You are on page 1of 71

PHÂN TÍCH BÀI SANG THU – HỮU THỈNH

Mở bài
Xantưkôp Sêđrin đã từng nói: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ
mình nó không thừa nhận cái chết”. Vậy điều gì đã khiến các tác phẩm nghệ thuật bất
tử? ở tài năng hay ở tấm lòng của người cầm bút? Phải chăng, văn chương muôn đời là
nơi mà người nghệ sĩ đã mang hiện thực vào trang viết của mình bằng tất cả tấm chân
tình mà ẩn sâu trong đó là những tư tưởng, thông điệp quý báu để gửi gắm đến độc giả
và nhà thơ Hữu Thỉnh cũng là một trong số những người nghệ sĩ như thế. Bài thơ Sang
Thu là những cảm nhận tinh tế cùng sự quan sát vô cùng tỉ mỉ của nhà thơ về sự biến
chuyển của đất trời từ cuối mùa hạ sang thu. Từ đó bộc lộ tình yêu thiết tha với thiên
nhiên của một tâm hồn nhạy cảm và sâu sắc. (trọng tâm là gì thì lưu ý trong tâm)
Thân bài
Bài thơ Sang Thu được nhà thơ Hữu Thỉnh sáng tác 1977 (hai năm sau ngày đất nước
được giải phóng) trong một cuộc thi thơ tại trại hè. Bài thơ là sự cảm nhận tinh tế, quan
sát tỉ mỉ của tác giả về sự chuyển mình của đất trời từ cuối hè sang thu. Nhan đề “Sang
thu” không chỉ thể hiện khoảnh khắc đất trời, thiên nhiên đang đứng trước sự chuyển
giao giữa mùa hạ và mùa thu với cảnh sắc thiên nhiên đẹp mà còn mang ý nghĩa phản
ánh một giai đoạn chuyển giao của cuộc đời. Đó là giai đoạn chuyển giao từ tuổi trẻ
sang lứa tuổi trưởng thành, chững chạc và nhiều suy tư hơn. Một năm có bốn mùa Xuân
– Hạ - Thu – Đông thay phiên luân chuyển, mùa Xuân đi thì Hạ đến và Hạ đi thì Thu
tới, tự nhiên là thế, và mùa hạ đang trôi qua mau chóng nhưng những sắc màu của nó
vẫn còn phảng phất đâu đây trong hương sắc trời thu để tác giả phải lưu luyến bâng
khuâng như một hoài niệm và chợt giật mình khi thu sang.
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ.
Hình như thu đã về.

Không như một số nhà thơ cảm nhận mùa thu qua sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô
đồng hay qua tiếng lá vàng rơi xào xạc, đó là cách cảm nhận mùa thu qua thị giác và
thính giác, Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu bằng nhiều giác quan, đầu tiên là khứu giác
với hương vị riêng đặc biệt độc đáo: hương ổi.
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”
Từ “bỗng” thể hiện sự đột ngột, bất ngờ trong cảm nhận về cảnh sắc đất trời. Khoảnh
khắc bất chợt nhận ra đất trời đã chớm sang thu đối với nhà thơ rất dân dã, giản dị và
gần gũi, nó đến từ “hương ổi” thơm ngào ngạt, ngọt ngào, một thức quà quê quen thuộc
với mỗi người dân Việt Nam. Hương ổi ấy, không phải chỉ thoang thoảng mà “Phả vào
trong gió se”, "Phả" nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra thành luồng, khiến thi nhân cảm nhận
được một cách rõ nét và ý thức được sự chuyển giao giữa mùa hạ và mùa thu. Sự tinh tế
của tác giả chính là ở việc không tả mà chỉ gợi. Hương ổi thơm lừng trong gió se gợi
cho người đọc màu vàng ươm của những trái ổi nơi vườn quê trong một buổi chiều cuối
hạ, đầu thu. Và vì có gió thu “se” lạnh nên hương ổi mới thêm nồng nàn, phả vào đất
trời và hồn người để cho tác giả “bỗng” phát hiện ra thu đã về. Không chỉ có “hương
ổi” trong “gió se”, nhà thơ còn nhận thấy:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Biện pháp nghệ thuật nhân hóa “sương chùng chình” gợi tả sự chậm rãi, nhẹ nhàng của
màn sương giống như một nàng “Thu” yêu kiều đang bước tới. Sương bay qua ngõ,
giăng mắc trên những cành cây khô đầu ngõ cuối thôn. Thế nhưng, dù đã cảm nhận
được mùa thu qua ba giác quan khứu giác - hương ổi, gió se – xúc giác, sương chùng
chình – thị giác nhưng tác giả vẫn chưa hết sững sờ, vẫn chưa dám tin là thu đã về nên
mới mơ hồ: “Hình như thu đã về”. Ấy là những giờ phút đầu tiên của mùa thu chợt tới,
thu chợt tới trong rất nhiêu ngơ ngác, bâng khuâng.
Nếu ở khổ một, mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ, thì ở khổ thơ này,
tác giả đã khẳng định: thu đến thật rồi. Thu có mặt ở khắp nơi, rất hiện hình, cụ thể
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Dòng sông lúc sang thu không còn cuồn cuộn gấp gáp như ngày hạ mà bỗng trở nên
thong thả, dềnh dàng, lờ lững trôi như đang còn ngẫm ngợi suy tư. Đối lập với hình ảnh
dòng sông là hình ảnh những cánh chim bắt đầu vội vã, gấp gáp như đứa con sợ lỡ mất
chuyến xe cuối cùng để trở về nhà. Có lẽ nó đang chuẩn bị cho cuộc hành trình bay đi
tránh rét ở phương xa, hay cũng có thể nó chỉ đang vội vã quay về tổ trước lúc những
ánh mặt trời cuối cùng vỡ tan vào trong màn đêm. Phải là người yêu thiên nhiên và thật
tinh tế mới nhận ra được những chuyển biến đặc trưng của khoảnh khắc giao mùa.
M.Gorki từng nói: “thơ là tâm hồn”, vậy chắc chắn tâm hồn nhà thơ phải luôn đong đầy
cảm xúc mới có những cảm nhận tinh tế và sâu sắc như thế. Mùa thu không chỉ được tái
hiện qua hình ảnh dòng sông, cánh chim mà còn qua hình ảnh đám mây
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Phải chăng, mùa thu chỉ đang ở nơi cửa ngõ của mùa, vì vậy đám mây chỉ vừa mới “vắt
nửa mình” mà thôi. Đám mây tựa như một dải lụa bồng bềnh vắt nửa mình sang thu.
Thực tế, giữa hạ và thu làm gì có một “ranh giới” rạch ròi nào phân cách? vậy mà Hữu
Thỉnh lại vẽ nên ranh giới cho một thứ vô hình như thế. Ông tinh tế dùng hình ảnh của
không gian để diễn tả lại sự vận động diệu kỳ của thời gian. Đám mây kia là thật, nhưng
ranh giới của mùa là ảo. Bầu trời ấy như nhuộm nửa sắc thu để rồi đến một lúc nào đó
sẽ là cả một bầu trời cao, xanh, trong vắt như cách cảm nhận về mùa thu của Nguyễn
Khuyến
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”
Hai câu thơ không chỉ hát về khúc ca mùa mà còn như chất chứa cả những suy tư, trăn
trở của nhà thơ. Khi viết bài thơ này, tác giả tâm sự rằng ông đã từng liên tưởng đến
những đám mây thu trọn vẹn. Thế nhưng, dường như đã có gì níu giữ tâm trí ông theo
chiều hướng “một nửa” ấy. Có lẽ mây mùa hạ đã mang theo tất cả những hoài bão,
những ước mơ của tuổi trẻ, cuốn theo bao sức sống mãnh liệt của tuổi vô ưu, vô lo, tô
nên một mùa hạ ngập tràn màu sắc, sặc sỡ và nên thơ hơn bao giờ hết. Vậy mà, giữa mơ
và thực luôn bị ngăn cách bởi một ranh giới vô hình nào đó khiến chúng khó mà trọn
vẹn. Sự dở dang, mất mát là một hiện thực mà ta buộc phải học cách chấp nhận, có lẽ vì
vậy, đám mây chỉ có thể vắt nửa mình sang thu mà thôi. Những đồng đội, những người
lính ngoài chiến trường của ông năm ấy cũng thế, họ đã ra đi, đã “gục lên súng mũ bỏ
quên đời” (Tây Tiến), bỏ quên cả tuổi trẻ và tương lai tươi sáng phía trước. Cùng với
họ, những hoài bão kia sẽ mãi mãi nằm lại nơi chiến trường mà chẳng bao giờ có thể trở
về được nữa, tựa hồ nửa đám mây còn vắt vẻo phía bên mùa hạ, tất cả sẽ chỉ còn là hồi
ức…Những biến chuyển của tạo vật tới đây đã hóa thành những suy tư của đời người
lúc khoảng khắc thu vừa chớm nở.
Trong khổ thơ cuối nhà thơ đã bộc lộ hết những trăn trở từ tận đáy lòng mình:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm đã bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”
Mùa thu đã hiện ra rõ ràng hơn bao giờ hết, cùng với cách tác giả lắng đọng lại để suy
tư, để hoài niệm về cuộc đời. Vẫn là nắng đấy, nhưng đã mờ phai. Vẫn là mưa, là sấm
nhưng đã chẳng còn bất ngờ ồn ã như lúc trước. “Nắng”, “mưa”, “sấm” khi kết hợp với
các phó từ “đã”, “vẫn”, “cũng” thì mức độ đã khác, chúng lắng lại, chừng mực và ổn
định hơn những ngày hạ, không còn dữ dội, cũng chẳng còn gay gắt, nặng nề. Hạ nhạt
dần, thu đậm nét hơn. Ở hai câu thơ cuối không còn đơn thuần chỉ là miêu tả bức tranh
mùa thu nữa mà đã trở thành một triết lý sống sâu sắc Hữu Thỉnh muốn gửi gắm tới
người đọc qua bài thơ cũng như chính tác giả đã từng tự bạch: “Có thể hiểu, hàng cây
đã lớn, đã trải qua bao mùa thay lá sẽ trở nên vững vàng hơn trước “những tiếng sấm
bất ngờ”. Phép nhân hóa và ẩn dụ như ẩn ý rằng tiếng sấm là những vang động bất
thường, những khó khăn, chông chênh của cuộc đời mỗi người. Khi càng trưởng thành,
càng trải nghiệm nhiều, ta lại càng trở nên bình tâm hơn khi đối mặt với nhưng “cơn
sấm” mà cuộc đời ban tặng, không còn bồng bột như xưa. Đến đây, người đọc như vỡ
òa đi khi nhận ra “sang thu” không chỉ có ở thời gian, ở thiên nhiên mà còn là sự “sang
thu” của đời người, tất cả giúp ta hiểu được vì sao lại có sự bịn rịn, “chùng chình” lúc
sang thu. Vì sao lại có sự “dềnh dàng” mà lại “vội vã”, có lẽ khi mái tóc đã dần phai
sương, ta lại càng luyến tiếc những ngày xanh lúc trước để rồi phải càng vội vã để sống,
để cống hiến và tận hưởng thời giờ ít ỏi còn lại của cuộc đời. Ta biết rằng mình đã
không còn nhiều cơ hội để dây dưa, lãng phí nữa. Có câu nói rằng: “Đời người chỉ sống
có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống
phí”, cho khỏi nuối tiếc vì lỡ đã đánh mất quá nhiều thời gian của chính mình. Và với
chúng ta, khoảng thời gian này cũng là khoảng thời gian vô cùng đẹp đẽ và ý nghĩa,
chúng ta hãy cố gắng nỗ lực hết mình, để có những kết quả cao nhất trong kì thi này, đó
cũng sẽ là kỉ niệm vô cùng đẹp trong cuộc đời mỗi con người để sau này chúng ta
không phải băn khoăn tiếc nuối về những tháng năm tuổi trẻ ta đã không cố gắng hết
mình. Hạ đi, thu đến mang theo những cảm xúc bất chợt để rồi gieo lại trong ta những
bồi hồi về một nàng thu nồng nàn êm ái. Hữu Thỉnh đã khắc họa nên bức tranh giao
mùa ấy bằng ngòi bút sắc nét mang đầy hơi thở trữ tình cùng những triết lý sâu xa. Bài
thơ thể hiện một tình yêu thiên nhiên đằm thắm, về khát khao yêu đời mà tác giải mong
muốn gửi gắm cho bạn đọc cũng như gửi lại cho tuổi trẻ của chính mình đã đi qua tự
thuở nào. Tác phẩm như viên pha lê đầy góc cạnh, trải qua bao thăng trầm để trọn vẹn
lung linh. “Sang thu” chính là như thế! Sinh ra trên đời để lặng lẽ yêu thương và du
dương suốt dặm đường.
Đánh giá nội dung và nghệ thuật
Sử dụng thể thơ bốn chữ, nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa cùng với cách dùng từ tự nhiên và
chân thực, Hữu Thỉnh đã khắc họa nên một bức tranh đặc sắc về thời điểm đất trời giao
mùa ở một vùng nông thôn đồng bằng Bắc bộ. Với bài thơ “Sang thu”, Hữu Thỉnh đã
góp thêm một nét thu duyên dáng mang dấu ấn riêng của mình vào những chùm thơ thu
của thơ ca Việt Nam.
Kết bài
Ernest Hemingway từng nói: “Tất cả các tác phẩm nghệ thuật đều có sự bất tử của riêng
nó. Bởi vì nó là sản phẩm bền vững nhất của lao động và trí tuệ con người.”. Rồi mai
này các tranh tượng có thể tiêu tan, các đền đài có thể bị sụp đổ, chỉ có những tác phẩm
văn học chân chính mới có thể vượt qua được quy luật băng hoại của thời gian để tồn
tại vĩnh viễn và bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh là một trong số các tác phẩm như thế.
Bài thơ không chỉ giúp người đọc cảm nhận được bức tranh đặc sắc về thời điểm đất
trời giao mùa ở một vùng nông thôn đồng bằng Bắc bộ và còn cảm nhận được nét thu
duyên dáng đặc trưng của mùa thu Việt Nam qua đó ta càng cảm thấy yêu quê hương
đất nước hơn, càng cảm thấy mình cần phải ra sức học tập để góp phần xây dựng quê
hương ngày càng giàu đẹp.

NÓI VỚI CON – Y PHƯƠNG


- Luận điểm 1: Cội nguồn sinh dưỡng của con
- Luận điểm 2: Truyền thống cao đẹp của quê hương
- Luận điểm 3: Điều cha mong muốn và hy vọng ở con
Mở bài
Xantưkôp Sêđrin đã từng nói: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng
hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Vậy điều gì đã khiến các tác phẩm nghệ
thuật bất tử? ở tài năng hay ở tấm lòng của người cầm bút? Phải chăng, văn chương
muôn đời là nơi mà người nghệ sĩ đã mang hiện thực vào trang viết của mình bằng tất
cả tấm chân tình mà ẩn sâu trong đó là những tư tưởng, thông điệp quý báu để gửi gắm
đến độc giả và nhà thơ Y Phương cũng là một trong số những người nghệ sĩ như thế.
Bài thơ Nói với con của nhà thơ là lời tâm tình, chia sẻ của người cha dành cho con với
niềm hy vọng con sẽ bước tiếp chặng đường của cha.
Bài thơ “Nói với con” được sáng tác vào năm 1980, năm năm sau ngày
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là giai đoạn mà đời sống của nhân dân
còn gặp nhiều khó khăn, cả xã hội lúc bấy giờ đều đang hối hả, gấp gáp kiếm tìm tiền
bạc. Vì vậy, muốn sống đàng hoàng như một con người, cần phải bám vào nền tảng văn
hóa, tin vào những giá trị tích cực, vĩnh cửu của văn hóa, bài thơ là lời tâm sự của nhà
thơ với đứa con gái đầu lòng của mình, qua đó muốn gửi gắm tới người đọc một thông
điệp rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ ấy bằng văn hóa. Có nền tảng
văn hóa tốt, mới có những suy nghĩ hành động đúng đắn để tạo lập cho mình một cuộc
sống tốt. Bài thơ có nhan đề ngắn gọn “Nói với con” nhưng đã khái quát lên nội dung
chính của bài thơ đó là lời trò chuyện, tâm sự của người cha với đứa con của mình và
nhắn nhủ tới thế hệ sau cần tiếp nối, phát huy và gìn giữ truyền thống tốt đẹp của quê
hương, đất nước. Nhắc nhở con nhìn vào cội nguồn mà sống sao cho xứng đáng. Tình
cảm gia đình, niềm tự hào quê hương đất nước không phải là một đề tài mới chúng ta
bắt gặp hình ảnh đẹp của người mẹ Tà ôi địu con lên rẫy hát ru con trong Khúc hát ru
những em bé lớn trên lưng mẹ, hay lớn hơn, ngọt ngào tha thiết trong bài thơ Con Cò
của Chế Lan Viên. Mỗi nhà thơ bằng sự trải nghiệm và tình cảm chân thành hoặc cùng
những xúc cảm mãnh liệt của nghệ thuật đã diễn tả thật hay, độc đáo với những tình
cảm thiêng liêng cao đẹp ấy. Nhà thơ Y Phương đã mở đầu bài thơ Nói với con bằng
lời gợi nhắc về tình cảm đùm bọc, che chở, yêu thương đầy ấm áp của gia đình đối với
mỗi con người.
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Mỗi đứa trẻ từ lúc lọt lòng đã được bao bọc, yêu thương trong vòng tay của cha mẹ,
một cử động, ánh mắt, nhịp thở của con luôn được ba mẹ dõi theo. Và khi con chập
chững bước những bước đi đầu tiên, tập gọi những tiếng cha, tiếng mẹ thì cha mẹ luôn
cũng luôn là người bên cạnh, chứng kiến và cổ vũ trong sự vui mừng hạnh phúc, trong
sự nâng niu, bảo bọc hết lòng. Điệp ngữ “Bước tới” thể hiện niềm sung sướng và đầy tự
hào của cha khi thấy con đang lớn lên. Con biết đi, biết nói là sự kiện lớn trong cuộc
sống gia đình, cả nhà luôn rộn rã tiếng nói cười, đâu chỉ là niềm vui riêng của người mẹ
mà còn là sự thổn thức của người cha. Thi sĩ Huy Cận cũng từng tâm sự cái giây phút
tuyệt vời ấy của mình:
Được tin con tập đi
Cha mừng không ngủ được
Cha nằm đêm thầm thì
Từng tiễn chân con bước”.
Hình ảnh người con ngây thơ, hồn nhiên với tiếng nói tiếng cười khiến người đọc dễ
dàng liên tưởng đến một mái nhà có mẹ có cha và con hạnh phúc vì được sống hạnh
phúc trong tình yêu thương, khoảnh khắc bình dị trong cuộc sống ấy rất quý đối với mỗi
con người. Qua lời tâm tình dịu dàng ấy người cha còn muốn nhắn nhủ với đứa con bé
bỏng của mình về công lao dưỡng dục sinh thành của cha mẹ, người luôn dõi theo
những bước chân con từ khi con còn thơ dại cho đến khi con đã trưởng thành, khôn lớn,
bước vào thế giới rộng lớn và con chính là món quà vô giá mà tạo hóa đã ban cho cha
mẹ, là niềm tin, niềm hy vọng để cha mẹ phấn đấu trong suốt cuộc đời. Người ta thường
hay đề cập đến tình cảm mẹ con, chứ ít khi nói về tình cha con, nhà thơ đã cho chúng ta
thấy được một tình cảm cha con thật dễ thương và cảm động.
Nếu như trong khổ thơ đầu là sự gợi nhớ về tình yêu thương của cha mẹ và sự
đùm bọc của quê hương dành cho con thì đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã thể hiện rất rõ
niềm tự hào, kiêu hãnh về sức sống mạnh mẽ, và truyền thống tốt đẹp của quê hương,
nhắn nhủ con phải kế tục và phát huy những truyền thống ấy
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”
Những câu thơ trên là lời tâm sự đầy tha thiết của người cha với con, người cha nói với
con của mình về những người thân thương, những người cùng sinh sống trong một
không gian, người cha dùng những từ ngữ gần gũi "người đồng mình", đó là những con
người thôn quê thật thà, nghèo khó nhưng luôn dành cho nhau những tình cảm yêu
thương gắn bó nhất, họ vui với hoạt động sản xuất lao động "Đan lờ cài đan hoa".
Những từ "đan", "cài" vừa diễn tả động tác lao động cụ thể, vừa nói lên sự gắn bó, quấn
quýt trong lao động của “người đồng mình”. Dưới bàn tay của những con người lao
động ấy, những nan nứa, nan trúc, nan tre đã trở thành "nan hoa". Vách nhà không chỉ
ken bằng gỗ mà được ken bằng "câu hát" thể hiện tinh thần lạc quan, vui vẻ họ vừa lao
động, vừa cất lên lời ca tiếng hát để tạo không khí làm việc vui vẻ thoải mái. Biện pháp
nghệ thuật nhân hóa “rừng cho hoa” cho chúng ta thấy rừng đâu chỉ cho gỗ quý, cho
măng, cho lâm sản quý giá mà còn "cho hoa" đó là vẻ đẹp của khung cảnh thiên nhiên,
là sự phong phú giàu có của thiên nhiên mà quê hương đã ban tặng cho con người, hoa
còn là những thành quả tốt đẹp mà con người nhận được sau bao nỗ lực cố gắng. Con
đường đâu chỉ để đi ngược về xuôi, lên non xuống biển mà còn "cho những tấm lòng"
nhân hậu bao dung đó là con đường tình nghĩa. Thiên nhiên quê hương cũng thật đẹp,
luôn dành cho con những gì tinh túy nhất, điệp từ “cho” đã góp phần thể hiện tấm lòng
rộng mở, hào phóng của thiên nhiên, sẵn sàng ban tặng cho con người tất cả những gì
đẹp nhất, tuyệt vời nhất của đất trời. “Rừng” và “con đường” là bóng dáng của quê
hương luôn dang rộng vòng tay đã được tác giả nhân hóa, dạy cho con biết rằng núi
rừng quê hương, thiên nhiên đã chở che, nuôi dưỡng con người và người cha cũng
muốn nhắc nhở con nếu như gia đình là cội nguồn, là nơi con sinh ra và dưỡng dục con,
thì quê hương đã nuôi dưỡng tâm hồn và che chở cho con bằng văn hóa tốt đẹp trong
suốt hành trình trưởng thành. Cuối khổ thơ, tác giả tâm sự cho con nghe về kỉ niệm
hạnh phúc nhất của cha mẹ. Đó cũng là cội nguồn để có con của ngày hôm nay:
“Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.”
Tác giả “Nhớ về ngày cưới” cũng là nhớ về những kỷ niệm đánh dấu sự khởi đầu của
một gia đình, đó chính là sự kết tinh yêu thương của hai tấm lòng, hai trái tim có cùng
chung nhịp đập. Người cha như muốn nói với đứa con của mình về những ký ức vui vẻ
của mái nhà hạnh phúc, bởi người con được sinh ra trong tình yêu thương, gắn kết của
cha mẹ, đây chính là một gia đình thật hạnh phúc. Khổ thơ đầu bài thơ Nói với con là
lời dặn dò, nhắn nhủ của người cha khi tâm sự với con. Cha nhắc con luôn phải nhớ và
biết ơn về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng của mình. Đó chính là gia đình của con,
là quê hương, những nền tảng cốt lõi tạo ra bước đệm giúp con khôn lớn và trưởng
thành. Vì vậy, con luôn phải sống bằng tất cả tình yêu và niềm tự hào.
Không chỉ nhắc đến cội nguồn sinh dưỡng những câu thơ tiếp theo người cha đã
ngợi ca những đức tính cao đẹp của người đồng mình, gợi cho con lòng tự hào về quê
hương dân tộc, dặn dò con cần phát huy và sống và xứng đáng với truyền thống của quê
hương mình
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Câu thơ sử dụng điệp ngữ “Người đồng mình” để nhấn mạnh sự gần gũi, gắn bó không
thể tách rời, nhưng nếu ở đoạn thơ trước là người đồng mình yêu lắm, "yêu" tức là từ
tình cảm chân thành từ trái tim thiết tha thì đến câu thơ ở khổ thơ thứ hai lại là từ
"thương", thương chính là một trạng thái tình cảm không chỉ xuất phát từ trái tim yêu
thương chân thành nữa mà còn gói ghém cả sự sẻ chia đồng cảm ở trong lòng. Hai câu
thơ tiếp theo tác giả khẳng định sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, kiên cường của người đồng
mình. Với nghệ thuật đối lập, tương phản "Cao đo", "Xa nuôi ", nỗi buồn, chí lớn. Tác
giả đã diễn tả những trạng thái khác nhau của người đồng mình, nỗi buồn, chí lớn chính
là khái niệm vô hình nhưng được tác giả hình dung cụ thể như có hình, có khối. Người
đồng mình khắc khoải ở trong lòng vì trước mắt họ là biết bao nhiêu khó khăn, gian
nan, thử thách khi cả quê hương họ vẫn còn quanh quẩn cái đói, cái nghèo. Nhưng
người đồng mình không bao giờ nhụt chí, mạnh mẽ, vững vàng đối diện với những khó
khăn. Cho dù cuộc sống có đói nghèo, có gặp khó khăn thì cũng phải thích nghi, hãy cố
gắng phấn đấu cải tạo lại nó không chê bai hay phủ nhận về nguồn gốc, cội nguồn của
chính mình “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh/ Sống trong thung không chê thung
nghèo đói”. Mượn lời người cha tâm tình với đứa con của mình, nhà thơ Y Phương
nhắc nhở về cội nguồn của mỗi con người, qua đó thể hiện niềm tự hào về sức sống bền
bỉ mạnh mẽ cùng với đó là phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, nguồn gốc, quê hương của
mình.
Từ phẩm chất của người đồng mình, Y Phương tiếp tục nói với con về ý chí và vẻ
đẹp truyền thống của người vùng cao:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.”
Nhà thơ đã phác họa chân thực, giản dị hình ảnh của người dân quê chân lấm tay bùn “
thô sơ da thịt”. Cuộc sống vất vả, khó khăn khiến cho vẻ ngoài của họ có vẻ ốm yếu
nhưng họ là nhưng người giàu chí khí và nghị lực “ không hề nhỏ bé”. Từ đó để khẳng
định và ngợi ca tinh thần cần cù, chịu khó trong lao động, sống giản dị, chất phác,
không hề “ nhỏ bé” tầm thường. Hơn thế nữa “người đồng mình” còn hiện lên với vẻ
đẹp tự lực, tự cường, dẫu có nghèo khó, cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn đủ
đường, “thô sơ da thịt” nhưng người đồng mình chẳng có mấy ai chấp nhận, khuất phục
mà họ đều tự trở nên mạnh mẽ trong công cuộc kiến thiết và xây dựng quê hương. Họ
mong ước xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp. Với lối nói độc đáo của người dân
tộc miền núi “ người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương”, người cha đã cho con
thấy tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn nguồn cội của “người đồng mình”. Chính những
con người ấy bằng sự lao động cần cù đã tạo nên những truyền thống, phong tục tập
quán tốt đẹp của dân tộc và quê hương. Để nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn
mạnh truyền thống của người đồng mình, lời của cha càng trở nên thật tha thiết:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”
Người cha đã nhắc con khi “lên đường” nghĩa là khi làm việc, khi thực hiện những mục
tiêu kế hoạch của mình dù khó khăn cũng không bao giờ được “nhỏ bé” nghĩa là đầu
hàng, khuất phục trước những khó khăn. Thay vào đó hãy kiên cường, bản lĩnh để sẵn
sàng đương đầu với những gian khó của cuộc đời. Phải biết lấy cốt cách giản dị, mộc
mạc của người lao động để vươn lên. Người cha mong con có đủ sức mạnh, niềm tin để
đối mặt với những khó khăn mà con sẽ phải gặp, cũng khuyên con bài học đạo lý làm
người, mong muốn con phải biết ơn và tự hào với dân tộc mình, quê hương mình, để đủ
tự tin, đủ sức mạnh để vững bước trên đường đời. Hai tiếng “nghe con” đầy trìu mến,
yêu thương kết thúc bài thơ với tấm lòng thương yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc
nhở ý chí tình của người cha đối với đứa con thân yêu của mình.
Đánh giá nội dung, nghệ thuật
Sử dụng thể thơ tự do, giọng điệu thiết tha trìu mến, biện pháp điệp, ẩn dụ, nhân
hóa, liệt kê…ngôn ngữ gần với ngôn ngữ đời thường, bài thơ là lời nhắn nhủ ân cần của
người cha với con mình cũng là nhắn nhủ mà mà bất kì người cha nào cũng muốn con
mình mang theo như một hành trang trong cuộc đời.
Kết bài
Ernest Hemingway từng nói: “Tất cả các tác phẩm nghệ thuật đều có sự
bất tử của riêng nó. Bởi vì nó là sản phẩm bền vững nhất của lao động và trí tuệ con
người.”. Rồi mai này các tranh tượng có thể tiêu tan, các đền đài có thể bị sụp đổ, chỉ có
những tác phẩm văn học chân chính mới có thể vượt qua được quy luật băng hoại của
thời gian để tồn tại vĩnh viễn và bài thơ Nói với con của Y Phương là một trong số các
tác phẩm như thế. Bài thơ là tình cảm, là lời nhắc nhở của người cha đối với con mình
và nhắc mỗi chúng ta phải biết tự hào, giữ gìn và phát huy truyền thống của dân tộc.
Đồng thời cũng cần phải biết yêu thương quê hương, gia đình mình và phải có ý chí,
nghị lực vươn lên trước những chướng ngại của cuộc đời. Chúng ta, những thế hệ chủ
nhân tương lai của đất nước, hãy học tập thật tốt, để xây dựng đất nước ngày một giàu
đẹp, để thực hiện lời dạy, niềm mong mỏi và hạnh phúc của cha mẹ mình.

PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ


– Phần một (khổ 1,2): Cảnh đoàn thuyền ra khơi, bắt đầu hành trình đánh
bắt cá xa bờ ( Vẻ đẹp của biển cả khi hoàng hôn buông xuống và hình ảnh
người dân vùng biển lúc ra khơi)
– Phần hai (khổ 3,4,5,6): Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển, mang khí thế
lao động hào hùng
– Phần ba (khổ thơ cuối): Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong khung
cảnh thiên nhiên tráng lệ.
Mở bài
Xantưkôp Sêđrin đã từng nói: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự
băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Vậy điều gì đã khiến các tác
phẩm nghệ thuật bất tử? ở tài năng hay ở tấm lòng của người cầm bút? Phải
chăng, văn chương muôn đời là nơi mà người nghệ sĩ đã mang hiện thực vào
trang viết của mình bằng tất cả tấm chân tình mà ẩn sâu trong đó là những tư
tưởng, thông điệp quý báu để gửi gắm đến độc giả và nhà thơ Huy Cận cũng là
một trong số những người nghệ sĩ như thế. Nếu trước Cách mạng tháng Tám, Huy
Cận được xem là nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới, với hồn thơ cô đơn ảo
não vào bậc nhất qua những tập thơ nổi tiếng như Lửa Thiêng, Vũ trụ ca....thì sau
Cách mạng, ông nhanh chóng hòa mình vào công cuộc kháng chiến vĩ đại của dân
tộc. Hòa bình lập lại, Huy Cận viết nên những trang thơ ấm áp của cuộc sống tươi
đẹp. Đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận sáng tác vào năm 1958 sau một lần tác
giả đi thực tế dài ngày ở vùng biển Quảng Ninh, tác phẩm giúp người đọc thấy
được không khí lao động hân hoan, hứng khởi, của những người lao động trong
thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa và niềm vui, niềm tự hào nhà thơ trước khung
cảnh thiên nhiên tráng lệ của đất nước.
Thân bài
Nếu ngoại hình là điều đầu tiên thu hút đôi mắt của người nhìn, bìa
sách với cách bố cục hình ảnh, màu sắc là thứ thôi thúc người mua, bút danh làm
nên phong cách thì nhan đề chính là thứ làm nên linh hồn của một tác phẩm.
Thông qua nhan đề, ta có thể phần nào hiểu được ý nghĩa tư tưởng mà mỗi nhà
văn gửi gắm trong đứa con tinh thần của mình. Nhan đề bài thơ "Đoàn thuyền
đánh cá" cũng mang một ý nghĩa sâu sắc như thế. Tác giả sử dụng hình ảnh "đoàn
thuyền" chứ không phải là "con thuyền", nghĩa là không chỉ có một con thuyền
mà rất nhiều những chiếc thuyền cùng nhau ra khơi đánh bắt. Điều đó cho thấy
tinh thần đoàn kết, sức mạnh cộng đồng trong lao động của nhân dân ta. Họ cùng
nhau lao động dựng xây nên cuộc sống mới qua đó thể hiện sự tự hào của nhà thơ
trước đất nước và cuộc sống. Ngay câu thơ mở đầu bài thơ, người đọc dường như
đã nghe thấy âm hưởng bài ca lao động ngân vang, khoẻ khoắn trong cảnh đoàn
thuyền ra khơi trong thời khắc màn đêm dần buông xuống
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Khác với cuộc sống của những ngành nghề khác, họ đi làm vào ban ngày và trở
về vào buổi tối thì những người ngư dân trên biển lại bắt đầu làm việc khi mọi
người ai nấy đã trở về nhà, đó là lúc hoàng hôn buông xuống, mặt trời đỏ rực như
một quả cầu lửa đang chìm dần xuống đáy đại dương để lại trên biển và phía chân
trời một màu tím của hoàng hôn. Nghệ thuật so sánh "Mặt trời xuống biển như
hòn lửa" và “hòn lửa” ấy đang từ từ lăn xuống biển. Bầu trời và mặt biển bao la
như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc phủ bóng tối mịt mù. Những con sóng,
như những chiếc "then cài" của ngôi nhà vĩ đại ấy. Cảnh vật như trở về trạng thái
nghỉ ngơi yên tĩnh và màn đêm kia như thử thách lòng cam đảm của con người.
Và trong hoàn cảnh ấy ta bắt gặp hình ảnh: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”.
Phép tu từ hoán dụ "đoàn thuyền đánh cá" nói về những ngư dân đang bắt đầu
một ngày lao động mới. Chữ "lại” trong ý thơ "lại ra khơi" là sự khẳng định nhịp
điệu lao động của những người dân chài đã ổn định, đi vào nề nếp, được lặp đi lặp
lại trong cuộc sống hàng ngày. Qua đó thể hiện tinh thần lao động hăng say, chủ
động mạnh mẽ, đầy tin tưởng quên cả mệt mỏi, quên cả thời gian của những ngư
dân, những con người lao động trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc. Trong đêm tối mặt biển bỗng trở nên nhộn nhịp bởi tiếng hát của những
người ngư dân cất lên. "Câu hát" gợi nên vẻ thanh bình mà cũng không kém phần
nhộn nhịp. Người lao động ra khơi trong một tâm thế lạc quan, yêu đời, yêu cuộc
sống, nên vừa ra khơi họ vừa hát. Hát để lấy sức căng buồm, hát để chèo thuyền,
lái thuyền, hát để mọi người cảm nhận được niềm vui sướng trong mỗi chuyến tàu
ra khơi.
"Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!"
Câu hát vang vọng đất trời, tạo niềm tin cho người lao động vùng biển, ngợi ca sự
giàu có và hào phóng của biển với cá bạc, cá thu… đi thành từng đoàn như những
chiếc thoi đưa dệt nên những tấm vải lớn lấp lánh muôn màu sắc gợi ra vẻ đẹp
lung linh, diệu kỳ của biển trong đêm. "Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng",
hình ảnh của những chiếc thuyền đánh cá trong đêm với ánh sáng từ nhiều nguồn
khác nhau rọi xuống: ánh sáng từ trăng, ánh sáng từ những chiếc đèn của ngư
dân…tạo nên vùng sáng long lanh dưới mặt nước. Chính vùng sáng đó đã tạo cho
mặt biển lấp lánh mà tác giả đã khéo léo tưởng tưởng như những sắc màu đang
được bàn tay mảnh mai của con người “dệt” nên những tấm lụa phát sáng ngay
trên mặt biển.
"Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi"
câu thơ như lời mời gọi đoàn cá vào lưới đồng thời ngợi ca về vùng biển giàu có
nước ta và thể hiện mong muốn thu được mẻ cá lớn để cuộc sống được ấm no, vui
tươi. Bằng sự quan sát tinh tế, kết hợp với việc sử dụng bút pháp lãng mạn và sự
liên tưởng phong phú của nhà thơ mà bức tranh thiên nhiên hiện lên vừa thực lại
vừa ảo, gợn ấn tượng về vẻ đẹp khó cưỡng của thiên nhiên, vẻ đẹp ấy đã làm
giảm bớt nỗi nhọc nhằn vất vả, đem lại niềm vui và sức mạnh cho con người đang
chinh phục thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
Tác giả không chỉ quan sát, lắng nghe những âm thanh, nhịp điệu cuộc sống
của ngư dân vùng biển mà nhà thơ như nhập thân vào cảnh vào người để cảm
nhận công việc của những ngư dân nơi đây:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Đoàn thuyền đánh cá ra khơi có gió làm bánh lái, vầng trăng khuyết trên trời cao
đã trở thành cánh buồm. Gió và trăng đã trở thành hai bộ phận của con thuyền
giúp sức cùng ngư dân đưa đoàn thuyền ra khơi. Sự hòa hợp giữa con người và
thiên nhiên tạo nên vẻ đẹp thơ mộng, huyền ảo . Trước mắt nhà thơ đoàn thuyền
đánh cá giống như những con thuyền thơ lướt nhẹ trên mặt biển và chở đầy trăng
sao những con thuyền ấy cùng với những người ngư dân đang "Ra đậu dặm xa dò
bụng biển". Những người ngư dân của thời đại mới thực sự làm chủ biển khơi,
làm chủ cuộc đời, họ trang bị phương tiện tiên tiến, hiện đại ra khơi để thăm dò
"bụng biển" đánh bắt tài nguyên đem về xây dựng đất nước. Bằng trí tưởng tượng
phong phú kết hợp cách nói khoa trương gợi ra trước mắt người đọc hình ảnh
đoàn thuyền đánh cá đang "Dàn đan thế trận lưới vây giăng." Những con thuyền
to lớn, tư thế hùng dũng, hiên ngang, giống như những thuyền chiến còn con
người đang thả lưới vây giăng chuẩn bị bước vào trận chiến đấu mới trên mặt trận
lao động. Nhà thơ đã nâng tầm vóc con người lên sánh ngang cùng biển rộng vũ
trụ. Đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc
biển như thuộc lòng bàn tay. Bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng, thuộc cả thói
quen của chúng:

"Cá nhụ cá chim cùng cá đé,


Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăng
vàng. Bài ca "gọi cá" vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng
thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền, như "gõ nhịp" phụ
họa cho tiếng hát. Trăng chiếu sáng cho người kéo được những mẻ cá đầy. Biển
cả phong phú tài nguyên và vô cùng giàu có. Những loài cá là linh hồn của biển
cả. Bút phát liệt kê cá nhụ, cá chim, cá đé…ngợi ca sự giàu có của biển cả. Bức
tranh thơ không chỉ thể hiện sự giàu có của biển mà còn lung linh những màu sắc.
Những chú cá song lấp lánh dưới ánh trăng, màu đen hồng kết hợp màu vàng
chóe tạo cảm giác ấm áp.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long."
Cách dùng đại từ "em" thể hiện tình cảm trìu mến, thân thương của tác giả. Nhà
thơ tỏ thái độ trân trọng, nân niu thành quả lao động. Giữa mặt biển đêm bao la,
mênh mông, từng con sóng nhấp nhô chạy vào bờ, tâm hồn nhà thơ như hòa nhập
với cái mênh mông, vô tận của thiên nhiên. Trong những giây phút lắng đọng của
tâm hồn, Huy Cận nghe được cả tiếng thở của đêm: "Đêm thở: sao lùa nước Hạ
Long". Bằng bút pháp lãng mạn, Huy Cận đã có sự tưởng tượng phong phú, độc
đáo. Những con sóng nhấp nhô, đều đặn như hơi thở từ trên lồng ngực khổng lồ
của biển cả. Hòa trong hơi thở đó, có cả ánh trăng, cả bóng sao lung linh in hình
trên mặt biển hiền hòa theo những con sóng hội tụ trên mặt biển bao la. Có thể
nói, bằng tâm hồn hết sức tinh tế, tác giả đã cảm nhận được hơi thở của thiên
nhiên, vũ trụ. Chính không khí say sưa xây dựng đất nước của những năm đầu
khôi phục và phát triển kinh tế là cơ sở hiện thực của những hình ảnh lãng mạn
trên. Dấu hai chấm giữa dòng thơ như sự giải thích độc đáo, làm ta có cảm giác
không chỉ là gió tạo nên những con sóng nhấp nhô mà chính những vì tinh tú trên
bầu trời in hình xuống mặt nước tạo nên những con sóng "sao lùa nước". Câu thơ
đậm chất gợi tả, tạo sự liên tưởng, lắng đọng sâu xa trong lòng người đọc. Biển
trở nên xinh đẹp, lôi cuốn... Phải có đôi mắt tinh tế, phải có tình yêu với thiên
nhiên, cuộc sống với con người nơi đây, nhà thơ mới có thể cảm nhận được vẻ
đẹp của thiên nhiên, của biển trời Việt Nam. Công việc đánh cá vào ban đêm
tưởng như là một công việc hết sức nặng nhọc nhưng thông qua cách cảm của tác
giả công việc ấy trở thành một hoạt động tập thể, có sự gắn kết giữa những người
lao động tạo thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên. Tác giả đã
dùng biện pháp nhân hóa hình ảnh của màn đêm “đêm thở”. Tiếng thở ấy, có lẽ là
tiếng thở của chính những con người lao động trên mặt biển để mang về những
sản phẩm sau một đêm dài lênh đênh nơi sóng nước. Màn đêm tĩnh mịch hòa
cùng tiếng thở của con người tự như chính màn đêm đang thở vậy. Một hình ảnh
đẹp mà lại rất gần gũi.
"Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào"
Những hình ảnh giản dị lần lượt hiện lên qua khổ thơ. Tiếng hát một lần nữa lại
được tác giả nhắc lại, phải chăng đó chính là tiếng hò dô của con người khi kéo
được mẻ cá nặng. Tiếng hát, cùng với tiếng nhịp thuyền gõ vào mạn thuyền để
gọi cá, vừa có lời bài hát, vừa có tiết tấu. Một hình ảnh đẹp hiện ra trước mắt ta
như một đoàn hợp xướng chuyên nghiệp trên sân khấu. Công việc đánh bắt cá
nặng nhọc nhưng dưới mắt Huy Cận bỗng trở nên nhẹ nhàng, êm ái. Người dân
chài không phải đang đánh cá mà là đang ca hát giữa biển trời. Lời hát mời gọi
đầy sức thuyết phục đã quyến rũ những chú cá đến với những chiếc lưới đầy “Ta
hát bài ca gọi cá vào”. Từ tiếng hát của ngư dân trở thành giai điệu lao động đầy
lạc quan, yêu đời của những con người mới trong buổi đầu xây dựng Chủ nghĩa
xã hội, thiên nhiên như đồng điệu:
"Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao".
Ánh trăng in hình trên mặt nước. Ánh trăng lung linh, huyền ảo, lấp lánh, trên mặt
biển rồi theo cơn sóng dập dờn vỗ vào mạn thuyền. Nghệ thuật nhân hóa "gõ
thuyền" như phụ họa trong giai điệu câu hát, thiên nhiên cùng với con người gõ
nhịp tình yêu cuộc sống - nhiệt tình lao động xây dựng cuộc sống. Phải có tình
yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống dạt dào, Huy Cận mới viết nên những vần thơ đẹp
như thế. Những vần thơ giàu sức biểu cảm:
"Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào".
Tác giả so sánh “Biển cho ta cá như lòng mẹ” nhằm khẳng định tấm lòng bao la
của biển cả như người mẹ hiền ngày đêm đem hết sự sống của mình để nuôi
dưỡng các con khôn lớn trưởng thành. Biển cả bao đời nay hào phóng ban tặng
cho con người biết bao tài nguyên, hải sản quý hiếm để nuôi dưỡng sự sống của
mỗi người chúng ta. Con người ngày đêm khai thác từ lòng đại dương biết bao
nguồn lợi lớn nhưng biển cả thì giống như người mẹ hiền cứ cho đi mà không hề
nuối tiếc. Câu thơ thể hiện lòng trân trọng, biết ơn sâu sắc của con người đối với
thiên nhiên, bờ biển quê mình đã nuôi dưỡng đem lại cho con người cuộc sống tốt
đẹp, đủ đầy no ấm và nuôi lớn con người suốt bao đời nay, từ thế hệ này tới thế
hệ khác.
Không mãi du hành, hát ca trên biển, nhà thơ trở về với công việc người
ngư dân. Cảnh kéo lưới, bắt cá được miêu tả vừa chân thực, vừa đầy chất thơ với
không khí khẩn trương, gấp gáp bởi bóng đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ
công việc càng sôi nổi, khẩn trương:
"Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Bao công lao vất vả đã được đền bù. Dáng người ngư dân với thế đứng chắc chắn,
dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng
trĩu. Động tác lao động mới thật là khỏe khoắn, bền bỉ. "Chùm cá nặng", là phần
thưởng cho sự cần cù, chịu khó, lao động miệt mài của những con người biết làm
chủ bản thân, làm chủ cuộc sống, làm chủ thiên nhiên. Bóng dáng họ in trên nền
trời hồng của buổi bình minh. Những tia nắng sớm vừa lóe lên ở phía chân trời
xa. Những tia nắng lúc đầu còn mong manh, yếu ớt một màu hồng nhạt phản
chiếu lên những chú cá, tạo một hình ảnh đầy ấn tượng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng."
Dưới ánh sáng của ngày mới, những chiếc vẩy bạc kết hợp với đuôi vàng tạo
thành một màu vàng trắng lấp lánh. Toàn khổ thơ sáng rực sắc màu của cá... Hình
ảnh thơ mang đến nguồn sống, niềm tin và hạnh phúc để chào đón một ngày mới.
Cảnh lao động đánh cá trên biển như bức tranh đẹp, rực rỡ. Thiên nhiên và con
người cùng nhịp nhàng trong sự vận hành của vũ trụ.
Sau những mẻ lưới nặng trĩu cá tôm, đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về
trong bình minh rực rỡ, tráng lệ. Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của người ngư dân
dạn dày sóng nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hoà trong gió, thổi
căng cánh buồm đưa đoàn thuyền ra khơi đêm trước, nay lại cùng đoàn thuyền
đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời rất hiện
thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa
cá về bến trước khi trời sáng
"Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
"Câu hát căng buồm" tác giả muốn nói tới sức mạnh của những con người lao
động, sự hòa hợp giữa thiên nhiên với con người. Thiên nhiên đang góp sức ủng
hộ con người. Câu hát thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, niềm vui trong lao
động, sự sôi nổi hào hứng cùng niềm tin vào một chuyến ra khơi thành công, tốt
đẹp. Cánh buồm no gió "căng" lên. “Tiếng hát, gió khơi, buồm căng” là ba chi tiết
nghệ thuật mang tính chất tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say và
khí thế ra khơi của ngư dân vùng biển. Đoàn thuyền bắt đầu trở về, phía sau là
ánh mặt trời bắt đầu nhô lên từ lòng đại dương xanh thẳm. Từ "chạy đua" làm nên
âm điệu thơ khẩn trương, nhanh chắc. Một cuộc chạy đua giữa con người và thiên
nhiên, cuộc chạy đua để giành lấy, tranh thủ sự dựng xây, cống hiến cho cuộc
sống ấm no, hạnh phúc và đoàn thuyền vừa đến bến cũng là lúc mặt trời rời khỏi
lòng đại dương, mở ra một ngày mới tươi đẹp:
"Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi".
Cảnh mặt trời đội biển rất lạ. Người đọc có cảm giác như mặt biển được nâng cao
theo từng con sóng, xóa tan màn đêm. Một đêm lao động đã kết thúc, ngư dân xếp
lưới và hạnh phúc với thành quả lao động vừa thu được. Nhà thơ đã sử dụng cách
nói cường điệu trong câu thơ: "Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi". Dưới ánh
nắng mặt trời, những đôi mắt cá lấp lánh như hàng nghìn ánh mặt trời bé con.
Thiên nhiên rực rỡ một mặt trời to lớn, sáng lạng; con người có trong tay muôn
nghìn mặt trời nhỏ lấp lánh, huy hoàng... tất cả góp phần ca ngợi và thể hiện tình
yêu lao động, tình yêu thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí
thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động khi đất nước quê hương đã
được giải phóng và họ đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời. Một ngày mới
tươi vui, một cuộc đời mới đang sinh sôi, nảy nở.
Đánh giá nội dung và nghệ thuật
Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn, kết hợp với các biện pháp so sánh, nhân
hóa, liệt kê, ngôn ngữ độc đáo, phong phú giàu sức gợi, hình ảnh chân thực, giọng
thơ sôi nổi, khẩn trương, tạo âm hưởng khỏe khoắn, hào hung…tất cả nhằm ca
ngợi cuộc sống lao động tập thể của người dân chài trong công cuộc xây dựng đất
nước trong thời đại mới, đồng thời thể hiện niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ
trước vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên, là lòng biết ơn tới sự hào phóng
của thiên nhiên và tầm vóc lớn lao của người lao động.
Kết bài
Ernest Hemingway từng nói: “Tất cả các tác phẩm nghệ thuật đều có
sự bất tử của riêng nó. Bởi vì nó là sản phẩm bền vững nhất của lao động và trí
tuệ con người.”. Rồi mai này các tranh tượng có thể tiêu tan, các đền đài có thể bị
sụp đổ, chỉ có những tác phẩm văn học chân chính mới có thể vượt qua được quy
luật băng hoại của thời gian để tồn tại vĩnh viễn. Bài thơ đoàn thuyền đánh cá của
tác giả Huy Cận là một trong số những tác phẩm như thế, tác phẩm có được sức
sống trong lòng độc giả bởi đó là một bài ca vui trong lao động thể hiện tình yêu
lao động, yêu thiên nhiên, đất nước con người.
Mở bài tham khảo
Mỗi một tác phẩm mà các nhà văn, nhà thơ viết lên đều bắt nguồn từ
những cảm hứng nghệ thuật vô tận, những cảm hứng ấy được tác giả lấy ra từ
chính hiện thực cuộc sống của con người. Chính bởi thế, mà mỗi tác phẩm ta đọc,
thường sẽ luôn gắn liền với cuộc sống xung quanh, gắn với cuộc đời, số phận của
từng số phận, với cảm xúc cá nhân của người viết. Văn học là nơi tái hiện lại cuộc
sống con người, và khởi nguồn của sáng tạo nghệ thuật chính là cuộc sống, người
viết là người tái hiện lại hiện thực ấy trong tác phẩm của mình qua một quá trình
dài chọn lọc, tích lũy những kiến thức về cuộc sống đời thực, con người.
Mở bài tham khảo
Cuộc sống là muôn hình vạn trạng, là cung bậc cảm xúc mà ta phải trải qua.
Mỗi tác giả là một phong cách, một quá trình đi tìm cảm hứng cho riêng mình.
Nguyễn Du vì thương xót cho số phận và tài năng của Tiểu Thanh, đã viết tác
phẩm ''Độc Tiểu Thanh kí'', hay nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã sẻ chia, cảm
thông trước nỗi đau bị phá hủy đi tác phẩm tuyệt vời của Vũ Như Tô trong tác
phẩm ''Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài'', hay tiếng đàn của Lor-ca đã trở thành nguồn
cảm hứng sáng tác cho bài thơ ''Đàn ghi ta của Lor-ca" của nhà thơ Thanh Thảo.
Cả ba bài thơ ấy đều được sáng tác từ nỗi lòng thương xót, thấu hiểu cho số phận,
nghịch cảnh của nhân vật, nỗi xót xa mà tác giả dành cho nhân vật ấy, cũng có thể
nói chính các nhân vật trong các tác phẩm đã tạo nên nguồn cảm hứng sáng tạo
nghệ thuật của tác giả.
PHÂN TÍCH BÀI THƠ VIẾNG LĂNG BÁC
Luận điểm 1: Cảm xúc khi đứng trước lăng Bác
Luận điểm 2: Cảm xúc của tác giả nhìn dòng người vào lăng viếng Bác Luận
điểm 3: Cảm xúc khi vào trong lăng viếng Bác
Luận điểm 4: Cảm xúc khi rời lăng Bác và ước nguyện chân thành của tác
giả
Mở bài
Xantưkôp Sêđrin đã từng nói: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự
băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Vậy điều gì đã khiến các tác
phẩm nghệ thuật bất tử? ở tài năng hay ở tấm lòng của người cầm bút? Phải
chăng, văn chương muôn đời là nơi mà người nghệ sĩ đã mang hiện thực vào
trang viết của mình bằng tất cả tấm chân tình mà ẩn sâu trong đó là những tư
tưởng, thông điệp quý báu để gửi gắm đến độc giả và nhà thơ Viễn Phương cũng
là một trong số những người nghệ sĩ như thế. Bài thơ Viếng lăng Bác của ông là
bài thơ đem lại nhiều xúc động đối với độc giả, bài thơ thể hiện sự đau đớn, tiếc
thương, nhung nhớ, những xúc cảm chân thành của một người con nơi phương xa
có dịp về thăm Bác.
Thân bài
Bài thơ được sáng tác vào năm 1976, ngay sau khi cuộc kháng chiến
chống Mỹ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, đồng thời lăng Bác cũng vừa
khánh thành, Viễn Phương đã vinh dự là một trong những người con đầu tiên của
miền Nam ra thăm miền Bắc và vào viếng lăng Bác. Chuyến viếng thăm đã để lại
trong lòng tác giả Viễn Phương nhiều kỷ niệm khó quên, ông đã ghi lại cảm xúc
của mình qua những vần thơ thiết tha bày tỏ niềm thành kính và nỗi xúc động khi
được ra thăm lăng Bác. Bài thơ mở đầu thật tự nhiên, như một lời kể chuyện mà
chứa chan trong đó là biết bao tình cảm của nhà thơ:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Câu thơ đầu tiên vang lên như một lời chào, lời giới thiệu về hành trình của
những đứa con từ miền Nam ra thủ đô thăm Bác, nhà thơ xưng hô “con - Bác” gợi
cảm giác gần gũi thân thương, gợi mối quan hệ gắn bó như cha con ruột thịt vì thế
trong câu thơ này, nhà thơ không dùng từ “viếng” mà đã dùng từ “thăm”, một
cách nói giảm, nói tránh để làm giảm bớt cảm xúc mất mát đau thương chưa thể
nguôi ngoai của nhà thơ và của cả dân tộc. Ấn tượng đầu tiên của nhà thơ khi
đứng từ xa nhìn về phía lăng Bác là hình ảnh hàng tre ẩn hiện trong sương trên
quảng trường Ba Đình lịch sử, hình ảnh ấy gợi lên một không khí thiêng liêng gợi
hình ảnh thân thuộc gần gũi của làng quê Việt Nam. Chẳng phải tự nhiên mà nhà
thơ ấn tượng với hình ảnh những hàng tre bởi tre là loài cây dẻo dai, bất chấp mọi
khó khăn của thiên nhiên mà chúng vẫn kiên cường chính vì vậy nó đã thành biểu
tượng cao đẹp nhất của người dân Việt Nam. Hình ảnh tre đã có trong “Cây tre
Việt Nam” của Nguyễn Duy hay “Tre Việt Nam” của Thép Mới đều mạnh mẽ
như vậy và hàng tre trong bài thơ này cũng không ngoại lệ: "Bão táp mưa sa đứng
thẳng hàng”. Cây tre với dáng đứng thẳng, sống được ở nơi đất sỏi và đất bạc
màu, tượng trưng cho sự mạnh mẽ phi thường, sự cần cù, chịu thương chịu khó,
sự kiên cường bất khuất, vượt qua “bão táp mưa sa” để thống nhất đất nước theo
di nguyện của Người, rồi trở về nghiêng mình kính cẩn trước anh linh của Người.
Thán từ “Ôi!” như để bộc lộ một cảm xúc mãnh liệt, tha thiết khi nhìn thấy lại
hàng tre bất khuất muôn thuở trong kháng chiến ngày nào của dân tộc khi mà
"Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”. Tre của Viễn
Phương còn ẩn dụ cho những người lính canh tận tụy canh giữ chốn thiêng liêng,
bảo vệ giấc ngủ của Người.
Nếu ở khổ thơ thứ nhất, tác giả thể hiện những ấn tượng cảm xúc của mình
khi về thăm Bác thì khổ thơ thứ hai nhà thơ đã thể hiện sự trân trọng, ngợi ca
cũng như là tình cảm của triệu triệu trái tim đang hướng về Người
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Bằng hình ảnh ẩn dụ “mặt trời” nhà thơ đã khẳng định tầm vóc vĩ đại của Hồ Chủ
Tịch. Nếu như mặt trời của thiên nhiên mang đến cho muôn loài ánh sáng, sự
sống, mang trái đất ra khỏi bóng đêm lạnh lẽo, là nguồn sống của muôn loài cây
cỏ, thì Bác chính là ánh dương, là nguồn sống cho con người, Bác đã soi sáng con
đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước Việt Nam. Bác đã dùng cả cuộc
đời mình cống hiến cho lý tưởng cách mạng vĩ đại, đưa đất nước ra khỏi bóng tối
lầm than và khổ cực suốt mấy mươi năm bị đô hộ bằng ánh sáng của cách mạng,
bằng tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể nói rằng hình ảnh của Người luôn có một vị
trí vô cùng quan trọng trong trái tim của mỗi người dân Việt. Sau khi khẳng định
tầm vóc, vị trí của Bác trong trái tim mỗi người dân Việt nhà thơ tiếp tục bộc lộ
tấm lòng tiếc thương vô hạn của hàng triệu những con người Việt Nam đối với
người cha già vĩ đại.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Thời điểm nhà thơ viết bài thơ này, Bác đã đi xa được 7 năm, nhưng những nỗi
nhớ niềm thương của mọi người đối với Bác không hề vơi cạn theo thời gian. Ở
nơi đó, lúc nào cũng có hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ”, không kể
người già hay trẻ, cứ nối tiếp “ngày ngày”. Từ ngày được lặp lại, tức là sự liên tục
của thời gian, sự lặp lại tuần hoàn của thiên nhiên cũng nhằm diễn tả sự lặp lại
của cuộc sống, của dòng người từ khắp nơi trên đất nước này đang lặng lẽ vào
lăng thăm Người. Dòng người đi trong sự trang nghiêm và tĩnh lặng, trong nỗi
tiếc thương, đau xót vô vàn. Ở đây, tác giả không dùng từ đoàn người, mà là dòng
người. Điều này khiến cho người đọc như cảm thấy được sự tĩnh lặng, sự trải dài
miên man vô tận của những người vào viếng Bác. Cả dòng người ấy cứ lặng lẽ
“đi trong thương nhớ”, thương nhớ người cha già, vị lãnh tụ vĩ đại vô vàn kính
yêu của dân tộc. Dòng người ấy đã trở thành một tràng hoa dài vô tận để dâng lên
Bác Hồ, thể hiện tấm lòng tôn kính, đau xót khôn nguôi đối với sự ra đi mãi mãi
của Bác. Câu thơ “Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” không chỉ bộc lộ
tình cảm của những người ở lại trước vong linh Hồ Chủ Tịch mà nó còn nhằm
khẳng định nhấn mạnh những hy sinh to lớn của Bác cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc, bảo vệ đất nước. Cả cuộc đời 79 mùa xuân, có lẽ rằng chưa một giây phút
nào Người thôi không suy nghĩ về vận mệnh dân tộc, cũng chưa từng sống riêng
cho bản thân mình, không vợ con, không tài sản…Nhưng đối với Người tài sản
quý giá nhất ấy chính là độc lập, là tự do cho dân tộc, và hàng triệu người dân
Việt Nam chính là người thân của Người. Cả cuộc đời hi sinh cho dân tộc, đến
những giây phút cuối của cuộc đời lòng Bác vẫn chỉ luôn trăn trở về chiến trường
miền Nam còn nhiều khó khăn, vất vả. Sau những căn dặn cuối cùng, Người cũng
chỉ muốn nghe một câu hò Nghệ Tĩnh, thèm nghe một câu ca Quan họ, để ít nhiều
còn được mang một chút hình dáng dân tộc về thế giới bên kia. Những mong
muốn của Người khiến mỗi chúng ta trân trọng và xót thương sâu sắc.Và sợi dây
tình cảm đáng quý ấy, cho đến ngày hôm nay vẫn chưa một lần nhạt nhòa đi, mà
chỉ ngày càng thêm sâu sắc hơn, ngày nay khi làm bất cứ việc gì người ta cũng
vẫn làm theo những lời răn dạy, dặn dò của Bác, đó cũng là một cách để tưởng
nhớ, tri ân, ghi khắc công lao của Người đối với đất nước này. Nhà thơ đã hòa
cùng dòng người ấy đem tấm lòng kính yêu chân thành của mình dâng lên Bác.
Cả khổ thơ là sự ca ngợi công ơn của Bác, đó cũng là niềm cảm kích, niềm biết
ơn vô bờ của tất cả mọi người dân Việt Nam dành cho Bác.
Và tiếp tục cuộc hành trình vào viếng thăm lăng Bác, giờ đây nhà thơ đã
được gặp gỡ Người cha già mà mình hằng yêu quý, kính trọng:
“Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng trong dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Nhà thơ sử dụng cách nói giảm, nói tránh để làm giảm bớt cảm giác đau thương
đang tràn ngập trong tâm hồn. Đối với nhà thơ hay với bất cứ ai, Bác chỉ như vừa
mới năm xuống, thưởng cho mình một giấc ngủ ngon “giấc ngủ bình yên” sau bao
ngày vất vả, khuya sớm lo cho vận mệnh của cả một dân tộc. Bác đang yên nghỉ
giấc ngủ ngàn thu giữa một vầng trăng hiền dịu. Ánh trăng như Bác vậy, luôn ấm
áp và dịu dàng, là tri âm tri kỷ với Người. Ánh trăng sáng trong ấy như nhân cách
vĩ đại của người, cao đẹp, gần gũi mà thân thương. Hình ảnh “trời xanh” và “ánh
trăng” là hình ảnh thực thể hiện sự trường tồn vĩnh cửu của thiên nhiên đồng thời
cũng là hình ảnh ẩn dụ cho tình cảm của nhân dân với Bác. Hình ảnh ấy kết hợp
với cặp quan hệ từ “vẫn biết – mà sao” diễn tả cảm xúc nghẹn ngào trào dâng.
Biết rằng Người sẽ luôn sống mãi trong lòng dân tộc nhưng sự thật Bác đã ra đi
mãi mãi vẫn khiến nhà thơ “nghe nhói ở trong tim”. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi
cảm giác “nghe nhói” nhấn mạnh niềm đau xót tột cùng của nhà thơ trước thực tại
rồi lại nghĩ đến ngày mai phải trở về, xa Bác, nỗi xúc động của tác giả cũng như
những người con miền Nam bật lên thành tiếng nấc vỡ òa:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Nếu như ở những khổ thơ trước, dù có xúc động, tiếc thương nhưng nhà thơ
vẫn kìm chế được, giờ đây, khi đến những giây phút sắp phải xa Người những
giọt nước mắt tiếc thương, nhung nhớ đã không thể kìm nén. Lời thơ vang lên đầy
nức nở, nghẹn ngào “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. Sự tiếc thương
chuyển thành niềm khát khao chân thành muốn ở gần Bác của tác giả được bộc lộ
mãnh liệt bằng một loạt động từ “muốn làm..”. Viễn Phương muốn làm con chim
nhỏ bé để hót những âm thanh thật trong trẻo cho Người nghe mỗi ngày, muốn
làm đóa hoa tỏa ngát hương thơm, làm cây tre thành kính, tôn nghiêm như người
lính canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Con chim, đóa hoa, cây tre là những
hình ảnh ẩn dụ chỉ những gì tinh túy tốt đẹp của thiên nhiên, thể hiện ước nguyện
xúc động của nhà thơ và toàn thể dân tộc, muốn được ở bên, canh giữ cho giấc
ngủ bình yên của Người. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh “cây tre trung hiếu” tạo
kết cấu đầu cuối tương ứng, khẳng định tấm lòng chung thủy, sắt son vô hạn với
Đảng, với Bác Hồ của đồng bào miền Nam, của cả dân tộc đối với Người.
Đánh giá nội dung, nghệ thuật
Bài thơ có sự kết hợp khéo léo giữa chất tự sự và trữ tình. Ngôn ngữ thơ
giản dị, mộc mạc, đậm chất Nam Bộ đồng thời sử dụng những hình ảnh thơ chân
thực gợi nhiều liên tưởng. Đặc biệt, sử dụng thành công các biện pháp nói giảm,
nói tránh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ...qua đó thể hiện cảm xúc đau đớn xót thương,
nỗi nhớ và tình cảm thiết tha, sự biết ơn thành kính của nhà thơ với Bác Hồ kính
yêu.
Kết bài
Ernest Hemingway từng nói: “Tất cả các tác phẩm nghệ thuật đều có
sự bất tử của riêng nó. Bởi vì nó là sản phẩm bền vững nhất của lao động và trí
tuệ con người.”. Rồi mai này các tranh tượng có thể tiêu tan, các đền đài có thể bị
sụp đổ, chỉ có những tác phẩm văn học chân chính mới có thể vượt qua được quy
luật băng hoại của thời gian để tồn tại vĩnh viễn. Bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn
Phương là một tác phẩm như thế. Bài thơ mãi mãi là tác phẩm đầy xúc cảm gửi
gắm những giá trị tốt đẹp vĩnh cửu mà nhà thơ và toàn thể dân tộc dành cho Bác,
là nén tâm hương kính dâng lên Người. Với bài thơ “Viếng lăng Bác” Viễn
Phương đã đóng góp không nhỏ cho thi ca đề tài về Bác. Chúng ta, những thế hệ
chủ nhân tương lai của đất nước, hãy học tập thật tốt, thực hiện theo năm điều
Bác dạy, đó là sự thành kính, tri ân đối với công lao của Người.
PHÂN TÍCH BÀI BẾP LỬA – BẰNG VIỆT
Mở bài
Xantưkôp Sêđrin đã từng nói: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng
hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Vậy điều gì đã khiến các tác phẩm nghệ
thuật bất tử? ở tài năng hay ở tấm lòng của người cầm bút? Phải chăng, văn chương
muôn đời là nơi mà người nghệ sĩ đã mang hiện thực vào trang viết của mình bằng tất
cả tấm chân tình mà ẩn sâu trong đó là những tư tưởng, thông điệp quý báu để gửi gắm
đến độc giả và nhà thơ Bằng Việt cũng là một trong số những người nghệ sĩ như thế.
Bài thơ Bếp lửa của nhà thơ đã thể hiện những cảm xúc chân thực của nhà thơ đối với
người bà kính yêu của mình,với gia đình, quê hương, đất nước đồng thời khẳng định
bếp lửa không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người. (trọng
tâm là gì thì lưu ý trọng tâm)
Thân bài
Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963, khi tác giả mười chín tuổi và
đang học ngành Luật ở Liên Xô, nhà thơ từng kể rằng: “Những năm đầu theo học luật
tại đây tôi nhớ nhà kinh khủng. Tháng 9 ở bên đó trời se se lạnh, buổi sáng sương khói
thường bay mờ mờ mặt đất, ngoài cửa sổ, trên các vòm cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở
quê nhà. Mỗi buổi dạy sớm đi học, tôi hay nhớ đến khung cảnh một bếp lửa thân quen,
nhớ lại hình ảnh bà nội lụi cụi dạy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai, củ sắn cho cả nhà”.
Hình ảnh đứa cháu cùng người bà đã trải qua cuộc sống khổ cực nhưng tràn ngập tình
yêu thương, chăm sóc, quan tâm, chở che trong những ngày bố mẹ đi làm xa và niềm
hạnh phúc bên bếp lửa ấm áp tình thương là nguồn cảm hứng để nhà thơ sáng tác bài
thơ này. Bài thơ gây ấn tượng với người đọc ngay từ nhan đề tác phẩm – bếp lửa, n han
đề ngắn gọn nhưng có ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Bếp lửa vốn dùng để đun nấu, là hình
ảnh quen thuộc của gia đình, làng quê Việt Nam. Mượn hình ảnh bếp lửa, nhà thơ muốn
gợi nhắc đến hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm cùng những kỉ niệm tuổi thơ gian khó
nhưng ấm áp bên bà. Không những vậy, nhan đề “bếp lửa” còn mang ý nghĩa biểu
tượng, gợi liên tưởng đến tình yêu, niềm tin, hi vọng mà bà đã nhen nhóm trong cháu.
Bếp lửa chính là biểu tượng của tình bà cháu thiêng liêng, tình cảm gia đình ấm áp và
tình yêu quê hương, đất nước thiết tha. Tác giả mở đầu bài thơ bằng hình ảnh bếp lửa
yêu thương
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Hình ảnh bếp lửa được khắc họa lên từ ba câu thơ đầu qua điệp ngữ “một bếp lửa” và từ
láy “chờn vờn” khiến ta có thể hình dung ra được một khung cảnh đơn sơ, giản dị
nhưng ấm áp, đầy ắp tình cảm. “Ấp iu” tuy là một từ ghép nhưng lại mang âm hưởng
của từ láy, vừa là sự kết hợp của ấp ủ và yêu thương, vừa gợi tả bàn tay chăm chỉ, cần
mẫn, khéo léo và tấm lòng đong đầy yêu thương của người nhóm lửa. Sự nồng đượm
kia không chỉ tả bếp lửa cháy đượm mà còn ẩn chứa tình cảm trân trọng của tác giả đối
với người đã chăm chút, nâng niu thắp lên ngọn lửa ấy. Ngọn lửa chứa bao niềm nhung
nhớ về bà, chứa bao kỉ niệm để từ đó bao nhiêu cảm xúc dồn nén lại và phút chốc vỡ
òa “cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Dù đã cách xa nửa vòng trái đất nhưng dường
như nhà thơ vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ bà. Trong cái
khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình
cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp
những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng
chính từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài
thơ.
Nếu khổ một nhà thơ nhắc đến bếp lửa, đến nỗi nhớ, tình thương với bà thì trong
khổ thơ thứ hai nhà thơ nhắc lại những kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà, đó là cuộc sống có
nhiều gian khổ, thiếu thốn nhọc nhằn:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay
Những dòng hồi tưởng của tác giả về những kỉ niệm, những năm tháng sống bên cạnh
bà lần lượt hiện ra. Nếu như trong câu chuyện cổ tích của những bạn cùng lứa khác có
bà tiên, có phép màu thì trong câu chuyện của nhà thơ có bà và bếp lửa. Trong những
năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan đi cái không khí
ghê rợn của nạn đói 1945, “mùi khói” từ bếp lửa của bà đã xua đi cái mùi tử khí ở khắp
các ngõ ngách. Hơn hai triệu người dân Việt Nam chết đói vì chính sách cai trị dã man
của phát xít Nhật, thực dân Pháp. Người sống thì “dật dờ như những bóng ma”. Cái đói
cơ hồ đã ám ảnh trong văn chương Việt Nam một thời, đói đến nỗi phải ăn đất sét
(trong văn Ngô Tất Tố), những trăn trở về miếng ăn luôn dằn vặt trang viết của Nam
Cao… Đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết trong một câu thơ đau đớn: “Cả
dân tộc đói nghèo trong rơm rạ”. Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” cũng phần
nào diễn tả được hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của gia đình tác giả trong cái khốn khó
chung của những người lao động. “Đói mòn đói mỏi”, “khô rạc ngựa gầy”, những chi
tiết đậm chất hiện thực đã tái hiện lại hình ảnh xóm làng xơ xác, tiêu điều cùng những
con người tiều tụy, vật lộn mưu sinh. Không trải qua cái đói quay quắt thì nhà thơ
chẳng thể viết được những câu thơ chân thực đến thế. Nhưng có lẽ ấn tượng nhất đối
với nhà thơ trong những năm đói khổ là mùi khói bếp của bà “mùi khói đã hun nhèm
mắt cháu” để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”. Khói bếp tuổi thơ đã “hun” đầy
trong khóe mắt, hun cả một vùng trời tuổi thơ nhọc nhằn. Chữ “cay” ở cuối câu thơ như
lắng lại, gieo vào lòng người nỗi buồn man mác. Và như một thước phim quay chậm,
những kỉ niệm gắn liền với hình ảnh người bà liên tiếp ùa về
“ Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp
Tu hú kêu trên những cách đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
“Tám năm ròng” là một quãng thời gian không dài đối với đời người nhưng lại là cả
tuổi thơ của cháu. “Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và của
tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng. Hình ảnh bà và bếp lửa
của tình bà cháu đã gợi ra một liên tưởng; một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ – tiếng
chim tu hú. Một tiếng chim đong đầy kỉ niệm đến nỗi tác giả phải thốt lên lời cảm thán
rằng “sao mà tha thiết thế”. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân
mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để
nhắc bà “kể chuyện những ngày ở Huế”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lần làm cho âm
điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ
xa vọng về trong tiềm thức của tác giả. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ
niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ
thương.
Kháng chiến bùng nổ, cha mẹ vắng nhà, bà chính là trụ cột gia đình, là chỗ dựa
tinh thần duy nhất cho đứa cháu thơ.
“Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cách đồng xa”
Bà thay cha mẹ chăm sóc, dạy bảo cháu nên người: “Mẹ cùng cha công tác bận không
về”, bà vừa là cha, lại vừa là mẹ: “bà bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu
học”. Chính bà là người đã nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu nên người. Bà hay kể chuyện
những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương
mất mát và cả những chiến công của dân tộc. Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho
cháu lớn lên. Một loạt những từ ngữ “bà bảo”, “bà dạy”,”bà chăm” vừa diễn tả một
cách sâu sắc tình thương bao la, sự chăm chút hết mình của người bà dành cho cháu,
vừa thể hiện được lòng biết ơn của cháu đối với bà. Tình yêu và kính trọng bà của tác
giả được thể hiện thật chân thành, sâu sắc: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.
Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bếp lửa
của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ, kỉ niệm gắn với
tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải
một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong. Phải chăng
đó chính là tiếng đồng vọng của đất trời để an ủi, sẻ chia với cuộc đời lam lũ của bà?
Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà – Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”
mới thấm thía làm sao, xót xa làm sao! Nó diễn tả nỗi lòng da diết của tác giả khi nhớ
về tuổi thơ, nhớ về bà. Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà
trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là
sự bộc bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp
lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả
bài thơ nhuốm phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như
trong chuyện cổ tích.
Trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó khăn, ác liệt, biết bao
nhiêu đau thương mất mát vẫn luôn in sâu trong tâm trí của người cháu. Và có một kỉ
niệm trong hồi ức mà người cháu chẳng bao giờ quên được dù đã lớn khôn:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Nỗi khổ sở, đau đớn khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm
làng, bà vẫn âm thầm chịu đựng, tự gắng gượng đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm bọc,
giúp đỡ của dân làng. Bà không muốn người con ở chiến khu biết được việc ở nhà mà
ảnh hưởng đến công việc trong quân ngũ. Đó phải chẳng là phẩm chất cao quý của
những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh. Ta đọc ở đây sự hi sinh thầm
lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu phương luôn muốn gánh vác
cùng con cháu, cùng đất nước để đánh đuổi giặc giã xâm lăng, đem lại bầu trời t ự do
cho dân tộc. Lời dặn dò của người bà vẫn được cháu “đinh ninh” nhớ mãi trong lòng,
được trích nguyên văn được nhắc lại trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố càng cho
thấy phẩm chất đáng quí biết bao của người bà. Vì thế, đến đây ta mới thấy được hết tất
cả công lao to lớn của người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm
lược. Có được thắng lợi ấy không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính
trên mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở
hậu phương. Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của
mình, người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh
bếp lửa:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Từ “bếp lửa” bài thơ đã gợi đến “ngọn lửa” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát. Bếp
lửa bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều tà không đơn giản chỉ bằng
nguyên liệu của tự nhiên, mà cao hơn đã được tác giả nâng lên thành biểu tượng cho
tình yêu thương và niềm tin trong sáng, mãnh liệt. Điệp ngữ “một ngọn lửa” vừa có ý
nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng bất diệt của ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện
tình yêu thương mà người bà dành cho cháu. Ngọn lửa chính là hình ảnh thể hiện cho
tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống phi thường của người bà. Vì thế, bà không chỉ là
người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người tiếp lửa, truyền lửa cho người cháu thân yêu.
Đó là ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế hệ nối tiếp.
Không chỉ nói về tình yêu thương của bà dành cho cháu, tác giả tiếp tục khẳng
định phẩm chất cao quí của bà: tần tảo, giàu đức hi sinh và giàu lòng nhân ái:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi lên cuộc đời của bà vất vả, gian truân, lận đận nhưng
vẫn sáng lên những phẩm chất thiêng liêng, cao quí của người phụ nữ Việt Nam. Điệp
từ “nhóm” (4 lần) bao gồm rất nhiều nghĩa, nói lên ý nghĩa cao cả của công việc mà bà
vẫn làm mỗi sớm sớm, chiều chiều: Bà là người nhóm lửa và cũng là người giữ cho
ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong mỗi gia đình. Từ “ấp iu nồng đượm” gợi tả công
việc nhóm bếp và ngọn lửa luôn đượm than hồng bởi bàn tay khéo léo, cần mẫn của bà.
Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai còn nhóm lên cả niềm yêu thương, sự sẻ chia chung vui
và tâm tình tuổi nhỏ của người cháu. Đến đây, hành động nhóm lửa của bà đâu đơn
thuần chỉ là hành động nhóm bếp thông thường nữa mà cao hơn nó đã thành hình ảnh
ẩn dụ biểu trưng cho ý nghĩa của công việc nhóm lửa của bà. Qua hành động nhóm lửa,
bà muốn truyền lại cho người cháu hơi ấm của tình yêu, sự sẻ chia với mọi người làng
xóm xung quanh. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà đã gợi dậy cả những kí ức tuổi
thơ trong lòng của người cháu để cháu luôn nhớ về nó và đó cũng chính là luôn khắc
ghi nhớ tới cội nguồn quê hương, đất nước của dân tộc mình. Từ đó bếp lửa trở nên kì
lạ, thiêng liêng “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Từ cảm thán “Ôi” kết hợp với nghệ
thuật đảo ngữ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như phát hiện ra chân lí, điều kì diệu
giữ cuộc đời bình dị. Bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rực cháy, bất tử
thiêng liêng.
Khổ thơ kết thúc bài thơ chính là lời bộc bạch chân thành của người cháu khi đã
lớn khôn, trưởng thành
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở:
– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ. Tuổi thơ đã lùi xa,
đứa cháu nhỏ năm xưa giờ đã lớn khôn, đã được chắp cánh bay cao, bay xa đến những
chân trời cao rộng có “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”. Tuy thế,
cháu vẫn khôn nguôi nhớ về bà và bếp lửa quê hương, nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa
hai bà cháu có nhau.
“Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa “khói lửa” của cuộc sống hiện đại với bếp
lửa bình dị, đơn sơ của bà đã cho thấy sức sống bất diệt của ngọn lửa mà bà nhóm lên
trong mỗi sớm chiều luôn thường trực và sống mãi trong lòng của người cháu. Ngọn
lửa ấy đã trở thành kỉ niệm của tuổi thơ về bà – một người truyền lửa, truyền sự sống,
tình yêu thương và niềm tin “dai dẳng” bất diệt cho thế hệ tiếp nối. Chính vì thế nhớ về
bà là nhớ về bếp lửa, nhớ về cội nguồn dân tộc. Bài thơ khép lại bằng câu hỏi tu từ thể
hiện nỗi nhớ khôn nguôi cũng là lời khẳng định của tác giả với bà, cháu sẽ không bao
giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của
cháu được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó. Bà và quê hương yêu dấu là điểm tựa, là chỗ
dựa tinh thần vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời.
Đánh giá nội dung và nghệ thuật
Bài thơ sử dụng thể thơ tự do, kết hợp với biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, điệp từ,
điệp ngữ, liệt kê…ngôn ngữ gần với ngôn ngữ đời thường, giọng điệu tâm tình, tha
thiết; nhịp điệu thơ linh hoạt tất cả nhằm thể hiện tình cảm của người cháu đối với bà
đồng thời thể hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người
đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và
bình dị nhất.
Kết bài
Ernest Hemingway từng nói: “Tất cả các tác phẩm nghệ thuật đều có sự
bất tử của riêng nó. Bởi vì nó là sản phẩm bền vững nhất của lao động và trí tuệ con
người.”. Rồi mai này các tranh tượng có thể tiêu tan, các đền đài có thể bị sụp đổ, chỉ có
những tác phẩm văn học chân chính mới có thể vượt qua được quy luật băng hoại của
thời gian để tồn tại vĩnh viễn. Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt là một tác phẩm như thế,
bài thơ khiến người đọc cảm thấy thật thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ nhung da diết
về những kỉ niệm ấu thơ và tình cảm của nhà thơ đối với người bà kính yêu. Qua đó,
chúng ta càng cảm thấy yêu, càng cảm thấy trân trọng hơn tình cảm đối với gia đình,
với quê hương, đất nước. Từ đó, ta mới thấy được lời bài hát của nhạc sĩ Trung Quân,
thật ý nghĩa biết chừng nào:
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người…”

