You are on page 1of 9

Thế giới không chỉ được tạo lập một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ chân chính

xuất hiện là
mỗi lần thế giới được tạo lập. Mỗi tác phẩm là mỗi sự dâng hiến, một cuộc đời, một cảm
xúc, một chân lý, một ý vị, không một tác phẩm nào viết ra mà không mang đến cho
người, cho đời một chân lý, một thông điệp mới .Nhà phê bình người Nga bêlinxki từng
viết “tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả. Nếu nó không
phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan. Nếu nó không đặt ra những câu hỏi
hoặc trả lời những câu hỏi”. Điều này được thể hiện rất rõ qua tác phẩm “ Chữ người tử
tù” của Nguyễn Tuân.
Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, sự miêu tả trong
văn chương bắt nguồn từ cuộc sống của con người. Mỗi khía cạnh của văn chương là một
góc nhìn về cuộc sống hiện tại hoặc quá khứ nó là một thực trạng một hình thức của cuộc
sống và nếu nhà văn chỉ dùng tài năng của mình mà tái hiện lại chúng trên những trang
văn đẩy chữ mà không nhằm mục đích gì thì chỉ là một tác phẩm không có ý nghĩa, một
tác phẩm chết. Phải chăng đó cũng là căn nguyên để tạo lập một tác phẩm văn học mang
lại sự sống mãnh liệt, một tác phẩm sống và dâng hiến cho đời những hương sắc và ý
nghĩa, là một tác phẩm mang những tiếng thét đau khổ, hay lời ca tụng hân hoan, là một
tác phẩm đặt ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó. Những đặc điểm giữa một tác
phẩm chết so với những đặc điểm của một tác phẩm sống dường như có một hình thức đối
lập giữa chúng, cái thông điệp là những tiếng kêu thét và những lời hân hoan, hay những
câu hỏi và lời giải đáp chính là nguồn gốc tạo nên một tác phẩm đúng nghĩa, là lưu giữ cho
đời những hương sắc lan tỏa.
Một tác phẩm khi được viết ra là sự kết tinh độc đáo giữa cảm xúc và lý trí của nhà văn,
nhà văn đã phải giao thoa với đời bằng chính cái tâm hồn, cốt cách, dùng cái tài trong văn
bản mà làm nên những trang văn đầy nhiệt huyết và năng động, mang lại những ý nghĩa,
thông điệp nơi bể đời đầy đau khổ. Một nhà văn thực thụ sẽ làm như vậy chứ không phải
chỉ tạo lập cho mình những văn bản đầy chữ mà không còn mục đích gì ngoài việc miêu
tả, có lẽ cốt cách để làm nên một nhà văn chân chính không chỉ là những cảm xúc sâu
thẳm, mà còn là ánh mắt nhân đạo nhìn đời, thấu hiểu đời và diễn đạt chúng trên những tài
năng thiên bẩm. Không ít những nhà văn chân chính đã để lại cho đời những dấu ấn và
thông điệp đáng quý của một sức sống mãnh liệt trong tác phẩm và cũng không ít những
tác giả đã dùng văn chương để nhìn cuộc sống trong những khía cạnh riêng biệt. Nguyễn
Tuân cũng không ngoại lệ, trong tư cách là một nhà văn Ông đã làm sáng tỏ tài năng và
những thông điệp muốn gửi gắm đến cho đời qua tác phẩm “Chữ Người Tử Tù”.
Là một trong những nhà văn uyên bác, là một trong những cây bút sắc sảo tác phẩm “Chữ
Người Tử Tù”, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân đã để lại cho đời những thông điệp, những
dư vị của một cuộc sống, những cốt cách và phẩm chất của một con người trong một hoàn
cảnh với cách xây dựng hình tượng truyện và cách xây dựng quá trình tâm lý con người đã
giúp cho Nguyễn Tuân thể hiện rõ tài năng và phong cách của mình.
“Chữ Người Tử Tù” là tác phẩm viết đến trong hoàn cảnh lao tù giữa Huấn Cao và Viên
quản cai ngục và thầy thơ lại trong một hoàn cảnh. Cho một hoàn cảnh trái ngang với
những nhân cách cao đẹp đã làm nên một áng văn chương sáng rọi, xua tan mọi tối tăm,
dơ bẩn chốn lao tù. Nguyễn Tuân không chỉ thành công ở việc xây dựng tình huống và
càng xuất sắc trong cách xây dựng tình thế giữa hai nhân vật Huấn Cao người tử tù, viên
quan coi ngục và hoán đổi chúng trong tài năng và làm nên thông điệp chân chính tác
phẩm. “Chữ Người Tử Tù” không phải là một tác phẩm chết, bởi những dư vị và dấu ấn
nó để lại cho đời lớn hơn là việc miêu tả chỉ để miêu tả.
