You are on page 1of 54

I. Mở bài: 1.

Mở bài li

SANG THU

(Hữu Thỉnh)

Trong bốn mùa của thiên nhiên đất trời thi ai cũng công nhận mùa xuân là mùa đẹp nhất với vẻ tươi mới
và sức sống tràn trề, đã trở thành nguồn cảm hứng lớn lao cho thi ca, nhạc họa. Nhưng mùa thu cũng có
vẻ đẹp riêng tạo nên nguồn thi hứng cho những nghệ sĩ tài hoa. Trước đây, Nguyễn Khuyến có ba bài
thơ thu “nức danh nhất” là “Thu điếu”, “Thu ẩm”, “Thu vịnh”; Tản Đà có “Cảm thu – tiễn thư”; sau này
Lưu Trọng Lư có bài “Tiếng thư” và Xuân Diệu có “Đây mùa thu tới”. Nhưng nói về thời điểm giao mùa
từ hạ sang thu thì có lẽ “Sang thu” của Hữu Thỉnh là nổi bật hơn cả. Bài thơ “Sang thu” được sáng tác
năm 1977, thể hiện những cảm nhận tinh tế của tác giả trước những biến chuyển của thiên nhiên, sức
sống của tạo vật trong khoảnh khắc giao mùa. 2. Mỗ bài 2:

II. Thân bài: 1. Phân tích: a. Khổ li

- Với những nghệ sĩ xưa, tín hiệu của mùa thu trong thi ca ít nhiều có tính ước lệ như lá ngô đồng rơi:
“Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thư"(Một chiếc lá ngô đồng rơi, mọi người đều biết thu đã
về); hoa cúc nở: “Sen tan, cúc lại nở hoa” (Nguyễn Du); nước trong xanh, lá vàng rụng: “Sóng biếc theo
làn hơi gợn ti - Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” (Nguyễn Khuyến) hay Xuân Diệu mới mẻ hơn với “sắc mơ
phai” của lá được tạo hóa “diệt” nên:

Đây mùa thu tới mùa thu tới

Với áo mở phạt dệt lá vàng

- Còn Hữu Thỉnh có những cảm nhận rất riêng và độc đáo về tín hiệu đặc trưng của mùa thu ở một vùng
nông thôn miền Bắc:

Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se

- Mở đầu bài thơ là từ “bỗng” thể hiện sự bất ngờ, đột ngột, một sự cảm nhận từ khứu giác, đánh thức
tâm hồn, gợi lên một tử thơ “hương ổi”. Hương vị đặc trưng của mùa thu bất chợt làm nhà thơ xao lòng,
không phải hương thơm của một loài hoa mà là mùi ổi chín, nghe mới mộc mạc, dân dã làm sao! Hương
ổi chín hay chính là hương vị nồng nàn của quê hương gợi nhớ gợi thương cho những kẻ nặng tỉnh với
quê hương yêu dấu. Hương ổi không chỉ lan tỏa mà còn vận động rất mạnh trong không gian, “phả vào
trong gió se”. Mùa thu miền Bắc bắt đầu chớm lạnh, vì gió thu “se” làm lạnh thêm hương ổi mới thêm
nồng nàn mà phả vào đất trời và hồn người.

- Cảm nhận tiếp theo của nhà thơ là sương thu. Nhưng không phải là “sương thu lạnh, trăng thu bạch,
khỏi thu xây thành” đầy tính ước lệ trong “Cảm thu – tiễn thư” của Tần Đả mà là sương thu được nhân
hóa, chứa đầy tâm trạng:

Sương chúng chỉnh qua ngõ Hình như thu đã về


- Nhịp điệu của thời gian, niềm lưu luyến tiếc nuối bâng khuâng của mùa hạ như động lại trong hai chữ
“chủng chình”. Sương qua ngõ chủng chỉnh như nàng thu áo trắng cố ý chậm hơn để kéo dài thời gian.
Có cái gì đó duyên dáng, yểu điệu của một làn sương rất dễ làm say lòng người. Cảm quan tinh tế của
nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng, rất

duyện đó để rồi xao xuyến: “Ilinh như thu đã về”. Sao lại “hỉnh như” mà không phải là “chắc chắn”? Một
chút ngỡ ngàng, một chút bằng khoảng man mác, có cái gì đó không thật rõ ràng. Đúng là một trạng thái
cảm xúc của thời điểm giao mùa.

b. Khổ 2:

- Không gian nghệ thuật của bức tranh “Sang thu” được mở ra ở chiều cao, độ rộng của bầu trời và chiều
dài của dòng sông qua khổ thơ tiếp theo:

Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

- Sự vận động của thời điểm giao mùa được cụ thể hóa bằng những sắc thái đổi thay của mọi vật. Đó là
vẽ “đềnh dàng” của dòng sông đang thong thả, ung dung trôi thật chậm sau những tháng ngày hè mệt
mỏi vì phải chảy cuốn cuốn, ảo ảo. Đó là cái “bắt đầu vội và” của những đàn chim di trú đang khẩn
trường, sửa soạn đi tránh rét. Từ láy “vội vã” ở đây đối rất đẹp với từ “dềnh dàng” ở câu trên cả về hình
ảnh lẫn thanh điệu. Nhưng cũng đừng quên sự tinh tế trong từ “bắt đầu”: bắt đầu vội vã thôi chứ chưa
phải chính thức đang vội vã. Cho nên không khi chung vẫn thư thái, lắng đọng, chậm rãi. Vì thế, đám
mây mùa hạ mới thành thời, duyên dáng “vắt nửa mình sang thư”. Một tưởng tượng sáng tạo độc đáo
và thú vị, đám mây như mang trên mình cả hai mùa. Hữu Thỉnh không dùng những từ như lơ lửng, bồng
bềnh hay lang thang mà dùng từ “vắt” rất giàu sức gợi hình: mây như dải lụa kéo dài ra, vắt ngang bầu
trời “phân chia” rạch rồi hai mùa hạ và thu, giúp ta cảm nhận thật rõ rệt cái thời điểm chuyển giao giữa
hai mùa và bầu trời trên cao kia đã nhuộm một nửa sắc thu. Nếu ở khổ thứ nhất, thu mới chỉ là sự đoán
định, còn mơ hồ như mơ như thực: “Hình như thu đã về”, thì ở khổ thơ này, đó là sự khẳng định. Đó là
hình ảnh đám mây đã “vắt nửa mình sang thư”, đó là sự vận động nhẹ nhưng, tinh tế của mọi vật nhưng
không làm mất đi cái thần thái rất trong và rất tỉnh của mùa thu đến thật rồi!

c. Khổ 3:

- Khổ thơ thứ ba đem đến cho bài thơ một vẻ đẹp mới, vẻ đẹp của hồn người thể hiện qua cảm nhận và
suy ngẫm của nhà thơ khi nhìn cảnh vật trong những ngày đầu thu:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa Sấm đã bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

- Hai khổ thơ trên rất đẹp về mặt tạo hình, rất tinh trong cảm nhận. Còn ở khổ này vẽ đẹp của thu được
khẳng định bằng suy ngẫm, kinh nghiệm chứ không do cảm nhận trực tiếp. Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp
như mùa hạ, nhưng ở cuối mùa, ở mức độ khác rồi. Nắng nhạt dần chứ không còn chổi chang, gay gắt.
Mữa cũng đã ít đi, nhất là những trận mưa rào, mưa đông ầm ầm, ào ạt. Những từ ngữ “vẫn còn”, “đã
vơi dần”, “cũng bởi bất ngờ” gợi tả rất hay cái hiện tượng, sự vật đang dần đi vào thế ổn định của mùa
thu. Bài thơ khép lại với hình ảnh “sấm” và “hàng cây đứng tuổi vừa tả thực vừa mang ý nghĩa ẩn đụ, gợi
ra những suy nghĩ thăng trầm. Cuối hạ - đầu thu, khi không còn những cơn mưa xối xả thì sấm cũng bởi
bất ngờ, dữ dội và hàng cây giả cũng không còn bị bất ngờ, giật mình vì tiếng sấm nữa. Nắng, mưa, sấm
là những hiện tượng, những biến động của thiên nhiên nhưng còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những
thay đổi, những khó khăn thử thách trong cuộc đời. Hinh anh “hàng cây đứng tuổi lại là một ẩn dụ nói về
lớp người đã từng trải, chín chắn, điềm tĩnh sau những bão táp của cuộc đời. Khi con người

ta đã từng trái thì cũng vững vàng, bình tĩnh hơn trước những tác động bất thưởng của ngoại cảnh, của
cuộc đời. Hai câu thơ không còn chỉ tả cảnh sang thu mà đã chất chứa những suy nghiệm về con người
và cuộc sống.

IIL Kết bài:

Tóm lại, “Sang thu” là một bài thơ hay. Tác giả không sa vào cách miêu tả ước lệ, khuôn sáo mà bằng
những cảm nhận tinh tế qua những hình ảnh thơ tự nhiên, mộc mạc mà mới lạ, những hình ảnh này
được đặt trong sự vận động nhẹ nhàng mà không làm mất đi cái hồn của thiên nhiên là rất trong và rất
tĩnh. Từ đó ta được thưởng thức một bức tranh thiên nhiên độc đáo giàu sức biểu cảm về thời điểm
giao mùa và một tâm hồn giàu cảm xúc, giàu tình yêu thiên nhiên của Hữu Thỉnh.

Đề: Phân tích bài thơ “Sang thu”.

I. Mở bài:

Mở bài 1: (Học sinh trung bình)

Bài làm
Trong chương trình ngữ văn lớp 9 em đã được học rất nhiều bài thơ nhưng bài thơ để lại ấn tượng sâu
sắc nhất trong lòng em là bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh được sáng tác năm 1977. Bởi vì hải thơ đã
thể hiện rất thành công và tinh tế sự chuyển biển nhẹ nhàng của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu.

Mở bài 2: (Học sinh khá)

Mùa thu thật lãng mạn, thơ mộng và man mác một nỗi buồn. Thu cũng là nguồn cảm hứng sáng tác cho
rất nhiều nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Và Hữu Thỉnh, một nhà thơ trẻ, tâm hồn bay bổng đã góp vào vườn
thơ thu đất nước một nét “Sang thu” thật lãng mạn, trữ tỉnh, đạt đảo, tràn đầy cảm xúc.

Mở bài 3: (Học sinh khá)

Thưa các bạn! Chúng ta đã được học nhiều ủng thơ hay viết về mùa thu. Có nhiều bạn thích vẻ đẹp của
mùa thu qua hương cốm. Có bạn thích mùa thu qua hình ảnh là vàng rơi... Nhưng riêng tôi, tôi đồng cảm
với một mùi hương ổi rất quen thuộc của làng quê Bắc bộ qua bải “Sang thu” của Hữu Thỉnh.

Mở bài 4: (Học sinh giỏi)

Trong bốn mùa của thiên nhiên đất trời thì ai cũng công nhận mùa xuân là mùa đẹp nhất với vẻ tươi mới
và sức sống tràn trề, đã trở thành nguồn cảm hứng lớn lao cho thi ca, nhạc họa. Nhưng mùa thu cũng có
vẻ đẹp riêng tạo nên nguồn thi hứng cho những nghệ sĩ tài hoa. Trước đây, Nguyễn Khuyến có ba bài
thơ thu “nức danh nhất” là “Thu điếu”, “Thu ẩm”, “Thu vịnh”; Tấn Đà có “Cảm thu – tiễn thư”; sau này
Lưu Trọng Lư có bài “Tiếng thư” và Xuân Diệu có “Đây mùa thu tới”. Nhưng nói về thời điểm giao mùa
từ hạ sằng thu thì có lẽ “Sang thu” của Hữu Thỉnh là nổi bật hơn cả. Bài thơ “Sang thu” được sáng tác
năm 1977, thể hiện những cảm nhận tinh tế của tác giả trước những biến chuyển của thiên nhiên, sức
sống của tạo vật trong khoảnh khắc giao mùa. II. Thân bài:

“Sang thu” là một bài thơ hay từng làm xao xuyến bao trái tim người đọc, được viết theo thể thơ năm
chữ với những hình ảnh chọn lọc, sáng tạo cùng những hình ảnh ẩn dụ thật độc đáo nhà thơ Hữu Thỉnh
đã họa bằng thơ bức tranh của đất trời trong khoảnh khắc giao mùa thật mong manh, mơ hồ, chưa định
hình rõ nét. Và rồi từ đó cho ta thấy được cảm nhận của ông về cuộc đời.

Ngay vào đầu bải thơ, chỉ với bốn dòng thơ đầu tiên, tác giả đã cảm nhận thu về bằng tất cả các giác
quan với những rung động tinh tế:

Rất tình cờ nhà thơ

hương ổi”. Từ “bỗng” diễn

Bỗng nhận ra hương đi

Phả vào trong gió se Sương chủng chỉnh qua ngõ

Hình như thu đã về

nghe được bước chân rón rén của mùa thu “Bỗng nhận ra tả thật tải tỉnh tâm trạng bất ngờ đột ngột của
nhà thơ khi
nhận ra đất trời đã “sang thư”. Có lẽ bao bộn bề của đời sống đã khiến nhà thơ và mỗi chúng ta không
mấy ai để ý đến những biến chuyển của đất trời. Nhà thơ nhận ra “sang thư” không phải tử sắc lá vàng
lia cảnh, cũng không phải từ “cây ngô đồng xơ xác” cũng chẳng phải từ mùi “hoa thiên lí thoảng hương
đưa” hay mùi “hương cốm mới” mà từ một mùi hương rất quen thuộc của quê hương. Ở miền Bắc, vào
khoảng cuối tháng bảy, đầu tháng tám âm lịch, ổi trong vườn chín rộ, hương ổi thơm nồng ấm áp, như
sảnh lại, nó nồng nàn như hơi thở “phả vào trong gió se”. Hương ổi ấm nồng phả khắp không gian mùa
thu, làm cho mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh ấm áp, lãng mạn, êm dịu chứ không lạnh lẽo buồn tênh như
trong thơ cụ Nguyễn Khuyến “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo”. Bằng khứu giác nhà thơ nhận ra hương
mùa thu, bằng xúc giác nhà thơ đã cảm nhận được thu sang qua cái lạnh, sẽ se của gió heo may - “gió
se” mà chỉ thu mới có được. Chính bằng thị giác nhà thơ đã nhìn thấy chuyển biển nhẹ nhàng của đất
trời qua lăn “sương chủng chỉnh qua ngô”. Sương mùa thu rất đậm, nó trắng bạc như mây, như khỏi vấn
vịt trên ngọn cây, mái nhà. Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ, từ láy “chùng chình” đã làm cho làn sương thu
như có hồn. Nó “chủng chính qua ngô” như không muốn đi, như muốn níu kéo mùa hạ, như đợi ai, chờ
ai. Nó gợi ta liên tưởng đến hình ảnh con người đang lưu luyến, ngập ngừng chia tay tuổi trẻ để bước
sang tuổi “sang thư”. Nhà thơ vẫn chưa chắc chắn lắm vào cảm nhận “sang thư” của mình, ông tự hỏi
“Hình như thu đã về". Tinh thái tử “hình như” đã diễn tả thật sâu sắc tâm trạng bâng khuâng, ngữ ngàng
ấy. Từ hương nhận ra gió, từ gió nhận ra hương, sương. Trong sương có cả hương cả tỉnh, phút giao
mùa thấy rồi mà tác giả vẫn sững sở tưởng khó tin.

Nếu như ở đoạn một, nhà thơ còn chưa tin tưởng chắc chắn vào những cảm nhận của mình thì trong
đoạn thơ thứ hai, khi nhà thơ được mở rộng tầm nhìn xa hơn, cao hơn, rộng hơn, không còn nghi ngờ gì
nữa, nhìn khắp mặt đất chân mây, trời cao, nơi đầu tác giả cũng nhận ra dấu hiệu của mùa thu:

Sông được lúc đềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Bằng sự cảm nhận tinh tế của những giác quan cùng tâm hồn bay bổng lãng mạn nhà thơ đã nhận ra sự
chuyển động dềnh dàng của dòng sông “Sông được lúc dềnh dàng” . Chỉ với sự chuyển động dềnh dàng
của dòng sông nhà thơ đã nhận ra thu đến thật rồi. Cái “đềnh đảng" ấy của dòng sông thật hiếm hoi sau
những ngày gập ghềnh leo thác rồi lại ồ ạt, xối xả với những trận mưa dữ dội mùa hạ. Sang thu nước
sông vơi dần, dòng sông “dềnh dàng” chảy đủng đỉnh, khể khả, khoan thai như phút thư giãn của đời
người sau những ngày vất vả, cực nhọc. Đối với tốc độ chảy chầm chậm, dềnh dàng” của dòng sông là
hình ảnh “chim bắt đầu vội vã”. Thu về mang theo hơi lạnh của đất trời. Những làn gió lạnh về, đó chính
là lúc những đàn chim vội vã gấp gáp bay về phương Nam tránh rét. Hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa củng
những từ láy “dềnh dảng, vội và” đã mang đến cho bức tranh những chuyển động rất thực, khiến bức
tranh trở nên rất động. Nó cũng gợi cho ta những liên tưởng triết lí về cuộc sống: cuộc sống không có

phút giây nào phẳng lặng, sự sống vẫn chuyển động không ngừng, con người cần chuẩn bị đầy đủ để sẵn
sàng chủ động ứng phó với những sự đổi thay của cuộc đời. Ngoài ra khi con người ở tuổi sang thu thì
hành động cũng “dềnh dàng”, chậm rãi, chắc chắn không còn bồng bột, nông nổi nhưng lại vội vàng thực
hiện lí tưởng, ước mơ hoài bão của mình như đàn chim vội vã bay về phía mặt trời tránh rét bởi thời
gian không còn

nhiều nữa.

Và đặc biệt trong hai câu thơ tiếp theo tác giả đã nhìn thấy trên bầu trời:

Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu

Hai câu thơ là bức tranh đẹp về đám mây, bầu trời. Đây cũng là một hình ảnh mà ta thưởng bắt gặp
trong rất nhiều bài thơ như “tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” hay “Mây vẫn tầng không chim bay đi”
hoặc “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”... Vâng, trên bầu trời trong xanh, thoảng đăng của mùa thu,
vẫn còn sót lại “đám mây mùa hạ” nó không chỉ đơn thuần là chỉ đám mây giống như trong các câu thơ
xưa mà nó như thời tuổi trẻ, đầy khát vọng, ước mơ, hoài bão. Nhưng đám mây ấy đang bịn rịn, chia
tay, lưu luyến với mùa hạ để ngập ngừng bước sang thu. “Vắt nửa mình sang thu” không chỉ gợi lên sự
giao mùa từ hạ sang thu mà còn gợi ta liên tưởng đến ước mơ, đó là ước mơ của con người đã có và
thực hiện từ khi tuổi trẻ nhưng đến khi bước sang tuổi sang thu vẫn chưa thực hiện xong.

Trong khổ thơ thứ ba và cũng là khổ thơ cuối bài thơ, có lẽ tác giả đã họa cho ta bức tranh sang thu rõ
rệt nhất bằng tất cả các giác quan và cảm nhận của chính mình: Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi.

Chỉ với đôi ba nét phác họa, đôi ba hình ảnh ẩn dụ, sáng tạo, nhà thơ đã nắm được thần thái mùa thu:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng” nghĩa là nắng còn nhiều nhưng đã bớt cái chói chang gay gắt của mùa hạ.
Mưa cũng đã vơi dần, lượng mưa ít chứ không hối hả, ảo ảo như những trận mưa dông mùa hạ. “sấm
cũng bớt bất ngờ” không còn những tiếng nổ chát chúa, đùng đoảng khiến hàng cây đứng tuổi và vạn
vật phải hoảng sợ. “Hàng cây đứng tuổi” là hàng cây đã lớn, đã trưởng thành gợi ta nghĩ đến những
người đã có tuổi sang thu, tự tin vẫy vùng trước những biến chuyển của cuộc sống.

Qua đây, ta thấy Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Mùa thu thưởng
không rạo rực, ấm áp như mùa xuân, không sôi động rộn rằng như mùa hạ, hay lạnh lẽo thê lương như
mùa đông. Thu đến rất nhẹ nhàng và đi rất lặng lẽ. Thu không đánh thức ta bằng những âm thanh vang
động, màu sắc lộng lẫy, hương vị ngọt ngào mà gieo vào lòng ta những thoảng xao động, mở mảng gợi
trong là những suy nghĩ sâu xa về cuộc sống. Có lẽ vì thế mà thơ thu, trong đó có “sang thu” của Hữu
Thỉnh rất giàu ý nghĩa.

Bài thơ được đặt tựa đề là “Sang thu” vừa có ý nghĩa bao trùm, vừa thấm vào từng từ ngữ, cảnh vật.
Hương quả sang thu. Ngọn gió sang thu. Dòng sông, đám mây,

bầu trời, nắng, mưa, sấm và cả con người cũng sang thu. Con người sang thu không còn bồng bột, sôi
nổi, ảo ảo như thời thanh niên. Con người sang thu chín chắn hơn trước

cuộc đời.

III. Kết bài:

Qua bài thơ ta càng thêm yêu cuộc sống, yêu một nét “sang thư” của Hữu Thỉnh - một nhà thơ trẻ của
miền Bắc dấu yêu với những vần thơ thu thật khó quên.
Nắng thu đã trải đầy Đã trăng non múi bưởi Bên cầu con nghé đợi

Cả chiều thu sang sông

Ta hãy để lòng lắng đọng hơn mà nghe những giây phút sang thu của Hữu Thỉnh, mà ngẫm suy cái triết li
nhà thơ muốn gửi gắm cho cuộc đời.

I. Mở bài:

SANG THU – Hữu Thỉnh (Trúc Nguyên)

Hữu Thỉnh là nhà thơ gắn bỏ với nông thôn, ông viết nhiều, viết hay về con người, về cuộc sống ở làng
quê và đặc biệt là về mùa thu. “Sang thu” là một bài thơ hay của ông sáng tác năm 1977. Bằng đôi mắt
tinh tế, tâm hồn nhạy cảm, chỉ với ba khổ thơ, tác giả đã vẽ được bức tranh thu đẹp co tình lại có chiều
sâu suy nghĩ. Mỗi khổ thơ với bốn câu là một nét thu đẹp, êm đềm của đất trời, của vạn vật trong buổi
đầu thu mới về,

chợt đến.

II. Thân bài:

1. Tín hiệu báo thu sang:

a. Hương ổi, gió se

Bài thơ mở đầu bằng một phát hiện bất ngờ, một phát hiện dường như khá mới mẻ. Nó đến khá đột
ngột và được tác giả cảm nhận bằng nhiều giác quan: Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chủng chỉnh qua ngõ Hình như thu đã về.

Với Hữu Thỉnh, tín hiệu báo hiệu mùa thu đã tới, mùa thu chớm về là hương ổi chín thơm lừng nơi vườn
quê. Đất nước ta lúc này vừa qua khỏi chiến tranh, cuộc sống thanh bình đã trở lại. Trong sự mơ hồ
phảng phất gió thu, lá thu đang ngả màu, nhà thờ đã trèo lên cây ổi chín vàng trong cả vườn ổi bát ngát
ở quê hương. Không có gì đặc hơn, sảnh hơn cái mùi hương vị ổi chín vàng nhuộm trong cái nắng vàng
của mùa thu với không gian cao vút, sâu thẳm, yên tĩnh. Bài thơ bật lên từ đó, ngay khi tác giả còn ngồi
trên cây ổi với những vần thơ vừa được làm trong đầu chử chưa sử dụng giấy bút, Hương thơm nồng
nàn ấy, thân thuộc ấy đang “Phả vào trong giỏ se”. “Phủ” có nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra thành từng
luồng, tử “phủ” thật có hồn, nó gợi hương thơm như sảnh lại, nó mang đến cho chúng ta liên tưởng về
hương thơm lừng, thơm ngát tỏa ra từ những trái ổi chín nơi vườn quê trong những ngày cuối hạ đầu
thu. Hương ổi tỏa ra nồng nàn phả vào cảnh vật được gió thu mang đi làm ngây ngất lòng người. Chúng
ta có thể nói rằng hương ổi là một tử thơ mới đậm màu sắc dân dã, là một tín hiệu độc đáo biểu hiện
bút pháp nghệ thuật của Hữu Thỉnh.

b. Sương thu, cảm nhận của tác giả:


Từ “bỗng” trong câu thơ đầu của khổ này diễn tả sự ngạc nhiên, niềm vui bất ngờ chợt đến, đó là niềm
vui mới cảm nhận được, mới phát hiện ra. Như vậy, tác giả không chủ đích đến với hương ổi hay gió se
mà chính mùi vị của thiên nhiên đã chủ động đến tác giả một cách bất ngờ.

Sau “hương ổi” và “gió se”, nhà thơ nói đến lần sương mùa thu, một sương thu chứa đầy tâm trạng:

Sương chủng chỉnh qua ngõ

Hình như thu đã về.

