Professional Documents
Culture Documents
MB: Có ai yêu một loài hoa không sắc không hương? Có ai quyến luyến những vần thơ khô khan không
cảm xúc? Văn chương phản ánh hiện thực nhưng nó không phải là một tấm hình khô cứng và vô hồn, mà đó
là tiếng lòng thổn thức từ những câu chuyện của cuộc đời - câu chuyện được ngân vang trên ngọn đồi tuyết
phủ trắng trời, thấp thoáng những đóa sơn trà e ấp trong làn sương giăng mờ ảo. Chính hiện thực cuộc sống
luôn là cảm hứng cho sáng tác văn học, là cội nguồn gọi thức con chữ, là cầu nối tâm hồn đồng điệu của
người nghệ sĩ với độc giả. Điều ấy đặc biệt được kết tinh rõ nét, đủ đầy qua thi phẩm “ Đây mùa thu tới” của
người nghệ sĩ tài hoa Xuân Diệu - một nhà thơ "mới nhất trong các nhà thơ mới". Bài thơ đã thể hiện nguồn
cảm xúc mãnh liệt dạt dào của thi nhân trước cảnh vật chớm thu, để lại cho ta những cảm xúc sâu sắc, khó
nói nên lời:
“ Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
KQ:
Trước hết, phong trào Thơ mới được xem là sự kiện mở ra “một thời đại mới trong thi ca” Việt Nam. Thơ
mới đánh dấu sự chấm dứt của mười thế kỉ thơ ca trung đại, đưa thơ Việt Nam vào quỹ đạo hiện đại. Làn gió
văn hóa Tây học đã mang đến nhiều sự đổi mới cho nền văn học Việt Nam. Hoài Thanh trong “Thi nhân
Việt Nam” đã viết: “Tình chúng ta đã đổi mới thơ chúng ta cũng vậy”. Quả thật, “Với thơ Mới, thi ca
Việt Nam như bước vào một thời đại mới”, một thời đại với sự thay đổi sâu sắc về nội dung về tư tưởng.
Đây cũng đồng thời là hiện tượng được nảy sinh và phát triển từ khát vọng giải phóng của cái tôi cá nhân và
nhu cầu đổi mới nghệ thuật của các nhà thơ Việt Nam.
Hồn thơ Xuân Diệu bày tỏ một tình yêu tha thiết với cuộc sống và một nỗi lo sợ về sự trôi chảy của thời
gian. Thơ của ông thường viết về mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ với quan niệm nhân sinh mới mẻ cũng như
cách thể hiện độc đáo. Tác phẩm” Đây mùa thu tới” được xuất bản năm 1938 và là một trong những dấu ấn
nổi bật mang đậm hồn thơ và phong cách sáng tác của “ Ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu. Nhan đề “đây mùa
thu tới” tô đậm bức tranh mùa thu rộng lớn, đẹp đẽ đang bước đến ngày càng gần, đồng thời cũng là nỗi lo
lắng cảnh vật phai mờ theo bước đi của thời gian. Chính vì hình ảnh rặng liễu bên hồ gần nhà mềm mại tựa
mái tóc thướt tha của người thiếu nữ tuổi đôi mươi là nguồn cảm hứng dạt dào để thi sĩ có thể cất nên những
dòng thơ lãng mạn phảng phất chút man mác u sầu này. Bằng sự sáng tạo độc đáo được cảm nhận bằng
nhiều giác quan, ngôn ngữ giản dị kết hợp cùng những hình ảnh ẩn dụ mang tính biểu tượng và giọng thơ có
phần chậm rãi, man mác, tha thiết, tác giả đã làm rõ những tâm tư, tình cảm của bản thân. Hơn hết, ông đã
vẽ nên một bức tranh rất nên thơ nhưng ẩn sâu trong nét kiều diễm ấy là chút buồn bã của sự phai tàn, lạnh
vắng, cô đơn. Hay đó cũng chính là tâm trạng cô đơn, buồn bã của Xuân Diệu trước sự trôi chảy của thời
gian cũng như niềm khao khát được giao cảm để hóa giải nỗi u buồn.
TB:
- Khổ 1: Quả thật: “Thơ là tiếng nói của tâm hồn, là tình cảm mãnh liệt đã được ý thức, được lắng
lọc qua xúc cảm thẩm mỹ, gắn với sự tự ý thức của mỗi nhà thơ về chính mình và cuộc đời".