Đến với nhân vật Huấn Cao của “Chữ Người Tử Tù” là ta đang tìm đến một bậc thiên tài
cái thế được biết đến với cái tài viết nhanh và đẹp. Người đời ngưỡng mộ ông và coi ông
như một anh hùng cái thế, kính trọng và nể ông. cái tài của ông được người ta ví như vật
báu có được, chữ của Huấn Cao mà treo là như có một vật báu trong nhà. Thật ra cái hoàn
cảnh để huấn cao được giới thiệu cũng chính là lúc ông trong tư cách là một người tử tù,
một người đang bị bắt và một ngông, ấy thế mà khí phách hiên ngang của ông vẫn không
bị lay động. Khi bước chân tới nhà lao cách mà ông vứt bỏ cái gông trên cổ xuống đã phần
nào chứng minh cho khí phách hiên ngang, trong quá trình ở lao tù viên quan coi ngục đã
không ít lần có ý giúp Huấn Cao nhưng ông đều thẳng thừng từ chối và khinh miệt viên
quan coi ngục bằng hành động và lời nói rất ngang ngược “ta không muốn nhà ngươi bước
chân vào đây nữa”, thái độ hống hách của người tử tù dường như đang giúp phần thể hiện
cho cái ngông của Nguyễn Tuân. Phải chăng những thái độ ngang ngược chỉ là đang góp
phần thể hiện cho một khí phách hiên ngang của Huấn Cao, một người tử tù. Bên cạnh đó
Huấn cao được biết đến với một cái tâm trong sáng và đầy ngưỡng mộ “ta nhất sinh không
vì tiền bạc, Xưa nay ta chỉ cho chữ đúng 3 người”, mặc dù là một thiên tài viết chữ đẹp
nhưng Huấn Cao không vì tiền hay bất cứ thứ gì, mà cho chữ có lẽ cái tâm ấy cũng làm
sáng tỏ cho cái cách mà Huấn Cao đối xử với viên quản, có chủ vì sợ bị lợi dụng để cho
chữ, đồng thời cái tâm ấy cũng thể hiện ở cách khinh miệt, coi thường những con người
sống trong dơ bẩn và tội lỗi. những định kiến của huấn cao đối với viên quân cai ngục
cũng góp phần làm nên cái tâm trong sáng của Huấn Cao, nhân vật Huấn Cao dưới ngòi
bút của Nguyễn Tuân được hiện lên với ba nhận định, một tài năng thiên bẩm, một khí
phách hiên ngang và một cái tâm trong sáng. Qua nhân vật này Nguyễn Tuân dường như
muốn hướng con người ta đến chân, thiện, mỹ và những thứ tốt đẹp nhất, đồng thời đó là
sự khẳng định một người nghệ sĩ thực thụ luôn là sự kết hợp giữa cái tâm và cái tài.
Bên cạnh đó Nguyễn Tuân đã thể hiện rất rõ tư tưởng và thông điệp của mình qua viên
quản ngục vẫn là một con người mang những trọng trách dơ bẩn đứng trong địa vị ghê sợ
nhất xã hội thời bấy giờ. ấy thế mà viên quản cai ngục lại trở thành một viên ngọc lấp lánh
giữa vũng bùn lầy dơ bẩn, một người chuyên làm những công việc xấu xa nhưng với sự
đam mê và trân trọng cái đẹp là chữ của Huấn Cao đã trở thành một con người hướng đến
lương thiện. Chi tiết miêu tả viên quản ngục “ngồi suy nghĩ mặt lặng như hồ nước áo
xuân” đã thể hiện sự hình thành dần dần những lương thiện trong cốt cách nghệ thuật. Thật
vậy viên quản ngục dường như bị đánh thức nhân cách bởi chữ của Huấn Cao, trong quá
trình thức tỉnh ông đã chịu mọi sinh nhật của Huấn Cao, đến giờ phút cuối cùng đã cúi đầu
lí nhí. Quá trình biến đổi từ một nhân cách dơ bẩn đến một tâm hồn lương thiện chính là
mục đích và thông điệp mà Nguyễn Tuân muốn gửi đến cho đời “nghệ thuật có chức năng
tái tạo và cảm hóa con người”.
Huấn Cao và viên quản ngục coi tù như một viên kim cương lấp lánh trong cõi tối tăm, u
ám. Tỏa sáng một cách rạng ngời, đồng thời đó còn là minh chứng cho sự tỏa sáng sẽ
không bị bùn lầy che dấu, cái thiện sẽ luôn chiến thắng nhân cách lương thiện, con người
dù cho bị vùi dập thế nào nhưng chỉ cần tâm luôn có ý hướng thiện thì sẽ chiến thắng.