Sương mùa thu đã được nhân hóa, diễn tả rất hay bước đi chầm chậm của mùa thu khi mới về, sương
ngập ngừng, vấn vương...lòng tác giả có chút gì bâng khuâng. Nhìn thấy làn sương trắng nhạt phủ mở
đường thôn ngõ xóm, nhà thơ cảm thấy “Hinh như thu đã về”. Từ “hình như” chỉ sự phỏng đoán nửa tin,
nửa ngờ một nét thu mơ hồ mà ông vừa chợt phát hiện, vừa chợt cảm nhận. Hữu Thỉnh cảm nhận bước
đi của mùa thu trong khoảng khắc chớm thu không chỉ bằng khứu giác “nhận ra hương ổi”, không chỉ
bằng xúc giác “gió se”, bằng thị giác “sương chủng chỉnh” mà còn bằng tất cả những rung động của một
tâm hồn rạo rực, băng khoảng trong không gian nghệ thuật, tâm trạng nghệ thuật đồng hiện khá tinh tế,
đầy chất thơ.

2. Cảnh vật lúc sang thu:

a. Sông đềnh dàng, chim vội vã:

Không gian nghệ thuật của bức tranh sang thu được mở rộng ở chiều cao, độ rộng của bầu trời và chiều
dài của con sông, với cánh chim bay và đám mây trôi trong khổ thơ tiếp theo:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu.

qua

Bức tranh thu từ những gì vô hình như hương ổi, từ mở ảo như hình ảnh sương chủng chính từ nhỏ hẹp
của những ngõ xóm chuyển sang những nét hữu hình cụ thể các sự vật: sông, chim, mây với một không
gian vừa dài, vừa rộng vừa cao vời vợi. Chúng ta thực sự thích thủ với cấu trúc đối tự nhiên, chặt chẽ và
tuyệt đẹp như trong thờ cổ điển:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã.

Dòng sông không cuồn cuộn chảy, dữ dội và gấp gặp như trong những ngày mưa lũ mùa hạ. Sông êm ả,
đềnh dàng, sông đang lắng lại, đang trầm xuống trong dòng chảy lững lờ như đang ngẫm nghĩ, suy tư.
Tương phản với dòng sông, đàn chim lại bắt đầu vội vã. Đó là những đàn sâm cầm, những đàn chim đổi
mùa từ phương Bắc xa xôi bay về phương Nam. Sương thu lạnh làm cho chúng phải khẩn trương chuẩn
bị cho chuyến bay tránh rét. Từ “vội vã” đối rất hay với tử “dềnh dàng”. Từ “bắt đầu” ở đây cũng rất độc
đảo. Chỉ bắt đầu vội vã thôi chứ chưa phải là đang vội vã. Nhà thơ thật tinh tế khi nhận ra được sự “bắt
đầu” này trong những cánh chim bay.

b. Đám mây mùa hạ:

Dòng sông, cảnh chim, đảm mây mùa thu đều được nhân hóa làm cho bức tranh thu hữu tình, chứa
chant hi vị. Đặc sắc nhất, độc đáo nhất trong khổ thơ là hình ảnh đám

mây:

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Hai câu thơ thể hiện nét riêng trong thời điểm giao mùa từ hạ sang thu. Hữu Thỉnh không dùng những
từ như lững lờ, bồng bềnh, nhẹ trôi khi nói về đám mây mà

ông lại dùng từ “vắt”. Từ “vắt” rất hay, gọi là đám mây mỏng, làn mây nhẹ trôi, mây như giải lụa trắng
treo lơ lửng giữa bầu trời. Mây như được kéo dài ra rồi vắt lên, đặt ngay trên bầu trời rồi buông thong
xuống – một nửa đang còn là mùa hạ, một nửa đã nghiêng mình sang mùa thu. Hình ảnh đám mây là
thực nhưng ranh giới giữa hai mùa là hư. Nó chỉ là sản phẩm trong tri tưởng tượng lạ lung của nhà thơ.
Bầu trời nữa thu, đám mây mùa hạ đang nhuốm sắc thu. Đám mây của Hữu Thỉnh đang vắt nửa mình,
đến lúc nào đó nó sẽ bồng bềnh trong bầu trời thu trọn vẹn như câu thơ của Nguyễn Khuyến đã viết
trong bài “Thu điếu”: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”. Câu thơ tả mùa thu của Hữu Thỉnh rất hay, rất
độc đáo, cách chọn từ và cách dùng từ rất sáng tạo. Chúng ta có thể nói rằng đây là câu thơ có hình ảnh
đẹp nhất, đặc sắc nhất, thể hiện nét riêng của thời điểm giao mùa từ hạ sang thu.

3. Nắng, mưa, sấm, hàng cây và suy ngẫm của nhà thơ:

a. Sự thay đổi của tự nhiên:

Nếu như hai khổ thơ đầu rất đẹp về mặt tạo hình, rất tinh trong cảm nhận thì khổ thơ thứ ba đem đến
cho bài thơ một vẻ đẹp mới, làm trọn vẹn thêm ý “Sang thu” trong tâm hồn con người chưa thể hiện
thật rõ ở hai khổ thơ trên:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi.

Trong khổ thơ này, mùa thu được khẳng định bằng đoán nhận, bằng kinh nghiệm, bắn sự suy ngẫm chứ
không phải cảm nhận trực tiếp ở hai khổ thơ đầu. Mùa thu không được quan sát từ gần ra xa, từ thấp
lên cao mà mùa thu đang từ từ đi vào trong tâm tưởng, đang lắng lại trong cảm xúc. Vốn là nắng, mưa,
sấm, chớp bão giông, những tất cả đã đã vơi bớt đi. Và hàng cây đứng tuổi lâu năm cũng không còn bị
bất ngờ, bị giật mình vì những tiếng sấm đùng đoàng, vang rền nữa. Những hiện tượng của thiên nhiên
trong thời điểm giao mùa – hạ vào thu – được nhà thơ cảm nhận một cách tinh tế. Các từ ngữ “vẫn
còn”; “đã với dần”; “cũng bởi bất ngờ" gợi tả rất hay thời lượng và sự hiện hữu của sự vật, của thiên
nhiên buổi đầu thu.

b. Suy ngẫm của nhà thơ:


Đặc sắc nhất của khổ thơ là hai câu thơ cuối:

Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi.

“Sấm” và “hàng cây đứng tuổi” là những ẩn dụ, tạo nên tính hàm nghĩa của bài thơ. Nắng, mưa, sấm
không chỉ còn là những biến động của thiên nhiên mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những thử
thách, gian khổ, khó khăn trong cuộc sống. “Hàng cây đứng tuổi” là hình ảnh ẩn dụ nói về lớp người đã
từng trãi, từng tôi luyện trong nhiều gian khổ, khó khăn trong cuộc đời, có nhiều kinh nghiệm. Hình ảnh
thơ ở đây còn gợi ý nghĩa sâu xa hơn: con người đã đứng tuổi, đã từng trải không còn bị tác động bởi
những biến cố bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Hai câu thơ không chỉ còn tả cảnh sang thu mà
đã chất chứa những suy ngẫm về cuộc sống, về con người.

4. Nghệ thuật:

Bài thơ có nhiều nét nghệ thuật độc đáo. Bài thơ khắc họa được hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm, đặc sắc về
thời điểm giao mùa – mùa hạ sang mùa thu - ở nông thôn miền Bắc bộ. Nhà thơ còn sáng tạo trong việc
sử dụng từ ngữ (bỗng, phả, hình như), dùng phép nhân hóa (sương chùng chình, chim dềnh đảng), phép
ẩn dụ (sấm, hàng cây đứng tuổi).

III. Kết bài:

Trong lần thơ của dân tộc có rất nhiều bài thơ viết về mùa thu thật hay. Nhưng có

lẽ không ai quên được một chớm sang thu của Hữu Thỉnh – một mùa thu nhẹ nhàng,

đầm thắm, khó quên. Mỗi câu thơ trong bài thơ như một nét vẽ tinh vi, sống động, nên thơ đã mở ra
một không gian nghệ thuật buổi đầu thu với bao cảm xúc nồng nàn. Chủng ta cảm thấy mùa thu đang
nhẹ bước cùng cảnh vật, đem đến nhiều man mác, bảng khoảng và rạo rực lỏng người. Thật độc đáo làm
sao phút giao mùa từ hạ sang thu.

I. Mở bài:
SANG THU – Hữu Thỉnh Bài làm (Cho học sinh ghi)
Cũng như mùa xuân, mùa thu là mùa thơ của các thi nhân. Từ xưa đến nay đã có bao nhiêu nhà thơ viết
thành công về mùa thu. Với từng cách nhìn, cách nghĩ, cách viết khác nhau, mỗi nhà thơ tạo nên ấn
tượng riêng về mùa thu. Hữu Thỉnh cũng là một nhà thơ như thế. Bằng tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, Hữu
Thỉnh đã có những cảm xúc mới mẻ, độc đảo, sâu sắc về những biến chuyển của thiên nhiên nhẹ nhàng
nhưng rõ rệt từ cuối hạ sang đầu thu qua bài thơ “Sang thu” được tác giả viết năm 1977.

II. Thân bài:

1. Tổng:

“Sang thu” là chớm thu, là lúc thiên nhiên giao mùa. Hạ chưa qua nhưng đã có những tín hiệu đầu tiên
của mùa thu. Với Hữu Thỉnh mùa thu bắt đầu thật giản dị: Bỗng nhận ra hương ổi
2. Khổ 1:

Phá vào trong gió se Sương chủng chỉnh qua ngõ Hình như thu đã về.

Nơi làng quê, vào một buổi sớm mai bước trên con đường quen thuộc của làng quê, nhà thơ bất chợt
gặp hương thu và thấy lòng mình sững sờ. Từ “Bỗng” mở đầu bài thơ đã diễn đạt thành công sự ngỡ
ngàng, ngạc nhiên trước sự đột ngột ấy. Giữa đất trời mênh mông khi bước chân thu đang ngập ngừng
trước cửa, tâm hồn thi nhân đã lay động bởi “hương ổi” chin nồng nàn trong làn gió heo may, se lạnh
của mùa thu Bắc bộ. Cảm nhận về mùa thu của Hữu Thỉnh thật mới mẻ, độc đáo. Thơ xưa khi nói về mùa
thu thưởng nói về “lá rụng”. Thơ mới sau này cũng lấy hình ảnh lá vàng khô, hay hình ảnh hương cốm
mới làm biểu tượng cho mùa thu: “Con nai vàng ngơ ngác – Đạp lên lá vàng

khổ”.

Còn với Hữu Thỉnh hương thu của nhà thơ thật giản dị đó chính là “hương ổi” đang vào độ chín – một
loại hương thơm dung dị rất đỗi quen thuộc với làng quê Việt Nam. Hương ổi chín thơm lựng được nhà
thơ cảm nhận như đang “Phá vào trong gió se”. Từ “Phủ” là động từ vốn dùng để miêu tả một động tác
mạnh. Thế mà trong bài thơ tác giả lại nói “Hương ổi phá vào trong gió se”. Phải chăng nhà thơ đang
muốn làm nổi bật cải hương thơm của ổi chín nồng nàn, đậm đặc, khó phai. Hương thơm của trái ngọt
đầu mùa ấy như đang sánh lại trôi vào trong giỏ. Từ “Pha” còn gợi cho ta cảm nhận lần gió thu se lạnh
nhẹ nhàng như đang đón nhận hương thơm nồng nàn ấy để rồi lại hảo phòng ban phát hương thu đến
khắp đất trời. Chính hương ổi chín nồng nàn đang lan tỏa trong không khi đang se lạnh của mùa thu xứ
Bắc đã đánh thức tâm hồn thi nhân để nhà thơ mở lòng đón nhận tất cả vẻ đẹp của thời khắc giao mùa.
Để rồi tâm hồn nhà thơ giao hòa với cảnh vật, thả hồn say đắm với nàng thu. Với cả vạt sương mùa thu
mở áo giăng mắc trên lá cây ngọn cỏ khắp đường thôn ngõ xóm “Sương chùng chình qua ngõ”. Nghệ

12

thuật nhân hóa kết hợp với tử lấy tượng hình “chủng chính" làm cho làn sương sớm mùa thu hiện lên
sống động, tạo nên vẻ đẹp lung linh huyền ảo của làng quê lúc sang thu. Đó chính là màn sương thu
đang chuyển động nhẹ nhàng, chầm chậm thật duyên dáng và yểu điệu làm sao. Sương chùng chình như
cố ý chậm lại, dùng dằng nữa ở nửa đi. Sương đang chờ đợi ai hay đang bằng khoảng lưu luyến bịn rịn
tiếc nuối khi phải chia tay mùa hạ. Và cái ngõ nàng sương đang đi qua ấy là ngõ thực hay còn là cái ngõ
thời gian thông giữa hai mùa hạ - thu.

Biến chuyển trong không gian lúc sang thu được Hữu Thỉnh cảm nhận qua nhiều yếu tố, bằng nhiều giác
quan và sự rung động tinh tế. Đã nhận ra hương ổi, đã cảm nhận được làn gió se, mắt còn chứng kiến
lẫn sương thu mở ảo tức là những tín hiệu mùa thu đang hiện hữu thế mà tác giả lại viết: “Hình như thu
đã về”. Thu đã về tự bao giờ? Từ hương ổi? Từ giỏ? Hay tử sương? Chỉ một từ “Hình như đã lột tả rõ nét
đặc trưng của thời khắc giao mùa. Phải rồi thu đang đến một cách tự nhiên, êm dịu, nhẹ nhàng. Thời
khắc giao mùa ấy như một cơn xúc động nhẹ nhàng của thiên nhiên mà tác giả vẫn cảm nhận được. Phải
chăng với sự nhạy cảm của tâm hồn, với tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, với sự gắn bỏ máu thịt
với làng quê, nhà thơ như lắng nghe được từng bước chuyển mình của thời gian.

3. Khổ 2:
Cái bở ngỡ ban đầu tan biến để nhường chỗ cho sự rung cảm mãnh liệt trước mùa thu. Trong cảm nhận
của nhà thơ cảnh sắc mùa thu ngày cảng hiện lên rõ nét hơn: Sông được lúc dềnh dành

Chim bắt đầu vội và

Có đám mây màu hạ Vắt nửa mình sang thu.

Không gian mùa thu như được mở rộng hơn, cao hơn, bởi hình ảnh dòng sông,

bầu trời và những cánh chim:

Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây màu hạ

Vắt nửa mình sang thu.

Từ láy “dềnh dàng” đầy gợi cảm như mở ra trước mắt người đọc con sông quê hiển hòa duyên dáng. Hè
đã qua, thu tới, thế nên không còn những cơn mưa xối xả, dòng sông không còn đỏ ngầu phù sa cuồn
cuộn chảy mà trở nên bình lặng, hiền hòa hơn. Hình ảnh dòng sông lững lờ trôi gợi vẻ đẹp thanh bình
yên ả của làng quê thôn đã khi đất trời cuối hạ sang thu. Cấu trúc thơ có sự tương phản: Dòng sông
dềnh dảng còn chim vội vã. Mùa thu đến những chủ chim không còn nhởn nhơ rối rít mà vội vã, gấp gặp
làm tổ, tha mồi tránh rét mùa đông. “Dềnh đảng” – “Vội vã” hai trạng thái trái chiều nhưng đó lại là
những hình ảnh thực vào thời điểm giao thoa của muôn vật muôn loài. Phải gắn bó với cuộc đời, phải có
tình yêu thiên nhiên tha thiết nhà thơ mới có được sự quan sát tinh tế đến vậy. Có lẽ ở khổ thơ này hình
ảnh ấn tượng nhất với người đọc là:

Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu.

Đám mây mùa hạ mà lại “Vắt nữa minh sang thu”. Quả là một lối diễn đạt hết sức độc đáo. Nghệ thuật
nhân hóa đã làm cho hình ảnh thơ mềm mại trữ tình. Mùa hạ - mùa thu như hai đầu bến của thời gian
mà đám mây là nhịp cầu ô thước. Nhịp cầu ấy nối hai đầu thời gian bằng một sợi tơ trời. Trí tưởng
tượng của nhà thơ thật tuyệt vời. Hữu Thỉnh không phải là người duy nhất viết về mây của mùa thu.
Trước đây Nguyễn Khuyến cũng từng viết: “ Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”, sau này nhà thơ Xuân
Diệu tửng viết “Mây vẫn từng không chim bay đi”. Nhưng cái hay cái mới trong thơ Hữu Thỉnh là đám
mây của mùa hạ đã vắt nửa mình sang thu. Hình ảnh của đám mây tưởng tượng độc đáo ấy đã diễn tả
thành công thời khắc chuyển mùa bởi ranh giới giữa hai mùa thật mong manh. Dẫu thu đã sang nhưng
vẫn còn vương vấn một chút sắc hạ. Có thể nói rằng đây là hình ảnh đặc sắc nhất trong bài thể hiện một
cách duyên dáng và thần tình nhất phút giao mùa từ hạ sang thu thật đẹp, thật ấn tượng.

4. Khổ 3:

Bài thơ không chỉ cho ta cảm nhận về thiên nhiên đất trời lúc chuyển mùa mà thấm đẫm trong từng
dòng thơ ấy là những ý nghĩa triết lý sâu sắc. Điều này được thể hiện đậm nét ở khổ thơ cuối:

Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bướt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Khổ thơ cuối được hiểu theo hai tầng nghĩa. Nghĩa thực và nghĩa tượng trưng. Khi viết về cảnh thiên
nhiên ở khổ thơ này nhà thơ như đang muốn đối chiếu với cảnh sắc mùa hạ. Cho nên tác giả mới viết
“vẫn còn”, “Đã với”, “cũng bởi”...Cùng với các hình ảnh liệt kê “nắng”, “Mưa”, “Sấm”, “hàng cây” đã gợi
lên những cảnh vật đặc trưng của mùa thu. Hạ đã khoác áo vàng ra đi nhưng vẫn để lại cho thu chút tình
rạo rực. Dẫu không còn cái nắng chói chang gay gắt của mùa hè nhưng vẫn còn nắng vàng rực rỡ. Những
cơn mưa rào xối xả của mùa hạ cũng đã vơi nên sấm cũng đã thưa dần đi và hàng cây không còn bị bất
ngờ, bị giật mình bởi những tiếng sấm nữa. Chính hàng cây đứng tuổi vững chãi, cứng cỏi cuối bài thơ là
hình ảnh trung tâm gợi lên vẻ đẹp kiêu hùng của mùa thu. Đây là cách cảm nhận về mùa thu rất mới mẻ,
sáng tạo của Hữu Thỉnh. Thơ là tiếng lòng, chính nhà thơ tâm sự qua hình ảnh tả thực về hiện tượng
thiên nhiên này. Tác giả như muốn gửi gắm đến người đọc một quan niệm triết lý nhân sinh sâu sắc.
Hình ảnh nắng trong khổ thơ cuối phải chăng là những khát khao đam mê vẫn còn cháy bỏng trong mỗi
con người dù tuổi đời đã đến lúc sang thu. Những khát khao ấy vẫn còn chảy bỏng đủ đã phải trải qua
bao nhiêu gian khổ cuộc đời. Còn “Với dần cơn mưa” có lẽ nhà thơ muốn nói những khó khăn dường
như đã vơi bớt không còn quả nặng nề trên hành trình của cuộc đời. Tiếng sấm kia phải chăng là những
biến cố của cuộc đời, đặc biệt là hình ảnh “hàng cây dứng tuổi” không còn bất ngờ với tiếng sấm chính là
hình ảnh con người từng trải qua bao thăng trầm đắng cay ngọt bùi của cuộc

14

sống thì sẽ không còn hoảng sợ mà bình tĩnh tự tin hơn trước mọi biến cố của cuộc đời, thậm chí ngay
cả lúc đang phải đối mặt trong sông gió bão giông trong cuộc sống thì họ lại càng ngời lên những phẩm
chất tốt đẹp giống như “Vàng đã qua lửa”, “Thép đã được tôi” luôn vững vàng chủ động tự tin sẵn sàng
đón nhận tất cả trước những tác động bất thưởng của cuộc đời, thiên nhiên sang thu, con người cũng
sang thu. Cảnh thu và tỉnh thu giao hòa thắm thiết để lại những dư âm sâu lắng trong lòng người.

5. Tổng:

Thành công của bài thơ chính là sự cảm nhận tinh tế khoảnh khắc giao mùa từ cuối hạ sang đầu thu của
nhà thơ. Nét độc đáo của bài này là sự kết hợp một cách rất tự nhiên sự rung động của một tâm hồn
nhạy cảm với vẻ đẹp bình dị, sống động của làng quê Việt Nam. Qua đó ta thêm yêu quí nhà thơ, một
con người có tình yêu quê hương đất nước sâu sắc.

III. Kết bài:

Bằng sự cảm nhận tinh tế của tâm hồn, với những hình ảnh thơ đẹp, giàu sức gợi cảm, Hữu Thỉnh đã dệt
nên một bức tranh mùa thu trong khoảng khắc giao mùa thật trữ tình đằm thắm. Mùa thu thật lặng lẽ
và dịu dàng. Gấp sách lại mà dư âm của mùa thu vẫn vương vấn trong lỏng. Ta càng yêu mến và tự hảo
hơn về vẻ đẹp của làng quê Việt

Nam.

SANG THU
1. Mở bài:

1.1. Cách 1: Mở bài trực tiếp:


- Hữu Thỉnh là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người, cuộc sống ở nông thôn, về mùa thu.
Nhiều vẫn thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vẫn vương trước đất trời trong trẻo dạng biển
chuyển nhẹ nhàng như “Chiều sông Thương”, “Sang thu”.

- Bài thơ “Sang thu” dược Hữu Thỉnh sáng tác vào gần cuối năm 1977, in lần đầu tiên trên báo Văn nghệ,
sau đó in lại nhiều lần trong các tập thơ.

1.2. Cách 2. Mở bài gián tiếp:

Trong bốn mùa của thiên nhiên ai cũng công nhận mùa xuân là mùa đẹp nhất với vẻ tươi mới và sức
sống tràn trề. Nhưng mùa thu có vẻ đẹp riêng của nó, nên thơ, lãng mạn. Chính vì vậy mùa thu cũng trở
thành để tải hấp dẫn cho các nhà thơ. Ta không thể quên được chùm thơ thu nổi tiếng “Thu vịnh”, “Thu
điều”, “Thu ẩm” của Nguyễn Khuyển hay “Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu. Có thể nói thơ hay tả về mùa
thu có nhiều nhưng thu tả về giữa hạ và thu rất hiểm. Vì thế ta càng nâng niu trân trọng bài “Sang thu”
của Hữu Thỉnh. Khoảnh khắc giao mùa ấy được nhà thơ cảm nhận như thế nào? “Bỗng nhận ra hương ổi

2. Thân bài: Phân tích bài thơ. *Giới thiệu về mùa thu

Trên hàng cây dứng tuổi"

- Một năm có bốn mùa xuân hạ thu đông, trong đó có hai mùa đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu vì thế
mùa thu là bạn muốn đời của thi nhân. Mùa thu – mùa thơ, thu là thơ của đất trời, thơ là thu của lòng
người. Vì vậy có rất nhiều tác giả viết về mùa thu: Nguyễn Khuyến có ba bài thơ thu: “Thu điếu”, “Thu
ẩm”, “Thu vịnh"; Tản Đà có “Cảm thu tiễn thư"; Xuân Diệu có “Dây mùa thu tới"...

- Trong cảm hứng chung ấy “Sang thu” của Hữu Thỉnh có diều gì mới mẻ? Cái mới mẻ ấy nằm ở tựa đề
của thi phẩm. “Sang thu” không chỉ là bức tranh chuyển mùa từ hạ sang mùa thu với những biển chuyển
nhẹ nhàng của đất trời và cảm xúc bằng khoảng của tác giả mà còn đưa ra những triết lí rất sâu sắc về
đời người.

4. Khổ 1: Cảm nhận sự biến đổi của đất trời lúc sang thu

- Mở đầu bài thơ, người dọc có thể nhận ra ngay cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh khi tiết trời sang thu

+ Từ “Bỗng" mở đầu câu thơ thể hiện sự dột ngột, bất chợt trong cảm nhận. Nhưng chính cái bất ngờ ấy
mới thật sự nên thơ và dáng yêu. Trong một buổi chiều thu ở làng quê Bắc bộ, nhà thơ đã chợt nhận ra
điều gì? “Hương ổi phả vào trong gió sử", vì sao lại là hương ổi? Người ta có thể đưa vào bức tranh thu
một hương vị ngọt ngào của ngô đồng, cốm xanh, hoa ngâu...nhưng Hữu Thỉnh thì khác, trong tiết trời
cuối hạ dầu thu ông nhận ra cái hương vị chua chua, ngòn ngọt của những quả ổi chín vàng ươm. Hương
vị ấy đơn sơ, mộc mạc, dồng nội, rất quen thuộc với quê hương. Thế mà ít ai nhận ra sự hấp

dẫn của nó.

- Bằng cảm nhận tinh tế củng khứu giác và thị giác, nhà thơ tiếp tục nhận ra những dấu hiệu của thiên
nhiên khi mùa thu về. Chắc chắn nhà thơ phải gắn bỏ với thiên nhiên và quê hương lắm nên mới có
được sự cảm nhận tinh tế và nhạy cảm

như thế.

