Professional Documents
Culture Documents
Đồng chí
❖ Mở bài 1:
- Tình cảm là một phần không thể thiếu trong tâm hồn của mỗi con người. Nó
tựa như dòng suối tinh thần ngọt mát gột rửa những bụi trần nhơ nhuốc và
tưới nước cho những điều tích cực trong ta nảy nở, sinh sôi. Thiếu đi cái ngọt
ngào của tình cảm, ta sẽ chỉ như một lõi cây khô cằn, thiếu sức sống.
- Và tình cảm đồng chí trong những năm tháng khói lửa mịt mù cũng thế. Thật
bình dị nhưng thiêng liêng vô ngần!
- Chính vì lẽ đấy mà nó đã đi vào trong thơ ca Việt Nam như những “người lính
lái xe” của Phạm Tiến Duật hay “cô nàng thanh niên xung phong” trong hồn
văn Lê Minh Khuê mà đặc biệt phải kể đến là vẻ đẹp của tình đồng đội keo
sơn trong thi phẩm “Đồng chí” của nhà thơ Hữu Thỉnh.
- Dường như ấn tượng nhất với những người thưởng văn là….
❖ Mở bài 2:
- Bên cạnh hình ảnh người lính và chiến tranh, tình đồng đội cao đẹp , thiêng
liêng đã đi vào thơ ca cách mạng.
- Đã có nhiều nhà thơ cự phách, tài hoa viết về đề tài này như Phạm Tiến Duật,
Nguyễn Minh Châu, Lê Minh Khuê,..và không thể không nhắc đến thi sĩ
Chính Hữu với bài thơ “Đồng chí”
- Tác phẩm đã ngợi ca tình đồng đội, đồng chí keo sơn, gắn bó trong những năm
trường kỳ kháng chiến chống Pháp gian khổ. Tình cảm, cảm xúc ấy đã kết tinh
lại thành máu thịt trong tâm hồn, thành cảm xúc thi ca dạt dào mà cũng thật
lắng sâu.
- Dường như ấn tượng nhất với những người thưởng văn là….
❖ Thân bài:
1. Tổng:
- Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào năm 1948 trong thời của “khói chiến
tranh bay trắng cả trời xanh”.
- Cả bài thơ viết theo thể tự do với hình ảnh thơ giản dị, cảm xúc dồn nén, mang
đậm chất phong cách thơ Chính Hữu.
- Qua đó, độc giả cảm nhận được vẻ đẹp mộc mạc, đơn sơ mà cao cả, hào hùng
vô cùng của những người chiến sĩ Cách mạng thời cứu quốc.
2. LĐ1: Tình đồng chí của những anh bộ đội chính là cội nguồn sức mạnh giúp
các anh vượt qua mọi chông gai, hiểm nguy, nghịch cảnh, giúp các anh chiến
đấu và chiến thắng. Ngay từ những dòng thơ đầu, nhà thơ đã tinh tế ký giải
cơ sở để hình thành nên tình đồng chí, đồng đội ấy trên từng con chữ.
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo cày lên sỏi đá.”
- Những câu thơ trên có giọng điệu tâm tình, lời thơ như lời thủ thỉ, tâm sự của
các anh bộ đội cụ Hồ. Người lính đang kể cho nhau nghe về quê hương của
mình. “Quê hương anh nước mặn, đồng chua.” Thi sĩ đã khéo léo, tinh tế sử
dụng hai thành ngữ, tục ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu
của những người chiến sĩ. Điều ấy đã làm cho lời thơ mang đậm chất chân quê,
dân dã đúng như con người vậy
+ Người thì đến từ vùng “nước mặn đồng chua”, vùng đất ven biển ngập mặn
quanh năm, lắm những lam lũ, khó khăn.
+ Còn “làng tôi” cũng chẳng hơn gì. Xuất thân từ một vùng “đất cày lên sỏi đá”.
Đó là nơi trung du, đất đai bạc màu, cằn cỗi, xác xơ, thiếu vắng sự sống, cuộc
sống đã cực khổ nay còn cơ cực hơn.