Viên quan coi ngục chính là một điển hình sáng ở nhất cho hình tượng con người hướng
thiên lương trong chốn tối tăm. Đó cũng chính là tài năng của Nguyễn Tuân trong cách
xây dựng tình huống và đảo ngược tình thế, qua đó thấy được “lời ca tụng hân hoan” mà
Nguyễn Tuân dành cho hai nhân vật tâm huyết, đồng thời Nguyễn Tuân còn thể hiện cái
tài văn chương của mình một cách rõ nét nhất, qua cảnh cho chữ cuối cùng của câu
chuyện.
Cảnh cho chữ được bắt nguồn từ những tấm lòng của viên quan coi ngục và sự đáp trả
nghĩa tình của huấn cao trước tấm lòng biệt nhỡn hiền tài, nguyên nhân làm nên cảnh cho
chữ đã trang trọng đầy ý nghĩa và cảnh cho chữ diễn ra lại càng đặc biệt và thấm thía hơn.
Cảnh cho chữ được miêu tả là một “cảnh tượng Xưa nay chưa từng có” cả trong văn học
lẫn ngoài đời. Người ta thường cho chữ tặng những bản sách, những giảng đường, những
nơi trang trọng nhưng với Huấn Cao vị anh hùng cái thế hơn người lại cho chữ tại một nơi
ẩm thấp, hôi hám và đầy phân gián. nhưng đó không làm nên tính chất của cảnh cho chữ
thiêng liêng này, nhân cách và vẻ đẹp tâm hồn Huấn cao lúc này cao sáng và thăng hoa
hơn bao giờ hết. Trước những giây phút cuối đời và tại cái nơi đầy u ám này Huấn cao vẫn
thể hiện niềm đam mê nghệ thuật của mình “mực mua ở đâu mà thơm thế”? và huấn cao
cho chữ trong bầu khí trang trọng và đầy thiêng liêng, có lẽ cảnh cho chữ còn lắng đọng
vào tâm hồn người hơn ở những giây phút cuối cùng mà Huấn Cao dùng để khuyên viên
quản ngục. Chi tiết ấy có lẽ đã chiếm đi bao nhiêu tình cảm và nước mắt của người đọc,
bởi tình người trong giờ phút ấy và tại thời điểm ấy vô cùng giàu đẹp và thiêng liêng, một
lời khuyên chân tình của một người được coi là thiên tài với một con người trông coi dơ
bẩn, tối tăm mới lay động lòng người thật hiếm có.
Cảnh tượng cho chữ cuối cùng đã nói lên phong cách và tài năng của Nguyễn Tuân, ông
đã xây dựng một cảnh tượng chưa bao giờ có, một cảnh tượng tầm thường nhưng là một
chân lý phi thường. Nguyễn Tuân đã miêu tả cảnh cho chữ nhưng không chỉ để miêu tả mà
qua đó thể hiện một hình ảnh, một chân lý về cái đẹp trong chốn tối tăm, không phải chỉ
những nơi trang trọng ra hoa mới lạ, nơi cái đẹp lên ngôi kể cả trong chốn những nơi dơ
bẩn cũng là nơi cái đẹp có thể hiện diện. Ngoài ra cái hệ quả tốt đẹp cuối cùng trong cảnh
cho chữ là sự cúi đầu xin lĩnh ý của viên quan Cai ngục và sự cảm kích không ngừng ấy
lại là một điểm nhấn cho hình tượng nhân vật. Đó là những câu hỏi vang vọng giữa đời về
sự tiếp diễn cuộc sống của viên quan coi ngục, sẽ là những suy nghĩ về sự bỏ lại quyển
tước để về quê sinh sống, hay tiếp tục tồn tại nơi chốn dơ bẩn ấy, đó còn là những câu hỏi,
những trang chuyện cuối cùng của “Chữ Người Tử Tù”.
Nghệ thuật là một quá trình khổ hạnh Nguyễn Tuân. Thật vậy nghệ thuật cũng là quá trình
đi tìm cái đẹp mà người nghệ sĩ sẽ là cây bút tìm và vẽ lại cái đẹp ấy, “Chữ Người Tử Tù”
là một điệp khúc, là lời ca tụng hân hoan về con người trong chốn tối tăm bùn lầy, là sự
hướng đến cái chân, thiện, mỹ và ca ngợi chúng, là một sự miêu tả nhưng không chỉ để
miêu tả về cảnh cho chữ và là một những câu hỏi vang vọng giữa biển đời.
Một tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ không khép lại ở những trang cuối, mà nó kết thúc
để mở đầu một cuộc sống mới “Chữ người tử tù” đã làm được điều đó qua những thông
điệp ý nghĩa mà nó gửi đến cho cuộc đời, đó là một tác phẩm không chỉ để miêu tả và thực
thi sứ mệnh chỉ miêu tả, nhưng đó là một lời ca hân hoan và là những câu hỏi sẽ tồn tại với
đời.
Có lẽ một tác phẩm sống mãnh liệt với đời sẽ là một tác phẩm để lại cho đời những thông
điệp, những ý vị của một cuộc sống, đó chính là một tiếng thét đau khổ hay lời ca tụng hân
hoan, nó luôn đặt ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó./.