Thơ là gương mặt tâm hồn, là cái tiêu biểu và riêng biệt nhất của từng nhà thơ được thể hiện qua mỗi
câu thơ, dòng thơ. Và điều này thật đúng khi chỉ với bốn câu thơ súc tích nhưng Xuân Diệu đã vẽ nên
một bức tranh mùa thu rất sống động vào thời khắc giao mùa, từ đó lắng đọng trong tâm trí bạn đọc
bao nỗi buồn bâng khuâng:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;”
Hai câu thơ đầu đã gợi ra hình ảnh rặng liễu là sự khởi đầu cho mùa thu. Những “rặng liễu” rủ xuống được
nhân hóa như một người thiếu phụ đìu hiu đứng chịu tang.Hình ảnh “Liễu” gợi ra một nỗi sầu thương, cô
đơn làm cả không gian chìm lắng trong cái buồn, sự tang tóc, ảm đạm, hiu hắt. Hình ảnh ước lệ quen thuộc
trong văn học cổ điển gợi ra hình ảnh mùa xuân nhưng Xuân Diệu đã thổi hồn của văn học phương Tây vào
hình ảnh, đây là liễu của mùa thu và đặc biệt thể hiện quan niệm mỹ học mới mẻ thấm đẫm tinh thần nhân
văn: con người là chuẩn mực của cái đẹp . Với Thơ Mới, nó đã phá bỏ mọi tính quy phạm, ước lệ và sự gò
bó, rập khuôn trong thơ cũ. Nếu trong văn học nghệ thuật thời xưa, thiên nhiên là chuẩn mực cái đẹp của con
người như Nguyễn Du đã từng viết về nét đẹp nhân hậu của Thúy Vân trong” Truyện Kiều”:
“ Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”
thì đến với thơ mới, đặc biệt là thơ Xuân Diệu khi ông đã thể hiện quan niệm mĩ học mới mẻ khi, thiên nhiên
không còn là chuẩn mực, mà chính con người mới là chuẩn mực, cái cao quý nhất và là trung tâm của cái
đẹp. Với từ láy “đìu hiu”, câu thơ gợi một nỗi buồn bâng khuâng, mơ màng khó tả, một nỗi buồn gần như
lặng lẽ và âm thầm. Hai câu thơ đầu khổ còn có sự đặc sắc về nhịp điệu ngôn ngữ khi có hiện tượng láy âm
liên tiếp của các âm thanh trong “liễu – đìu – hiu - chịu, buồn- buông- xuống, tang - ngàn – hàng” đã gợi lên
cho ta một bức tranh được vẽ bằng cả nhạc điệu. Như “ Hồn thơ lớn” Sóng Hồng đã từng viết: “ Thơ là thơ
đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng.” Ông đã khẳng định tính chất kì diệu của
thơ ca: thơ là thơ nhưng thơ còn có màu sắc, đường nét của hội hoạ, thanh âm của âm nhạc và hình
khối của chạm khắc. Say mê ngắm "rặng liễu đìu hiu", nhà thơ khẽ reo lên khi chợt nhận thấy thu đã đến:
“Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.”
Sau tín hiệu mùa thu là rặng liễu, nhân vật trữ tình cất tiếng reo ngỡ ngàng trước sự chuyển mình nhẹ nhàng
của mùa thu “Đây mùa thu tới - mùa thu tới”. Tuy nhiên đằng sau tiếng reo vui ấy là nỗi thảng thốt, bâng
khuâng của TG bởi mùa thu đến rồi mùa thu sẽ qua đi. Thủ pháp điệp cùng với nhịp thơ 4/3 đã mô phỏng
được bước chân của mùa thu thật nhẹ, thật khẽ, thật êm và kéo theo đó là cảm xúc vừa vui nhưng không kém
phần bâng khuâng của tác giả.
Trong câu thơ cuối khổ, mùa thu được nhân hóa như một giai nhân khoác chiếc áo vàng mơ phai dịu nhẹ,
tươi sáng. Màu vàng vốn là màu sắc tượng trưng cho mùa thu. Thế nhưng gam màu này nhuốm sự phai tàn
của sắc lá cho nên mặc dù tươi sáng, thanh thoát thì nó vẫn thấm đượm nỗi buồn. Hình ảnh lá vàng được
Lưu Trọng Lư sử dụng:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
⇒ Có thể nói rằng khổ thơ đầu tiên đã khắc họa rõ nét khung cảnh đất trời khi thu về. Hơi sắc mùa thu đã len
lỏi vào từng ngóc ngách bằng một bước tiến rất dịu dàng, đằm thắm nhưng cũng thật đượm buồn.
- Khổ 2: Không chỉ vậy, khổ thơ thứ hai lời miêu tả cảnh sắc thiên nhiên trong khu vườn để diễn tả
những bước đi tinh tế của thời gian, những rung động mơ hồ của lòng người.
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”
“Hơn một” tức là nhiều loài hoa, nhà không chỉ rõ loài hoa nào, chỉ biết là rất nhiều hoa. Cũng không phải
một màu sắc nhất định như thơ cổ mà là một màu được pha giữa hai màu đỏ và xanh. Ngoài ra với cách sử
dụng từ “giữa” ta thấy được tài năng sử dụng từ của Xuân Diệu, “sắc đỏ giữa màu xanh” ý muốn nói màu đỏ
đang lấn át dần, mùa thu đã đến mang theo sự tàn úa cho cảnh vật. Và không chỉ cảm nhận mùa thu bằng thị
giác, Xuân Diệu còn mở rộng hồn mình để đón nhận “những luồng run rẩy” của cảm xúc, của mùa thu:
KB
“Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
…
Riêng những câu thơ còn xanh
Riêng những bài hát còn xanh”
Vượt qua mọi định luật của sự băng hoại, văn chương vẫn bất hủ song hành cùng thời gian dẫu trải qua
những thăng trầm thay đổi. Những tác phẩm chân chính luôn là những tác phẩm in dấu trong lòng người đọc
mang đến những giá trị lớn lao về cả nội dung và nghệ thuật. Và bài thơ “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu
cũng là một tác phẩm như thế, làm đọng lại trong lòng người đọc biết bao những cảm xúc đầy tinh tế.