+ Dấu hiệu của sự chuyển mùa còn thể hiện qua ngọn “gió sẽ" mang theo hương ổi chín. Gió sẽ là làn gió
nhẹ, thoáng chút hơi lạnh. Ngọn gió se lạnh quyện với hương ổi như sánh đặc hơn, khó tan trong lòng
người một cảm giác mơn man xao xuyến. Từ hương nhận ra gió, từ gió nhận ra hương, sương. Trong
sương có cả hương ổi rồi có cả tình. Phút giao mùa nhìn thấy rồi mà vẫn súng sở tưởng khó tin. (Lưu ý:
Chính cái mùi ổi chín nồng nàn đã làm cho sang thu của Hữu Thỉnh trở nên ấm áp, không còn lạnh lẽo
như trong câu thơ thu của Nguyễn Khuyến “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo" ) + Từ “phả” là động từ vốn
dùng để miêu tả một động tác mạnh, được dùng trong câu thơ thật độc đáo nhưng cũng đầy ẩn ý! Phải
chăng nhà thơ dạng muốn làm nổi bật cái hương thơm của ổi chín nồng nàn, đậm đặc, khó phai. Hương
thơm của trái ngọt đầu thu ấy như đang sánh lại trôi vào trong gió nhanh, đột ngột, bất ngờ. Từ “phả”
còn gợi cho ta cảm nhận làn gió thu se lạnh nhẹ nhàng như dạng đón nhận hương thơm nồng nàn của ổi
dễ rồi lại hào phóng ban phát hương thu đến khắp

đất trời.

- Tiết trời sang thu đâu chỉ có hương ổi, gió se mà còn có một hình ảnh rất ấn tượng:

“Sương chủng chỉnh qua ngõ Hình như thu đã về"

+ Từ láy “chủng chỉnh" gợi nhiều liên tưởng. Tác giả nhân hóa lần sương như muốn diễn tả sự cố ý di
chậm chạp của nó khi chuyển động. Nó có cái vẻ duyên dáng yểu điệu của một cô gái dõi tám, đang e lệ
trước thiên nhiên. Cái hay của từ láy “chủng chỉnh” còn gợi tâm trạng. Sương chủng chỉnh là sự lay động
của màn sương với thái độ dùng dẳng nửa ở nửa di. Sương đang chờ đợi ai hay đang bằng khoảng lưu
luyến bịn rịn tiếc nuối khi phải chia tay mùa hạ hay là sự rung động, “chủng chỉnh", ngây ngất của chính
nhà thơ trước những vẻ dẹp hết sức bình dị và thân quen của làng quê Việt Nam mà ít ai cảm nhận
được.

+ Còn cái ngõ mà “nàng” sương dạng đi qua ấy là ngõ thực hay là cái ngõ thời gian thông giữa hai mùa
hạ - thu.

+ Vẻ đẹp trong thời khắc chuyển mùa trở nên rất duyên dáng, nhẹ nhàng. Nhà thơ rất tinh tế khi cảm
nhận vẻ đẹp rất riêng đó dễ rồi xao xuyến: “Hình như thu đã về". Đó là lời reo vui và thì thầm nhỏ nhẹ,
bằng khoảng vang lên trong lòng Hữu Thỉnh như bước dĩ của mùa thu. “Hình như" là tình thái từ vừa có
nghĩa là không chắc chắn bởi những dấu hiệu chuyển mùa quá nhẹ nhàng vừa thể hiện cảm xúc ngỡ
ngàng, ngạc nhiên của tác giả trước đất trời.

b. Khổ 2. Những hiểu chuyển trong không gian lúc sang thu

- Ở khổ thơ thứ nhất thiên nhiên bất ngờ đến với tác giả không hề có sự báo trước. Còn ở khổ thơ thứ
hai thì tác giả lại chủ động đến với thiên nhiên để khẳng định những điều mình cảm nhận được là đúng.

- Thiên nhiên được quan sát ở một không gian rộng lớn hơn. Bức tranh thu tử những gì vô hình (hương,
gió), từ ngõ hẹp (ngõ) chuyển sang nét hữu hình, cụ thể (sông, chim, mây) với không gian dài, cao, rộng.

- Hai câu thơ dầu tả dòng sông, dân chim. Hai câu thơ có cấu trúc dối tuyệt đẹp như trong thơ cổ diễn.
Dòng sông êm ả, dềnh dàng, không cuồn cuộn, dữ dội, gấp gáp như những ngày mưa lũ mùa hạ. Đàn
chim vội vã hơn vì tiết trời se lạnh. Cái cảm nhận ấy thật tỉnh tạo khi đưa ra những đánh giá “Sông được
lúc”, “Chim bắt đầu”.
- Hai câu sau là bức tranh đẹp về dám mây, bầu trời. Hình ảnh đám mây là một hình ảnh quen thuộc
trong thơ (“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”, “Mây vẫn từng không chim bay đi”, “Chòm mây trôi nhẹ
giữa tầng không").

- Cảm giác giao mùa được diễn tả thú vị qua dám mây mùa hạ “Vắt nửa mình sang thư". Một áng mây
mà có thể thấy bầu trời mùa hạ nhuộm nửa sắc thu. Hình ảnh dẹp thể hiện cái nhìn tinh tế.

* Như vậy bức tranh thu được cảm nhận bằng nhiều yếu tố, bằng nhiều giác quan (khứu giác, xúc giác,
thị giác) và đặc biệt là giác quan linh hồn, tinh tế của người nghệ sĩ tài hoa. Bức tranh thu có không gian
gần, có không gian xa. Ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm qua hệ thống động tử, tính từ, đặc biệt là từ láy:
dềnh dàng, chùng chình, vội vã. Qua đó thể hiện tâm hồn

thi sĩ ngỡ ngàng trước khoảnh khắc giao mùa “Hình như thu đã về"(Hình như: tử tình thái thể hiện sự
phán đoán dè dặt) chỉ “hình như” thôi bởi vì bước chân của nàng thu nhẹ nhàng lắm, nàng dung lướt
nhẹ nhàng trên cỏ cây, hương sắc của nàng tỏa ra dâu dây, phải hòa nhập tâm hồn mình vào thiên nhiên
đất trời mới có thể cảm nhận được.

2. Khổ 3: Suy ngẫm về “Sang thu”.

- Ở khổ thơ này tác giả lại tiếp tục nhận ra những dấu hiệu của sự giao mùa: “Vẫn còn bao nhiêu nắng –
đã vơi dần cơn mưa" hai câu thơ mang nghĩa tả thực và là một tín hiệu của bức tranh giao mùa. Vẫn còn
rất nhiều “bao nhiêu” nắng vì chỉ mới là những ngày đầu thu nhưng cái nắng không còn chói gắt. Nhưng
đã vơi dần con mưa không còn những trận mưa xối

xả của mùa hè.

- “Sắm cũng bớt bất ngờ - trên hàng cây đúng tuổi" hình ảnh thơ vừa tả thực vừa ẩn dụ.

+ Nghĩa tả thực: Gợi tả lại khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu: Sấm chớp thường gắn với những cơn
mưa rào mùa hạ. Hàng cây sang thu — là hàng cây lâu năm không còn giật mình bất ngờ bởi tiếng sắm
nữa.

+ Nghĩa ẩn dụ: “Sắm” tượng trưng cho những vang động bất thường của ngoại cảnh. “Hàng cây dứng
tuổi" chỉ những người từng trải (người từng trải là người hiểu đời, hiểu người, có kinh nghiệm sống đã
trải qua thăng trầm, nếm đủ vị ngọt của thành công và dẳng cay của thất bại nhưng thẳng không kiêu,
bại không nản) họ thưởng dứng vững trước những tác động bất ngờ của cuộc sống.

4. Nghệ thuật: Đánh giá về nhan đề cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh

- Nhan đề “Sang thu" vừa bao trùm vừa thẩm vào từng từ ngữ, cảnh vật. Hương quả sang thu. Ngọn gió
sang thu. Dòng sông, đàn chim, đám mây, bầu trời, nắng mưa, sấm chớp, cây cối và cả con người cũng
sang thu. Con người “sang thu” không còn bồng bột, sôi nổi, ảo ảo như thời thanh niên. Con người “sang
thu” chín chắn thêm, chín chắn đến tận cảm xúc

và biểu đạt.

- Từ ngữ, hình ảnh giàu sức biểu cảm, vừa quen thuộc, vừa mới lạ, được gọi lên bằng những cảm nhận
tinh tế. Trong từng hình ảnh sang thu của thiên nhiên, đất trời, tạo vật là hồn người “sang thu”.

* Qua dây, ta thấy Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Mùa thu thường
không rạo rực, ẩm áp như mùa xuân, không sôi động, rộn ràng như mùa hạ, hay lạnh lẽo thê lương như
mùa đông. Thu đến rất nhẹ nhàng và di rất lặng lẽ. Thu không đánh thức ta bằng những âm thanh vang
động, màu sắc lộng lẫy, hương vị ngọt ngào mà gieo vào lòng ta những thoảng xao động, mơ màng, gợi
trong ta những suy nghĩ sâu xa về cuộc sống. Có lẽ vì thế mà thơ thu, trong đó có “Sang thu của Hữu
Thỉnh rất giàu ý nghĩa.

3. Kết bài:

- Bài thơ “Sang thu” đã khép lại mà sao dư âm của nó còn mãi. Bài thơ thể hiện sự thủng công của nhà
thơ trong việc sử dụng ngôn ngữ, cô đọng lời mà ý tỉnh súc tích. “Sang thu” là khúc giao mùa nhẹ nhàng,
thơ mộng, bâng khuâng mà cũng thì thầm triết lí.

- Ta hãy dễ lòng lắng đọng hơn mà nghe giây phút “Sang thu” của Hữu Thỉnh, mà ngẫm suy cái triết li mà
nhà thơ muốn gửi gắm cho bạn đọc.

I. Mở bài:

SANG THU

(Hữu Thỉnh)

. Mùa thu vốn là một trong những đề tài quen thuộc trong thơ ca, là nguồn thi hứng dạt dào để người
nghệ sĩ viết lên những trang thơ đong đầy cảm xúc. Tuy nhiên đến với thu, mỗi thi nhân lại góp vào đề
tài này những nét độc đáo và thi vị riêng. Trước đây, Nguyễn Khuyến nỗi tiếng với ba bài thơ thu nức
danh “Thu điếu”, “Thu vịnh”, “Thu ẩm”, Tản Đà có “Cảm thu - Tiễn thư”. Sau này thì có “Tiếng thư” của
Lưu Trọng Lư hay Xuân Diệu với “Đây mùa thu tới”. Nhưng viết về tiết thu lúc giao mùa thì có lẽ “Sang
thu” của Hữu Thỉnh là nổi bật hơn cả. Bằng tâm hồn nhạy cảm và tình yêu thiên nhiên tha thiết, nhà thơ
đã mở rộng lòng mình để đón nhận giây phút chuyển mình của cảnh vật, đất trời từ cuối hạ sang đầu
thu. Đồng thời bộc lộ những chiêm nghiệm, những suy ngẫm về nhân sinh cuộc đời vốn đầy dẫy những
khó khăn,

thử thách.

II. Thân bài:

Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở Vĩnh Phúc, là nhà thơ trưởng thành
từ trong quân đội. Ông viết nhiều, viết hay về những con người, cuộc sống ở nông thôn, về mùa thu.
Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo, đang biến
chuyển nhẹ nhàng. Thơ Hữu Thỉnh mang đậm hồn quê Việt Nam dân dã, mộc mạc tinh tế và giàu rung
cảm. Bài thơ “Sang thu” của nhà thơ được viết vào cuối năm 1977, in lần đầu trên Bảo Văn Nghệ. Sau đó
được in trong tập thơ “Từ chiến hào đến thành phố” xuất bản năm 1991 và nhiều tập thơ khác. Bài thơ
là những cảm nhận tinh tế của nhà thơ về phút giao mùa của đất trời Việt Nam từ cuối hạ sang đầu thu.
Từ đó gửi gắm những triết lí nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về đời người.

1. Phân tích:
a. Khổ l

“Sang thu” ở đây là chớm thu, là lúc thiên nhiên giao mùa. Mùa hè vẫn chưa hết mà mùa thu tới có
những tín hiệu đầu tiên. Trước những sự thay đổi tinh vi ấy, phải nhạy cảm lắm mới cảm nhận được. Tác
giả đã thể hiện sự tinh tế đó của mình ngay từ những câu thơ đầu: “Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”

Mùa thu đã xuất hiện bao lần trong thơ ca với đủ mọi sắc thái. Cổ thị Trung Hoa có câu thơ nổi tiếng:

“Ngô đồng nhất diệp lạc

Thiên hạ cộng tri thu” (Một chiếc lá ngô đồng rụng

Cả thiên hạ đều biết là mùa thu)

Nếu như trong thơ ca cổ điển mùa thu thưởng hiện ra qua các hình ảnh ước lệ như cây ngô đồng, lá
phong, hoa cúc,... hay mới hơn có Xuân Diệu, với hình ảnh rặng liễu: “Rặng liễu đầu hiu đứng chịu tang/
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng” thì với Hữu Thỉnh ông lại bắt đầu bằng “hương ổi”. Đó là một hình
ảnh, một tử thơ khá mới mẻ với thơ ca viết về mùa thu nhưng lại vô cùng quen thuộc và gần gũi đối với
mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân miền Bắc mỗi độ thu về.

Mở đầu bài thơ là từ “bỗng” diễn tả cảm xúc bất ngờ, đột ngột, ngỡ ngàng của chủ thể trữ tình trước
những tín hiệu của mùa thu. Thu về với đất trời quê hương, với lòng người một cách tự nhiên mà không
hề báo trước. Hương vị đặc trưng của mùa thu bất chợt làm nhà thơ xao lỏng, không phải hương thơm
của một loài hoa mà là mùi ỗi chín, nghe mới mộc mạc, dân dã làm sao! Hương ổi không chỉ lan tỏa mà
còn vận động rất mạnh trong không gian, phả vào trong gió se”. Động từ “phả” gợi cho ta cảm nhận làn
gió thu se lạnh nhẹ nhàng như đang đón nhận hương thơm nồng nàn ấy để rồi lại hào phong ban phát
hương thu đến khắp đất trời.

Chính hương ổi chín nồng nàn lan tỏa trong không khi đang se lạnh của mùa thu xứ Bắc đã đánh thức
tâm hồn thi nhân để nhà thơ mở lòng đón nhận tất cả vẻ đẹp của thời khắc giao mùa. Để rồi tâm hồn
nhà thơ giao hòa với cảnh vật, thả hồn say đắm với nàng thu. Trước Hữu Thỉnh có rất nhiều nhà thơ viết
về mùa thu nhưng có lẽ đây là một phát hiện mới mẻ, tinh tế tạo nên cái điệu hồn rất riêng trong thơ
của Hữu Thỉnh.

Cùng với hương ổi và giỗ se, mùa thu dần hiện hữu trong không gian đất trời qua hình ảnh “Sương
chùng chình qua ngõ”. Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với từ láy “chùng chình” khiến cho sương thu như
chất chứa đầy tâm trạng. Sương mang dáng vẻ lãng đãng, cố ý bước đi chầm chậm đầy lưu luyến, ngập
ngừng giăng mắc khắp đầu thôn ngõ xóm. “Ngỡ” ở đây vừa là ngõ thực của làng quê, nhưng cũng có thể
là con ngõ thông giữa hai mùa hạ và thu. Phải chăng cảnh vật vẫn còn cải gì đó lưu luyến với mùa hạ,
chưa muốn chuyển hẳn mình sang thu hay tâm trạng con người đang đợi chở, tiếc nuối một điều gì đó
trước ngưỡng cửa thời gian của đời người? Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác, thị giác và một
tâm hồn nhạy cảm trước biến chuyển của thiên nhiên đất trời, nhà thơ ngỡ ngàng, thốt lên như tự hỏi
“hình như thu đã về”. Từ tình thái “hình như” diễn tả cảm giác mơ hỗ, bối rối, phán đoán không chắc
chắn. Nó gợi lên cảm xúc bâng khuâng trong tâm hồn thi sĩ trước những tín hiệu bất ngờ không hẹn

trước của mùa thu.

b. Khổ 2:

Sang khổ thơ thứ hai, sự vận động của thời điểm giao mùa được cụ thể hóa bằng những sắc

thái đổi thay của mọi vật, mở ra một không gian cao, rộng:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội và Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Từ láy “dềnh dàng” đầy gợi cảm như mở ra trước mắt người đọc con sông quê hiền hòa duyên dáng. Hè
đã qua, thu tới, thế nên dòng sông không còn đỏ ngầu phù sa cuồn cuộn chảy mà trở nên bình lặng, hiền
hòa hơn. Hình ảnh dòng sông lững lờ trôi gợi lên vẻ đẹp thanh bình yên ả của làng quê thôn dã khi đất
trời cuối hạ sang thu. Cấu trúc thơ có sự tương phản: Dòng sông dềnh dàng còn chim thì vội vã. Mùa thu
đến những chủ chim không còn nhởn nhơ rối rít mà vội vàng, hối hả bắt đầu di trú về phương Nam
tránh rét. “Dềnh dàng” – “Vội vã” hai trạng thái trái chiều nhưng đó lại là những hình ảnh thực vào thời
điểm giao thoa của muôn vật muôn loài. Phải gắn bó với cuộc đời, phải có tình yêu thiên nhiên tha thiết
nhà thơ mới có được sự quan sát tinh tế đến vậy. Có lẽ ở khổ thơ này hình ảnh ấn tượng nhất với người
đọc là: Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu.

Đám mây mùa hạ mà lại “Vắt nửa mình sang thu”. Quả là một lối diễn đạt hết sức độc đáo. Nghệ thuật
nhân hóa đã làm cho hình ảnh thơ mềm mại trữ tình. Mùa hạ - mùa thu như hai đầu bến của thời gian
mà đám mây là nhịp cầu ô thước. Nhịp cầu ấy nối hai đầu thời gian bằng một sợi tơ trời. Trí tưởng
tượng của nhà thơ thật tuyệt vời. Hữu Thỉnh không phải là người duy nhất viết về mây của mùa thu.
Trước đây Nguyễn Khuyến cũng từng viết: “ Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”, sau này nhà thơ Xuân
Diệu từng viết “Mây vẫn từng không chim bay di”. Nhưng cái hay cái mới trong thơ Hữu Thỉnh là đám
mây của mùa hạ đã vắt nửa mình sang thu. Hình ảnh của đám mây tưởng tượng độc đáo ấy đã diễn tả
thành công thời khắc chuyển mùa bởi ranh giới giữa hai mùa thật mong manh. Dẫu thu đã sang nhưng
vẫn còn vương vấn một chút sắc hạ. Có thể nói rằng đây là hình ảnh đặc sắc nhất trong bài thể hiện một
cách duyên dáng và thần tình nhất phút giao mùa từ hạ sang thu thật đẹp, thật ấn tượng.

c. Khổ 3:

Bài thơ không chỉ cho ta cảm nhận về thiên nhiên đất trời lúc chuyển mùa mà thấm đẫm trong từng
dòng thơ ấy là những ý nghĩa triết lý sâu sắc. Điều này được thể hiện đậm nét ở khổ

thơ cuối:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa


Sấm cũng bướt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Nhà thơ thật tinh tế và nhạy cảm khi phát hiện ra những thay đổi về mặt thời tiết. Vẫn là nắng, mưa,
sấm, chớp như mùa hạ, nhưng ở cuối mùa, ở mức độ khác rồi. Nắng nhạt dần chứ không còn chói
chang, gay gắt. Mưa cũng đã ít đi, nhất là những trận mưa rào, mưa đông ầm ầm, ảo ạt. Những từ ngữ
“vẫn còn”, “đã vơi dần”, “cũng bớt bất ngờ” gợi tả rất hay cái hiện tượng, sự vật đang dần đi vào thế ổn
định của mùa thu. Bài thơ khép lại với hình ảnh “sấm” và “hàng cây đứng tuổi vừa tả thực vừa mang ý
nghĩa ẩn dụ, gợi ra những suy nghĩ thăng trầm, triết lý nhân sinh sâu sắc. Cuối hạ - đầu thu, khi không
còn những cơn mưa xối xã thì sấm cũng bớt bất ngờ, dữ dội và hàng cây già cũng không còn bị bất ngờ,
giật mình vì tiếng sấm nữa. Nắng, mưa, sấm là không đơn thuần chỉ là những hiện tượng, những biến
động của thiên nhiên mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những thay đổi, những khó khăn thử thách
trong cuộc đời. Hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” lại là một ẩn dụ nói về lớp người từng trải, đã từng vượt
qua biết bao khó khăn, thăng trầm, bão táp của cuộc đời. Họ không còn quá bất ngờ trước những thách
thức của cuộc sống mà trở nên vững vàng, bình tĩnh đến lạ thưởng! Bởi một lẽ dương nhiên rằng: ai
cũng phải trải qua những năm tháng non dại bồng bột, những vấp ngã trong cuộc đời thì mới có thể
trưởng thành và con người ta khi có trãi nghiệm rồi thì cũng dần trở nên quen thuộc với sự thay đổi của
cuộc sống, trở nên vững vàng và nhìn đời bằng đôi mắt bình thản và chậm rãi hơn hẳn.

d. Tổng kết nghệ thuật:

Bằng thể thơ năm chữ mộc mạc cùng biện pháp tu từ nhân hóa, các hình ảnh thơ tự nhiên, vừa quen
thuộc, vừa mới lạ, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm, bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã thể hiện
một cách đặc sắc những cảm nhận tinh tế để tạo ra một bức tranh chuyển giao từ cuối hạ sang thu nhẹ
nhàng, êm dịu, trong sáng nên thơ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ để từ đó gửi gắm những suy nghĩ mang tính
triết lí rất sâu sắc về con người và cuộc đời. Đọc “Sang thu”, ta nhận ra ở Hữu Thỉnh là tình yêu tha thiết
với thiên nhiên, là một tâm hồn tinh tế và vô cùng nhạy cảm.

III. Kết bài:

Hạ đi, thụ đến mang theo những cảm xúc bất chợt để rồi gieo lại trong lòng người những bồi hồi về một
nàng thu nồng nàn êm ái. Qua “Sang thu”, bằng ngòi bút sắc nét mang đầy hơi thở trữ tình với những
triết lí sâu xa, nhà thơ Hữu Thỉnh đã khắc họa một bức tranh giao mùa với những biến đổi tinh vi của đất
trời. Từ đó đánh thức trong lòng độc giả tình yêu thiên nhiên, lòng tự hào về quê hương, đất nước. Chỉ
với vỏn vẹn ba khổ thơ, thi nhân đã góp vào nền thơ thu Việt Nam một áng thơ thật đẹp. Gấp sách lại
mà dư âm của mùa thu vẫn vương vấn mãi trong lòng độc giả. Tác phẩm như viên pha lê đầy góc cạnh,
trải qua bao thăng trầm để trọn vẹn lung linh mãi với thời gian.

. Dàn ý phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh

I. Mở bài

- Mùa thu luôn là đề tài quen thuộc gợi nhiều cảm xúc cho các thị nhân
- Bài thơ “Sang Thư khiến cho nhà thơ ngỡ ngàng trước cảnh đất trời đang chuyển giao mùa từ mùa hạ
sang thu, cả bài thơ là một bức tranh thu tươi đẹp.

II. Thân bài

* Bức tranh thiên nhiên mùa thu được Hữu Thỉnh phác họa một cách sinh động và giàu sức biểu cảm
bằng khím giác, thị giác, xúc giác.

- Nhà thơ cảm nhận mùa thu bằng tất cả con người, tâm hồn của mình qua những tín hiệu: + Sắc vàng
của hoa cúc, của lá ngô đồng, tiếng lá vàng rơi xào xạc.

+ Hương ổi bỗng phả vào gió se thơm ngào ngạt, nồng nàn đánh thức những cảm xúc

trong lòng người.

+ Mãn sương chùng chình qua ngõ, một chút ngỡ ngàng, bâng khuâng trong tâm hồn nhà thơ và sung
sướng thầm thốt lên “Hình như thu đã về”.

+Dòng sông, mưa, đám mây cũng có những tín hiệu sang thu=> Tác giả khẳng định rằng “Thu đến thật
rồi”.

- Dấu hiệu của mùa thu trong thơ rất bình dị, gần gũi. Tác giả rất tinh tế, khéo léo để nhận ra sự thay đổi
rất nhẹ nhàng, dịu dàng của mùa thu chỉ vừa mới chớm.

- Hình ảnh đám mây mùa hạ duyên dáng “Vắt nửa mình sang thư” thật thú vị và độc đáo. - Tất cả như
đang chuyển mình cùng nhịp đập của mùa thu.

* Tác giả bắt đầu suy ngẫm, chiêm nghiệm thể hiện qua giọng thơ trầm hẳn ở bốn câu thơ

cuối

- Khổ cuối nói lên một vài cảm nhận, suy ngẫm của nhà thơ khi nhìn cảnh vật trong những ngày đầu thu
qua hình ảnh nắng, mưa, sấm.

- Tác giả chiêm nghiệm và sự từng trải qua hình ảnh “Hàng cây đứng tuổi” : hình ảnh gợi cho người đọc
nhiều liên tưởng như một đời người trưởng thành rồi già cỗi đi

=>Hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.

