Professional Documents
Culture Documents
Mở bài
Xantưkôp Sêđrin đã từng nói: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ
mình nó không thừa nhận cái chết”. Vậy điều gì đã khiến các tác phẩm nghệ thuật bất
tử? ở tài năng hay ở tấm lòng của người cầm bút? Phải chăng, văn chương muôn đời là
nơi mà người nghệ sĩ đã mang hiện thực vào trang viết của mình bằng tất cả tấm chân
tình mà ẩn sâu trong đó là những tư tưởng, thông điệp quý báu để gửi gắm đến độc giả
và nhà thơ Hữu Thỉnh cũng là một trong số những người nghệ sĩ như thế. Bài thơ Sang
Thu là những cảm nhận tinh tế cùng sự quan sát vô cùng tỉ mỉ của nhà thơ về sự biến
chuyển của đất trời từ cuối mùa hạ sang thu. Từ đó bộc lộ tình yêu thiết tha với thiên
nhiên của một tâm hồn nhạy cảm và sâu sắc. (trọng tâm là gì thì lưu ý trong tâm)
Thân bài
Bài thơ Sang Thu được nhà thơ Hữu Thỉnh sáng tác 1977 (hai năm sau ngày đất nước
được giải phóng) trong một cuộc thi thơ tại trại hè. Bài thơ là sự cảm nhận tinh tế, quan
sát tỉ mỉ của tác giả về sự chuyển mình của đất trời từ cuối hè sang thu. Nhan đề “Sang
thu” không chỉ thể hiện khoảnh khắc đất trời, thiên nhiên đang đứng trước sự chuyển
giao giữa mùa hạ và mùa thu với cảnh sắc thiên nhiên đẹp mà còn mang ý nghĩa phản
ánh một giai đoạn chuyển giao của cuộc đời. Đó là giai đoạn chuyển giao từ tuổi trẻ
sang lứa tuổi trưởng thành, chững chạc và nhiều suy tư hơn. Một năm có bốn mùa Xuân
– Hạ - Thu – Đông thay phiên luân chuyển, mùa Xuân đi thì Hạ đến và Hạ đi thì Thu
tới, tự nhiên là thế, và mùa hạ đang trôi qua mau chóng nhưng những sắc màu của nó
vẫn còn phảng phất đâu đây trong hương sắc trời thu để tác giả phải lưu luyến bâng
khuâng như một hoài niệm và chợt giật mình khi thu sang.
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ.
Hình như thu đã về.
Không như một số nhà thơ cảm nhận mùa thu qua sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô
đồng hay qua tiếng lá vàng rơi xào xạc, đó là cách cảm nhận mùa thu qua thị giác và
thính giác, Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu bằng nhiều giác quan, đầu tiên là khứu giác
với hương vị riêng đặc biệt độc đáo: hương ổi.
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”
Từ “bỗng” thể hiện sự đột ngột, bất ngờ trong cảm nhận về cảnh sắc đất trời. Khoảnh
khắc bất chợt nhận ra đất trời đã chớm sang thu đối với nhà thơ rất dân dã, giản dị và
gần gũi, nó đến từ “hương ổi” thơm ngào ngạt, ngọt ngào, một thức quà quê quen thuộc
với mỗi người dân Việt Nam. Hương ổi ấy, không phải chỉ thoang thoảng mà “Phả vào
trong gió se”, "Phả" nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra thành luồng, khiến thi nhân cảm nhận
được một cách rõ nét và ý thức được sự chuyển giao giữa mùa hạ và mùa thu. Sự tinh tế
của tác giả chính là ở việc không tả mà chỉ gợi. Hương ổi thơm lừng trong gió se gợi
cho người đọc màu vàng ươm của những trái ổi nơi vườn quê trong một buổi chiều cuối
hạ, đầu thu. Và vì có gió thu “se” lạnh nên hương ổi mới thêm nồng nàn, phả vào đất
trời và hồn người để cho tác giả “bỗng” phát hiện ra thu đã về. Không chỉ có “hương
ổi” trong “gió se”, nhà thơ còn nhận thấy:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Biện pháp nghệ thuật nhân hóa “sương chùng chình” gợi tả sự chậm rãi, nhẹ nhàng của
màn sương giống như một nàng “Thu” yêu kiều đang bước tới. Sương bay qua ngõ,
giăng mắc trên những cành cây khô đầu ngõ cuối thôn. Thế nhưng, dù đã cảm nhận
được mùa thu qua ba giác quan khứu giác - hương ổi, gió se – xúc giác, sương chùng
chình – thị giác nhưng tác giả vẫn chưa hết sững sờ, vẫn chưa dám tin là thu đã về nên
mới mơ hồ: “Hình như thu đã về”. Ấy là những giờ phút đầu tiên của mùa thu chợt tới,
thu chợt tới trong rất nhiêu ngơ ngác, bâng khuâng.
Nếu ở khổ một, mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ, thì ở khổ thơ này,
tác giả đã khẳng định: thu đến thật rồi. Thu có mặt ở khắp nơi, rất hiện hình, cụ thể
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Dòng sông lúc sang thu không còn cuồn cuộn gấp gáp như ngày hạ mà bỗng trở nên
thong thả, dềnh dàng, lờ lững trôi như đang còn ngẫm ngợi suy tư. Đối lập với hình ảnh
dòng sông là hình ảnh những cánh chim bắt đầu vội vã, gấp gáp như đứa con sợ lỡ mất
chuyến xe cuối cùng để trở về nhà. Có lẽ nó đang chuẩn bị cho cuộc hành trình bay đi
tránh rét ở phương xa, hay cũng có thể nó chỉ đang vội vã quay về tổ trước lúc những
ánh mặt trời cuối cùng vỡ tan vào trong màn đêm. Phải là người yêu thiên nhiên và thật
tinh tế mới nhận ra được những chuyển biến đặc trưng của khoảnh khắc giao mùa.
M.Gorki từng nói: “thơ là tâm hồn”, vậy chắc chắn tâm hồn nhà thơ phải luôn đong đầy
cảm xúc mới có những cảm nhận tinh tế và sâu sắc như thế. Mùa thu không chỉ được tái
hiện qua hình ảnh dòng sông, cánh chim mà còn qua hình ảnh đám mây
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Phải chăng, mùa thu chỉ đang ở nơi cửa ngõ của mùa, vì vậy đám mây chỉ vừa mới “vắt
nửa mình” mà thôi. Đám mây tựa như một dải lụa bồng bềnh vắt nửa mình sang thu.
