You are on page 1of 3

[VỢ CHỒNG A PHỦ] NHỮNG CHI TIẾT NGHỆ THUẬT ĐẶC SẮC

Giá trị đích thực của một tác phẩm văn học thường được xem xét trên cả hai
phương diện, nội dung và nghệ thuật. Dấu ấn của một nhà văn trong tác phẩm được
thể hiện trong suốt quá trình sáng tạo để chuyển tải nội dung - tư tưởng thành
những hình tượng nghệ thuật sống động, để lại những “ám ảnh” nghệ thuật sâu sắc
trong lòng người đọc. Một trong những yếu tố góp phần làm nên điều đó chính là
việc xây dựng nên những chi tiết nghệ thuật đặc sắc... Trong truyện ngắn Vợ chồng
A Phủ của nhà văn Tô Hoài có thể xem chi tiết cúng trình ma và chi tiết tiếng sáo
gọi bạn tình là những chi tiết như vậy.
Chi tiết nghệ thuật
Chi tiết nghệ thuật là những tiểu tiết trong tác phẩm có sức chứa lớn về cảm xúc, tư
tưởng. Hình tượng nghệ thuật là sự hợp thành nhờ các chi tiết. Một tác phẩm được
ví như bóng đèn điện thì những chi tiết hay như những sợi dây tóc phát sáng
(Nguyễn Thanh Tú).
Lí luận văn học phân chia hai loại chi tiết: Chi tiết chỉ đóng vai trò vật liệu làm tiền
đề cho sự phát triển của cốt truyện là chi tiết thuộc về nghệ thuật; còn chi tiết thể
hiện rõ được sự cắt nghĩa, lí giải một hiện tượng đời sống, có sự chi phối sự vận
động của hình tượng nghệ thuật đó là chi tiết có tính nghệ thuật.
Những chi tiết có tính phát sáng trong một tác phẩm, những chi tiết ám ảnh sâu sắc
trong tâm trí người đọc thường là những chi tiết có tính nghệ thuật.
Gấp trang sách cuối cùng truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, người đọc
không thể quên được chi tiết bát cháo hành mà Thị Nở mang đến cho Chí sau đêm
hắn say ở vườn chuối.
Bát cháo hành ở đây không đơn thuần là một món ăn giải cảm thông thường trong
dân gian mà đó là hiện thân của tình thương yêu, sự quan tâm, chăm sóc - một thứ
quá xa xỉ đối với Chí trong suốt những năm tháng triền miên trong những cơn say.
Mùi cháo hành đã đi vào tiềm thức của Chí, kể cả khi đã bị thị Nở từ chối, khi cánh
cửa cuộc đời đã đóng sập trước mắt, khi Chí đã uống không biết bao nhiêu rượu để
quên đi bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Hơi cháo hành phảng phất ám ảnh trong cuộc đời Chí Phèo và trở thành chi tiết
nghệ thuật ám ảnh trong lòng người đọc. Thông qua chi tiết đó nhà nhân đạo chủ
nghĩa Nam Cao một lần nữa khẳng định sức sống tiềm tàng, bất diệt của thiên
lương con người.
Kết thúc truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu là chi
tiết về tấm ảnh của nghệ sĩ Phùng được chọn trong bộ lịch năm ấy.
Đó là một bức ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, nghệ sĩ Phùng vẫn thấy hiện
lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai, nhìn lâu hơn là hình ảnh người đàn bà
đang bước ra khỏi tấm ảnh với những bước chậm rãi, bàn chân giẫm trên mặt đất
chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…
Chi tiết đã chuyển tải thông điệp của nhà văn Nguyễn Minh Châu tới người đọc:
Nghệ thuật phải bắt nguồn từ đời sống, nghệ thuật phải vì cuộc đời mà phản ánh;
người nghệ sĩ phải trung thực, dũng cảm nhìn thẳng vào hiện thực, ở đó có cái nhìn
tập trung vào số phận con người, đặc biệt là những số phận khốn khổ.
Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài cũng đã lựa chọn được nhiều
chi tiết đắt. Chi tiết về nắm lá ngón, chi tiết về giọt nước mắt của A Phủ, và không
thể không kể đến tục cúng trình ma và tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân… đó đều
là những sợi dây tóc phát sáng kết nối mạch truyện, chuyển tải nội dung hiện thực
và nội dung nhân đạo của tác phẩm.
Chi tiết cúng trình ma
Vợ chồng A Phủ là kết quả của chuyến đi thực tế Tô Hoài cùng bộ đội vào giải
