Mùa thu là một đề tài quen thuộc trong thơ ca, người ta yêu mùa thu bởi vẻ lộng lẫy của sắc trời đất, sắc hoa lá mùa thu. Yêu thu bởi chính khoảng thời gian gần hết một chu kì một năm khiến con ngừoi dễ nhìn lại chặng đường đã qua. Tường chừng như bao nhiêu vẻ đẹp, bao cảm xúc mùa thu đã đc văn sĩ ngàn đời khai thác hết. Vậy mà Hữu Thỉnh, nhà thơ, cũng là người lính bước ra từ những ăm thág chiến tranh, vẫn đem đến cho ta một bất ngờ đến ngạc nhiên, thú vị. Bài thơ là bức tranh về thời khác đẹp đẽ mà mong manh lúc sang thu: “Bỗng nhận ra hương ổi … Trên hàng cây đứng tuổi” Hữu Thỉnh là một người dày dặn kinh nghiệm, ông viết rất nhiều, ông hay viết về con người và cuộc sống của người dân nông thôn. Ngôn từ giàu tính tượng hình, thơ của ông tuy giản dị nhưng lại vô cùng tinh tế và không kém phần sâu sắc. Tiêu biểu cho lời nhận xét đó là bài thơ sang thu được Hữu Thỉnh sáng tác vào gần cuối năm 1977 (sau ngày giải phóng đất nước 2 năm) trong một cuộc thi sáng tác thơ ca tại trại hè. Bài thơ được in lần đầu ở báo Văn nghệ, sau đó in trong tập thơ Từ chiến hào đến thành phố (xuất bản năm 1991). Trong nhận định về tác phẩm Sang Thu, Chu Văn Sơn có viết: “ Sang Thu, từ trong tạo vật lẳng lặng thành thơ cuộc đời”. Chúng ta có thể hiểu “tạo vật” ở đây là thiên nhiên quanh ta. Còn “thơ cuộc đời” là thơ về cuộc sống của con người. Có thể hiểu nhận định trên là : bài thơ “Sang Thu” trước hết mang lại cảm xúc về thiên nhiên nhưng đằng sau đó còn là những vấn đề về cuộc sống con người. Điều này ko xa lạ với chúng ta. Gắn bó và yêu quý thiên nhiên, con ngừoi thườnh gửi gắm tình cảm của mình trong các hình ảnh về thiên nhiên. Vì vậy, từ “khúc giao mùa” đẹp đẽ của thiên nhiên lúc sang thu, Hữu Thỉnh đã gửi gắm tâm tình của những con người vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh với bao nỗi niềm. Mở đầu bài thơ là tâm trạng bất ngờ ngạc nhiên của Hữu Thỉnh: “Bỗng nhận ra hương ổi” Tù ‘bỗng’ ở đây có nghĩa là bất ngờ nhận ra, không ngờ tới, phải chăng vì con người ta quá bận rộn không để ý thời gian trôi nhanh hay vì cây ổ vốn là loài ca bình thường dân dã, thường đứng nép ở góc vườn quê ko có gì nổi bật? Cây ổi trổ hoa lúc nào ko ai hay, những trái non hình thành rồi lớn dần có lẽ cũng ít người để ý .Chỉ tới khi cuối mùa hạ, một sáng sớm ta chợt nhận ra trái ổi đã chín, mùi hương thơm nồng, ngấy ngây lòng người. Và “bỗng” nhận ra ko chỉ hương ổi mà còn là sự thấm thoát trôi của thời gian Mùi hương ấy kèm theo chút gió heo may đc cảm nhận trc tiên trong cảm giác se lạnh vào buổi sớm mai: “Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về” Động từ “phả” thể hiện sự mạnh mẽ, đông đặc, khiến cho không gian xung quanh đây trở nên nồng nà mùi hương ổi chín. Ta từng thấy những cơn gió heo may phảng phất những mùi hương: “Gió thôi mùa thu hương cốm mới” (Nguyễn Đình Thi) hay “Mùa thu vào hoa cúc” (Xuân Quỳnh) và giờ đây chúng ta có thêm mùi hương ổi chín chỉ có ở làng quê, mộc mạc, giản dị gẫn gũi khiến người đọc phải ngạc nhiên bởi xưa nay chưa ai từng nghĩ rằng mùi hương ổi quê lại làm nổi bật những ngày thu. Nó còn giúp cho ta cảm nhận rõ hơn làn gió thu bằng cả xúc giác và cảm giác. Và ko chỉ có từ “gió se, còn có thêm “Sương chùng chình qua ngõ”. Ngõ là lối đi nhỏ từ nhà ra đường hôm “bỗng” chốc lạ thường. Sương ko đọng từng giọt trên lá mà như làn khói mỏng manh giăng mắc cỏ cây đầu ngõ, chậm chạm như cố tình muốn tan. Từ lấy “chùng chình” với cả nghệ thuật nhân hoá kia trở nên mềm mại duyên dáng biết bao. Có lẽ mới đây thôi, mùa xuân rồi mùa hạ vừa đi qua con ngõ này nay đã trở nên khác lạ bởi làn “sương chùng chình qua ngõ” bao phủ…. Cái ngõ quê nhỏ bé ấy đã trở thành ngõ thời gian thông giữa hai mùa đón thu đang chớm về. Với những tín hiệu ấy, thi sĩ bỗng thảng thốt nhận ra: “Hình như thu đã về” Từ “hình như” ấy làm cho không gian mùa thu trở nên huyền hồ hư ảo. Nhưng tại sao bao nhiêu tín hiệu của hương ổi, của gió se, của sương…. trên kia mà nhà thơ lại chợt thắc mắc với lòng như thế. Hoá ra hương ổi, gió se, sương… là do những cảm nhận tinh tế của các giác quan, còn lí trí con ngừoi thì vẫn chưa kịp