược lại mỹ quan của xã hội, thời
thế, đó là những người, những việc làm đáng bị phê phán, loại bỏ.
“Hãy sống trọn vẹn nhất”, câu nói giúp ta suy ngẫm về một lối sống ở đời, qua đó ta rút ra
bài học cần phát huy những việc tốt, để hướng đến một cuộc sống trọn vẹn và loại bỏ những điều
tiêu cực, cần có suy nghĩ nhận thức đúng đắn và tự tin sống thật với bản thân mình. Là một
người trẻ chúng ta đừng ngần ngại thể hiện bản thân, sống có lý tưởng, có chứng kiến, yêu thương
bản thân và mọi người xung quanh. Có như vậy ta mới có thể trở thành người có ích cho xã hội.
Les Bronn, nói rằng “hãy yêu thương bản thân vô điều kiện như là bạn yêu những
người thân thiết với mình bất chấp khuyết điểm của họ”, yêu bản thân mình chúng ta hãy cố
gắng tạo nên một cuộc sống trọn vẹn, sống là chính mình như: Pe seuss đã từng nói “Hãy là
chính mình và nói điều bạn muốn nói”./.
Bài văn 21 : Đọc và suy ngẫm về câu chuyên. ̣
“Hai hạt mầm”.
Có hai hạt mầm nằm cạnh nhau trên một mảnh đất màu mỡ. Hạt mầm thứ nhất nói: Tôi muốn lớn
lên thật nhanh. Tôi muốn bén rễ sâu xuống lòng đất và đâm chồi nảy lộc xuyên qua lớp đất cứng
phía trên…
Tôi muốn nở ra những cánh hoa dịu dàng như dấu hiệu chào đón mùa xuân… Tôi muốn cảm
nhận sự ấm áp của ánh mặt trời và thưởng thức những giọt sương mai đọng trên cành lá.
Và rồi hạt mầm mọc lên. Hạt
mầm thứ hai bảo:
– Tôi sợ lắm. Nếu bén những nhánh rễ vào lòng đất sâu bên dưới, tôi không biết sẽ gặp phải
điều gì ở nơi tối tăm đó. Và giả như những chồi non của tôi có mọc ra, đám côn trùng sẽ kéo đến
và nuốt ngay lấy chúng. Một ngày nào đó, nếu những bông hoa của tôi có thể nở ra được thì bọn
trẻ con cũng sẽ vặt lấy mà đùa nghịch thôi. Không, tốt hơn hết là tôi nên nằm ở đây
cho đến khi cảm thấy thật an toàn đã. Và
rồi hạt mầm nằm im và chờ đợi.
Một ngày nọ, một chú gà đi loanh quanh trong vườn tìm thức ăn, thấy hạt mầm nằm lạc lõng trên
mặt đất bèn mổ ngay lập tức.