Thực tế, giữa hạ và thu làm gì có một “ranh giới” rạch ròi nào phân cách? vậy mà Hữu
Thỉnh lại vẽ nên ranh giới cho một thứ vô hình như thế. Ông tinh tế dùng hình ảnh của
không gian để diễn tả lại sự vận động diệu kỳ của thời gian. Đám mây kia là thật, nhưng
ranh giới của mùa là ảo. Bầu trời ấy như nhuộm nửa sắc thu để rồi đến một lúc nào đó
sẽ là cả một bầu trời cao, xanh, trong vắt như cách cảm nhận về mùa thu của Nguyễn
Khuyến
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”
Hai câu thơ không chỉ hát về khúc ca mùa mà còn như chất chứa cả những suy tư, trăn
trở của nhà thơ. Khi viết bài thơ này, tác giả tâm sự rằng ông đã từng liên tưởng đến
những đám mây thu trọn vẹn. Thế nhưng, dường như đã có gì níu giữ tâm trí ông theo
chiều hướng “một nửa” ấy. Có lẽ mây mùa hạ đã mang theo tất cả những hoài bão,
những ước mơ của tuổi trẻ, cuốn theo bao sức sống mãnh liệt của tuổi vô ưu, vô lo, tô
nên một mùa hạ ngập tràn màu sắc, sặc sỡ và nên thơ hơn bao giờ hết. Vậy mà, giữa mơ
và thực luôn bị ngăn cách bởi một ranh giới vô hình nào đó khiến chúng khó mà trọn
vẹn. Sự dở dang, mất mát là một hiện thực mà ta buộc phải học cách chấp nhận, có lẽ vì
vậy, đám mây chỉ có thể vắt nửa mình sang thu mà thôi. Những đồng đội, những người
lính ngoài chiến trường của ông năm ấy cũng thế, họ đã ra đi, đã “gục lên súng mũ bỏ
quên đời” (Tây Tiến), bỏ quên cả tuổi trẻ và tương lai tươi sáng phía trước. Cùng với
họ, những hoài bão kia sẽ mãi mãi nằm lại nơi chiến trường mà chẳng bao giờ có thể trở
về được nữa, tựa hồ nửa đám mây còn vắt vẻo phía bên mùa hạ, tất cả sẽ chỉ còn là hồi
ức…Những biến chuyển của tạo vật tới đây đã hóa thành những suy tư của đời người
lúc khoảng khắc thu vừa chớm nở.
Trong khổ thơ cuối nhà thơ đã bộc lộ hết những trăn trở từ tận đáy lòng mình:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm đã bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”
Mùa thu đã hiện ra rõ ràng hơn bao giờ hết, cùng với cách tác giả lắng đọng lại để suy
tư, để hoài niệm về cuộc đời. Vẫn là nắng đấy, nhưng đã mờ phai. Vẫn là mưa, là sấm
nhưng đã chẳng còn bất ngờ ồn ã như lúc trước. “Nắng”, “mưa”, “sấm” khi kết hợp với
các phó từ “đã”, “vẫn”, “cũng” thì mức độ đã khác, chúng lắng lại, chừng mực và ổn
định hơn những ngày hạ, không còn dữ dội, cũng chẳng còn gay gắt, nặng nề. Hạ nhạt
dần, thu đậm nét hơn. Ở hai câu thơ cuối không còn đơn thuần chỉ là miêu tả bức tranh
mùa thu nữa mà đã trở thành một triết lý sống sâu sắc Hữu Thỉnh muốn gửi gắm tới
người đọc qua bài thơ cũng như chính tác giả đã từng tự bạch: “Có thể hiểu, hàng cây
đã lớn, đã trải qua bao mùa thay lá sẽ trở nên vững vàng hơn trước “những tiếng sấm
bất ngờ”. Phép nhân hóa và ẩn dụ như ẩn ý rằng tiếng sấm là những vang động bất
thường, những khó khăn, chông chênh của cuộc đời mỗi người. Khi càng trưởng thành,
càng trải nghiệm nhiều, ta lại càng trở nên bình tâm hơn khi đối mặt với nhưng “cơn
sấm” mà cuộc đời ban tặng, không còn bồng bột như xưa. Đến đây, người đọc như vỡ
òa đi khi nhận ra “sang thu” không chỉ có ở thời gian, ở thiên nhiên mà còn là sự “sang
thu” của đời người, tất cả giúp ta hiểu được vì sao lại có sự bịn rịn, “chùng chình” lúc
sang thu. Vì sao lại có sự “dềnh dàng” mà lại “vội vã”, có lẽ khi mái tóc đã dần phai
sương, ta lại càng luyến tiếc những ngày xanh lúc trước để rồi phải càng vội vã để sống,
để cống hiến và tận hưởng thời giờ ít ỏi còn lại của cuộc đời. Ta biết rằng mình đã
không còn nhiều cơ hội để dây dưa, lãng phí nữa. Có câu nói rằng: “Đời người chỉ sống
có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống
phí”, cho khỏi nuối tiếc vì lỡ đã đánh mất quá nhiều thời gian của chính mình. Và với
chúng ta, khoảng thời gian này cũng là khoảng thời gian vô cùng đẹp đẽ và ý nghĩa,
chúng ta hãy cố gắng nỗ lực hết mình, để có những kết quả cao nhất trong kì thi này, đó
cũng sẽ là kỉ niệm vô cùng đẹp trong cuộc đời mỗi con người để sau này chúng ta
không phải băn khoăn tiếc nuối về những tháng năm tuổi trẻ ta đã không cố gắng hết
mình. Hạ đi, thu đến mang theo những cảm xúc bất chợt để rồi gieo lại trong ta những
bồi hồi về một nàng thu nồng nàn êm ái. Hữu Thỉnh đã khắc họa nên bức tranh giao
mùa ấy bằng ngòi bút sắc nét mang đầy hơi thở trữ tình cùng những triết lý sâu xa. Bài
thơ thể hiện một tình yêu thiên nhiên đằm thắm, về khát khao yêu đời mà tác giải mong
muốn gửi gắm cho bạn đọc cũng như gửi lại cho tuổi trẻ của chính mình đã đi qua tự
thuở nào. Tác phẩm như viên pha lê đầy góc cạnh, trải qua bao thăng trầm để trọn vẹn
lung linh. “Sang thu” chính là như thế! Sinh ra trên đời để lặng lẽ yêu thương và du
dương suốt dặm đường.
Đánh giá nội dung và nghệ thuật
Sử dụng thể thơ bốn chữ, nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa cùng với cách dùng từ tự nhiên và
chân thực, Hữu Thỉnh đã khắc họa nên một bức tranh đặc sắc về thời điểm đất trời giao
mùa ở một vùng nông thôn đồng bằng Bắc bộ. Với bài thơ “Sang thu”, Hữu Thỉnh đã
góp thêm một nét thu duyên dáng mang dấu ấn riêng của mình vào những chùm thơ thu
của thơ ca Việt Nam.
