Professional Documents
Culture Documents
Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng
những gam màu hiện thực. Văn chương không bao giờ tìm đến những chốn xa
hoa mĩ lệ để làm mãn nhãn người đọc, nó tiếp cận hiện thực và tiếp nhận thứ
tình cảm chân thật không giả dối. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim mình để
đưa bạn đọc trở lại với đời thực để cùng lắng đọng, cùng sẻ chia. Phân tích bài
thơ Đồng Chí, Chính Hữu đã dẫn bạn đọc vào bức tranh hiện thực nơi núi rừng
biên giới nhưng thấm đẫm tình đồng chí đồng đội bằng thứ văn giản dị, mộc
mạc.
Khi nhắc đến Chính Hữu, ta thường nhắc đến một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành
trong kháng chiến chống Pháp.Tác phẩm của ông thường viết về chiến tranh và
hình ảnh người lính với những ngôn từ hàm xúc, giản dị. Bài thơ “Đồng chí” là
một trong những tiêu biểu và thành công nhất của ông. Bài thơ được viết và in
lần đầu trên một tờ báo đại đội ở chiến khu Việt Bắc (1948), dựa trên những trải
ngiệm của Chính Hữu cùng đồng chí đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc thu
đông (1947), đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp vào cơ quan
đầu não của ta.
Bằng những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, bài thơ thể hiện ấn tượng hình ảnh
người lính thời kì đầu chống Pháp và tình đồng chí đồng đội thắm thiết, keo sơn
giữa các anh.
Ngòi bút tài hoa của chính hữu cùng với những câu thơ tự do, giọng thủ thỉ tâm
tình, ngôn ngữ giản dị, một cách tự nhiên Chính hữu đã từ từ dẫn người đọc đến
với cơ sở hình thành tình đồng chí:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi ngèo đất cày sỏi đá”
Hai câu đàu với cấu trúc câu thơ song hành, thành ngữ dân gian “nước mặn
đồng chua”, cách nói sáng tạo từ tục ngữ “đất cày lên sỏi đá”, giọng thơ thủ thỉ
tâm tình gợi cảnh hai người lính đang ngồi kể cho nhau nghe về quê hương
mình. Đó là những vùng quê nghèo khó, lam lũ: một người ở miền biển “nước
mặn đồng chua”, một người ở miền trung du “đất cày lên sỏi đá”. Phải chăng
chính nguồn gốc xuất thân của các anh đã làm nên bệ phóng cho tình đồng chí?
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”
Đồng hoàn cảnh, chung lý tưởng đánh giặc cứu nước, các ạnh đã tham gia đội ngũ bộ đội kháng chiến. Cuộc kháng
chiến chống Pháp trường kì của dân tộc
chính là nơi hội tụ trái tim những người con yêu nước, đã đưa các anh từ lạ
thành quen “anh với tôi đôi người xa lạ, tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Có lẽ chung cuộc sống chiến đấu gian khổ bên chiến hào vì độc lập tự do của
dân tộc, đã từ khi nào các anh trở thành tri kỉ của nhau :
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Câu thơ:
“súng bên súng, đầu sát bên đầu” đã gợi lên tư thế của người lính trong đêm
phục kích. Họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi khó khăn, nguy hiểm. “Súng
bên súng” là chung nhiệm vụ, chung hành động; “đầu sát bên đầu” là chung chí
hướng, chung lí tưởng. Chính Hữu đã dung các từ “sát, bên, chung” gợi sự chia
sẻ của người lính, ý hợp tâm giao. Hình ảnh “đêm rét chung chăn” là một hình
ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, đã cho ta thấy được sự sẻ chia những thiếu thốn gian lao
trong cuộc đời người lính. Cũng sự sẻ chia ấy, Tố Hữu từng viết:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
Tấm chăn tuy mỏng nhưng ấm tình đồng chí, đồng đội mà người lính không thể
nào quên. Nó đã vun đắp lên tình đồng chí của các anh, cái tình ấy ngày một
thắm thiết, càng đậm sâu. Các anh giờ đây không chỉ là tri kỉ than thiết của nhau
mà đẫ trở thành những người “đồng chí”.
“Đồng chí!” Là một câu đặc biệt như một bản lề khép mở: khép lại cơ sở hình
thành tình đồng chí và mở ra biểu hiện sức mạnh của tình đồng chí. Nó như nốt
nhấn trên bản đàn, buộc người đọc phải dừng lại suy nghĩ về ý nghĩa mà nó gợi
ra. Đó là tiếng gọi thiêng liêng của những người có chung chí hướng lí tưởng
vang lên từ sâu thẳm tâm hồn người lính. Tình đồng chí là đỉnh cao của tình
bạn, tình người, là kết tinh của mọi tình cảm, là cội nguồn sức mạnh để người
lính vượt qua những tháng ngày khó khăn gian khổ. Hai tiếng “đồng chí” đơn sơ
mà cảm động đến nao lòng, làm bừng sang ý nghĩa của cả đoạn thơ và bài thơ.
Mười câu thơ tiếp theo vẫn là những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, mộc mạc
cho người đọc thấy được biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.
Trải qua những khó khắn nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp các anh có
được sự cảm thông, thấu hiểu nỗi lòng, tình cảm của nhau .Những lúc ngồi cận
kề bên nhau, các anh đã kể cho nhau nghe chuyện quê nhà đầy bâng khuâng,
thương nhớ :
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Ba câu thơ với giọng thủ thỉ tâm tình cùng những hình ảnh giản dị quen thuộc
cho thấy những người lính vốn là những người nông dân quen chân lấm tay bùn,
gắn bó với căn nhà thửa ruộng. Nhưng khi tổ quốc cần, các anh sẵn sàng từ bỏ
những gì thân thuộc nhất để ra đi làm nhiệm vụ: ruộng nương gửi bạn thân cày,
để mặc căn nhà trống trải đang cần người sửa mái “mặc kệ” vốn chỉ thái dộ thờ
ơ vô tâm của con người, nhưng trong lời thơ của Chính Hữu lại thể hiện được
sự quyết tâm của người lính khi ra đi. Các anh ra đi để lại tình yêu quê hương
trrong tim mình, để nâng lên thành tình yêu Tổ quốc. Đó cũng là sự quyết tâm
chung của cả dân tộc, của cả thời đại. Tuy quyết tâm ra đi nhưng trong sâu thẳm
tâm hồn các anh, hình ảnh quê hương vẫn in đậm, vẫn hằn lên nỗi nhớ thân
thương: “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình ảnh hoán dụ cũng với
nghệ thuật nhân hóa, Chính Hữu đã tạo ra nỗi nhớ hai chiều: quê hương – nơi có
cha mẹ, dân làng luôn nhớ và đợi chờ các anh, các anh – những người lính luôn
hướng về quê hương với bao tình cảm sâu nặng. Có lẽ chính nỗi nhớ ấy đã tiếp
thêm cho các anh sức mạnh để các anh chiến đấu dành lại độc lập cho dân tộc.
