You are on page 1of 13

B.

Đồng chí
❖ Mở bài 1:
- Tình cảm là một phần không thể thiếu trong tâm hồn của mỗi con người. Nó
tựa như dòng suối tinh thần ngọt mát gột rửa những bụi trần nhơ nhuốc và
tưới nước cho những điều tích cực trong ta nảy nở, sinh sôi. Thiếu đi cái ngọt
ngào của tình cảm, ta sẽ chỉ như một lõi cây khô cằn, thiếu sức sống.
- Và tình cảm đồng chí trong những năm tháng khói lửa mịt mù cũng thế. Thật
bình dị nhưng thiêng liêng vô ngần!
- Chính vì lẽ đấy mà nó đã đi vào trong thơ ca Việt Nam như những “người lính
lái xe” của Phạm Tiến Duật hay “cô nàng thanh niên xung phong” trong hồn
văn Lê Minh Khuê mà đặc biệt phải kể đến là vẻ đẹp của tình đồng đội keo
sơn trong thi phẩm “Đồng chí” của nhà thơ Hữu Thỉnh.
- Dường như ấn tượng nhất với những người thưởng văn là….
❖ Mở bài 2:
- Bên cạnh hình ảnh người lính và chiến tranh, tình đồng đội cao đẹp , thiêng
liêng đã đi vào thơ ca cách mạng.
- Đã có nhiều nhà thơ cự phách, tài hoa viết về đề tài này như Phạm Tiến Duật,
Nguyễn Minh Châu, Lê Minh Khuê,..và không thể không nhắc đến thi sĩ
Chính Hữu với bài thơ “Đồng chí”
- Tác phẩm đã ngợi ca tình đồng đội, đồng chí keo sơn, gắn bó trong những năm
trường kỳ kháng chiến chống Pháp gian khổ. Tình cảm, cảm xúc ấy đã kết tinh
lại thành máu thịt trong tâm hồn, thành cảm xúc thi ca dạt dào mà cũng thật
lắng sâu.
- Dường như ấn tượng nhất với những người thưởng văn là….
❖ Thân bài:
1. Tổng:
- Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào năm 1948 trong thời của “khói chiến
tranh bay trắng cả trời xanh”.
- Cả bài thơ viết theo thể tự do với hình ảnh thơ giản dị, cảm xúc dồn nén, mang
đậm chất phong cách thơ Chính Hữu.
- Qua đó, độc giả cảm nhận được vẻ đẹp mộc mạc, đơn sơ mà cao cả, hào hùng
vô cùng của những người chiến sĩ Cách mạng thời cứu quốc.
2. LĐ1: Tình đồng chí của những anh bộ đội chính là cội nguồn sức mạnh giúp
các anh vượt qua mọi chông gai, hiểm nguy, nghịch cảnh, giúp các anh chiến
đấu và chiến thắng. Ngay từ những dòng thơ đầu, nhà thơ đã tinh tế ký giải
cơ sở để hình thành nên tình đồng chí, đồng đội ấy trên từng con chữ.
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo cày lên sỏi đá.”
- Những câu thơ trên có giọng điệu tâm tình, lời thơ như lời thủ thỉ, tâm sự của
các anh bộ đội cụ Hồ. Người lính đang kể cho nhau nghe về quê hương của
mình. “Quê hương anh nước mặn, đồng chua.” Thi sĩ đã khéo léo, tinh tế sử
dụng hai thành ngữ, tục ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu
của những người chiến sĩ. Điều ấy đã làm cho lời thơ mang đậm chất chân quê,
dân dã đúng như con người vậy
+ Người thì đến từ vùng “nước mặn đồng chua”, vùng đất ven biển ngập mặn
quanh năm, lắm những lam lũ, khó khăn.
+ Còn “làng tôi” cũng chẳng hơn gì. Xuất thân từ một vùng “đất cày lên sỏi đá”.
Đó là nơi trung du, đất đai bạc màu, cằn cỗi, xác xơ, thiếu vắng sự sống, cuộc
sống đã cực khổ nay còn cơ cực hơn.
-> Từ đó, ta thấy được trước khi trở thành người lính mang trọng trách to lớn
bảo vệ tổ quốc, họ đều là những người nông dân áo nâu chân lấm tay bùn ra đi
từ miền quê lam lũ, khó khăn vô ngần.
=> Như vậy sự tương đồng về cảnh ngộ và nguồn gốc xuất thân là cơ sở, là cái
gốc hình thành nên tình đồng chí.
“ Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,”
- Những ngày đầu mới đến nơi chiến trường tàn khốc, các anh đều có cảm giác
ban đầu như “người xa lạ”. Cảm giác này cũng rất đỗi thường tình bởi lẽ các
anh không hề quen biết nhau. Nhưng vì nghe theo tiếng gọi từ Tổ quốc, người
lính “tự phương trời”, từ mọi miền của đất nước cùng về đây tập hợp lại thành
đội quân Cách mạng.
- Dẫu vậy, ở đây, nhà thơ đã sử dụng từ “đôi” rất đắc. Nó cho thấy trong cái xa
lạ đã có sự gắn bó chặt chẽ, keo sơn, thắm thiết nghĩa tình giữa hai con người.
=> Phải chăng cũng chính nhờ sự tương đồng về cảnh ngộ, giai cấp ấy đã giúp
hok dễ dàng hiểu, đồng cảm và chia sẻ lẫn nhau. Để rồi dù là những người vốn
rất “xa lạ”, gặp gỡ giữa chiến trường lại dễ dàng “quen nhau”, gần gũi và gắn
bó lẫn nhau.