Kết bài
Ernest Hemingway từng nói: “Tất cả các tác phẩm nghệ thuật đều có sự bất tử của riêng
nó. Bởi vì nó là sản phẩm bền vững nhất của lao động và trí tuệ con người.”. Rồi mai
này các tranh tượng có thể tiêu tan, các đền đài có thể bị sụp đổ, chỉ có những tác phẩm
văn học chân chính mới có thể vượt qua được quy luật băng hoại của thời gian để tồn
tại vĩnh viễn và bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh là một trong số các tác phẩm như thế.
Bài thơ không chỉ giúp người đọc cảm nhận được bức tranh đặc sắc về thời điểm đất
trời giao mùa ở một vùng nông thôn đồng bằng Bắc bộ và còn cảm nhận được nét thu
duyên dáng đặc trưng của mùa thu Việt Nam qua đó ta càng cảm thấy yêu quê hương
đất nước hơn, càng cảm thấy mình cần phải ra sức học tập để góp phần xây dựng quê
hương ngày càng giàu đẹp.
Đề 1: Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về tính
trung thực.
- Dàn ý
+ Một thái độ ứng xử tích cực, một thói quen tốt, một cách nhìn lạc quan trước những
khó khăn, một đức tính trung thực...đó là những yếu tố tác động đến sự thành công của
mỗi người trong cuộc sống (NÊU VẤN ĐỀ)
+ Trung thực: Là ngay thẳng, thật thà, nói đúng sự thật, không làm sai lệch sự thật.
Người có tính trung thực là người luôn luôn tôn trọng sự thật, chân lí, lẽ phải (GIẢI
THÍCH VẤN ĐỀ)
+ Người trung thực là người thẳng thắn nhận lỗi, không tham lam gian dối, không lấy
của người khác làm của mình. Với học sinh, trung thực là tự giác ý thức học bài, làm
bài bằng năng lực của mình, không chép bài, không sử dụng tài liệu trong các giờ kiểm
tra. Người có tính trung thực, sẽ tạo được niềm tin với những người xung quanh, được
mọi người yêu quý kính trọng từ đó mở ra các mối quan hệ, các cơ hội thúc đẩy sự
thành công ở mỗi người. (BÀN BẠC VẤN ĐỀ1)
+ Người không trung thực, sẽ khiến cho mọi người mất niềm tin, không nhận được sự
tôn trọng, theo thời gian sẽ bị mọi người xa lánh và khó có cơ hội để có được thành
công trong cuộc sống. (BÀN BẠC VẤN ĐỀ2)
+ Trung thực là đức tính cần có ở mỗi người, mọi cá nhân trong cộng đồng có thái độ
đề cao lòng trung thực sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội (KHẲNG ĐỊNH
VẤN ĐỀ)
+ Phê phán một số người có thái độ, hành vi thiếu trung thực, không chịu nhận lỗi khi
làm sai hoặc tìm mọi cách che đậy việc làm sai trái của mình gây ra những hậu quả xấu
cho bản thân, cho xã hội, ví dụ thái độ thiếu trung thực trong khai báo y tế của một số
cá nhân trong công tác phòng chống dịch bệnh covid 19 khiến cho công tác phòng
chống dịch bệnh trở nên khó khăn, tốn thời gian, tiền bạc, công sức của rất nhiều người,
ảnh hưởng đến tâm lí của cả cộng đồng xã hội. (PHẢN ĐỀ)
+ Bản thân nhận thức được trung thực là đức tính cần thiết trong cuộc sống vì vậy luôn
tự nhắc bản thân phải cố gắng phát huy mỗi ngày, góp phần hoàn thiện đạo đức, nhân
cách để không phải hổ thẹn với chính mình và nhận được sự tin yêu từ những người
xung quanh. (LIÊN HỆ BẢN THÂN)
ĐỀ 2
Vai trò của quê hương: Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) nói về vai trò của quê hương
đối với mỗi cá nhân.
- Trong cuộc sống của mỗi người, có nhiều thứ tình cảm cao quý và đáng trân
trọng như tình gia đình, tình bạn, tình yêu, tình cảm đối với quê hương đất nước.
Trong đó tình cảm của mỗi cá nhân đối với quê hương đất nước có vai trò ảnh
hưởng rất lớn đến sự hình thành, phát triển nhân cách của mỗi người. (NÊU
VẤN ĐỀ)
Quê hương là nơi ta sinh ra, lớn lên, nơi có tổ tiên ông bà cha mẹ, có những kí ức vui,
buồn của tuổi thơ. Quê hương còn là giang sơn tổ quốc (GIẢI THÍCH VẤN ĐỀ)
- Mỗi chúng ta ai cũng có quê hương, quê hương là nơi nuôi dưỡng chúng ta về thể
xác, bồi đắp cho chúng ta những giá trị tốt đẹp về tâm hồn, nơi dạy cho chúng ta
những bài học đầu tiên về tình yêu thương, về sự đoàn kết gắn bó, về lối sống
tình nghĩa, hình thành trong mỗi chúng ta cách sống cách cư xử phù hợp với
chuẩn mực đạo đức xã hội. (BÀN BẠC VẤN ĐỀ1)
- Quê hương còn là điểm tựa tinh thần khi chúng ta gặp phải những khó khăn trong
cuộc sống, bởi ở đó chúng ta luôn được đón nhận bằng vòng tay yêu thương của
gia đình, sự quan tâm chia sẻ của cộng đồng xã hội. Cụ thể khi dịch bệnh covid19
lan rộng ở nhiều quốc gia, nước ta có những người xa quê vì nhiều lí do khác
nhau, nay họ muốn trở về nhưng điều kiện kinh tế không cho phép và họ không
yên tâm khi ở trên nước bạn. Nhà nước ta đã sẵn sàng đón những người con xa
quê về nước, trong điều kiện đất nước dù còn nhiều khó khăn, dịch bệnh diễn
biến phức tạp. Quê hương còn là nguồn cổ vũ, động viên là động lực để mỗi con
người cố gắng nỗ lực không ngừng để khẳng định năng lực của bản thân, góp
phần làm dạng danh cho quê hương đất nước. (BÀN BẠC VẤN ĐỀ2)
- Mỗi chúng ta cần phải có ý thức xây dựng bảo vệ quê hương, phát huy những
truyền thống đạo lí tốt đẹp của quê hương, coi đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của
bản thân. (KHẲNG ĐỊNH VẤN ĐỀ)
- Phê phán một số người khi trưởng thành, quay lưng phủ nhận nguồn gốc quê
hương, sẵn sàng vì lợi ích cá nhân mà có những hành động bôi nhọ, nói xấu,
phản bội lại quê hương. (PHẢN ĐỀ)
- Bản thân nhận thức được, tình cảm đối với quê hương thiêng liêng cao quý như
tình cảm gia đình nên luôn nỗ lực học tập để nâng cao tri thức hiểu biết, có ý thức
tu dưỡng rèn luyện đạo đức tốt để góp phần xây dựng quê hương đất nước ngày
một giàu đẹp hơn. (LIÊN HỆ BẢN THÂN)
Biện pháp nghệ thuật và tác dụng của biện pháp nghệ thuật
- ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, so sánh…
+ tác dụng về hình thức tăng tính hình tượng, tạo sự sinh động, tăng tính biểu cảm cho
câu văn (câu thơ)
+ tác dụng về nội dung: diễn tả không gian…giúp người đọc cảm nhận được, góp phần
làm nổi bật…, hình dung liên tưởng về đối tượng…) lưu ý về nhân hóa (giúp cho sự
vật, hiện tượng trở nên gần gũi với con người giống như người bạn cùng buồn, cùng
vui, động viên nhắc nhở…thể hiện tâm trạng của con người)
- lặp cấu trúc cú pháp, liệt kê, điệp ngữ
+ tác dụng về hình thức: Tạo âm hưởng, nhịp điệu, tăng tính biểu cảm,
+ tác dụng về nội dung nhấn mạnh, khẳng định, chỉ rõ…
Lặp cú pháp
Đây là phép lặp dùng nhiều lần một kiểu cấu tạo câu được xuất hiện nhiều lần trong
một đoạn văn bản. Phép lặp cú pháp có tác dụng nhấn mạnh, khẳng định những nội
dung hoặc hình ảnh mà tác giả muốn nhấn mạnh. Vị trí của phép lặp thường là ở câu
đứng sau những từ ngữ đã có ở câu trước nhằm tạo tính liên kết giữa các câu trong văn
bản.
