người nghệ sĩ say mê và sáng tạo. Đến với mùa thu ta có “Cảm thu”, “Tiễn thu” của Tản Đà, có cái buồn man mác hiu quạnh trong “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu, đến với “ Sang thu” của Hữu Thỉnh ta lại có cái nhìn chiêm nghiệm sâu xa…Và nhắc đến đề tài mùa thu ta không thể không nhắc đến chùm thơ thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến mà tiêu biểu trong đó là “Thu điếu”. Tuyệt phẩm đúng là bức tranh mùa thu hết sức sinh động, mà trong đó một nửa là mùa thu của thiên nhiên và một nửa còn lại là mùa thu của chính tâm hồn nhà thơ, cả hai đã hòa quyện vào nhau, tạo nên một tác phẩm bất diệt với thời gian. (Trích) Nguyễn Khuyến là một nhà nho có học vấn uyên thâm, cốt cách thanh cao cùng tấm lòng yêu nước thương dân vô tận. Lấy thơ ca làm bầu bạn, Nguyễn Khuyến để lại những vần thơ hết sức quý giá, mà bình dị, hồn hậu về cảnh vật và cuộc sống của con người. Tác phẩm"Câu cá mùa thu" nằm trong chùm thơ thu gồm ba bài: “Thu điếu”, “Thu ẩm” và “Thu vịnh”. Tác phẩm được sáng tác khi bậc hiền tài đang sống cuộc đời dân dã, mộc mạc tại làng quê sau khi đã rời bỏ chốn quan trường náo nhiệt. Khi nhận xét về bài thơ, Xuân Diệu có viết: " Bài thơ Thu Vịnh là có thần hơn hết nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu Việt Nam". Quả là như vậy, bài thơ là những cảm nhận tinh tế của thi nhân về mùa thu của quê hương xứ sở, qua đó bộc lộ tâm sự thời thế thầm kín của mình.
Bài thơ mở ra với cảnh thu hài hòa,
đầy ắp thi vị dưới điểm nhìn linh hoạt, từ gần đến cao xa, rồi từ cao xa trở lại gần: "Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo"
Nếu như ở Thu vịnh, mùa thu được
Nguyễn Khuyến đón nhận từ cái không gian thoáng đãng, mênh mông, với đôi mắt hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của mùa thu để thấy được: “ Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”, thì ở Thu điếu, nhà thơ không tả mùa thu ở một khung cảnh thiên nhiên rộng rãi, không phải là trời thu, rừng thu hay hồ thu, mà lại chỉ gói gọn trong một ao thu, một chất liệu lấy từ cuộc sống bình dị ở đônf bằng chiêm trũng Bắc bộ. Khi tiết trời đã thấm cái “lạnh lẽo” của heo may bên chiếc ao, thì làn nước lắng trong đến độ như được chọn lọc, trong vắt đến tận đáy ao. Chỉ bằng vài nét gợi tả, Nguyễn Khuyến đã khiến người đọc hình dung về một ngày rất sáng, nên nước trong ao mới có “trong veo” đến thế. Không gian ấy bỗng như được mở rộng ra nhiều hướng nhờ sự xuất hiện của chiếc thuyền câu cá “bé tẻo teo”. Giữa khung cảnh thiên nhiên mênh mông rộng lớn ấy, hình ảnh con người lại càng thu lại nhỏ bé hơn, thu hẹp mình lại để hướng vào chiều sâu nội tâm cá nhân. Như vậy, bối cảnh của toàn bài dường như được hiện hữu trong hai câu đầu. Đó là một bức tranh được bao trùm bởi cái lạnh lẽo của mùa thu và sự cô đơn, trống vắng trong lòng thi sĩ
Theo dòng cảm xúc, sự giãi bày ấy
được gián tiếp bộc lộ qua cảnh làng quê thân thuộc, qua cái buồn man mác của mùa thu, mùa mà với thi nhân đó là nguồn cảm hứng bất tận:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Cảnh vật có sóng biếc “gợn” thành
hình và lá vàng “đưa” thành tiếng nhưng cả tiếng và hình ấy đều rất nhẹ, rất khẽ trong cái tĩnh lặng của toàn bài thơ. Tác giả đã rất nhạy cảm, tinh tế khi chớp được những biến động tinh vi của tạo vật. Đó là sự chuyển động “hơi gợn tí” của sóng, là sự đưa nhẹ khẽ khàng của lá vàng, là sự mong manh uốn lượn của hơi nước mờ ảo trên mặt ao. Có thể nói là hai câu thơ đối nhau rất chỉnh. Ông không chỉ quan sát mà còn lắng nghe, không chỉ miêu tả mà còn cảm nhận, đó chính là cái tâm, cái tài của nhà thơ thể hiện rõ nét. Chỉ những tâm hồn tinh tế, nhạy cảm trước sự biến động của thiên nhiên mới có thể làm nên những câu thơ như chụp lại từng khoảnh khắc và đóng khung vào ngôn từ vĩnh cửu. Nghệ thuật đặc sắc lấy động tả tĩnh của tác giả đã khiến cái tình nay càng tĩnh hơn. Cái tĩnh nó nhẹ đến vô hình, vị thi sĩ này quả là một người có tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống sâu sắc thì mới có thể cảm nhận được sự im lặng đến thế.
