You are on page 1of 7

ĐỒNG CHÍ

I.Phần mở bài với dạng phân tích cả bài


Cách 1:
Hình ảnh người lính trong kháng chiến luôn là một đề tài bất tận của thơ ca
kháng chiến. Ở mỗi một thời kì, họ lại hiện lên với những vẻ đẹp khác nhau, có lúc
thì sôi nổi, trẻ trung, khi thì hào hoa, lãng mạn. Đến với Chính Hữu, chúng ta bắt gặp
hình ảnh của người lính nông dân chân chất và mộc mạc trong kháng chiến chống
Pháp. Hình ảnh đấy được thể hiện hết sức sâu sắc và cảm động trong bài thơ “Đồng
chí”.
Cách 2:
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh người lính mãi mãi là
hình ảnh cao quý nhất, đẹp đẽ nhất. Hình tượng người lính đã đi vào lòng người và
văn chương với tư thế, tình cảm và phẩm chất cao đẹp. Một trong những tác phẩm ra
đời sớm nhất, tiêu biểu và thành công nhất viết về tình cảm của những người lính Cụ
Hồ là bài“Đồng chí” của Chính Hữu. Bài thơ được sáng tác năm 1948. Bằng những
rung động mới mẻ và sâu lắng, bằng chính sự trải nghiệm của người trong cuộc, qua
bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã diễn tả thật sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng
liêng của anh bộ đội thời kháng chiến.
I. Mở bài với dạng đề phân tích đoạn trích
Chính Hữu là cây bút thơ tiêu biểu trong nền thơ ca thời kháng chiến chống
thực dân Pháp. Vốn là một người lính nên tác phẩm của ông chủ yếu viết về chiến
tranh và người lính, qua những trang thơ mang giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết, ngôn
ngữ cô đọng, hàm súc gợi nhiều ý nghĩa biểu tượng nên tác phẩm của ông được đông
đảo bạn đọc đón nhận. “Đồng chí” là một bài thơ như thế. Đến với tác phẩm qua
những câu thơ nói về .......... Nhà thơ giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của anh bộ đội
Cụ Hồ trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp.
Trích thơ
II.Thân bài
1. Khái quát chung
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu được sáng tác vào đầu
năm 1948 khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra vô cùng ác liệt. Sau khi
cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) đánh
bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc, Chính Hữu bị
ốm nặng được đưa về trạm quân y điều trị. Đơn vị cử một người đồng đội ở lại để
chăm sóc ông. Cảm kích trước tấm lòng của người đồng đội ấy, ông đã sáng tác bài
thơ này. Bài thơ đã giúp người đọc hiểu thêm về một tình cảm cao đẹp- tình đồng chí
và vẻ đẹp tâm hồn của những người lính bộ đội cụ Hồ.
- Chủ đề: Với cái nhìn chân thực của người lính-người trong cuộc-người trực tiếp
cầm súng ra mặt trận, Chính Hữu đã khắc họa thành công vẻ đẹp sống động từ hoàn
cảnh xuất thân đến tâm hồn và ý chí nghị lực mạnh mẽ, dũng cảm, chan chứa tình
đồng chí của người lính cách mạng.
2. Cảm nhận về hình tượng người lính trong bài thơ
a. Cơ sở hình thành tình đồng chí
*Luận cứ 1: Cơ sở thứ nhất: Cùng chung hoàn cảnh xuất thân
Những chiến sĩ xuất thân từ những người nông dân lao động. Từ cuộc đời thật họ
bước thẳng vào trong trang thơ và tỏa sáng một vẻ đẹp mới, vẻ đẹp của tình đồng chí,
đồng đội:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
+ Thủ pháp đối được sử dụng chặt chẽ ở hai câu thơ đầu, gợi lên sự đăng đối, tương
đồng trong cảnh ngộ của người lính. Từ những miền quê khác nhau, họ đã đến với
nhau trong một tình cảm thật mới mẻ.
+ Giọng thơ nhẹ nhàng, gần gũi như lời tâm tình, thủ thỉ của hai con người “anh” và
“tôi”.
+ Mượn thành ngữ “nước mặn đồng chua” để nói về những vùng đồng chiêm, nước
trũng, ngập mặn ven biển, khó làm ăn. Cái đói, cái nghèo như manh nha từ trong
những làn nước
+ Hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” để gợi về những vùng trung du, miền núi, đất đá bị
ong hóa, bạc màu, khó canh tác. Cái đói, cái nghèo như ăn sâu vào trong lòng đất.
-> “Quê hương anh”- “làng tôi” tuy có khác nhau về địa giới, người miền xuôi, kẻ
miền ngược thì cũng đều khó làm làm ăn, canh tác, đều chung cái nghèo, cái khổ. Đó
chính là dở sở đồng cảm giai cấp của những người lính.
=> Anh bộ đội cụ Hồ là những người có nguồn gốc xuất thân từ nông dân. Chính
sự tương đồng về cảnh ngộ, sựu đồng cảm về giai cấp là sợi dây tình cảm đã nối
họ lại với nhau, từ đây họ đã trở thành những người đồng chí, đồng đội với
nhau.
* Luận cứ 2: Cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ và lòng yêu nước.
- Những tưởng hai con người ở hai vùng quê nghèo đói đấy sẽ chẳng bao giờ gặp
được nhau, ấy vậy mà chiến tranh nổ ra, những con người hoàn toàn xa lạ ấy lại
“quen nhau”
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
- Những con người chưa từng quen biết, đến từ những phương trời xa lạ đã gặp nhau