PHÂN TÍCH 2:
Nhà văn Nguyên Ngọc quan niệm : “ Đã là văn chương thì phải đẹp, đẹp là chức năng
hàng đầu, là đạo đức của văn chương “. Nhưng cái đẹp của văn chương cũng như cái đẹp
của cuộc sống hằng ngày phong phú và đa dạng nên khi bàn về cái đẹp của văn chương
tiến sĩ Đoàn Cẩm Thi cho rằng : “ Cái đẹp của văn chương chính là cái mang nhiều dấu ấn
của chủ thể sáng tạo, là cái riêng, cái độc đáo”. Thật vậy, văn chương là “ lĩnh vực của cái
độc đáo “ nên nó đòi hỏi người cầm bút phải có nét bút mới mẻ, ngòi bút sáng tạo và một
giọng điệu riêng biệt. Chính những dấu ấn sáng tạo độc đáo đã làm nên cái đẹp của văn
chương. Trong lịch sử văn học dân tộc, đặc biệt là giai đoạn từ năm 1900 đến 1945 đã ghi
lại nhiều dấu chân của những con người mang trong mình phong cách mới lạ, độc đáo. Nổi
bật trong số ấy phải kể đến nhà văn Nguyễn Tuân - một nhà văn lớn của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Mỗi lời văn của Nguyễn Tuân “ đều là những nét bút trác tuyệt như một nét
chạm khắc sắc sảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ “ ( Tạ Tụy). Một trong những nét bút trác
tuyệt ấy là tác phẩm “ Chữ người tử tù “. Nổi bật trong tác phẩm là hình tượng nhân vật
Huấn Cao và cảnh cho chữ - một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.
Nguyễn Tuân ( 1910 - 1987 ) sinh ra trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn. Quê
ông ở làng Mọc, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông học đến cuối bậc
Thành Chung ( tương đương cấp trung học cơ sở hiện nay ) ở Nam Định rồi về Hà Nội
viết văn làm báo. Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân tìm đến Cách mạng, tự
nguyện dùng ngòi bút phục vụ hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Từ năm 1948 - 1958 ông
giữ chức Tổng thư ký hội văn nghệ Việt Nam. Nguyễn Tuân là một nhà văn gắn liền với
trào lưu văn học lãng mạn. Thực tại cuộc sống khiến Nguyễn Tuân cảm thấy cô đơn, chán
chường, tuyệt vọng, bế tắc, luôn tìm cách thoát li hiện thực bằng những chuyến đi vô định
hay vùi đầu vào cuộc sống truỵ lạc, lãng quên. Thái độ bất hoà với thực tại của Nguyễn
Tuân được thể hiện qua mấy mảng đề tài
quen thuộc của ông đó là chủ nghĩa xê dịch, lý tưởng hoá quá khứ và đề tài truỵ lạc. “Vang
bóng một thời “ là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài lý tưởng hoá quá khứ của Nguyễn Tuân.
Có thể nói trong “Vang bóng một thời” Nguyễn Tuân dường như cố quên đi cái thực tại
ông đang sống để say sưa tỉa tót, tô đậm cho những nét đẹp đã phai mờ, những nét vẽ của
những ngày đã qua, một thời đã tàn. Ông đã làm sống dậy những nét đẹp của xã hội xưa từ
cách uống trà, ăn kẹo, đánh bạc bằng thơ. Nguyễn Tuân luôn khao khát đi tìm cái đẹp với
một niềm tin bất diệt, cái đẹp bao giờ cũng có sức cảm hóa đối với cái xấu và cái ác. Đọc
“Chữ Người Tử Tù” ta sẽ thấy rõ được điều đó.
“ Chữ người tử tù “ lúc đầu có tên là “ dòng chữ cuối cùng “ in trên tạp chí Tao Đàn năm
1939 sau đó được tuyển in trong “ Vang bóng một thời “ và đổi tên thành “ Chữ người tử
tù “. “ Vang bóng một thời “ in lần đầu vào năm 1940 gồm 11 truyện ngắn, là tác phẩm kết
tinh tài năng của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét là
“ một văn phẩm đạt gần tới sự toàn thiện, toàn mỹ “. Nhân vật chính trong “ Vang bóng
một thời “ phần lớn là những con người tài hoa, bất đắc chí. Gặp lúc Hán học suy vi, sống
giữa buổi “ Tây Tàu nhố nhăng “ những con người này mặc dù buông xuôi bất lực nhưng
vẫn mâu thuẫn sâu sắc với hiện thực. Họ không chịu a dua theo thời, không chạy theo
danh lợi mà cố giữ cái “ thiên lương “ và “ sự trong sạch của tâm hồn “.