-> Từ đó, ta thấy được trước khi trở thành người lính mang trọng trách to lớn
bảo vệ tổ quốc, họ đều là những người nông dân áo nâu chân lấm tay bùn ra đi
từ miền quê lam lũ, khó khăn vô ngần.
=> Như vậy sự tương đồng về cảnh ngộ và nguồn gốc xuất thân là cơ sở, là cái
gốc hình thành nên tình đồng chí.
“ Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,”
- Những ngày đầu mới đến nơi chiến trường tàn khốc, các anh đều có cảm giác
ban đầu như “người xa lạ”. Cảm giác này cũng rất đỗi thường tình bởi lẽ các
anh không hề quen biết nhau. Nhưng vì nghe theo tiếng gọi từ Tổ quốc, người
lính “tự phương trời”, từ mọi miền của đất nước cùng về đây tập hợp lại thành
đội quân Cách mạng.
- Dẫu vậy, ở đây, nhà thơ đã sử dụng từ “đôi” rất đắc. Nó cho thấy trong cái xa
lạ đã có sự gắn bó chặt chẽ, keo sơn, thắm thiết nghĩa tình giữa hai con người.
=> Phải chăng cũng chính nhờ sự tương đồng về cảnh ngộ, giai cấp ấy đã giúp
hok dễ dàng hiểu, đồng cảm và chia sẻ lẫn nhau. Để rồi dù là những người vốn
rất “xa lạ”, gặp gỡ giữa chiến trường lại dễ dàng “quen nhau”, gần gũi và gắn
bó lẫn nhau.
● C/ý: Thế nhưng, tình đồng chí gắn bó không chỉ bắt nguồn từ sự tương
đồng về cảnh ngộ mà còn bắt nguồn từ những điều sâu xa hơn thế. Những
người lính cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, chung lý tưởng, chung chiến
hào quyết tử vì độc lập tự do của Tổ quốc.
“ Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đông tri kỉ
Đồng chí!”
- Nếu những câu thơ trước, hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc bao nhiêu thì đến
những câu thơ này lại mang ý nghĩa tượng trương bấy nhiêu cùng với hình ảnh
ẩn dụng đặc sắc: “Súng bên súng đầu sát bên đầu.”
+ “ Súng bên súng” là cách nói hàm súc, giàu hình tượng. Đó những người lính
cầm chắc tay súng, cùng chung nhiệm vụ là bảo vệ đất nước, bảo vệ sự bình
yên của những người dân đất Việt chấc phác, hiền lành với phương châm sống
cao đẹp “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.”
+ Còn hình ảnh “đầu sát bên đầu” là diễn tả sự đồng ý, đồng tâm, đồng lòng của
hai con người đó. Họ chung một lý tưởng sống cao đẹp, một nhận thức đúng
đắn - chiến đấu vì sự sống còn của dân tộc. Thật là những con người đẹp, đẹp
vì tâm hồn chân thành của họ!
+ Cùng với phép đối và điệp ngữ cũng phần nào tạo nên âm điệu khỏe khoắn ,
chắc, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ.
- Vì điều đó mà từ khắp mọi nẻo đường quê hương, mọi miền đất nước, những
người lính về bên nhau, hội tụ giữa chiến trường ác liệt.
“Đêm rét chung chăn thành đông tri kỉ
Đồng chí!”
- Hình ảnh thơ thật bình dị, gần gũi, gợi cảm, đậm chất hiện thực, mang hơi thở
của cuộc sống nơi chiến trận. Những ngày đầu, đứng dưới lá quân kì, những
chàng trai ấy còn là “đôi người xa lạ”, mỗi người một phương trời “chẳng hẹn
quen nhau”. Nhưng rồi cùng với thời gian kháng chiến, đôi bạn ấy gắn bó với
nhau bằng biết bao kỉ niệm.