● C/ý: Thế nhưng, tình đồng chí gắn bó không chỉ bắt nguồn từ sự tương
đồng về cảnh ngộ mà còn bắt nguồn từ những điều sâu xa hơn thế. Những
người lính cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, chung lý tưởng, chung chiến
hào quyết tử vì độc lập tự do của Tổ quốc.
“ Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đông tri kỉ
Đồng chí!”
- Nếu những câu thơ trước, hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc bao nhiêu thì đến
những câu thơ này lại mang ý nghĩa tượng trương bấy nhiêu cùng với hình ảnh
ẩn dụng đặc sắc: “Súng bên súng đầu sát bên đầu.”
+ “ Súng bên súng” là cách nói hàm súc, giàu hình tượng. Đó những người lính
cầm chắc tay súng, cùng chung nhiệm vụ là bảo vệ đất nước, bảo vệ sự bình
yên của những người dân đất Việt chấc phác, hiền lành với phương châm sống
cao đẹp “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.”
+ Còn hình ảnh “đầu sát bên đầu” là diễn tả sự đồng ý, đồng tâm, đồng lòng của
hai con người đó. Họ chung một lý tưởng sống cao đẹp, một nhận thức đúng
đắn - chiến đấu vì sự sống còn của dân tộc. Thật là những con người đẹp, đẹp
vì tâm hồn chân thành của họ!
+ Cùng với phép đối và điệp ngữ cũng phần nào tạo nên âm điệu khỏe khoắn ,
chắc, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ.
- Vì điều đó mà từ khắp mọi nẻo đường quê hương, mọi miền đất nước, những
người lính về bên nhau, hội tụ giữa chiến trường ác liệt.
“Đêm rét chung chăn thành đông tri kỉ
Đồng chí!”
- Hình ảnh thơ thật bình dị, gần gũi, gợi cảm, đậm chất hiện thực, mang hơi thở
của cuộc sống nơi chiến trận. Những ngày đầu, đứng dưới lá quân kì, những
chàng trai ấy còn là “đôi người xa lạ”, mỗi người một phương trời “chẳng hẹn
quen nhau”. Nhưng rồi cùng với thời gian kháng chiến, đôi bạn ấy gắn bó với
nhau bằng biết bao kỉ niệm.
- “Đêm rét chung chăn thành đông tri kỉ” gợi lên cả một không gian đầy ắp hoài
niệm về một thời gian khổ, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi “Bát cơm sẻ nửa/ Chăn
sui đắp cùng.” (Việt Bắc -Tố Hữu) Nơi núi rừng Tây Bắc ấy, ban đêm bóng tối
mịt mù, cái giá lạnh tê tái đến run người, ấy thế mà, người lính cùng “chung
chăn” mỏng, hẹp.
- Hình ảnh “đêm rét chung chăn” là một chi tiết rất xúc động, gợi cho người đọc
những bồi hồi, xót xa khi mường tượng tới sự san sẻ, đồng cam cộng khổ, chia
ngọt sẻ bùi giữa những người lính Cách mạng. Và chính trong những đêm
chung những tấm chăn sùi ấy, các anh nhỏ to tâm sự, kể chuyện đời mình, sẻ
chia những vui buồn, khát khao mơ ước,..Từ đấy mà thấu hiểu nhau, người này
biết người kia như chính mình, trở thành “tri kỉ” - tình bạn gắn bó sâu sắc để
rồi đọng kết lại thành “đồng chí”.
“Đồng chí!”
- Câu thơ rất đặc biệt. “Đồng chí” là một cụm từ được tách thành câu riêng, câu
cảm thán, câu đặc biệt làm cho lời thơ cảm xúc dồn nén. Hai tiếng “đồng chí”
ấy mới thiêng liêng làm sao! Nó diễn tả niềm hãnh diện, xúc động cứ ngân
vang lên mãi. Xúc động bởi nó là biểu hiện cao đẹp nhất của một tình bạn
thắm thiết. Còn hãnh diện bởi đó là tình cảm thiêng liêng được kết tinh từ
những con người cùng chung chí hướng, cùng một ý nguyện, cùng một lí
tưởng, ước mơ. Sống và chiến đấu hết mình vì Đất nước vì nhân dân.
3. LĐ2: Nếu như ở bảy câu thơ đầu nghệ sĩ Chính Hữu đã tập trung lý giải cơ
sở của tình đồng chí thì mười câu tiếp theo ông đã dồn nén những thương
cảm, xót xa của mình đằng sau những con chữ về những biểu hiện cao đẹp
của tình đồng đội ấy.
a) Trước hết đó là sự thông cảm, thấu hiểu nhau sâu sắc và cả lòng ái quốc nồng
nàn.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
- Những hình ảnh sóng đôi vô cùng gần gũi, giống với mô típ ca dao đồng thời
cũng là những hình ảnh liệt kê “ruộng nương”, “gian nhà” đã cho thấy sự hi
sinh quyền lợi cá nhân vì Tổ quốc của những người chiến sĩ. Đây vốn là tài sản
quý giá của những người lính. Vì mới ngày hôm qua, họ còn là những chàng
trai dân cày, chân đất, áo nâu để có mảnh ruộng màu mỡ, căn nhà ngói đỏ be
bé mà cả đời họ phải lao động khổ say, chắt chiu, chi chút mới tạo dựng được
hay cũng có khi đó là di vật của cha ông, tổ tiên để lại.
