You are on page 1of 6

Bài thơ Sang thu đã gợi lên những cảm nhận tinh tế về sự chuyển biến của đất trời

từ cuối hạ sang đầu thu. Sang thu chính là bức thông điệp của khoảnh khắc giao
mùa. Từ những tín hiệu của mùa thu đến khung cảnh thiên nhiên lúc vào thu, tác
giả đã có những suy tư sâu sắc về cuộc đời. Các biện pháp tu từ là một yếu tố quan
trọng để làm nên sự thành công của tác phẩm. Cùng tìm hiểu các biện pháp tu từ
trong bài thơ Sang thu nhé!

Mục lục nội dung


Biện pháp tu từ trong bài Sang thu
Hướng dẫn Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh
Biện pháp tu từ trong bài Sang thu
Trả lời:

- Biện pháp đảo ngữ:

+ Sử dụng động từ “Bỗng” diễn tả sự bất ngờ, như một từ để thu hút tất cả các giác
quan phải chú ý tới những dấu hiệu thu sang.

- Thủ pháp nhân hóa:

+ “Sương chùng chình qua ngõ” khiến cho hình ảnh những màn sương giống như
cô gái mong manh, tinh khôi vẫn còn ngập ngừng trong từng bước đi của mình →
Hình ảnh đẹp về nàng thu mơ mộng, thanh tao.

+ Chim vội vã – nghệ thuật nhân hóa gợi lên hình ảnh những đàn chim dường như
cũng vội vã hơn bởi chúng cũng đã cảm nhận được hơi se lạnh của mùa thu.
+ “Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu”: nghệ thuật nhân hóa độc đáo và
thi vị nhất trong bài sang thu, đám mây như dải lụa mềm mại, uyển chuyển trên
bầu trời, chiếc cầu nối mỏng manh giữa hai mùa.

+ "hàng cây đứng tuổi": hàng cây đã ở đó bao mùa, trải qua bao mưa nắng giống
như những con người có tuổi đã trải qua bao khó khăn, gian nan trong cuộc đời.

- Nghệ thuật đối:

+ Sương chùng chình >< Vận động tương phản, tự nhiên muôn hình vạn trạng.

+ Sấm bất ngờ (thể hiện sự nhanh, lẹ) >< hàng cây đứng tuổi (thể hiện sự chậm
chạp, tĩnh lặng) => càng làm nổi bật đặc điểm đến bất ngờ của sấm trong cơn
giông mùa thu.

→ Nghệ thuật nhân hóa, đối khiến cho hình ảnh tự nhiên trở nên gần gũi, thân
thuộc với con người, có sức truyền cảm tới người đọc cũng như gợi lên những liên
tưởng thú vị.

Hướng dẫn Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh
* Giới thiệu:

Mùa thu không chỉ làm rung động lòng thi nhân mà còn đem đến cho ta những xúc
cảm nhẹ nhàng, êm ái gợi nhiều thương nhớ bâng khuâng… Thường thường, các
nhà thơ chỉ cảm nhận về mùa thu ở một số hình ảnh tiêu biểu như sắc trời xanh
ngắt, gió thu se lạnh và màu vàng tượng trưng cho mùa thu. Ở một số thi nhân có
thêm những cảm nhận riêng: với Xuân Diệu là : “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu
tang…, với Lưu Trọng Lư là tiếng lá kêu xào xạc và tiếng chân con nai vàng đạp
trên lá vàng khô, với Nguyễn Đình Thi là hương cốm đầu mùa…. Nét đặc biệt của
Hữu Thỉnh trong bài thơ này là nhà thơ đã cảm nhận cái thời khắc sang thu bằng cả
một hệ thống hình ảnh thiên nhiên qua nhiều yếu tố và bằng nhiều giác quan với sự
rung động thật tinh tế. Mười hai câu thơ ngắn mà có đến mười hình ảnh thiên nhiên
được nói đến lúc đất trời chuyển sang thu: hương ổi, gió se, sương, sông, chim,
mây, nắng, mưa, sấm và cuối cùng là hàng cây đứng tuổi. Toàn là những hình ảnh
gần gũi, quen thuộc đối với mỗi người chúng ta và điều này làm cho bài thơ dễ đến
với người đọc. Nhưng điều quan trọng nhất chính là sự cảm nhận tinh tế của ông
đối với từng hiện tượng thiên nhiên lúc giao mùa và những rung động ấy đã lan
truyền sang ta như một tiếng nói đồng điệu.