- “Đêm rét chung chăn thành đông tri kỉ” gợi lên cả một không gian đầy ắp hoài
niệm về một thời gian khổ, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi “Bát cơm sẻ nửa/ Chăn
sui đắp cùng.” (Việt Bắc -Tố Hữu) Nơi núi rừng Tây Bắc ấy, ban đêm bóng tối
mịt mù, cái giá lạnh tê tái đến run người, ấy thế mà, người lính cùng “chung
chăn” mỏng, hẹp.
- Hình ảnh “đêm rét chung chăn” là một chi tiết rất xúc động, gợi cho người đọc
những bồi hồi, xót xa khi mường tượng tới sự san sẻ, đồng cam cộng khổ, chia
ngọt sẻ bùi giữa những người lính Cách mạng. Và chính trong những đêm
chung những tấm chăn sùi ấy, các anh nhỏ to tâm sự, kể chuyện đời mình, sẻ
chia những vui buồn, khát khao mơ ước,..Từ đấy mà thấu hiểu nhau, người này
biết người kia như chính mình, trở thành “tri kỉ” - tình bạn gắn bó sâu sắc để
rồi đọng kết lại thành “đồng chí”.
“Đồng chí!”
- Câu thơ rất đặc biệt. “Đồng chí” là một cụm từ được tách thành câu riêng, câu
cảm thán, câu đặc biệt làm cho lời thơ cảm xúc dồn nén. Hai tiếng “đồng chí”
ấy mới thiêng liêng làm sao! Nó diễn tả niềm hãnh diện, xúc động cứ ngân
vang lên mãi. Xúc động bởi nó là biểu hiện cao đẹp nhất của một tình bạn
thắm thiết. Còn hãnh diện bởi đó là tình cảm thiêng liêng được kết tinh từ
những con người cùng chung chí hướng, cùng một ý nguyện, cùng một lí
tưởng, ước mơ. Sống và chiến đấu hết mình vì Đất nước vì nhân dân.
3. LĐ2: Nếu như ở bảy câu thơ đầu nghệ sĩ Chính Hữu đã tập trung lý giải cơ
sở của tình đồng chí thì mười câu tiếp theo ông đã dồn nén những thương
cảm, xót xa của mình đằng sau những con chữ về những biểu hiện cao đẹp
của tình đồng đội ấy.
a) Trước hết đó là sự thông cảm, thấu hiểu nhau sâu sắc và cả lòng ái quốc nồng
nàn.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
- Những hình ảnh sóng đôi vô cùng gần gũi, giống với mô típ ca dao đồng thời
cũng là những hình ảnh liệt kê “ruộng nương”, “gian nhà” đã cho thấy sự hi
sinh quyền lợi cá nhân vì Tổ quốc của những người chiến sĩ. Đây vốn là tài sản
quý giá của những người lính. Vì mới ngày hôm qua, họ còn là những chàng
trai dân cày, chân đất, áo nâu để có mảnh ruộng màu mỡ, căn nhà ngói đỏ be
bé mà cả đời họ phải lao động khổ say, chắt chiu, chi chút mới tạo dựng được
hay cũng có khi đó là di vật của cha ông, tổ tiên để lại.
- Thế nhưng chỉ cần hay tin Tổ quốc đang lâm nguy, quân giặc đang cận kề nơi
bờ cõi thì người nông dân mặc áo lính sẵn sàng gác mọi công việc,” gửi bạn
thân cày” để lên đường chinh chiến, bảo vệ đất nước. Các anh sẵn sàng hy sinh
quyền lợi, hạnh phúc của riêng bản thân mình để dứt bước ra đi.
-> Đó là biểu hiện rõ nét nhất chứng tỏ tấm lòng son sắt, giàu đẹp của những
con người một đời dám xông pha nơi trận mạc vì hai chữ thiêng liêng khôn
cùng “Đất nước”.
- Tư thế của người ra đi được miêu tả qua từ “mặc kệ” thật xúc động, thật ấn
tượng, thể hiện thái độ hiên ngang, kiên quyết, lí tưởng rõ ràng. Đó là vì các
anh thấu hiểu hơn ai khác: nước mất thì nhà tan, ra đi, dâng hiến cả tuổi xuân
cho đất nước cũng chính là bảo vệ ngôi nhà của chính mình.