Không chỉ thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao
và niềm vui bên chiến hào chiến đấu:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đôi đối xứng “anh – tôi”, “áo
anh – quần tôi” tạo được sự gắn kết của những người đồng chí luôn kề vai sát
cánh, đồng cam cộng khổ bên nhau. Trong thiếu thốn, các anh đã cùng chia sẻ
ốm đau bệnh tật, cũng trải qua những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng chia sẻ
những thiếu thốn về vật chất, bằng niềm lạc quan “miệng cười buốt giá”, bằng
tình yêu thương gắn bó “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hình ảnh “miệng
cười buốt giá” gợi nụ cười lạc quan bừng lên trong giá lạnh xua tan đi sự khắc
nghiệt của chiến trường. Các anh nắm tay nhau để chuyền cho nhau hơi ấm, để
động viên nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Thật hiếm khi thấy cái bắt tay nào
nồng hậu đến vậy!
Chính Hữu bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp
ngay giữa một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa n úi rừng biên giới trong đêm khuya:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận
đánh giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một
đêm đã đi vào lịch sử khiến người lính không thể nào quên. Các anh phục kích
chủ động chờ giặc trong hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: “rừng hoang sương muối”
“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi
hộp căng thẳng khi ranh giới của sự sống cái chết rất mong manh. Từ “chờ” đã
thể hiện được tư thế chủ động của người lính trong đêm phục kích cũng là tư thế
chủ động của toàn dân ta sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947.
Khép lại bài thơ là hình ảnh tuyệt đẹp và thi vị, một phát hiện của người lính
trong chính đêm phục kích của mình: “đầu súng trăng treo”. Câu thơ gợi từ hiện
thực: đêm về khuya, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên
trời, trăng lên cao, ánh trăng trên đầu súng khiến các anh tưởng như trăng đang
treo trên đầu súng của mình. Súng là biểu tương của cuộc chiến đấu đầy gián
khổ, hi sinh mà người lính đang trải qua, trăng là biểu tượng của cuộc sống hòa
bình trong tương lai mà người lính đang hướng tới. Súng là biểu tượng của
người chiến sĩ, trăng là biểu tượng của thi sĩ. Súng – trăng là gần và xa, thực tại
và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thi sĩ, hiện
thực và lãng mạn cũng tồn tại, bổ sung tô điểm cho vẻ đẹp cuộc đời người chiến
sĩ. Ánh trăng dường như đang ngập tràn khắp núi rừng chiến khu, trên bầu trời
và chiếu cả trong làn sương huyền ảo. Tâm hồn các anh, những người chiến sĩ
cũng như ánh trăng ấy nồng hậu, lấp lánh ánh sáng lạc quan, luôn hướng về một
ngày mai tươi sáng.
Như vậy, “Đồng chí” giống như một lời ca nhẹ nhàng trong trẻo về tình đồng
chí đồng đội. Chính Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một giai điệu mới
mẻ, một bức tranh đẹp về người lính chống Pháp. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng
ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ
trở nên thi vị, mộc mạc, đi thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó với những
hình ảnh biểu trưng, những câu văn sóng đôi, ngòi bút hiện thực lãng mạn của
ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí.
Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái
tim. Chính Hữu đã đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên
nhưng đồng thời cũng đặt vào bức tranh ấy một viên ngọc sấng thuần khiết nhất, đ ó là tình đồng chí đồng đội keo
sơn thắm thiết. Để rồi khi thời gian trôi qua,
tác phẩm trở thành bài ca không quên trong lòng bạn đọc.
PHÂN TÍCH BÀI THƠ "ĐỒNG CHÍ" (Bài hay)
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”
Thật đẹp làm sao hình ảnh người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam trong thơ
Tố Hữu! Chẳng biết tự bao giờ, hình ảnh người lính trên đường ra trận trong
những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đã để lại trong lòng bạn đọc
một dấu ấn khó phai mờ. Cũng viết về người lính kháng chiến thời chống Pháp
nhưng bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu lại thể hiện vẻ đẹp ở khía cạnh khác.
Đó là mối tình đồng chí đồng đội được hình thành và phát triển trong điều kiện
chiến đấu vô cùng thiếu thốn gian khổ để tạo nên phẩm chất dẹp đẽ, một trong
những nguòn sức mạnh của quân đội ta.
Thật vậy, bài thơ “Đồng chí” không phải là bài thơ hay nhất nhưng nó lại là bài
thơ được nhiều người biết đến nhất, thậm chí nhắc đến Chính Hữu người ta nghĩ
ngay đến “Đồng chí”. Bài thơ đã được phổ nhạc nhưng dù là thơ hay nhạc mãi
mãi tình đồng chí keo sơn gắn bó vẫn sống mãi trong lòng mọi người.
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu được sáng tác theo thể thơ tự do, chỉ có 20
dòng nhưng đã tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng
đội thật sâu sắc. Mở đầu bài thơ tác giả viết :
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Thành ngữ “Nước mặn đồng chua” và hình ảnh gợi tả “Đất cày lên sỏi đá” đã
mang đến sức khái quát cao. Tác giả giới thiệu với chúng ta hoàn cảnh xuất thân
của những người chiến sĩ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp. Họ là những người sinh ra và lớn lên từ những làng quê nghèo đói “ nước
mặn đồng chua ”, “đất cày lên sỏi đá ”. Họ thật sự là những người nông dân
“Mới hôm qua còn tì tay lên cán cuốc ”, đang chống chọi lại với thời tiết khắc
nghiệt của vùng quê chua phèn sỏi đá để khoát lên mình màu áo xanh chiến sĩ
bảo vệ quê hương đất nước thân yêu.
Mỗi người một vùng quê, những người tứ xứ này trước ngày vào bộ đội họ chưa
hề quen biết nhau.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Những người từ mọi phương trời tập hợp lại trong hàng ngủ quân đội cách
mạng và chính nhờ cơ sở của sự đồng cảm giai cấp, cùng chung cảnh ngộ cho
nên họ đã dễ dàng thân quen với nhau. Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ “
Nhớ ” của mình cũng thể hiện tình cảm này.
“Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ
Gặp nhau hòi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một hai
Súng bắn chưa quen quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến ”
Những người xa lạ gặp nhau thân quen nhau tạo nên tình đồng chí. trước hết
phải nói tình đồng chí được nảy sinh từ sự cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên
nhau trong chiến đấu.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Súng bên súng là cách nói hàm súc, hình tượng. Cùng chung lí tưởng chiến đấu.
Anh cùng tôi cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập tự
do và sống còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu ” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm
đầu của đôi bạn tâm giao. Có thể nói hai hình ảnh thơ đã cụ thể hóa sự hòa nhập
của những người chiến sĩ cùng chung lí tưởng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Súng
và đầu, ý chí và tình cảm là sự gắn bó keo sơn thắm thiết của những con người
cùng chung lí tưởng. Câu thơ “ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ ” là câu thơ
hay và cảm động đầy ắp kỉ niệm của một thời gian khổ. Đã là đôi tri kỉ phải
hiểu nhau thông cảm cho nhau, chia sẻ ngọt bùi cho nhau. Phải là người bạn chí
cốt bên nhau. Để có được mối tình tri kỉ này hẳn nhiên họ phải cùng chung hoàn
cảnh xuất thân, cùng chung lí tưởng chiến đấu. Câu thơ được biểu hiện bằng
một hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm.
“Đồng chí!”. Câu thơ chỉ gồm hai tiếng như ghép lại tình ý sáu câu thơ đầu của
bài thời, đồng thời tạo ra một tiếng vang ngân như một nốt nhấn nổi bật trong
bản đàn, là sự kết tinh mọi cảm xúc, mọi tình cảm. Tình đồng chí là cao độ của
tình bạn tình người. Câu thơ thứ bảy trở thành bản lề gắn kết giữa hai dòng cảm
xúc: một bên là cơ sở hình thành tình đồng chí và một bên là những biểu hiện
thiêng liêng của tình cảm đẹp ấy. Biểu hiện đầu tiên của tình đồng đội thắm
thiết chính là ở học có sự thấu hiểu nhau sâu sắc:
“Ruông nương anh gởi bạn thân cày
Gian nhà không mặt kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người trai làng ra lính”
Ba câu thơ đưa ta trở lại hoàn cảnh riêng, từng cảnh ngộ riêng của những người
lính vốn là nông dân đó. Gơi bạn thân cày mảnh ruộng của mình. Nhớ tới gian
nhà trống không “ gió lung lay ”. Sẵn sàng gởi lại những gì quí giá thân thiết
của cuộc sống người nông dân nơi làng quê để ra đi vì nghĩa lớn. Hai chữ “mặc
kệ ” đã nói được một cách dứt khoát mạnh mẽ của những người lính ra trận. Họ
dứt khoát nhưng không vô tình, trong lòng họ vẫn nặng tình với quê hương thân
yêu. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi có viết :
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
“Giếng nước gốc đa ” hình ảnh quê hương thân thiết được tác giả diễn tả một
cách kín đáo gián tiếp qua mô típ quen thuộc về làng quê của ca dao “ Cây đa
giếng nước sân đình ”. Nghệ thuật hoán dụ và nhân hóa đã bộc lộ nỗi niềm nhớ nhung của kẻ hậu phương đối người
ra trận. Bút pháp nhân hóa nỗi nhớ cũng
mình mới trở lại được quê hương. Còn anh giải phóng quân giữa chiến trường
ác liệt, họ cũng không cảm thấy buồn chán, vì quanh họ còn có biết đồng đội
gần gũi, yêu thương. Trong cuộc hành trình vất vả đó họ đã “gặp bè bạn suốt
dọc đường đi tới”, đem đến cho họ sự vui tươi, than ái. Từ “họp, gặp” diển tả
những cuộc hội ngộ của những người lính trẻ trung, cùng chí hướng thì hình ảnh
“bắt tay nhau” thật đẹp đẽ, biểu hiện sự đồng cảm, thân ái, yêu thương của
những người chiến sĩ.
Tình đồng chí, đồng đội của anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn càng
thắm thiết, cảm động hơn khi họ cùng chia sẻ với nhau một bữa cơm dã chiến:
“Bếp Hòang Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Họ đã chiến đấu, công tác trên con đường Trường Sơn khi cần nghỉ ngơi họ lại
lấy con đường than yêu ấy làm nhà. Họ trò chuyện, cười đùa với nhau thật thoải
mái, than mật. Họ dựng bếp Hòang Cầm giữa trời, “võng mắc chông chênh”sau
những giờ phút căng thăng giữa chiến trường. Hai hình ảnh “Bếp Hòang Cầm”
và “võng mắc chông chênh” là hai nét vẽ hiện thực làm sống lại hiện thực chiến
trường. Các anh vừa nấu cơm vừa chợp mắt trên cái “võng mắc chông chênh”.
Bữa cơm chiến trường đơn sơ, giản dị thế mà vẫn rộn lên niềm vui tình đồng
đội:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm xẻ nửa, chăn xui đắp cùng”
(Tố Hữu)
Để rồi từ đây, cái định nghĩa về gia đình của các anh chiến sĩ mới ngộ nghĩnh
làm sao!
“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Một gia đình vui tươi, trẻ trung gồm những người lính trẻ đã hình thành khi
“chung bát đũa”. Nhưng chỉ trong một thóang chốc để rồi sau đó người chiến sĩ
lại tiếp tục hành quân:
“Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Điệp ngữ “lại đi” đã diễn tả một công việc quen thuộc của người lính nhưng
đồng thời cũng biểu lộ nhiệt tình, khí thế khẩn trương sôi nổi của họ. Trước mắt
họ, “trời xanh thêm” như báo hiệu một ngày công tác, chiến đấu, nhưng lại phù
hợp với tâm hồn trẻ trung, yêu đời của người lính cũng như niềm lạc quan, tin
tưởng của họ vào tương lai, vào cuộc sống
Vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường ngày như văn xuôi, nhưng
nhạc điệu, hình ảnh trong khổ thơ cuối rất đẹp, rất thơ góp phần hòan thiện bức
chân dung tuyệt vời của người lính lái xe quân sự trên tuyến đường Trường Sơn
trong những năm đánh Mĩ. Bốn dòng thơ dựng lại hai hình ảnh rất thú vị, bất
ngờ:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Khổ thơ cuối vốn là ngôn ngữ giản dị, đơn sơ. Điệp ngữ “không có” như nhấn
mạnh, làm rõ những khó khăn, trở ngại dồn dập, liên tiếp. Khi những bộ phận
cần thiết của của chiếc xe đã bị bom đạn làm hư hại. Cài “không có” là kính, la
đèn, là mui xe, còn cái “có” lại là “thùng xe có xước”. Thế mà người chiến sĩ
vẫn tiếp tục điều khiển cho xe chạy. “Xe vẫn chạy” chứ không chịu ngừng nghỉ,
nằm yên. Điều gì đã thôi thúc người chiến sĩ tận tụy, quên mình nhiệm vụ, coi
thường những gian khổ, khó khăn?