- Thế nhưng chỉ cần hay tin Tổ quốc đang lâm nguy, quân giặc đang cận kề nơi
bờ cõi thì người nông dân mặc áo lính sẵn sàng gác mọi công việc,” gửi bạn
thân cày” để lên đường chinh chiến, bảo vệ đất nước. Các anh sẵn sàng hy sinh
quyền lợi, hạnh phúc của riêng bản thân mình để dứt bước ra đi.
-> Đó là biểu hiện rõ nét nhất chứng tỏ tấm lòng son sắt, giàu đẹp của những
con người một đời dám xông pha nơi trận mạc vì hai chữ thiêng liêng khôn
cùng “Đất nước”.
- Tư thế của người ra đi được miêu tả qua từ “mặc kệ” thật xúc động, thật ấn
tượng, thể hiện thái độ hiên ngang, kiên quyết, lí tưởng rõ ràng. Đó là vì các
anh thấu hiểu hơn ai khác: nước mất thì nhà tan, ra đi, dâng hiến cả tuổi xuân
cho đất nước cũng chính là bảo vệ ngôi nhà của chính mình.
-> Như vậy, họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ đến với chân trời của
tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương
của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau lưng tất cả những bóng hình của quê hương
vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Dầu rằng mặc kệ nhưng
trong lòng họ vị trí của quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ
niệm. Đọc những vần thơ này, ta chợt nhớ đến câu thơ của Nguyễn Đình Thi:
“ Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.”
=> Tư thế của người cầm súng ra đi dù “mặc kệ” hay “đầu không ngoảnh lại”
nhưng họ vẫn luôn nặng lòng với quê hương, đất nước.
“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
- Câu thơ sử dụng hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng kết hợp với phép hoán dụ
cùng lối nhân hóa đã diễn tả sâu sắc tình yêu quê hương của các anh.
- “Giếng nước gốc đa” kia là đại diện cho quê hương, xứ sở, nơi chôn rau cắt
rốn, nơi gắn liền với bao kỉ niệm ngọt ngào hay những giây phút lắng sâu, ý
nghĩa…
- Giữa chiến trường gian khổ, khốc liệt, lúc nào các anh cũng đau đáu nỗi nhớ
về quê hương. Các anh hình dung ra cảnh quê hương, người thân luôn mong
nhớ mình, chờ đợi mình chiến thắng trở về, mẹ đối với con, những người vợ
đối với chồng và những đôi trai gái yêu nhau….
-> Từ đó, câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà thực chất là người lính
nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều ngày càng da diết. => Vậy là những anh vệ quốc
dân đã chia sẻ với nhau mọi tâm tư, nỗi niềm, chia sẻ cả những chuyện thầm
kín, riêng tư nhất. Họ cùng sống với nhau trong kỷ niệm, trong nỗi nhớ và
vượt lên trên nỗi nhớ.
=> Câu thơ là dòng tâm sự quyện chặt tình yêu quê hương tình yêu nhà
=> Phải chăng đó là biểu tượng đẹp của mối tình đồng chí đồng đội.
b) Người lính từ giã quê hương xứ sở, “khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”,
sẵn sàng hành quân lên biên ải xa xôi, đầy mưa bom bão đạn. Trong thời kì
đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, các anh phải đối mặt với cuộc sống đầy
thiếu thốn, khó khăn, gian khổ, cả về vật chất lẫn tinh thần.
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”
- Nhà thơ đã liệt kê hàng loạt những hình ảnh rất chân thực, để từ đó khắc họa
nổi bật những gian khổ chồng chất của người lính năm xưa. Vừa đói, vừa rét,
lại sống giữa đại ngàn hoang sơ Việt Bắc- nơi rừng thiêng, nước độc,..những
người lính hầu như không ai thoát khỏi căn bệnh sốt rét rừng dội đến “run
người”, “trán ướt mồ hôi.” Đau đớn vô cùng về thể xác. Và không ít người
lính đã mãi mãi nằm xuống nơi chiến trường khốc liệt vì căn bệnh quái ác ấy.
- Không chỉ thế họ còn phải đối mặt với những thiếu thốn về trang thiết bị, vật
chất, “áo rách vai, quần vá, chân không giày.” Những ngày đầu kháng chiến,
chưa có đủ quân phục phát cho bộ đội. Người lính phải mang theo áo quần ở
nhà đi chiến đấu, khi rách thì vá víu, có người còn không có kim chỉ để vá, lấy
dây mà buộc túm chỗ rách lại, người ta còn đùa trêu nhau là “Vệ túm”.
- Bằng vài hình ảnh đối xứng, cô đọng, hàm súc, thực sự có sức gợi, thi sĩ đã
khái quát được một cách đầy đủ nhất cuộc đời tràn ngập gian khổ của người
lính trong những năm đầu chống Pháp, đồng thời còn làm ngời sáng lên một
dân tộc nhỏ bé, vất vả trong chín năm trường kì đánh quân Pháp ngông cuồng.
- Khốn khó, đớn đau là thế, vậy mà thật kì lạ, trên môi mỗi người lính vẫn tỏa
sáng một nụ cười rạng rỡ. “Miệng cười buốt giá”. Bất chấp hoàn cảnh khắc
nghiệt, bất chấp cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, trên môi các anh vẫn tươi
cười một nụ cười ngạo nghễ, sáng đẹp đến kì lạ.