Bài làm.
Thảo Nguyên (Theo The Seeds of Life)
Đã có ai đó từng nói rằng “không bao giờ nên cho kẻ chỉ giăng buồm lúc mọi nguy
hiểm đã qua ra biển”. Đời người là một chặng đường dài với nhiều điều mà ta không thể nào
lường trước được, nhưng mỗi chúng ta dù theo cách này hoặc cách khác đều phải lớn lên phải đi
qua mọi giông tố. Tôi từng đọc một câu chuyện bàn về vấn đề này, đó là câu chuyện “Hai hạt
mầm”, câu chuyện thực sự đã để lại nhiều suy ngẫm trong tôi và mọi người.
Có những câu chuyện thậm chí là tiểu thuyết rất dài nhưng đọc xong chỉ là chút cảm xúc
mơ hồ, thoáng chốc rồi tan biến ngay, nhưng cũng có những câu chuyện dù ngắn gọn xúc tích
không màu mè nhưng đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc và không thể quên.
“Hai hạt mầm” là câu chuyện như vậy. Truyện nói về hai hạt mầm nằm cạnh nhau trên cùng một
mảnh đất. Hạt mầm thứ nhất thì muốn vươn lên mạnh mẽ để đâm chồi, nảy lộc, những điều
tốt đẹp trong tương lai, lại được hưởng ánh nắng sương mai rồi chờ những bông hoa thật đẹp,
hạt mầm thứ hai thì ngược lại bi quan, nghĩ đến những nguy hiểm trong tương lai rồi sợ sệt không
muốn vươn lên và cuối cùng hạt mầm thứ hai bị một chú gà mổ ăn mất. Trong câu chuyện suy
nghĩ của hạt mầm thứ nhất là suy nghĩ của lối sống tích cực, lạc quan, mạnh mẽ, sẵn sàng đối
đầu với khó khăn thử thách luôn mơ ước những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Còn hạt mầm thứ
hai lại đại diện cho người sống bi quan, sợ sệt trước những khó khăn trong cuộc sống luôn nghĩ
đến những điều trở ngại, thử thách và dễ nản lòng bỏ cuộc. Câu chuyện đã để lại cho ta một
triết lý, một bài học về cách sống, quan niệm sống, ở đời hãy luôn lạc quan mạnh mẽ vươn lên
trong cuộc sống, nếu bạn muốn thành công. Còn khi bạn bi quan, sợ sệt trước khó khăn cuộc đời
bạn sẽ thất bại.
Vì sao chúng ta nên sống lạc quan, yêu đời, mạnh mẽ vươn lên đối mặt với thử thách của
cuộc đời? Chúng ta được sinh ra trên đời lớn lên được dưới sự bao bọc chăm sóc của gia đình.
Khi chúng ta biết bước đi từng bước vững chãi, biết suy nghĩ bản thân cần gì, muốn gì, là khi
chúng ta có thể lựa chọn con đường cho cuộc hành trình làm người của mình. Trong cuộc hành
trình đó sẽ có những khó khăn, thử thách, những trở ngại mà chúng ta phải vượt
qua. Cuộc sống là bức tranh phong phú đầy màu sắc, mỗi người sinh ra với nhiệm vụ tô vẽ
thêm cho bức tranh đó những điều kỳ diệu và tốt đẹp . Khó khăn thử thách của cuộc sống
không hoàn toàn là trở lực mà chính là động lực giúp con người thêm trưởng thành trên con
đường đến với ước mơ của mình.
Mỗi con người ai ai cũng ấp ủ cho mình những ước mơ, khát vọng, đã là ước mơ thì
đương nhiên phải đẹp, phải cao cả. Ứớc mơ là thứ vô giới hạn và miễn phí chưa cần biết
chúng ta có thể đạt được hay không nhưng một khi có ước mơ con người có mục đích, có lý
tưởng hơn trong cuộc sống. Như là “hạt mầm thứ nhất” vậy mặc dù mới là một hạt mầm bé nhỏ
chưa nẩy chồi chưa nở những bông hoa rực rỡ sắc màu, chưa được đón ánh nắng ấm áp của mặt
trời, nhưng hạt mầm đã mơ ước và nghĩ đến những điều tốt đẹp đó không cần bận tâm mình sẽ
phải trải qua những trở ngại nào để lớn lên. “hạt mầm thứ nhất”, đã đặt ra mong muốn với ý
nguyện nhất định là được mạnh mẽ lớn lên, dũng cảm trưởng thành, dám mơ ước, dám thể hiện
là điều con người nên nhận thức và nên hành động. Con người để lớn lên về mặt thể xác là điều
rất dễ dàng, nhưng lớn lên trong tâm tưởng là điều đòi hỏi ở con người sự mạnh mẽ, dũng cảm,
tha thiết với cuộc sống. Ước mơ tiếp thêm cho con người sức mạnh bản lĩnh trước giông tố của
cuộc đời, động lực cho con người đâm chồi, nảy lộc, đơm hoa kết trái, thôi thúc con người phát
triển, trưởng thành, dũng cảm, lớn lên mạnh mẽ, bước những bước chân vững chắn trên đường
đời. Cuộc sống chỉ thật sự ý nghĩa khi con người biết mơ ước, biết lạc quan vươn lên và thành
quả chính là sự thành công với ước mơ, là sự mọc lên của một hạt mầm.
Mạnh mẽ vươn lên dũng cảm, ước mơ để khẳng định mình chính là bước đệm vững
chãi bước đến một cuộc đời tươi đẹp, còn ngược lại với điều này chính là sự rụt rè, nhút nhát
không dám mơ ước đến những điều tốt đẹp như hạt mầm thứ hai. Sống như vậy con người sẽ bị
vùi dập, gạt ra khỏi cuộc sống. Chúng ta không nên có lối sống như thế, Vì sao vậy? cùng là con
người, cùng được sinh ra lớn lên trong một môi trường như nhau, mỗi người có một cách sống
riêng, có một cách nảy mầm riêng, cũng như trên cùng một mảnh đất màu mỡ “hai hạt mầm”,
lại chọn cách sinh tồn khác nhau, hạt mầm thứ hai là đại diện cho những người hèn nhát, luôn
có suy nghĩ tiêu cực về tương lai, sợ sệt trước khó khăn nên vì thế mà không dám ước mơ,
những giấc mơ như vậy họ tưởng tượng ra đủ thứ nghịch cảnh, để ngụy biện cho sự hèn nhát của
bản thân, sống không có ước mơ họ trở thành những người không có động lực, họ không có
lòng dũng cảm đương đầu với những thử thách. Họ trở nên sợ sệt, e dè trước những khó khăn
cuộc đời. Họ sống rất thụ động, rất vô nghĩa, chỉ biết nằm im và chờ đợi nhưng lại chẳng thể
hiểu bản thân chờ đợi điều gì, và có đủ bản lĩnh để nắm bắt cơ hội cho mình hay không? thật
nực cười khi ta đọc suy nghĩ của hạt mầm thứ hai “tốt hơn hết là tôi nên nằm ở đây cho đến khi
cảm thấy thật an toàn đã”. Đối với hạt mầm thứ hai, đều tốt hơn hết mà nó cho rằng là nằm chờ
đến khi thật an toàn rồi mới tính tiếp đến việc nảy mầm. Đều khiến ta nực cười là ở chỗ một khi
đã thụ động rút nhát như vậy, thì đến bao giờ mới có cảm giác thật sự an toàn. Đây là lỗi suy
nghĩ của những con người không có lòng dũng cảm vươn lên và những người đã quen sống
trong sự bao bọc, che chở của người khác, với lối sống như vậy con
người sẽ thất bại trong cuộc sống, bị đào thải và gạt sang một bên giữa nhịp sống vội vã của
cuộc đời, của xã hội.
Chúng ta ai cũng đều biết đến Beethoven, nhà soạn nhạc cổ điển người Đức. Ông là người
dám mơ ước và dũng cảm sống mạnh mẽ vượt qua mọi khó khăn, trở ngại trong cuộc sống. Hồi
nhỏ Beethoven bị khiếm thính sau đó bị điếc hoàn toàn, sau đó nhờ vào ước mơ cháy bỏng
vào sự dũng cảm vượt qua mọi trở ngại. Ông vẫn trở thành một nhà soạn nhạc vĩ đại nổi tiếng thế
giới. Beethoven được coi là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất và có ảnh hưởng tới rất
nhiều nhà soạn nhạc khác, nhạc sĩ và khán giả về sau chúng ta thật khâm phục và ngưỡng mộ ông.
Trong cuộc sống bên cạnh những người có mơ ước, không ngừng vươn lên để đạt được