- Mùa thu khép lại những ngày thẳng sôi nổi, bồng bột của tuổi trẻ để mở ra một mùa mới, một không
gian mới điềm đạm hơn.

* Nghệ thuật

-Với thể thơ 5 chữ, ngôn ngữ giản dị, hình ảnh đơn sơ, quen thuộc, biện pháp nghệ thuật nhân hóa
những hình ảnh màn sương, đám mây, ...làm cho bài thơ trở nên sinh động hơn.

III. Kết bài

- Hữu Thỉnh đã vẽ nên một bức tranh thu tươi đẹp với nhiều cảm xúc tinh tế. - Cả bài thơ là bức tranh
tuyệt mỹ được tác giả vẽ nên bằng sự rung động tinh vi của trái

tim người nghệ sĩ.


2. Phân tích bài thơ sang Thu - mẫu 1

Có lẽ, trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông thì mùa thu thưởng gợi cảm hứng cho thi ca nhạc họa nhiều
nhất. Ta có thể bắt gặp chùm thơ Thu của Nguyễn Khuyến, “Tiếng thư” của Lưu Trọng Lư hay “Đây mùa
thu tới” của Xuân Diệu... và cũng viết về đề tài mùa

thu, nhà thơ Hữu Thỉnh với thị phẩm “Sang thư” đã có những cảm nhận về phút giây giao mùa chuyển
từ cuối hạ sang đầu thu thật mới mẻ, tinh tế, nhẹ nhàng. Bài thơ được sáng tác năm 1977, in trong tập
“Từ chiến hào đến thành phố”, rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ nhỏ nhẹ, thiết tha, sâu lắng
của Hữu Thỉnh.

Mở đầu bài thơ là những cảm nhận ban đầu trước những tín hiệu dịu nhẹ lúc sang thu trong một không
gian thu rất gần và hẹp:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về”.

Tín hiệu đầu tiên báo hiệu thời khắc của sự giao mùa từ cuối hạ sang thu là hình ảnh “hương ổi” bay
phảng phất trong gió se. Hương ổi chín thơm ấy, vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Quen thuộc vì nó là
hương thơm thường gắn liền với đồng quê, thôn xóm của người Việt, rất dân dã, mộc mạc. Nhưng nếu
trong thơ xưa, các nhà thơ khi miêu tả cảnh thu thường gắn liền với ao thu, bầu trời thu hay bông hoa
cúc vàng rực rỡ, một chiếc lá vàng khô... thì ở đây, Hữu Thỉnh lại cảm nhận tín hiệu ban đầu báo hiệu
thời khắc của sự chuyển giao mùa hạ sang thu là hương ổi. Điều đó đã tạo nên sự mới mẻ trong cách
cảm nhận và miêu tả cảnh thu của nhà thơ. Hương thơm ngát của ổi chín đã được tác giả miêu tả qua
động từ “phả”. Từ “pha” diễn tả một mùi hương nồng nàn, đậm đà, lan tỏa trong gió se. “Gió se” là một
loại gió chỉ có trong mùa thu, hơi khổ, se se lạnh. Và chính ngọn gió đầu mùa ấy đã đưa mùi hương bay
tỏa ra khắp không gian làm nên vẻ đẹp của mùa thu.

Mùa thu tới không chỉ có gió, có hương ổi mà còn có cả làn sương. Không gian thu lãng đãng hơi sương,
tạo cho khung cảnh thu thêm lãng mạn. Làn sương được nhân hóa qua động từ “chùng chình”, có tác
dụng gợi ta những làn sương mỏng manh, nhẹ nhàng như cố ý chậm lại, như lưu luyến chưa muốn bước
hẳn vào thu. Ngõ ở đây vừa là ngõ thực của thôn làng, ngõ xóm; lại vừa là ngõ của của thời gian như
chao nghiêng ranh giới giữa hai mùa, mùa hạ thì chưa muốn qua mà mùa thu thì chưa muốn tới.

Cảm xúc trước của nhà thơ trước những tín hiệu mùa thu đã được tác gia diễn tả qua từ “bỗng”, thể
hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, bất ngờ khi phát hiện ra những tín hiệu đó. Và thiên nhiên, trời đất đã
được tác giả mở lòng ra mà đón nhận bằng tất cả các giác quan với những rung động thật tinh tế, nhẹ
nhàng: khứu giác (mùi hương ổi), xúc giác (gió se), thị giác (sương chùng chình). Từ tất cả các tín hiệu
trên (gió, hương, sương) tác giả đi đến kết luận: “Hình như thu đã về”. Đây là một sự phỏng đoán bằng
cảm giác, bằng linh tính của tâm hồn. “Hình như là từ tình thái thể hiện sự tin tưởng thấp, chưa chắc
chắn, vẫn còn mơ hồ. Trạng thái cảm xúc này không chỉ phù hợp với cảnh thu mà cũng rất phù hợp với
logic tâm trạng. Bởi những tín hiệu của mùa thu đều là những tín hiệu vô hình, không có hình khối, màu
sắc rõ ràng, cụ thể nên nhà thơ mới có cảm xúc ngỡ ngàng, bâng khuâng, có phần hơi bối rối trước tín
hiệu mùa thu.
Nếu như khổ thơ đầu, không gian thu được co hẹp trong một không gian rất gần và hẹp thì tới khổ hại,
không gian thu đã được mở rộng về biên độ với tầm nhìn cao và xa hơn, từ mặt

đất lên bầu trời:

“Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu”

Hình ảnh dòng sông được nhân hóa qua từ láy “dềnh dàng”, tức là chậm chạp, thong thả. Dòng sông
không còn cuồn cuộn, gấp gáp chảy trước những cơn mưa lũ của mùa hạ nữa mà thay vào đó, nó trở
nên lắng lại, từ từ, nhẹ nhàng, lững lờ trôi. Dường như, dòng sông cũng ngập ngừng như muốn níu kéo
mùa hạ, chưa muốn sang mùa thu. Ngược lại với sự “dềnh dàng” của dòng sông là trạng thái “vội vã”
của cánh chim đang mải miết bay đi tránh rét khi chúng bắt đầu cảm nhận được cái se se lạnh của tiết
trời đầu thu. Nghệ thuật đặng đối ở hai câu thơ đầu tạo nên hình ảnh thơ thật đẹp, rất chinh, giàu tính
chất tạo hình, đồng thời làm cho không gian thu trở nên rộng mở hơn, rất khoáng đạt.

Khép lại khổ thơ là hình ảnh đám mây được nhân hóa với hành động “vắt nửa mình”. Hình ảnh thơ rất
giàu tính chất tạo hình trong không gian và có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian. Đám mây trắng
buốt mềm mại trải dài như một tấm lụa treo ngang trên bầu trời, rất nhẹ nhàng, duyên dáng. Và mây
cũng chính là ranh giới chao nghiêng giữa hai mùa hạ — thu. Cảnh vật trở nên vừa hư lại vừa thực, đó là
sản phẩm của trí tưởng tượng rất nên thơ và hết sức độc đáo, mới mẻ của tác giả. Tóm lại, với một hệ
thống những hình ảnh đẹp, giàu tính chất tạo hình trong không gian, kết hợp với nghệ thuật nhân hóa,
tương phản, nhà thơ đã khắc họa thành công khung canh trời đất khi bắt đầu vào thu thật sống động,
tinh tế, nhẹ nhàng. Chắc chắn Hữu Thỉnh phải là một ngòi bút tài năng, một tâm hồn nghệ sĩ và tình yêu
thiết tha với thiên nhiên tạo vật thì mới tạo nên câu thơ viết về mùa thu đẹp, lãng mạn đến như vậy.

Từ những cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến và những rung động mãnh liệt trước những phút giây giao
mùa vào thu ở khổ một, hai, nhà thơ chuyển sang giọng điệu suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần con mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi.

Nhà thơ thật tinh tế và nhạy cảm khi phát hiện ra những thay đổi về mặt thời tiết Vẫn là sấm, mưa,
nắng, những hiện tượng thời tiết của mùa hè nhưng trong khoảnh khắc giao mùa này đã có sự đổi thay
về mực độ. Cái nắng nóng chói chang của mùa hạ đã dần nhạt màu, không còn gay gắt như còn ở giữa
mùa hạ; những cơn mưa rào bất chợt ào ào kéo đến cũng đã vơi dần đi. Sấm chớp kéo theo những cơn
dông lốc dữ dội cũng bớt đi, cũng trở nên thưa thót hơn nhiều. Những từ như “vẫn còn”, “vơi dần”,
“cũng bớt” đã có tác dụng diễn tả những hiện tượng của tự nhiên đó (sấm, mưa, nắng) đã giảm đi về
mức độ và

cường độ khi trời đất đang giao mùa cuối hạ, đầu thu rất nhẹ nhàng, khó nhận biết. Thế nhưng, với một
tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, nhà thơ đã phát hiện ra sự chuyển biến đó của thiên nhiên, vũ trụ.

Từ hiện tượng của tự nhiên, nhà thơ suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời: “Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi"


“Sấm” là hình ảnh ẩn dụ, biểu trưng cho những tác động của ngoại cảnh với những biến động của cuộc
đời. “Hàng cây đứng tuổi” là những cành cây lâu năm, cành lá sum suê, rễ cắm sâu xuống lòng đất vô
cùng chắc chắn. Những hàng cây này đã trải qua biết bao nhiêu mùa bão giông với những biến thiên của
trời đất. Và nó biểu trưng cho những con người từng trại đã đi qua biết bao nhiêu những khó khăn, vất
vả, hiểm nguy trên đường đời. Như vậy, bằng nghệ thuật ẩn dụ, nhà thơ thể hiện sự suy ngẫm, chiêm
nghiệm về cuộc đời con người: con người từng trai sẽ trở nên vững vàng hơn trước những thử thách
trong cuộc đời. Lúc viết bài thơ này, Hữu Thỉnh mới chỉ hơn ba mươi tuổi, ấy vậy nhưng Hữu Thỉnh đã tự
cho rằng mình là người từng trải. Có lẽ điều này xuất phát từ hoàn cảnh của ông xuất thân từ một người
lính, đã trải qua biết bao nhiêu là khó khăn, gian nan, vất vả; với biết bao nhiêu tang tóc, hi sinh, mất
mát nơi chiến trường khốc liệt.... nên đã rèn luyện cho nhà thơ một bản lĩnh cứng cỏi và nghị lực vươn
lên, dám đương đầu với mọi biện động bất thường mà cuộc sống sẽ xảy ra. Đặt câu thơ “sấm cũng bớt
bất ngờ” vào trong một hệ thống các câu thơ ở khổ một, hai như làn “sương chùng chình qua ngỡ” và
“vắt nửa mình sang thư”, người đọc chợt nhận ra sự lưu luyến muốn níu kéo thời gian của nhà thơ khi
nhận ra sự sang thu của tạo vật cũng chính là sự “sang thu” của đời người....

Bài thơ được viết theo thể năm chữ, hình ảnh thơ đẹp, giàu sức gợi, ngôn ngữ trong sáng, giàu sức biểu
cảm đã có tác dụng diễn tả những trạng thái của cảnh vật và sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm của thi nhân
trước thiên nhiên, vũ trụ đất trời khi bắt đầu sang thu. Đọc xong bài thơ, chúng ta thấy được sự mới mẻ
trong cách cảm nhận mùa thu của Hữu Thỉnh, đồng thời thấy được tình yêu đời, yêu thiên nhiên đất
nước sâu sắc của nhà thơ. 3. Phân tích bài thơ sang Thu - mẫu 2

Cũng như mùa xuân, mùa thu luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc cho các thi nhân. Mỗi người lại có cách
nhìn, cách miêu tả rất riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của mình. Có nhà thơ, mùa thu là dáng liễu
buồn, là màu áo mờ phai, là tiếng đạp lá vàng của con nai ngơ ngác. Hữu Thỉnh cũng góp vào tuyển tập
thơ mùa thu của dân tộc một cái nhìn mới mẻ. Ông là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người,
cuộc sống ở nông thôn, về mùa thu. Những vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vương vấn
trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng. Điều này thể hiện rõ qua bài "Sang thu" được
ông sáng tác cuối năm 1977.

Bài thơ diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng trước cảnh đất trời đang chuyển biến giao mùa từ hạ sang thu.

Không như những nhà thơ khác, cảm nhận mùa thu qua sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng hay qua
tiếng lá vàng rơi xào xạc. Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu với một hương vị khác: Hương ổi.

"Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió sen

"Bỗng nhận ra" là một trạng thái chưa được chuẩn bị trước, như là vô tình, sửng sốt để cảm nhận, giữa
những âm thanh, hương vị và màu sắc đặc trưng của đất trời lúc sang thu. Nhà thơ nhận ra tín hiệu của
sự chuyển mùa từ ngọn gió nhè nhẹ, lành lạnh sẽ khô mang theo hương ổi. "Pha" là một động từ mang ý
tác động được dùng như một cách khẳng định sự xuất hiện của hơi thu trong không gian: "hương ổi",
một mùi hương không dễ nhận ra, bởi hương ổi không phải là một mùi hương thơm ngào ngạt, nồng
nàn mà chỉ là một mùi hương thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu, nhưng cũng đủ để đánh thức những
cảm xúc trong lòng người.
Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà nhà thơ còn cảm nhận màn sương thu trong
phút giao mùa. Màn sương hình như cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc vào thu nên chùng
chình chưa muốn dời chân:

"Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Từ láy tượng hình "chùng chình" gợi cảm giác về sự lưu luyến ngập ngừng, làm ta như thấy một sự dùng
dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả, yên bình. "Chùng chỉnh" là sự ngắt quãng nhịp
nhàng, chuyển động chầm chậm hay cũng chính là sự rung động trong tâm hồn nhà thơ? Một chút ngỡ
ngàng, một chút bâng khuâng, nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của không gian mùa thu. "Hình
như" là một từ tình thái diễn tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện sự hiện hữu của mùa thu. Sự góp mặt
của màn sương buổi sáng cùng với hương ổi đã khiến cho nhà thơ giật mình thảng thốt. Không phải là
những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa mà là chi tiết thật mới mẽ, bất ngờ. Có lẽ với Hữu Thỉnh, làn
hương ổi rất quen với người Việt Nam, mà rất lạ với thơ được tác giả đưa vào một cách hết sức tự
nhiên.

Rồi mùa thu được quan sát ở những không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn: "Sông được lúc dềnh
dàng Chim bắt đầu vội và Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu"

Nếu ở khổ một, mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ, thì ở khổ thơ này, tác giả đã có thể
khẳng định: Thu đến thật rồi. Thu có mặt ở khắp nơi, rất hiện hình, cụ thể. Dòng sông không còn cuồn
cuộn dữ dội như những ngày mưa lũ mùa hạ mà trôi một cách dềnh dàng, thanh thản. Mọi chuyển động
dường như có phần chậm lại, chỉ riêng loài chim là bắt đầu vội vã. Trời thu lạnh làm cho chúng phải
chuẩn bị những chuyến bay chống rét khi đông về. Phải tinh tế lắm mới có thể nhận ra sự bắt đầu vội vã
trong những cánh chim

bay bởi mùa thu chỉ vừa mới chớm, rất nhẹ nhàng, rất dịu dàng. Điểm nhìn của nhà thơ được nâng dần
lên từ dòng sông, rồi tới bầu trời cao rộng:

"Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu"

Cảm giác giao mùa được Hữu Thỉnh diễn tả thật thú vị. Đây là một phát hiện rất mới và độc đáo của ông.
Mùa thu mới bắt đầu vì thế mây mùa hạ mới thảnh thơi, duyên dáng "vắt nữa mình sang thu". Đám mây
như một dải lụa mềm trên bầu trời đang còn là mùa hạ, nửa đang nghiêng về mùa thu. Bức tranh
chuyển mùa vì thế càng trở nên sinh động và giàu sức biểu cảm.

Ở khổ cuối, khoảnh khắc giao mùa không còn được nhà thơ diễn tả bằng cảm nhận trực tiếp mà bằng sự
suy ngẫm, chiêm nghiệm:

"Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần con mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ


Trên hàng cây đứng tuổi"

Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đang nhạt dần. Những ngày giao mùa này đã vơi đi những
cơn mưa rào ảo ạt. Vẫn là nắng, vẫn là mưa, sấm như mùa hạ nhưng mức độ đã khác rồi. Lúc này, những
tiếng sấm bất ngờ cùng những cơn mưa rào không còn nhiều nữa. Hai câu thơ cuối gợi cho ta nhiều suy
nghĩ, liên tưởng thú vị.

"Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi"

Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là gượng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy
ngẫm, chiêm nghiệm. Cụm từ "hàng cây đúng tuổi" gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Đời người như
một loài cây, cũng non tơ, trưởng thành rồi già cỗi. Phải chăng, cái đứng tuổi của cây chính là cái đúng
tuổi của đời người. Hình ảnh vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có ý nghĩa biểu tượng. Về chín chắn, điềm tĩnh
của hàng cây trước sấm sét, bão giống vào lúc sang thu cũng chính là sự từng trải, chín chắn của con
người khi đã đứng tuổi. Phải chăng mùa thu của đời người là sự khép lại những ngày tháng sôi nổi bồng
bột của tuổi trẻ, để mở ra một mùa mới, một không gian mới thâm trầm, điềm đạm, vững vàng hơn. Ở
tuổi "sang thu", con người không còn bất ngờ trước những tác động bất thường của

ngoại cảnh, của cuộc đời.

Xưa nay, màu thu thưởng gắn liền với hình ảnh lá vàng rơi ngoài ngõ, lá khô kêu xào xạc... Và ta ngỡ như
chỉ những sự vật ấy mới chính là đặc điểm của mùa thu. Nhưng đến với "Sang thu" của Hữu Thỉnh,
người đọc chợt nhận ra một làn hương ổi, một màn sương, một dòng sông, một đám mây, một tia nắng.
Những sự vật gần gũi thế cũng làm nên những đường nét riêng của mùa thu Việt Nam và chính điều này
đã làm nên sức hấp dẫn của "Sang thu".

Bài thơ kết câu theo một trình tự tự nhiên. Đó cũng là diễn biến mạch cảm xúc của tác giả vào lúc sang
thu. Bài thơ gợi cho ta hình dung một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp vào thời điểm giao mùa hạ - thu ở
vùng nông thôn Bắc Bộ. Những câu thơ của Hữu Thỉnh như có

một chút gì đó thâm trầm, kín đáo, rất hợp với cách nghĩ, cách nói của người thôn quê. Bài thơ giúp ta
cảm nhận được tình cảm thiết tha, tâm hồn tinh tế của nhà thơ giàu lòng yêu thiên nhiên của nhà thơ.

Bài thơ ngắn với thể thơ năm chữ mộc mạc, ngôn ngữ giản dị mà ý nghĩa sâu sắc, hình ảnh đơn sơ mà
gợi cảm. Hữu Thỉnh đã phác họa một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp bằng nhiều cảm xúc tinh nhạy.
Đọc thơ Hữu Thỉnh ta càng cảm thấy yêu quê hương đất nước hơn, cảng cảm thấy mình cần phải ra sức
góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu

đẹp.

4. Phân tích Sang thu - mẫu 3

Mùa thu là nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca, chỉ một cái mùa thu ấy thôi nhưng giới văn nhân nghệ
sĩ đã biết bao lần cảm thán, rồi tự sáng tác riêng cho mình những vần thơ, những câu hát rất riêng, rất
đặc sắc. Ví như Xuân Diệu viết trong Đây mùa thu tới bằng một cảm xúc sầu não, u rũ khi “Rặng liễu đìu
hiu đúng chịu tang” với “Hơn một loài hoa đã rụng cảnh” và “Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”. Có
thể thấy rằng đề tài mùa thu trong thi ca Việt Nam và cả thi ca phương Đông là không mới, nét đặc sắc,
riêng biệt của mỗi thi phẩm về mùa thu đến từ xúc cảm cá nhân, cách dùng từ, nghệ thuật và tài năng
của từng tác giả,... Hữu Thỉnh chính là một trong các nhà thơ tiêu biểu khi viết về thu với một nét rất
riêng. ông không viết về cuối thu, giữa thu mà ông chọn một khoảnh khắc tương đối nhạy cảm là thời
điểm giao mùa, sang thu. Thế nhưng khoảnh khắc ấy khi vào thơ, đã được tác gia diễn tả một cách vô
cùng mượt mà và tinh tế trong bài thơ Sang thu. “Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngôi Hình như thu đã về

Khoảnh khắc nhà thơ nhận ra mùa thu đã về cũng thật đặc biệt, khác hẳn với những tác giả từ xưa tới
nay thường nhận định mùa thu qua những thứ rất đặc trưng như tiếng lá xào xạc rơi, sắc vàng của khi
vào thu như Lưu Trọng Lư từng viết trong Tiếng thu những vần thơ rất ngộ “Con nai vàng ngơ ngác Đạp
lên lá vàng khổ”. Cũng không phải là cái cảnh trời xanh cao vời vợi như trong Thu điếu của Nguyễn
Khuyến, lại càng không phải hương cốm mới, cúc họa mi, hay cơn gió heo may lạnh mà người ta vẫn
nhắc khi nghĩ về mùa thu ở Hà Nội. Cái khoảnh khắc chớm thu của Hữu Thịnh nói dân dã, giản dị lắm, nó
đến từ “hương ổi” thơm ngào ngạt, ngọt ngào, một thức quà quê quá đỗi quen thuộc với mỗi người dân
Việt Nam. Cái hương ổi ấy, nó không phải chỉ thoang thoảng mà “Pha vào trong gió se” hòa quyện, đặc
quánh, khiến thi nhân cảm nhận được một cách rõ nét và ý thức được sự chuyển giao giữa mùa hạ và
mùa thu. Đồng thời “cơn gió se” mang hương ổi ấy, cũng phần nào gọi cho người ta cảm giác khô ráo, se
se lạnh của mùa thu. Bên cạnh hương ổi chín trong làn gió se lạnh, khoảnh khắc giao mùa còn được thể
hiện thông qua một hình ảnh rất độc đáo và đặc biệt mà có lẽ cũng như hương ổi, từ trước đến nay
chưa từng thấy thi nhân nào lại hình dung về mùa thu độc lạ thế. “Sương chùng chình qua ngô”, từ láy
“chùng chình” ấy gợi cho độc giả cảm giác chậm rãi, giăng mắc của làn sương sớm, dường

như màn sương ấy đang cố nán lại quanh ngõ nhỏ cùng với hương ổi chín để báo hiệu với nhà thơ rằng
“Hình như thu đã về”. Hoặc trong một cảm nhận khác, đôi khi người ta nghĩ rằng cái màn sương chủng
chỉnh ấy tựa như một dải khăn lụa trắng đang vắt ngang giữa cái ranh giới của mùa hạ và mùa thu, có lẽ
còn chút gì đó vấn vương cái ấm áp của mùa hạ chưa muốn chuyển hẳn sang mùa thu hiu lạnh chăng.
Đến cậu thơ cuối đoạn “Hình như thu đã về” vừa là lời khẳng định mùa thu đã chính thức bắt đầu với
những dấu hiệu rõ nét bao gồm hương ổi ngọt ngào, gió se se lạnh và màn sương chậm rãi chùng chình.
Nhưng đồng thời câu thơ cũng thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của thi nhân trước khoảnh khắc mùa
thu tới.

“Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu”

Ở khổ thơ tiếp theo, sự chuyển giao mùa đã không còn nằm trong hương ổi hay làn sương sớm mà nó
thể hiện một cách rõ rệt thông qua sự chuyển biến của thiên nhiên đất trời, mỡ ra một không gian cao
rộng và khoáng đạt của đất trời mùa thu. Đó là hình ảnh dòng sông “dềnh dàng” đại diện cho mặt đất,
đang chậm rãi chảy, khác hẳn với với một dòng sông của mùa hạ liên tục đón nhận những cơn mưa nặng
hạt, những dòng nước cuồn cuộn vội vã. Và có lẽ người ta cũng phần nào cảm nhận được cái vẻ đẹp
hiền hòa của dòng sông thu, giống như cái vẻ đẹp mà Nguyễn Khuyến đã nhắc đến trong Thu điếu “Ao
thu lạnh lẽo nước trong veo”, thì nước sông mùa thu có lẽ cũng mang những vẻ tương tự vậy, trong
trẻo, thanh khiết và dịu dàng. Cái vẻ đẹp tuyệt diệu mà Nguyễn Du đã từng dùng để miêu tả vẻ đẹp của
cô Kiều rằng “Làn thu thủy, nét xuân sơn/Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”. Trái ngược với vẻ
“dềnh dàng”, thư thả của dòng sông, thì cánh chim mùa thu lại mang một về vội vã, khẩn trương “Chim
bắt đầu vội vã”. Cảnh chim chính là đại diện cho bầu trời khoáng đạt rộng lớn, mùa thu đến cũng có
nghĩa là thời tiết bắt đầu chớm lạnh, cánh chim ấy có lẽ bắt đầu vội vã đi kiếm ăn, xây tổ cho kiên cố để
đợi đông về, hoặc cũng có thể loài chim đang vội vã bay về phương Nam tránh rét. Chung quy lại sự đối
lập, tương phan giữa dòng sông dềnh dàng và cánh chim vội vã mục đích làm nổi bật lên cái khoảnh khắc
giao mùa vốn dĩ mờ mờ trong không gian, chính điều này đã thể hiện được tâm hồn vô cùng tinh tế, óc
quan sát tỉ mỉ của thi sĩ trước thời khắc chuyển mùa. Hai câu thơ “Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình
sang thư” là một đột phá nghệ thuật, là cách liên tưởng rất thú vị của Hữu Thỉnh trong thời điểm chuyển
giao giữa hạ và thu. Tác giả dùng phép nhân hóa đám mây tạo cho nó một dáng vẻ, một hành động
giống như một con người, có chút gì đó lười biếng, có chút gì đó vấn vương lắm cái mùa hạ nên mới chỉ
“vắt nửa mình sang thư”. Đồng thời câu thơ còn lần nữa nhấn mạnh vào chủ đề của bài thơ là “Sang
thu” tức là chưa bước hẳn vào mùa thu thực thụ.