- Trong sương muối, gió rét, tình đồng chí, tình thương yêu vô bờ họ dành cho
nhau còn qua hơi ấm đôi bàn tay. Trong gian khổ thiếu thốn, người lính chỉ
biết bộc lộ tình yêu thương bằng cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay”. Cái nắm tay
thân mật chan hòa ấy là sự cảm thông chia sẻ, là lời động viên, là tất cả tình
đồng chí lớn lao và thấm thía. Chính tình cảm ấy đã tạo nên sức mạnh sưởi
ấm, nâng đỡ những người lính vượt qua thử thách khốc liệt của cuộc chiến.
Phải chăng cái nắm tay nhau ấy còn là lời hứa hẹn lập công? Dẫu mang ý
nghĩa gì chăng nữa thì qua cái nắm tay vấy ta cũng đủ cảm nhận cái tình cảm
mộc mạc, không ồn ào nhưng thấm thía , sâu sắc của những người chiến sĩ
luôn giành cho nhau.
4. LĐ3: Khép lại bài thơ, một lần nữa tác giả phác họa nên bức tranh chân
dung người chiến sĩ mộc mạc, đơn sơ mà khỏe khoắn, hào hùng trong khi
các anh làm nhiệm vụ.
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
-Mở đầu đoạn thơ, bằng hình ảnh đậm chất đời sống, mang hơi thở của thời đại
Cách mạng, tác giả đã dựng lên một khung cảnh khi người lính đi phục kích
giặt trong đêm tối.
- Khung cảnh núi rừng Việt Bắc mênh mông, bát ngát lúc ấy trong thật tối tăm,
hoang vu và trầm lặng đến ngạt thở, lại thêm cái tiết trời lạnh đến tái tới, rét
run cả người, những đợt gió bấc thổi đến, “sương muối” bao phủ cả cánh rừng.
“Sương muối” là loại sương giá đọng thành những hạt nhỏ trắng xóa như muối
trên cây cỏ hay mặt đất, trời rất rét đến cắt da, cắt thịt. Hoàn cảnh người lính
khi làm nhiệm vụ đầy khó khăn, gian khổ. Có thể chỉ chốc lát nữa thôi, quân
thù sẽ xuất hiện, súng sẽ nổi và có những thế hệ anh hùng đã làm nên lịch sử
sẽ ngã xuống nền đất trắng nhuốm màu đỏ của máu.
-> Chỉ một câu thơ ngắn nhưng đủ bao hàm hết sự gian khổ, nghiệt ngã mà
chiến tranh phi nghĩa đem lại.
=> Qua đó cho thấy được ngòi bút sáng tạo của ông đã thành công đến nhường
nào trong việc miêu tả không gian trong đêm.
- Nổi lên trên cánh rừng đêm lặng lẽ, hoang vắng là hình ảnh người lính cụ Hồ
“đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Trong không khí “chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh” ấy, các anh vẫn vững lòng, tin tưởng mà vai kề vai cùng nhau đi
trên con đường núi hiểm hốc, quanh co. Tư thế thì hiên ngang, chủ động, sẵn
sàng “chờ giặc” của những con người là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng
Cách mạng. Đến đây, ta hình dung được các anh không chỉ sẻ chia những nỗi
đau về thể xác hay sự thiếu thốn, vật chất mà lúc này đây còn chia lửa với
nhau. Các anh cùng sát cánh đi làm nhiệm vụ, cùng đối mặt với quân thù, từ
bỏ cái “tôi” vì một thứ tình cảm còn thiêng liêng hơn cả - lòng yêu nước vô bờ
bến, sắc son vì “dải đất hình chữ S này”.
- Trong đêm khuya tĩnh lặng, các anh bỗng ngước nhìn lên bầu trời đen thăm
thẳm, cảm nhận một hình ảnh thật đẹp. “Đầu súng trăng treo.”Trong giây phút
đối mặt với hiểm nguy, sự sống và cái chết chỉ cách nhau một cái chớp mặt mà
thôi, các anh vẫn vô tư lự mà hướng mặt lên phía bầu trời đêm khuya mà nhận
ra vẻ đẹp mềm mại, thơ mộng của mảnh trăng như đang treo mình giữa mũi
súng. Hình ảnh thơ đẹp, giàu ý nghĩa, độc đáo, là điểm sáng của toàn bài thơ.
+ Bởi “súng” tượng trưng cho sự cứng cỏi, mất mát, chiến tranh.
+ Còn “trăng” là biểu trưng cho hình ảnh xa, vẻ đẹp trong trẻo, thuần khiết của
hoà bình.
=> Hai hình ảnh đó trong thực tế vốn xa nhau vời vợi nay lại gắn kết bên nhau
trong cảm nhận của người chiến sĩ: trăng treo trên đầu súng. “Súng” và “trăng”
là gần và xa, thực tại với mơ mộng, chất chiến đấu cùng chất trữ tình như
quyện vào nhau. Dường như, qua đó, thi nhân Chính Hữu còn muốn gửi gắm ý
nghĩa cao cả của cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp tàn bạo. Đó là chiến đấu
vì độc lập, tự do cho đất nước. Và phải chăng cũng chính lẽ đó, Chính Hữu đã
lấy hình ảnh này làm nhan đề cho cả tập thơ của mình – tập “Đầu súng trăng
treo” – như một bông hoa đầu mùa trong vườn thơ cách mạng.
❖ Đánh giá chung:
a) Nghệ thuật:
- Với ngôn ngữ bình dị, đượm chất dân gian.
- Bút pháp tả thực kết hợp hài hòa với lãng mạn tạo nên những hình ảnh thơ đẹp,
có ý nghĩa biểu tượng.
b) Nội dung:
- Tác giả đã khéo léo bộc lộ sự trân trọng đối với tình đồng chí thiêng liêng của
những người “khi Tổ quốc cần họ biết chia xa”.