những thành quả tốt đẹp, cũng có không ít người luôn sợ hãi, rụt rè, nhút nhát trước những khó
khăn, thử thách của cuộc sống. Sống không có ước mơ, không học được cách lớn lên và
trưởng thành. Ngoài ra có những người có ước mơ nhưng đó lại là những ước mơ nhỏ nhặt, vị kỷ,
không mang ý nghĩa cao cả, tốt đẹp. Đó là những ham muốn cá nhân không phải là ước mơ cao
đẹp, những người những việc làm như vậy đáng bị chỉ trích, phê phán và dễ bị đào thải giữa cuộc
sống hối hả, tấp nập của con người.
Qua câu chuyện “hai hạt mầm”, ta rút ra được bài học, hãy luôn mạnh mẽ vươn lên
trong mọi hoàn cảnh, dũng cảm lớn lên dám ước mơ, dám thể hiện. Chúng ta là những người trẻ
những người đang sống trong khoảng thời gian đẹp nhất tràn đầy sức sống nhất của đời người.
Vì vậy chúng ta hãy trở thành những con người sống có lý tưởng, có ước mơ, khát vọng, luôn
ước mơ không ngừng cố gắng để vượt lên. Ta được ước mơ, khẳng định chính mình, có như
vậy ta mới có thể có một cuộc sống ý nghĩa, trở thành người có ích cho xã hội.
Peter Marshall từng nói, “khi chúng ta mong ước cuộc đời không nghịch cảnh, hãy nhớ
rằng cây sồi trở nên mạnh mẽ trong gió ngược và kim cương hình thành dưới áp lực”. Cuộc đời
con người không thể tránh khỏi những khó khăn thử thách, nhưng hãy nhớ một điều, đủ nắng
hoa sẽ nở, đủ hương gió sẽ bay, đủ yêu thương hạnh phúc sẽ đong đầy. Hãy chọn cách sống,
cách nghĩ tốt nhất để bản thân được nảy mầm một cách hoàn thiện.
Bài văn 22 : Cuộc sống cần những giọt nước mắt.
Người ta thường nói nếu đau khổ khiến người ta mạnh mẽ hơn, trái tim tan nát khiến
người ta biết nhìn xa trông rộng hơn, thì giọt nước mắt khiến người ta kiên cường hơn. Vì vậy hãy
cảm ơn giọt nước mắt, bởi nó giúp ta có một tương lai tốt đẹp hơn. Cuộc sống luôn cần những
giọt nước mắt, khi đau khổ con người ta khóc để giải tỏa căng thẳng, khi vui sướng hạnh phúc
con người ta khóc để sẻ chia niềm vui. Nhưng không phải lúc nào giọt nước mắt cũng là chìa
khóa để giải quyết mọi vấn đề, thế nên chúng ta cần phải trân trọng nó.
Giọt nước mắt là một trong những biểu hiện của trạng thái, cảm xúc, thể hiện sự xúc
động cao độ không thể kiềm chế khi vui, buồn, tức giận con người đều có thể khóc. Cuộc sống
cũng cần những giọt nước mắt, đã khẳng định sự cần thiết của giọt nước mắt trong cuộc sống.
Vậy tại sao cuộc sống cần những giọt nước mắt? tôi đã từng nghe mọi người nói khóc là
biểu hiện của sự yếu đuối và hèn nhát, nhưng không phải lúc nào cũng vậy, đôi khi nước mắt là
một hình thức cần thiết để giải tỏa căng thẳng, nỗi buồn giúp con người vơi đi niềm
đau, lấy lại năng lượng trong cuộc sống. Khi con người cảm thấy cô đơn không ai bên cạnh,
giọt nước mắt là người bạn duy nhất giúp con người lấy đi những lo lắng trong suy nghĩ.
Nước mắt còn là sự sẻ chia, kết nối hàng triệu trái tim với nhau, là biểu hiện của lòng
nhân ái. Một nhà văn đã từng nói, “Nếu bạn chưa từng khóc, đôi mắt bạn sẽ không thể đẹp”, đôi
mắt là cửa sổ tâm hồn diễn tả cảm xúc chân thật nhất của con người, giọt nước mắt chân thành
khi bạn gặp những mảnh đời nghèo khổ, bất hạnh, khi gặp một người bạn của mình đang khóc
trong đau khổ, sẽ điểm cho đôi mắt của bạn thêm đẹp hơn. Khi một đứa trẻ ra đời, giọt nước mắt
của nó khiến cho trái tim của ba, mẹ cảm thấy ấm áp, khi thấy đứa con sai lầm người mẹ đã khóc
khiến cho đứa con cảm thấy hối hận. Thế nên nước mắt rất cần trong cuộc sống, để sưởi ấm trái
tim và kết nối trái tim.
Đâu phải lúc nào có người khóc cũng thể hiện sự yếu đuối, đôi khi đó là những giọt
nước mắt của ý chí, nghị lực, lòng quyết tâm. Khi con người vấp ngã, họ khóc vì đau đớn, rồi
trong những giọt nước mắt ấy họ đã nhìn ra được nhiều sai lầm của mình để sửa chữa nó.
Người học sinh đã khóc khi biết mình thi rớt đại học, để rồi năm sau họ lại quyết tâm thi lại để đạt
được ước mơ, hoài bão của mình.
Không chỉ vậy, giọt nước mắt còn thể hiện sự ăn năn, hối lỗi khi con người làm sai việc gì
đó, họ sẽ cảm thấy vô cùng lo lắng, sợ hãi và khi chỉ có một mình Họ đã khóc. Chính giọt nước
mắt ấy đã giúp họ thức tỉnh, chúng cảm nhận ra được những sai lầm của mình để sửa chữa
ngày một hoàn thiện bản thân hơn.
Ngoài ra “Giọt nước mắt”, còn là sự xúc động chân thành, là biểu hiện của niềm vui
sướng, hạnh phúc, giọt nước mắt ấy cho ta niềm tin, tình yêu và cuộc sống mà ta đang có.
Người mẹ đã khóc khi nhìn thấy đứa con thơ chào đời khỏe mạnh, đã khóc khi nghe thấy đứa con
gọi tên mình, rồi khi nhìn thấy đứa con biết đi người mẹ đã bật khóc, rồi người mẹ lại rơi lệ khi
thấy đứa con của mình vào lớp 1. Suốt cuộc đời của người mẹ đã rơi biết bao nhiêu giọt nước mắt
hạnh phúc, vui sướng khi chứng kiến sự trưởng thành của con mình. Người học sinh đã khóc khi
được vinh dự xếp thứ nhất toàn trường, đó là những giọt nước mắt vui sướng sau bao nhiêu ngày
học tập vất vả.
Trong cuộc sống ta không khó để bắt gặp những giọt nước mắt hạnh phúc, trong cuộc thi
Robocon quốc tế đoàn Việt Nam cũng được tham gia khi trở về người dân Việt Nam, đặc biệt là
người thân của họ đã chào đón họ bằng những giọt nước mắt hạnh phúc, sung sướng.
Tôi đã từng đọc một câu chuyện, truyện kể về một cô gái do mâu thuẫn với mẹ, cô đã cãi
vã với mẹ và bỏ đi đã nhiều ngày liền, cô đi lang thang. Đến một hôm cô thấy thông báo của mẹ
tìm mình, dán khắp trên các hè phố, cô cảm thấy hối hận về việc mình đã làm và cô vô cùng nhớ
mẹ, cô muốn tìm trở về nhà. Nhưng khi cô trở về thì mẹ cô đã mất, cô thấy hối hận vô cùng, và
cô bật khóc, những giọt nước mắt của đau thương, mất mát. Phải chi lúc đó không nông nổi,
không cãi nhau với mẹ, thì cô đã được nhìn thấy mẹ lần cuối, hoặc mẹ của cô có thể sống lâu hơn.
Tuy nhiên không phải ai cũng trân trọng và biết được ý nghĩa thực sự của giọt nước
mắt, một số người sử dụng giọt nước mắt như một thứ vũ khí để che dấu cảm xúc của mình,
khiến người khác khó nắm bắt được họ đang nghĩ gì. Một số khác thì “nước mắt cá sấu”,
người khác chỉ mới góp ý thì đã khóc, thể hiện sự không hài lòng, không chỉ vậy một số người
còn yếu đuối, hèn nhát, chỉ biết lấy nước mắt để giải quyết vấn đề.
Chúng ta cần trân trọng và bồi đắp những cảm xúc chân thành trong cuộc sống để tâm hồn
của mỗi người không trở nên khô cần, chai sạn trong vòng quay của cuộc sống hiện đại. Nước
mắt luôn phải đi liền với lý trí, nhưng ta không nên để bị lý trí đánh lừa mà vấp phải những sai