nhận ra. Từ những tín hiệu mùa thu ở làng quê, nhìn rộng ra, nhà thơ thấy những tín hiệu mùa thu trên khắp đất trời: “Sông đc lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu” Con sông đã không còn dòng chảy cuồn cuộn với màu phù sa ngầu đỏ. Mùa thu, dòng nước lắng lại, trở nên trong xanh in bóng mây trời, “được lúc” đến kì đẹp nhất nên nó “dềnh dàng” thong thả chảy trôi. Từ láy “dềnh dàng” không chỉ gợi hình, nó gợi cả tâm trạng, đó là sự thư thái, khoan thai, thanh thản. Phải chăng cũng giống như tâm trạng của người vừa bước chân ra khỏi cuộc chiến tranh và đang hạnh phúc hưởng thụ những tháng ngày bình yên? Đối lập với sự thư thái của con sông là tâm trạng “vội vã” của bầy chim, dù dường như chúng mới chỉ “bắt đầu” cảm nhận đc sự chuyển mùa. Cái hay của từ láy “vội vã” ở đây chính là miêu tả sự bắt đầu của tâm trạng chứ ko phải là của hành động. Mới chớm thu, phải đợi gần cuối mùa những đàn chim mới bay về phương Nam tránh rét. Nhưng cảm nhận đc thu đã tới, bầy chim bắt đầu lo tới chuyện tương lai. Cũng giống như tâm trạng “dềnh dàng”, từ “vội vã” phải chăng còn gợi đến tâm tư của con người? Mùa thu thường gợi đến khoảng thời gain đã trôi qua, con ngừoi thường ngẫm ngợi về những gì đã có để rồi vội vã muốn nhanh nhanh bù đắp những điều còn thiếu, chưa làm đc. Hai câu thơ cuối đoạn này thật hay bởi nghệ thuật đối, nhân hoá, ẩn dụ đặc sắc: “Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu’ Người xưa nói thơ hay là “thi trung hữu hoạ” “ý tại ngôn ngoại”. Không gian đất trời lúc sang thu đc gói gọn trong mười chữ mà mở ra tới vô tận. Cao tít trên bầu trời kia là đám mây mùa hạ với hành động “vắt mình” đến ngộ nghĩnh. Đám mấy ấy như chia bầu trời thành hai nửa. Nó gợi ra tâm trạng dùng dằng nửa muốn níu giữ sắc trời mùa hạ, nửa muốn vội vàng chuyển hẳn sang thu. Nếu như dứoi mặt đất, ci ngõ quê trở thành ngõ thời gain thì trên bầu trời đám mây đã trở thành nhịp cầu thời gian nối giữa hai mùa. Giờ đây, ngay cả những hiện tượng vốn tiêu biểu của mùa hạ cũng đã bắt đầu đổi thay: “Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi” Các từ miêu tả sự đổi thay nằm trong quá trình chuyển biến. Các từ “vẫn còn, đã vơi, cũng bớt” thật hay vì nó miêu tả sự thay đổi trong lòng sự vật. Mọi thứ bề ngoài tưởng còn đó mà thực chất đã chuyển hoá trong mênh mông của đất trời. Nắng vẫn còn vàng óng, có khi rực rỡ, lung linh hơn nhưng đã bớt dần cái oi bức, chói chang. Mưa vẫn còn rơi, thậm chí rả rích mưa ngâu nhưng ko phải là những trận mưa rào ào ào xối nước, những giọt mưa nhỏ hơn, tí tách rơi…. Vẫn còn tiếng sấm, nhưng ko phải là những tiếng đinh tai nhức óc mà là những tiếng sấm ì ầm nơi cuối trời. Phải chăng đó là tiếng sấm của bầu trời thanh bình, ko gợi về những âm thanh dữ dội của bom rơi đạn nổ. Những điều liên tưởng trên khiến ta chợt nhớ tới những giông bão trong cuộc đời chúng ta. Tường như tất cả đều thay đổi trc tác động của thiên nhiên. Nhưng ko, vẫn có một sự vật bình thản, đứng ngoài sự biến đổi đó là: “hàng cây đứng tuổi”. Những hàng cây qua tháng năm, rễ cắm sâu vào lòng đất,dù bão tố, nắng hạn cây vẫn xanh tươi. Hình ảnh hàng cây còn là hình ảnh nhân hoá gọi về những con người đã đi qua tháng năm, đi qua những nắng, những mưa, sấm chớp, giông bão cuộc đời mà vẫn vững vàng. Có thể hiểu đó là hình ảnh ẩn dụ về một triết lí trong đời sống. Bài thơ gợi nên sự ứng xử của con ngừoi trong sự biến đổi của thời gian. Có bao tâm trạng: kẻ chùng chình, dềnh dàng, người thì vội vã, hốt hoảng, người thì dùng dằng nửa muốn nửa ko. Chỉ có những ngừoi bản lĩnh mới ko chịu thua trc sự tác động của ngoại cảnh. Lúc viết bài thơ này, Hữu Thỉnh mới chỉ hơn ba mươi tuổi, ấy vậy mà ông đã tự cho rằng mình là người từng trải. Có lẽ điều này xuất phát từ hoàn cảnh của ông khi ông xuất thân là những người lính. Bài thơ đc viết năm 1977, đây là tác phẩm của một người lính vừa đi qua chiến tranh. Vẻ đẹp trữ tình của thiên nhiên hoà quyện cùng nét thâm trầm, từng trải trong ý thơ. Dù đã hơn ba mươi năm, Sang thu của Hữu Thỉnh vẫn để lại trong lòng người nét duyên riêng khí quên trong những bài thơ viết về đề tài mùa thu