- (Đề)
c) Mở rộng:
- Nguyễn Minh Châu: “Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm hạt ngọc ẩn
giấu bên trong bề sâu tâm hồn con người.”
- Hans C.Andersen: “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do
chính cuộc sống viết ra.”
- Thanh Thảo: “Thơ là kinh thánh của tâm hồn.”
❖ Kết bài:
- Bằng hình ảnh chân thật, đẹp, lãng mạn, thi nhân đã khắc họa thành công hình
ảnh người lính trong những năm tháng gian lao, xương máu chống thực dân
Pháp.
- Họ kề vai sát cánh, chủ động chiến đấu cùng nhau. Tâm hồn thì phơi phới lạc
quan, yêu thiên nhiên, đất nước. Chính tình cảm to lớn ấy là nguồn sức mạnh
khổng lồ để họ vượt qua bao gian lao của cuộc chiến, khắc nghiệt của thời tiết
để rồi tạo nên chiến thắng lừng lẫy như ngày hôm nay.
- Nhưng thắng lợi vẻ vang ấy được tạo ra không những từ sự hy sinh của các
anh bộ đội cụ Hồ mà còn nhờ công sức, sự đoàn kết toàn dân. Do vậy, tác giả
đã kín đáo trao gửi hình ảnh nhân dân qua hình mẫu người lính
=> Vì thế mà bài thơ “Đồng chí” quả là một tuyệt tác thơ ca, đem đến cho
những người thưởng thức những cái nhìn cụ thể nhất vào thời bom rơi,
lạc đạn.

C. Đoàn thuyền đánh cá


❖ Mở bài:
- Huy Cận là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX.
- Trước Cách mạng tháng tám, ông thường viết về nỗi buồn, nỗi cô đơn rợn
ngợp của con người khi nhận ra sự nhỏ bé của mình trước vũ trụ bao la rộng
lớn. Nhưng kể từ sau cách mạng tháng Tám, hòa cùng không khí đại hội dân
tộc, lời thơ ông như có sự chuyển biến rõ ràng - biến chuyển thành khúc ca dạt
dào niềm vui về cuộc đời, bài thơ yêu mến thiên nhiên, lao động và con người.
- Và thi phẩm Đoàn thuyền đánh cá đã ra đời như một định mệnh một dấu ấn
khẳng định điều đó.
- Bài thơ là một khúc tráng ca, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao
động trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới tốt đẹp hơn.
❖ Thân bài:
1. Tổng:
- Bài thơ là sự kết hợp hài hòa, song hành giữa hai nguồn cảm hứng. Đó là cảm
hứng lao động, về những người lao động mới đang xây dựng đất nước và cảm
hứng về thiên nhiên, vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận.
- Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy được thể hiện qua kết cấu thơ tự do,
âm điệu khỏe khoắn, lạc quan và hệ thống thi ảnh tráng lệ.
- Cả bài thơ miêu tả công việc đánh cá của ngư dân Quảng Ninh trên biển Hạ
Long hùng vĩ, lớn lao.
2. LĐ1: Mở đầu bài thơ tác giả đã phác họa rõ nét khung cảnh đoàn thuyền ra
khơi khi hoàng hôn đang dần buông xuống.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
- Với kết cấu cân đối như một bài tứ tuyệt: hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau tả
người cùng nghệ thuật nhân hóa, so sánh, tác giả đã gợi tả hình ảnh “mặt trời
xuống biển như hòn lửa”. Từ điểm nhìn trên con thuyền ra khơi nhìn về hướng
Tây mơi bờ bãi, chung quanh mênh mông sóng nước, mặt trời dần lặn xuống
đằng sau một dải nước xanh xanh, vũ trụ đang chuyển từ ngày sang đêm, bước
vào trạng thái nghỉ ngơi. Dẫu vậy, nó không hề tắt lịm, hòa nhập vào cái nền
đen đen sắp vồ ra ôm trọn cả một vùng trời mà lại “như hòn lửa”, quả cầu đỏ
rực, khổng lồ chìm vào đáy đại dương.
-> Biển cả bao la như ấm nóng hẳn lên.
=> Mặt trời được ví như “hòn lửa” đã làm bức tranh xanh lam của đại dương
như nhuốm thêm màu đo đỏ của ánh dương, thêm rực rỡ và tráng lệ, huy
hoàng vô cùng chứ chẳng hề ảm đạm, hiu hắt như cảnh hoàng hôn thường thấy
trong thơ cổ.
- Sánh đôi cùng “mặt trời” là hình ảnh được liên trưởng rất thú vị, độc đáo, tạo
cho những yêu văn nhiều cái nhìn đa chiều, ý nghĩ mới lạ. “Sóng đã cài then,
đêm sập cửa.”
+ Đọc dòng thơ này, người đọc như mường tượng ra trước mắt vũ trụ như một
ngôi nhà khổng lồ mà màn đêm buông xuống là cánh cửa còn những lượn
sóng dài là then cài.
+ Phép nhân hóa dường như còn làm cho biển vào đêm trở nên hiền hòa, gần gũi
với con người đến lạ thường. Phải chăng thiên nhiên, vũ trụ đã như ngôn nhà
thân thuộc của mỗi người ngư dân, nó đang dang rộng vòng tay, hào phóng
đón những đứa con của mẹ thiên nhiên vào.
=> Có thể nói, hai câu thơ trên đã thể hiện xuất sắc tình yêu thiên nhiên và
lòng yêu mến cuộc đời của nhà thơ Huy Cận.