lầm không đáng có. Trước những khó khăn thử thách, con người không nên chỉ biết khóc mà còn
cần phải biết chớp thời cơ, kiên trì vượt qua khó khăn.
Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta phải biết phê phán những hành
động, cách nghĩ sai trái, cố gắng học tập rèn luyện thật tốt để trở thành người công dân có ích cho
xã hội. Cuộc sống luôn cần nước mắt, nó là biểu hiện của lòng tin, của sự ăn năn, hối hận niềm
đau, nỗi buồn ,thể hiện một cách đầy đủ cảm xúc của con người. Con người nên sử dụng nước mắt
đúng lúc, đúng chỗ, để tránh gây ra những hậu quả đáng tiếc không lường tới./.
Đề bài 23 : Nếu một ngày cuộc sống nhuộm màu đen hãy cầm bút và vẽ cho nó những vì sao
lấp lánh.
“Trải bước trên hoa hồng mà bàn chân không thấm đau vì những mũi gai. Đường vinh
quang gian nan đang chờ đón, hãy bước đi trên con đường này ta bước đi hướng tới những
thành công”. Mỗi lần nghe lời bài hát “Đường đến đỉnh vinh quang”, của cố nhạc sĩ Trần Lập tôi
lại học được những bài học quý giá nó đã nhắc nhở tôi cuộc sống luôn có nhiều khó khăn, thử
thách, sẽ có lúc bạn gục ngã buồn đau. Nhưng điều quan trọng là bạn biết thay đổi vượt qua
những buồn đau ấy, cũng giống như “nếu một ngày cuộc sống nhuộm màu đen hay cầm bút và
về cho nó những vì sao lấp lánh”.
“Cuộc sống nhuốm màu đen”, là lúc bạn đang sống trong âu lo bởi bộn bề cuộc sống, với
những khó khăn, thử thách, sống trong cuộc sống ấy bạn sẽ luôn cảm thấy lo lắng, khó chịu.
“vẽ cho nó những vì sao lấp lánh”, là hành động tích cực của con người nhằm thay đổi cuộc
sống nhuốm màu đen biến nó thành cuộc sống tràn đầy ánh sáng và niềm tin hi vọng. “Nếu
một ngày cuộc sống nhuộm màu đen, hay cầm bút và về cho nó những vì sao lấp lánh”, đã nhắc
nhở chúng ta phải biết thay đổi cuộc sống nhàm chán, không buông xuôi đầu hàng số phận, vượt
qua khó khăn để đạt được thành công rực rỡ.
Vậy tại sao “nếu một ngày cuộc sống nhuộm màu đen, hãy vẽ cho nó những vì sao lấp
lánh”, cuộc sống luôn chứa đựng vô vàn khó khăn, thử thách, sẽ có người đầu hàng số phận
không chịu vượt qua những chông gai ấy để bước đi trên con đường mình đã chọn. Khi đó
cuộc sống của họ sẽ trở nên tối tăm, vô định không biết nên đi theo hướng nào, những con
người như vậy sẽ chẳng bao giờ thấy được ánh sáng của vinh quang, hương thơm ngào ngát của
bông hoa mang tên hạnh phúc.
Sẽ có người quyết định vẽ lên cuộc sống tối tăm ấy, bằng những vì sao lấp lánh. Họ
quyết tâm thay đổi cuộc sống nhàm chán, bằng cách vượt qua những thử thách mà cuộc sống
mang lại. Một vì sao có thể bé nhỏ nhưng những vì sao đó có thể làm được sáng cả bầu trời, vẽ lên
cuộc sống tối tăm bằng những vì sao lấp lánh đồng nghĩa với việc phát sáng cuộc sống ấy bằng
ánh sáng của niềm tin, hi vọng. Những người mong muốn thay đổi vượt qua thử thách, khó khăn
là những con người bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm, luôn mang trong mình dòng máu
nhiệt huyết và sự tự tin. Có niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, nhìn cuộc sống bằng ánh mắt của
sự lạc quan, quyết định cầm bút và vẽ cho cuộc sống những vì sao lấp lánh là lúc con người
thoát ra khỏi được những suy nghĩ tiêu cực, rèn luyện được sự tự tin và sự quyết đoán cho bản
thân mình. Những con người như vậy sẽ được mọi người yêu quý và kính trọng, tạo được những
mối quan hệ tình bạn tốt đẹp xung quanh mình.
Trong thực tế có rất nhiều tấm gương dám cầm bút và vẽ lên cuộc sống tối tăm những vì
sao lấp lánh và trong đó chúng ta không thể không nhắc đến tấm gương của nhà giáo ưu tú
Nguyễn Ngọc Ký. Nguyễn Ngọc Ký sinh ra ở Hải Dương, từ khi mới sinh ra Nguyễn Ngọc Ký đã
bị liệt cả hai tay. Một lần anh đến xin cô giáo vào lớp học, nhưng nhìn thấy anh như vậy cô giáo
đã từ chối. Từ đó trở đi Nguyễn Ngọc Ký đã tập viết bằng đôi chân của mình, nhìn thấy sự quyết
tâm, ý chí và nghị lực của cậu học trò nhỏ cô giáo đã đồng ý cho Nguyễn Ngọc Ký vào lớp học.
Ban đầu mới tập viết bàn chân của ký đau nhức, mỏi nhừ, có khi viết nhiều đôi chân còn rướm
máu, những lúc như vậy Ký chỉ muốn bỏ cuộc, nhưng nhờ sự động viên của bạn bè Ký đã lấy
lại được niềm tin vào cuộc sống. Sau biết bao cố gắng và nỗ lực Nguyễn Ngọc Ký đã trở thành
nhà giáo ưu tú của Việt Nam, là tấm gương sáng biết vượt qua khó khăn chiến thắng chính bản
thân mình, được nhiều sinh viên học sinh Việt Nam và bạn bè quốc tế biết đến.
Hay như Beethoven nhà soạn nhạc thiên tài của thế giới, ít ai biết rằng để đạt đến đỉnh cao của sự
nghiệp, ông đã phải trải qua bao khó khăn đi con đường dài hơn người khác gấp nhiều lần. Từ
nhỏ Beethoven đã bị khiếm thính, khiếm khuyết điều đó ảnh hưởng rất lớn đến ước mơ trở thành
nhà soạn nhạc của ông, nhưng nhờ khả năng cảm thụ âm nhạc thiên tài, cùng sự nỗ lực không
ngừng nghỉ, quyết tâm thay đổi cuộc sống Beethoven đã trở thành nhà soạn nhạc thiên tài đáng
ngưỡng mộ.
Tuy nhiên không phải ai cũng dám cầm bút để vẽ lên cuộc sống của mình những vì sao lấp
lánh, một số người chấp nhận sống một cuộc sống tối tăm, không rõ phương hướng, điểm dừng,
bởi không dám vượt qua khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Một số khác khi vấp ngã, thất bại
thì trở nên yếu đuối, hèn nhát, không dám thay đổi cuộc sống của mình, luôn có suy nghĩ mình
là kẻ thua cuộc. Không chỉ vậy một số người còn có suy nghĩ, lối sống tiêu cực khác, cứ không
dám chia sẻ với ai, dễ dẫn đến những hành động sai lầm.
Mỗi người trong chúng ta phải biết phê phán những hành động, việc làm, lối sống sai lầm, rèn
luyện cho mình lối sống lạc quan, suy nghĩ tích cực để trở thành người công dân tốt có ích cho xã
hội.
Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cần phải cố gắng học tập, rèn
luyện thật tốt, có ý chí nghị, lực vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống, là người con
ngoan trò, giỏi cháu ngoan Bác Hồ.
“ Nếu một ngày cuộc sống nhuộm màu đen, hay cầm bút và vẽ lên nó những vì sao lấp
lánh”, là bài học, là hành trang quý giá để tôi bước đi trên đường đời. Nó sẽ luôn nhắc nhở tôi mỗi
khi gặp khó khăn, phải biết dũng cảm đối diện và vượt qua nó, những lúc thất bại phải biết
đứng lên, hãy không ngần ngại cầm bút vẽ lên những vì sao lấp lánh. Nếu còn ngày nào đó cuộc
sống vớ màu đen./.
Đề bài 24 . Từ những câu hát:
Tổ quốc linh thiêng, tổ quốc linh thiêng Ngọn
đuốc hòa bình trên tay rực lửa
Tôi lắng nghe, tôi lắng nghe, tôi lắng nghe Tổ quốc gọi tên mình...