Tất cả là bởi một mục đích, mợt lí tưởng cao cả “vì miền Nam phía trước”.
Lòng yêu nước nồng nàn, ý thức căm thù giặc cao độ đã giúp cho người chiến sĩ
sẵn sàng quên mình vì nhiệm vụ. Ước mong cao đẹp nhất là mong muốn giành
được độc lập, tự do cho “Tổ Quốc”, mang lại hòa bình độc lập cho quê hương.
Cội nguồn sức mạnh của người chiến sĩ lái xe, sự dũng cảm kiên cường của
người chiến sĩ được diễn tả thật bất ngờ, sâu sắc:
“Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Thì ra “ trái tim” cháy bỏng tình yêu thương Tổ Quốc đồng bào miền Nam ruột
thịt đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vượt qua bao gian khó, luôn bình tĩnh,
tự tin để cầm chắc tay lái đưa xe đi tới đích. Hình ảnh bất ngờ ở câu cuối đã lí
giải được tất cả mọi vấn đề. Câu thơ bình dị như lời nói hằng ngày nhưng lại ẩn
chứa một ý tượng sâu sắc về một chân lí thời đại. Sức mạnh để chiến thắng
không phải vũ khí hiện đại, phương tiện tối tân, đầy đủ tiện nghi mà chính là
con người với trái tim nồng nàn yêu thương đất nước nhân dân, sôi sục long
căm thù quân giặc. Ý chí bất khuất kiên cường ấy giúp cho con người lướt
thẳng mọi trở ngại, khó khăn.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ hay, đặc sắc của Phạm Tiến
Duật. Chẳng ngẫu nhiên mà nhà thơ đã đặt tên cho tác phẩm là “Bài thơ về tiểu
đội xe không kính”. Chất thơ tỏa ra từ thực tế của cuộc chiến đấu, từ niềm vui
của người chiến sĩ trong thời đại chống Mĩ. Chất thơ tóat ra từ sự giản dị, đơn
sơ của ngôn từ, sự sáng tạo bất ngờ của các chi tiết, hình ảnh anh lính Cụ Hồ.
Ra đời gần ba mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối người
chúng ta ngày hôm nay. Cám ơn nhà thơ đã giúp tất cả chúng ta cảm nhận sâu
sắc về hình ảnh người lính lái xe một thơì gian khổ mà hào hùng, đã quên mình
vì quê hương, đất nước. Chúng ta là thế hệ mai sau sẽ sống tiếp nối với truyền
thống hào hùng của ông cha xưa kia và để hòan thành nhiệm vụ hôm nay.
Chúng ta hãy tự hào về họ, những người chiến sĩ Trường Sơn:
“Ôi đất anh hùng dễ mấy mươi
Chìm trong khói lửa vẫn xanh tươi
Mưa bom bão đạn lòng thanh thản
Nhạt muối vơi cơm miệng vẫn cười.”
(Tố Hữu)
Cảm nhận về bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận
Có ý kiến cho rằng một trong những thành tựu quan trọng của Thơ Mới (1932 -
1945) là đã cải biến câu thơ điệu ngâm cổ điển thành câu thơ điệu nói hiện đại. Nhận
định này đúng. Nhưng, cần phải thêm hai chữ: “bước đầu”. Thơ Mới chỉ bước đầu làm
cuộc vượt mình khỏi điệu ngâm, mà chưa thoát được bao nhiêu. Đây đó đã có những
cú vuột ra ngoài, nhưng về căn bản, Thơ Mới vẫn nằm dài dài trong vòng ôm ve vuốt
của điệu ngâm. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, câu thơ hiện đại dấn thân vào một
thực tại mới, những bức xúc cách tân trong lòng nó cồn cào hẳn lên. Nhưng chỉ bắt
đầu từ kháng chiến chống Pháp trở đi, thơ hiện đại mới dứt khoát cự tuyệt với sự vấn
vít của điệu ca ngâm dai dẳng hàng ngàn năm ấy. Câu thơ hiện đại bấy giờ mới trút bỏ
hẳn lốt y phục tha thướt của điệu ngâm một cách cương quyết và tự chủ để trở thành
điệu nói thực thụ. Chế Lan Viên, một thi sĩ thành tựu với cả hai thời đại thơ, có lẽ đã
là người phát ngôn tự giác nhất về điều này, khi đối lập: “Xưa tôi hát và bây giờ tôi
tập nói / Chỉ nói thôi mới nói hết được đời” (Trích Sổ tay thơ). Như vậy, Thơ Mới vẫn
còn là “hát” (ngâm) chỉ sang thơ thời sau mới thực là “nói”
Ghi công cho những bước bứt phá táo bạo mà thành đạt phải kể đến Trần Mai
Ninh, Nguyễn Đình Thi, Hồng Nguyên, Hữu Loan, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Trung
Thông v.v… và không thể không kể đến Chính Hữu với Đồng chí. Từ Ngày về đến
Đồng chí, có người đã xem đó là cuộc tự đính chính của tác giả trong nhận thức về
hiện thực. Cũng có thể hình dung một cách khác: đó là cuộc “thau chua rửa phèn”
trong thi cảm và thoát xác trong ngôn ngữ thi ca. Cái đẹp chinh phu đã tháo lui trước
cái đẹp vệ quốc. Thi ảnh mỹ miều mà mòn phai xơ sáo của “áo hào hoa” và “hài vạn
dặm” đã nhường chỗ cho thi ảnh mộc mà thực của “áo rách vai”, “quần vài mảnh vá”,
“chân không giày”. Câu thơ điệu ngâm (hát) óng chuốt lượt là đã nhường lời cho câu
thơ điệu nói thô ráp mà tươi rói, vẫn hăng vị đời mà súc tích dư ba.
Hẳn vì Đồng chí có phẩm chất của một đại biểu, mà giới nghiên cứu thẩm bình
vây quanh thi phẩm khá đông. Đã có nhiều khai thác thú vị từ không ít bình diện của
nó. Là người đến sau, bận tâm của tôi về Đồng chí ở lần này chỉ nhằm vào cấu trúc và
ngôn ngữ.