-> Như vậy, họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ đến với chân trời của
tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương
của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau lưng tất cả những bóng hình của quê hương
vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Dầu rằng mặc kệ nhưng
trong lòng họ vị trí của quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ
niệm. Đọc những vần thơ này, ta chợt nhớ đến câu thơ của Nguyễn Đình Thi:
“ Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.”
=> Tư thế của người cầm súng ra đi dù “mặc kệ” hay “đầu không ngoảnh lại”
nhưng họ vẫn luôn nặng lòng với quê hương, đất nước.
“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
- Câu thơ sử dụng hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng kết hợp với phép hoán dụ
cùng lối nhân hóa đã diễn tả sâu sắc tình yêu quê hương của các anh.
- “Giếng nước gốc đa” kia là đại diện cho quê hương, xứ sở, nơi chôn rau cắt
rốn, nơi gắn liền với bao kỉ niệm ngọt ngào hay những giây phút lắng sâu, ý
nghĩa…
- Giữa chiến trường gian khổ, khốc liệt, lúc nào các anh cũng đau đáu nỗi nhớ
về quê hương. Các anh hình dung ra cảnh quê hương, người thân luôn mong
nhớ mình, chờ đợi mình chiến thắng trở về, mẹ đối với con, những người vợ
đối với chồng và những đôi trai gái yêu nhau….
-> Từ đó, câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà thực chất là người lính
nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều ngày càng da diết. => Vậy là những anh vệ quốc
dân đã chia sẻ với nhau mọi tâm tư, nỗi niềm, chia sẻ cả những chuyện thầm
kín, riêng tư nhất. Họ cùng sống với nhau trong kỷ niệm, trong nỗi nhớ và
vượt lên trên nỗi nhớ.
=> Câu thơ là dòng tâm sự quyện chặt tình yêu quê hương tình yêu nhà
=> Phải chăng đó là biểu tượng đẹp của mối tình đồng chí đồng đội.
b) Người lính từ giã quê hương xứ sở, “khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”,
sẵn sàng hành quân lên biên ải xa xôi, đầy mưa bom bão đạn. Trong thời kì
đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, các anh phải đối mặt với cuộc sống đầy
thiếu thốn, khó khăn, gian khổ, cả về vật chất lẫn tinh thần.
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”
- Nhà thơ đã liệt kê hàng loạt những hình ảnh rất chân thực, để từ đó khắc họa
nổi bật những gian khổ chồng chất của người lính năm xưa. Vừa đói, vừa rét,
lại sống giữa đại ngàn hoang sơ Việt Bắc- nơi rừng thiêng, nước độc,..những
người lính hầu như không ai thoát khỏi căn bệnh sốt rét rừng dội đến “run
người”, “trán ướt mồ hôi.” Đau đớn vô cùng về thể xác. Và không ít người
lính đã mãi mãi nằm xuống nơi chiến trường khốc liệt vì căn bệnh quái ác ấy.
- Không chỉ thế họ còn phải đối mặt với những thiếu thốn về trang thiết bị, vật
chất, “áo rách vai, quần vá, chân không giày.” Những ngày đầu kháng chiến,
chưa có đủ quân phục phát cho bộ đội. Người lính phải mang theo áo quần ở
nhà đi chiến đấu, khi rách thì vá víu, có người còn không có kim chỉ để vá, lấy
dây mà buộc túm chỗ rách lại, người ta còn đùa trêu nhau là “Vệ túm”.
- Bằng vài hình ảnh đối xứng, cô đọng, hàm súc, thực sự có sức gợi, thi sĩ đã
khái quát được một cách đầy đủ nhất cuộc đời tràn ngập gian khổ của người
lính trong những năm đầu chống Pháp, đồng thời còn làm ngời sáng lên một
dân tộc nhỏ bé, vất vả trong chín năm trường kì đánh quân Pháp ngông cuồng.