PHÂN TÍCH BÀI THƠ ÁNH TRĂNG CỦA NGUYỄN DUY


Mở bài
Xantưkôp Sêđrin đã từng nói: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ
mình nó không thừa nhận cái chết”. Vậy điều gì đã khiến các tác phẩm nghệ thuật bất
tử? ở tài năng hay ở tấm lòng của người cầm bút? Phải chăng, văn chương muôn đời là
nơi mà người nghệ sĩ đã mang hiện thực vào trang viết của mình bằng tất cả tấm chân
tình mà ẩn sâu trong đó là những tư tưởng, thông điệp quý báu để gửi gắm đến độc giả
và nhà thơ Nguyễn Duy cũng là một trong số những người nghệ sĩ như thế. Bài thơ Ánh
Trăng của nhà thơ đã thể hiện những cảm xúc chân thực của ông đối với vầng trăng
của tuổi thơ đồng thời như một lời nhắc nhở con người phải biết sống có tình có nghĩa,
phải biết yêu thương và quý trọng nhau, phải biết chia sẻ ngọt bùi, và không được quên
đi quá khứ. (trọng tâm là gì thì lưu ý trọng tâm)
Thân bài
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu
nước. Thế hệ này từng trải qua bao thử thách, gian khổ của chiến tranh, chứng kiến bao
hi sinh lớn lao của đồng đội nói riêng và nhân dân ta nói chung trong cuộc chiến. Bài
thơ “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978, tại thành phố Hồ Chí Minh nơi
đô thị của cuộc sống tiện nghi hiện đại, nơi những người từ trận đánh trở về đã để lại
sau lưng cuộc chiến gian khổ mà nghĩa tình. Người lính chiến từ giã chiến trường trở về
giữa phố thị, sống trong cảnh hòa bình, đất nước đổi mới, trong lúc đó dường như sự đủ
đầy vật chất, cuộc sống bộn bề đã khiến con người ta vô tình quên đi những năm tháng
gian khổ nhưng ân tình thủy chung. Nhan đề bài thơ thật ngắn gọn nhưng chứa đựng
một nội dung sâu sắc. Ánh trăng không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước bình dị,
hiền hậu mà nó còn là một thứ ánh sáng diệu kỳ. Ánh sáng ấy có thể len lỏi vào những
nơi khuất lấp trong tâm hồn con người để thức tỉnh họ nhận ra những điều sai trái,
hướng con người ta đến với những lẽ sống cao đẹp - lẽ sống “uống nước nhớ nguồn”,
ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ. Hình ảnh ánh trăng trong thơ không phải là hình
ảnh mới mà đã từng xuất hiện trong các tác phẩm của Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Hồ Chí
Minh, nhưng trong các sáng tác ấy hình ảnh trăng hiện lên rất thơ mộng, bí ẩn, huyền
ảo, đến với “Ánh Trăng” của Nguyễn Duy, ta lại bắt gặp ánh trăng đặc biệt, độc đáo.
Nhà thơ xem trăng là người bạn tâm giao, là người “anh em” tri kỉ cả tuổi thơ lẫn nơi
chiến trường đầy ác liệt. Mượn hình ảnh gắn bó với thủy chung với trăng mà nhắc nhở
thái độ sống “uống nước nhớ nguồn” của bao thế hệ. Mở đầu bài thơ, tác giả đã gợi lại
những kỉ niệm, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ
“ Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Cụm từ “hồi nhỏ” là từ ngữ gợi tả về quá khứ của tác giả. Nơi thôn quê ngày ấy thiếu
ánh đèn điện, chỉ có mỗi vầng trăng là soi sáng. Trăng soi sáng con đường làng và soi
sáng cả những ước mơ của trẻ nhỏ. Đến khi lớn lên đã là người lính thì “hồi chiến tranh
ở rừng” vầng trăng cũng trở thành người bạn tri kỉ, tâm giao? Thử hỏi trên cuộc đời này
liệu có mấy ai gắn bó sâu đậm và bền lâu như thế? Từ lúc còn nhỏ đến khi tham gia
kháng chiến. Trăng ở nơi rùng núi ấy, trong những năm tháng kháng chiến khốc liệt ấy
đã tiếp thêm tình nghĩa và sức mạnh vô bờ cho những người lính trẻ. Những dòng thơ
cứ nối tiếp nhau nhưng đặc biệt chữ cái mỗi dòng lại không viết hoa, điều ấy như chính
là nét đặc biệt trong bài thơ Ánh trăng. Nó như là mạch cảm xúc cứ thế mà tuôn trào
tuôn trào trong lòng tác giả. Và sự gắn bó ấy ngỡ là sẽ mãi mãi, trong khổ thơ thứ 2 tác
giả cho thấy một vẻ đẹp vô cùng bình dị, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách
vô tư, hồn nhiên
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa.
Ánh trăng không chỉ tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn tượng trưng cho sự
gắn bó tình nghĩa với con người, trăng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ, trở thành
người bạn, tri âm, tri kỉ và nhà thơ cũng từng khẳng định “ngỡ không bao giờ quên”.
Tuy nhiên, tác giả bỗng chợt nhận ra một thực tế phũ phàng, thời gian thay đổi thì vạn
vật trên thế gian này cũng sẽ thay đổi kể cả lòng người. Bỗng dưng trăng và người trở
thành người dưng, nước lã
“ Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Nếu hồi ở rừng tác giả quen với sông, với bể thì từ lúc về thành phố đã quen “ánh
điện”, “cửa gương”. Ánh điện cửa gương là những thứ đại diện cho cuộc sống đầy đủ,
sung túc và xoa hoa nơi đô thị. Chính cuộc sống đầy đủ tiện nghi ấy đã làm tác giả quên
đi người bạn năm xưa chia ngọt sẻ bùi. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ làm
cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân một thời
của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những
nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con người ra khỏi những giá trị tinh thần
ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ
quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay
quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản của cuộc sống, đó chính là
tình cảm con người.
Tưởng chừng như ánh trăng kia sẽ mãi vùi trong sự lãng quên, nhưng không, ánh trăng
trở lại vào một khoảng khắc cực kì đặc biệt
“ Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất,
người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột”
ấy, người lính vội bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa
lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề
biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở
ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao
giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị
tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám
hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể biết trước
được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử
thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những quanh co, uốn
khúc. Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự
hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng
của cuộc đời. Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó! Dẫu con người
có quên đi ánh trăng nhưng ánh trăng mãi mãi không bao giờ quên tình nghĩa với con
người. Đó là một điều tuyệt đẹp mà thiên nhiên ban tặng cho chúng ta. Động từ “vội”
được tác giả sử dụng một cách chính xác trong trường hợp này, từ đó khẳng định ánh
trăng ngày ấy nhắc nhở con người ta rất nhiều về tình nghĩa về lối sông uống nước nhớ
nguồn
“ Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Với nghệ thuật nhân hóa, nhà thơ đã miêu tả lại một cuộc gặp mặt tình cờ đầy xúc
động. Gặp lại người bạn thuở thơ ấu, người bạn từng kề vai sát cánh nơi chiến trường
đầy gian khổ. Vậy mà bấy lâu nay về với thành phố hoa lệ mà lãng quên tình bạn khắc
cốt ghi tâm này. Nhưng một khi trong lòng đã có nhau thì dẫu có lạc nhau vẫn tìm về
bên nhau. Tình bạn của nhà thơ và vầng trăng cũng như thế, cũng quay về bên nhau
cùng nhau hàn huyên ôn lại kỉ niệm năm xưa.
Khổ cuối bài thơ đã khẳng định ánh trăng nghĩa tình mãi mãi như thế, mãi mãi trường
tồn theo năm tháng:
“ Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Với việc sử dụng từ láy “vành vạnh” đủ để nhà thơ nhấn mạnh sự thủy chung của ánh
trăng. Ánh trăng ấy có đủ lòng bao dung và vị tha cho sự vô tâm và ích kỉ của con
người? Với tấm lòng bao dung và vị tha ấy “đủ cho ta giật mình”. Từ “giật mình” như
muốn nhấn mạnh sự hổ thẹn của con người trước thiên nhiên. Điều đó như muốn nhắc
nhở chúng ta sống có trách nhiệm hơn, tình nghĩa hơn cho dù thời gian có thay đỏi, vạn
vật có đổi thay thì ánh trăng và con người mãi mãi là những người bạn khắc cốt ghi
tâm!
Đánh giá nội dung, nghệ thuật
Sử dụng thể thơ ngũ ngôn, kết hợp với biện pháp nghệ thuật nhân hóa, điệp ngữ, so
sánh, ngôn từ giản dị, hình ảnh giàu biểu cảm,… đã tạo nên những dòng tâm tình ý
nghĩa. Bài thơ như một lời nhắc nhở về những năm tháng gian lao thời kháng chiến mà
người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước, bình dị hiền hậu. Bên cạnh đó tác giả còn
gửi gắm thông điệp về thái độ sống của con người, cần biết trân trọng và thủy chung, ân
nghĩa với quá khứ.
Kết bài
Ernest Hemingway …Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy là một tác phẩm như thế, bài
thơ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những
giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó. Còn ai chưa biết
coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây
giờ, đừng để quá muộn.
NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
Mở bài
Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá

Riêng những câu thơ còn xanh
Riêng những bài hát còn xanh
(Thời gian – Văn Cao)
Trong dòng chảy nghiệt ngã của thời gian, mọi sự vật, hiện tượng có thể lụi tàn và tan
biến vào hư không. Nhưng có những giá trị không thể mất mà mãi mãi “còn xanh”, đó
là những giá trị thuộc về nghệ thuật được kết tinh qua những trang sách. Tác phẩm
………… của nhà văn ………..là một trong số những tác phẩm nghệ thuật như thế. Tác
phẩm thể hiện ……….., đoạn trích …….thể hiện rõ nhất ………..
(Ví dụ sửa đề mà hs đã làm:
Thời gian…
Văn Cao
Trong dòng chảy nghiệt ngã của thời gian, mọi sự vật, hiện tượng có thể lụi tàn và tan
biến vào hư không. Nhưng có những giá trị không thể mất mà mãi mãi “còn xanh”, đó
là những giá trị thuộc về nghệ thuật được kết tinh qua những trang sách. Tác phẩm
Làng của nhà văn Kim Lân là một trong số những tác phẩm như thế, tác phẩm nói về
tình yêu Làng của ông Hai, đoạn trích “Nó - Nó… thế đấy” nói về tâm trạng, suy nghĩ
của ông Hai khi nghe làng theo Tây)
Kết bài:
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từng khẳng đinh: “Nghệ thuật mà không gắn
liền với đời sống thì đó nó chỉ là những bông hoa ác mà thôi”, hiện thực cuộc sống đâu
phải chỉ có ngợi ca, vì vậy người nghệ sĩ phải dùng một đôi mắt đa diện, thấu hiểu để
nhìn nhận những vẻ đẹp đạo đức và nhân văn. Qua tác phẩm/ đoạn trích/ đoạn thơ… tư
tưởng sâu sắc đó đã được (…ghi tên tác giả…) thể hiện thật sâu sắc để lại cho mỗi
người đọc chúng ta biết bao nhiêu suy tư về (nội dung đề yêu cầu gì thì trả lời đó)
Ví dụ sửa kết bài của học sinh đã làm
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từng khẳng đinh: “Nghệ thuật mà không gắn liền với đời
sống thì đó nó chỉ là những bông hoa ác mà thôi”, hiện thực cuộc sống đâu phải chỉ có
ngợi ca, vì vậy người nghệ sĩ phải dùng một đôi mắt đa diện, thấu hiểu để nhìn nhận
những vẻ đẹp đạo đức và nhân văn. Qua tác phẩm Làng và cụ thể hơn là đoạn trích
trong văn bản tư tưởng đó đã được Kim Lân thể hiện thật sâu sắc để lại cho mỗi người
đọc chúng ta biết bao nhiêu suy tư tình cảm của ông Hai đối với Làng, qua đó nhắc nhở
chúng ta, phải yêu thương gắn kết với quê hương đất nước, đó là cội nguồn, là nơi hình
thành nhân cách để mỗi chúng ta ngày một tốt đẹp, hoàn thiện hơn (nội dung này linh
động))
Lưu ý:
1/ Mở bài, thân bài, kết bài nhớ lùi vào khoảng 3-4 cm
Thân bài nhớ tách 2-3 ý
Đánh giá nội dung nghệ thuật nhớ xuống dòng, phần tách ý, đánh giá lùi 2cm
Đánh giá văn xuôi
Tác phẩm thành công trong việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, giọng kể mộc
mạc, tự nhiên. Ngôn ngữ gần với ngôn ngữ đời thường. Miêu tả tâm lí tinh tế và chính
xác qua đó nói lên… ( nội dung là gì nói đó… ví dụ sửa đề …đau đớn của ông Hai khi
nghe làng theo Tây )
Đánh giá thơ
Bài thơ sử dụng thể thơ … kết hợp với biện pháp nghệ thuật …(ẩn dụ, điệp từ, điệp
ngữ, liệt kê…)ngôn ngữ gần với ngôn ngữ đời thường, giọng điệu tâm tình, tha thiết;
nhịp điệu thơ linh hoạt tất cả nhằm thể hiện…(nội dung là gì nói đó…)
NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
- Nhắc lại cấu trúc
+ Nêu vấn đề
+ Giải thích vấn đề
+ Bàn bạc vấn đề
+ Liên hệ bản thân
KHI VIẾT KHÔNG XUỐNG DÒNG, GV TÁCH DÒNG CHO HS NHỚ CÁC
BƯỚC CẦN TRIỂN KHAI