(Tổ Quốc gọi tên mình - Nhạc Đinh Trung Cẩn, thơ Nguyễn Phan Quế Mai)

Hãy viết bài văn Nghị luâ ̣n với chủ đề : Tổ Quốc trong tôi
Đã có người từng nói “Nếu Tổ quốc có một hương vị, nếu tôi có thể nâng niu bàn tay và
đặt môi hôn. Tôi nghĩ rằng nó có vị mặn, vị mặn của biển khơi, vị mặn của không khí ở những
vùng duyên hải, vị mặn của những giọt mồ hôi…. vị mặn hạt muối miền xuôi gửi lên miền
ngược… với tôi Tổ quốc có vị mặn và tôi yêu tổ quốc tôi biết nhường nào”. Đó là những suy nghĩ
rất đỗi chân thành, tình cảm rất đỗi sâu sắc của một người dân Việt Nam gửi về đất mẹ và đó
cũng là tất cả những suy nghĩ về tổ quốc trong lòng tôi.
Tổ quốc là gì? hai tiếng Tổ quốc rung lên trong trái tim của mỗi người dân Việt Nam, sao
mà thiêng liêng, lớn lao đến thế. Tổ quốc được lý giải một cách đơn giản đó là đất mẹ, là mảnh
đất của cha, là nơi mình đã sinh ra và lớn lên. Hai tiếng tổ quốc thân thuộc, gần gũi giống như
ta vẫn hay gọi mẹ của tôi, Cha của tôi, hay chính là quê hương của tôi. Tổ quốc nằm trong câu
ca hùng tráng, nằm gọn trong trái tim của người dân nước Việt, tổ quốc trong lòng tôi là tất cả
những suy nghĩ tình cảm chân thành nhất của mỗi người dành cho quê hương, xứ sở. Tổ quốc
trong lòng tôi khác Tổ quốc trong lòng bạn, bởi mỗi người có một suy nghĩ hành động riêng
dành cho Tổ quốc, khi nói về Tổ quốc trong lòng tôi hay nói đến tổ quốc trong lòng bạn, thì
đều nói đến điểm chung đó là tình yêu đất nước với tình yêu Tổ quốc là gì? Tình yêu tổ quốc bắt
nguồn từ những tình cảm giản đơn, như I-li-a Ê ren bua, đã từng nói “tình yêu, yêu nhà, yêu làng
xóm, yêu miền quê trở thành tình yêu Tổ quốc”.
Tổ quốc trong lòng tôi, là giải đất hình chữ S nhỏ bé, xinh đẹp trên giải đất ở đây có
màu xanh của những dãy núi trùng điệp trải dài đến tận chân trời, với những cánh đồng mượt mà
như lụa, những cánh cò trắng chập chờn “bay từ cửa phủ bay về Đồng Đăng”, đó còn là hình
ảnh của những bãi biển thanh bình với những con sóng đùa giỡn, nối tiếp nhau vỗ vào bờ, những
miền cát trắng mềm mại, long lanh như pha lê khi được ánh mặt trời chiếu xuống.
Tổ quốc trong lòng tôi đơn giản là mảnh đất tôi được sinh ra, nơi tôi qua oa oa cất tiếng khóc
chào đời, đó là cha, tôi mẹ tôi, những người thân yêu bên cạnh tôi đã nuôi dưỡng tôi lớn lên cả về
thể xác lẫn tâm hồn. Đó là những làng quê nghèo nhưng lại có những con người chất phác, biết
vươn lên “như sông, như suối, lên thác xuống ghềnh không lo mệt nhọc”.
Tổ quốc trong lòng tôi là một đất nước nhỏ bé nhưng có bề dày lịch sử và biết bao
truyền thống tốt đẹp, đất nước Việt Nam đã trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, bị các nước
thực dân và đế quốc giày xéo. Nhưng nhờ tinh thần đoàn kết, truyền thống yêu nước lâu đời,
cùng với sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đất nước ta đã trở thành đất nước độc lập
tự do đi lên theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Tôi yêu Tổ quốc trong lòng tôi bởi tất cả những thứ ấy, Tôi yêu Tổ quốc như đứa con yêu
mẹ hiền, lòng yêu nước dường như đã ăn sâu vào máu thịt của tôi cùng triệu triệu người dân đất
Việt. Ở thời chiến lòng yêu nước được thể hiện một cách mãnh liệt và kiên quyết và “quyết tử
cho tổ quốc quyết sinh”, biết bao con người đã không tiếc tuổi thanh xuân, hi sinh xương máu
ngã xuống để bảo vệ từng tấc đất của dân tộc, ở thời bình tình yêu đất nước được thể hiện ở
những hoạt động việc làm bảo vệ, xây dựng tổ quốc đi lên, xây dựng đất nước trở thành đất nước
văn minh, lịch sự, dân giàu nước mạnh.
Đã có rất nhiều nhà văn nhà thơ gửi gắm tình yêu đất nước qua các sáng tác của mình, nhà thơ Đỗ
Trung Quân đã từng viết:
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mà thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”.
Để nhắc nhở mỗi người phải luôn nhớ về đất mẹ, nhớ về nơi mình đã sinh ra và lớn lên.
Hồ Chí Minh vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, chứng kiến cảnh đất nước bị thực dân giày xéo.
Năm 1911 Bác đã ra đi tìm đường cứu nước sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài làm nhiều công
việc khác nhau từ phụ bếp, quét tuyết bác đã trở về đưa đất nước Việt Nam đến với ánh sáng của
cách mạng giúp dân tộc ta thoát khỏi nô lệ xiềng xích.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số người không có lòng yêu nước họ trên quê
hương nghèo khó không chịu khó vươn lên chấp nhận số phận một số khác làm trái với những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc sa vào các tệ nạn xã hội trở thành gánh nặng của gia đình
khiến sự phát triển của xã hội bị trì trệ.
Mỗi người chúng ta phải biết phê phán những hoạt động ,lối sống sai lầm . Yêu đất nước dân tộc
qua những điều gần gũi đơn giản nhất cố gắng rèn luyện để đưa đất nước ngày càng phát triển.
Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường chúng ta phải cố gắng học tập rèn luyện tốt để
trở thành người công dân có ích cho xã hội dựng xây đất nước ngày càng giàu mạnh hơn.
“Tổ quốc trong lòng tôi”, một đất nước đẹp với vô vàn truyền thống quý báu. Tôi sẽ cố
gắng học tập thật tốt, làm những việc làm đúng đắn có ích cho xã hội để thể hiện tinh thần yêu
nước của mình.