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần con mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”.

Đây là khổ thơ đúc kết nhiều triết lý mà tác giả muốn gửi gắm tới độc giả sau khi đã bước qua nhiều
những năm tháng của cuộc đời. Bằng sự trải nghiệm và óc quan sát tinh tế ti mẫn của mình, Hữu Thỉnh
đã đưa ra những nhận định so sánh về hai mùa hạ và thu rồi cho ra một cảm nhận rất sâu sắc về khoảnh
khắc giao mùa. Ở thời điểm giao mùa hạ - thu nắng tuy vẫn còn đó thế nhưng nó đã kém đi cái phần gay
gắt, bức bối của mùa hạ mà trở nên dịu dàng, ấm áp xen lẫn chút se lạnh của mùa thu, đem đến cho con
người khoảnh khắc dễ chịu và thư thái. Cùng với đó nếu như mưa của mùa hạ là những cơn mưa dải,
nặng hạt thì mưa những lúc đầu thu - cuối hạ đã bớt đi cái tính dồn dập, triền miên, mà chỉ là những cơn
mưa phùn nhẹ, thưa thớt. Đi từ cảm xúc của sự trải nghiệm, Hữu Thỉnh đã để lại cho độc giả những triết
lý rất hay về cuộc đời trong hai câu thơ cuối bài “Sấm đã bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi”. Sấm là
một hiện tượng tự nhiên thường đi kèm với những cơn mưa, khi mưa bớt dần thì tiếng sấm cũng thưa
đi. Thế nhưng ngoài ra tiếng sấm này còn tượng trưng cho những giông bão của cuộc đời, của những
năm tháng tuổi trẻ, mà khi con người đã ngả mình sang thu tức là đã bước qua dốc bên kia của cuộc đời,
đã là “hàng cây đứng tuổi”, thì bấy nhiễu giông bão ấy, bấy nhiêu tiếng sấm vốn đã từng gây bất ngờ,
chao đảo nay lại trở nên bình thường. Bởi một lẽ đương nhiên rằng ai cũng phải trải qua những năm
tháng non dại bồng bột, những vấp ngã trong cuộc đời thì mới có thể trưởng thành và con người ta khi
có trải nghiệm rồi thì cũng dần trở nên quen thuộc với sự thay đổi của cuộc sống, trở nên vững vàng và
nhìn đời bằng đôi mắt bình thản và chậm rãi hơn

hăn.

Sang thu được viết khi tác giả đã bước vào ngưỡng tuổi 35, tức là hơn một phần ba chặng đường đời, có
lẽ khi ấy ngay cái lúc mà Hữu Thỉnh nghe thấy hương ổi chín, ông đã ngạc nhiên, giật mình nhận ra thu
về, đồng thời cũng chợt nghĩ đến dai đời đang bước sang thu của mình. Để rồi Hữu Thỉnh, cố viết cái
khoảnh khắc chuyển giao ấy thật chậm rãi, thế nhưng cũng không ngăn được cái bước đi vội vã của thời
gian, thu đến bất ngờ, thời trai trẻ cũng trôi đi vùn vụt. Bao nhiêu năm tháng rực rỡ huy hoàng như mùa
hạ cuối cùng cũng đang lưu luyến rời đi để lại trong lòng tác giả nhiều xúc cảm.
SANG THU - HỮU THỈNH

Đề 1: Viết bài văn trình bày cảm nhận của em khổ thơ sau:

DÀN Ý CHI TIẾT:

I. Mở Bài:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

- Văn học là cuộc đời. Văn học vẫn luôn sống một cuộc đời cao đẹp gắn liền với con người và kết tinh
những hạt ngọc của thời đại. Tất cả những giá trị vĩnh cửu đó đã thăng hoa cùng ngòi bút của Hữu Thỉnh.
Ông thường viết về những con người, cuộc sống ở nông thôn, về mùa thu Bắc Bộ. Thơ ông dễ nhớ, giàu
chất trữ tình sâu lắng, man mác. Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm xúc bằng khuâng, vấn vương
trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng. - “Sang thu” là tác phẩm in đậm phong cách nghệ
thuật độc đáo đó của Hữu Thỉnh và được đánh giá là một trong những bài thơ thành công xuất sắc trong
mảng đề tài về mùa thu. Đến với bài thơ ta sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên lúc
sang thu mang đậm hồn quê hương xứ sở.

- Khổ thơ sau đã ghi lại cảm xúc của thi nhân về vẻ đẹp của bức tranh thu qua những tín hiệu báo thu
sang: “Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

II.Thân Bài:

1.Khái Quát Đầu:

- Hoàn cảnh sáng tác: “Sang thu” được viết vào cuối năm 1977, khi đất nước mới thống nhất. In trong
tập thơ “Từ chiến hào đến thành phố”
- Mạch cảm xúc: Bài thơ gồm 3 khổ, viết theo mạch vận động của thiên nhiên lúc giao mùa từ hạ sang
thu. Từ những tín hiệu đầu tiên bảo thu về đến quang cảnh trời đất lúc vào thu, những biến chuyển âm
thầm của tạo vật và suy ngẫm về cuộc đời con người.

- Vị trí đoạn trích: Đoạn thơ trên là khổ thơ thứ nhất của tác phẩm đã thể hiện cảm xúc của thi nhân về
vẻ đẹp của bức tranh thu qua những tín hiệu báo thu sang.

2.Cảm nhận

a. Luận điểm 1 – ba câu thơ đầu: Những tín hiệu đầu tiên bảo thu sang

Mở đầu bài thơ là những tín hiệu đầu tiên của cảnh sắc thiên nhiên lúc giao mùa từ hạ sang thu và
không hẹn trước:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngôi”

- Câu thơ đem đến cái hương vị ấm nồng của chớm thu ở một vùng nông thôn Bắc Bộ. Từ “bỗng” reo lên
trong niềm ngỡ ngàng, ngạc nhiên khi thu đến bất ngờ, không hẹn trước. Thu về, từ bao giờ nhỉ? Tất cả
đến với tác giả nhẹ nhàng, mà đột ngột quả, thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề
báo trước. Để rồi trong giây phút ngỡ ngàng ấy, nhà thơ mới chợt nhận ra “hương ổi”. Vì sao lại là
“hương ổi” mà không phải là bầu trời xanh, hương cốm mới hay lá vàng rơi? Mà chính là “hương ổi” -
thứ hương thơm dân dã, mộc mạc, thứ quà quê bình dị, thân quen trong cuộc sống nhưng mới mẻ trong
thi ca mùa thu. Và lí giải về hình ảnh “hương ổi”, tác giả Hữu Thỉnh cũng từng tâm sự: “Giữa cái khoảnh
khắc giao mùa kì lạ thì điều khiển tâm hồn tôi phải lay động, phải giật mình để nhận ra, đó chính là
hương ổi. Với tôi, thậm chí với nhiều người khác thì mùi hưởng đó gợi nhớ tới tuổi ấu thơ, gợi nhớ
những đứa trẻ ẩn hiện trong triền ổi chín ven sông... Hương ổi tự nó xộc thẳng vào những miền thơ ấu
thân thiết trong tâm hồn chúng ta”. (Lời tự bạch của nhà thơ). Làn “hương ổi” trở thành phong vị riêng
trong thơ Hữu Thỉnh.

- Bằng cảm nhận tinh tế và sự thức dậy của giác quan, nhà thơ đã chợt nhận ra dấu hiệu của thiên nhiên
khi mùa thu về. Chúng ta thật sự rung động trước trạng thái “bỗng nhận ra” - cảm xúc chưa hề chuẩn bị,
như là vô tình, như là sửng sốt ấy của tác giả. Chắc hẳn nhà thơ phải gắn bó với thiên nhiên, với quê
hương lắm nên mới có được cảm nhận tinh tế và nhạy cảm đến thế.

- Dấu hiệu của sự chuyển mùa còn được thể hiện qua cơn “gió se” mang theo hương ổi chín. “Gió se” là
ngọn gió hạnh hao, chớm lạnh lúc đầu thu. Làn gió se ấy đã làm dịu đi cái nắng oi ả, gay gắt của mùa hạ
và khiến cho làn “hương ổi” như sánh lại và trở nên ngọt ngào hơn. Ngọn gió se se lạnh, se se thổi, thổi
vào cảnh vật, thổi vào lòng người một cảm giác mơn man, xao xuyến. Nhà thơ quả là tinh tế khi phát
hiện ra hồn thu xứ sở qua hình ảnh giản dị, quen thuộc, rất đặc trưng về ngọn gió heo may mỗi độ chớm
thu của miền Bắc Việt Nam.

=> Hương ổi nó vốn nồng nàn trong gió thu se lạnh, nó càng trở nên sánh lại, quyện vào trong gió đủ để
thức dậy cả một không gian vườn ngõ, đủ để làm sống dậy cả một miền kí ức tuổi thơ.
- Diễn tả sự lan tỏa và thoang thoảng của hương vị, tác giả dùng động từ “phủ” mà không phải là “lan”,
“tỏa”, “hòa”, “lẫn”... Từ “pha” như mang trong nó hơi ấm của sức sống, của hơi thở do vậy mà sức
truyền cảm lớn hơn rất nhiều. Động từ “phủ” gợi cảm giác hương thơm như thành luồng tác động mạnh
mẽ vào làn gió khiến không gian trở nên nồng nàn quyến rũ. Sự kết hợp thú vị giữa“hương ổi” của mùa
hạ và “ngọn gió se” của mùa thu là sự hòa quyện tài tình giữa nóng và lạnh. Nó gợi cho ta cảm giác mùa
hạ vẫn chưa qua hết và mùa thu mới chỉ có những dấu hiệu đầu tiên rất mơ hồ.

=> Có thể nói hai câu thơ nói về cái se lạnh của mùa thu nhưng không gợi cảm nhận về sự lạnh lẽo mà
đem lại cho người đọc sự cảm nhận về hương vị ấm nồng những ngày chớm thu ở một miền quê nhỏ.
Trong rung cảm tinh tế của nhà thơ, mùa thu là mùa của quả ngọt, trái chín, mùa của những xúc cảm
nồng nàn. Ngọn gió thu se lạnh đúng là nét thu muôn đời trong văn chương sách vở song cái mùi hương
ổi chín kia thì đã kéo mùa thu từ trang sách đến với cuộc đời bởi đây là nét thu mang đậm dấu ấn của
miền quê dân dã, gắn liền với những kí ức tuổi thơ ngọt ngào.

- Nhà thơ Hữu Thỉnh còn tinh tế nhận ra dấu hiệu của sự chuyển mùa qua làn sương mỏng manh giăng
mắc khắp đầu thôn ngõ xóm: “Sương chùng chình qua ngõ".

- “Sương” gắn liền với ngõ nhỏ là một nét thu quá đỗi gần gũi, quen thuộc nơi làng quê Việt Nam. Song
sương quen mà lại hóa lạ bởi với từ láy “chùng chính”, nhà thơ đã nhân hóa sương, trao cho nó tâm
trạng của con người. Dưới ngòi bút tài hoa của nhà thơ Hữu Thỉnh, làn sương thu vô tri, vô giác bỗng trở
nên sống động, có hồn. Làn sương thu như cố ý chậm lại để chờ đợi ai hay lưu luyến điều gì. Phải chăng
sương thu cũng muốn tận hưởng trọn vẹn hương thơm ngọt ngào và cái lành lạnh đầu thu, nên nó còn
đang “chùng chình” chưa muốn tan đi? Nó có cái vẻ duyên dáng, yểu điệu của một làn sương, một hình
bóng thiếu nữ.Tâm trạng của sương thu hay chính là lòng người đang tư lự, cũng chùng chình khi đứng
trước thời khắc giao mùa? Hình ảnh nhân hóa này vừa làm hiện hình tạo vật, vừa gợi cảnh thu thơ
mộng, thong thả, tĩnh lặng và bình yên. Trong cảm nhận của nhà thơ, con ngõ thực cho sương đi qua đã
trở thành ranh giới giữa hai mùa hạ và thu. Khi sương đi “qua ngõ” cũng chính là lúc trời đất đã chuyển
mình sang thu. Có phải vì ý thức được sứ mệnh quan trọng của mình mà sương “chùng chình” không
muốn bước đi như cố ý chậm lại giây phút chuyển mùa? Và “ngõ” ở đây cũng có thể hiểu là ngõ thực
cũng có thể hiểu là cửa ngõ thời gian thông giữa hai mùa.

- Nói đến cái chùng chình, lưu luyến rất tinh, rất nên thơ này chúng ta cũng bắt gặp ở trong một bài thơ
khác của Hữu Thỉnh, đó là bài “Chiều sông Thương”:

Đi suốt cả ngày th

Vẫn chưa về tới ngõ

Dùng dằng hoa quan họ

Nở tím bên sông Thương”

b. Luận điểm 2 – câu thơ cuối: Cảm xúc của thi nhân

Những dấu hiệu đầu tiên của mùa thu rất mong manh, mơ hồ, bởi vậy nhà thơ mới ngỡ ngàng như tự
hỏi:

“Hình như thu đã về


-Chỉ là “hình như” thôi bởi vì những dấu hiệu đầu tiên kia mới chỉ là sự chuyển mình rất nhẹ, rất khẽ của
đất trời. Chứa đựng trong câu thơ là một thoáng bối rối, một chút ngẩn ngơ trước bước đi bất chợt của
thời gian. Từ “hình như” hài hòa, hổ ứng với từ “bỗng” ở đầu khổ thơ đã diễn tả cảm giác bối rối, mơ hồ,
bâng khuâng, ngỡ ngàng, cái giật mình bối rối của thi nhân và phút nhận ra khoảnh khắc giao mùa. Nó
khác với tâm trạng náo nức, reo vui của tác giả Xuân Diệu khi thốt lên “Đây mùa thu tới, mùa thu tới/
Với áo mơ phai dệt lá vàng”. Từ “hình như” như một lời tự vấn, nó gợi một cảm giác bâng khuâng, ngỡ
ngàng, cái giật mình bối rối của tác giả trước mùa thu.

- Thế nhưng “thu đã về” lại là sự khẳng định. Có thể thấy trong câu thơ ranh giới giữa hư và thực rất
mong manh. Chính điều đó đã diễn tả rất tinh tế những xao xuyến, những bối rối, ngỡ ngàng của tác giả
khi đất trời vào thu. Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời điểm chuyển giao: Thu đến nhẹ nhàng quá,
mơ hồ quá. Hóa ra bức tranh kia không phải chỉ cảm nhận bằng giác quan mà bằng cả tâm hồn nữa. Phải
là một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế như Hữu Thỉnh mới có thể chuyển tại cái giây phút giao mùa mong
manh đẹp đến như vậy.

=> Như vậy từ hương ổi, gió sẽ đến sương chùng chình như những sứ gia đầu tiên, vô hình, mờ ảo được
nhìn trong một không gian gần và hẹp với tất cả các giác quan từ khứu giác đến xúc giác và thị giác, nó
thể hiện khoảnh khắc giao mùa mong manh như một thứ dây tơ mà nói như Xuân Diệu: “Bước đi sẽ đứt
động hờ sẽ tiễu”. Phải là một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế như Hữu Thỉnh mới có thể chuyển tải cái giây
phút giao mùa mong manh đẹp đến như vậy.

3. Đánh Giá:

- Khổ thơ là tiêu biểu cho ngòi bút độc đáo của Hữu Thỉnh. Hình ảnh thơ bình dị, gần gũi, thân thuộc.
Giọng thơ nhẹ nhàng, trầm lắng, dịu ngọt. Sử dụng thành công nhiều giác quan trong cảm nhận tín hiệu
mùa thu.

- Tất cả những đặc sắc nghệ thuật ấy đã góp phần tô đậm cảm nhận tinh tế của tác giả trước những tín
hiệu đầu tiên của thiên nhiên lúc giao mùa từ hạ sang thu. - Sáng tạo: Với đề tài về mùa thu, không thể
không nhắc đến Nguyễn Khuyến với bài thơ “Thu điếu”:

+ Cả hai nhà thơ đều gặp nhau ở đề tài mùa thu với những tín hiệu đặc trưng của mùa thu làng quê vùng
đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng mỗi nhà thơ lại đem đến cho người đọc một cảm nhận riêng biệt.

+ Nếu như trong bài thơ “Thu điếu”, Nguyễn Khuyến mang đến cho người đọc chút cảm nhận lạnh lẽo,
tĩnh lặng, đơn độc, buồn man mác trước thời khắc thu sang. Thì với “Sang thu” của Hữu Thỉnh, những tín
hiệu của mùa thu mang hơi thở ấm áp, vận động và có sức sống. Đây chính là nét độc đáo trong phong
cách sáng tác của Hữu Thỉnh.

III.Kết Bài:

- Khổ thơ thứ nhất đã giúp người đọc cảm nhận rõ nét, sâu sắc hơn cảm xúc của thi nhân trước vẻ đẹp
của bức tranh thu qua những tín hiệu báo thu sang. Khổ thơ đã góp phần hoàn chỉnh cho bức tranh
“Sang thu” đầy tinh tế của Hữu Thỉnh. - Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng viết: “Văn chương gây
cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có”. Và đến với tác phẩm “Bếp lửa”, tác
giả Hữu Thỉnh đã khơi dậy trong lòng độc giả những rung cảm tinh tế trước sự chuyển biến của thiên
nhiên đất trời khi sang thu. Bài thơ còn gợi cho người đọc về tình yêu thiên nhiên, yêu những vẻ đẹp
bình dị của quê hương, đất nước.

- Liên hệ bản thân: Để mỗi người nhận thấy vai trò quan trọng của quê hương, đất nước trong hành
trang khôn lớn, trưởng thành. Đúng như trong bài thơ “Quê hương", tác giả Đỗ Trung Quân từng viết:

“Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nổi thành người"

Đề 2: Viết bài văn trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của bức tranh sang thu trong khổ thơ sau:

“Sông được lúc đềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”

DÀN Ý CHI TIẾT: I. Mở Bài:

- Văn học là cuộc đời. Văn học vẫn luôn sống một cuộc đời cao đẹp gắn liền với con người và kết tinh
những hạt ngọc của thời đại. Tất cả những giá trị vĩnh cửu đó đã thăng hoa cùng ngòi bút của Hữu Thỉnh.
Ông thưởng viết về những con người, cuộc sống ở nông thôn, về mùa thu Bắc Bộ. Thơ ông dễ nhớ, giàu
chất trữ tình sâu lắng, man mác. Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương
trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng. - “Sang thu” là tác phẩm in đậm phong cách nghệ
thuật độc đáo đó của Hữu Thỉnh và được đánh giá là một trong những bài thơ thành công xuất sắc trong
mảng đề tài về mùa thu. Đến với bài thơ ta sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên lúc
sang thu mang đậm hồn quê hương xứ sở.

- Khổ thơ sau đã ghi lại cảm xúc của nhà thơ trước sự biến chuyển của cảnh vật, đất trời lúc sang thu:

“Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”

II.Thân Bài:

1.Khái Quát Đầu:


- Hoàn cảnh sáng tác: “Sang thu” được viết vào cuối năm 1977, khi đất nước mới thống nhất. In trong
tập thơ “Từ chiến hào đến thành phố”

- Mạch cảm xúc: Bài thơ gồm 3 khổ, viết theo mạch vận động của thiên nhiên lúc giao mùa từ hạ sang
thu. Từ những tín hiệu đầu tiên bảo thu về đến quang cảnh trời đất lúc vào thu, những biến chuyển âm
thầm của tạo vật và suy ngẫm về cuộc đời con người.

- Vị trí đoạn trích: Đoạn thơ trên là khổ thơ thứ hai của tác phẩm ghi lại cảm xúc của nhà thơ trước sự
biến chuyển của cảnh vật, đất trời lúc sang thu.

2.Cảm Nhận:

a. Luận điểm 1 – hai câu thơ đầu: Trạng thái của sự vật trong thời khắc sang thu Bằng cảm nhận tinh tế
của mình, Hữu Thỉnh đã giúp người đọc cảm nhận rõ nét hơn những trạng thái của sự vật trong thời
khắc sang thu:

“Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã”

- Thiên nhiên đến đây đã được quan sát ở một không gian rộng lớn hơn, nhiều tầng bậc hơn. Bức tranh
thu từ những gì vô hình như hương, gió đã chuyển sang những nét hữu hình, cụ thể với những hình ảnh
dòng sông, cánh chim và đám mây. Đây đều là những hình ảnh giàu sức biểu cảm và hiện ra thật sống
động dưới ngòi bút tài hoa của nhà thơ.

+ Đặc biệt từ láy “dềnh dàng” đã nhân hóa dòng sông thật tài tình, đem lại sức gợi cảm lớn.

+ Nó vừa gợi hình ảnh dòng sông dâng đầy nước trong những ngày cuối hạ, đầu thu vừa gợi tả điệu chảy
từ từ, chậm rãi, lũng lờ của dòng nước.

+ Đồng thời nó mở ra tâm trạng của dòng sông quê hương, sau những ngày oẳn mình dưới những cơn
mưa mùa hạ xối xả, dòng sông lúc đầu thu như được nghi ngợi. Bởi vậy nó dềnh dàng trong tâm trạng
thoải mái, khoan khoái, thanh than. Có thể nói từ láy tượng hình này được nhà thơ Hữu Thỉnh dùng rất
đắt, miêu tả dòng sông mà lại gợi ra bước đi êm đềm, dìu dịu trong bình thản và tĩnh lặng của mùathu.

=> Sông lúc sang thu đã không còn cuồn cuộn, gấp gáp như trong ngày hè, mà êm ả dềnh dàng, lũng lờ
trôi như đang ngẫm ngợi suy tư. Câu thơ tả dòng sông qua phép nhân hóa tài hoa đã ghi lại được linh
hồn của tạo vật, của dòng sông quê hương miền đồng bằng Bắc Bộ phút giao mùa. Sang thu dòng sông
ăm ắp nước phù sa, vươn mình dài rộng giữa ruộng đồng, bờ bãi. Nhịp điệu chảy “dềnh dàng” của dòng
sông không chỉ gợi tả vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên mà còn mang đầy tâm trạng suy tư của con
người. Dòng sông cũng như những con người giàu trải nghiệm đã bước qua cái trẻ tuổi ồn ào, ngược
xuôi để giờ đây sống bình thản, yên ả, chậm rãi như đang suy nghĩ về cuộc đời.