Đến hai câu luận, cảnh thu của
Nguyễn Khuyến như xa hơn một chút, điểm nhìn có phần thoáng đãng hơn
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngỏ trúc quanh co khách vắng teo" Không gian nghệ thuật bỗng mở ra tầm cao với trời thu cao xanh, và tầm xa trước mặt với đường làng ngõ xóm quanh co, vắng vẻ. Từ "vắng teo” cho thấy sự vắng lặng không một bóng người, không chút động tĩnh, âm thanh. Chiều cao của bầu trời được cụ thể bằng sự “lơ lửng” của tầng mây và thăm thẳm của da trời xanh ngắt. Trong cảm nhận của Nguyễn Khuyến, cái sắc "xanh ngắt” ấy rất khơi gợi, cái màu xanh liền một khối tinh khiết, thăm thẳm, khiến cho những ai ngẩng mặt lên ngắm trời thu đều có cảm giác vời vợi lạ kì. Nhờ có “tầng mây lơ lửng” bên dưới mà nhận ra “trời xanh ngắt” bên trên. Xuân Diệu đã từng nhận định: “Cái thú của bài Thu điếu ở cái điệu xanh: xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh trúc, xanh tròi, xanh bèo”. Màu da trời mùa thu dường như ám ảnh sâu đậm trong lòng Nguyễn Khuyến nên trong các bài thơ thu, ông thường nhắc tới: “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao” – Thu vịnh hay “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” – Thu ẩm.
Bởi vậy, màu xanh ngắt của da trời
không chỉ đơn thuần là một màu sắc mà có lẽ đó còn chính là tâm trạng nhiều ẩn ức, là chiều sâu tâm hồn đầy trăn trở của thi nhân. Như một bức tranh thủy mặc đơn sơ mà ấn tượng, qua 6 câu thơ đầu, cảnh thu lập tức nằm gọn trong tâm hồn người đọc, ẩn náu để rồi lan tỏa miên man.
Hai câu thơ cuối mang âm thưởng
nhẹ như hơi thở, kết lại mạch cảm xúc, gợi ra lòng người tưởng chừng thanh thản nhưng ngập bao nỗi niềm:
“Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.” Chủ thể trữ tình xuất hiện trong tư thế ngồi bất động “tựa gối buông cần”, thu mình lại, không phải để chờ đợi mà là để suy tư. Nhà thơ ngồi câu cá nhưng chẳng hề chú tâm đến việc câu, bởi vậy mới giật mình trước tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”. Tiếng cá động đến tâm trạng của nhà thơ, trong suy nghĩ của người đọc, người ta chợt nhận ra vẻ câu cá an nhàn ấy là một tâm trạng đầy suy tư, thậm chí đau đớn trước cảnh nước nhà lúc bấy giờ. Đau trước sự thay đổi không ngờ của thời cuộc, đau vì bản thân bất lực không làm gì được và trong sự dằn vặt nội tâm ấy, Nguyễn Khuyến đầy cô đơn và trơ trọi giữa trời thu “lạnh lẽo”. Bằng bút pháp thi trung hữu họa kết hợp với lấy động tả tĩnh, tác giả đã tạo nên một mùa thu rất riêng cho mình. Từ mùa thu hiện thực với lá vàng, trời xanh, Nguyễn Khuyến đã vẽ nên bức tranh mùa thu chưa đựng suy tư cá nhân lên trang thơ, và khi đến tay người đọc, lại gợi lên những liên tưởng đầy ý vị. Ta cảm nhận được những vẻ đẹp bình dị nhưng tinh tế của làng cảnh quê hương, nghe vang dậy lời giãi bày, tâm tư kín đáo của tác giả tạo một sợi dây liên kết từ tâm hồn đến tâm hồn.
Với Thu điếu”, Nguyễn Khuyến đã rất
thành công với lớp ngôn ngữ giản dị, trong sáng, nhưng vẫn đậm chất mỹ học của thơ ca cổ điển. Cách gieo vần “eo” đầy độc đáo giúp gợi sự vắng lặng, thu hẹp dần của không gian thu nơi làng quê, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc, bế của tác giả trước thời cuộc. Bằng ngòi bút nghệ thuật kín đáo, từng lời thơ như tiếng nói trong sáng, nhuần nhụy, đầy nhạc điệu với sự hài hòa của tâm hồn con người với cảnh sắc thiên nhiên. Mỗi thi sĩ làm thơ, trước hết là phải thổi được hồn mình vào đó, phải biết biến những con chữ thô cứng ngập tràn thi vị và “nhảy múa” trong cảm xúc. Với bài thơ “Thu điếu”, đong đầy trong từng vần thơ con chữ, ta thấy được mênh mang cái tình của Nguyễn Khuyến, một tâm hồn gắn bó với thiên nhiên, với tình yêu đất nước tuy kín đáo nhưng sâu sắc vô cùng.