**
*
Cấu trúc của một thi phẩm phụ thuộc rất nhiều vào ý tưởng chủ đạo của nó. Mà
ý tưởng chủ đạo bao giờ cũng triển khai thành mạch suy cảm trong toàn bài. Một câu
hỏi đặt ra: mạch suy cảm trong bài Đồng chí bắt đầu từ đâu? Hỏi thế cứ như lẩn thẩn.
Thì từ đầu chứ còn từ đâu nữa? Không hẳn. Hình như không phải từ đầu. Mà từ cuối.
Chính thức là từ cái “đêm nay”” Khẳng định thế có gì phi lý chăng? Không. Bao giờ
thơ trữ tình cũng hiện tại hoá quá khứ. Điều này đã thành quy luật. Tâm tư dù thuộc
về quá khứ thì vẫn cứ phải được trình bày như là hiện tại, như đương diễn ra. Mà hiện
tại trong thi phẩm chỉ có một “đêm nay”. ấy là lúc hai người lính đang “đứng cạnh bên
nhau chờ giặc tới”. Chỉ lát nữa, chiến sự sẽ nổ ra. Giữa họ, biết ai còn ai mất. Tình
huống ấy thường xui khiến con người nhớ lại những kỷ niệm tình nghĩa, những gì đã
khiến họ gắn bó với nhau. Thế là hồi ức đưa họ ngược trở về với quá khứ xa, khi quan
hệ bắt đầu... rồi quá khứ gần, khi họ đã nên tình nên nghĩa... Và cứ thế, theo đường
dây của kỷ niệm, hồi ức lại đưa họ về hiện tại, về lại “đêm nay”, cho họ tin cậy, cho
họ thanh thản trước giây phút đối mặt với kẻ thù. Mạch tâm tư đã nảy sinh như thế.
Thi phẩm cũng thành hình như thế. Nói cách khác, bằng cuộc tâm tình của đôi bạn
lính bên chiến hào, bài thơ đã tìm được một hình hài phù hợp để tự định dạng cho
mình.: Đêm nay rừng hoang sương muối.
Mạch tâm tư ấy đã chuyển tải ý tưởng chủ đạo nào? Ý tưởng về tình đồng chí.
Dường như, Chính Hữu muốn thể hiện những suy cảm của mình về mối tình cao đẹp
này. Đó là những khám phá sâu sắc về tình đồng chí giữa những người vệ quốc - một
quan hệ vừa mới được cuộc kháng chiến khai sinh. Có phải cứ gọi nhau bằng hai tiếng
“đồng chí” là hiển nhiên có tình đồng chí không? Hình như không. Phải trải bao tháng
ngày, phải biết bao kỷ niệm, quan hệ mới thắm dần lên từng bước, rồi đến một ngày
kia, tất cả mới kết tinh thành tình đồng chí. Chính Hữu đã khéo léo cài đặt mạch luận
lý (đúc kết về quan hệ) vào mạch tâm tình (bộc bạch về tình cảm). Sự đan quyện
nhuần nhuyễn và tinh vi của hai mạch này đã làm nên cấu trúc của bài thơ. Nhìn kĩ,
hai mạch ấy vừa hoà vào nhau vừa dắt díu nhau đi suốt mạch thơ bởi cùng nương theo
một chữ đồng. Nói vui, thi phẩm đã tạc một chữ đồng đến... xương.
Thoạt tiên, là đồng cảnh; quan hệ còn là xa lạ:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Lớp từ diễn tả ý niệm cặp đôi chiếm vị thế ưu tiên. Cặp đại từ: anh - tôi luôn
được dùng sóng đôi, rồi các hình ảnh, các vế câu thường song hành, song đôi để gợi ý
niệm về sự bình đẳng gắn bó: quê hương anh - làng tôi, anh với tôi, tôi với anh, áo anh
- quần tôi... Lớp từ diễn tả sự mật thiết, gắn kết của tình bằng hữu, tình đồng đội, tình
tri kỷ: đôi, bên, sát, chung, nắm... Có những trường hợp mật độ đôi như thế rất dày,
nhưng vẫn rất tự nhiên, nhuần nhuyễn :
Súng / bên súng // đầu / sát bên đầu
Ta có thể thấy hai vế lớn của câu đi thành cặp đôi, đã đành, mà ngay trong từng
vế lớn ấy, các vế nhỏ cũng cặp kè từng đôi gắn bó với nhau!
Từ “đôi” ở đây thật ý nhị, súc tích: đôi người xa lạ, đôi tri kỷ. Chẳng phải thế
sao? Về số lượng, nó vẫn chỉ hai đối tượng, hai con người, như từ “hai”. Tuy nhiên,
“hai” là trung tính, hai đối tượng được nói đến không nhất thiết phải chặt chẽ, mà
thường nghiêng về ngẫu nhiên, rời rạc. Còn “đôi” vừa mang ý niệm số lượng, vừa bao
hàm ý niệm quan hệ. Hai đối tượng phải có mối gắn bó khăng khít, hữu cơ, không thể
tách rời thì mới là “đôi”. Trong đó, từng đối tượng lẻ chỉ được là mình khi đi thành
đôi, xé lẻ ra, nó không còn thực là mình nữa. Ví như: “đôi mắt”, “đôi tay”, “đôi gò
má”, “đôi gò bồng đảo”, “đôi đũa”, “đôi hoa tai” v.v… Ta hiểu vì sao, Chính Hữu
không dùng “hai” khi họ là “tri kỷ”, đã đành, mà ngay khi họ hãy còn là người “xa
lạ”, cũng không dùng “hai”, cứ nhất thiết phải “đôi”. Dường như trong cảm nhận đầy
tin yêu về con người và cuộc sống, thì trong những cá thể ấy, dù lúc đương còn xa lạ
đối với nhau, thì từng người đã sẵn mang tâm nguyện được gắn kết, nghĩa là sẵn mang
những cái mầm để sau này thành “đôi” rồi vậy.