- Tương phản với nhịp chảy dềnh dàng của dòng sông là sự vội vã của những cánh chim chuẩn bị cho
mùa di trú. Thu sang, khi trời se se lạnh, trên bầu trời trong xanh, cao rộng, những cánh chim vội vã bay
tìm nơi trú ngụ nhưng mới chỉ là “bắt đầu” mà thôi. Hai từ “được lúc” ở câu “Sống được lúc dềnh dàng”
và “bắt đầu” ở câu “Chim bắt đầu vội vã” đã thể hiện được sự tinh tế của tác giả Hữu Thỉnh trong cảm
nhận sự mới chớm, bắt đầu của mùa thu, nó cũng giống như sự tinh tế của nhà thơ Huy Cận khi viết
“Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” – tinh tế khi cảm nhận được trọng lượng của ráng chiều nghiêng
trên cánh chim. Không gian ở đây trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi được cái
động. Từ láy “vội vã” đối rất đạt với “dềnh dàng” đã đem đến cho câu thơ cấu trúc hài hòa cân đối cổ
điển. Hai hình ảnh thơ tạo nên sự đối lập: dưới nước – trên trời, một bên được lúc chậm chạp, thanh
thản; một bên bắt đầu hối hả, vội vã. Hình ảnh đối xứng này khiến cho bức tranh thu dịu êm mà không
đơn điệu. => Không gian thu đang được nới dần ra, rộng hơn, cao hơn : từ đường thôn ngõ xóm đến
dòng sông rồi đến bầu trời bao la. Thời gian đưa ta từ thấp lên cao, từ gần ra xa mà không thấy hẫng
hụt, đột ngột vì đã có những cánh chim làm chiếc cầu nối giữa trời và đất.

b. Luận điểm 2 – hai câu thơ cuối: Vẻ đẹp của đám mây trong tời khắc sang thu Tài hoa nhất và giàu
sức biểu cảm nhất chính là hình ảnh đám mây mang trên mình cả hai mùa hạ và thu:

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”

- Hai câu thơ là hình ảnh thơ tuyệt đẹp về mùa thu. Ở đây, thu mới chỉ ở nơi cửa ngõ cho nên “Đám
mây” chỉ “vắt nửa mình”. Với nghệ thuật nhân hóa, liên tưởng độc đáo, động từ “vắt” cùng với phép
nhân hóa ở từ “mình” đã gợi hình ảnh một đám mây bồng bềnh, duyên dáng trên bầu trời. Viết về hình
ảnh đám mây, tác giả Hữu Thỉnh cũng đã tâm sự “Mây mùa hạ thường chứa nhiều màu sắc, thậm chí là
giống bão, tựa hồ như những ước mơ khao khát của tuổi trẻ... tuy nhiên, giữa ước mơ và thực tại là hai
thế giới luôn đối lập nhau và chẳng phải ước mơ nào cũng thành hiện thực. Sự dang dở, sự mất mát là
một hiện thực buộc chúng ta phải chấp

nhận trong cuộc sống của mình. Ngay cả người lính cũng vậy. Rất nhiều đồng đội của tôi đã nằm lại ở
tuổi còn rất trẻ, ở ngưỡng của mùa đẹp nhất của cuộc đời. Vì thế nên đám mây trong thơ ấy chỉ “vắt nửa
mình sang thu” thôi, nửa còn lại đã trở thành ký ức”. (Lời tự bạch)

- Với từ “vắt” này đám mây vô tri, vô giác đã được nhân hóa trở nên thật duyên dáng và quyến rũ. Nó
mềm mại như một dải lụa vắt ngang ranh giới giữa hai mùa hạ và thu. Đám mây vắt lên cái ranh giới
mong manh và ngày càng bé dần, bé dần đi rồi đến một lúc nào đó không còn nữa để toàn bộ sự sống,
để cả đám mây mùa hạ hoàn toàn nhuốm màu sắc thu.

- Hình như trong cảm nhận của nhà thơ có một lần ranh giới mùa trên bầu trời. Khi đám mây mùa hạ vắt
mình sang nửa bên kia của bầu trời thì phút giao mùa đã tới.

- Đám mây ấy đâu chỉ được nhìn bằng mắt mà còn được nhìn bằng sự rung động tâm hồn, của trái tim.
Một áng mây bằng khuâng đã cho thấy bầu trời nhuộm nửa sắc thu. “Mây” là thực còn ranh giới mùa là
ảo và đến một lúc nào đó, đám mây ấy sẽ tràn sang trọn vẹn bầu trời thu như Nguyễn Khuyến đã viết:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”. Hữu Thỉnh thật tài khi lấy hình ảnh không gian để gợi bước đị của
thời gian. Thật tài tình khi nhà thơ chỉ miêu tả đám mây mà lại gợi ra được bầu trời đã nhuộm sắc thu.
Câu thơ cho ta thấy Hữu Thỉnh đã đón nhận khoảnh khắc sang thu bằng tất cả tâm hồn rộng mở trước
đất trời để cảm nhận được những biến chuyển tinh vi, huyền diệu của nó.

- Và qua lời tự bạch của Hữu Thỉnh, phải chăng tác giả còn muốn nói tới cái sang thu của đời người, bởi
vì sang một trang mới, người ta sẽ nhìn lại những gì đã qua, những gì sắp tới, những gì đã thực hiện
được, những ước mơ đã thành hiện thực còn có những ước mơ mãi mãi chỉ là mơ ước mà thôi.
=> Có lẽ đây là hai câu thơ hay nhất trong sự tìm tòi khám phá của Hữu Thỉnh trong khoảnh khắc giao
mùa. Nó giống như một bức tranh thu vĩnh hằng tạc bằng ngôn ngữ.

- Liên hệ: Có lẽ, ta cũng từng bắt gặp ở đâu đó đám mây như vậy trong thơ của LêThu An:

“Mây trời một dải trắng phau

Vắt ngang sườn núi chiều thu ngập ngừng”

3. Đánh Giá:

- Khổ thơ là tiêu biểu cho ngòi bút độc đáo của Hữu Thỉnh. Hình ảnh thơ bình dị, gần gũi, thân thuộc.
Giọng thơ nhẹ nhàng, trầm lắng, dịu ngọt. Sử dụng thành công nhiều giác quan trong cảm nhận tín hiệu
mùa thu.

- Tất cả những đặc sắc nghệ thuật ấy đã góp phần tô đậm cảm nhận tinh tế của tác giả trước những tín
hiệu đầu tiên của thiên nhiên lúc giao mùa từ hạ sang thu. - Sáng tạo: Với đề tài về mùa thu, không thể
không nhắc đến Nguyễn Khuyến với bài thơ "Thu điếu":

+ Cả hai nhà thơ đều gặp nhau ở để tải mùa thu với những tín hiệu đặc trưng của mùa thu làng quê vùng
đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng mỗi nhà thơ lại đem đến cho người đọc một cảm nhận riêng biệt.

+ Nếu như trong bài thơ “Thu điếu”, Nguyễn Khuyến mang đến cho người đọc chút cảm nhận lạnh lẽo,
tĩnh lặng, đơn độc, buồn man mác trước thời khắc thu sang. Thì với “Sang thu” của Hữu Thỉnh, những tín
hiệu của mùa thu mang hơi thở ấm áp, vận động và có sức sống. Đây chính là nét độc đáo trong phong
cách sáng tác của Hữu Thỉnh.

III.Kết Bài:

- Khổ thơ thứ hai đã giúp người đọc cảm nhận rõ nét, sâu sắc hơn cảm xúc của nhà thơ trước sự biến
chuyển của cảnh vật, đất trời lúc thu sang. Khổ thơ đã góp phần hoàn chỉnh cho bức tranh “Sang thu”
đầy tinh tế của Hữu Thỉnh.

- Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng viết: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có,
luyện những tình cảm ta sẵn có”. Và đến với tác phẩm “Bếp lửa”, tác giả Hữu Thỉnh đã khơi dậy trong
lòng độc giả những rung cảm tinh tế trước sự chuyển biến của thiên nhiên đất trời khi sang thu. Bài thơ
còn gợi cho người đọc về tình yêu thiên nhiên, yêu những vẻ đẹp bình dị của quê hương, đất nước.

- Liên hệ bản thân: Để mỗi người nhận thấy vai trò quan trọng của quê hương, đất nước trong hành
trang khôn lớn, trưởng thành. Đúng như trong bài thơ “Quê hương", tác giả Đỗ Trung Quân từng viết:

“Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nổi thành người”


**

*******

SANG THU

Hữu Thỉnh-

A. TÁC GIẢ: Sinh 1942

- Là nhà thơ khoác áo lính trưởng thành từ trong kháng chiến cũng là gương mặt tiêu biểu của phong
trào thơ trẻ những năm chống Mỹ.

- Thơ Hữu Thỉnh mang đậm hồn quê Việt bởi ông viết nhiều và viết hay về cảnh sắc và cuộc sống ở nông
thôn Bắc Bộ. Thơ ông trầm lắng, suy tư, giàu cảm xúc, thường thể hiện những cảm nhận tinh tế, mới mẻ
về thiên nhiên và con người.

B. TÁC PHẨM

- Hoàn ảnh sáng tác và xuất xứ: Bài thơ được sáng tác vào mùa thu năm 1977, sau này in trong tập thơ
“Từ chiến hào tới thành phố” (1991). Sau hai năm đất nước độc lập, thống nhất, bài thơ ra đời vào một
trong những mùa thu hòa bình đầu tiên của dân tộc, khi con người lại có thể sống với đầy đủ những cảm
xúc tinh tế về thiên nhiên, những suy tư sâu sắc về cuộc đời. Với tâm thế ấy, những chuyển biến nhẹ
nhàng mà tinh tế của đất trời lúc hạ sang thu đã được Hữu Thỉnh thể hiện sâu sắc trong bài thơ “Sang
thu”.

- Thể thơ: Bài thơ viết bằng thể thơ ngũ ngôn phù hợp diễn tả dòng cảm xúc miên man, liền

mach.

- Nhan đề:

+ "Sang thu” là một nhan đề gợi cảm thức thời gian. Đó là khoảnh khắc chớm thu, đất trời chuyển mình
tiễn hạ vào thu với những tín hiệu đầu tiên. Nhà thơ viết “sang thu” mà không phải “thu sang”, sử dụng
phép đảo ngữ đảo động từ “sang” lên trước danh từ "thư” để gợi tả bước đi nhẹ nhàng của thời gian và
sự vận động của cảm xúc con người trong thời khắc giao mùa.

+ Nhan đề này còn gợi nhiều suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời. “Thư ở đây gợi liên tưởng tới mùa thu
của đời người, giai đoạn con người đã trưởng thành, vững vàng, từng trải, chín chắn, không còn run sợ
trước bão giông của cuộc sống. “Sang thu” là sự chuyển giao của đời người lúc chớm thu.
=> Có thể nói, nhan đề đã thâu tóm được cảm hứng chủ đạo của bài thơ: thể hiện sự chuyển giao của
thiên nhiên, đất trời khi thu sang và sự vận động trong cảm xúc của con người khi bước vào mùa thu của
cuộc đời.

- Bố cục- mạch cảm xúc của bài thơ: Bài thơ được gồm 3 khổ, miêu tả hàm súc và tinh tế thời điểm giao
mùa từ hạ sang thu với những biến chuyển của thiên nhiên, đất trời và những rung động, bồi hồi tỏng
lòng người. Sự vận động của thời gian hiện lên qua sự biến đổi của vạn vật trong không gian. Mạch cảm
xúc của bài thơ đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh, từ thiên

nhiên sang thu đến suy ngẫm, chiêm nghiệm về con người và đất nước khi bước vào mùa thu của cuộc
đời, từ xúc cảm ngỡ ngàng đi tới những suy tư sâu lắng.

+ Khổ thơ mở đầu thể hiện cảm nhận về những tín hiệu đầu tiên của mùa thu trong không gian gần gũi
của thôn quê và cảm xúc ngỡ ngàng, xao xuyến của nhà thơ.

+ Khổ thơ thứ hai thể hiện cảm nhận về những chuyển biến của thiên nhiên đất trời trong một không
gian xa rộng hơn, bao quát cả bầu trời, mặt đất và cảm xúc vấn vương, lưu luyến của nhà thơ trong thời
khắc giao mùa.

- Khổ thơ cuối cảm nhận về sự giao mùa qua những chuyển biến âm thầm của tạo vật và thể hiện những
chiêm nghiệm của nhà thơ về cuộc đời lúc sang thu. Bức tranh mùa thu lắng dần vào tâm tưởng.

C. PHÂN TÍCH VĂN BẢN

1. Khổ 1: Bài thơ mở đầu bằng cảm nhận về những tín hiệu đầu tiên của mùa thu và xúc cảm ngỡ ngàng,
xao xuyển của nhà thơ trước khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu.

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về"

- Câu thơ đầu diễn tả một phát hiện bất ngờ, vang lên như một tiếng reo: "Bỗng nhận ra hương ổi”. Từ
“bỗng” diễn tả cảm giác bất ngờ, ngỡ ngàng của nhà thơ khi thu đến không hẹn trước. Trong thơ ca,
mùa thu là một đề tài quen thuộc trở thành nguồn thi hứng của nhiều thi nhân: “Thu là thơ của đất
trời". Nếu thơ ca trung đại tả mùa thu còn ước lệ, sách vở với hình ảnh rừng phong, lá vàng, sen tàn, cúc
nở, trời cao xanh ngắt... thì mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh lại gắn liền với những hình ảnh chân thật, bình
dị, gần gũi của vùng thôn quê Bắc Bộ Việt Nam. Mùa thu được nhà thơ nhận ra bằng những tín hiệu
thiên nhiên đặc trưng mà vẫn mới mẻ, thú vị. Trước tiên, thu đánh thức khứu giác của nhà thơ bằng
hương ổi trong gió se lan tỏa nơi đầu thôn, cuối xóm. “Hương ổi” chín là hương thu dân dã, mộc mạc
của chốn thôn quê nhưng lại là một thi ảnh rất mới lạ trong thi ca về mùa thu. Mùa thu là mùa của nhiều
thứ quả chín. Nhưng thường văn chương nói đến thứ quả đặc trưng của mùa thu là quả bưởi, quả thị,
quả hồng... chứ mấy ai để ý đến hương ổi. Trái ổi có một hương vị riêng, giản dị, dân dã mà nồng nàn,
không kém phần hấp dẫn trong các hương vị của vườn quê. Như Hữu Thỉnh từng tâm sự: hương quả
chín ấy khiến nhà thơ giật mình trong khoảnh khắc giao mùa, gợi nhớ tuổi ấu thơ ở quê và làm sống dậy
cả một không gian vưỡn ngõ. Thật vậy, hương ổi trong câu thơ gợi hình dung về những khu vườn mùa
thu thơm quả chịu với những ổi, những na, những hồng- toàn những thức quà bình dị của thôn quê mà
mang đậm hồn mùa thu Việt. Sự tinh tế trong cảm nhận của nhà thơ thể hiện ở chỗ nhận ra hương ổi từ
vườn cây “phả” thơm trong “giỏ se”. “Gió se” là gió heo may nhẹ, khô, mát mà chưa lạnh lúc

đầu thu. Động từ mạnh “phả” gợi hương, view on Scribdcom yển thành luồng, nồng nàn, đặc sánh.
quyện vào trong gió. Từ “phủ” có thể thay bằng “an”, “tỏa”, “thoảng”. nhưng bấy nhiêu từ không từ nào
gợi nổi hương thơm như đậm đặc sánh lại của trái chín như từ “pha”. Có lẽ, không phải gió mang hương
đi mà chính là hương thơm đã làm thơm cả làn gió để rồi mỗi làn gió trở thành một làn hương. Vậy là,
cùng một lúc, hương ổi và gió se, hương thu và gió thu đã hòa vào nhau làm thành những tín hiệu đầu
tiên vô cùng thú vị, mới lạ của mùa thu mới chớm.

- Cùng hương ổi và gió se, nhà thơ cò nhận ra mùa thu qua một tín hiệu nữa là sương thu: “Sương chùng
chình qua ngõ”. Đây là một hình ảnh thực gợi không gian thu hut ảo với những làn sương mỏng manh,
giăng mắc khắp đất trời. Màn sương được nhân hóa qua từ láy “chùng chình” vừa gợi tả, vừa biểu cảm
Sương “chùng chình" là làn sương thu mỏng nhẹ. mong manh như khói. Trạng thái ấy còn gợi liên tưởng
sương thu như một người con gái điệu đà, thướt tha bước đi chậm rãi, không vội tan ngay mà chậm
chậm, giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn, xóm ngõ, nửa muốn đi, nửa muốn ở “Ngõ” ở đây phải
chăng là ngõ thời gian giao giữa hai mùa? Cho nên, sương thu, bước chân của mùa thu như ngập ngừng
trước cửa ngõ thời gian, cứ bịn rịn, dùng dẳng, nửa tiếc nuối muốn ở lại, nửa vấn vương muốn qua ngõ
sang thu. Sương không muốn bước hay chính là lòng thi nhân quyến luyến với hạ nồng nàn? Có thể nói,
cảnh vật vô tri nhưng lòng người thì hữu ý. Nhà thơ mang hồn mình thổi vào cảnh vật khiển sương thu
cũng mang tâm trạng lưu luyến, bâng khuâng, bịn rịn của một cuộc giã từ. Cái trạng thái chùng chình,
lưu luyến từng xuất hiện trong một bài thơ khác của

Hữu Thỉnh:

“Đi suốt cả ngày thu

Vẫn chưa về tới ngõ Dùng dằng hoa quan họ

Nở tím bên sông Thương”.

- Từ những tín hiệu thật nhẹ nhàng, không hẹn trước như hương ổi, gió heo may và sương mỏng manh,
hư ảo phủ mở ngõ nhỏ, câu thơ cuối vang lên như một sự xác nhận của nhà thơ về thời khắc thu sang

“Hình như thu đã về”

“Hình như” là phần phụ tình thái diễn đạt ý chưa thật rõ, chưa chắc chắn, còn nghi hoặc thoảng chút
bâng khuâng xao xuyến khi nhận ra thu đã về. Phút giao mùa của thiên nhiên đã được nhà thơ cảm thấy,
nhìn thấy bằng cả khứu giác lẫn thị giác vậy mà ông vẫn bối rối “hình như”. Có thể vì tín hiệu mùa thu
mà nhà thơ quan sát được còn rất đỗi mơ hồ: một lần hương, một làn gió, một làn sương- những cảnh
vật cảm thấy nhiều hơn là nhìn thấy. Tuy nhiên, hai chữ “hình như” còn diễn tả được cảm xúc ngỡ
ngàng, bâng khuâng, có phân bối rối, xao xuyến của nhà thơ trước bước đi của thời gian. Nó khác với
tiếng reo vui của Xuân Diệu trong bài thơ “Đây mùa thu tới” bởi nó vang lên như một tiếng nhủ thầm với
chính lòng mình.

=> Tóm lại, khổ thơ đầu tiên đã thể hiện thật nhẹ nhàng mà tinh tế khoảnh khắc giao mùa mong manh
như sợi dây tơ. Qua đó, khung cảnh chớm thu nơi thôn làng hiện lên vừa mộc mạc bình dị, vừa thi vị,
nên thơ. Nhà thơ đã mở rộng mọi giác quan để thu nhận được bước đi của mùa thu trước cửa ngõ thời
gian giao mùa bằng khứu giác, xúc giác, thị giác và bằng tất cả sự rung động xuyến xao của một tâm hồn
tinh tế, nhạy cảm.

2. Khổ 2 Nếu khổ thơ mở đầu thể hiện cảm nhận về những tín hiệu còn mơ hồ của mùa thu thì khổ thơ
thứ hai tập trung miêu tả những chuyển biến của thiên nhiên đất trời lúc thu sang với cảm xúc lưu luyến,
vấn xương, xao xuyến. Không gian được mở ra vừa cao, vừa rộng với những sự vật hữu hình, cụ thể:

“Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”

- Hai câu thơ đầu có cấu trúc đối xứng chặt chữ, tự nhiên. Câu trước miêu tả dòng sông dưới mặt đất thì
câu sau miêu tả cánh chim trên trời cao. Hình ảnh “sông dềnh dàng” đối xứng với “chim vội vã” là hai tín
hiệu thu sóng đôi nhau trong sự tương phản. Dòng sông và cánh chim là những hình ảnh quen thuộc
trong thơ ca về mua thu. Nhưng Hữu Thỉnh đã nhận hóa, thổi hồn vào những hình ảnh thiên nhiên vô tri
tạo nên nét riêng, mới mẻ. Dòng sông mùa thu không cuồn cuộn, gấp gáp, dữ dội như trong những ngày
mưa lũ mùa hạ mà "dềnh dàng”, lắng lại êm đềm, in bóng trời thu xanh cao, rộng rãi. Từ láy “dềnh dàng”
cùng nghệ thuật nhân hóa đã gợi tả nét đặc trưng của sông thu là dòng chảy hiền hòa, êm đềm, sâu
lắng. Và cũng như sương “chùng chình”, sông "dềnh dàng” là còn chưa vội, muốn nán lại. như luyến lưu,
tiếc nuối. Dòng sông của ngoại cảnh cũng chính là dòng sông của tâm cảnh. gợi lỏng người lưu luyến
chưa nỡ rời hạ để sang thu. Đối lập với trạng thái “dềnh dàng” của dòng sông là trang thái “bắt đầu với
vã” của cánh chim trên bầu trời. Nhạy cảm với sự thay đổi của thời tiết, bắt đầu nhận ra khí lạnh, bầy
chim trời chuẩn bị hành trình di trú về phương Nam tránh rét. Cánh chim mới chỉ “bắt đầu” tức là ở thời
điểm mới chớm chứ chưa phải “đã” hay “đang” vội vã. Chữ “bắt đầu” vừa gợi điểm khởi đầu của một
trạng thái, vừa gợi điểm khởi đầu của một hành trình di cư. Những khởi đầu như thế thường không dễ
thấy và chỉ có những hồn thơ tinh tế, nhạy cảm mới nắm bắt được. Câu thơ này của Hữu Thỉnh gợi ta
nhớ tới những câu thơ thần tình của Xuân Diệu khi miêu tả sự vận động của thời khắc chớm thu qua
trạng thái “phân vân” của cánh cò trên ruộng và qua cánh chim vội vã: “Chim nghe trời rộng dạng thêm
cảnh” (Thơ duyên). Tóm lại, hai câu thơ miêu tả hai trạng thái thay đổi, vận động tương phản nhưng lại
thống nhất ở chỗ đều gợi ra những dấu hiệu đặc

trưng của mùa thu. Không gian đất trời lúc thu sang hiện ra vừa nhẹ nhàng, vừa có gì gấp gấp, khẩn
trương, xao động khiến lòng người không khỏi xao xuyển, bâng khuâng.

- Hai câu sau là hình ảnh thơ tuyệt đẹp về mùa thu, được coi là hai câu thơ hay nhất trong đời thơ Hữu
Thỉnh. Những vội vã, xao động mới chớm nên không gian thu trong cảm nhận của nhà thơ vẫn rất nhẹ
nhàng, chậm rãi, thong dong:

“Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”


Vẫn hướng lên bầu trời thu cao rộng, đôi mắt nhà thơ dừng lại ở hình ảnh mây. Hai câu thơ miêu tả mây
trong thời khắc giao mùa, lúc hạ đang rời đi mà thu chưa đến hẳn. Đám mây đó được xác định về thời
gian là mây mùa hạ, còn đang ở mùa hạ. Trạng thái của mây trong cái nhìn của nhà thơ thật thú vị, độc
đáo: “vắt nửa mình sang thu". Trong bài thơ “Tràng giang”, nhà thơ Huy Cận tả bầu trời mùa thu với
“lớp lớp mây cao đùn núi bạc” gợi một không gian cao rộng, kì vĩ. Còn hình ảnh mây trong thơ Hữu
Thỉnh đâu chỉ gợi không gian mà còn gợi thời gian. Mây được nhân hóa với trạng thái “vắt nửa mình
sang thư” gợi hình dung đám mây như dải lụa, như tấm khăn voan mềm mại, mỏng manh buông lơi, hờ
hững. nhẹ trôi trên bầu trời nửa còn dang là mùa hạ, nửa đã chớm sang mùa thu. Cảnh hiện lên thi vị,
thơ mộng còn bước đi của thời gian cũng được gợi ra thật tinh tế. Chỉ trong một đám mây mà nhà thơ
đã miêu tả được khoảnh khắc giao mùa. Dường như giữa mùa hạ và mùa thu có một lằn ranh mong
manh nào đó giăng ra giữa thỉnh không và đám mây chầm chập lướt qua để rồi một nửa của mùa hạ còn
nửa kia đã nhuộm sắc thu. Bầu trời thu hiện lên thật mới lạ như một cửa ngõ thời gian. Ở khổ thơ đầu
tiên, ta gặp “ngỡ” thời gian giao mùa với một làn sương chùng chình nửa đi, nửa ở thì tới khổ thơ này ta
lại thấy một một lằn ranh thời gian huyền ảo với một đám mây chậm chậm đang giăng mình qua ranh
giới ấy. Nhà hơ thật tài tình khi lấy không gian để gợi ra bước đi thời gian. Nhưng cũng như sương chùng
chình, sông dềnh dàng, mây vắt nửa mình ấy đâu chỉ là mây mà còn gợi ra cảm xúc của nhà thơ: nỗi
niềm vấn vương, luyến lưu với mùa hạ và một chút bâng khuâng xao xuyến khi mùa thu chạm ngõ. Và
phải chăng, đám mây ấy không chỉ có ý nghĩa gợi thời gian giao mùa mà còn muốn nói tới trạng thái sang
thu của đời người?

=> Tóm lại, khổ thơ này đẹp trong tạo hình, tinh trong cảm nhận khiến bức tranh sang thu mỗi lúc một
hiện rõ với vẻ đẹp mới mẻ, quyến rũ và ẩn sau đó là cảm xúc xao xuyến của nhà thơ trước vẻ đẹp của
thiên nhiên, đất trời.