Họ dường như cố ý lấy cái tôi tài hoa, ngông nghênh của mình để đối lập với xã hội phàm
tục, phô diễn lối sống đẹp, thanh cao như một thái độ phản ứng trước trật tự xã hội. Trong
số những người tài hoa ấy nổi bật lên hình tượng ông Huấn Cao tài hoa, không chỉ tài hoa
mà còn có “ thiên lương “ trong sáng, chí lớn không thành nhưng tư thế vẫn hiên ngang
bất khuất. Một trong những khâu quan trọng nhất của nghệ thuật truyện ngắn là sáng tạo
tình huống truyện độc đáo. Tình huống truyện là tình thế xảy ra trong truyện, tạo cho câu
chuyện thêm đặc sắc. Tình huống truyện biểu hiện mối quan hệ giữa nhân vật này với
nhân vật khác, giữa nhân vật với hoàn cảnh sống, qua đó bộc lộ tâm trạng tính cách suy
nghĩ của nhân vật.
Vốn là một nhà văn có chất ngông độc đáo, Nguyễn Tuân đã xây dựng một tình huống
truyện đặc sắc, giàu kịch tính cho hai tuyến nhân vật trong tác phẩm của mình. Hai nhân
vật đó là Huấn Cao — người tử tù phạm tội đại nghịch đang bị giam chờ ngày thụ hình,
người tài hoa nổi tiếng viết chữ đẹp và nhân vật viên quản ngục - người quản lí tù nhân, thi
hành pháp luật, duy trì bảo vệ trật tự xã hội phong kiến thối nát đại diện cho triều đình
nhưng lại rất yêu cái đẹp, hâm mộ người tài và có tấm lòng lương thiện. Trên bình diện xã
hội, họ hoàn toàn đối lập nhau nhưng họ lại có cùng điểm chung là say mê cái đẹp tao nhã
và đều có tâm hồn thanh khiết, lương thiện, có tấm lòng “ biệt nhỡn liên tài ”. Như vậy,
trên bình diện nghệ thuật, họ lại là tri kỉ của nhau. Hoàn cảnh gặp gỡ của họ thật éo le. Đó
là nơi tù ngục tối tăm, nhơ bẩn, nơi người này quản lí người kia.
Tình huống này dẫn đến xung đột dữ dội trong nội tâm của viên quản ngục: làm thế nào để
vừa làm tròn phận sự của một người canh tù lại vừa giữ trọn tấm lòng đối với một người
tài hoa mà mình từng quý trọng và ao ước gặp mặt ? Từ đây nảy sinh nhiều kịch tính.
Người tử tù thành người mà viên quản ngục nhờ vả muốn xin chữ, đồng thời lại là người
mở đường hướng thiện cho cuộc sống về sau của viên quản ngục. Chính tình huống độc
đáo này đã giúp làm nổi bật trọn vẹn, tự nhiên vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao
và làm sáng tỏ tấm lòng biệt đãi người tài của viên quản ngục.
Huấn Cao là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Chúng ta đều biết văn học
lãng mạn thường miêu tả theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà văn thường thả trí
tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi thế nhân vật viết
theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Nó là biểu hiện cho những gì mà nhà văn mơ
ước, khao khát. Huấn Cao là một nhân vật như thế. Từ đầu đến cuối, ông hiện ra như một
con người phi thường. Từ tài hoa đến thiên lương, từ thiên lương đến khí phách, nhất nhất
đều có tầm vóc phi thường. Có thể nói Huấn Cao là một giấc mơ đầy tính nhân văn của
ngòi bút Nguyễn Tuân.
Nhân vật Huấn Cao được xây dựng với bao tâm huyết và ngưỡng mộ của nhà văn. Trước
hết Huấn Cao là một người nghệ sĩ tài hoa.
Thiêntruyện được mở đầu bằng cuộc đối thoại của hai nhân vật quản ngục và thầy thơ lại.
Ở đây tuy Huấn Cao hiện lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông nổi tiếng với cái
tài viết chữ đẹp đồn khắp vùng tỉnh Sơn “ Huấn Cao ? Hay là người mà vùng tỉnh Sơn ta
vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không ? “ “ Huấn Cao ngoài cái tài viết
chữ tốt lại còn có tài bẻ khoá vượt ngục “. “ Thế ra y văn võ đều có tài cả “. Nghệ thuật
khắc hoạ tính cách gián tiếp nên nhận định, đánh giá của quản ngục về tài năng, nhân cách
Huấn Cao mang tính khách quan. Huấn Cao được xem là người nghệ sĩ lớn - người sáng
tạo và truyền bá cái đẹp - một nghệ sĩ thư pháp được tôn kính và được xem như một danh
hoạ. Mỗi lần nhà thư pháp hạ bút là một lần sáng tạo, mỗi nét bút là sự gửi gắm, kí thác
toàn bộ những tâm nguyện sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ
thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ là hiện thân của
khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách Huấn Cao. Nó
quý giá không chì vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm, vuông lắm, mà trước hết vì đó
là những con chữ thể hiện khát vọng tung hoành của một đời con người. Chính vì thế mà
có được chữ của ông Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của
quản ngục.