- Khốn khó, đớn đau là thế, vậy mà thật kì lạ, trên môi mỗi người lính vẫn tỏa
sáng một nụ cười rạng rỡ. “Miệng cười buốt giá”. Bất chấp hoàn cảnh khắc
nghiệt, bất chấp cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, trên môi các anh vẫn tươi
cười một nụ cười ngạo nghễ, sáng đẹp đến kì lạ.
- Trong sương muối, gió rét, tình đồng chí, tình thương yêu vô bờ họ dành cho
nhau còn qua hơi ấm đôi bàn tay. Trong gian khổ thiếu thốn, người lính chỉ
biết bộc lộ tình yêu thương bằng cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay”. Cái nắm tay
thân mật chan hòa ấy là sự cảm thông chia sẻ, là lời động viên, là tất cả tình
đồng chí lớn lao và thấm thía. Chính tình cảm ấy đã tạo nên sức mạnh sưởi
ấm, nâng đỡ những người lính vượt qua thử thách khốc liệt của cuộc chiến.
Phải chăng cái nắm tay nhau ấy còn là lời hứa hẹn lập công? Dẫu mang ý
nghĩa gì chăng nữa thì qua cái nắm tay vấy ta cũng đủ cảm nhận cái tình cảm
mộc mạc, không ồn ào nhưng thấm thía , sâu sắc của những người chiến sĩ
luôn giành cho nhau.
4. LĐ3: Khép lại bài thơ, một lần nữa tác giả phác họa nên bức tranh chân
dung người chiến sĩ mộc mạc, đơn sơ mà khỏe khoắn, hào hùng trong khi
các anh làm nhiệm vụ.
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
-Mở đầu đoạn thơ, bằng hình ảnh đậm chất đời sống, mang hơi thở của thời đại
Cách mạng, tác giả đã dựng lên một khung cảnh khi người lính đi phục kích
giặt trong đêm tối.
- Khung cảnh núi rừng Việt Bắc mênh mông, bát ngát lúc ấy trong thật tối tăm,
hoang vu và trầm lặng đến ngạt thở, lại thêm cái tiết trời lạnh đến tái tới, rét
run cả người, những đợt gió bấc thổi đến, “sương muối” bao phủ cả cánh rừng.
“Sương muối” là loại sương giá đọng thành những hạt nhỏ trắng xóa như muối
trên cây cỏ hay mặt đất, trời rất rét đến cắt da, cắt thịt. Hoàn cảnh người lính
khi làm nhiệm vụ đầy khó khăn, gian khổ. Có thể chỉ chốc lát nữa thôi, quân
thù sẽ xuất hiện, súng sẽ nổi và có những thế hệ anh hùng đã làm nên lịch sử
sẽ ngã xuống nền đất trắng nhuốm màu đỏ của máu.
-> Chỉ một câu thơ ngắn nhưng đủ bao hàm hết sự gian khổ, nghiệt ngã mà
chiến tranh phi nghĩa đem lại.
=> Qua đó cho thấy được ngòi bút sáng tạo của ông đã thành công đến nhường
nào trong việc miêu tả không gian trong đêm.
- Nổi lên trên cánh rừng đêm lặng lẽ, hoang vắng là hình ảnh người lính cụ Hồ
“đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Trong không khí “chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh” ấy, các anh vẫn vững lòng, tin tưởng mà vai kề vai cùng nhau đi
trên con đường núi hiểm hốc, quanh co. Tư thế thì hiên ngang, chủ động, sẵn
sàng “chờ giặc” của những con người là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng
Cách mạng. Đến đây, ta hình dung được các anh không chỉ sẻ chia những nỗi
đau về thể xác hay sự thiếu thốn, vật chất mà lúc này đây còn chia lửa với
nhau. Các anh cùng sát cánh đi làm nhiệm vụ, cùng đối mặt với quân thù, từ
bỏ cái “tôi” vì một thứ tình cảm còn thiêng liêng hơn cả - lòng yêu nước vô bờ
bến, sắc son vì “dải đất hình chữ S này”.