Ví dụ 1: Con người Việt Nam có thể không có vóc dáng to hơn người Mỹ. Con người
Việt Nam có thể không có nước da trắng như người Châu Âu. Nhưng con người Việt
Nam tuy nhỏ bé nhưng lại thông minh, nhanh nhẹn.
Cấu trúc được lặp lại trong đoạn văn trên là: Con người Việt Nam...... Việc lặp lại cấu
trúc đó làm nổi bật hình ảnh con người Việt Nam muốn được nhấn mạnh trong đoạn
văn.
Ví dụ 2: Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Hai câu thơ trên sử dụng phép lặp cú pháp "con sóng...." tạo nên một thế đối xứng, có
tác dụng khắc hoạ hình ảnh mọi con sóng đều đang ở trong tâm trạng nhớ thương day
dứt khôn nguôi.
PHÂN TÍCH BÀI TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
Mở bài
Trong bài thơ “Tuổi 25” Tố Hữu đã từng viết:
“Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hóa anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo”
Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng những
gam màu hiện thực. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim của mình để “hút nhụy đời” tưới
cho những cánh đồng văn học. Ở cánh đồng ấy, có một khoảng trời dành riêng cho văn
học cách mạng, văn học của hiện thực tàn khốc mà cũng đẹp đẽ vô cùng. Trong cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mĩ, để giải phóng quê hương, giành lấy độc lập, tự do cho
dân tộc, người chiến sĩ giải phóng quân đã trở thành nhân vật tiêu biểu, hội tụ những gì
cao đẹp nhất. Những chàng trai đó đã được nhiều người khâm phục, ngưỡng mộ và họ
đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào, là đề tài bất tận cho các nhà thơ, nhà văn sáng
tác. Là một nhà thơ phục vụ trong quân đội, phục vụ trong binh đoàn lái xe vận tải trên
con đường máu lửa Trường Sơn, Phạm Tiến Duật đã cảm nhận sâu sắc cuộc sống người
chiến sĩ lái xe trên con đường lịch sử này và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được
ra đời trong những ngày tháng khó khăn gian khổ đó, bài thơ ca ngợi tư thế hiên ngang,
tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm, niềm vui vẻ, sự trẻ trung, sôi nổi
cùng quyết tâm chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của các chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
Thân bài
Bài thơ về tiểu đội xe không kính được nhà thơ viết vào năm 1969, khi
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt. Máy bay giặc Mĩ trút
hàng ngàn, hàng vạn tấn bom đạn và chất độc hóa học xuống con đường chiến lược
mang tên con đường Hồ Chí Minh. Các trọng điểm mịt mù lửa khói suốt đêm ngày
nhưng những chiếc xe thuộc đơn vị vận tải vẫn lao nhanh ra chiến trường tiếp viện cho
miền Nam ruột thịt. Những chiếc xe và chiến sĩ lái xe bỗng trở nên gần gũi, quen thuộc,
đáng yêu. Điểm gây ấn tượng khác lạ và độc đáo cho người đọc khi tiếp cận văn bản
được thể hiện trước tiên là thông qua cách đặt nhan đề của nhà thơ: "Bài thơ về tiểu đội
xe không kính". Nhan đề khá dài, có vẻ như có chỗ thừa nhưng chính điều đó đã tạo
nên sự đặc biệt, nét riêng, thu hút sự chú ý của bạn đọc. Thông thường qua hình thức
trình bày người ta đã biết được tác phẩm văn học nào đó là thơ hay văn xuôi, nên đa số
các nhà thơ nhà văn khi đặt tên tác phẩm thường không lấy tên gọi về hình thức tác
phẩm đặt tên cho văn bản của mình nhưng ở đây nhà thơ đã thêm vào nhan đề tác phẩm
hai chữ “bài thơ”, điều đó cho thấy được chất thơ trong bài thơ, đồng thời cho thấy
được cái nhìn lãng mạn của tác giả trước hiện thực khốc liệt của chiến tranh về những
chiếc xe không kính do bom rơi, đạn lạc. Và với cách đặt nhan đề bài thơ như vậy, nhà
thơ cũng muốn nhấn mạnh đến những chiếc xe không kính trong khói lửa chiến tranh
chỉ có ở chiến trường miền Nam thời kháng chiến chống Mĩ, những chiếc xe như thế
không chỉ có một, hoặc một vài mà có rất nhiều, rất đông trở thành cả một “tiểu đội xe
không kính”. Qua đó, nhà thơ làm nổi bật lên sự tàn khốc của chiến tranh và tinh thần
hiên ngang, dũng cảm, sôi nổi và trẻ trung, hóm hình, tươi vui, tinh nghịch, lãng mạn
của người lính khi lái những chiếc xe không kính bon bon ra chiến trường. Bài thơ mở
đầu bằng một lời giới thiệu về hình ảnh của những chiếc xe không kính
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Trước Phạm Tiến Duật, đã có nhiều nhà thơ lấy hình ảnh của những phương tiện giao
thông làm thi liệu trong các tác phẩm của mình, đó là hình ảnh của một con tàu lên Tây
Bắc trong bài "Tiếng hát con tàu" của Chế Lan Viên, là con thuyền ra khơi đánh bắt cá
của những ngư dân trong bài thơ "Quê hương" của Tế Hanh, "Đoàn thuyền đánh cá"
của Huy Cận... Nhưng tất cả những phương tiện ấy khi đi vào thơ đều được lãng mạn
hóa, mang một ý nghĩa biểu tượng thật đẹp, thật thơ mộng về cuộc sống. Còn “những
chiếc xe không kính” của Phạm Tiến Duật lại xuất phát từ hình ảnh có thực của đời
sống chiến trường. Xe vốn thường có kính và chiếc xe có kính là điều bình thường,