- Trên phông nền thiên nhiên vũ trụ còn chấm phá hình ảnh những con người lao
động phấn khởi, say mê với niềm lạc quan phơi phới.
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
- Hình ảnh, nhạc điệu trong câu thơ diễn tả khí thế khỏe khoắn, phấn chấn, khẩn
trương của những người lao động làm việc bất kể ngày đêm. Từ “lại” cho thấy
việc ra khơi đánh cá là công việc hàng ngày thường xuyên của những người
dân biển nơi đây. Chuyến ra khơi này chỉ là một trong rất nhiều chuyến ra khơi
đánh cá trên biển đêm.
- Điệp khúc lao động đó không hề nhàm chán, tẻ nhạt bởi nó được thôi thúc bởi
chính niềm vui ca hát của người lao động. “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
là hình ảnh ẩn dụ mang tính chất khoa trương. Bằng bút pháp lãng mạn, Huy
Cận đã xây dựng một hình ảnh thơ thật khỏe khoắn, mới lạ. Những chàng trai
biển đang vừa chèo thuyền, đưa thuyền ra khơi vừa cất cao tiếng hát. Tiếng hát
hồ hởi, vang xa, bay cao, cùng hòa với gió, thổi căng cánh buồm. Đó là câu hát
chan chứa niềm vui của người dân lao động, được làm chủ thiên nhiên, đất
nước, công việc mà mình yêu thích và gắn bó.
- Tiếng hát ấy còn mang theo niềm mong mỏi thiết tha, vừa hiện thực vừa lãng
mạn.
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
- Trong niềm hân hoan ra khơi, vang lên những câu hát ngợi ca sự giàu có của
biển cá. Từ dáng cá hình thoi cùng phép so sánh, nhà thơ chợt liên tưởng đến
biển như một tấm lụa lớn mà đàn cá là “đoàn thoi” đang vun vút qua lại, lấp
lánh chạy đi chạy lại trên khung cửi dệt vải.
- Trong sự tưởng tượng táo báo ấy còn ngân vang những lời mời cá gọi “đến dệt
lưới ta đoàn cá ơi” rất gần gũi, thân thương. Từ “ta” vang lên đầy tự hào, kiêu
hãnh.
=> Qua hai khổ thơ đầu là cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá với niềm vui
phấn chấn, tin tưởng đồng thời còn làm nổi bật niềm vui, niềm tự hào trước sự
giàu có của biển cả quê hương trên nền cảnh thiên nhiên tráng lệ.
3. LĐ2: Lần theo trình tự chuyến ra khơi của đoàn thuyền, ở mười sáu câu tiếp
theo, nghệ sĩ Huy Cận đã miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển, thể
hiện sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người lao động và cả niềm tự hào
của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Không những vậy còn là khúc
tráng ca lao động ca ngợi vẻ đẹp con người và sự giàu có của biển cả quê
hương.
a) Trước hết đó là thiên nhiên vũ trụ và vẻ đẹp của con người lao động nhịp
nhàng, hòa quyện.
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
- Cảm hứng lãng mạn bao trùm cả đoạn thơ giúp nhà thơ đã khái quát phần nào
bức tranh lồng lộng giữa mênh mông biển cả.
- Với hình ảnh ẩn dụ “thuyền ta lái gió với buồm trăng”, tác giả đã khéo léo ví
von “gió” là người cầm lái còn “trăng” là cánh buồm. Con thuyền có thể lái cả
gió điều khiển nó theo ý muốn của mình. Cánh buồm tuy nhỏ bé nhưng có thể
mang theo cả vầng trăng trên cao trong suốt cả một hành trình dài. Ánh trăng
lung linh bàng bạc chiếu sáng cả không gian làm cho cảnh vật trở nên nên thơ,
huyền ảo. Ở đây ta nhận ra con thuyền vốn nhỏ bé trước biển trời bao la, giờ
đây dưới góc nhìn của một thi sĩ mơ mộng nó lại trở nên kì vĩ, ngang tầm vũ
trụ.
- Có lẽ vì vậy tuy ra khơi giữa một không gian biển cả mênh mông nhưng không
hề sợ hãi, nó “lướt” đi vun vút như một con tuấn mã băng băng tiến về phía
trước. Động từ “lướt” giữa trời mây và sóng biển còn hiện lên khí thế, niềm
kiêu hãnh của những con người vừa thoát khỏi kiếp sống nô lệ, lầm than,
nghèo đói.
=> Họ được làm chủ sản xuất, làm chủ đất trời và làm chủ sông biển nơi quê
hương ruột thịt.
- Không chỉ vậy, họ còn nổi bật ở vị trí trung tâm – ra tận khơi xa “dò bụng
biển”, tìm luồng cá, “dàn đan thế trận”, bủa “lưới vây giăng”. Dưới ngòi bút
miêu tả tài hoa, sáng tạo, lãng mạn của Huy Cận, cuộc đánh bắt cá của ngư dân
trên biển bỗng trở thành những cuộc thuỷ chiến đầy gay go, quyết liệt. Con
người dùng chính trí tuệ và sức mạnh của mình để chinh phục đại dương, biển
cả. Thế trận con người bày ra bằng những tấm lưới chắc chắn đan vào nhau,
bủa vây điệp trùng sẵn sàng chờ đón cá.