3. Khổ 3: Nếu ở hai khổ thơ trước, mùa thu được cảm nhận trực tiếp bằng thị giác, khứu giác, xúc giác,
được quan sát theo trình tự từ gần tới xa, từ thấp lên cao thì đến khổ thơ cuối, sự giao mùa từ hạ sang
thu được khẳng định bằng kinh nghiệm, bằng sự quan sát với những hình ảnh thơ giàu sức khải quát.
Bức tranh thu hướng dần vào tâm tưởng, lắng đọng những suy tư, chiêm nghiệm

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

Nhà thơ tiếp tục khẳng định những chuyển biển của đất trời, thiên nhiên khi sang thu. Ông liệt kê những
đặc điểm của thiên nhiên mùa hạ như nắng, mưa, sấm nhưng là để cảm nhận về trạng thái chớm của
mùa thu. Tất cả đặc điểm của mùa hạ "vẫn còn” nhưng đã “vơi”, đã bớt rồi. Nắng vẫn còn nhưng đã
nhạt dần, không còn gay gắt, đổ lửa, chói chang như những ngày hạ. Mưa không ào ạt, xối xả như trước
nữa. Sấm bớt bất ngờ, không còn đột ngột, mạnh mẽ, dữ dội. Hàng cây nhiều năm tuổi đã không còn
giật mình vì những tiếng sấm bất ngờ nữa. Nhà thơ đã sử dụng một loạt các từ chỉ mức độ và chỉ sự tiếp
diễn như “vẫn còn”, “vơi dần”, “bớt”, những từ đo đếm như “bao nhiêu” cho thấy thiên nhiên trời đất
đã đi vào trạng thái dần ổn định, sắc hạ đang nhạt dần và sắc thu đậm nét hơn. Nắng thu không gay gắt
mà dìu dịu, trong lành, mát dịu. Mưa thu không ào ạt, xối xả mà thưa dần. Sấm cũng ít đi và thanh âm
như nhỏ hơn. Dương như khổ thơ không chỉ ghi lại sự trạng thái dần ổn định của thiên nhiên khi thu
sang mà còn là sự ổn định của một đời người khi tuổi sang thu. Nhà thơ nhìn thấy trong quy luật của
thiên nhiên cái quy luật của đời người khi bước vào buổi chiều của cuộc đời. Ý thơ có gì như bâng
khuâng, tiếc nuối trước dòng thời gian trôi.

- Khép lại cảnh vật giao mùa từ hạ sang thu là những suy tư, chiêm nghiệm của nhà thơ về con người và
cuộc đời.

Sẩm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi"

Bên cạnh lớp nghĩa tả thực sấm khi sang thu bớt đi sự dữ dội, bất ngờ và hàng cây đứng tuổi đã vững
vàng hơn qua bao mùa thay lá, hình ảnh trong hai câu thơ còn có nghĩa ẩn dụ, tương trưng. "Hàng cây
đứng tuổi” trầm ngâm vừa tả thực những cây cổ thụ lâu năm trải nhiều mưa nắng vừa là ẩn dụ cho con
người đã bước vào mùa thu của cuộc đời. “Sấm” là một ẩn dụ khác chỉ những khó khăn, biển cổ, nhữn
giông bão, tác động bất thường của ngoại cảnh. “Bớt bất ngờ” là không bị động, hay rơi vào trạng thái
sửng sốt, bàng hoàng trước sự việc xảy ra ngoài dự tính. Vẻ điềm tĩnh của hàng cây trước sấm sét phải
chăng là sự từng trải, chín chắn của con người sau những bão giông? Quả thực, hình ảnh hàng cây đứng
tuổi không còn bất ngờ trước sấm chớp là chìa khóa quan trong dẫn người đọc đi vào những chiêm
nghiêm, suy ngẫm của nhà thơ về con người lúc sang thu. Con người khi đã từng trải kho khăn, đã trải
nghiệm thử thách thì sẽ điềm đạm, cứng cỏi, vững vàng hơn tuổi trẻ, sẵn sàng đón nhận và bình tỉnh
trước những giông bão, sóng gió của nó. Khi viết bài thơ này, Hữu Thỉnh đã trải qua những năm tháng
tôi luyện trong khói lửa chiến tranh, đã ở vào cái tuổi sang thu của đời người nên suy tu, chiêm nghiệm
đó là điều dễ hiểu. Đâu chỉ dừng ở đó, dường như nhà thơ còn nghĩ về đất nước lúc sang thu. Đất nước
đã hòa bình, đã đi qua

chiến tranh khốc liệt và đang chuyển mình đi vào một trạng thái ổn định, hài hòa, bền vững. Cho nên,
bên cạnh cảm xúc bâng khuâng, tiếc nuối, ý thơ như thoảng chút tự hà vì con người đã vững vang, bình
tĩnh, vì đất nước đã vững vàng sau bão giông. Tóm lại, hình ảnh hàng cây đứng tuổi trầm ngâm không
còn giật mình trước tiếng sấm có thể coi là ẩn dụ cho con người từng trải đã đi qua bão tập của cuộc đời
cũng là hình ảnh của đất nước vừa qua những ngày khói lửa khốc liệt giờ đây sẽ vững vàng như vì sao
tiến lên phía trước.

=> Với chiều sâu chiêm nghiệm, mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh bỗng trở nên thật mới lạ. Mùa thu đâu chỉ
là chuyện tàn úa, mà thu còn là chuyện trưởng thành. Mùa thu đâu chỉ có biến thiên, mùa thu còn ẩn cả
những bình tâm tự tại rất đáng tự hào. Phải từng trải và sâu sắc, Hữu Thỉnh mới có thể đem vào thơ thu
những chiêm nghiệm trầm ngâm ấy, mới khái quát được những điều thấm thía về nhân sinh, cuộc sống.

* Ý 4: Tổng kết chung về bài thơ

- Về nghệ thuật: Bài thơ là một thi phẩm đặc sắc, thể hiện rõ nét phong cách thơ Hữu Thỉnh. Thể thơ ngũ
ngôn với nhịp ngắt nhanh có ưu thế diễn tả cảm xúc liền mạch. Cấu tứ bài thơ đi theo mạch từ ngỡ
ngàng thu đến xao xuyến, luyến lưu rồi đọng lại ở những suy ngẫm giàu dư ba. Hình ảnh thơ bình dị mà
độc đáo, giàu sức gợi, tạo ra nhiều khoảng trống liên tưởng nơi người đọc. Ngôn ngữ thơ giàu sức gợi
hình, biểu cảm, các biện pháp NT được khai thác hiệu quả tạo ra một thế giới thu riêng, không trộn lẫn.
Bút pháp miêu tả giàu sức gợi: lấy ko gian gợi thời gian, tả cảnh để ngụ tình tạo nên sự hàm súc, nói ít
mà gợi nhiều cho bài thơ. - Về nội dung:

+ Bài thơ có một địa vị rất riêng trong thơ ca VN viết về mùa thu bởi nó đã miêu tả rất tinh tế những
thay đổi, vận động của đất trời trong khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu và bởi tình thu xao xuyến,
bâng khuâng, luyến lưu của nhà thơ trước thời khắc đẹp đẽ của thiên nhiên,

trời đất.

+ Bên cạnh mạch cảm hứng về thiên nhiên, bài thơ còn lắng đọng những suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc
về sự chuyển mình của đời sống con người và đất nước khi sang thu. Nhà thơ vững tin vào sự vững
vàng, chuyển mình đi lên của con người, của đất nước sau bao nhiêu vất vả, gian lao, bỏng rát. Lớp nghĩa
thứ hai này cho thấy dấu ấn sáng tạo, hơi thở riêng của thơ HT khi viết về đề tài mùa thu quen thuộc.

****

Có lẽ trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông thì mùa thu thưởng gợi cảm hứng cho thi ca. Ta có thể bắt gặp
chùm thơ Thu của Nguyễn Khuyến, “Tiếng Thư” của Lưu Trọng Lư hay “Đây mùa thu tới” của Xuân
Diệu... và cũng viết về để tải mùa thu, bằng ngòi bút tinh tế của mình, nhà thơ Hữu Thỉnh đã tải tình
thêu dệt nên một bức tranh thơ mây trong khoảnh khắc giao thoa có đôi chút ngỡ ngàng mà say đắm
của đất trời khi vào thu thật mới mẽ, nhẹ nhàng được ông lưu lại qua tác phẩm “Sang thu”, sáng tác
năm 1977. Ông còn được biết đến là một trong những cây bút tiêu biểu trong nền văn học hiện đại Việt
Nam với chất thơ vô cùng nhẹ và sâu lắng. Bài thơ còn được ra đời trong khoảnh khắc vô cùng đặc biệt
khi đây chính là một trong những mùa thu thời binh đầu tiên của dân tộc ta và nó cũng chính là những
suy ngẫm sâu sắc của Hữu Thỉnh khi đã trải qua bao tháng ngày đau thương, rồi giờ đây tạm lui vào ở ẩn
để chiêm nghiệm lại cuộc đời này.

Bài thơ “Sang thu được viết khá ngắn gọn gồm 3 khở, sử dụng thể thơ năm chữ. Thành công lớn nhất
của bài thơ chính là sự quan sát tinh tế của tác giả và những thay đổi của vạn vật xung quanh. Mạch cảm
xúc phát triển từ ngoại cảnh bên ngoài đến nội tâm bên trong, tử thiên nhiên xung quanh đến những
trải nghiệm sâu sắc về đời người. Cảm xúc của tác giả, từ bất ngờ đến bâng khuâng, xao xuyến, đọng lại
là những bài học sâu sắc.

Mở đầu bải thơ là những cảm nhận ban đầu của tác giả khi thu chợt ùa về qua những hình ảnh thiên
nhiên vô hình được ông cảm nhận vô cùng tinh tế:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chủng chỉnh qua ngõ

Hình như thu đã về”


“Bỗng là một trợ từ nhưng nay lại được hiện hữu trong bài thơ để bộc lộ một trạng thái đột ngột, ngỡ
ngàng và dường như thu đến với thi sĩ trong sự tình cờ đọng lại trong cải từ “bỗng” ấy. Ngay sau nó còn
là mùi hương của “ôi”-một sự mở đầu khơi dậy biết bao nhiêu nét đặc sắc riêng của Hữu Thỉnh mà khó
phai nhòa trong lòng người đọc.Một hương thơm nồng nàn mà gần gũi, đậm đà mà đơn sơ, bởi lẽ cái độ
đậm đặc của hương ổi chín rộ ấy như đã có một mùa hè dài đằng đẳng lắng sâu vào vị quả ngọt. Một
chữ “pha” kia thôi nhưng cũng đủ để mùi hương như sảnh lại rồi lan tỏa những dư vị cuối cùng hòa vào
làn gió se nhẹ nhàng. Để tải mùa thu vốn đã rất quen thuộc với mỗi chúng ta nhưng khi nó đến với Hữu
Thịnh thi lại trở nên vô cùng đặc biệt qua những vần thơ xen lẫn nét độc đáo tử trong thi tứ đến suy tư.
Hỏa vào âm hưởng của sự giao mùa ấy còn là những làn sương mỏng tan giăng minh khắp mọi nơi gói
gọn bao điều thi vị. Với biện pháp tu từ nhân hóa giữa làn sương với “chủng chỉnh” đã phần nào biến cái
sự vật vô tri vô giác nay lại có tâm hồn. Từ lấy như gợi ra trạng thái cố ý chậm lại, khoan thai của một
dáng vẻ mỏng mạnh với nội tâm ngưng lại, chậm rãi. Nó như muốn bước sang mùa thu nữa lại luyến tiếc
chút say nồng của mùa hạ. Cái “ngờ” ấy chính là ngưỡng cửa, là ranh giới giao thoa giữa hai mùa và còn
là sự lưu luyến của chính tác giả. Trong bước đi của mùa thu còn thấp thoáng hồn người cùng sự bối rối,
xao xuyển rồi chợt gửi vào lòng người sự thoáng chốc. Mà cũng từ đó, khổ thơ mở đầu là sự tình cờ
“bỗng nhưng khép lại bằng cái “hinh như”, tựa như phản đoán mơ hồ, cảm xúc chơi với của con người
khi thu đến trong vô thức. Bởi những tín hiệu của mùa thu đều là những tín hiệu không có hình khối rõ
ràng, màu sắc cụ thể, thế nhưng nhà thơ đã ngầm gửi gắm sự khẳng định của mình sau này được hình
thành từ những dấu hiệu nhỏ bé ấy bằng một giọng điệu có chút ngỡ ngàng nhưng lại chất chứa bao nỗi
niềm qua những câu thơ biết nói.

Chỉ bốn câu thơ ở khổ một thôi nhưng lại để trong lỏng người đọc biết bao rung động. Qua đó ta có thể
hình dung ra những đặc trưng của mùa thu và bức tranh mùa thu nơi quê hương thanh bình như hiện ra
rõ nét hơn, đẹp đẽ hơn.

Khổ thơ khép lại nhưng dư âm của nó vẫn cử vẫn vương, lưu luyến mãi không thôi trong lòng mỗi người
đọc. Ta còn cảm nhận được những chuyển biến tinh tế, những trăn trở, suy tư khi chợt nhận ra khoảnh
khắc sang thu của cuộc đời con người mà từ đó nó dường như đã mở ra những vùng chiêm nghiệm rộng
lớn cho cuộc đời này. Để hôm nay ngẫm lại bản thân minh, tôi hiểu được rằng ta thực sự trưởng thành
là khi đã trải qua bao giông tố, hiểm nguy rồi từ đó mới học cách đứng dậy, chín chắn hơn và học cách
yêu thương từng khoảnh khắc một.

Nếu khổ một gắn liền với không gian nhỏ hẹp thì khi chuyển sang khổ hai lại là sự rộng mở từ trong
không gian đến những hình ảnh thiên nhiên cũng vì thế mà rõ nét hơn:

“Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nữa minh sang thu”

Có lẽ, ở khổ thơ này ta có thể cảm nhận được một sự cụ thể hóa đang diễn ra, từ cái ngỡ ngàng, sĩ mê,
tác giả dừng chân đứng lại, phỏng xa tầm mắt để ngắm nhìn phong cảnh một cách lặng lẽ. Như thể điểm
nhìn của ông rộng mở hơn với trời cao-đất rộng và với những sự vật gần-xa. Từ những tin hiệu trên, cải
“hình như" đã vô tình sót lại, đánh dấu cho cột mốc mùa thu bằng nhiều hình ảnh quen thuộc. Ở đây,
Hữu Thỉnh còn khéo léo sử dụng hai sự vật đối lập nhau: “sông” phác họa nên một bức tranh chất chứa
trạng thái an ổn, quý giá được khắc sâu vào dòng chảy êm ả, không chút băn khoăn. Điều này thật khác
với sông nước mùa hạ cái mùa mà nước lũ dâng cao như muốn dồn tất cả vào một dòng chảy siết đến vô
tận. Hai chữ “được lúc” đã khiến cho con sông trở nên có hồn, nó như biết bắt nhịp khoảnh khắc giao
mùa để rồi rơi vào trạng thái tĩnh lặng và bình yên của cuộc sống. Và điều này đã dẫn đến một hình ảnh
tương phản khác. “chim” được nhân hóa “bắt đầu vội vã” bay về phương Nam tránh rét bởi theo lẽ tự
nhiên, khi gió heo may trản về là lúc trời Bắc trở lạnh. Nhưng cái “bắt đầu” ấy vốn lại gợi cho ta sự mềm
mại, uyển chuyển của cánh chim những buổi đầu mùa của hành trình được bao trùm bởi sự im lim của
không gian thu. Qua đó, sự tương phản giữa trạng thái của dòng sông và cảnh chim khắc họa đậm nét
hơn sự chuyển đổi của thời tiết. Đặc biệt hơn cả, bài thơ cũng thật nổi bật khi có sự góp mặt của “đám
mây mùa hạ”, chắc có lẽ, đám mây bồng bềnh trên cao kia chính là nét đặc sắc riêng được thi sĩ gửi gắm
nhiều tâm tưởng nhất. Bởi nó là bàn cân so sánh giữa ước mơ và thực tại, là tuổi trẻ đầy khát vọng và kí
ức dỡ dạng. Ông còn cảm nhận được từ trong cái hữu hình ấy còn là gam màu trắng hạ bỗng dịch
chuyển dần sang màu vàng thu dịu dịu. Hình ảnh tả thực của đám mây thực ra lại rất duyên dáng lại còn
tỉnh nghịch, bằng thủ pháp nhân hóa kết hợp phép ẩn dụ giàu tính ước lệ, tượng trưng, mây như nằm
vắt mình trên bầu trời khi nửa là dư vị mùa hạ, nửa là chớm nở mùa thu. Phải chăng, cái ranh giới giữa
hai mùa mong manh đến thế? Cái trôi lững thững của mây hạ đã vô tình đạt nửa minh sang thu. Nhưng
thực chất, điều này nhằm tới sự giao thoa giữa hai mùa cũng chỉ ngắn ngủi trong khoảnh

khắc.

Từ những say sưa trước sự chuyển minh của đất trời sang thu, thi nhân khép lại lỏng minh để ngắm nhìn
những sự vật xung quanh với những thay đổi sâu kín:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bởi bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi"

Giọng thơ ở khổ thơ cuối đắm hẳn như có chút suy tư vẫn vương trong mỗi vần thơ để chầm chậm quan
sát lại không khí giao mùa và thiên nhiên sang thu. Cái nắng cuối hạ vẫn còn sót lại chút nồng nản nhưng
đã phai dần bởi cái gió se, không còn gay gắt, chói chang mà nó e ấp trong minh sự nên thơ, nhẹ nhàng.
Cơn mưa cũng “vơi dần” đi gợi cái sự thưa thớt của những trận mưa ảo ạt, xối xả gieo mình xuống mặt
đất nhưng giờ đây dường như tất cả đều tử tử, không vội vã. Cũng từ đó, hiện tượng sấm gào thét, chớp
rạch ngang nền trời hạ luôn đáng sợ này trở nên hiền hòa và êm dịu hơn. Với nghệ thuật đảo ngữ được
áp dụng cho các từ chỉ mức độ “bao nhiêu”, “vơi dần”, “bớt” và thủ pháp liệt kê các hiện tượng thời tiết
như “nắng”, “mưa”, “sấm” đã giúp cho một mùa hạ với bao dấu ẩn đã dần phôi phai để giờ đây, mùa
thu đang bắt đầu chuyển minh đậm nét hơn. Từ những biến chuyển trong quy luật tự nhiên đã dẫn tới
những chiêm nghiệm, trầm ngâm của lòng người, đời người khi sang “sang thu”. Bằng nghệ thuật ẩn dụ
với trưởng liên tưởng độc đáo đã giúp người đọc liên tưởng tới những nét nghĩa sâu xa của nó. “Sấm”
chính là những vang động bất thường của ngoại cảnh tựa như những biến cổ, khó khăn của đời người.
Hàng cây ấy đã được nhân hóa để mang dáng dấp của một con người thực thụ, khi đã đi gần hết cuộc
đời, nó như những người từng trải, từ sôi nổi, hào hùng đến khi nếm những mùi vị thăng trầm của cuộc
đời. Đồng thời người cũng trở nên điềm tĩnh, vững vàng hơn khi được mài dũa từ những thử thách ấy.
Thời gian trôi nhanh qua cửa, cuộc đời mỗi người là một nhân chúng nhìn mùa thu đi qua rồi để lại
muôn vản tiếc nuối trước bước đi ấy. Suy rộng ra, dáng vẻ đó như cốt cách “kiêu kỳ” cùng bản lĩnh cứng
cỏi thì tiếc nuối mãi

là cảm xúc của con người trước thời gian.

Lấy động tả tĩnh chính là một nghệ thuật được sử dụng thành công trong bài thơ. “Sang thu” với thể thơ
năm chữ mang âm hưởng khúc ca du dương cùng một chất giọng trữ tỉnh đằm thắm. Tác giả còn khéo
léo lựa chọn không gian ngập tràn thi ảnh mùa thu, pha chút cổ điển lẫn hiện đại qua lời diễn tả. Bài thơ
còn mang một nét đặc sắc riêng khi nó như một lời tâm sự, gửi gắm của mình với cuộc đời cũng những
khát khao trân quý hỏa binh của những người lính trong thời hậu chiến. Cách nói ấy là những giá trị cốt
lõi của “Sang thu”, bởi nó khắc sâu trong tâm trí mỗi người là những khoảng lặng và góc nhìn mới mẻ
của cuộc sống.

Bài thơ khép lại nhưng những dư âm của nó vẫn cứ vấn vương, lưu luyến mãi không thôi trong lỏng mỗi
người đọc. Ta còn cảm nhận được những chuyển biến tinh tế, những trăn trở suy tư khi chợt nhận ra
khoảnh khắc sang thu của cuộc đời con người mà từ đó nó dường như đã mở ra những vùng chiêm
nghiệm rộng lớn cho cuộc đời này. Để hôm nay ngẫm lại bản thân minh, em hiểu được rằng ta thực sự
trưởng thành là khi đã trải qua bao giông tố, hiểm nguy rồi từ đó mới học cách đứng dậy, chín chắn hơn
và học cách yêu thương từng khoảnh khắc một.

SANG THU

“Thơ là viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời” (Sóng Hồng). Viên kim cương ấy sẽ lấp lánh một màu
sắc riêng biệt của cuộc đời, như cách mà Hữu Thỉnh đã chạm khắc tiếng thơ

của mình vào thế giới thi ca bốn mùa nhiều dư vị. Năm 1997, người thi sĩ ấy khi đứng trước điểm cuối
cùng của tuổi trẻ đã không ngần ngại thổ lộ hết những tâm tư của lòng mình bằng những tiếng thơ khắc
khoải. Và “Sang thu” chính là như thế, với giọng thơ sâu lắng và đầy chất trữ tình, thi phẩm dường như
đã vỗ vào xúc cảm của xúc cảm của độc giả thật nhẹ nhàng. Có chăng, đó chính là những tâm sự, hoài
niệm của Hữu Thỉnh khi đứng giữa khúc ca giao mùa đầy rung động của đất trời...

Tại sao không phải là " Thu sang” mà là “Sang thu” ? Tất cả đều là dụng ý của tác giả cả. Với tiêu đề "sang
thu”, ta dường như cảm được sự chuyển động của sự vật, mọi thứ như có hồn hơn, sinh động và không
bị tĩnh lặng, nghệ thuật đảo ngữ như trên phải chăng ta đã bắt gặp trong câu thơ "Cành lê trắng điểm
một vài bông hoa" (Truyện Kiều) của đại thi hào Nguyễn Du. "Sang thu” làm ta có cảm giác như mùa hạ
đang chủ động chuyển mình thành một sắc trời mới, dịu dàng, mát mẻ hơn là nàng thu mộc mạc. Đây là
một cách làm tuy không mới nhưng rất riêng của Hữu Thỉnh, hữu ý tạo nên sự chiêm nghiệm len lỏi
trong lòng độc giả.
Nhật Chiêu từng tâm sự. “Thơ ca, trong bản chất của nó là mây, là một thể vô định và huyền ảo. Và thơ
ca, cũng còn là bão tố." Và có lẽ, lúc đó cái đám mây “vô định và huyền ảo” kia bỗng dưng ùa về lấp kín
hồn thơ của Hữu Thỉnh, cũng đầy bất ngờ và hư ảo như

cái hương thơm quen thuộc từ đầu xộc thẳng vào hồn ông, để rồi thi nhân phải giật mình thảng thốt:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về."

Trước tiên, từ "bỗng" mở đầu bài thơ như dấu hiệu báo trước cho sự xuất hiện của không gian và thời
gian. Phải chăng, nhân vật trữ tình đã cảm nhận được biết bao điều trong sự xuất hiện ấy, nó như đã cố
ý đợi sẵn người ta từ lâu, mang về một chút thân thuộc vẫn

vươn, len lỗi:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Kỳ lạ thay, tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu lại chính là hương ổi- một thứ hương thơm mộc
mạc mà lại giản dị, thân quen của trời thu phương Bắc. Thu đến trong thơ Hữu Thỉnh một cách rất riêng,
không phải là “ao thu lạnh lẽo” như Nguyễn Khuyến,

không như “rặng liễu điều hiu" và "lá mơ phai" của Xuân Diệu, lại càng khác với "hương cốm mới” của
Nguyễn Đình Thi. Ông chẳng đi theo lỗi mòn sáo rỗng của những dấu chân cũ, với tâm hồn lãn mạn ấy,
thu không chỉ đơn giản là trời xanh, là hoa cúc, là hương cốm hay nắng vàng. Thu còn là mùi hương ổi
chín nơi quê nhà mộc mạc, ẩm nồng. Sớm thu khơi gợi nên bao xúc cảm nhân gian, gợi lại kí ức tuổi thơ
của những ngày xưa cũ mà ta chẳng thể quay về. Chính tác giả cũng từng tâm sự: “Giữa đất trời mênh
mang, giữa cái khoảng khắc giao mùa kì lạ thì điều khiển cho tâm hồn lay động phải giật mình nhận ra đó
chính là mùi hương ổi. Nó giống như mùi bờ bãi, mùi non trẻ...hương ổi tự nó xộc thẳng vào miền thơ
ấu thân thiết trong tâm hồn chúng ta". Thứ hương kia không “bay”, không “quyện" mà "phả”, là xộc
thẳng vào khứu giác. Thi sĩ đã sử dụng rất đắt từ ngữ gợi tả, chỉ một từ ấy cũng đủ gợi hương thơm như
đang đặc sánh lại, ngào ngạt, đậm đặc nồng nàn thư thành luôn trong gió, được làn gió se khô, lạnh
mang đi khắp ngõ ngách của làng quê. Các dư vị của hương ổi kia như neo đậu lại trong tâm trí người
đọc một ấn tượng khó phai.

Ở hai câu thơ tiếp theo, không gian được mở rộng, vờn ra ngõ với khung cảnh mang màu sắc huyền ảo:

“Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về."