không có gì đáng nói. Chi tiết tả thực “không có kính" mới gây sự chú ý, bất ngờ và là
một thực tế có sức khơi gợi mạch thơ, khơi gợi lòng người. Nếu vế đầu của câu thơ đó
có tính chất phủ định thì ở vế sau của câu thơ lại nhằm khẳng định, nhấn mạnh “không
phải vì xe không có kính”. Chiếc xe vốn nguyên vẹn, lành lặn với các bộ phận đó chứ
đâu phải xe mới ra đời là đã không có kính. Điệp từ “không” được lặp lại ba lần trong
một dòng thơ kết hợp cùng lối nói khẩu ngữ đã tạo được ấn tượng ban đầu đặc biệt cho
người đọc về hình dáng độc đáo của “những chiếc xe không kính”. Đến câu thơ thứ
hai, nhà thơ tiếp tục sử dụng phép điệp kết hợp với các động từ mạnh “ giật” “rung” để
vừa giúp người đọc hình dung về một vùng đất từng được mệnh danh là “túi bom” của
địch, vừa cho thấy được sự khốc liệt mà chiến tranh gây ra cho những chiếc xe tải . Hai
từ phủ định: “không có” và “không phải” mang ý nghĩa khẳng định hiện thực tàn khốc
mà chiến tranh đã gây ra. Đó chính là lí do về những chiếc xe không có kính và cũng là
bằng chứng rõ ràng cho sự tàn phá khủng khiếp mà quân đội Mỹ đã gây ra trên chiến
trường miền Nam, thấy được sự hung bạo, ngông cuồng của đế quốc, bất chấp theo đuổi
mục đích phi nghĩa bằng mọi giá. Bao nhiêu tấn bom đạn dội xuống mảnh đất Trường
Sơn đã hủy hoại, tàn phá con người và thiên nhiên. Kẻ thù định dùng lực lượng mạnh
với các vũ khí hiện đại để chặn đường tiếp tế, tiến công của ta, làm lung lay ý chí, tinh
thần chiến đấu của người chiến sĩ. Sức ép của bom đạn khi nổ, những mảnh bom trúng
vào chiến sĩ, trúng vào chiếc xe khiến cho chiếc xe bị trầy, khiến cho chiếc xe “kính vỡ
đi rồi”. Thế nhưng chúng không thể làm lung lay ý chí quật cường, tinh thần quyết
chiến của những chàng trai trẻ. Câu thơ thứ ba, hình ảnh người chiến sĩ lái xe là nhân
vật chính và những chiếc xe không kính trở thành cái nền làm nổi bật tính cách, phẩm
chất đẹp đẽ của họ.
Khi người lái xe mở máy cho xe lăn bánh đồng nghĩa với bắt đầu bước vào trận đánh.
Sự sống và cái chết cách nhau chỉ trong gang tấc, nhưng họ vẫn giữ được tư thế hiên
ngang, tự tin hiếm có:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Biện pháp đảo ngữ, đưa tính từ “ung dung” lên đứng đầu câu giúp tạo nên sự bình thản,
điềm tĩnh đến kỳ lạ của người lính lái xe Trong cái nhìn bao quát cả đất trời ẩn chứa
niềm kiêu hãnh của người làm chủ tình thế, coi thường mọi khó khăn nguy hiểm. Đối
đầu với máy bay giặc Mĩ, các chiến sĩ lái xe của ta thường ở thế bị động. Vậy dựa vào
đâu mà họ ra trận với phong thái ung dung như vậy? Chỗ dựa tinh thần lớn lao nhất của
họ chính là niềm tin tất thắng vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, là tình cảm tất cả
vì miền Nam thân yêu, là chân lí "Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang cần
vũ khí, lương thực, thuốc men… để đủ sức đánh trả quân thù những đòn đích đáng. Chủ
quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc, của dân tộc thôi thúc họ hành động. Đó
là hành động chủ động, đầy tự chủ, bất khuất bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, đặc biệt
là sự dũng cảm, hiên ngang của người lính. Họ “nhìn thẳng” vào gian khổ, không mảy
may run sợ trước khó khăn, không thẹn với trời đất vì chính họ cũng đang chiến đấu vì
một mục tiêu cao cả. Điệp từ “nhìn” được lặp lại ba lần, kết hợp với nhịp thơ dồn dập,
giọng điệu mạnh mẽ đã thể hiện tầm nhìn rộng, khoáng đạt của người lính giữa chiến
trường. Biện pháp liệt kê và điệp ngữ trong câu thơ đã thể hiện tư thế vững vàng, hiên
ngang của những người lính lái xe, sẵn sàng nhìn thẳng vào bom đạn, nhìn thẳng vào
con đường đang bị bắn phá để lái xe vượt qua. Câu thơ viết theo nhịp 2/2/2 thật cân
đối. Nó thể hiện sự nhịp nhàng, thăng bằng của chiếc xe đang lăn bánh và nhất là thái
độ tự tin, bình tĩnh của người cầm lái đồng thời nhấn mạnh, khắc sâu vẻ đẹp từ cách
quan sát của người chiến sĩ. Một vẻ đẹp xuất phát từ tâm hồn, tấm lòng của các anh bộc
lộ niềm yêu thương của anh với thiên nhiên và cuộc sống, sự quyết tâm vững vàng
trong nhiệm vụ. Anh “nhìn đất” để thêm gắn bó, yêu thương con đường Trường Sơn
hào hùng, thân thuộc để dẫn đưa chiếc xe đến chỗ, nơi an toàn, mau mau đến đích. Anh
“nhìn trời” để tâm hồn thêm lạc quan, bay bổng, thêm tin tưởng vào tương lai. Anh
“nhìn thẳng” là nhìn về phía trước, nhìn vào con đường trước mặt cần vượt qua, nhìn
vào nhiệm vụ đầy gian khổ, khó khăn thử thách của mình để thêm cương quyết, tích
cực mà sẵn sàng đối phó, đương đầu với bao hiểm nguy, gian khổ, khó khăn. Bởi thế,
mặc cho bom đạn gào thét, các anh vẫn cứ tiến lên với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc
quan coi thường hiểm nguy và hình ảnh đẹp ấy được tô đậm qua những câu thơ:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Điệp từ “thấy” và điệp ngữ: “nhìn thấy… nhìn thấy…” cùng giọng thơ hối hả đã gợi
lên khung cảnh từng đoàn xe không kính nối đuôi nhau, vận chuyển nhu yếu phẩm từ