Đề 1: Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về tính
trung thực.
- Dàn ý
+ Một thái độ ứng xử tích cực, một thói quen tốt, một cách nhìn lạc quan trước những
khó khăn, một đức tính trung thực...đó là những yếu tố tác động đến sự thành công của
mỗi người trong cuộc sống (NÊU VẤN ĐỀ)
+ Trung thực: Là ngay thẳng, thật thà, nói đúng sự thật, không làm sai lệch sự thật.
Người có tính trung thực là người luôn luôn tôn trọng sự thật, chân lí, lẽ phải (GIẢI
THÍCH VẤN ĐỀ)
+ Người trung thực là người thẳng thắn nhận lỗi, không tham lam gian dối, không lấy
của người khác làm của mình. Với học sinh, trung thực là tự giác ý thức học bài, làm
bài bằng năng lực của mình, không chép bài, không sử dụng tài liệu trong các giờ kiểm
tra. Người có tính trung thực, sẽ tạo được niềm tin với những người xung quanh, được
mọi người yêu quý kính trọng từ đó mở ra các mối quan hệ, các cơ hội thúc đẩy sự
thành công ở mỗi người. (BÀN BẠC VẤN ĐỀ1)
+ Người không trung thực, sẽ khiến cho mọi người mất niềm tin, không nhận được sự
tôn trọng, theo thời gian sẽ bị mọi người xa lánh và khó có cơ hội để có được thành
công trong cuộc sống. (BÀN BẠC VẤN ĐỀ2)
+ Trung thực là đức tính cần có ở mỗi người, mọi cá nhân trong cộng đồng có thái độ
đề cao lòng trung thực sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội (KHẲNG ĐỊNH
VẤN ĐỀ)
+ Phê phán một số người có thái độ, hành vi thiếu trung thực, không chịu nhận lỗi khi
làm sai hoặc tìm mọi cách che đậy việc làm sai trái của mình gây ra những hậu quả xấu
cho bản thân, cho xã hội, ví dụ thái độ thiếu trung thực trong khai báo y tế của một số
cá nhân trong công tác phòng chống dịch bệnh covid 19 khiến cho công tác phòng
chống dịch bệnh trở nên khó khăn, tốn thời gian, tiền bạc, công sức của rất nhiều người,
ảnh hưởng đến tâm lí của cả cộng đồng xã hội. (PHẢN ĐỀ)
+ Bản thân nhận thức được trung thực là đức tính cần thiết trong cuộc sống vì vậy luôn
tự nhắc bản thân phải cố gắng phát huy mỗi ngày, góp phần hoàn thiện đạo đức, nhân
cách để không phải hổ thẹn với chính mình và nhận được sự tin yêu từ những người
xung quanh. (LIÊN HỆ BẢN THÂN)
ĐỀ 2
Vai trò của quê hương: Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) nói về vai trò của quê hương
đối với mỗi cá nhân.
- Trong cuộc sống của mỗi người, có nhiều thứ tình cảm cao quý và đáng trân
trọng như tình gia đình, tình bạn, tình yêu, tình cảm đối với quê hương đất nước.
Trong đó tình cảm của mỗi cá nhân đối với quê hương đất nước có vai trò ảnh
hưởng rất lớn đến sự hình thành, phát triển nhân cách của mỗi người. (NÊU
VẤN ĐỀ)
Quê hương là nơi ta sinh ra, lớn lên, nơi có tổ tiên ông bà cha mẹ, có những kí ức vui,
buồn của tuổi thơ. Quê hương còn là giang sơn tổ quốc (GIẢI THÍCH VẤN ĐỀ)
- Mỗi chúng ta ai cũng có quê hương, quê hương là nơi nuôi dưỡng chúng ta về thể
xác, bồi đắp cho chúng ta những giá trị tốt đẹp về tâm hồn, nơi dạy cho chúng ta
những bài học đầu tiên về tình yêu thương, về sự đoàn kết gắn bó, về lối sống
tình nghĩa, hình thành trong mỗi chúng ta cách sống cách cư xử phù hợp với
chuẩn mực đạo đức xã hội. (BÀN BẠC VẤN ĐỀ1)
- Quê hương còn là điểm tựa tinh thần khi chúng ta gặp phải những khó khăn trong
cuộc sống, bởi ở đó chúng ta luôn được đón nhận bằng vòng tay yêu thương của
gia đình, sự quan tâm chia sẻ của cộng đồng xã hội. Cụ thể khi dịch bệnh covid19
lan rộng ở nhiều quốc gia, nước ta có những người xa quê vì nhiều lí do khác
nhau, nay họ muốn trở về nhưng điều kiện kinh tế không cho phép và họ không
yên tâm khi ở trên nước bạn. Nhà nước ta đã sẵn sàng đón những người con xa
quê về nước, trong điều kiện đất nước dù còn nhiều khó khăn, dịch bệnh diễn
biến phức tạp. Quê hương còn là nguồn cổ vũ, động viên là động lực để mỗi con
người cố gắng nỗ lực không ngừng để khẳng định năng lực của bản thân, góp
phần làm dạng danh cho quê hương đất nước. (BÀN BẠC VẤN ĐỀ2)
- Mỗi chúng ta cần phải có ý thức xây dựng bảo vệ quê hương, phát huy những
truyền thống đạo lí tốt đẹp của quê hương, coi đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của
bản thân. (KHẲNG ĐỊNH VẤN ĐỀ)
- Phê phán một số người khi trưởng thành, quay lưng phủ nhận nguồn gốc quê
hương, sẵn sàng vì lợi ích cá nhân mà có những hành động bôi nhọ, nói xấu,
phản bội lại quê hương. (PHẢN ĐỀ)
- Bản thân nhận thức được, tình cảm đối với quê hương thiêng liêng cao quý như
tình cảm gia đình nên luôn nỗ lực học tập để nâng cao tri thức hiểu biết, có ý thức
tu dưỡng rèn luyện đạo đức tốt để góp phần xây dựng quê hương đất nước ngày
một giàu đẹp hơn. (LIÊN HỆ BẢN THÂN)
Biện pháp nghệ thuật và tác dụng của biện pháp nghệ thuật
- ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, so sánh…
+ tác dụng về hình thức tăng tính hình tượng, tạo sự sinh động, tăng tính biểu cảm cho
câu văn (câu thơ)
+ tác dụng về nội dung: diễn tả không gian…giúp người đọc cảm nhận được, góp phần
làm nổi bật…, hình dung liên tưởng về đối tượng…) lưu ý về nhân hóa (giúp cho sự
vật, hiện tượng trở nên gần gũi với con người giống như người bạn cùng buồn, cùng
vui, động viên nhắc nhở…thể hiện tâm trạng của con người)
- lặp cấu trúc cú pháp, liệt kê, điệp ngữ
+ tác dụng về hình thức: Tạo âm hưởng, nhịp điệu, tăng tính biểu cảm,
+ tác dụng về nội dung nhấn mạnh, khẳng định, chỉ rõ…
Lặp cú pháp
Đây là phép lặp dùng nhiều lần một kiểu cấu tạo câu được xuất hiện nhiều lần trong
một đoạn văn bản. Phép lặp cú pháp có tác dụng nhấn mạnh, khẳng định những nội
dung hoặc hình ảnh mà tác giả muốn nhấn mạnh. Vị trí của phép lặp thường là ở câu
đứng sau những từ ngữ đã có ở câu trước nhằm tạo tính liên kết giữa các câu trong văn
bản.
Ví dụ 1: Con người Việt Nam có thể không có vóc dáng to hơn người Mỹ. Con người
Việt Nam có thể không có nước da trắng như người Châu Âu. Nhưng con người Việt
Nam tuy nhỏ bé nhưng lại thông minh, nhanh nhẹn.
Cấu trúc được lặp lại trong đoạn văn trên là: Con người Việt Nam...... Việc lặp lại cấu
trúc đó làm nổi bật hình ảnh con người Việt Nam muốn được nhấn mạnh trong đoạn
văn.
Ví dụ 2: Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Hai câu thơ trên sử dụng phép lặp cú pháp "con sóng...." tạo nên một thế đối xứng, có
tác dụng khắc hoạ hình ảnh mọi con sóng đều đang ở trong tâm trạng nhớ thương day
dứt khôn nguôi.
PHÂN TÍCH BÀI TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
Mở bài
Trong bài thơ “Tuổi 25” Tố Hữu đã từng viết:
“Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hóa anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo”
Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng những
gam màu hiện thực. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim của mình để “hút nhụy đời” tưới
cho những cánh đồng văn học. Ở cánh đồng ấy, có một khoảng trời dành riêng cho văn
học cách mạng, văn học của hiện thực tàn khốc mà cũng đẹp đẽ vô cùng. Trong cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mĩ, để giải phóng quê hương, giành lấy độc lập, tự do cho
dân tộc, người chiến sĩ giải phóng quân đã trở thành nhân vật tiêu biểu, hội tụ những gì
cao đẹp nhất. Những chàng trai đó đã được nhiều người khâm phục, ngưỡng mộ và họ
đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào, là đề tài bất tận cho các nhà thơ, nhà văn sáng
tác. Là một nhà thơ phục vụ trong quân đội, phục vụ trong binh đoàn lái xe vận tải trên
con đường máu lửa Trường Sơn, Phạm Tiến Duật đã cảm nhận sâu sắc cuộc sống người
chiến sĩ lái xe trên con đường lịch sử này và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được
ra đời trong những ngày tháng khó khăn gian khổ đó, bài thơ ca ngợi tư thế hiên ngang,
tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm, niềm vui vẻ, sự trẻ trung, sôi nổi
cùng quyết tâm chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của các chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
Thân bài
Bài thơ về tiểu đội xe không kính được nhà thơ viết vào năm 1969, khi
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt. Máy bay giặc Mĩ trút
hàng ngàn, hàng vạn tấn bom đạn và chất độc hóa học xuống con đường chiến lược
mang tên con đường Hồ Chí Minh. Các trọng điểm mịt mù lửa khói suốt đêm ngày
nhưng những chiếc xe thuộc đơn vị vận tải vẫn lao nhanh ra chiến trường tiếp viện cho
miền Nam ruột thịt. Những chiếc xe và chiến sĩ lái xe bỗng trở nên gần gũi, quen thuộc,
đáng yêu. Điểm gây ấn tượng khác lạ và độc đáo cho người đọc khi tiếp cận văn bản
được thể hiện trước tiên là thông qua cách đặt nhan đề của nhà thơ: "Bài thơ về tiểu đội
xe không kính". Nhan đề khá dài, có vẻ như có chỗ thừa nhưng chính điều đó đã tạo
nên sự đặc biệt, nét riêng, thu hút sự chú ý của bạn đọc. Thông thường qua hình thức
trình bày người ta đã biết được tác phẩm văn học nào đó là thơ hay văn xuôi, nên đa số
các nhà thơ nhà văn khi đặt tên tác phẩm thường không lấy tên gọi về hình thức tác
phẩm đặt tên cho văn bản của mình nhưng ở đây nhà thơ đã thêm vào nhan đề tác phẩm
hai chữ “bài thơ”, điều đó cho thấy được chất thơ trong bài thơ, đồng thời cho thấy
được cái nhìn lãng mạn của tác giả trước hiện thực khốc liệt của chiến tranh về những
chiếc xe không kính do bom rơi, đạn lạc. Và với cách đặt nhan đề bài thơ như vậy, nhà
thơ cũng muốn nhấn mạnh đến những chiếc xe không kính trong khói lửa chiến tranh
chỉ có ở chiến trường miền Nam thời kháng chiến chống Mĩ, những chiếc xe như thế
không chỉ có một, hoặc một vài mà có rất nhiều, rất đông trở thành cả một “tiểu đội xe
không kính”. Qua đó, nhà thơ làm nổi bật lên sự tàn khốc của chiến tranh và tinh thần
hiên ngang, dũng cảm, sôi nổi và trẻ trung, hóm hình, tươi vui, tinh nghịch, lãng mạn
của người lính khi lái những chiếc xe không kính bon bon ra chiến trường. Bài thơ mở
đầu bằng một lời giới thiệu về hình ảnh của những chiếc xe không kính
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Trước Phạm Tiến Duật, đã có nhiều nhà thơ lấy hình ảnh của những phương tiện giao
thông làm thi liệu trong các tác phẩm của mình, đó là hình ảnh của một con tàu lên Tây
Bắc trong bài "Tiếng hát con tàu" của Chế Lan Viên, là con thuyền ra khơi đánh bắt cá
của những ngư dân trong bài thơ "Quê hương" của Tế Hanh, "Đoàn thuyền đánh cá"
của Huy Cận... Nhưng tất cả những phương tiện ấy khi đi vào thơ đều được lãng mạn
hóa, mang một ý nghĩa biểu tượng thật đẹp, thật thơ mộng về cuộc sống. Còn “những
chiếc xe không kính” của Phạm Tiến Duật lại xuất phát từ hình ảnh có thực của đời
sống chiến trường. Xe vốn thường có kính và chiếc xe có kính là điều bình thường,
không có gì đáng nói. Chi tiết tả thực “không có kính" mới gây sự chú ý, bất ngờ và là
một thực tế có sức khơi gợi mạch thơ, khơi gợi lòng người. Nếu vế đầu của câu thơ đó
có tính chất phủ định thì ở vế sau của câu thơ lại nhằm khẳng định, nhấn mạnh “không
phải vì xe không có kính”. Chiếc xe vốn nguyên vẹn, lành lặn với các bộ phận đó chứ
đâu phải xe mới ra đời là đã không có kính. Điệp từ “không” được lặp lại ba lần trong
một dòng thơ kết hợp cùng lối nói khẩu ngữ đã tạo được ấn tượng ban đầu đặc biệt cho
người đọc về hình dáng độc đáo của “những chiếc xe không kính”. Đến câu thơ thứ
hai, nhà thơ tiếp tục sử dụng phép điệp kết hợp với các động từ mạnh “ giật” “rung” để
vừa giúp người đọc hình dung về một vùng đất từng được mệnh danh là “túi bom” của
địch, vừa cho thấy được sự khốc liệt mà chiến tranh gây ra cho những chiếc xe tải . Hai
từ phủ định: “không có” và “không phải” mang ý nghĩa khẳng định hiện thực tàn khốc
mà chiến tranh đã gây ra. Đó chính là lí do về những chiếc xe không có kính và cũng là
bằng chứng rõ ràng cho sự tàn phá khủng khiếp mà quân đội Mỹ đã gây ra trên chiến
trường miền Nam, thấy được sự hung bạo, ngông cuồng của đế quốc, bất chấp theo đuổi
mục đích phi nghĩa bằng mọi giá. Bao nhiêu tấn bom đạn dội xuống mảnh đất Trường
Sơn đã hủy hoại, tàn phá con người và thiên nhiên. Kẻ thù định dùng lực lượng mạnh
với các vũ khí hiện đại để chặn đường tiếp tế, tiến công của ta, làm lung lay ý chí, tinh
thần chiến đấu của người chiến sĩ. Sức ép của bom đạn khi nổ, những mảnh bom trúng
vào chiến sĩ, trúng vào chiếc xe khiến cho chiếc xe bị trầy, khiến cho chiếc xe “kính vỡ
đi rồi”. Thế nhưng chúng không thể làm lung lay ý chí quật cường, tinh thần quyết
chiến của những chàng trai trẻ. Câu thơ thứ ba, hình ảnh người chiến sĩ lái xe là nhân
vật chính và những chiếc xe không kính trở thành cái nền làm nổi bật tính cách, phẩm
chất đẹp đẽ của họ.
Khi người lái xe mở máy cho xe lăn bánh đồng nghĩa với bắt đầu bước vào trận đánh.
Sự sống và cái chết cách nhau chỉ trong gang tấc, nhưng họ vẫn giữ được tư thế hiên
ngang, tự tin hiếm có:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Biện pháp đảo ngữ, đưa tính từ “ung dung” lên đứng đầu câu giúp tạo nên sự bình thản,
điềm tĩnh đến kỳ lạ của người lính lái xe Trong cái nhìn bao quát cả đất trời ẩn chứa
niềm kiêu hãnh của người làm chủ tình thế, coi thường mọi khó khăn nguy hiểm. Đối
đầu với máy bay giặc Mĩ, các chiến sĩ lái xe của ta thường ở thế bị động. Vậy dựa vào
đâu mà họ ra trận với phong thái ung dung như vậy? Chỗ dựa tinh thần lớn lao nhất của
họ chính là niềm tin tất thắng vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, là tình cảm tất cả
vì miền Nam thân yêu, là chân lí "Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang cần
vũ khí, lương thực, thuốc men… để đủ sức đánh trả quân thù những đòn đích đáng. Chủ
quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc, của dân tộc thôi thúc họ hành động. Đó
là hành động chủ động, đầy tự chủ, bất khuất bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, đặc biệt
là sự dũng cảm, hiên ngang của người lính. Họ “nhìn thẳng” vào gian khổ, không mảy
may run sợ trước khó khăn, không thẹn với trời đất vì chính họ cũng đang chiến đấu vì
một mục tiêu cao cả. Điệp từ “nhìn” được lặp lại ba lần, kết hợp với nhịp thơ dồn dập,
giọng điệu mạnh mẽ đã thể hiện tầm nhìn rộng, khoáng đạt của người lính giữa chiến
trường. Biện pháp liệt kê và điệp ngữ trong câu thơ đã thể hiện tư thế vững vàng, hiên
ngang của những người lính lái xe, sẵn sàng nhìn thẳng vào bom đạn, nhìn thẳng vào
con đường đang bị bắn phá để lái xe vượt qua. Câu thơ viết theo nhịp 2/2/2 thật cân
đối. Nó thể hiện sự nhịp nhàng, thăng bằng của chiếc xe đang lăn bánh và nhất là thái
độ tự tin, bình tĩnh của người cầm lái đồng thời nhấn mạnh, khắc sâu vẻ đẹp từ cách
quan sát của người chiến sĩ. Một vẻ đẹp xuất phát từ tâm hồn, tấm lòng của các anh bộc
lộ niềm yêu thương của anh với thiên nhiên và cuộc sống, sự quyết tâm vững vàng
trong nhiệm vụ. Anh “nhìn đất” để thêm gắn bó, yêu thương con đường Trường Sơn
hào hùng, thân thuộc để dẫn đưa chiếc xe đến chỗ, nơi an toàn, mau mau đến đích. Anh
“nhìn trời” để tâm hồn thêm lạc quan, bay bổng, thêm tin tưởng vào tương lai. Anh
“nhìn thẳng” là nhìn về phía trước, nhìn vào con đường trước mặt cần vượt qua, nhìn
vào nhiệm vụ đầy gian khổ, khó khăn thử thách của mình để thêm cương quyết, tích
cực mà sẵn sàng đối phó, đương đầu với bao hiểm nguy, gian khổ, khó khăn. Bởi thế,
mặc cho bom đạn gào thét, các anh vẫn cứ tiến lên với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc
quan coi thường hiểm nguy và hình ảnh đẹp ấy được tô đậm qua những câu thơ:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Điệp từ “thấy” và điệp ngữ: “nhìn thấy… nhìn thấy…” cùng giọng thơ hối hả đã gợi
lên khung cảnh từng đoàn xe không kính nối đuôi nhau, vận chuyển nhu yếu phẩm từ
Bắc vào Nam. Biện pháp nhân hóa chuyển đổi cảm giác “vào xoa mắt đắng” nhằm thể
hiện những hiểm nguy do thời tiết mà những người lính phải trải qua. Đoàn xe chạy tạo
nên những cơn lốc bụi mù trời. Xe không kính, gió lùa mạnh vào buồng lái khiến người
lái xe tưởng như nhìn thấy gió. Gió thốc làm cay đến chảy nước mắt nhưng những khó
khăn trở ngại đó chỉ là phép thử đối với những người lính, bằng tình yêu quê hương đất
nước cháy bỏng, với tâm hồn hào hoa lãng mạn, cách nói về những khó khăn mà người
lính trải qua thật độc đáo và hóm hỉnh. Những người lính lái xe như cảm nhận khi
không còn lớp kính ngăn cách, con người và thiên nhiên như gần gũi hơn. Xe lao lên
phía trước, con đường lùi lại phía sau, người lái xe tưởng như nhìn thấy con đường chạy
thẳng vào tim. Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” thể hiện tốc độ di chuyển
nhanh chóng của những chiếc xe đã góp phần rút ngắn khoảng cách giữa các anh với
con đường, khiến người lính lái xe có cảm giác con đường đang chạy thẳng vào tim,
hòa cùng dòng máu yêu nước chảy trong lồng ngực. Câu thơ chứa đựng ý nghĩa tượng
trưng sâu xa: Con đường vào chiến trường miền Nam chính là đích đến của trái tim
người lính. Nỗi vất vả, gian nan được nhà thơ miêu tả bằng những hình ảnh chân thực,
giản dị nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Dù sống chung với cuộc
kháng chiến đầy mưa bom, bão đạn nhưng không vì thế mà những người lính trẻ sống
trong lo âu, sợ hãi mà tâm hồn họ vẫn tràn đầy sự lãng mạn, bay bổng khi anh mở rộng
tầm mắt, quan sát từ bên trong qua những ô cửa kính vỡ để thấy sao trời, thấy cánh
chim.
“Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”
Thay vì gói gọn trong không gian của chiếc xe không kính, tác giả đã mở rộng tầm nhìn
ra một không gian rộng lớn hơn. Ở đó có những con đường dài, có gió thổi, có cánh
chim và những ánh sao đêm. Phải chăng thiên nhiên nơi núi rừng Trường Sơn đang ùa
vào buồng lái, gợi lên chất thơ trong tâm hồn những người lính trẻ. Không gian rộng
lớn của thiên nhiên được tác giả miêu tả thông qua hình ảnh “sao trời” và “cánh chim”
đây vốn là biểu tượng phân biệt hai trạng thái ban đêm và ban ngày. Câu thơ “thấy sao
trời và đột ngột cánh chim” mang ý nghĩa từng đoàn xe nối đuôi nhau chạy không kể
ngày đêm, cứ khi nào máy bay Mỹ ngừng bay thì quân ta sẽ hành quân. Biện pháp nghệ
thuật so sánh “như sa, như ùa vào buồng lái” một lần nữa nhấn mạnh tốc độ nhanh phi
thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận. Có lẽ tâm hồn các anh phải hân hoan,
phơi phới yêu đời lắm nên mới cảm nhận được những cánh chim như sa, như ùa vào
khoang buồng lái để trò chuyện tâm tình với họ. Qua hai khổ thơ đầu, tác giả đã gợi tả
sinh động hiện thực chiến trường chính xác đến từng chi tiết. Hơn nữa, đằng sau đó còn
là một khí chất, một bản lĩnh, thể hiện qua tư thế chiến đấu ung dung, hiên ngang của
người lính trước sự khốc liệt của chiến tranh. lời thơ như chính là lời ca tiếng hát của
một bài hát vui tươi, hào hùng.
Hiên ngang, bất chấp gian khổ, những người lính lái xe luôn lạc quan tin tưởng
chiến thắng. Những câu thơ với ngôn ngữ giản dị như lời nói thường ngày thể hiện hình
ảnh đẹp, tự tin, có tính cách ngang tàng:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Phạm Tiến Duật từng là thành viên của đoàn 559 vận tải chiến đấu ở Trường Sơn nên
chất lính, tính ngang tàng thể hiện rõ nét trong thơ. Các chiến sĩ lái xe không hề lùi
bước trước gian khổ, trước kẻ thù mà trái lại “tiếng hát át tiếng bom”, họ xem đây là cơ
hội để thử thách sức mạnh ý chí. Với tinh thần lạc quan, yêu đời, tiếng cười sảng khoái
của họ làm quên đi những nguy hiểm, những người lính lái xe đã coi gian khổ, hiểm
nguy nơi chiến trường trở thành một phần trong cuộc sống tại Trường Sơn. Điều này
được thể hiện qua những hình ảnh thơ: “gió”, “bụi”, “mưa” vốn là những hiện tượng
thiên nhiên khắc nghiệt của thời thời tiết, nhưng đặt trong hoàn cảnh này nó trở thành
nét đặc trưng cho những gian khổ, thử thách mà người lính phải đối diện. Cấu trúc lặp:
“Không có…, ừ thì…” được nhắc lại kết hợp với kết cấu phủ định “Chưa cần…” đã thể
hiện sự ngang tàng, thái độ coi thường hiểm nguy, bất chấp khó khăn, coi thường gian
khổ của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Bên cạnh đó, hình ảnh so sánh trong câu thơ
“Bụi phun tóc trắng như người già” là cách nói phóng đại của tác giả nhằm nhấn mạnh
sự khắc nghiệt của thiên nhiên nơi chiến trường, đồng thời cho thấy tinh thần lạc quan,
dũng cảm tiến về phía trước của người lính Trường Sơn. Mặc cho bụi mưa phủ đầy trên
tóc, trên áo, họ vẫn giữ một hướng đi, vẫn lái xe lao thẳng về phía trước. Và trong sự
khắc nghiệt của thiên nhiên, những người lính vẫn “phì phèo châm điếu thuốc”, và cất
lên tiếng cười lạc quan yêu “ha ha” khi những người đồng chí, đồng đội ấy gặp nhau.
Dù khó khăn nhưng cách nhà thơ đề cập đến những khó khăn ấy rất nhẹ nhàng
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”
Gió bụi qua đi thì lại đến mưa rừng. Không có kính, khiến người lính trải nghiệm hết
những khắc nghiệt của thời tiết, khi lái xe trong điều kiện thời tiết mưa gió thì việc ướt
áo là không thể tránh khỏi. Nhưng với tinh thần cách mạng của mình, chuyện ướt áo chỉ
là chuyện nhỏ, vậy nên người lái xe vẫn tiếp tục di chuyển “lái trăm cây số nữa”. Nỗi
gian nan của người lính không đong đếm bằng gió, bụi, mưa mà mong đếm bằng quãng
đường họ đã chạy. Tác giả sử dụng từ chỉ số lượng “ trăm cây số” để chỉ con đường ấy
dù có xa dù có cách trở thì họ vẫn băng băng về trước đầy hiên ngang. Câu thơ diễn tả
nghị lực phi thường của người lính, họ bất chấp gian khổ, bất chấp hiểm nguy để làm
nhiệm vụ ở họ có một sự bình tĩnh, thản nhiên trước những thử thách phải trải qua trên
tuyến đường Trường Sơn. Cung đường trong bom đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng bao
mồ hôi, xương máu nhưng vẫn không thể nào cản trở bước tiến của những người lính.
Câu thơ “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!” có bảy chữ mà có đến sáu thanh bằng diễn
tả cái phơi phới, thênh thênh đầy nghị lực, bất chấp mọi gian khổ: Gian khổ tột cùng
nhưng hào hùng cũng tột bậc, các chiến sĩ lái xe chấp nhận tất cả với thái độ vui vẻ, pha
chút ngang tàng, rất lính.
Trong gian lao, thử thách, tình đồng đội, đồng chí càng trở nên thiêng liêng hơn, máu
thịt hơn. Bao thiếu thốn vật chất được thay thế bằng tình yêu thương đồng đội thắm
thiết. Những người lính vừa vượt qua hàng nghìn, hàng vạn cây số lái xe trong mưa
bom, bão đạn, rồi họ gặp nhau để cùng cười vui trong tình yêu thương đồng đội, đồng
chí. Chính tình cảm thiêng liêng này là sợi dây vô hình kết nối mọi người trong tình
cảnh cái chết luôn rình rập
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi” vừa tả thực về những chiếc xe không kính,
vừa vượt qua mưa bom đạn chiến trường để trở về, vừa hàm ý nhấn mạnh sự bất khuất,
ý chí chiến đấu kiên cường của những người lính lái xe. Mọi khó khăn, nguy hiểm đã
dường như đã lùi xa, chỉ còn lại hình ảnh của những chiến sĩ lái xe từ mọi chiến trường
về đây họp thành tiểu đội xe không kính. Họ thương nhau còn hơn ruột thịt, sống chết
có nhau, cùng chung lí tưởng và tình cảm cao đẹp, tất cả vì sự nghiệp giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Có lẽ không ngôn ngữ nào diễn tả hết tình đồng chí, đồng
đội thiêng liêng trong hoàn cảnh ấy, và nhà thơ đã bất chợt khám phá ra điều thú vị là
những khó khăn, nguy hiểm của người lính lái xe không kính lại trở thành tiện lợi bất
ngờ khi họ gặp nhau trên đường ra mặt trận:
“Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”.
Những người lính gặp nhau và “Bắt tay nhau” thể hiện sự đồng cảm sâu sắc khi họ đã
vừa cùng nhau trải qua những cung đường đầy khó khăn gian khổ. Hành động “bắt tay”
có thể coi như những lời động viên ngắn ngủi mà họ dành cho nhau. Cái bắt tay ấy vừa
mang lại sự an ủi, vừa là động lực kết nối những trái tim lại với nhau, ủng hộ lẫn nhau
trong hành trình dài phía trước. Con đường phía trước còn dài, còn khó khăn chồng
chất, nhưng tinh thần hiên ngang lạc quan và vui vẻ của các những người lính thật mạnh
mẽ.
Tình đồng chí, đồng đội của anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn càng thắm
thiết, cảm động hơn khi họ cùng chia sẻ với nhau một bữa cơm trong cuộc chiến:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm
“Bếp Hoàng Cầm” là bếp dã chiến của bộ đội được đặt dưới lòng đất, khi đun khói tản
ra địch sẽ không phát hiện. Mọi thứ đều gian khổ như thế nhưng tinh thần họ vẫn rất vui
vẻ, lạc quan, họ trò chuyện, cười đùa với nhau thật thoải mái, thân mật. Bữa cơm chiến
trường đơn sơ, giản dị thế mà vẫn rộn lên niềm vui tình đồng đội, trong bài Việt Bắc
nhà thơ Tố Hữu cũng từng nói về sự sẻ chia, tình yêu thương của những con người
trong kháng chiến
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
(Tố Hữu)
Tình quân dân, tình đồng đội đã tiếp thêm sức mạnh, động lực cho người lính trên
những chặng đường đầy gian khổ khó khăn để rồi từ đó họ gắn bó với nhau như những
thành viên trong một gia đình, định nghĩa về gia đình của các anh chiến sĩ mới thật thân
thương, ấm áp
“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Một gia đình vui tươi, trẻ trung gồm những người lính trẻ đã hình thành, rõ ràng những
khó khăn kia không thể cản bước tiến của những người lính mà chính những khó khăn,
thiếu thốn đó đã khiến những người lính gắn bó với nhau như máu thịt, giúp đỡ nhau
trong cả chiến đấu lẫn đời thường. Thời gian nghỉ ngơi tuy chỉ diễn ra thoáng chốc và
bữa cơm “chung bát đũa” giữa đường xe chạy đã trở thành khoảnh khắc hạnh phúc
hiếm hoi trên hành trình vượt Trường Sơn của những người lính. Từ đó xóa đi khoảng
cách, giúp họ trở nên gần gũi, thân thiết, yêu thương nhau. Từ láy “chông chênh” là ẩn
dụ cảm giác bấp bênh không bằng phẳng trên những tuyến đường mà xe đi qua. Ngay
cả lúc nghỉ ngơi thì những chiến sĩ vẫn phải chịu sự bấp bênh, thiếu an toàn đó. Song,
đối với họ, càng gian khổ thì ngày thắng lợi càng đến gần. Nghệ thuật ẩn dụ “trời xanh
thêm” đã thể hiện tâm hồn sôi nổi và lạc quan của người chiến sĩ. Sắc xanh là biểu
tượng của niềm tin, là hi vọng vào ngày dân tộc chiến thắng, đất nước hoàn toàn giải
phóng
“Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Điệp từ “lại đi” kết hợp với nhịp thơ 2/2/3 đã khẳng định đoàn xe sẽ khẩn trương tiếp
tục đi về phía con đường gian khổ phía trước, dù cho giặc Mĩ có tàn bạo cỡ nào cũng
không thể ngăn cản nổi ý chí chiến đấu của quân đội ta, bởi trước mắt những người lính
luôn có một niềm tin mãnh liệt vào tương lai, vào cuộc sống đẹp tươi phía trước.
Bài thơ khép lại với bốn câu thơ thể hiện ý chí chiến đấu kiên cường của người lính lái
xe Trường Sơn, đại diện cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ với lý tưởng sống cao
đẹp
“Không có kính, rồi không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Tác giả đã một lần nữa nhắc lại hình ảnh những chiếc xe “không có kính” một cách
chân thực và sinh động qua biện pháp liệt kê những điểm không hoàn thiện của chiếc xe
như: không kính, không đèn, không mui, thùng xe xước để nhấn mạnh sự thiếu thốn,
không toàn vẹn của đoàn xe mang trong mình nhiệm vụ “xẻ dọc Trường Sơn cứu
nước”. Điệp từ “không có” góp phần diễn tả sự khốc liệt và dữ dội của chiến trường đã
khiến những chiếc xe trở nên trơ trụi, thiếu những bộ phận cơ bản nhất của một chiếc xe
bình thường, tưởng chừng như chiếc xe ngừng hoạt động. Nhưng điều kỳ diệu là những
chiếc xe ấy vẫn bon bon trên đường ra trận “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”, có
một sức mạnh, một động lực vô hình đã không ngăn cản được bước tiến của xe, những
chiếc xe ấy vẫn hoàn thành nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, góp sức vào công cuộc giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước. Sử dụng phép đối lập “không có” với “vẫn
chạy” đã làm nổi bật sức mạnh, sự ngoan cường của người lính lái xe bởi họ có niềm tin
về ngày chiến thắng, ngày miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước.
Câu thơ kết thúc bài thơ tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật hoán dụ để nói lên
chân lý sâu xa về sức mạnh của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng cao đẹp.
“Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Trái tim ấy chính là người lính lái xe trên đường Trường Sơn. Các anh vừa giúp tiếp nối
truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam, vừa trở thành hình tượng thanh
niên tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước của thế hệ chống Mỹ cứu nước. Xe bị mưa bom
bão đạn làm cho hư hại nhiều, các bộ phận trên xe tuy thiếu và không còn nguyên vẹn
nhưng “chỉ cần” một “trái tim” yêu nước nguyên vẹn thì xe vẫn hoàn toàn có thể băng
băng ra trận, hoàn thành nhiệm vụ của mình. Hình ảnh “trái tim” còn tượng trưng cho
lòng dũng cảm, lòng yêu nước và sức mạnh của lòng yêu nước. Chính sức mạnh vô
hình ấy đã lấp đầy những phần thiếu sót của chiếc xe, tạo động lực cho người lính vượt
qua khó khăn, thử thách. “Trái tim” của người lính tuy vô hình mà hữu hình, có thể thay
thế cho mọi thứ, biến chiếc xe không kính như trở thành một cơ thể sống, hợp nhất với
tâm hồn người chiến sĩ để tiếp tục hành trình dài phía trước. Hình ảnh “trái tim” khép
lại bài thơ đã làm bừng sáng lên ý nghĩa của toàn bộ tác phẩm. Đó là một trái tim yêu
thương, trái tim kiên trường, trái tim cầm lái, giúp người lính chiến thắng mọi đe dọa
của kẻ thù, mọi khắc nghiệt của thời tiết và “trái tim” ấy cũng đã trở thành nhãn tự của
bài thơ, để lại ấn tượng và cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.
Đánh giá nội dung và nghệ thuật
Bài thơ sử dụng thể thơ tự do, kết hợp với phép điệp, đối, liệt kê, ngôn ngữ chân thật,
giản dị, gần gũi, giọng điệu dí dỏm, ngang tang, hài hước…tất cả góp phần tái hiện lại
chân dung những người lính của tiểu đội xe không kính trong những năm kháng chiến
chống đế quốc Mĩ gần gũi và chân thực.

Kết bài:
Ernest Hemingway từng nói: “Tất cả các tác phẩm nghệ thuật đều có sự bất tử của riêng
nó. Bởi vì nó là sản phẩm bền vững nhất của lao động và trí tuệ con người.”. Rồi mai
này các tranh tượng có thể tiêu tan, các đền đài có thể bị sụp đổ, chỉ có những tác phẩm
văn học chân chính mới có thể vượt qua được quy luật băng hoại của thời gian để tồn
tại vĩnh viễn. Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của tác giả Phạm Tiến Duật là một
trong số những tác phẩm như thế, bởi tác giả đã khắc họa một cách chân thực hình ảnh
những người lính lái xe với nhiều phẩm chất đẹp đẽ, những con người ấy đã bất chấp
khó khăn thử thách, luôn trong tư thế hiên ngang ra trận với một trái tim ấm nóng tình
đồng đội, tình yêu nước nồng nàn đã để lại ấn tượng mạnh mẽ sâu đậm trong lòng
người đọc. Và chúng ta, những thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước, hãy cố gắng, nỗ
lực học tập để góp phần xây dựng quê hương đất nước ngày một giàu đẹp hơn, đó cũng
là hành động, việc làm thiết thực, để ghi nhớ, tri ân những thế hệ cha ông đã đổ bao
nhiêu xương máu cho chúng ta có một đất nước này.
Mở bài tham khảo
Xantưkôp Sêđrin đã từng nói: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ
mình nó không thừa nhận cái chết”. Vậy điều gì đã khiến các tác phẩm nghệ thuật bất
tử? ở tài năng hay ở tấm lòng của người cầm bút? Phải chăng, văn chương muôn đời là
nơi mà người nghệ sĩ đã mang hiện thực vào trang viết của mình bằng tất cả tấm chân
tình mà ẩn sâu trong đó là những tư tưởng, thông điệp quý báu trong đời để gửi gắm
đến độc giả. Điều đó đã khiến cho những tác phẩm văn chương mãi sống hoài, sống lâu
trong lòng những người yêu nghệ thuật mãi tận về sau. Và ta không thể không nhắc đến
…(Tác phẩm)…. của …(Tác giả)…. đã để lại trong ta nhiều dư âm, dư vang, dư ba, dư
vị xúc cảm khôn nguôi.