=> Như vậy, tầm vóc của con người và đoàn thuyền đã được nâng lên hòa
nhập vào kích thước của thiên nhiên vũ trụ. Chẳng còn cái cảm giác nhỏ bé, lẻ
loi, đơn chiếc khi con người đối diện với trời rộng sông dài như trong thơ Huy
Cận trước Cách mạng. Dường như ở chính đoạn thơ này để thể hiện sâu sắc sự
biến chuyển trong cách hành thơ của tác giả Huy Cận.
b) Trên nền bức tranh lao động được tô điểm bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái
nhìn của người cầm bút cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo.
“ Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”
- Thủ pháp liệt kê “cá nhụ”, “cá chim”, “cá đé”, “cá song” kết hợp với sự phối
sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc “đen hồng”, “vàng
chóe”... không chỉ ngợi ca sự giàu có của biển cả mà còn tạo nên một bức
tranh sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền ảo như trong câu
chuyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên.
- Mỗi loài cá có một kiểu dáng, một màu sắc rất riêng mà nhất là loài “cá song”.
Mỗi khi màn đêm buông xuống, trời khuya dần, trăng bắt đầu lên, những đàn
“cá song lấp lánh đuốc đen hồng,” “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.” Dưới
ánh trăng chiếu rọi trên mặt biển, những con cá song quẫy mặt nước từng đợt,
thân cá có khoang màu hồng lấp lánh như ánh sáng chuyển động dưới làn
nước biển. Mỗi lần như thế ánh trăng vỡ trên mặt nước như vàng hơn, rực rỡ
hơn, biển cả vì thế mà sống động hẳn lên.
=> Người xưa thường nói: “Thi trung hữu họa” – nghĩa là trong thơ có hình có
ảnh. Quả đúng như thế, mỗi loài cá ở đây là bức kí họa thần tình. Chúng đâu
chỉ là sản phẩm vô tri được đánh bắt bởi bàn tay con người. Với họ - những
người ngư dân này – cá là bạn, là “em”, là niềm cảm hứng cho con người
trong lao động, và cũng chính là đối tượng thẩm mĩ cho thi ca.
- Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc mà còn cả ở âm thanh tiếng sóng vỗ rì rầm, ầm
ầm đập vào trong những ghềnh thác đá hay mạn thuyền. “Đêm thở: sao lùa
nước Hạ Long.” Bằng nghệ thuật nhân hóa độc đáo, đẹp, biển cả được ví von
như một sinh vật đại dương đang thở, cộng hưởng cùng bầu trời chiếu ánh sao
lấp lánh theo từng đợt sóng cảm tưởng như “lùa nước Hạ Long” càng làm cho
tiếng thở trở nên vô cùng kì ảo, mê hoặc lòng người.
-> Đây là nét độc đáo trong sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận.
c) Nối tiếp những dòng thơ trên, biển không chỉ giàu, đẹp mà còn đầy ân tình,
trong cái khó nhọc của công việc làng chài gian nang vẫn vang lên những
khúc ca thắm đượm niềm vui, niềm lạc quan tràn đầy.
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”
- Vẫn những hình ảnh rất đỗi bình dị, tiếng hát gọi cá của những người dân chài
lại một lần nữa được nhà thơ nhắc tới. “Ta hát bài ca gọi cá vào” là câu thơ gợi
sự thân thiết, niềm vui, niềm mong ước đánh bắt được nhiều cá để làm giàu
cho quê hương đất nước.
- Song với hành động ngân vang câu hát là công việc thực của những người
đánh cá, “gõ thuyền”. Nhưng cái độc đáo, mới lạ, rất riêng, giàu chất thơ trong
ngòi bút huy Cận là hình ảnh vầng trăng được nhân hóa, tham gia lao động
cùng con người. Bóng trăng in xuống mặt nước và sóng vỗ hình ảnh trăng vào
mạn thuyền tạo nên những tiếng gõ gọi đàn cá vào.
=> Thiên nhiên hòa nhịp, nâng đỡ và chia sẻ với công việc của con người khiến
công việc lao động trở nên vui tươi, nhộn nhịp hơn.
- Trong niềm vui lao động, những người dân chài không quên biết ơn sự ưu ái
của thiên nhiên-biển cả đối với con người. “Biển cho ta cá như lòng mẹ”.
Giọng thơ mang âm hưởng ca dao và biển pháp so sánh “biển” như “lòng mẹ”
thể hiện tình yêu đời, lòng biết ơn chan chứa của những con người gắn bó với
biển cả từ bao đời nay.
=> Biển giàu, biển đẹp, biển phong phú tài nguyên, biển đem đến hạnh phúc,
cuộc sống ấm no cho con người. Tấm lòng của biển dành cho con người cũng
như tấm lòng của mẹ dành cho con - nguồn tình cảm yêu thương vô hạn đã
nuôi dưỡng mỗi con người hôm nay và mai sau.
d) Trời gần sáng, cảnh lao động khẩn trương, gấp gáp với thành quả bội thu và
vẻ đẹp khỏe khoắn của con người trong tư thế làm chủ.
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”
- Đây là chi tiết cụ thể duy nhất về hình cảnh con người hiện ra trong nền trời
đang sáng dần, ửng hồng ánh sáng bình minh chào ngày mới trên biển. Với
nhịp thơ 2/2/3 khỏe khoắn, người dân chài có hình có khối lại càng thêm rắn
chắc, mạnh mẽ, cứng cỏi. “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”. Từ “xoăn” trong
câu thơ vừa gợi lên hình ảnh những bắp tay rắn chắc của những chàng trai biển
khi kéo lưới vừa gợi lên sự hăm hở, hăng hái, hồ hởi của những con người lao
động muốn thấy được kết quả lao động của mình.