Bắc vào Nam. Biện pháp nhân hóa chuyển đổi cảm giác “vào xoa mắt đắng” nhằm thể
hiện những hiểm nguy do thời tiết mà những người lính phải trải qua. Đoàn xe chạy tạo
nên những cơn lốc bụi mù trời. Xe không kính, gió lùa mạnh vào buồng lái khiến người
lái xe tưởng như nhìn thấy gió. Gió thốc làm cay đến chảy nước mắt nhưng những khó
khăn trở ngại đó chỉ là phép thử đối với những người lính, bằng tình yêu quê hương đất
nước cháy bỏng, với tâm hồn hào hoa lãng mạn, cách nói về những khó khăn mà người
lính trải qua thật độc đáo và hóm hỉnh. Những người lính lái xe như cảm nhận khi
không còn lớp kính ngăn cách, con người và thiên nhiên như gần gũi hơn. Xe lao lên
phía trước, con đường lùi lại phía sau, người lái xe tưởng như nhìn thấy con đường chạy
thẳng vào tim. Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” thể hiện tốc độ di chuyển
nhanh chóng của những chiếc xe đã góp phần rút ngắn khoảng cách giữa các anh với
con đường, khiến người lính lái xe có cảm giác con đường đang chạy thẳng vào tim,
hòa cùng dòng máu yêu nước chảy trong lồng ngực. Câu thơ chứa đựng ý nghĩa tượng
trưng sâu xa: Con đường vào chiến trường miền Nam chính là đích đến của trái tim
người lính. Nỗi vất vả, gian nan được nhà thơ miêu tả bằng những hình ảnh chân thực,
giản dị nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Dù sống chung với cuộc
kháng chiến đầy mưa bom, bão đạn nhưng không vì thế mà những người lính trẻ sống
trong lo âu, sợ hãi mà tâm hồn họ vẫn tràn đầy sự lãng mạn, bay bổng khi anh mở rộng
tầm mắt, quan sát từ bên trong qua những ô cửa kính vỡ để thấy sao trời, thấy cánh
chim.
“Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”
Thay vì gói gọn trong không gian của chiếc xe không kính, tác giả đã mở rộng tầm nhìn
ra một không gian rộng lớn hơn. Ở đó có những con đường dài, có gió thổi, có cánh
chim và những ánh sao đêm. Phải chăng thiên nhiên nơi núi rừng Trường Sơn đang ùa
vào buồng lái, gợi lên chất thơ trong tâm hồn những người lính trẻ. Không gian rộng
lớn của thiên nhiên được tác giả miêu tả thông qua hình ảnh “sao trời” và “cánh chim”
đây vốn là biểu tượng phân biệt hai trạng thái ban đêm và ban ngày. Câu thơ “thấy sao
trời và đột ngột cánh chim” mang ý nghĩa từng đoàn xe nối đuôi nhau chạy không kể
ngày đêm, cứ khi nào máy bay Mỹ ngừng bay thì quân ta sẽ hành quân. Biện pháp nghệ
thuật so sánh “như sa, như ùa vào buồng lái” một lần nữa nhấn mạnh tốc độ nhanh phi
thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận. Có lẽ tâm hồn các anh phải hân hoan,
phơi phới yêu đời lắm nên mới cảm nhận được những cánh chim như sa, như ùa vào
khoang buồng lái để trò chuyện tâm tình với họ. Qua hai khổ thơ đầu, tác giả đã gợi tả
sinh động hiện thực chiến trường chính xác đến từng chi tiết. Hơn nữa, đằng sau đó còn
là một khí chất, một bản lĩnh, thể hiện qua tư thế chiến đấu ung dung, hiên ngang của
người lính trước sự khốc liệt của chiến tranh. lời thơ như chính là lời ca tiếng hát của
một bài hát vui tươi, hào hùng.
Hiên ngang, bất chấp gian khổ, những người lính lái xe luôn lạc quan tin tưởng
chiến thắng. Những câu thơ với ngôn ngữ giản dị như lời nói thường ngày thể hiện hình
ảnh đẹp, tự tin, có tính cách ngang tàng:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Phạm Tiến Duật từng là thành viên của đoàn 559 vận tải chiến đấu ở Trường Sơn nên
chất lính, tính ngang tàng thể hiện rõ nét trong thơ. Các chiến sĩ lái xe không hề lùi
bước trước gian khổ, trước kẻ thù mà trái lại “tiếng hát át tiếng bom”, họ xem đây là cơ
hội để thử thách sức mạnh ý chí. Với tinh thần lạc quan, yêu đời, tiếng cười sảng khoái
của họ làm quên đi những nguy hiểm, những người lính lái xe đã coi gian khổ, hiểm
nguy nơi chiến trường trở thành một phần trong cuộc sống tại Trường Sơn. Điều này
được thể hiện qua những hình ảnh thơ: “gió”, “bụi”, “mưa” vốn là những hiện tượng
thiên nhiên khắc nghiệt của thời thời tiết, nhưng đặt trong hoàn cảnh này nó trở thành
nét đặc trưng cho những gian khổ, thử thách mà người lính phải đối diện. Cấu trúc lặp:
“Không có…, ừ thì…” được nhắc lại kết hợp với kết cấu phủ định “Chưa cần…” đã thể
hiện sự ngang tàng, thái độ coi thường hiểm nguy, bất chấp khó khăn, coi thường gian
khổ của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Bên cạnh đó, hình ảnh so sánh trong câu thơ
“Bụi phun tóc trắng như người già” là cách nói phóng đại của tác giả nhằm nhấn mạnh
sự khắc nghiệt của thiên nhiên nơi chiến trường, đồng thời cho thấy tinh thần lạc quan,
dũng cảm tiến về phía trước của người lính Trường Sơn. Mặc cho bụi mưa phủ đầy trên
tóc, trên áo, họ vẫn giữ một hướng đi, vẫn lái xe lao thẳng về phía trước. Và trong sự
khắc nghiệt của thiên nhiên, những người lính vẫn “phì phèo châm điếu thuốc”, và cất
lên tiếng cười lạc quan yêu “ha ha” khi những người đồng chí, đồng đội ấy gặp nhau.