Huấn Cao không chỉ là một đấng tài hoa mà còn là một trang anh hùng tuấn kiệt, khí
phách hiên ngang, bất khuất. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một
lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và
dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát trước khi trở thành
lãnh tụ nông dân cũng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên
mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí
phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm
mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc
bấy giờ. Căm ghét xã hội thối nát, ông đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, sự
nghiệp không thành, ông bị khép vào tội phản nghịch và phải chịu án tử hình song ông
không hề rung sợ hay hối tiếc. Đối với Huấn Cao, mọi sự trói buộc, tra khảo, giam cầm
đều vô nghĩa. Trước những trò “ tiểu nhân thị oai “ của bọn lính ngục “ Huấn Cao lạnh
lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gong xuống thềm đá tảng
đánh thuỳnh một cái “. Hành động ấy bộc lộ sức mạnh phi phàm, làm toát ra tư thế hiên
ngang, tinh thần bất khuất, ngạo nghễ trước lao lung. Hình bóng Huấn Cao trở nên lồng
lộng trong thế giới tăm tối chốn ngục tù. Và khi viên quản ngục đến thăm hỏi : “ Vậy ngài
có cần gì thêm xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất “. Huấn Cao khinh bỉ đến điều : “
Ngươi hỏi ta muốn gì ? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây “.
Khi nói ra những lời như vậy có thể Huấn Cao sẽ phải hứng chịu “ một trận lôi đình báo
thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục “. Nhưng một khi đã nói nghĩa là
ông không hề run sợ, không hề quy phục trước cường quyền và bạo lực “ bần tiện bất năng
di, phú quý bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất “.
Raxun Gamzatop từng nói : “ Giống như ngọn lửa thần bốc lên từ những cành khô, tài
năng bắt nguồn từ những tình cảm mạnh mẽ của con người “. Thì ra gốc của tài năng là ở
trái tim, gốc của cái tài là cái tâm. Như đại thi hào Nguyễn Du viết trong truyện Kiều : “
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài “. Nhân cách cao quý là gốc rễ tài năng của Huấn Cao.
Huấn Cao tâm sự : “ Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay quyền thế mà ép mình viết câu
đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn
thân của ta thôi”. Ông cho chữ vì tình vì nghĩa chứ không vì tiền bạc hay uy quyền, cách
xử thế này bộc lộ tính cách cương trực, trọng nghĩa, khinh tài, cuộc sống không hề gợn
chút bả công danh. Huấn Cao cũng giống như Nguyễn Bỉnh Khiêm coi vinh hoa phú quý
trên đời chỉ là giấc chiêm bao có rồi lại mất: “ Rượu đến cội cây ta sẽ uống - Nhìn xem
phú quý tựa chiêm bao “. Huấn Cao cũng đồng tình với quan niệm của Nguyễn Du là
không tham danh lợi mà chấp nhận “ vào lòn ra cúi “ người khác. Hơn thế, Huấn Cao là
một người yêu cái đẹp, luôn hướng tới cái đẹp và ông yêu mến luôn cả những người biết
quý trọng cái đẹp. Lúc đầu còn nhầm tưởng, Huấn Cao khinh bỉ quản ngục nhưng khi hiểu
được sở thích cao quý của ông ta. Huấn cao rất trân trọng và cảm động nói : “ Nào ta có
biết đâu một người như thầy Quản lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa
ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ “. Một con người sống tung hoành ngang dọc
bốn phương “ chọc trời quấy nước “ đến chết chém còn chả sợ thế nhưng ông lại sợ phụ
mất một tấm lòng nhỏ bé mà trong sáng của quản ngục. Vậy cái mà Huấn Cao tôn thờ là
thiện tâm, là bản tính tốt đẹp của con người: “ Nhất sinh đề thủ bái hoa mai “. Lòng yêu
quý người hiền càng làm cho tâm hồn của Huấn Cao trong sáng hơn, cao cả hơn.
Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ đó là
viên quản ngục. Quản ngục không phải là một hung thần với đôi bàn tay vấy máu mà là “
một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà mọi nhạc luật đều xô bồ, hỗn loạn “ là
“ cái thuần khiết giữa đống cặn bã” là “ người có tâm điền tốt và thẳng thắn “ nhưng phải
“ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt “.
Nếu như sở thích của những viên quan tầm thường là vàng bạc hư danh, quyền quý an
nhàn thì viên quản ngục trong tác phẩm này thì lại hoàn toàn ngược lại. Ông là một người
có những sở thích và sở nguyện cao quý. Sở nguyện của ông là một ngày kia có một bức
tranh chữ của Huấn Cao viết mà treo trong nhà là có một “ vật báu trên đời “. Thiết nghĩ
trên cõi đời này đã có chúa ngục nào có "cái sở nguyện" cao quý như hắn ? Cái sở nguyện
yêu chuộng những giá trị văn hóa truyền thống ấy cho thấy được cái tâm hồn trong trẻo
của ông. Mặc dù làm một tên quan cai ngục nhưng ông không đánh mất đi cái sự lương
thiện trong bản thân mình.