=> Hình ảnh thơ như thực sự tạc nên bức tượng đồng về người ngư dân.
- Đúng như mong muốn của họ, những con cá to nhỏ mắc lưới dính sát vào nhau
như những chùm quả nặng trĩu từ dưới biển sâu đổ vào khoang thuyền. Thành
quả lao động của tập thể con người được miêu tả thật đẹp thật hay qua hai câu
thơ cuối của đoạn. “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông, / Lưới xếp buồm lên
đón nắng hồng.”
+ Hai câu thơ có tính chất nhạc điệu vui tươi và màu sắc rực rỡ “bạc”, “vàng”
vừa thực lại vừa có ý nghĩa tượng. Không chỉ tả màu của vẩy, sắc của đuôi cá
trong sớm mai mà còn gợi nghĩ đến “bạc”, “vàng”- những tài sản quý giá lấy
lên từ biển cả.
=> Qua đó cũng thể hiện thái độ trân trọng của những người lao động đối với
thành quả mình đạt được.
+ Kết hợp với hình ảnh “lóe rạng đông” như thể hiện một chân trời tương lai
tươi sáng mở ra phía trước là chi tiết “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”. Vần
thơ tuyệt bút đã giúp ta mường tượng hành động, những thao tác nhịp nhàng,
quen thuộc và thành thạo.
=> Đây cũng chính là giai đoạn cuối cùng của hành trình đánh bắt cá để chuẩn
bị trở về đất liền trong một buổi bình minh “nắng hồng” rất đẹp.
4. LĐ3: Khép lại cả bài thơ với bốn câu thơ thể tự do là cảnh đoàn thuyền đánh
cá thắng lợi trở về mang theo tiếng hát trong trẻo, chứa chan niềm vui của
mẻ lưới bội thu.
“ Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”
- Câu thơ “câu hát căng buồm với gió khơi” gần như lặp lại nguyên vẹn câu thơ
cuối của khổ đầu. Kết cấu đầu cuối tương ứng tạo ra phép trùng điệp âm vang,
ngân nga như nhấn mạnh niềm vui thắng lợi sau một chuyến đi biển may mắn,
tôm cá đầy khoang, thành quả lao động to lớn.
- Sử dụng hình ảnh hoán dụ “đoàn thuyền” và biện pháp nhân hóa “chạy” cùng
lối nói khoa trương gợi liên tưởng đoàn thuyền và mặt trời như cùng tham gia
vào một đua, đọ sức với nhau. Ở đó, con người và thiên nhiên cùng hòa hợp
trong sức sống của một ngày mới. Đồng thời, nó còn phản ánh khí thế đi lên
mạnh mẽ của những người người lao động mới trong công cuộc xây dựng đất
nước sau giải phóng miền Bắc (1945).
“Đi ta đi, khai phá rừng hoang
Hỏi núi non cao đâu sắt đâu vàng
Hỏi biển khơi xa đâu luồng cá chạy
Sông Đà, sông lô, sông Hồng, sông Chảy
Hỏi đâu thác chảy cho điện quay chiều?”
(trích Bài ca xuân 61- Tố Hữu)
- Mường tượng đến ánh hồng rạo rực màu nắng của bình minh, ta lại nghĩ đến
một sắc thắm mới. Màu mới của thiên nhiên, đất trời cũng chính lại màu mới
của đất nước, của cuộc sống mới được làm chủ bao năm lửa đạn đau thương
dưới sự xâm lược của thực dân.
- Do đó mà tác giả đã có một liên tưởng rất thú vị đến thi vị. “Mắt cá huy hoàng
muôn dặm phơi.” Muôn ngàn con cá tươi roi rói nằm xếp trên khoang thuyền
phản chiếu ánh dương ban mai như muôn vàn mặt trời nhỏ li ti khiến cho
chúng thêm rực rỡ, huy hoàng.
=> Tất cả đã đem lại âm điệu tươi vui, phấn chấn của một khúc ca khải hoàn
đầy hào hứng, say mê
❖ Đánh giá chung:
a) Nghệ thuật:
- Các yếu tố về vần nhịp tạo nên âm hưởng thơ khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan,
đặc biệt là cách gieo vần có nhiều biến hóa linh hoạt.
- Sáng tạo hình ảnh thơ bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo.
b) Nội dung:
- Bài thơ là một khúc tráng ca, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao
động trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới.
- Bài thơ bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
c) Mở rộng:
- “Từ chiến trường ta xốc tới công trường
Người chiến thắng là người xây dựng mới.”
( trích Với Đảng- Tố Hữu)

- “Tây Bắc ư! Có riêng gì Tây Bắc


Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.”
( trích Tiếng hát con tàu- Chế Lan Viên)
❖ Kết bài:
- Bằng hình ảnh lãng mạn, mang trong mình cả phong vị cổ điển nhưng lại rất
hiện đại ở những liên tưởng bất ngờ,.. cùng nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, nhân
hóa,...thi nhân đã khắc họa thành công trình tự chuyến ra khơi của đoàn
thuyền từ lúc hoàng hôn đến khi trời hừng đông với tâm hồn lạc quan, phấn
chấn.
- Một đời lao động và cống hiến, họ như những chú ong chăm chỉ, miệt mài
góp mật cho cuộc sống. Hình ảnh của họ lúc nào cũng sáng cũng đẹp như dụi
vào lòng ta những cảm xúc bềnh bồng, vương vấn đến lạ thường.
- Từ đó, thi phẩm ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước cũng như niềm vui
trong lao động của những con người đang chủ cuộc đời.

You might also like