Dù khó khăn nhưng cách nhà thơ đề cập đến những khó khăn ấy rất nhẹ nhàng
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”
Gió bụi qua đi thì lại đến mưa rừng. Không có kính, khiến người lính trải nghiệm hết
những khắc nghiệt của thời tiết, khi lái xe trong điều kiện thời tiết mưa gió thì việc ướt
áo là không thể tránh khỏi. Nhưng với tinh thần cách mạng của mình, chuyện ướt áo chỉ
là chuyện nhỏ, vậy nên người lái xe vẫn tiếp tục di chuyển “lái trăm cây số nữa”. Nỗi
gian nan của người lính không đong đếm bằng gió, bụi, mưa mà mong đếm bằng quãng
đường họ đã chạy. Tác giả sử dụng từ chỉ số lượng “ trăm cây số” để chỉ con đường ấy
dù có xa dù có cách trở thì họ vẫn băng băng về trước đầy hiên ngang. Câu thơ diễn tả
nghị lực phi thường của người lính, họ bất chấp gian khổ, bất chấp hiểm nguy để làm
nhiệm vụ ở họ có một sự bình tĩnh, thản nhiên trước những thử thách phải trải qua trên
tuyến đường Trường Sơn. Cung đường trong bom đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng bao
mồ hôi, xương máu nhưng vẫn không thể nào cản trở bước tiến của những người lính.
Câu thơ “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!” có bảy chữ mà có đến sáu thanh bằng diễn
tả cái phơi phới, thênh thênh đầy nghị lực, bất chấp mọi gian khổ: Gian khổ tột cùng
nhưng hào hùng cũng tột bậc, các chiến sĩ lái xe chấp nhận tất cả với thái độ vui vẻ, pha
chút ngang tàng, rất lính.
Trong gian lao, thử thách, tình đồng đội, đồng chí càng trở nên thiêng liêng hơn, máu
thịt hơn. Bao thiếu thốn vật chất được thay thế bằng tình yêu thương đồng đội thắm
thiết. Những người lính vừa vượt qua hàng nghìn, hàng vạn cây số lái xe trong mưa
bom, bão đạn, rồi họ gặp nhau để cùng cười vui trong tình yêu thương đồng đội, đồng
chí. Chính tình cảm thiêng liêng này là sợi dây vô hình kết nối mọi người trong tình
cảnh cái chết luôn rình rập
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi” vừa tả thực về những chiếc xe không kính,
vừa vượt qua mưa bom đạn chiến trường để trở về, vừa hàm ý nhấn mạnh sự bất khuất,
ý chí chiến đấu kiên cường của những người lính lái xe. Mọi khó khăn, nguy hiểm đã
dường như đã lùi xa, chỉ còn lại hình ảnh của những chiến sĩ lái xe từ mọi chiến trường
về đây họp thành tiểu đội xe không kính. Họ thương nhau còn hơn ruột thịt, sống chết
có nhau, cùng chung lí tưởng và tình cảm cao đẹp, tất cả vì sự nghiệp giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Có lẽ không ngôn ngữ nào diễn tả hết tình đồng chí, đồng
đội thiêng liêng trong hoàn cảnh ấy, và nhà thơ đã bất chợt khám phá ra điều thú vị là
những khó khăn, nguy hiểm của người lính lái xe không kính lại trở thành tiện lợi bất
ngờ khi họ gặp nhau trên đường ra mặt trận:
“Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”.
Những người lính gặp nhau và “Bắt tay nhau” thể hiện sự đồng cảm sâu sắc khi họ đã
vừa cùng nhau trải qua những cung đường đầy khó khăn gian khổ. Hành động “bắt tay”
có thể coi như những lời động viên ngắn ngủi mà họ dành cho nhau. Cái bắt tay ấy vừa
mang lại sự an ủi, vừa là động lực kết nối những trái tim lại với nhau, ủng hộ lẫn nhau
trong hành trình dài phía trước. Con đường phía trước còn dài, còn khó khăn chồng
chất, nhưng tinh thần hiên ngang lạc quan và vui vẻ của các những người lính thật mạnh
mẽ.
Tình đồng chí, đồng đội của anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn càng thắm
thiết, cảm động hơn khi họ cùng chia sẻ với nhau một bữa cơm trong cuộc chiến:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm
“Bếp Hoàng Cầm” là bếp dã chiến của bộ đội được đặt dưới lòng đất, khi đun khói tản
ra địch sẽ không phát hiện. Mọi thứ đều gian khổ như thế nhưng tinh thần họ vẫn rất vui
vẻ, lạc quan, họ trò chuyện, cười đùa với nhau thật thoải mái, thân mật. Bữa cơm chiến
trường đơn sơ, giản dị thế mà vẫn rộn lên niềm vui tình đồng đội, trong bài Việt Bắc
nhà thơ Tố Hữu cũng từng nói về sự sẻ chia, tình yêu thương của những con người
trong kháng chiến
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
(Tố Hữu)
Tình quân dân, tình đồng đội đã tiếp thêm sức mạnh, động lực cho người lính trên
những chặng đường đầy gian khổ khó khăn để rồi từ đó họ gắn bó với nhau như những
thành viên trong một gia đình, định nghĩa về gia đình của các anh chiến sĩ mới thật thân
thương, ấm áp
“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Một gia đình vui tươi, trẻ trung gồm những người lính trẻ đã hình thành, rõ ràng những
khó khăn kia không thể cản bước tiến của những người lính mà chính những khó khăn,
thiếu thốn đó đã khiến những người lính gắn bó với nhau như máu thịt, giúp đỡ nhau
trong cả chiến đấu lẫn đời thường. Thời gian nghỉ ngơi tuy chỉ diễn ra thoáng chốc và
bữa cơm “chung bát đũa” giữa đường xe chạy đã trở thành khoảnh khắc hạnh phúc
hiếm hoi trên hành trình vượt Trường Sơn của những người lính. Từ đó xóa đi khoảng
cách, giúp họ trở nên gần gũi, thân thiết, yêu thương nhau. Từ láy “chông chênh” là ẩn
dụ cảm giác bấp bênh không bằng phẳng trên những tuyến đường mà xe đi qua. Ngay
cả lúc nghỉ ngơi thì những chiến sĩ vẫn phải chịu sự bấp bênh, thiếu an toàn đó. Song,
đối với họ, càng gian khổ thì ngày thắng lợi càng đến gần. Nghệ thuật ẩn dụ “trời xanh
thêm” đã thể hiện tâm hồn sôi nổi và lạc quan của người chiến sĩ. Sắc xanh là biểu
tượng của niềm tin, là hi vọng vào ngày dân tộc chiến thắng, đất nước hoàn toàn giải
phóng
“Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Điệp từ “lại đi” kết hợp với nhịp thơ 2/2/3 đã khẳng định đoàn xe sẽ khẩn trương tiếp
tục đi về phía con đường gian khổ phía trước, dù cho giặc Mĩ có tàn bạo cỡ nào cũng
không thể ngăn cản nổi ý chí chiến đấu của quân đội ta, bởi trước mắt những người lính
luôn có một niềm tin mãnh liệt vào tương lai, vào cuộc sống đẹp tươi phía trước.