* Khổ 1: Là những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về cảnh sang thu của đất trời

a. Thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vô hình (hương, gió), mờ ảo (sương
chùng chình), nhỏ hẹp và gần (ngõ) => Đó là những cảm nhận rất riêng của nhà
thơ

- Đầu tiên là sự cảm nhận về hương vị. Cái hương ổi chín thường khó đọng lại
trong những cơn gió nồm nam thổi mạnh của mùa hè, giờ đây bỗng “phả vào trong
gió se”, đem đến hương vị dịu ngọt, đằm thắm của mùa thu khiến nhà thơ ngạc
nhiên đến ngỡ ngàng trước sự thay đổi của thiên nhiên.Từ “phả” là động từ mạnh
diễn tả mùi hương ổi thơm nồng nàn lan toả. Gió se là gió nhẹ, khô và hơi lạnh –
gió của mùa thu, gió báo hiệu mùa thu đã đến. Gió se mang theo hương ổi của
đồng quê. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống
giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân dã mà thi vị,
ông đã phát hiện ra một nét đẹp thật đáng yêu của mùa thu vùng nông thôn đồng
bằng Bắc Bộ.

[CHUẨN NHẤT] Biện pháp tu từ Sang thu


- Trong “Sang thu”, dấu hiệu đầu thu là hương ổi, làn gió và sương thu. Nhưng
không phải là “sương thu man mác đầu ghềnh” của Tản Đà mà là : “Sương chùng
chình qua ngõ”- một hình ảnh lung linh huyền ảo. Không còn là những hạt sương
mà đã là một màn sương mỏng nhẹ trôi, đang chuyển động chầm chậm nơi đường
thôn ngõ xóm. “Chùng chình” là từ láy gợi hình diễn tả hành động chậm chạp như
là cố ý chậm lại. Nhà thơ đã thổi hồn vào câu thơ khiến cho màn sương thu chứa
đầy tâm trạng, như người đi còn vương vấn, ngập ngừng khi qua ngõ nhà ai……

b. Con người (nhà thơ)

- Cảm nhận phút giao mùa sang thu là sự ngỡ ngàng. Do ngỡ ngàng nên cả khứu
giác, cả xúc giác và thị giác đều như mách bảo thu về mà vẫn chưa thể tin, chưa
dám chắc. Từ “hình như” là sự phỏng đoán nửa tin, nửa ngờ, là cái ngỡ ngàng,
ngạc nhiên trong cái cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến của thi sĩ. Qua đó, ta hiểu
tâm hồn nhà thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên, yêu hương thu với tình yêu tha thiết.

* Khổ 2: Nhưng rồi mùa thu dần dần đến và hiện ra ngày càng rõ hơn trước mắt
nhà thơ

- Sự vận động của hình ảnh thiên nhiên trong thời khắc chuyển mùa được cụ thể
hoá bằng những đổi thay của vạn vật. Sông lúc sang thu không còn cuộn chảy dữ
dội như những ngày hè mưa lũ, mà êm ả dềnh dàng như đang lắng lại, đang trầm
xuống. Một chữ “dềnh dàng” mà nói lên được cái dáng vẻ khoan thai, thong thả
của con sông mùa thu, ngỡ như nó được nghỉ ngơi thoải mái khi mùa nước lũ cuồn
cuộn đã đi qua.

- Đối lập với hình ảnh đó là hình ảnh đàn chim bắt đầu vội vã bay về tổ lúc hoàng
hôn. Từ bắt đầu” trong ý thơ được dùng rất độc đáo “bắt đầu vội vã” chứ không
phải là “đang vội vã”. Phải tinh tế lắm, yêu và gần gũi với thiên nhiên lắm mới
nhận ra được sự bắt đầu trong những cánh chim bay.