Nhưng đáng nói hơn cả vẫn là cách dùng thành ngữ và tổ chức ngôn từ theo
phong cách thành ngữ. Tính chất điệu nói của lời thơ trong thi phẩm (qua giọng của
những chàng trai làng ra lính) đã nhờ cậy rất nhiều vào điều này. Cụ thể là thành ngữ
bốn tiếng. Thành ngữ bốn tiếng là một tổ hợp chặt chẽ gồm hai vế. Mỗi vế một đối
tượng. Chúng thường thuộc về một trong hai kiểu quan hệ: tương đồng -“Mặt hoa da
phấn”, “Gừng cay muối mặn”, “Một nắng hai sương”v.v…, hoặc tương phản - “Ông
chẳng bà chuộc”, “Trống ngược kèn xuôi", “Bồ còn thóc hết”v.v… Trong một bài thơ
không dài, Chính Hữu đã dùng khá nhiều thành ngữ và cụm từ theo lối thành ngữ:
Nước mặn đồng chua, Giếng nước gốc đa, Rừng hoang sương muối, Đầu súng trăng
treo… Trong bài thơ, ta đã thấy hệ thống sự vật thường đi thành cặp đôi khá phổ biến:
anh - tôi, súng bên súng, đầu bên đầu, áo - quần, tay nắm bàn tay… Thì những cặp
hình ảnh trong các cụm thành ngữ trên đây lại bổ sung thêm vào đội ngũ đông đảo
những cặp đôi ấy, khiến cho tính cặp đôi nổi hẳn lên như một phong cách ngôn ngữ
đặc thù của thi phẩm. Điều thú vị là, nhìn kĩ còn thấy, sự vật trong các thành ngữ này
không chỉ luôn gắn với nhau thành cặp thành đôi. Mà quan hệ của chúng cũng
nghiêng về mối tương đồng. Cho nên chúng gợi được rất nhiều về mối tương thân
tương ái của những người đồng chí.
Ta không khỏi ngỡ ngàng về sự ý nhị khi thi sĩ dùng thành ngữ Giếng nước gốc
đa. Cặp hình ảnh này vừa là biểu tượng của tình quê hương, vừa là biểu tượng của tình
đôi lứa. Những người lính ra trận, không chỉ quê hương trông đợi mà người yêu cũng
trông mong. Dùng thành ngữ ấy, tâm lý của những người nông dân mặc áo lính hiện
lên thật tế nhị. Họ thường ngại ngần, ngượng ngập khi phải nói đến chuyện tình yêu
của mình, dù đang trò chuyện với bạn thân đi nữa. Vì thế, với thành ngữ giếng nước
gốc đa, họ đã tránh được cái pha “chết người” ấy - tình yêu đôi lứa của họ đã nép sau
tình quê hương một cách an toàn!
Tuy nhiên, đặc sắc hơn cả, vẫn là câu kết hoàn toàn viết theo lề lối thành ngữ:
Đầu súng trăng treo
Câu thơ cũng gồm hai vế với hai hình ảnh. Ngoài sự chặt chẽ vốn có mà phong
cách thành ngữ đem lại cho cụm từ này, tự nó cũng còn là một kiến trúc với một trật
tự không thể đảo ngược, xét cả về hình ảnh lẫn âm thanh. Trước hết là trật tự hình
ảnh. Một thành ngữ bốn tiếng, đôi khi hai vế có thể hoán đổi khá linh hoạt mà không
ảnh hưởng lắm đến nghĩa của nó. Ví như Rồng bay phượng múa đảo thành Phượng
múa rồng bay. Xem ra ở đây, chỉ có thể là Đầu súng trăng treo, súng trước trăng sau,
mà không thể ngược lại. Vì sao ư? Là câu kết, nó đem lại cho mạch vận động của bài
thơ một bất ngờ: toàn bài hầu như không có chi tiết sự vật nào thuộc về ánh sáng,
khiến người đọc có cảm giác đang đi trong cõi âm u của dòng hồi ức về quá khứ của
người lính, thì đến đây, ánh sáng đột hiện với vầng trăng treo. Vầng trăng càng ở vị trí
chót cùng của bài thơ thì ý nghĩa càng giàu, bất ngờ càng lớn. Vầng trăng vừa là kết
tinh sáng đẹp nhất của tình đồng chí, vừa toả sáng lên toàn bài, tô điểm cho thế giới
của tình đồng chí ấy.
Nếu chót cùng là hình ảnh “đầu súng” thì sao ?
Thì … gay nhỉ ?
Song song với nó là trật tự âm thanh. Trong thành ngữ bốn tiếng, bao giờ cũng
có sự đắp đổi về âm thanh giữa hai vế. Vế này bằng thì vế kia trắc. Và cũng thường
hoán vị được cho nhau. Trường hợp câu kết này, thì khác. Xem chừng, trật tự ấy là tối
ưu. Nhất thiết phải là Đầu súng trăng treo, trắc trước bằng sau. Bởi vì, có như vậy, bài
thơ mới kết thúc bằng thanh bằng. Thanh bằng êm nhẹ, gợi được cảm giác nhẹ nhàng,
êm ả. Nó mở ra một không gian đêm trăng thoáng sáng toả lan. Quan trọng hơn, nó
gợi được sự thanh thản trong tâm hồn những người lính mà niềm tin cậy vào tình đồng
chí sâu nặng và cao cả vừa đem đến cho họ.
Thử hình dung nếu nó kết thúc bằng thanh trắc?
Các cảm giác này sẽ lập tức tiêu tan.
Quan hệ hướng ngoại giữa câu kết với chỉnh thể như vậy đã là đáng kể. Nhưng
sẽ còn đáng nói hơn chút nữa, khi xem xét cấu trúc nội tại của nó từ trật tự biểu tượng.
Đọc câu kết, từ góc độ biểu tượng, có thể thấy những cặp tương ứng với các lớp nghĩa
tượng trưng: đầu súng - trăng treo, chiến tranh - hoà bình, hiện tại - tương lai, hiện
thực - lãng mạn, thực tại - mơ ước...
Một trật tự trước sau như thế, liệu có thể đảo ngược được không?
Và, Đồng chí có thể thành một kiến trúc ngôn từ hoàn hảo không, nếu thi phẩm
không được xây cất bằng một vật liệu như vậy?
Hoá ra, giữa cấu trúc và vật liệu cũng có mối quan hệ... đồng chí!