Đề bài 25.
“Mời vào đây,
ai mua gì cũng có, tôi là khách đầu tiên,
từ bên trong phù thủy nó ra nhìn, anh muốn gì?
Tôi muốn mua tình yêu,
mùa hạnh phúc, sự bình yên, tình bạn, hàng chúng tôi chỉ bán cây
non,
còn quả chín anh phải trồng không bán, không
bán”.
(Quán hàng phù thủy - Kbadio pradip - Ấn Độ).
Suy nghĩ của anh, chị về triết lý nhân sinh rút ra từ bài thơ.
Bài làm.
Ai trong cuộc đời mà chưa từng mong muốn một vài điều cho mình, trong số đó có lẽ
những thứ được khao khát nhiều nhất là tình yêu, hạnh phúc, sự bình yên, tình bạn, chúng
được coi như vật bảo chứng cho một cuộc sống tràn đầy viên mãn. Nhưng bạn biết không để sở
hữu thành công và duy trì sức sống cho những giá trị cao đẹp ấy là điều mà không phải ai cũng
làm được tính.
Bởi vậy bài thơ “quán hàng phù thủy” đã triết lý rất hay về điều này.
Trong cuộc sống này đương nhiên ai cũng khát khao có được mọi thứ tốt đẹp trong tầm tay,
nhân vật trong bài thơ trên cũng như vậy, và tôi đã tìm đến “phù thủy” với hi vọng sở hữu trọn vẹn
những giá trị tinh thần như tình yêu, tình bạn, niềm hạnh phúc, sự bình yên, nhưng ai mà ngờ tới,
cả phù thủy đầy phép thuật, quyền lực cũng không thể một bước hóa phép cho tôi được thỏa mãn.
Điều đó nói lên điều gì? Thực chất ham muốn của người mua kia không sai, cái sai ở đây là cách
thức để đạt được hạnh phúc, tình yêu, bởi tình yêu, tình bạn không phải là thứ vật chất hữu hình,
làm sao dùng tiền mua được hạnh phúc, sự bình yên không phải là hàng hóa thông thường làm sao
làm dụng phép thuật để biến thành nói một cách đơn giản, ngắn gọn nếu không có trái tim chân
thành, nỗ lực dài lâu và khát khao chân chính. Xin đừng bao giờ nghĩ tới tình yêu, hạnh phúc, sự
bình yên, bài học nhân sinh trên thật sâu sắc, triết lý.
Trong đời thường, những giá trị như tình yêu, tình bạn, hạnh phúc, sự bình yên và
muôn vàn giá trị tinh thần cao quý khác, là những viên ngọc làm cho cuộc đời mỗi người đẹp đẽ
hơn, toàn diện hơn. Bởi vậy ta luôn nâng niu và đề cao nó, trân, quý và yêu thương hết mực nhưng
chỉ biết ngưỡng mộ và đề cao thôi chưa đủ, ta làm thế nào để có nó đây? thực tế đã chứng
minh quá trình một con người tìm đến hạnh phúc, không bao giờ là một con đường thẳng trên
chặng đường ấy, là những bước đi đầy nỗ lực của bản thân mỗi cá nhân. Hơn nữa hạnh phúc
phải được xây dựng và kiến tạo lâu dài, từ bàn tay chăm chút của mỗi con người mới trở nên có
giá trị sáng, đẹp, dài lâu. Chứ thứ hạnh phúc mong manh, hư ảo chỉ đến và đi trong phút giây thì
nào đâu có giá trị gì. Tình yêu, tình bạn cũng như vậy, chứ tình bạn, tình yêu mà không trải qua
những ngày tháng vun trồng, chăm chút bằng trái tim, bằng kỷ niệm thì có khác chi những thứ vật
chất thông thường. Hãy nhớ nếu khát vọng có được sự bình yên, hạnh phúc, tình yêu của bạn là
một hạt giống thì nỗ lực chân thành và công nuôi dưỡng của trái tim chính là thứ nước tưới duy
nhất có thể làm hạt giống nảy mầm và vươn cao.
Thực tế là vậy, nhưng trong xã hội có rất nhiều người không nghĩ như vậy, một số
người cho rằng chỉ cần có quyền lực, tiền bạc và tham vọng họ có thể có được hạnh phúc, tình
yêu, tình bạn theo con đường ngắn nhất, đắt nhất mà những người bình thường không thể.
Thậm chí một số các nhân vật sống cực đoan còn đưa ra lập luận, “trên đời thứ gì không mua
được bằng tiền, thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền”, xin thưa đây là quan điểm vô cùng sai
lầm, nông cạn, thiếu suy nghĩ. Bởi tiền không thể làm thay công việc của một trái tim yêu chân
thành, nên không kiến tạo đổi tình yêu, tiền không phải là kỷ niệm nên không làm ra tình bạn
hiền, khiến con người ta đôi khi bị cuốn trôi theo những vội vàng, xô bồ của cuộc sống, nên
càng không thể là sự bình yên của trái tim, thậm chí khi ai kia quăng tiền ra đường mua thứ tình
yêu tắt sẽ không bao giờ có cơ hội nhận được những phút rung động, xúc cảm thực tế của con
người. Suy cho cùng tiền mất mà anh ta chỉ thu về một thứ duy nhất một cái kính râm, che mờ đi
tất cả những tia nắng rực rỡ cho bức tranh muôn màu, muôn vẻ của tạo hóa, chỉ để lại trước mắt
anh ta một thực tế ảo vô hình.
Rõ ràng cuộc sống ngày càng hiện đại, tiện lợi văn minh chúng ta đang sống ngày càng trở
nên gấp gáp, hối hả hơn cho kịp với cuộc sống của người người, nhà nhà. Nhưng hãy nhớ cho dù
ở bất kỳ thời đại nào cũng không có khái niệm mua tình yêu, tình bạn có sẵn cho kịp với thời
cuộc. Bạn đừng để đi trí làm thay việc của trái tim bạn nhé! Và tới đây một câu hỏi khó đã đặt
ra rằng, một con người nếu chỉ quan tâm tới giá trị tư tưởng, thì liệu anh ta có thực sự hạnh phúc
hay không? Tôi là một người thiệt, mang một trái tim tình yêu chân thành mà ngày nào cũng
vậy tôi thuộc toàn vào trái tim mình, tôi không ngừng theo đuổi chạy theo tình yêu hàng ngày,
hàng giờ mà không quan tâm gì khác. Tôi hạnh phúc không mọi người? nếu như tôi lại là một
người yêu sự bình yên cả cuộc đời tôi chỉ biết sống trong tĩnh lặng. Tôi không tranh đua, cũng
không dùng tiền để mua bán thứ gì, không tranh giành, không tranh đua tôi trung thành tuyệt đối
với chủ nghĩa bình yên. Vậy tôi có hạnh phúc thực sự không? chắc chắn không. Nên nhớ để
cuộc sống có ý nghĩa tốt đẹp hơn ngoài những giá trị tinh thần, người ta còn phải chú trọng tích
lũy kiến thức, rèn luyện nhân cách, đó mới chính là chân lý sống đúng đắn nhất, tình yêu ngọt
ngào, lãng mạn, tình bạn đẹp đẽ dài lâu, hạnh phúc viên mãn, tràn đầy bình yên, giản dị, trong
sáng có nằm trong tay bạn hay không? phụ thuộc hoàn toàn vào chính bản thân bạn. Nếu mỗi cá
nhân đều có thể mỉm cười, hạnh phúc không cần mua mà vẫn đầy đủ thì xã hội này sẽ đẹp và
thanh bình biết bao.
Tóm lại để sống vui, sống đẹp mỗi người cần phải ý thức được ngay từ hôm nay tầm
quan trọng của những giá trị tinh thần, để tình yêu, tình bạn, hạnh phúc chân thành hiện hữu
khắp nơi trên thế gian. Tất nhiên, cuộc đời vẫn cần lắm những con người lý trí, khôn ngoan,
tham vọng. Nhưng dù thế nào hãy luôn ghi nhớ hạnh phúc không phải là một điểm đến, hạnh
phúc là hành trình chúng ta đang đi, đang trải nghiệm và đang có những phút giây tuyệt vời
cùng nhau./.
Đề bài 26: Bài học của anh/chị từ câu chuyêṇ dưới đây ?
BÓNG NẮNG BÓNG RÂM
Con đê dài hun hút như cuộc đời. Ngày về thăm ngoại, trời chợt nắng chợt râm. Mẹ bảo:
– Nhà ngoại ở cuối con đê.
Trên đê chỉ có mẹ có con. Lúc nắng mẹ kéo tay con:
-Đi nhanh khẻo nắng vỡ đầu ra. Con
cố!
Lúc râm, con đi chậm, mẹ mắng:
– Đang lúc mát trời, nhanh lên, kẻo nắng bây giờ. Con ngỡ ngàng: Sao nắng, râm dều phải vội
? Trời vẫn nắng, vẫn râm…
…Mộ mẹ cỏ xanh, con mới hiểu: Đời lúc nào cũng phải nhanh lên.
Bài làm.
Cuộc đời con người là một chuỗi những buồn, vui, sướng, khổ, cay, ngọt, bùi, những khó
khăn, thử thách cũng như những thuận lợi, cơ hội thay phiên nhau tới với chúng ta theo sự trôi
chảy của dòng thời gian. Làm thế nào để ta có thể đối mặt với chông gai và tận dụng tốt nhất
những thuận lợi, câu chuyện trên đã triết lý rất hay về điều này.
Mượn câu chuyện về chuyến đi thăm ngoại, câu chuyện gợi nhiều suy tư, triết lý về thái độ
sống, cách sống của con người trên cuộc đời. Người mẹ trong câu chuyện đã ngầm dạy bảo cho
con mình về những lối sống tích cực, lúc trời nắng, lúc thời tiết khắc nghiệt, gay gắt, Mẹ bảo con
phải nhanh lên cũng tức là bảo người con phải khẩn trương, nhanh chóng vượt mà vượt qua
chặng đường đầy mồ hôi, thách thức. Lúc trời râm, lúc thời tiết dễ chịu, mát mẻ, thuận lợi cho
việc đi lại của con người mẹ bảo con phải nhanh lên, cũng có nghĩa là đang nhắc nhở người con
phải khôn khéo, biết tận dụng cơ hội để đi được xa hơn, nhanh về đích hơn. Như vậy ở cả hai
tình huống lúc nắng, cũng như khi râm, người mẹ đều thúc dục con phải khẩn trương, phải vội
lên để tránh nắng gay gắt và để tận dụng cơn dâm, chỉ có như vậy cái đích ở xa kia mới nhanh
chóng chinh phục. Vậy cuộc đời chung của chúng ta cũng như vậy, con người sống trong đời
sống cần có một quan điểm sống tích cực, như vậy nên biết can trường, dũng cảm và vượt lên
chặng đường khó khăn cũng như cần biết giang cánh tay đón nhận và nắm bắt thật tốt những cơ
hội đến với mình, đừng bao giờ để bản thân hối hận và sự thờ ơ của mình với cả thời cơ và thách
thức.
Như vậy đây là một quan niệm sống hoàn toàn đúng đắn và rất ý nghĩa với con người, ai
cũng biết cho dù là người may mắn nhất thế gian, hai người xui xẻo nhất trần đời thì trong cuộc
đời của họ cũng vẫn có những khó khăn, thử thách và cả những cơ hội, thời cơ. Bởi vậy nếu ai
kia vừa thấy khó khăn gian khổ đã lùi bước, sợ hãi, hay đầu hàng, hay trễ nải, hay bi quan, thì