Những hàng sương nhỏ li ti giăng màn khắp nơi được tác giả nhân hóa qua từ láy “chùng chình” gợi cảm
giác như sương như đang bị thời gian níu lại, chập chừng lưu luyến chưa
muốn tan vào không gian. Từ lấy ấy phải chăng chính là tâm trạng của Hữu Thỉnh, mang chút tiếc nuối,
mang chút quyền luyến lại pha thêm vài giọt bịn rịn của thi nhân khi bồi hồi nhận ra mùa hạ đã đi qua từ
lúc nào... Không gian “ngõ" mà sương theo gió đi qua ấy vừa là ngõ thực, vừa là cửa ngõ của của thời
gian, không gian giao mùa. Ông đã cảm nhận dấu hiệu của mùa thu bằng tất cả các giác quan và sự tinh
tế trong tâm hồn nhạy cảm của một nhà thơ thực thụ. Trong sự ngỡ ngàng, cả khứu giác, xúc giác và thị
giác đều đang mách bảo rằng thu đã về mà con người vẫn chưa còn chưa dám tin, chưa dám chắc.
Thành phần tình thái “hình như” tựa sự phỏng đoán nửa tin nửa ngờ, nửa khẳng định, nửa kia lại hoài

nghi, là cái ngỡ ngàng ngạc nhiên, bâng khuân xao xuyển của thi sĩ trước khung cảnh dao động của đất
trời sang thu.

Nếu ở khổ thơ đầu tiên, bằng sự cảm nhận rất riêng của tác giả, tiết trời được gợi nên từ những gì vô
hình như "hương ổi" và " gió", cái mờ mờ ao ảo của "sương” hay không gian

“ngõ" nhỏ hẹp gần gũi thì sang khổ thơ thứ hai, mọi vật dường như đã chân thật và hữu hình hơn rất
nhiều :

“Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”

Tới đây, cái bỡ ngỡ ban đầu đã tan biến đầu mất, nhường lại chỗ cho những rung cảm mãnh liệt của hồn
thơ. Bức trang sang thu được miêu tả ở tầm nhìn xa hơn, cao rộng hơn của bầu; dài ra và rộng thêm của
dòng sông. Hai câu thơ đầu tuy dùng cấu trúc đối nhưng lại như một nét chấm phá vô cùng đặc trưng
của sắc thu:

“Chim được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã."

Thiên nhiên trong thơ được tác giả tinh tế nhân hóa trở nên vừa có hồn vừa có tình. Dòng sông lúc sang
thu không còn cuồn cuộn gấp gáp như ngày hạ mà bỗng trở nên thong thả dềnh dàng, lờ lững trôi như
đang còn ngẫm ngợi suy tư. Đối lập với dòng sông là những

cánh chim bắt đầu vội vã, gấp rút như đứa con sợ lỡ mất chuyến xe cuối cùng trở về nhà. Có lẽ nó đang
chuẩn bị cho cuộc hành trình bay đi tránh rét ở phương xa, hay cũng có thể nó chỉ đang vội vã quay về
tổ trước lúc những ánh mặt trời cuối cùng vỡ tan vào trong màn đêm. Phải tinh tế biết bao để Hữu
Thỉnh nhận ra được cái “được lúc" và cái "dềnh dàng" của thời gian tưởng như luôn nhịp đều đều không
thay đổi. Đại thi hào M.Gorki từng nói: “ thơ là tâm hồn", vậy ắt hẳn hồn nhà thơ phải luôn đong đầy
cảm xúc mới có thể cho ra đời những dòng thơ sâu sắc như vậy.

Thế nhưng, đấy chưa phải là tất cả những tinh hoa của vị thi sĩ tài hoa, hai câu thơ tiếp theo mới thật sự
thể hiện những gì đẹp nhất của tác phẩm:

"Có đám mây mùa hạ


Vắt nửa mình sang thu"

Hiện lên trước mắt ta là bức tranh thu đầy lãng mạn cà trữ tình của đất trời. Thu chỉ đang ở

nơi cửa ngõ của mùa, vì vậy đám mây chỉ vừa mới “vắt nửa mình” mà thôi. Nghệ thuật ẩn

dụ đặc sắc “vắt nửa mình" khiến câu thơ thêm đậm ý vị, duyên dáng và vô cùng gợi ảnh. Có lẽ, ta cũng
từng bắt gặp ở đâu đó đám mây như vậy trong thơ của Lê Thu An: "Mây trời một dải trắng phau

Vắt ngang sườn núi chiều thu ngập ngừng"

Mây của Lê Thu An “ vắt ngang" sườn núi- là một sự vật hữu hình và ta có thể nhìn, có thể cảm. Thế
nhưng đám mây của Hữu Thỉnh lại khác, nó tựa như một dải lụa bồng bềnh vắt nửa mình sang thu. Trên
đời này giữa hạ và thu làm gì có một "ranh giới" rạch ròi nào phân cách? Ấy vậy mà Hữu Thỉnh lại vẽ nên
ranh giới cho một thứ vô hình như thế. Ông tinh tế dùng hình ảnh của không gian để diễn tả lại sự vận
động diệu kỳ của thời gian. Đám mây

kia là thật, nhưng ranh giới của mùa là ảo. Bầu trời ấy như nhuộm nửa sắc thu để rồi đến một lúc nào đó
sẽ là cả một bầu trời trong vắt như pha lê:

"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt"

(Thu điếu- Nguyễn Khuyến)

Hai câu thơ ấy không chỉ hát về khúc ca mùa mà còn như chất chứa cả những suy tư, trấn trở của chính
nhà thơ. Khi viết bài thơ này, tác giả tâm sự rằng ông đã từng liên tưởng đến những đám mây thu trọn
vẹn. Thế nhưng, dường như đã có gì níu giữ tâm trí ông theo chiều hướng “một nửa" ấy. Có lẽ mây mùa
hạ đã mang theo tất cả những hoài bão, những

ước mơ của tuổi trẻ, cuốn theo bao sức sống mãnh liệt của tuổi vô ưu vô lo, tổ nên một

mùa hạ ngập tràn màu sắc, sặc sỡ và nên thơ hơn bao giờ hết. Vậy mà, giữa mơ và thực luôn bị ngăn
cách giữa một ranh giới vô hình nào đó khiến chúng khó mà trọn vẹn. Sự dở dang, mất mát là một hiện
thực mà ta buộc phải học cách chấp nhận, có chăng vì vậy, đám máy chỉ có thể vắt nửa mình sang thu
mà thôi. Những đồng đội, những người lính ngoài chiến trường của ông năm ấy cũng thế, họ đã ra đi, đã
"gục lên súng mũ bỏ quên đời" (Tây Tiền), bỏ quên cả tuổi trẻ và tương lai tươi sáng phía trước. Cùng
với họ, những hoài bão

kia sẽ mãi mãi nằm lại nơi chiến trường mà chẳng bao giờ có thể trở về được nữa, tựa hồ nửa đám mây
còn vắt vẻo phía bên mùa hạ, tất cả sẽ chỉ còn là hồi ức...

Có câu: “Xuân sinh, hạ trưởng, thu liễn, đông tàn." Những biển chuyển của tạo vật tới đây đã hóa hành
những suy tư của đời người lúc khoảng khắc thu vừa chớm nở. Trong khổ thơ cuối này, Hữu Thỉnh đã
bộc lộ ra hết những trăn trở từ tận đáy lòng mình:

"Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm đã bớt bất ngờ


Trên hàng cây đứng tuổi.”

Cuối cùng, tới những câu thơ cuối, thu đã hiện ra rõ ràng hơn bao giờ hết, cùng với cách tác giả lắng
động lại để suy tư, để hoài niệm về cuộc đời. Vẫn là nắng đẩy, nhưng đã mờ phai. Vẫn là mưa, là sẫm
nhưng đã chẳng còn bất ngờ ồn ã như lúc trước. "Nắng", "mưa",

“sắm” khi kết hợp với các phó từ "đã", "vẫn”, “cũng" thì mức độ đã khác, chúng lắng lại, chừng mực và
ổn định hơn những ngày hạ, không còn dữ dội, cũng chẳng còn gay gắt, nặng nề. Hạ nhạt dần, thu đậm
nét hơn. Ở hai câu thơ cuối không còn đơn thuần chỉ là miêu tả bức tranh mùa thu nữa mà đã trở thành
một triết lý sống sâu sắc Hữu Thỉnh ẩn ý đan cài vào bài thơ. Cũng như chính tác giả đã từng tự bạch:
"Có thể hiểu, hàng câu đã lớn, đã trải qua bao mùa thay lá sẽ trở nên vững vàng hơn trước những tiếng
sấm bắt ngờ".Phép nhân hóa và ẩn dụ như ẩn ý rằng tiếng sắm là những vang động bất thường, những
khó khăn, chồng chênh của cuộc đời mỗi người. Khi càng trưởng thành, càng trải nghiệm nhiều, ta lại
càng trở nên bình tâm hơn khi đối mặt với nhưng con sắm mà cuộc đời ban tặng, không còn bồng bột
như xưa. Đến đây, người đọc như vỡ òa đi khi nhận ra “sang thu” không chỉ có ở thời gian, ở thiên nhiên
mà còn là sự “sang thư” của đời người. Cùng nhìn lại cả bài thơ, ta thắm thía vì sao lại có sự bịn rịn,
“chùng chình” lúc sang thu. Vì sao lại có sự “dềnh dàng" mà lại "vội vã", có lẽ khi mái tóc đã dần phai
sương, ta lại càng

luyến tiếc những ngày xanh lúc trước để rồi phải càng vội vã để sống, để cống hiển và tận hưởng thời giờ
ít ỏi còn lại của cuộc đời. Ta biết rằng mình đã không còn nhiều cơ hội để dây dưa, lãng phí nữa. Có câu
nói rằng: "Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho

khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí”, cho khỏi nuối tiếc vì lỡ đã đánh mất quá
nhiều thời gian của chính mình.

Hạ đi, thu đến mang theo những cảm xúc bất chợt để rồi gieo lại trong lòng ai những bồi hồi về một
nàng thu nồng nàn êm ái. Hữu Thỉnh đã khắc họa nên bức tranh giao mùa ấy bằng ngòi bút sắc nét mang
đầy hơi thở trữ tình cùng những triết lý sâu xa. Với những dòng thở bốn chữ vẫn vẹn, bài thơ mộc mạc
một tình yêu thiên nhiên đằm thắm, về khát khao yêu đời mà tác giải mong muốn gửi gắm cho bạn đọc
cũng như gửi lại cho tuổi trẻ của chính mình đã đi qua tự thuở nào. Tác phẩm như viên pha lê đầy góc
cạnh, trải qua bao thăng trầm để trọn vẹn lung linh. “Sang thu” chính là như thế! Sinh ra trên đời để lặng
lễ yêu thương và du dương suốt dặm đường.

Thu là thơ của đất trời, là “bình minh mát” của lòng người (Xuân Diệu).Viết về thu, đã có bao áng thơ
hay tuyệt tác nhưng có lẽ chỉ khi đến với Hữu Thỉnh, ta mới có thể cảm nhận được phần nào cái “cốt tủy
chung tình bên trong” của nó. Tất cả mọi vẻ đẹp ở “bề sau, bề sâu, bề xa” của mùa thu đều được gửi
gắm qua bài thơ “Sang thư”- tác phẩm mà có lẽ đến mãi sau này, ta vẫn không thể ngừng thương nhớ.
Đoạn thơ mở đầu là những dấu hiệu thông báo mùa thu đã đến bên tác giả. Hữu Thỉnh là một trong
những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sớm gần gũi với thiên nhiên
cây cỏ, thơ ông được thừa hưởng cái dạt dào trong cảm xúc về quê hương, đất nước và con người. Ngòi
bút của ông rất bắt nhạy với những gì mong manh nhẹ nhàng tưởng như khó nắm bắt nhất. Đó là lí do vì
sao khi cảm xúc chợt tìm đến thi nhân, trong cái tiết hanh hanh của thu mới, của hạ cũ, nhà thơ viết nên
bài thơ “Sang thu” (1977). Đó được coi như những dòng chia sẻ chân thành của một tâm hồn tinh tế
trước thiên nhiên giao mùa, cũng là nơi gửi gắm biết bao chiêm nghiệm kín đáo về mùa thu mới của
cuộc đời, của con người và dân tộc.

Phải thật tinh tế, thật khéo léo tác giả mới có thể nhận ra được thứ hương rất đỗi nhẹ nhàng và có thể bị
gió cuốn đi lúc nào. Cụm từ “bỗng nhận ra” giống như một phát hiện mới, một sự ngạc nhiên rất thú vị
như khi khám phá ra điều gì đó đẹp đẽ. Đây là cụm từ diễn ra trạng thái ngỡ ngàng của tác giả khi nhận
ra mùa thu đã chạm ngõ chỉ với “hương ổi”, mùi hương đồng nội thân quen khiến những người con xa
quê khó quên được. Mùi hương ổi ấy đã “pha” vào trong “gió se” đầu mùa thu dịu nhẹ, se sắt. Động từ
“pha” đã làm toát lên thần thái của mùa thu, của hương ổi. Nó diễn tả sự quyện chặt vào, sự gắn kết
giữa hương ổi và làn gió đầu mùa.

Hữu Thỉnh lại lựa chọn “hương ổi”. Ông tâm sự: “giữa trời đất mênh mang, giữa cái khoảng khắc giao
mùa kỳ lạ thì điều khiến cho tâm hồn tôi phải lay động, phải giật mình để nhận ra đó chính là hương ổi.
Với tôi, thậm chí là với nhiều người khác không làm thơ thì mùi hương đó gợi nhớ đến tuổi ấu thơ, gợi
nhớ đến buổi chiều vàng với một dòng sông thanh binh, một con đò lững lờ trôi, những đàn trâu bò no
cỏ giỡn đùa nhau và những đứa trẻ ẩn hiện trong triển ổi chín ven sông... Nó giống như mùi bờ bãi, mùi
con trẻ... “. Hóa ra đó là mùi hương quen thuộc, dân dã, mộc mạc luôn vấn vương mãi trong tâm hồn
người con yêu xứ, mùi hương của tuổi thơ, của tiếng cười, của bình yên và hạnh phúc. Điều đặc biệt ở
chỗ hương thơm ấy không những nồng nàn, đậm đặc mà cũng như thấm thoát, dìu dịu, thoang

thoảng, lan tỏa khắp không gian đất trời. Điều đó thể hiện rõ nhất ở động từ “phả”. đây cũng được coi
như một thành công nghệ thuật của bài.

Câu thơ thứ tư không còn là bức tranh thiên nhiên nữa mà đó đã trở thành bức tranh tâm cảnh, bức
tranh của lòng người: “Hình như thu đã về”. Tôi nhớ người chàng thi sĩ “sẵn sàng ân ái” Xuân Diệu khi
nói về thu có lần từng thốt lên rằng: “Đây mùa thu tới, mùa thu tới”. Câu thơ reo lên như có gì vừa vui
mừng, háo hức, vừa như chồng chất thêm cả niềm lo sợ, tiếc nuối thời gian. Ở Hữu Thỉnh, ta lại bắt gặp
một sự hoài nghi, lưỡng lự, một điều gì đó chưa rõ ràng trong cảm xúc. Phải chăng thiên nhiên chưa đủ
làm nên một mùa thu trọn vẹn hay chính tâm hồn thi sĩ chưa kịp sẵn sàng để đón chào sự đổi thay của
tạo vật? Tác giả đã cảm nhận mùa thu bằng rất nhiều giác quan khác nhau. Từng câu từng tiếng thoát ra
đều thể hiện rõ sự tinh tế, sâu sắc trong cách nhìn, cách cảm cuộc sống.

Với cách sử dụng từ ngữ độc đáo, cảm nhận tinh tế sâu sắc, hình ảnh thơ đẹp, ngôn ngữ tinh tế giọng
thơ êm đềm. Sang thu thể hiện cảm nhận tinh tế của những chuyển biến nhẹ nhàng của khoảnh khắc
giao mùa từ hạ sang thu của miền Bắc. Qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên gắn bó với quê hương của
tác giả và triết lí về con người và cuộc đời.
Thu trong thơ Hữu Thỉnh sâu lắng và nhẹ nhàng, nó vương vấn, thoảng qua mãi trong tâm hồn người
đọc về một tiết thu ở đồng quê Bắc Bộ Có một cái gì thật êm, dịu dàng toát lên từ đoạn thơ ấy. Với việc
sử dụng ngôn ngữ tinh tế cùng với các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, “Sang thư” đã thể hiện một bút pháp
nghệ thuật thanh, nhẹ, những rung động mang mác, bâng khuâng trong thơ Hữu Thỉnh khi khắc họa
thành công khoảnh khắc giao mùa của đất trời và những rung động của lòng người. Hơn cả cái khoảnh
khắc giao mùa rung động lòng người ấy, là cả một tiếng lòng của một con người thiết tha yêu quê
hương, luôn hướng về những gì thân thuộc, gần gũi nhất, một tiếng thu nồng nàn thiết tha.

Mùa thu lặng lẽ và nhẹ nhàng. Những hình ảnh thơ cứ vương vấn mãi trong hồn. Có một cái gì thật êm,
dịu dàng toát lên từ đoạn thơ ấy. Quả thực ta thấy lòng thanh thản vô cùng mà lại vô cùng nôn nao nhớ
đến những miền quê xa vắng trong nắng thu khi đọc mấy câu thơ của Hữu Thỉnh.

nếu khổ thơ đầu bài "Sang thu" thể hiện tín hiệu thu sang, thì tới khổ thơ thứ hai hình ảnh, sự vật,
không gian được mở rộng và có chiều sâu hơn thông qua cảm nhận và quan sát tinh tế của Hữu Thỉnh.
Hình ảnh dòng sông “dềnh dàng” tiếp nối chuỗi hình ảnh mơ hồ sương khói ở khổ một nhưng lại mang
cảm giác thư thái, thảnh thơi của con sông sau những ngày bận rộn chảy trôi trong mùa mưa lũ. Sự dềnh
dàng phải chăng cũng chính là con người trước khoảnh khắc giao mùa muốn lắng mình lại, để suy tư về
cuộc đời và để lại dấu ấn đẹp cho cuộc sống. Đối lập với hình ảnh đó là hình ảnh “chim bắt đầu vội vã”.
Những cánh chim, tiếng hót líu lo vui nhộn của mùa hè giờ đây dường như bận rộn hơn, để tìm nơi ấm
áp tránh cái lạnh của mùa mới. Nhưng kết tinh đẹp nhất là hai câu thơ: “Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa
mình sang thư”. Sức gợi của câu thơ là vô hạn khi gợi lên trong lòng người đọc về hình ảnh chiếc cầu
giao mùa mỏng manh như đẹp và nên thơ. Ranh giới vô hình trong khoảnh khắc giao mùa tác giả bắt
trọn vẹn khoảnh khắc đó để rồi cô kết trong câu thơ mềm mại, uyển chuyển như chính hình ảnh mà tác
giả vẽ lên trong bài.

Cảnh vật được cảm nhận trong một không gian cao rộng, khoáng đản hơn:

có chiều cao của bầu trời, chiều dài của dòng sông và chiều rộng của những cánh chim bay. Đã sang thu,
không còn nữa những hình ảnh dòng sông cuồn cuộn chảy như mùa hạ mà dòng sông” được lúc dềnh
dàng”. Với từ “được lúc” dòng sông đã được nhân hóa khiến ta cảm nhận sông như được dịp được thời,
như đang lắng lại, trầm xuống, lũng là suy tư. Một từ láy “dềnh dàng “ thôi mà đã nopis lên được cả
dánh vẻ khoan thai, chậm rãi của dòng sông thu. Đối lập với sự “ dềnh dàng” của dòng sông là sự vội vã
của những chú chim. Hai chữ “bắt đầu” được dùng thật độc đáo, bắt đầu vội vã chứ không phải đang vội
vã bởi vì mới chớm thu thôi, những cách chim vẫn còn đủ thời gian để làm tổ, tha mồi, chuẩn bị cho mùa
đông rét mướt, hay bay về phương nam tránh rét. Có lẽ phải tinh tế, gần gũi, gắn bó, yêu thiên nhiên
lắm nhà thơ mới có thể nhân ra được sự “vội vã” trong những cánh chim bay. Cánh chim trời vội vã bay
đi nhưng lại “có đám mây mùa hạ “ duyên dáng “ vắt nửa mình sang thu”. Hình ảnh “đám mây mùa hạ”,
“vắt nửa mình sang thư” là một sự liên tưởng thú vị, một hình ảnh đầy chất thơ. Nó khiến ta hình dung
đám may như dải lụa mềm, như chiếc khăn piêu của người thiếu nữ vắt ngang bầu trời, nửa còn ở bên
bầu trời mùa hạ, nửa đã vắt sang thu. Như trong bài thơ “ chiều sông thương” Hữu Thỉnh có viết:

“Đám mây trên Việt Yên | Ru bóng về Bố Hạ"

I. Mở bài:
Mùa thu vốn là một trong những đề tài quen thuộc trong thơ ca, là nguồn thi hứng dạt dào để người
nghệ sĩ viết lên những trang thơ đồng đầy cảm xúc. Tuy nhiên đến với thu, mỗi thi nhân lại góp vào đề
tài này những nét độc đáo và thi vị riêng. Trước đây, Nguyễn Khuyến nổi tiếng với ba bài thơ thu nức
danh “Thu điếu”. “Thu vịnh”, “Thu ẩm”, Tân Đã có “Cảm thu - Tiễn thư". Sau này thì có “Tiếng thu” của
Lưu Trọng Lư hay Xuân Diệu với “Đây mùa thu tới". Nhưng viết về tiết thu lúc giao mùa thì có lẽ “Sang
thu” của Hữu Thỉnh là nổi bật hơn cả. Bằng tâm hồn nhạy cảm và tình yêu thiên nhiên tha thiết, nhà thơ
đã mở rộng lòng mình để đón nhận giây phút chuyển mình của cảnh vật, đất trời từ cuối hạ sang đầu
thu. Đồng thời bộc lộ những chiếm nghiệm, những suy ngẫm về nhân sinh cuộc đời vốn đầy dẫy những
khó khăn,

thử thách.

II. Thân bài:

Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thịnh, sinh năm 1942, quê ở Vĩnh Phúc, là nhà thơ trưởng thành
từ trong quân đội. Ông viết nhiều, viết hay về những con người, cuộc sống ở nông thôn, về mùa thu.
Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vẫn vương trước đất trời trong trẻo, đang biến
chuyển nhẹ nhàng. Thơ Hữu Thỉnh mang đậm hồn quê Việt Nam dân dã, mộc mạc tinh tế và giàu rung
cảm. Bài thơ “Sang thu” của nhà thơ được viết vào cuối năm 1977, in lần đầu trên Bảo Văn Nghệ. Sau đó
được in trong tập thơ “Từ chiến hảo đến thành phố” xuất bản năm 1991 và nhiều tập thơ khác. Bài thơ
là những cảm nhận tinh tế của nhà thơ về phút giao mùa của đất trời Việt Nam từ cuối hạ sang đầu thu.
Từ đó gửi gắm những triết lí nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về đời người.

1. Phân tích:

a. Khổ là

“Sang thu” ở đây là chớm thu, là lúc thiên nhiên giao mùa. Mùa hè vẫn chưa hết mà mùa thu tới có
những tín hiệu đầu tiên. Trước những sự thay đổi tinh vi ấy, phải nhạy cảm lắm mới cảm nhận được. Tác
giả đã thể hiện sự tinh tế đó của mình ngay từ những câu thơ đầu:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Pha vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về

Mùa thu đã xuất hiện bao lần trong thơ ca với đủ mọi sắc thái. Cổ thị Trung Hoa có câu thơ nổi tiếng:

“Ngô đồng nhất diệp lạc

Thiên hạ cộng tri thu (Một chiếc lá ngô đồng rụng

Cả thiên hạ đều biết là mùa thu)

Nếu như trong thơ ca cổ điển mùa thu thưởng hiện ra qua các hình ảnh ước lệ như cây ngô đồng, lá
phong, hoa cúc,... hay mới hơn có Xuân Diệu, với hình ảnh rặng liễu: “Rặng liễu dầu hậu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngân hàng" thì với Hữu Thỉnh ông lại bắt đầu bằng “hương ổi”. Đó là một hình
ảnh, một tử thơ khá mới mẻ với thơ ca viết về mùa thu nhưng lại vô cùng quen thuộc và gần gũi đối với
mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân miền Bắc mỗi độ thu về.
Mở đầu bài thơ là từ “bỗng” diễn tả cảm xúc bất ngờ, đột ngột, ngỡ ngàng của chủ thể trữ tình trước
những tín hiệu của mùa thu. Thu về với đất trời quê hương, với lòng người một cách tự nhiên mà không
hề báo trước. Hương vị đặc trưng của mùa thu bất chợt làm nhà thơ xao lồng, không phải hương thơm
của một loài hoa mà là mùi ổi chín, nghe mới mộc mạc, dân dã làm sao! Hương ổi không chỉ lan tỏa mà
còn vận động rất mạnh trong không gian, “phả vào trong gió se". Động từ “phả gợi cho ta cảm nhận làn
gió thu se lạnh nhẹ nhàng như đang đón nhận hương thơm nồng nàn ấy để rồi lại hảo phỏng bản phát
hương thu đến khắp đất trời.

You might also like