Đồng chí
Chính Hữu
*Yêu cầu
Pháp với tình đồng chí, đồng đội gắn bó, yêu thương
+LĐ 1 : Những cơ sở vững chắc bền chặt của tình đồng chí (7c)
-Cùng chung hoàn cảnh sống cuộc đời khó khăn, gian khổ (1c)
=>Đồng chí : khẳng định tình đồng chí là những cơ sở trên (1c)
+LĐ 2 : Biểu hiện cao đẹp và sức mạnh của tình đồng chí (10c)
-Tình yêu thương gắn bó keo sơn của những người lính (1c)
+LĐ 3 : Biểu tượng cái đẹp của tình đồng chí ( 3c)
A.MB
-Dẫn dắt :
Hình ảnh người chiến sĩ áo vải hiện lên vô cùng đẹp đẽ. Họ- những con người bình
dị, mộc mạc, nhưng chính họ là người làm nên đất nước. Trong dòng chảy văn học
kháng chiến chống Pháp, hình ảnh người lính không ngang tàng, hóm hỉnh như
kháng chiến chống Mĩ, nhưng lại mang trong mình nét chất phác, giản dị và hơn
hết là tình yêu đất nước tha thiết. Vẻ đẹp tâm hồn đó đã được Chính Hữu khắc họa
-VĐNL : Bài thơ là lời ca ngợi vẻ đẹp của những người lính trong kháng chiến
chống Pháp với tình đồng chí, đồng đội gắn bó, yêu thương
(Tình cảm ấy được thể hiện sâu sắc trong đoạn thơ…)
B.TB
-TĐ : “Đồng chí” là một trong những áng văn tiêu biểu và thành công nhất của
ông. Bài thơ được viết và in lần đầu trên một tờ báo đại đội ở chiến khu Việt Bắc
vào đầu xuân năm 1948, sau khi tác giả tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông năm
1947, đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp vào cơ quan đầu não
của ta. Có lẽ vì vậy mà những gì được viết trong tác phẩm là thực tế chứng kiến
trải nghiệm của chính tác giả. Để rồi những gian khổ, hy sinh của người lính ngoài
chiến trường hiện lên sau từng câu thơ của Chính Hữu vô cùng chân thực, xúc
động
-KĐ : Bài thơ với những hình ảnh giản dị, mộc mạc, giọng thơ nhẹ nhàng tha thiết
đã làm nổi bật vẻ đẹp của những người lính trong kháng chiến chống Pháp
*Trình bày LĐ :
1.LĐ 1 : Bài thơ được mở ra với cơ sở vững chắc bền chặt của tình đồng chí
-Hai câu thơ đầu với cấu trúc thơ song hành, thành ngữ dân gian “nước mặn đồng
chua” đưa người đọc về vùng đồng bằng ven biển nơi quanh năm ngập mặn, khó
-Cách nói sáng tạo “đất cày lên sỏi đá” gợi về vùng trung du đất sỏi cằn cõi làm ăn
nhọc nhằn chẳng kém từ đó làm nổi bật sự tương đồng về cảnh ngộ của những
người lính. Họ đều là những người ND từ vùng quê nghèo nghe theo tiếng gọi của
đất nước mà lên đường đi kháng chiến. Họ không hẹn mà gặp rồi quen nhau. Phải
chăng chính nguồn gốc xuất thân đã làm nên bệ phóng cho tình đồng chí gắn bó?
-Nhà thơ không dùng từ hai mà dùng từ “đôi người xa lạ”. Đôi là hai nhưng không
thể tách rời, luôn gắn kết bên nhau. Tôi với anh dù là hai người xa lạ nhưng đã
-Những người từ mọi phương trời tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội cách mạng
và chính nhờ cơ sở của đồng cảm giai cấp, cùng chung cảnh ngộ cho nên họ đã dễ
*Tình đồng chí của những người lính còn được bắt nguồn từ cơ sở chung
-Câu thơ được tạo nên từ những hình ảnh mang ý nghĩa sâu xa : “súng” tượng
trung cho nhiệm vụ chiến đấu. “Đầu” là lí tưởng sống, mục đích sống của những
người lính
-Điệp từ “súng”, ‘đầu” kết hợp với kết cấu đối xứng của câu thơ làm nổi bật sự gắn
bó, hòa hợp của những người lính cùng chung nhiệm vụ, chiến đấu vì một lí tưởng
*Tình đồng chí còn được XD trên cơ sở cùng chung hoàn cảnh sống chiến đấu
-Câu thơ SD bút pháp hiện thực diễn tả khó khăn, thiếu thốn giữa chiến trường.
Cùng chung nhiệm vụ chiến đấu nên những người chiến sĩ ấy sẵn sàng chia sẻ gian
khổ. ”Đêm rét chung chăn” chính là sự chia sẻ đó . Nhờ vậy họ càng hiểu nhau hơn
->Câu thơ vừa là sự phát triển trong quan hệ tình cảm của những người lính, vừa là
lời kết thúc để dẫn đến một kết luận tất yếu
“Đồng chí!
-Nhà phê bình văn học Chu Văn Sơn từng nói : “Câu thơ hay là câu thơ có
khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức con người’. Câu
thơ trên là một câu thơ như vậy. Câu thơ có hai tiếng độc lập là câu thơ đặc biệt lại
thành câu chốt của đoạn thơ thứ nhất vừa khép lại tình ý của sáu câu thơ đầu đồng
thời khẳng định một điều : Những người lính nông dân nghèo vốn xa lạ với nhau,
đã có chung mục đính, lí tưởng sống chiến đấu, cùng chia ngọt sẻ bùi thì họ đã trở
thành tri kỉ và đồng chí của nhau
-Hai tiếng ‘Đồng chí” là đi chiến đấu! Nó như nốt nhấn trên bản đàn, buộc người
đọc phải dừng lại suy nghĩ về ý nghĩa mà nó gợi ra. Đó là tiếng gọi thiêng liêng
của những người có chung chí hướng, lí tưởng vang lên từ sâu thẳm tâm hồn người
lính, là kết tinh của mọi tình cảm, là cội nguồn sức mạnh để người lính vượt qua
->Câu thơ như một bản lề khép lại ý của sáu câu thơ trên và mở ra ND của những
2.LĐ 2 : Bài thơ tiếp tục với những biểu hiện cao đẹp và sức mạnh của tình
đồng chí. Mà trước hết là sự cảm thông, chia sẻ tâm tư nỗi lòng của nhau
-Vẫn là những chi tiết, hình ảnh chân thực như những gì vốn có trong cuộc đời
người lính. Câu thơ diễn tả cụ thể, xúc động những tâm tư nỗi niềm thầm kín của
người lính. Rời làng đi kháng chiến, những người lính mang theo bao trăn trở, bao
nỗi lo toan vất vả trong cuộc sống gia đình. Họ đành nhờ vào người thân ở nhà
+”Mặc kệ” là cách nói dân dã diễn tả tinh thần gác lại việc nhà, dứt áo ra đi. Dù
vậy nhưng họ không hề vô tình với quê hương mà quê hương luôn là hành trang họ
mang theo trong suốt đường hành quân ra trận. Dứt khoát nhưng không vô tình,
trong lòng họ vẫn nặng tình với quê hương thân yêu. Họ gửi lại quê hương, ruộng
nương, gian nhà và cả tình cảm buồn vui của thời thơ ấu cho người thân yêu để lên
đường cầm súng đánh giặc cứu nước. Tinh thần hi sinh mạnh mẽ ấy đã được
nhà thơ Thanh Thảo bộc bạch bằng lời thơ của mình
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi tổ quốc”
+Câu thơ đã cho ta thấy được ý thức trách nhiệm công dân cao độ của người lính
đối với dân tộc khi Tổ quốc lâm nguy, thể hiện lòng yêu nước mạnh mẽ, sâu sắc
của họ. Hình ảnh hoán dụ “giếng nước gốc đa” diễn tả sâu sắc tình cảm nhớ
thương của người thân nơi quê nhà. Người lính hiểu rằng gia đình, quê hương luôn
->Tất cả những nỗi niềm thầm kín ấy người lính đều chia sẻ cùng nhau trong sự
cảm thông, thấu hiểu. Đó chính là một trong những biểu hiện sâu sắc của tình đồng
chí
*Không chỉ thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian
-Kể sao xiết những gian khổ mà người lính đã phải trải qua trong chiến đấu. Nói về
cái gian khổ của người lính trong kháng chiến chống Pháp, ta nhớ đến cái rét
xé thịt rách da trong bài “Lên Cẩm Sơn” của Thôi Hữu
-Nhớ đến cái ác nghiệt của bệnh sốt rét trong “Tây Tiến” của Quang Dũng
-Ta cũng có thể thấy cái buốt giá của núi rừng Việt Bắc, cái ớn lạnh toát mồ hôi của
bẹnh sốt rét trong những câu thơ của Chính Hữu. Nếu như Thôi Hữu viết về cái rét
xé da thịt để khắc họa những con người chấp nhận hi sinh, “đem thân xơ xác giữ
sơn hà”. Quang Dũng nói đến sốt rét để tô đậm vẻ đẹp bi tráng của những người
chiến sĩ thì Chính Hữu nói về cái rét, cái ác nghiệt của sốt rét là để nói về tình đồng
chí, đồng đội trong gian khổ, là sự thấu hiểu, cảm thông giữa những người lính.