chỉ có thể tan biến trước khó khăn đó. Cũng như một con thuyền dù vững chắc tới mấy vừa gặp
phong ba bão táp người cầm lái đã bỏ, buông xuôi tay lái thì con thuyền đó liệu có còn tồn tại
được giữa biển khơi bao la hay không? tương tự như vậy mỗi con người cùng cần có thái độ
nhanh lên khi cơ hội tới với tầm tay của chúng ta. Vì sao vậy? vì sự thực là đời người không có,
không ít nhưng cũng không có nhiều cơ hội thực sự để chờ đợi một cơ hội có thể mất tới mấy
tháng, một năm, hay cả một quãng đời dài, liệu chúng ta đợi được bao nhiêu lần. Nếu không
nhanh chóng nắm bắt thời cơ, tận dụng cơ hội thì cả đời sẽ chẳng bao giờ có lấy một phút giây
huy hoàng nào, cuộc đời như vậy cực buồn và quá ư nhàm chán.
Không nói đâu xa để minh chứng cho điều này, bạn hãy nhìn vào sự phát triển của đất nước
Nhật Bản, Nhật Bản vốn nổi tiếng với những vùng đất không mấy màu mỡ, ít khoáng sản, tài
nguyên và nhiều thiên tai hoành hành. Nhưng không đầu hàng trước thách thức, người Nhật Bản
dùng quyết tâm và sự cần cù, chăm chỉ để vượt qua sự yếu kém nhất thời đó. Không những
vậy Chính phủ Nhật Bản cực kỳ khôn khéo khi biết tận dụng vốn đầu tư nước ngoài, cũng như
các sáng chế phát minh của nhân loại và thực tiễn cuộc sống, chính nhờ vậy mà ngày nay Nhật trở
thành một trong những trung tâm kinh tế, tài chính lớn nhất thế giới là đất nước tiêu biểu cho sự
đi đầu về chất lượng cuộc sống.
Nói như vậy là để mỗi người biết cách sống sao cho cuộc đời thật ý nghĩa, nhưng điều đó
không có ý nghĩa là con người ta sống phải vội vàng, nhanh chóng hết cỡ, cần phải biết hiểu
rằng đôi lúc muốn nhanh thì phải từ từ, từ từ để suy nghĩ thấu đáo, từ từ để thật chắc chắn với
quyết định của mình đưa ra để không phải hối hận về quyết định của mình. Hơn thế nữa việc
nắm bắt cơ hội của con người cũng phải thật chính xác và phù hợp, không nên vì để đạt được cơ
hội cho bản thân mà ra sức bán mạng hay dùng thủ đoạn chà đạp người khác để toan làm bật vị
thế của bản thân, điều đó là ngu ngốc, tàn khốc và thiếu tình người.
Như vậy để sống tốt hơn mỗi người cần phải học cách đẩy nhanh tốc độ, vượt khó của
mình, không nề hà, chễ lải hay mất niềm tin vào cuộc sống. Đi song song với tinh thần ấy ta cần
một bộ óc tỉnh táo và nhanh nhạy để giúp ta nắm bắt thời cơ và tận dụng tốt nhất cơ hội, chẳng
cần tìm kiếm thành công ở đâu xa, làm được điều đó bạn đã chiến thắng nghịch cảnh, chiến
thắng cuộc đời và chiến thắng chính bản thân mình./.
Đề bài 27: Cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời, sự mất mát lớn
nhất là để tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống.
Bài làm.
Cuộc sống con người là một hằng số hữu hạn của biển số thời gian, thời gian thì vô hạn mà
đời người thì hữu hạn, nhưng cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời. Sự mất
mát lớn nhất là bạn để tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống, nhận định trên phải chăng đã đặt ra cho
ta một câu hỏi, ta nên sống thế nào khi đời người quá nhỏ bé hư vô?
Chết là một quy luật tự nhiên, là sự chấm dứt sự sống, chấm dứt sự tồn tại hữu hình của con
người. Từ ngàn xưa cái chết đã trở thành nỗi ám ảnh trong tiềm thức của con người, có người cho
rằng chết là hết, là chấm dứt hết thảy mọi mối quan hệ với cuộc đời, là chìm vào thế giới vô cảm,
vô thức, chúng ta cần phải hiểu biết về cái chết để biết về sống, ngược lại ta cần phải thông hiểu
về sống để hiểu về cái chết. Chết không phải sự cao trung của cuộc đời, nó là sự gián đoạn của
một dòng chảy, cái chết giống như một bến đỗ là nơi chúng ta lên tàu để chuẩn bị cho những
chuyến đi khác. Cái chết không phải sự mất mát lớn nhất trong tâm hồn con người, bởi cái
chết thực sự không hề kinh khủng. Con người ai cũng sẽ một lần phải chết, không ai có thể
trường sinh mãi mãi khi con người chết đi, họ sẽ được đầu thai kiếp khác, lại được sống một cuộc
đời mới, một cuộc sống tươi đẹp hơn.
Tâm hồn là cái đẹp bên trong của con người, là thước đo đánh giá nhân phẩm của cá nhân, là
cách thể hiện rõ nhất suy nghĩ tính cách của một cá thể, tâm hồn tàn lụi là tâm hồn bị tổn
thương, héo úa, vàng vọt, mất đi những nét đẹp ban đầu, mất đi sự chân thành nguyên vẹn.
Thực chất câu nói đã đưa ra một vấn đề, điều quan trọng không phải chúng ta sống
được bao lâu, không phải chúng ta chết khi nào, mà quan trọng là chúng ta đã sống ra sao để tâm
hồn không lụi tàn, để cuộc sống trở nên đầy ý nghĩa?
Tại sao cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời? trong cuộc sống có rất
nhiều người coi cái chết là điều đáng sợ, coi đó là điều mất mát rất lớn, họ cho rằng chết là phải
xuống địa ngục, bị đầy đoạ, hành hạ đau khổ, không ai muốn mình chết đi khi đời vẫn đẹp, khi
chưa tận hưởng được hết hương vị cuộc đời, thế nhưng nếu coi cái chết như những sự kiện khác
bình thường trong cuộc đời, thì ta sẽ nhận thấy rằng cái chết không phải là điều đáng
sợ và mất mát như ta nghĩ. Khi chúng ta chết đi, thế hệ khác sẽ ra đời, khi chết đi ta sẽ tạo
được cơ hội và niềm vui cho thế hệ trẻ, vì vậy chúng ta không nên coi cái chết là mất mát đáng sợ,
hãy đón nhận nó một cách bình thản để không trở thành vật cản đánh sai lịch sử của thời gian
trở thành một con người ích kỷ.
Còn tại sao điều đáng sợ nhất lại là sự tàn lụi trong tâm hồn khi còn sống, như đã nói ai cũng
phải chết một lần, nên nó cũng chỉ là một sự kiện bình thường của con người, nhưng trái lại một
người khi sống mà như đã chết thì thật là đáng sợ. Họ đánh mất niềm tin, không dám bước tiếp vì
sợ vấp ngã, không đủ can đảm để đứng dậy, không dám đối mặt với sự thật và họ luôn trốn tránh
yếu hèn để rồi làm đỡ phí thời gian quý báu. Không chỉ cảm nhận được cái đẹp cái hay dần dà
tâm hồn của họ bị chai sạn không có tình thương, tâm hồn trở nên lụy tàn nhanh chóng, sự lụi
tàn trong tâm hồn là một mất mát thực sự lớn, nó giết chết cái này, để cho cái xấu lẫn ác, cái tốt
giết chết những nhân phẩm, phẩm rất quý báu của con người.
Để tránh làm cho tâm hồn lụi tàn ngay khi còn sống, con người cần phải sống để biết khi
sinh tạo cơ hội cho người khác, biết cho đi mà không nhận lại, luôn giúp đỡ người khác để cuộc
sống tràn ngập yêu thương, sống có mục đích, lý tưởng để luôn hướng về mục tiêu hoàn thành
nhiệm vụ.
Trong cuộc sống có rất nhiều tấm gương sáng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, để sống có
mục đích, lý tưởng đó là nữ anh hùng Võ Thị Sáu chị đã anh dũng hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ được giao. Trong một lần công tác chị đã bị giặc bắt, bị tra tấn dã man. Nhưng chị vẫn quyết
không khai nửa lời, sau cùng chúng quyết định đưa chị ra côn đảo để xử bắn, trên đường ra pháp
trường chị còn ngắt bông hoa cài lên mái tóc.
Khi cha xứ xin làm lễ rửa tội cho chị, chị đã kiên quyết trả lời tôi không có tội, “lẽ nào yêu
nước là có tội. Nếu muốn rửa tội ông hãy rửa tội cho lũ cướp nước kia”, trước lúc bị bắn, chị đã
gạt phăng tấm vải đen bịt mắt để nhìn non sông đất nước của mình, chị đã hô vang khẩu hiệu
“Việt Nam muôn năm, chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm”, dù đã hi sinh nhưng hình ảnh của chị
vẫn còn mãi trong trái tim mỗi con người Việt Nam còn mãi trong những câu thơ, bài hát. Tâm
hồn chị vẫn rực sáng, không bao giờ lụi tàn, tiếp thêm tinh thần yêu nước cho dân tộc ta.
Chết chưa phải là hết, là kết thúc tất cả, chết nhưng để lại tiếng thơm cho đời thì cái
chết ấy vẫn đẹp. Điều quan trọng là con người biết sống đẹp, sống có ích để tâm hồn không lụi tàn
một cách nhanh chóng. Câu nói trên còn phê phán những con người sống hờ hững, vô cảm, không
có tình người, sống mà tâm hồn già cỗi, thiếu tình thương, phê phán một bộ phận học sinh không
có lí tưởng, không biết sống đẹp sa vào các tệ nạn xã hội, trở thành gánh nặng cho gia đình, sống
lầm đường lạc lối lối, sống tẻ nhạt, không dám xác định mình.
Mỗi người trong chúng ta không nên coi cái chết là một điều đáng sợ, hãy sống sao cho có ích, có
ý nghĩa. Bởi thời gian thì vô hạn, mà đời người thì nhỏ bé, hãy làm tất cả những gì khi còn có thể,
nói như nhà thơ Xuân Diệu.
“Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt Còn
hơn le lói đến ngàn năm”.
Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta hãy cố gắng học tập, rèn luyện thật tốt
sống đẹp, sống lạc quan, để xây dựng quê hương đất nước ngày càng giàu đẹp.
“Cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời sự mất mát lớn nhất là để tâm
hồn tàn lụi khi đang sống”, câu nói sẽ là bài học, là hành trang quý giá trên đường đời nó sẽ luôn
nhắc nhở tôi luôn sống đẹp sống có ích đón nhận mọi thứ một cách nhẹ nhàng thoải mái để cuộc
sống ngày một tốt đẹp hơn./.