phóng Tây Bắc vào năm 1952. Hiện thực cuộc sống cực nhục, tối tăm của người
dân Tây Bắc được tái hiện một cách chân thực, rõ nét trong phần đầu của tác phẩm.
Cuộc sống của hai nhân vật chính, Mị và A Phủ, ở nhà thống lí Pá Tra thực sự là
cuộc sống của những thân phận trâu ngựa nơi địa ngục trần gian.
Ngoài việc phải chịu áp bức về thể xác, quần quật làm việc suốt ngày đêm, hết năm
này đến năm khác thì Mị và A Phủ còn phải chịu thêm một sự áp bức nữa, đó là áp
bức về tinh thần với sự ám ảnh của con ma nhà thống lí. Sức mạnh của thần quyền
đã triệt tiêu sự phản kháng ở những nạn nhân bị áp bức này.
Vì tội đánh A Sử, con nhà quan, nên A Phủ bị người nhà thống lí bắt về xử kiện.
Đó là một vụ xử kiện thật lạ lùng. Đám xử kiện nằm dài bên khay đèn, mấy chục
người hút từ sáng đến trưa, cho đến hết đêm.
Bọn trai làng bắt A Phủ ra quì giữa nhà và xô đến đánh. Người thì đánh, người thì
quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi lại hút… Cứ như thế, suốt
chiều, suốt đêm càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút. Đến sáng hôm
sau thì đám kiện đã xong.
Thống lí Pá Tra mở tráp, lấy ra một trăm đồng bạc hoa xòe bày lên mặt tráp, rồi kể
các khoản tiền A Phủ phải nộp: nộp vạ cho người phải mày đánh là hai mươi đồng,
nộp cho thống quán năm đồng, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan
về hầu kiện năm hào. Mày phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm qua tới
nay. Lại mất con lợn hai mươi cân, chốc nữa mổ để các quan làng ăn vạ mày.
Sau đó, thống lí cho A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, còn mình thì đốt hương,
lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ. Pá Tra khấn xong, A Phủ cũng
nhặt xong bạc, nhưng nhặt xong lại để ngay cả xuống mặt tráp. Rồi Pá Tra lại trút
cả bạc vào trong tráp.
Từ đây, A Phủ đã bị trói vào con ma nhà thống lí. A Phủ không phản kháng, không
bỏ trốn. Cả khi bị trói đứng trong nhà thống lí A Phủ vẫn chỉ lặng im như một tảng
đá chờ gặp thần chết. A Phủ chính là nạn nhân của sự áp bức tàn bạo của chế độ
cường quyền và thần quyền.
Không chỉ riêng A Phủ, con ma nhà thống lí cũng là nỗi ám ảnh lớn đối với Mị -
nhân vật chính của truyện. Ngay sau khi cướp Mị về, A Sử đã đem về cúng trình
ma trong nhà rồi mới đến thông báo cho bố Mị: - Tôi đã cướp được con gái bố làm
vợ, tôi đem về cúng trình ma nhà tôi rồi, bây giờ tôi đến trình cho bố biết.
Và kể từ đây, Mị sống kiếp trâu ngựa trong vòng quay Tết xong thì lên núi hái
thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc
đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành
sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế.
Cũng từ đây, Mị chấp nhận cuộc sống câm lặng lùi lũi như con rùa nuôi trong xó
cửa, chấp nhận cả đêm bị trói đứng, khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức, và
chấp nhận cả những trận đánh ngã ngay xuống cửa bếp bởi Mị đã cam phận Ta là
thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương
ở đây thôi…
Đối với người H Mông trước đây, ma là thế lực thần quyền đáng sợ. Nó làm cho
con người trở nên mê muội, tê liệt ý thức về quyền sống. Bọn thống lí đã lợi dụng
thần quyền làm phương tiện áp bức của cường quyền.
Phản ánh nỗi thống khổ của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách áp bức của bọn
thực dân chúa đất, Tô Hoài đã lựa chọn được một chi tiết đặc sắc. Con ma nhà
thống lí không chỉ là nỗi ám ảnh trong số phận nhân vật mà còn ám ảnh trong cả
người đọc - ám ảnh nghệ thuật.
Tục cúng trình ma chính là một trong những sợi dây tóc phát sáng trong truyện
ngắn Vợ chồng A Phủ.

You might also like