Ông không hề phụ thuộc vào triều đình. Khi biết Huấn Cao đến thì ông đã tìm mọi cách để
xin chữ của ông dẫu biết rằng một khi bại lộ ra thì ông sẽ phải rơi đầu. Nỗi "khổ tâm" của
hắn là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không dám giáp lại mặt
vì quản ngục cảm thấy nhân cách tử tù xa cách ông nhiều quá ! Hơn thế nữa, hắn càng
"khổ tâm" lo lắng, mai mốt đây, Huấn Cao bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ
thì ông "ân hận suốt đời". Ta cảm nhận được ở con người ông những giá trị tôn vinh cái
đẹp, tâm hồn ông không bị nhà ngục kia vấy đen. Trong cái nơi chỉ có sự đánh đập trả thù
tra tấn đến dã man ấy mà tâm hồn ông vẫn sáng lấp lánh như một viên ngọc quý trong
đêm. Có biết đến viên quản ngục chúng ta mới có thể hiểu hết được con người chúng ta.
Nhiều khi cái chức vụ hay thân phận kia không quyết định đến lối sống và tâm hồn của họ.
Không chỉ là một người yêu chuộng cái đẹp và có sở nguyện cao quý mà viên quản ngục
còn là một người rất trân trọng những con người tài giỏi như Huấn Cao. Lần đầu gặp Huấn
Cao trong cảnh nhận tù, ngục quan có “ lòng kiêng nể “ “ lại còn có biệt nhỡn đối riêng
với Huấn Cao”. Suốt nửa tháng trời, ngục quan bí mật sai thầy thơ lại dâng rượu và đồ
nhắm cho người tử tù Huấn Cao và các đồng chí của ông. Rồi đến một hôm quản ngục
đích thân xuống hỏi thăm tên tù ngục ta lại càng thêm thấy rõ tấm chân tình của hắn dành
cho Huấn Cao. Viên quản ngục nhẹ nhàng và khiêm tốn : “ Đối với những người như ngài
phép nước ngặt lắm. Nhưng biết ngài là người có nghĩa khí tôi muốn châm chước ít nhiều.
Miễn là ngài giữ kín cho. Sợ đến tai lính tráng họ biết thì phiền lụy riêng cho tôi nhiều
lắm. Vậy ngài có cần gì thêm xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất “. Thế nhưng trước
những lời lẽ kính cẩn , tôn trọng của hắn, Huấn Cao lại miệt thị nặng lời, gần như xua đuổi
: “ Ngươi hỏi ta muốn gì ? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây “.
Trước tình huống ấy, người nắm quyền uy trong tay rất bình tĩnh, không nổi trận lôi đình
để trả thù, không giở trò tiểu nhân thị oai. Ngục quan chỉ lui ra lễ phép với một câu: "Xin
lĩnh ý". Và từ hôm ấy, cơm
rượu vẫn đưa đến lại có phần "hậu hơn trước". Tại sao ngục quan lại xử sự như thế? về vị
thế, hắn chỉ tự coi mình là "là kẻ tiểu lại giữ tù", còn Huấn Cao là một anh hùng tài tử
"chọc trời quấy nước", nổi danh trong thiên hạ về cái tài "viết chữ rất nhanh và rất đẹp".
Vả lại, quản ngục còn hi vọng chờ cho Huấn Cao "dịu bớt tính nết" để xin chữ. Nếu được
tử tù cho chữ thì hắn ta "mãn nguyện". Qua đó, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật bao phẩm
chất của ngục quan: bình tĩnh, lễ độ, nhẫn nhục, sẵn sàng quỳ gối trước hoa mai. Thật may
mắn là Huấn Cao đã kịp hiểu ra tấm lòng “ biệt nhỡn liên tài “ yêu quý cái đẹp của quản
ngục. Và tấm lòng này đã khiến cho Huấn Cao cảm động. Sự cảm động này của Huấn Cao
là cội nguồn dẫn
đến cảnh cho chữ. Ông đã dành đêm cuối cùng của mình tại nhà giam tỉnh Sơn để cho chữ
quản ngục. Vậy là việc Huấn Cao cho chữ không giống như việc trả nợ một cách tầm
thường, không giống việc một kẻ sắp bị tử hình đang đem tài sản cuối cùng cho người
sống, cũng không phải là cơ hội cuối cùng để Huấn Cao trình diễn tài năng. Về bản chất
việc cho chữ này là sự xúc động của một tấm lòng trước một tấm lòng. Và Huấn Cao đã
dùng tấm lòng mình đáp lại một tấm lòng.