3. Những nhà thơ tiêu biểu


XUÂN DIỆU- NHÀ THƠ MỚI NHẤT TRONG NHỮNG NHÀ THƠ MỚI
1. Cái tôi Xuân Diêụ
Xuân Diệu (1916-1985) quê ở Hà Tĩnh, sinh ra ở vạn Gò Bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy
Phước, lớn lên ở Quy Nhơn, sống nhiều ở Hà Nội, từng đi dạy học, làm viên chức ở Mĩ Tho,
tham gia cách mạng, là đại biểu Quốc hội, ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam...
Nhưng người ta nhớ đến ông trước hết với tư cách một nhà thơ, mà là một nhà thơ tiêu biểu nhất
của phong trào Thơ mới. Như chúng ta đã biết, Thơ mới là tiếng nói của cái tôi cá nhân. Xuân
Diệu là đại biểu xuất sắc nhất của Thơ mới, hiển nhiên giống như các nhà thơ mới, tiếng nói trong
thơ Xuân Diệu cũng là tiếng nói khẳng định cái tôi cá nhân. Nhưng sự khẳng định cái tôi cá nhân
ở Xuân Diệu rất đặc trưng, khác nhiều so với các nhà thơ mới khác.
Sự khác biệt lớn nhất của Xuân Diệu là ông không đem cái tôi của mình đối lập với đời và
tìm cách thoát li cuộc đời, cái tôi Xuân Diêụ luôn gắn bó với đời, luôn yêu đời một cách cuồng
nhiệt, đắm say, cuộc đời hiểu theo nghĩa trần thế nhất. Trong khi đa số các nhà thơ mới như Thế
Lữ, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương... tìm
cách trốn chạy hiện tại bằng con đường trở về quá khứ hoặc trốn vào trụy lạc, hoặc tìm đến một
cõi nào thật xa ngoài cõi người, trên cõi người thì Xuân Diệu cứ một mực đứng giữa cuộc đời để
ôm trọn cuộc đời vào mình cho thỏa nỗi thương yêu:
“Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm dây da quấn quýt cả mình xuân Không
muốn đi mãi mãi ở vườn trần Chân hóa rễ
để hút mùa dưới đất”
Thế Lữ đã rất tinh tế khi nhận ra điều này ở Xuân Diệu, ngay từ tập thơ “Thơ thơ” Xuân
Diệu đã “muốn thành một cây kim để hút vào thiên hạ”. Trong 70 năm cuộc đời và gần 50 năm
hoạt động nghệ thuật, ta thấy lúc nào Xuân Diệu cũng sống hăm hở, yêu đời, có thể buồn vì đời,
nhưng chưa bao giờ thi sĩ chán đời. Ông sống thành thật, hết mình với cuộc đời, tập trung dồn đủ
mọi năng lượng để sống với quan niệm: sống không thể nhạt nhòa, lay lắt, mờ xám mà sống là
phải biết tỏa sáng:
“Ta là Một. Là Riêng. Là Thứ nhất Không có
chi bè bạn nổi cùng ta”
Ý thức sâu sắc về sự hữu hạn của đời người, Xuân Diệu mang một nỗi ám ảnh lớn về thời
gian. Lúc nào thi sĩ cũng sợ thời gian trôi qua nhanh, cuộc đời ngắn ngủi, sống mà chưa kịp tận
hưởng hết hạnh phúc trần gian nên luôn luôn chạy đua với thời gian. Từ ngoài đời thực cho đến
trong sáng tác, lúc nào Xuân Diệu cũng rất tiết kiệm thời gian, trân trọng thời gian, nhất là thời
gian tuổi trẻ. Biết rằng dẫu cuộc đời có là trăm năm thì cũng vẫn cứ ngắn ngủi, nhà thơ lại không
thể đi ngược lại quy luật sinh lão bệnh tử ở đời, nên ông khắc phục sự hữu hạn đó bằng cách của
riêng mình: sống cao độ trong từng phút từng giây. Ông chiến thắng thời gian bằng tốc độ sống,
cường độ sống... để khi nhắm mắt xuôi tay không phải ân hận vì mình đã sống hoài sống phí. Giá
trị sự sống với Xuân Diệu không phải ở độ đài của những năm tháng cuộc đời, mà chính là ở chất
lượng sống có ý nghĩa.
Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu được coi là nhà thơ của niềm khát khao giao cảm
với đời. Xuân Diệu yêu đời, yêu tất cả cảnh đẹp của cuộc sống quanh mình, mà yêu nhất là mùa
xuân. Với Xuân Diệu, mùa xuân lúc nào cũng quyến rũ, cũng là xuân hồng, xuân đầu, xuân
không mùa, xuân không ngày tháng... Và gương mặt tình yêu đời trong thơ Xuân Diệu cũng thật
đặc biệt. Có lẽ cũng bởi tình yêu đời của thi sĩ quá nồng nàn, say đắm nên cặp mắt “xanh non”,
“biếc rờn” ấy nhìn đâu cũng thấy cảnh vật thật tình tứ, quấn quýt, kết đôi. Khu vườn mùa xuân
trở thành một khu vườn tình, chiều bình thường trở thành “chiều mộng”, nhánh cây thành
“nhánh duyên”:
”Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên Cây
me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”.
Cái đẹp của cảnh vật cũng thường được Xuân Diệu quy về vẻ đẹp của con người, của
giai nhân nên càng có sức hấp dẫn, mời gọi... Đến Xuân Diệu, chuẩn mực của cái đẹp đã được
xác định lại, thay vì coi thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp như trước đây (văn học trung đại),
Xuân Diệu coi con người (giữa tuổi trẻ và tình yêu) mới là chuẩn mực của cái đẹp, cho nên thiên
nhiên được so sánh với con người:
- “Lá liễu dài như một nét mi”
- “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Sẵn niềm khát khao giao cảm hết mình với cuộc đời trần thế, nên một cách rất tự nhiên,
Xuân Diệu cũng là nhà thơ của tình yêu, vì trong tình yêu, Xuân Diệu được sống thật, sống hết
mình, sống cuồng nhiệt với cảm xúc, sự say đắm của mình. Tình yêu là một trong những niềm
giao cảm mãnh liệt nhất, sâu sắc, toàn vẹn nhất, vừa rất mực trần thế, vừa hết sức cao thượng.
Nếu như những nhà thơ trước Xuân Diệu như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư nói về tình yêu vẫn còn
ngượng ngùng, đầy khoảng cách và các nhà thơ sau như Vũ Hoàng Chương coi tình yêu chỉ là
chuyện xác thịt, thì Xuân Diệu miêu tả tình yêu đúng nghĩa là tình yêu. Tình yêu của Xuân Diệu
luôn đòi hỏi “vô biên và tuyệt đích”. Con người không thể sống mà không có tình yêu:
“Làm sao sống được mà không yêu Không
nhớ, không thương một kẻ nào... Hãy đốt lòng
ta trăm thứ lửa
Cho bừng tia mắt đọ tia sao”

Tình yêu đối với con người như một thứ cơm ăn nước uống, một nhu cầu sống không
thể thiếu, tình yêu đến rất tự nhiên:

“Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt Bằng mây

nhè nhẹ, gió hiu hiu”

Con người không thể cưỡng lại tình yêu, chỉ có thể sống thành thật và hết mình với nó.
Với Xuân Diệu, tuyệt nhiên không có tình nửa vời, phải yêu tha thiết và yêu không phải chỉ để
trong lòng, là đủ, mà yêu là “phải nói” ra:

“Yêu tha thiết, thế vẫn còn chưa đủ Nếu em

yêu mà chỉ để trong lòng Không tỏ hay, yêu

mến cũng là không Và sắc đẹp chỉ làm bằng

cẩm thạch

Anh thèm muốn vô biên và tuyệt đích

..........................................................

Yêu tha thiết, thế vẫn còn chưa đủ Phải nói

yêu, trăm bận đến ngàn lần Phải mặn nồng

cho mãi mãi đem xuân

Đem chim bướm thả trong vườn tình ái”

Có thể nói lời yêu bằng nhiều cách, nói bằng cả sự ...“im lặng”: “Em

phải nói, phải nói, và phải nói:

Bằng lời riêng nơi cuối mắt đầu mày Bằng nét

vui, bằng vẻ thẹn chiều say Bằng đầu ngả, bằng

miệng cười, tay riết Bằng im lặng, bằng chi anh

có biết !

Cốt nhất là em chớ lạnh như đông Chớ thản

nhiên bên một kẻ cháy lòng Chớ yên ổn như


mặt hồ nước ngủ”

Tình yêu của Xuân Diệu nồng nàn cháy bỏng nên xa thì nhớ đến cồn cào:

“Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh Anh nhớ

em. Anh nhớ lắm. Em ơi !

Gặp gỡ thì luôn khát khao gần gũi đến mức không còn một chút khoảng cách nào về thể
xác:
“Hãy sát đôi đầu ! Hãy kề đôi ngực ! Hãy trộn

nhau đôi mái tóc ngắn dài

Những cánh tay ! Hãy quấn riết đôi vai ! Hãy

dâng cả tình yêu lên sóng mắt !

Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt Cho

anh nghe đôi hàm ngọc của răng”

Nhưng khao khát gần gũi trong tình yêu của Xuân Diệu không đơn thuần là về thể xác. Đó
tuyệt nhiên không phải tình yêu tầm thường, dung tục như nhiều người lầm tưởng. Khát khao lớn
nhất của Xuân Diệu trong tình yêu là sự hòa hợp về tâm hồn:

“Đôi mắt của người yêu, ôi vực thẳm ! Ôi

trời xa, vầng trán của người yêu ! Ta thấy gì

đâu sau sắc yêu kiều

Mà ta riết giữa đôi tay thất vọng

Dầu tin tưởng: chung một đời, một mộng Em là

em, anh vẫn cứ là anh

Có thể nào qua Vạn lý trường thành Của hai

vũ trụ chứa đầy bí mật”

Ông thường đau khổ vì tình yêu “vô biên và tuyệt đích” của mình gặp phải sự hờ hững
của lòng người, không được đền đáp xứng đáng:

“Lòng anh là một cơn mưa lũ Đã

gặp lòng em là lá khoai

Mưa biếc tha hồ rơi giọt ngọc


Lá xanh không ướt đến da ngoài”

Cho nên cái tôi yêu đời, yêu người đến cuồng nhiệt của Xuân Diệu cũng lại là một cái tôi
cô đơn, bơ vơ. Xuân Diệu vì sự cô đơn mà tìm đến cuộc đời, con người để mong có những tấm
lòng bè bạn sẻ chia, nhưng cuối cùng lại rơi vào thất vọng. Cô đơn là thứ Xuân Diệu sợ nhất thì
cuối cùng ông lại rơi vào cô đơn nên ông đã mượn “lời kỹ nữ” để tỏ bày khao khát tri âm:
“Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn Chớ để

riêng em gặp phải lòng em”

Xét cho cùng, cái tôi Xuân Diệu dù biểu hiện dưới dạng thức nào cũng luôn nặng lòng
với cuộc đời và con người, đó là một tình yêu cuồng nhiệt đến bồng bột của tác giả dành trọn
cho cuộc đời trần thế.

You might also like