-Trong bất cứ gian khổ nào ta đều thấy họ sát cánh bên nhau, san sẻ cho nhau. Cái
mỹ miều mòn phai của “áo hào hoa, hài vạn dặm” nhường chỗ cho hình ảnh
thực “áo rách vai, quần vá, chân không giày”. Cái óng chuốt nhường chỗ cho
cái thô ráp, hăng vị đời mà dư ba… Khi viết “Ngày về”, Chính Hữu là học
sinh thành phố cầm súng chiến đấu, những vần thơ cầu kì, lãng mạn, như
chính Chính Hữu chia sẻ thì: đây là lời 1 bài hát, Chính Hữu muốn có những
tiếng thật kêu, nên đã rơi vào cách nói đại ngôn đượm khí vị giang hồ –> đến
khi những con người ấy hòa nhập vào nhân dân, trong vẻ đẹp và sức mạnh
của tình đồng đội, trong cuộc chiến thực sự của cả dân tộc, thì “Đồng chí” mới
có thể ra đời.
*Tình đồng chí còn được thể hiện ở tình yêu thương gắn bó của những người
lính
-Có thể nói sức nặng của tư tưởng, cảm xúc dồn lại ở cả câu thơ này. Trong gian
khổ thiếu thốn tột cùng những người lính vẫn nắm lấy bàn tay. Đó là cái nắm tay
ấm áp tình đồng chí, đồng đội gắn bó yêu thương, gian khổ, sống chết có nhau. Cái
nắm tay như truyền cho nhau sức mạnh, niềm tin, cùng nhau vượt qua gian khổ
->Tình yêu thương sâu năng ấy là tình cảm sâu sắc nhất của tình đồng chí, nó như
khẳng định càng trong gian khổ, thiếu thốn càng gắn bó keo sơn
3.LĐ 3 : Bài thơ kép lại với biểu tượng cái đẹp của tình đồng chí
-Khổ thơ là sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn. Hai câu thơ đầu là
nhiệm vụ của những người lính. Họ phục kích chờ giặc trong “rừng hoang sương
muối” nhưng họ vẫn sát cánh bên nhau vững vàng tay súng. Chính tình đồng chí
gắn bó keo sơn đã sưởi ấm lòng họ, làm chỗ dựa vững chắc để họ vượt qua mọi
gian khổ khắc nghiệt của hoàn cảnh để họ chiến đấu, chiến thắng kẻ thù
-Tình cảm của những người lịnh càng cao đẹp hơn khi có sự xuất hiện của người
bạn mới ‘”vầng trăng”
+Nhà thơ Lưu Trọng Lư từng nói : “Một câu thơ hay là một câu thơ có sức
gợi”.’Đầu súng trăng treo’ là một câu như vậy. Hình ảnh thơ được tạo ra từ sự liên
tưởng lãng mạn, bay bổng mang ý nghĩa biểu tượng sâu xa. Súng và trăng là gần
và xa, là thực tại và mơ mộng, là chất chiến đấu và trữ tình, chất chiến sĩ và thi sĩ,
->Đó là những mặt bổ sung cho nhau, hài hòa với nhau trong cuộc sống người lính
CM. Xa hơn nữa, hình ảnh “đầu súng trăng treo” là hình ảnh cho thơ ca kháng
chiến, nền thơ ca kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn.
-Hai hình ảnh đều cảm động và chứa chan tình người lính, chứa chan chất thơ
C.KB
-Khái quát ND, NT : Với thể thơ tự do linh hoạt, các chi tiết, hình ảnh được SD
mang tính tiêu biểu, chân thực, ngôn ngữ cô đọng, giản dị và giàu sức biểu cảm.
Bải thơ đã làm nổi bật lên tình đồng đội gắn bó thắm thiết của những người lính
CM trong thời kì dầu kháng chiến chống thực dân Pháp gian khổ nhiều khó khăn
thiết thốn
-Mở rộng :
+Vẻ đẹp của những người lính trong bài thơ chính là vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt
Nam trong kháng chiến : dũng cảm, gạn dạ, đoàn kết, lạc quan, yêu thương gắn bó,
quyết tâm chiến đấu, chiến thắng kẻ thù, bảo vệ quê hương đất nước. Họ đã làm
sống dậy trong chúng ta một thời lịch sử gian khổ, hi sinh mà vô cùng oanh liệt,
hào hùng
+Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái
tim. Chính Hữu đã đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên nhưng
đồng thời cũng đặt vào bức tranh ấy một viên ngọc sáng thuần khiết nhất, đó là
tình đồng chí, đồng đội keo sơn thắm thiết. Để rồi khi thời gian trôi qua, tác phẩm