- Trong đêm khuya tĩnh lặng, các anh bỗng ngước nhìn lên bầu trời đen thăm
thẳm, cảm nhận một hình ảnh thật đẹp. “Đầu súng trăng treo.”Trong giây phút
đối mặt với hiểm nguy, sự sống và cái chết chỉ cách nhau một cái chớp mặt mà
thôi, các anh vẫn vô tư lự mà hướng mặt lên phía bầu trời đêm khuya mà nhận
ra vẻ đẹp mềm mại, thơ mộng của mảnh trăng như đang treo mình giữa mũi
súng. Hình ảnh thơ đẹp, giàu ý nghĩa, độc đáo, là điểm sáng của toàn bài thơ.
+ Bởi “súng” tượng trưng cho sự cứng cỏi, mất mát, chiến tranh.
+ Còn “trăng” là biểu trưng cho hình ảnh xa, vẻ đẹp trong trẻo, thuần khiết của
hoà bình.
=> Hai hình ảnh đó trong thực tế vốn xa nhau vời vợi nay lại gắn kết bên nhau
trong cảm nhận của người chiến sĩ: trăng treo trên đầu súng. “Súng” và “trăng”
là gần và xa, thực tại với mơ mộng, chất chiến đấu cùng chất trữ tình như
quyện vào nhau. Dường như, qua đó, thi nhân Chính Hữu còn muốn gửi gắm ý
nghĩa cao cả của cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp tàn bạo. Đó là chiến đấu
vì độc lập, tự do cho đất nước. Và phải chăng cũng chính lẽ đó, Chính Hữu đã
lấy hình ảnh này làm nhan đề cho cả tập thơ của mình – tập “Đầu súng trăng
treo” – như một bông hoa đầu mùa trong vườn thơ cách mạng.
❖ Đánh giá chung:
a) Nghệ thuật:
- Với ngôn ngữ bình dị, đượm chất dân gian.
- Bút pháp tả thực kết hợp hài hòa với lãng mạn tạo nên những hình ảnh thơ đẹp,
có ý nghĩa biểu tượng.
b) Nội dung:
- Tác giả đã khéo léo bộc lộ sự trân trọng đối với tình đồng chí thiêng liêng của
những người “khi Tổ quốc cần họ biết chia xa”.
- (Đề)
c) Mở rộng:
- Nguyễn Minh Châu: “Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm hạt ngọc ẩn
giấu bên trong bề sâu tâm hồn con người.”
- Hans C.Andersen: “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do
chính cuộc sống viết ra.”
- Thanh Thảo: “Thơ là kinh thánh của tâm hồn.”
❖ Kết bài:
- Bằng hình ảnh chân thật, đẹp, lãng mạn, thi nhân đã khắc họa thành công hình
ảnh người lính trong những năm tháng gian lao, xương máu chống thực dân
Pháp.
- Họ kề vai sát cánh, chủ động chiến đấu cùng nhau. Tâm hồn thì phơi phới lạc
quan, yêu thiên nhiên, đất nước. Chính tình cảm to lớn ấy là nguồn sức mạnh
khổng lồ để họ vượt qua bao gian lao của cuộc chiến, khắc nghiệt của thời tiết
để rồi tạo nên chiến thắng lừng lẫy như ngày hôm nay.
- Nhưng thắng lợi vẻ vang ấy được tạo ra không những từ sự hy sinh của các
anh bộ đội cụ Hồ mà còn nhờ công sức, sự đoàn kết toàn dân. Do vậy, tác giả
đã kín đáo trao gửi hình ảnh nhân dân qua hình mẫu người lính
=> Vì thế mà bài thơ “Đồng chí” quả là một tuyệt tác thơ ca, đem đến cho
những người thưởng thức những cái nhìn cụ thể nhất vào thời bom rơi,
lạc đạn.