Cảnh ông Huấn cho chữ trong nhà giam được khắc họa bằng chi tiết gây ấn tượng, cảm
hứng mãnh liệt trước cảnh tượng cho chữ xưa nay khó có đã khiến Nguyễn Tuân say sưa
sáng tạo bằng các ngôn từ sắc sảo, bút pháp dựng người, dựng cảnh đạt tới độ điêu luyện.
Và cảnh cho chữ được Nguyễn Tuân gọi đó là cảnh xưa nay chưa từng có. Vì sao Nguyễn
Tuân lại nói đây là một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”? Cảnh tượng này quả là lạ
lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong
thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bần thỉu, hôi hám. Chi tiết này
cho thấy sự bất diệt của cái đẹp. Cái đẹp tồn tại ở mọi nơi nói như Thạch Lam “ Cái đẹp
man mác khắp vũ trụ, len lỏi từng hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng trong mọi vật tầm thường
“ và “ công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chính những chỗ không ai ngờ tới”.
Với tác phẩm “ Chữ người tử tù “ Nguyễn Tuân đã hoàn thành xuất sắc công việc của một
nhà văn.
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Cũng với
cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm
dầu, “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng
tinh căng trên mảnh ván”. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn,
tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ mãi còn đó.
Đặc biệt ở đây còn diễn ra một sự đổi ngôi xưa nay chưa từng có. Kẻ cầm quyền hành
trong tay thì bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao. Kẻ bị mất cả quyền sống là
ông Huấn Cao lại trở nên đầy quyền uy khi chăm chú tô đậm từng nét chữ và cho quản
ngục những lời khuyên. Và quản ngục vái lạy Huấn Cao như vái lạy một bậc thánh nhân: “
Kẻ mê muội này xin bái lĩnh “. Cảnh cho chữ là sự khẳng định chiến thắng của cái đẹp,
của thiên lương trước cái xấu, cái ác. Trong căn phòng giam ẩm thấp đó, ánh sáng rực rỡ
của bó đuốc đã đẩy lùi bóng tối, mùi thơm của chậu mực đã xua đuổi mùi phân chuột,
phân gián, màu trắng của tấm lụa bạch đã xóa tan sự u ám cửa nhà tù. Lúc này cái đẹp
đang lên ngôi, cái đẹp đang đăng quang, lấn át hoàn toàn cái xấu. Với cảnh cho chữ này,
cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và
thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng
kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp
của thiên lương và khí phách. Tuy không trực tiếp chống lại triều đình nhưng qua tác
phẩm Nguyễn Tuân đã hạ bệ triều đình, đề cao, ca ngợi, ngưỡng mộ và cho những người
chống lại triều đình chiến thắng, cho thấy tấm lòng yêu nước thầm kín của tác giả.
Đọc chữ người tử tù ta càng thấm thía điều mà Vũ Ngọc Phan đã nói: “ Văn Nguyễn Tuân
không phải là thứ văn để người nông nổi thưởng thức “. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Huấn Cao rất đặc sắc. Hầu như không có chi tiết m nghệ thuật nào thừa. Tiếng đồn đại, lai
lịch, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động... của nhân vật được tác giả lựa chọn rất "đắt" làm hiện
lên một Huấn Cao hiên ngang bất khuất, tài tử tài hoa, quý trọng bằng hữu và trân trọng
những tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong Thiên hạ. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ
Hán việt rất đắt như : “ pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường,
lạc khoản, thiên hạ, thiên lương…” tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Câu văn
giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn phim quay chậm, tác giả đã “phục chế” cái cổ
xưa bằng kỹ thuật hiện đại như bút pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật.
Nhận xét về Nguyễn Tuân nhà văn, nhà thơ Nguyễn Đình Thi cho rằng : “ Nguyễn Tuân là
nghệ sĩ bậc thầy của tiếng Việt Nam, ông có công trong việc sáng tạo ra cái mới. Sự sáng
tạo này là do sự tự học, tự tìm tòi trong chính trường đời, ngay trong chính nội tâm mình
và trong văn hoá dân tộc ta và các dân tộc khác “. Chữ người tử tù có thể coi là một bằng
chứng khẳng định tính xác đáng của ý kiến trên. Qua truyện ngắn “ Chữ người tử tù “
người đọc có thể dễ dàng thấy được quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân : cái đẹp gắn
với cái thiện và cái tài phải đi liền với cái tâm.
Tác phẩm đã kết thúc nhưng vẫn còn đó những nét chữ vuông vắn, tươi tắn của Huấn Cao,
hội tụ tài hoa thiên lương trong sáng. Hai câu văn: "Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm
lòng trong thiên hạ" và "kệ mê muội này xin bái lĩnh" - đẹp như một bức tranh trong các
thư hoạ nghìn xưa lưu lại, cũng là bài học làm người sáng giá.

You might also like