BÀI 1: PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐỒNG CHÍ


Mở bài
Trong bài thơ “Tuổi 25” Tố Hữu đã từng viết:
“Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hóa anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo”
Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng những
gam màu hiện thực. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim của mình để “hút nhụy đời” tưới
cho những cánh đồng văn học. Ở cánh đồng ấy, có một khoảng trời dành riêng cho văn
học cách mạng, văn học của hiện thực tàn khốc mà cũng đẹp đẽ vô cùng. Trong cuộc
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh người lính mãi là hình ảnh cao quý và đẹp
đẽ nhất. Hình ảnh ấy đã đi vào lòng người và văn chương vơi tư thế, tình cảm và phẩm
chất cao đẹp. Một trong những tác phẩm ra đời sớm nhất, tiêu biểu và thành công nhất
viết về người lính là bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Bằng những rung động mới mẻ
và sâu lắng cũng như sự trải nghiệm của người trong cuộc, nhà thơ đã tái hiện lại một
cách chân thực hình ảnh người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp – vừa hào hùng
vừa lãng mạn, vừa đoàn kết gắn bó vừa nặng tình yêu với quê hương tổ quốc.
Thân bài
Bài thơ ra đời năm 1948, sau khi Chính Hữu tham gia chiến dịch Việt Bắc
Thu – Đông năm 1947, khi đó nhà thơ vừa tròn 20 tuổi, đảm nhiệm vị trí chính trị viên
đại đội thuộc Trung đoàn Thủ Đô, trong một lần đại đội của ông được biệt phái đi truy
kích địch trên vùng Việt Bắc, bài thơ chính là những trải nghiệm của tác giả về thực tế
cuộc sống của bộ đội ta trong những ngày đầu kháng chiến đầy khó khăn, thử thách.
Bằng ngôn ngữ giản dị, giọng thủ thỉ tâm tình, hai câu thở mở đầu bài thơ đã cho chúng
ta thấy hình ảnh những người “đồng chí” hiện lên thật gần gũi, thân thương, họ vốn là
những người xa lạ, từ những miền quê khác nhau về đây tụ họp, tạo nên tình đồng chí.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Tác giả đã rất khéo léo khi sử dụng cặp từ xưng hô “anh – tôi”. Gọi “anh” xưng “tôi”
thể hiện sự tôn trọng, trân quý dành cho người đồng đội của mình. Một tiếng “anh” như
kéo hai người xa lạ lại gần nhau hơn. Họ đến từ nhiều miền quê khác nhau, nghe theo
tiếng gọi Tổ quốc mà về đây tụ họp. Một nơi là miền “nước mặn đồng chua”, một nơi là
vùng “đất cày lên sỏi đá”, hai địa phương khác nhau nhưng có chung một cái nghèo, cái
vất vả. Có lẽ cảnh nghèo, sự thấu hiểu nỗi vất vả của nhau khiến các anh thấy gần gũi,
thân thiết hơn, tạo nền tảng hình thành nên “tình đồng chí” những con người ấy không
hẹn mà gặp, đều nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà lên đường trở thành
người lính, từ những người xa lạ không biết mặt biết tên trở nên thân thiết hơn, trở
thành đồng chí, đồng đội của nhau:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Những câu thơ mộc mạc, tự nhiên, mặn mà như lời thăm hỏi. Họ hiểu nhau, thương
nhau, chia sẻ với nhau bằng tình tương thân tương ái vốn có từ lâu giữa những người
nông dân chân lấm tay bùn. Nhưng “tự phương trời” họ về đây không phải do cái nghèo
đói xô đẩy, mà do họ có cùng một lí tưởng chung, cùng một mục đích cao cả. Những
người từ mọi phương trời tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội cách mạng và chính nhờ
cơ sở của sự đồng cảm giai cấp, cùng chung cảnh ngộ cho nên họ đã dễ dàng thân quen
với nhau. Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ “Nhớ” của mình cũng thể hiện tình cảm
này
“Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một hai
Súng bắn chưa quen quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến”
Những người xa lạ gặp nhau, không chỉ có chung hoàn cảnh xuất thân, họ còn chung
nhau lí tưởng, nhiệm vụ, họ sát cánh bên nhau để cùng nhau chiến đấu vì độc lập tự do
của dân tộc, và họ trở thành tri kỉ của nhau:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
“Súng” là phương tiện, là vũ khí chiến đấu, “đầu” là biểu tượng của suy nghĩ, tâm tư
người lính. Hai người lính đã kề vai sát cánh để thực thi nhiệm vụ, vượt qua mọi nguy
hiểm nơi chiến trường. Họ cùng chung lý tưởng, chung chí hướng, thấu hiểu tâm tư của
nhau. Tác giả đã sử dụng biện pháp hoán dụ “đầu sát bên đầu” để gợi lên sự chia sẻ,
gắn bó lúc nào cũng có nhau, lúc nào cũng hiểu nhau. Tình đồng chí như càng bền chặt
hơn qua những lần sẻ chia khó khăn, ngọt bùi nơi chiến trường.
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Sự khó khăn, thiếu thốn về vật chất của bộ đội ta những năm đầu đánh Pháp đã được tác
giả gợi lên qua hình ảnh “đêm rét chung chăn”. Bộ đội đóng quân ở rừng, đêm xuống
trời rét cắt da cắt thịt nhưng lại chỉ có một tấm chăn mỏng. Những người lính đã chia
nhau cùng đắp tấm chăn nhỏ nhưng đầy ắp sự yêu thương, sẻ chia. Tưởng như khó khăn
sẽ khiến người lính chùn bước, nản lòng. Nhưng không, khó khăn thì ta chia sẻ, khắc
phục, chính khó khăn đã giúp tình đồng chí thăng hoa hơn, trở thành tri kỷ của nhau.
Người ta nói rằng tình bạn lúc khó khăn chính là tình bạn chân thành và bền chặt nhất.
Khổ thơ khép lại bằng hai tiếng “Đồng chí !”. Không dài dòng, hoa mỹ, chỉ hai từ thôi
nhưng chứa đựng biết bao ý nghĩa. Tiếng gọi “đồng chí” rất trang nghiêm nhưng cũng
vô cùng gần gũi. Giọng thơ trầm xuống tạo cảm giác thiêng liêng, cao quý của tình
đồng đội. Dấu chấm than đặt ở cuối câu khiến câu thơ giàu cảm xúc hơn, giống như
một tiếng gọi, lời chào thân thương dành cho đồng đội. Hai từ “Đồng chí” như chiếc
bản lề, khép lại sự hình thành tình đồng chí để mở ra trang thơ mới – trang thơ của tình
cảm tha thiết, quý giá giữa những người lính với nhau.
Những người đồng chí gắn kết với nhau không chỉ bằng hoàn cảnh, mục đích, lí
tưởng mà bằng sự thấu hiểu những tâm tư, suy nghĩ của nhau:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”
Điều gì khiến cho những chàng trai quanh năm chỉ quen tay cày tay cuốc ấy đã hăng
say lên đường cầm súng chiến đấu? Điều gì khiến những chiếc xe không kính ngày đêm
lao đi trong mưa bom bão đạn? Điều gì khiến những cô gái vốn yếu mềm có thể hiên
ngang chạm vào cái chết vô hình từ những quả bom? Đó chính là lòng chung thủy với
quê hương, với mảnh ruộng nhà mình, với những người thân yêu. Những người lính ấy
mới hôm qua còn tay cày, tay cuốc, nay nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc yêu thương mà
lên đường ra trận. “Ruộng nương” tài sản giá nhất của người nông dân nay phải “gửi
bạn thân cày”, gian nhà cũng bị “gió lung lay”. Trong tâm trí họ chắc chắn vẫn nặng nỗi
nhớ quê. Thế nhưng tình yêu đất nước đã được đặt lên trên tất cả. Họ sẵn sàng gửi lại
những gì quý giá thân thiết nhất của cuộc sống để ra đi vì nghĩa lớn. Hai từ “mặc kệ” đã
thể hiện được tinh thần lạc quan, dứt khoát của người lính. Nặng lòng với quê nhưng
không quên việc nước, dứt khoát vì Tổ quốc nhưng vẫn không quên tình quê hương.
Hai dòng chảy yêu quê và yêu nước vẫn song hành trong tim người chiến sĩ, tiếp thêm
sức mạnh để các anh lên đường. Nhà phê bình Nguyễn Đức Quyền đã nhận xét: “Ở
ngoài mặt trận mà biết gió lay từng gốc cột ngôi nhà mình ở thì thật không còn từ ngữ
nào để diễn tả hết tình cảm thiết tha của họ đối với gia đình mình”. Thế đó, ai mà không
mong muốn được sống yên vui, hạnh phúc trong mái ấm gia đình? Nhưng vì nghĩa lớn,
họ ra đi không tiếc đời mình, bỏ lại sau lưng tất cả những gì thân yêu nhất. Cũng như
vậy, ở ngoài mặt trận mà biết “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” chứng tỏ họ đang
nhớ quê hương, nhớ người mình thương biết nhường nào! Mối giao cảm đậm đà sâu sắc
ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho người lính trên những chặng đường chiến đấu.
Tình đồng chí không chỉ là sự chia sẻ tâm tư mà còn là lúc cùng nhau vượt qua
gian khó.
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Những người lính thường phải đóng quân trong rừng sâu. Nơi rừng thiêng, nước độc,
các anh không chỉ thiếu thốn, khó khăn về vật chất mà còn phải chống chọi với bệnh
tật, trải qua những cơn sốt rét rừng nguy hiểm: “từng cơn ớn lạnh ” “vừng trán ướt mồ
hôi”. Nhà thơ Quang Dũng cũng từng viết
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.
Cái đói và bệnh sốt rét khiến tóc mọc không nổi, da xanh như màu lá. Thế mới biết
được sự khó khăn và thiếu thốn của bộ đội ta ngày xưa lớn đến nhường nào, nhưng tình
yêu quê hương đất nước là động lực để họ có đủ sức mạnh để vượt qua những khó khăn
thử thách, vì vậy mỗi chúng ta cần biết ơn và tự hào về những người chiến sĩ đã hy sinh
cuộc sống riêng vì nghĩa lớn dân tộc. Tác giả cũng không hề né trách hiện thực khốc liệt
của chiến trường qua những câu thơ:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Bằng những câu thơ gợi hình đầy chân thực và xúc động cùng thủ pháp liệt kê, nhà thơ
đã tái hiện được sự vất vả, thiếu thốn của người lính thời chống Pháp. Nơi rừng sâu giá
lạnh nhưng các anh cũng chỉ mặc trang phục mong manh “áo rách vai”, “quần vá” ,
“chân không giày”. Dù thiếu thốn nhưng tinh thần của người lính vẫn luôn lạc quan,
dẫu cho áo có rách, quần vá, trời buốt giá thì trên môi người lính vẫn nở nụ cười. Hình
ảnh “miệng cười buốt giá” gợi hình ảnh về nụ cười lạc quan bừng lên trong giá lạnh xua
tan đi sự khắc nghiệt của chiến trường. Và giữa hoàn cảnh thiếu thốn trăm bề, tình đồng
đội vẫn luôn rực cháy “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hơi ấm từ bàn tay đồng đội
đã tạo nên sức mạnh để đưa người lính vượt qua giá rét, vượt qua gian khổ. Họ không
giàu sang về vật chất, chỉ có đôi bàn tay thôi nhưng tình cảm vẫn rất cao quý và thiêng
liêng, dường như trong cái khổ, tinh thần đồng đội lại càng thắm thiết
Bài thơ khép lại bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc về bức tranh tuyệt đẹp ngay
giữa một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa núi rừng biên
giới trong đêm khuya:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Ba câu thơ mà nói được rất nhiều điều. Đó là hoàn cảnh chuẩn bị chiến đấu, đặc điểm
không gian và thời gian “đêm nay rừng hoang sương muối”. Đó cũng chính là vẻ đẹp
ngời sáng trong gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí
như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết, vẫn đứng canh giữ
cho bầu trời Việt Nam dù đêm đã khuya, sương đã xuống. Hình ảnh người lính bỗng trở
nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Đó là tình đồng
chí keo sơn trong gian khổ, là tinh thần sẵn sàng vào trận: “đứng cạnh bên nhau chờ
giặc tới”. Đó là tâm hồn đầy chất thơ của anh Vệ quốc quân và ý nghĩa cao đẹp của
cuộc chiến đấu của chúng ta “đầu súng trăng treo”. Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn
nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hòa giữa không gian, thời gian,
ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen
vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính không những chân thực mà còn rực rỡ đến
lạ kì. Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận
đánh giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một đêm đã đi
vào lịch sử khiến người lính không thể nào quên.
Đánh giá nội dung và nghệ thuật
Bằng thể thơ tự do, ngôn ngữ chân thực, mộc mạc, biện pháp liệt kê, nhân hóa…,
hình ảnh thơ giản dị, giàu sức gợi, bài thơ đã tái hiện chân thực hình ảnh người chiến sĩ
bình dị nhưng vẫn rất hào hùng của những anh bộ đội cụ Hồ trong những ngày đầu
kháng Pháp.
Kết bài
Lịch sử đã sang trang mới nhưng có lẽ hình ảnh những người nông dân
mặc áo lính vẫn sống mãi trong lòng thế hệ mai sau. Vẻ đẹp của các anh, tinh thần của
các anh sẽ chẳng thế bị bụi thời gian cuốn đi mất đúng như lời nhà thơ Tố Hữu trong
bài thơ Chào xuân 67
“Nếu được làm hạt giống để mùa sau
Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn làm người lính đi đầu
Trong đêm tối, tim ta làm ngọn lửa”
Và chúng ta, những thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước, hãy cố gắng, nỗ lực học tập
để góp phần xây dựng quê hương đất nước ngày một giàu đẹp hơn, đó cũng là hành
động, việc làm thiết thực, để ghi nhớ, tri ân những thế hệ cha ông đã đổ bao nhiêu
xương máu cho chúng ta có một đất nước này.
CHIẾC LƯỢC NGÀ – NGUYỄN QUANG SÁNG
I. Kiến thức cơ bản
1. Tác giả
- Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong
thời kì kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam
Bộ. Từ sau năm 1954, tập kết ra Bắc công tác tại phòng văn nghệ Đài tiếng nói Việt
Nam và bắt đầu viết văn. Từ đó ông công tác ở Hội nhà văn Việt Nam, làm biên tập cho
tuần báo Văn nghệ và Hội nhà văn. Trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, ông tham gia
kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học.
- Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch
bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng
chiến cũng như sau hoà bình.
- Lối viết của Nguyễn Quang Sáng giản dị, mộc mạc, nhưng sâu sắc, đậm đà chất Nam
Bộ.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác :
“Chiếc lược ngà” được viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ,
trong thời kì kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Văn bản đoạn
trích là phần giữa của truyện, tập trung thể hiện tình cảm cha con của ông Sáu và bé
Thu.
b. Ngôi kể :
- Tác giả đã kể chuỵên từ nhân vật “Tôi”- một người chứng kiến câu chuyện. Ngôi kể
này đã tạo được một giọng điệu kể chuyện thủ thỉ, gợi cảm giác chân thực và gần gũi
với người đọc. Khi cần có thể bày tỏ trực tiếp cảm xúc, thái độ đối với sự kiện và nhân
vật.
c. Tên chuỵên :
“Chiếc lược ngà” là cầu nối tình cảm giữa hai cha con ông Sáu. Chiếc lược ngà là kỉ vật
của người cha vô cùng yêu con để lại cho con trước lúc hy sinh.
d. Tình huống cơ bản của truyện.
- Cuộc gặp gỡ của hai cha con sau 8 năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không
nhận cha. Đến lúc em nhận ra cha và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra
đi
- Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm
chiếc lược ngà để tặng con, nhưng chiếc lược chưa gửi đến tay con thì ông Sáu đã hi
sinh.
Tình huống thứ nhất là tình huống cơ bản. Và nếu tình huống này bộc lộ tình cảm mãnh
liệt của bé Thu với cha thì tình huống thứ hai bộc lộ tình cảm sâu sắc của người cha đối
với đứa con.
e. Tóm tắt
- Ông Sáu ở chiến khu về thăm nhà với hy vọng gặp lại đứa con sau tám năm xa cách,
hai bố con chưa hề gặp mặt.
- Mấy ngày đầu, do vết sẹo trên mặt ông Sáu khác với tấm hình chụp ở nhà nên bé Thu
không nhận bố.
- Đến hôm ông Sáu phải lên đường, nghe bà ngoại giải thích về vết sẹo, bé Thu đã nhận
ba của mình.
- Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm
cho con gái một chiếc lược chải tóc bằng ngà. Lúc hấp hối (do bị trúng đạn máy bay
Mĩ) ông đã nhờ đồng đội chuyển chiếc lược ngà cho con.
g. Nghệ thuật trần thuật của truyện:
- Một trong những điểm tạo nên sức hấp dẫn của truyện là tác giả đã xây dựng được
một cốt truyện khá chặt chẽ, có những yếu tố bất ngờ tự nhiên nhưng hợp lí : Bé Thu
không nhận ra cha khi ông Sáu về phép thăm nhà, rồi lại biểu lộ những tình cảm thật
nồng nhiệt, đầy xúc động với người cha trước lúc chia tay. Sự bất ngờ càng gây được
hứng thú cho người đọc khi hiểu được tính hợp lí của các sự việc, hành động bề ngoài
có vẻ mâu thuẫn. Ở phần sau của truyện, tác giả còn tạo thêm một bất ngờ nữa, đó là
cuộc gặp gỡ tình cờ của nhân vật người kể chuyện với Thu, bấy giờ đã thành một cô
giao liên dũng cảm, trong một lần ông cùng một đoàn cán bộ đi theo đường dây giao
liên, vượt qua một quãng nguy hiểm ở Đồng Tháp Mười.
- Một yếu tố nghệ thuật nữa góp phần tạo nên thành công của truyện ngắn này là việc
lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Người kể chuyện trong vai một người bạn thân
thiết của ông Sáu, không chỉ là người chứng kiến khách quan và kể lại mà còn bày tỏ sự
đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật. Đồng thời qua những ý nghĩ, cảm xúc nhân vật kể
chuyện, các chi tiết, sự việc và nhân vật khác trong truyện bộc lộ rõ hơn, ý nghĩa tư
tưởng của truyện thêm sức thuyết phục.
+ Truyện được trần thuật theo lời của người bạn ông Sáu, người đã chứng kiến những
cảnh ngộ éo le của cha con ông. Cảnh ngộ ấy đã gợi lên bao nhiêu xúc động ở nhân vật
kể chuyện : “tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người,
nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba”
như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu những hi sinh mà bạn mình
phải chịu đựng khiến cho ông “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm lấy trái tim”.
+ Chọn nhân vật kể chuyện như vậy khiến cho câu chuyện trở nên đáng tin cậy hơn.
Người kể chuyện lại hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của
mình, chủ động xen vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn dắt sự tiếp nhận của
người đọc, người nghe. (VD : trong cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng kiến không
biết bao nhiêu cuộc chia tay, nhưng chưa bao giờ tôi bị xúc động như lần ấy, “cây lược
ngà chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của
anh”)
Mở bài
Xantưkôp Sêđrin đã từng nói: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng
hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Vậy điều gì đã khiến các tác phẩm nghệ
thuật bất tử? ở tài năng hay ở tấm lòng của người cầm bút? Phải chăng, văn chương
muôn đời là nơi mà người nghệ sĩ đã mang hiện thực vào trang viết của mình bằng tất
cả tấm chân tình mà ẩn sâu trong đó là những tư tưởng, thông điệp quý báu để gửi gắm
đến độc giả điều đó đã khiến cho những tác phẩm văn chương sống mãi trong lòng bạn
đọc và nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng là một trong số những người nghệ sĩ như thế.
Tác phẩm Chiếc lược ngà của ông là một tác phẩm viết về tình phụ tử sâu nặng của cha
con ông Sáu và đằng sau câu chuyện được kể một cách khách quan là tiếng nói lên án
chiến tranh xâm lược gây bao đau khổ cho con người. (trọng tâm là gì thì lưu ý trọng
tâm)
Thân bài
Nguyễn Quang Sáng viết truyện Chiếc lược ngà năm 1966, tại chiến
trường Nam Bộ trong thời kì chống Mĩ. Là một nhà văn quê ở miền Tây Nam Bộ, hầu
như ông chỉ viết về cuộc sống và con người của quê hương trong chiến tranh và sau hoà
bình. Truyện ngắn Chiếc lược ngà ra đời trong hoàn cảnh đạn bom ác liệt nhưng lại tập
trung nói về tình người, cụ thể là tình cha con của người chiến sĩ cách mạng.
Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến lúc đứa con gái đầu lòng chưa đầy một
tuổi. Mãi đến khi nó lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà. Con bé không nhận anh
Sáu là cha vì vết sẹo trên mặt khiến anh không giống trong bức ảnh chụp cùng với vợ
mà bé Thu đã được má cho xem. Đến lúc bé Thu nhận ra cha thì cũng là lúc anh Sáu
phải ra đi. Tình cha con thiêng liêng trỗi dậy mãnh liệt trong em khiến cho mọi người
xúc động. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương vào việc làm
một chiếc lược bằng ngà để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn của giặc, anh
Sáu bị thương nặng. Trước lúc nhắm mắt, anh còn kịp trao cây lược ngà cho người bạn,
nhờ bạn mang về quê trao tận tay con gái của mình.
Tình cha con sâu sắc được tác giả thể hiện qua hai tình huống: Tình