- Cánh chim trời vội vã bay đi, “có đám mây mùa hạ” còn vương lại. Và mây lưu
luyến bắc chiếc cầu:
“Vắt nửa mình sang thu”.

Một liên tưởng thú vị, một hình ảnh đầy chất thơ. Người ta thường nói: khăn vắt
vai, con đường mòn vắt ngang sườn núi….Hữu Thỉnh điểm vào bức tranh thu của
mình một hình ảnh mới mẻ, gợi cảm: hai nửa của một đám mây thuộc về hai mùa.
Không phải vẻ đẹp của mùa hạ cũng chưa hẳn là vẻ đẹp của mùa thu mà đó là vẻ
đẹp của thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế và nhạy cảm đang
say thời khắc giao mùa này. Trong “chiều sông Thương”, ông cũng có một câu thơ
tương tự về cách viết: Đám mây trên Việt Yên. Rủ bóng về Bố Hạ.”

c. Khúc giao mùa của không gian và thời gian khi sang thu còn được thể hiện ở
chiều sâu suy ngẫm trong khổ cuối

- Khổ cuối nói về những biến chuyển của nắng, mưa, sấm trong lúc giao mùa với
những nhận xét tinh tế của một người am hiểu tường tận các hiện tượng thời tiết
này:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

+ Lại thêm một sự đối lập: nắng vẫn còn nhưng mưa đã vơi dần. Mùa thu nắng sẽ
nhạt dần, nhưng lúc giao mùa, nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng. Những ngày
sang thu, đã ít đi những cơn mưa rào ào ạt và cũng bớt đi những tiếng sấm bất ngờ
thường chỉ có trong mùa hạ. Các từ ngữ : “vẫn còn – đã vơi dần – cũng bớt bất
ngờ” vừa cho thấy, vẫn còn đó dấu ấn, vẫn còn đó dư âm của mùa hạ. Nhưng tất cả
đã đi vào chừng mực, vào thế ổn định mang nét đặc trưng của mưa nắng phút giao
mùa sang thu. Những câu thơ vừa tả cảnh, vừa kín đáo bộc lộ cảm xúc giao mùa
của lòng người trong mối luyến giao thấm quyện với thiên nhiên.
+ Bài thơ khép lại bằng hai dòng thơ hàm chứa ý nghĩa:

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Hai dòng cuối bài có hai tầng ý nghĩa: tả thực và ẩn dụ - gợi ta liên tưởng đến một
tầng ý nghĩa khác – ý nghĩa về con người và cuộc sống. Những tiếng sấm bất ngờ
của mùa hạ đã bớt đi lúc sang thu (cũng có thể hiểu: hàng cây không còn bị bất
ngờ, bị giật mình vì tiếng sấm nữa), nhưng đó còn là những vang động bất thường
của ngoại cảnh, của cuộc đời. Và hàng cây đứng tuổi ở đây vừa gợi lên hình ảnh
những hàng cây không phải là còn non, vừa gợi tả những con người từng trải đã
từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của cuộc đời. Qua đó, con người
càng trở nên vững vàng.

Hai câu kết đã khép lại bài thơ vừa là hình ảnh thiên nhiên sang thu, vừa là suy
nghĩ chiêm nghiệm về bản thân, về con người, về đất nước. Nó vừa trang nghiêm
chững chạc, vừa bâng khuâng khiêm nhường nhưng cũng đầy tự hào kiêu hãnh.
Chính nhà thơ Hữu Thỉnh tâm sự: với hình ảnh này, ông muốn gửi gắm suy nghĩ
của mình: khi con người đã từng trải thì cũng vững vàng hơn trước những tác động
bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Bài thơ kết thúc, nhưng dư vị vẫn còn để
người đọc tiếp tục nghĩ suy thêm về cái điều nhà thơ tâm sự.

You might also like