Bài thơ khép lại với bốn câu thơ thể hiện ý chí chiến đấu kiên cường của người lính lái
xe Trường Sơn, đại diện cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ với lý tưởng sống cao
đẹp
“Không có kính, rồi không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Tác giả đã một lần nữa nhắc lại hình ảnh những chiếc xe “không có kính” một cách
chân thực và sinh động qua biện pháp liệt kê những điểm không hoàn thiện của chiếc xe
như: không kính, không đèn, không mui, thùng xe xước để nhấn mạnh sự thiếu thốn,
không toàn vẹn của đoàn xe mang trong mình nhiệm vụ “xẻ dọc Trường Sơn cứu
nước”. Điệp từ “không có” góp phần diễn tả sự khốc liệt và dữ dội của chiến trường đã
khiến những chiếc xe trở nên trơ trụi, thiếu những bộ phận cơ bản nhất của một chiếc xe
bình thường, tưởng chừng như chiếc xe ngừng hoạt động. Nhưng điều kỳ diệu là những
chiếc xe ấy vẫn bon bon trên đường ra trận “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”, có
một sức mạnh, một động lực vô hình đã không ngăn cản được bước tiến của xe, những
chiếc xe ấy vẫn hoàn thành nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, góp sức vào công cuộc giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước. Sử dụng phép đối lập “không có” với “vẫn
chạy” đã làm nổi bật sức mạnh, sự ngoan cường của người lính lái xe bởi họ có niềm tin
về ngày chiến thắng, ngày miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước.
Câu thơ kết thúc bài thơ tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật hoán dụ để nói lên
chân lý sâu xa về sức mạnh của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng cao đẹp.
“Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Trái tim ấy chính là người lính lái xe trên đường Trường Sơn. Các anh vừa giúp tiếp nối
truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam, vừa trở thành hình tượng thanh
niên tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước của thế hệ chống Mỹ cứu nước. Xe bị mưa bom
bão đạn làm cho hư hại nhiều, các bộ phận trên xe tuy thiếu và không còn nguyên vẹn
nhưng “chỉ cần” một “trái tim” yêu nước nguyên vẹn thì xe vẫn hoàn toàn có thể băng
băng ra trận, hoàn thành nhiệm vụ của mình. Hình ảnh “trái tim” còn tượng trưng cho
lòng dũng cảm, lòng yêu nước và sức mạnh của lòng yêu nước. Chính sức mạnh vô
hình ấy đã lấp đầy những phần thiếu sót của chiếc xe, tạo động lực cho người lính vượt
qua khó khăn, thử thách. “Trái tim” của người lính tuy vô hình mà hữu hình, có thể thay
thế cho mọi thứ, biến chiếc xe không kính như trở thành một cơ thể sống, hợp nhất với
tâm hồn người chiến sĩ để tiếp tục hành trình dài phía trước. Hình ảnh “trái tim” khép
lại bài thơ đã làm bừng sáng lên ý nghĩa của toàn bộ tác phẩm. Đó là một trái tim yêu
thương, trái tim kiên trường, trái tim cầm lái, giúp người lính chiến thắng mọi đe dọa
của kẻ thù, mọi khắc nghiệt của thời tiết và “trái tim” ấy cũng đã trở thành nhãn tự của
bài thơ, để lại ấn tượng và cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.
Đánh giá nội dung và nghệ thuật
Bài thơ sử dụng thể thơ tự do, kết hợp với phép điệp, đối, liệt kê, ngôn ngữ chân thật,
giản dị, gần gũi, giọng điệu dí dỏm, ngang tang, hài hước…tất cả góp phần tái hiện lại
chân dung những người lính của tiểu đội xe không kính trong những năm kháng chiến
chống đế quốc Mĩ gần gũi và chân thực.
Kết bài:
Ernest Hemingway từng nói: “Tất cả các tác phẩm nghệ thuật đều có sự bất tử của riêng
nó. Bởi vì nó là sản phẩm bền vững nhất của lao động và trí tuệ con người.”. Rồi mai
này các tranh tượng có thể tiêu tan, các đền đài có thể bị sụp đổ, chỉ có những tác phẩm
văn học chân chính mới có thể vượt qua được quy luật băng hoại của thời gian để tồn
tại vĩnh viễn. Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của tác giả Phạm Tiến Duật là một
trong số những tác phẩm như thế, bởi tác giả đã khắc họa một cách chân thực hình ảnh
những người lính lái xe với nhiều phẩm chất đẹp đẽ, những con người ấy đã bất chấp
khó khăn thử thách, luôn trong tư thế hiên ngang ra trận với một trái tim ấm nóng tình
đồng đội, tình yêu nước nồng nàn đã để lại ấn tượng mạnh mẽ sâu đậm trong lòng
người đọc. Và chúng ta, những thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước, hãy cố gắng, nỗ
lực học tập để góp phần xây dựng quê hương đất nước ngày một giàu đẹp hơn, đó cũng
là hành động, việc làm thiết thực, để ghi nhớ, tri ân những thế hệ cha ông đã đổ bao
nhiêu xương máu cho chúng ta có một đất nước này.
Mở bài tham khảo
Xantưkôp Sêđrin đã từng nói: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ
mình nó không thừa nhận cái chết”. Vậy điều gì đã khiến các tác phẩm nghệ thuật bất
tử? ở tài năng hay ở tấm lòng của người cầm bút? Phải chăng, văn chương muôn đời là
nơi mà người nghệ sĩ đã mang hiện thực vào trang viết của mình bằng tất cả tấm chân
tình mà ẩn sâu trong đó là những tư tưởng, thông điệp quý báu trong đời để gửi gắm
đến độc giả. Điều đó đã khiến cho những tác phẩm văn chương mãi sống hoài, sống lâu
trong lòng những người yêu nghệ thuật mãi tận về sau. Và ta không thể không nhắc đến
…(Tác phẩm)…. của …(Tác giả)…. đã để lại trong ta nhiều dư âm, dư vang, dư ba, dư
vị xúc cảm khôn nguôi.