huống thứ nhất là cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách. Thu đối xử với cha
như đối với người xa lạ. Đến lúc em nhận ra và ôm riết lấy cha, thể hiện tình cảm mãnh
liệt thì anh Sáu lại phải ra đi làm nhiệm vụ.
Tình huống thứ hai là ở khu căn cứ, anh Sáu dồn tất cả tình yêu
thương, mong nhớ con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng anh đã hi sinh và
không kịp trao món quà ấy cho con gái. Tình huống này thể hiện tình cảm sâu nặng của
người cha đối với con.
Sau nhiều năm xa cách, anh Sáu chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn
mang bên người. Đến lúc được về thăm nhà, bao nỗi nhớ thương chất chứa từ lâu nên
anh Sáu không kìm được niềm vui khi nhìn thấy bé Thu. Cái tình người cha cứ nôn nao
trong người anh:"Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc
quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà, đoán biết là
con, không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt
ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to:
Thu! Con!". Nhưng thật trớ trêu, đáp lại tình cảm nồng nàn của người cha, bé Thu lại tỏ
ra sợ hãi và ngờ vực. Anh Sáu càng muốn gần con để vỗ về yêu thương thì đứa con lại
càng tỏ ra lạnh nhạt, xa lánh.
Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu trong lần gặp cha đầu tiên
được tác giả miêu tả ở hai thời điểm trước và sau khi nhận ra cha. Tâm lí và thái độ của
bé Thu được tác giả thuật lại rất sinh động qua hàng loạt các chi tiết vừa cảm động, vừa
buồn cười: Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Lần đầu
tiên nhìn thấy người đàn ông lạ, lại xưng là ba, con bé hết sức hoang mang và sợ hãi,
mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má ! Má !". Khi má bảo gọi ba vào ăn
cơm, nó nhất quyết không chịu. Má ép quá, bé Thu chỉ gọi trống không: "Vô ăn cơm!".
Kể cả lúc má đi vắng, nó lâm vào thế bí, muốn nhờ anh Sáu chắt bớt nước nồi cơm
đang sôi mà cũng vẫn nói trổng, nhất định không gọi là ba. Anh Sáu lặng im xem nó
làm cách nào. Bé Thu lấy vá (muôi) múc nước ra, vừa múc vừa lầu bầu tức giận. Bữa
cơm, anh Sáu âu yếm gắp cho con cái trứng cá vàng ươm. Bé Thu bất ngờ lấy đũa hất
rơi xuống đất. Anh Sáu không nén được tức giận, đánh con một cái vào mông. Bé "lặng
lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm" bỏ ăn, chèo xuồng về nhà bà ngoại bên kia sông. Lúc
cởi dây xuồng, nó còn cố ý khua dây xích kêu rộn ràng để tỏ ý bất bình.
Sự ương ngạnh của bé Thu đúng là tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên
không đáng trách. Trong hoàn cảnh chiến tranh, Thu còn quả nhỏ nên không thể hiểu
được những tình thế khắc nghiệt, éo le. Phản ứng rất tự nhiên chứng tỏ bé Thu có cả
tính mạnh mẽ, tình cảm sâu sắc và chân thật. Bé chỉ yêu khi tin chắc người đó đúng là
ba của mình. Trong thái độ cứng đầu của bé ẩn chứa cả sự kiêu hãnh dành cho người
cha thân yêu - tức là người đàn ông điển trai trong tấm hình chụp chung với má.
Khi đã nhận ra ba, cảm xúc và hành động của bé Thu biểu hiện thật
mãnh liệt, khác hẳn lúc trước. Ba ngày nghỉ phép đã hết. Trước lúc lên đường, anh Sáu
đang bịn rịn chia tay thì bất chợt bé Thu cất tiếng gọi ba và tiếng kêu như xé, xé sự im
lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba" mà nó cố đè nén
trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba" như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa
chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba
nó. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má
của ba nó nữa... Hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba
nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run. Điều gì
đã dẫn đến sự thay đổi đột ngột trong thái độ cùa bé Thu? Thì ra khi bỏ về nhà bà ngoại,
Thu đã được bà giải thích về vết sẹo làm thay đổi vẻ mặt của cha là do giặc Pháp bắn bị
thương. Sự nghi ngờ đã được giải toả và bé Thu ân hận, hối tiếc về cung cách cư xử
lạnh nhạt của mình đối với cha: Nghe bà kể, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở
dài như người lớn. Vì thế, trong phút chia tay, tình yêu và nỗi mong nhớ đối với người
cha xa cách bấy lâu đã bùng ra thật mạnh mẽ khiến bé Thu bối rối, cuống quýt. Chứng
kiến cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu, nhiều người không cầm được nước mắt. Lòng
trắc ẩn, sự thấu hiểu những hi sinh mà bạn mình phải chịu đựng khiến cho bác Ba tức
người kể chuyện - thật sự xúc động. Diễn biến câu chuyện được trần thuật theo lời bác
Ba, người bạn thân thiết của anh Sáu. Bác Ba đã chứng kiến tận mắt cảnh ngộ éo le của
cha con anh Sáu và trong lòng bác dâng lên một nỗi xót xa. Bác bỗng thấy khó thở như
có bàn tay nắm lấy trái tim.
Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, ngôn ngữ và hành động của bé Thu,
tác giả đã làm nổi rõ một số nét trong tính cách nhân vật. Tình cảm cha con của bé Thu
thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Cá tính của bé Thu cứng cỏi
đến mức ương ngạnh, nhưng thực ra Thu rất hồn nhiên, ngây thơ. Tác giả tỏ ra am hiểu
và diễn tả rất sinh động tình cảm trẻ thơ trong sáng. Tình cảm cha con sâu nặng đã được
tác giả thể hiện phần nào trong chuyến anh Sáu về phép thăm nhà và được miêu tả kĩ
lưỡng hơn khi anh Sáu vào căn cứ kháng chiến trong rừng sâu. Sau khi chia tay với gia
đình, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh anh Sáu suốt nhiều ngày là việc anh đã lỡ tay đánh
con. Lời dặn tha thiết của đứa con: Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!", đã
thôi thúc anh nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh dành tặng con gái. Kiếm
được một khúc ngà voi nhỏ, anh Sáu mừng rỡ vô cùng. Anh dành hết tâm trí vào việc
làm cây lược: Anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ
bạc. Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc
từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba".
Chiếc lược ngà đã thành một kỉ vật quý giá, thiêng liêng đối với anh
Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận, dằn vặt bấy lâu và ấp ủ bao nhiêu tình cảm nhớ thương,
mong đợi của người cha đối với đứa con xa cách. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái
tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh. Nhưng rồi một tình
cảnh đau thương lại đến với cha con anh Sáu. Anh đã hi sinh khi chưa kịp trao tận tay
đứa con gái chiếc lược ngà. Những lời kể lại của bác Ba, người trong cuộc, đã làm nổi
bật giá trị thiêng liêng bền vững của tình cha con và tình đồng chí của những chiến sĩ
cách mạng.
Đánh giá nội dung nghệ thuật
Tác phẩm thành công trong việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, giọng kể
mộc mạc, tự nhiên. Ngôn ngữ gần với khẩu ngữ và đậm màu sắc Nam Bộ. Miêu tả tâm
lí, đặc biệt là tâm lí trẻ em rất tinh tế và chính xác qua đó nói lên tình cha con sâu nặng,
thiêng liêng đồng thời cũng thể hiện sự nhạy cảm và tấm lòng yêu thương, trân trọng
của nhà văn với con người và cuộc đời.
Kết bài
Ernest Hemingway từng nói: “Tất cả các tác phẩm nghệ thuật đều có sự
bất tử của riêng nó. Bởi vì nó là sản phẩm bền vững nhất của lao động và trí tuệ con
người.”. Rồi mai này các tranh tượng có thể tiêu tan, các đền đài có thể bị sụp đổ, chỉ có
những tác phẩm văn học chân chính mới có thể vượt qua được quy luật băng hoại của
thời gian để tồn tại vĩnh viễn. Tác phẩm Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng là một
tác phẩm như thế, tác phẩm khiến người đọc cảm thấy thật thấm thía, xúc động trước
tình cảm cha con. Qua đó, chúng ta càng cảm thấy yêu, càng cảm thấy trân trọng hơn
tình cảm đối với gia đình, với quê hương, đất nước.
LẶNG LẼ SA PA
“Lặng lẽ Sa Pa” là truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thành Long sáng tác năm
1970. Truyện ra đời trong hoàn cảnh miền Bắc đang đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, là hậu phương lớn cho tiền tuyến miền Nam. Ra đời trong giai đoạn ấy,
truyện mang dấu ấn của một thời điểm lịch sử mà mọi người dân đều có ý thức sống
cho cái chung và dường như quên đi chính bản thân mình. Người thanh niên làm khí
tượng trong truyện là một điển hình cho thế hệ thanh niên chỉ biết xả thân mình cho đất
nước. Đọc “Lặng lẽ Sa Pa”, chúng ta chợt thấy mình như lắng lại trong chiều sâu xúc
cảm.
Truyện bắt đầu thật tự nhiên theo vòng quay của bánh chiếc xe chở khách lên
Tây Bắc và lời kể của người lái xe. Hình ảnh người thanh niên chạy xuống đón xe khi
xe ngừng đă ngay lập tức làm người đọc phải chú ý: “người con trai tầm vóc bé nhỏ, nét
mặt rạng rỡ”. Phải, chính người con trai ấy là nhân vật chính trong truyện, là người làm
nên những điều bất ngờ không những chỉ cho người hoạ sĩ già và cô kĩ sư trẻ mà còn
cho cả người đọc.
Giá trị của “Lặng lẽ Sa Pa” là ở chỗ tác phẩm đã khắc hoạ được chân dung của
những con người trẻ tuổi dám nghĩ, dám làm, dám sống đầy bản lĩnh và nghị lực, sống
tốt cho mình và cho mọi người.
Nhân vật đầu tiên phải nhắc đến là anh thanh niên hai mươi bảy tuổi đời, sống và
làm việc một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai ngàn sáu trăm mét. Anh đã sống thật đặc
biệt và nghĩ suy thật đặc biệt ở cái độ tuổi tưởng chừng chưa “chín” ấy. Sống một mình
trên đỉnh núi mây mờ quanh năm bao phủ, mọi người phong cho anh biệt hiệu “người
cô độc nhất thế gian”, nhưng anh vẫn vui vẻ và yêu đời, sống tốt. Nhìn vườn hoa quanh
nhà anh với đủ các loại hoa rực rỡ, nhìn căn phòng ngăn nắp, sạch sẽ của anh, người ta
buộc phải hiểu đây là một con người nghiêm túc, có chiều sâu. Càng phải hiểu điều đó
hơn nữa khi nghe những lời anh tâm sự. Anh cũng là người, cũng biết buồn, biết sợ.
Lúc mới lên làm việc, anh buồn đến nỗi khiêng cây chắn ngang đường để chặn xe lại,
để gặp mọi người,vì anh “thèm người lắm”. Ôi, cái cảm giác “thèm người” ấy mới chân
thật làm sao! Quả thực làm sao mà sông nôi khi quanh ta không có ai.
Còn nữa, anh quan niệm cũng thật thú vị: “Khi ta làm việc, ta với công việc là
đôi”, và sách nữa, sách cũng là bạn, là người để anh tâm sự, trò chuyện. Suy nghĩ như
vậy, anh cảm thấy bớt cô đơn. Rõ ràng, con người ấy sông bằng ý chí, bằng một tình
yêu thật lớn với cuộc đời.
Chính cách sống và nghĩ suy của anh đã làm cho người hoạ sĩ già và cô gái trẻ
phải suy ngẫm. Người hoạ sĩ già đang cảm thấy mình như trẻ lại với ước ao làm được
thật nhiều việc có ý nghĩa. Còn cô gái, “trong cô dâng lên cảm giác hàm ơn”, có lẽ,
chính anh đã thắp sáng lên trong cô bao hoài bão, bao ước nguyện thánh thiện được
dâng hiến sức lực của mình cho cuộc đời.
Nhân vật thứ hai trong truyện có lẽ nên nói về cô gái này. Cô vừa ra trường, nhận
công tác tại CTy Nông nghiệp Lai Châu. Chính tác giả đã khẳng định về cô: “Cô là
thanh niên thề ra trường có thể đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì, nhận bất kì lương
hướng, tiếp đón thế nào, cô thấy lòng cô cũng nhẹ nhàng”. Như vậy, chính cô gái cũng
là một mẫu người dám xông pha, dám sống cao hơn cuộc sống chật hẹp của đời thường.
Lần đầu xa Hà Nội, cô thấy mình háo hức, đầy những xúc cảm kì lạ. Cô bấy giờ chính
là anh của những năm tháng trước, ởcô, người đọc có quyền tin tưởng rồi đây, tại một
nơi nào đấy, cô cũng sẽ vui vẻ hoàn thành mọi công việc được giao, ởbuổi ban đầu
bước vào đời, cô gặp anh đểmột lần nữa thấy được hướng đi đúng cho mình và bước đi
mạnh mẽ, can đảm hơn.
Như vậy, hai người trẻ tuổi ấy đã gặp nhau trong niềm say mê chung đối với
công việc, trong ý thức chung về sự cống hiến cho đất nước. Niềm mê say tràn đầy
nhựa sống ấy của họ làm bừng lên sức trẻ cho tác phẩm. Và chính người họa sĩ ở vào
tuổi đã chuẩn bị về hưu lại muốn mình được tiếp tục sống và làm việc cho đời. Ông dự
định đi “thực tế” chuyến cuối cùng rồi về cùng anh em liên hoan tiễn biệt. Nhưng đến
đây, ông bỗng cảm nhận mình còn phải sống và hiến dâng. Ông quyết sẽ trở lại, để
“biết cái yên lặng lúc một giờ sáng chon von trên cao nó thế nào”.
Ra đời năm 1970, trong không khí hai miền đang hăng say xây dựng và chiến
đấu, “Lặng lẽ Sa Pa” đã từ trong lặng lẽ mà tạo nên những âm vang rất riêng, góp phần
giúp cho mọi người nhìn nhận người mà sống tốt hơn, dâng hiến nhiều hơn. Hình ảnh
chàng trai và cô gái với những suy nghĩ và việc làm của họ nghe cứ như một huyền
thoại khiến cho lớp trẻ ngày nay chợt giật mình để nghĩ suy về mình nhiều hơn. Liệu
chúng ta có dám tự nguyện sống và hành động, suy nghĩ như họ không? Đó là câu hỏi
mà chúng ta, những học sinh cần phải biết trả lời cho một ngày không xa của tương lai
mình.
Bằng giọng kể chân thật, hồn hậu mà cũng thật giản dị, bằng cách xây dựng
truyện theo một trình tự tự nhiên trước – sau, bằng cách kết hợp miêu tả cảnh với tình,
tác giả Nguyễn Thành Long đã khéo léo đưa người đọc đến với đỉnh cao Yên Sơn ngập
tràn mây và gió, đểtiếp xúc và hiểu được những con người thật sự lí tưởng, đểyêu thêm
cuộc sống, yêu thêm công việc.
“Lặng lẽ” mà lại không lặng lẽ, tác phẩm Nguyễn Thành Long đã đểlại tiếng
vang cho hôm nay. Hy vọng, đó sẽ là những vang vọng trong tâm hồn của nhiều thế hệ
thanh niên mai sau.
NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI
1. Dàn ý phân tích Những ngôi sao xa xôi
I. Mở bài
- Giới thiệu vài nét về tác giả Lê Minh Khuê: một tác giả thuộc thế hệ nhà văn trong
thời kì kháng chiến chống Mĩ
- Giới thiệu về văn bản “Những ngôi sao xa xôi”: khắc họa thành công hình ảnh tiêu
biểu của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh sống và chiến đấu
- Các cô gái sống trong một cái hang dưới chân cao điểm – nơi tập trung nhiều bom đạn
và sự nguy hiểm ác liệt
- Họ uống nước suối đựng trong ca hoặc bi đông, tắm ở suối, dụng cụ giải trí duy nhất
là một cây đài bán dẫn nhỏ để nghe nhạc và tin tức
- Công việc đặc biết nguy hiểm: chạy trên cao điểm cả ngày, phơi mình giữa vùng trọng
điểm, sau mỗi trận bom phải đo khối lượng đất đá lấp vào hố bom, khi cần thì phải phá
bom.
⇒ Hoàn cảnh sống vô cùng nguy hiểm, luôn căng thẳng, cái chết luôn rình rập đòi hỏi
sự bình tĩnh, tự tin và dũng cảm.
2. Điểm chung của các cô gái
- Họ có phẩm chất chung của người chiến sĩ thanh niên xung phong:
- Họ có lí tưởng sống cao đẹp: họ sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân, hi sinh hạnh phúc cá
nhân để nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc
- Kiên cường dũng cảm đối mặt với mưa bom bão đạn
+ Nơi các cô làm việc quả là một thử thách, không sợ hi sinh
+ Bị thương nhưng vẫn sẵn sàng bám trụ chia lửa cùng đồng đội
- Tinh thần trách nhiệm cao với công việc: Khối lượng công việc lớn nhưng các cô
thường cố gắng hoàn thành tốt mà không cần nhờ đến sự giúp đỡ
- Họ còn có tình đồng chí, đồng đội gắn bó đầy yêu thương
+ Khi Nho bị thương, chị Thao lo cho Nho, Phương Định rửa cho Nho bằng nước đun
sôi, tiêm cho Nho, chăm sóc Nho như một cô y tá thành thạo
⇒ Chính tình đồng đội ấy giúp các cô động viên nhau hoàn thành nhiệm vụ
3. Điểm riêng của mỗi người
- Nhân vật Nho
+ Nho là em út, tính trẻ con, thích ăn kẹo, có dáng vẻ nhỏ nhắn, cứ mỗi lần đi trinh sát
về lại đi tắm khiến Phương Định liên tưởng Nho như một que kem mát mẻ. Nhưng khi
bị thương lại luôn là một cô gái rắn rỏi và bản lĩnh
- Nhân vật Thao
+ Chị Thao là chị cả nhưng lại thích làm duyên: Lông mày tỉa nhỏ như cái tăm, áo lót
cái nào cũng thêu chỉ màu. Chị rất chăm chép bài hát mặc dù không hát trôi chảy bài
nào.
+ Trong công việc luôn dũng cảm quyết đoán nhưng lại rất sợ máu và sợ vắt
⇒ Trong cô có sự kết hợp giữa cái nhút nhát, mềm yếu và cái bản lĩnh quyết đoán đến
vô cùng
- Nhân vật Phương Định
+ Định là một cô gái hồn nhiên, hay mơ mộng hay sống với kỉ niệm của thiếu nữ ở
thành phố nơi cô sống
+ Phương Định còn rất dũng cảm trong một lần phá bom, cô bản lĩnh hơn khi nghĩ rằng
có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình
+ Cô không sợ chết mà chỉ sợ đường không thông không hoàn thành nhiệm vụ
⇒ Các cô đều có những nét tính cách đẹp đẽ và đáng yêu, là những con người sinh
động từ cuộc sống thực bước vào tác phẩm một cách tự nhiên
III. Kết bài
- Khẳng định lại những thành công về nội dung nghệ thuật:
+ Nghệ thuật: ngôi kể thứ nhất, miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế
+Nội dung: Khẳng định sự kiên cường bất khuất cùng những phẩm chất vô cùng đáng
yêu của ba cô gái nói riêng và thế hệ trẻ Việt Nam bấy giờ nói chung.
LÀNG – KIM LÂN
1. Dàn ý Phân tích truyện ngắn Làng của Kim Lân
a) Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:
Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 - 1945 với
những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc, gắn bó với thôn quê, từ
lâu đã am hiểu người nông dân.
Làng (1948) đã thể hiện thành công vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam với
làng, với nước trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp.
b) Thân bài
* Khái quát về tác phẩm
Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “Làng” được viết năm 1948 - thời kì đầu của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nội dung cốt truyện: Ông Hai là một người vô cùng yêu quý làng quê mình vì thế khi
Pháp đến đánh chiếm ông quyết định ở lại làng làm du kích, làm thanh niên chống giặc
dù tuổi đã cao.
Nhưng vì hoàn cảnh gia đình ông buộc phải tản cư lên thị trấn Hiệp Hòa. Thế rồi một
hôm ông nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, khi đó ông đã vô cùng đau khổ. Nhưng cho
đến khi nghe tin cải chính về làng ông vui sướng đến mức đi khoe nhà ông bị đốt hết
trong niềm tự hào.
* Luận điểm 1: Phân tích tình huống truyện
- Tình huống: Ông Hai luôn yêu và tự hào về làng của mình, nay nghe tin làng chợ Dầu
theo giặc
-> Tình huống đối nghịch với tình cảm tự hào mãnh liệt về làng Chợ Dầu của ông Hai,
khác với suy nghĩ về một làng quê “tinh thần cách mạng lắm” của ông.
- Ý nghĩa của tình huống: Tình huống khiến diễn biến tâm trạng nhân vật thay đổi mạnh
mẽ, thử thách lòng yêu làng và yêu nước của nhân vật ông Hai.
* Luận điểm 2: Tình yêu làng, yêu nước ở nhân vật ông Hai
- Tình yêu làng của ông Hai trước Cách mạng
Ông khoe về làng: giàu và đẹp, lát đá xanh, có nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh, phong
trào cách mạng diễn ra sôi nổi, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre...
Ông tự hào về làng mình từ cơ sở vật chất cho tới cái sinh phần của tổng đốc làng ông,
vinh dự vì làng có bề dày lịch sử.
- Tình yêu làng của ông Hai sau Cách mạng.
+ Ông khoe về tinh thần cách mạng của làng ông, ngay cả cụ râu tóc bạc phơ cũng vác
gậy đi tập, ông khoe những hố, ụ và hào.
- Diễn biến tâm trạng ông Hai:
Trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
Khi biết tin làng chợ Dầu theo Tây được cải chính.
- Đặc sắc nghệ thuật:
Ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dân
Lời nói trần thuật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu theo lời nhân vật ông Hai
(ngôi thứ 3)
Ngôn ngữ nhân vật của ông Hai vừa mang nét chung của người nông dân nhưng cũng
mang điểm riêng biệt đậm cá tính của nhân vật nên rất sinh động
Giọng điệu trần thuật tự nhiên thân mật đôi khi dí dỏm của nhân vật.
Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối
thoại và độc thoại.
c) Kết bài
Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của truyện.

You might also like