ở một điểm chung: cùng chung nhịp đập trái tim, cùng chung một lòng yêu nước và
cùng chung lí tưởng cách mạng. Những cái chung đó đã thôi thúc họ lên đường nhập
ngũ.
- Hình ảnh thơ “súng bên súng, đầu sát bên đầu” mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc
diễn tả sự gắn bó của những người lính trong quân ngũ:
+ “Súng bên súng” là cách nói giàu hình tượng để diễn tả về những người lính cùng
chung lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu. Họ ra đi để chiến đấu và giải phóng cho quê
hương, dân tộc, đất nước; đồng thời giải phóng cho chính số phận của họ
+ “Đầu sát bên đầu” là cách nói hoán dụ, tượng trưng cho ý chí, quyết tâm chiến đấu
của những người lính trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
+ Điệp từ “Súng, bên, đầu” khiến cho câu thơ trở nên chắc khỏe, nhấn mạnh sự gắn
kết, cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ của những người lính.
- Nếu như ở cơ sở thứ nhất “anh-tôi” đứng trên từng dòng thơ như một kiểu xưng
danh khi gặp gỡ, vẫn còn xa lạ, thì ở cơ sở thứ hai “anh” với “tôi” trong cùng một
dòng thơ, thật gần gũi.Từ những người xa lạ họ đã hoàn toàn trở nên gắn kết
=> Chính lí tưởng và mục đích chiến đấu là điểm chung lớn nhất, là cơ sở để họ
gắn kết với nhau, trở thành đồng chí, đồng đội của nhau.*
Luận cứ 3:Tình đồng chí nảy nở bền chặt trong sự chan hoà, chia sẻ mọi gian
lao cũng như niềm vui. Đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt mà tác giả
biểu hiện bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
+ “Đêm rét chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, gian khổ của cuộc đời
người lính; là chung hơi ấm để vượt qua giá lạnh nơi núi rừng. Đó là một hình ảnh
đẹp, chân thực và đầy ắp những kỉ niệm.
+ Đắp chung chăn đã trở thành biểu tượng của tình đồng chí. Nó đã khiến những con
người “xa lạ” sát lại gần bên nhau, truyền cho nhau hơi ấm và trở thành “tri kỉ”
+ Cả bài thơ chỉ có duy nhất một chữ “chung” nhưng đã bao hàm được ý nghĩa sâu
sắc và khái quát của toàn bài: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng,
chung khát vọng giải phóng dân tộc.
- Tác giả đã rất khéo léo trong việc lựa chon từ ngữ, khi sử dụng từ “đôi” ở câu thơ
trên:
+ Chính Hữu không sử dụng từ “hai” mà sử dụng từ “đôi” vì “đôi” cũng có nghĩa là
hai, nhưng đôi còn thể hiện sự gắn kết không thể tách rời
+ Từ “đôi người xa lạ” họ đã trở thành “đôi tri kỉ”, thành đôi bạn tâm tình thân thiết,
hiểu bạn như hiểu mình.
- Khép lại đoạn thơ, là một câu thơ có một vị trí rất đặc biệt, được cấu tạo bởi
hai từ: “Đồng chí!”.
+ Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một lời định nghĩa cho tình
đồng chí
+ Thể hiện cảm xúc dồn nén, được thốt ra như một cao trào của cảm xúc, trở thành
tiếng gọi thiết tha của tình đồng chí, đồng đội
+ Gợi sự thiêng liêng, sâu lắng cảu tình đồng chí
+ Dòng thơ đặc biệt ấy còn như một bản lề gắn kết. Nó nâng cao ý thơ đoạn trước và
mở ra ý thơ đoạn sau. Và dấu chấm cảm đi kèm hai tiếng ấy bỗng như chất chứa bao
trìu mến, yêu thương.
=> Đoạn thơ đã đi sâu khám phá, lí giải cơ sở của tình đồng chí. Đồng thời, tác
giả đã cho thấy sự biến đổi kì diệu từ những người nông dân hoàn toàn xa lạ trở
thành những người đồng chí, đồng đội sống chết có nhau.
2. Biểu hiện đẹp của tình đồng chí
* Chuyển ý: Nếu 7 câu đầu tác giả nêu lên cơ sở để hình thành tình đồng chí thì 10
câu tiếp theo tác giả đi tìm những biểu tượng đẹp của tình đồng đội, đồng chí thiêng
liêng sâu nặng này.
*Biểu hiện 1:Trước hết, đồng chí là sự thấu hiểu và chia sẻ những tâm tư, nỗi
lòng của nhau. Các anh đều là những người lính tạm gác tình riêng, để nghe theo
tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, dũng cảm ra đi vì nghĩa lớn để lại sau lưng mảnh
trời quê hương với biết bao nhiêu trăn trở:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
- Họ vốn gắn bó sâu nặng với ruộng nương, với căn nhà thân thiết, nhưng cũng sẵn
sàng rời bỏ tất cả để ra đi. Nhà thơ đã dùng những hình anh quen thuộc và tiêu biểu
của mọi làng quê Việt Nam như biểu tượng của quê hương những người lính nông
dân. Giếng nước, gốc đa không chỉ là cảnh vật mà còn là làng quê, là dân làng. Cảnh
vật ở đây được nhân cách hoá, như có tâm hồn hướng theo người lính. Hình ảnh
“gian nhà không” là hình ảnh khá lắng đọng trong tâm trí những người chiến sĩ ấy và
cũng hết sức ám ảnh trong tâm trí người đọc. Gian nhà không không chỉ gợi cái
nghèo mà còn diễn tả nỗi trống trải của lòng người ở lại. Trong câu“Ruộng nương
anh gửi bạn thân cày” nếu ta thay từ “anh” bằng từ “tôi” thì ý nghĩa câu thơ sẽ thay
đổi hẳn. Ruộng nương “tôi”....là lời bộc bạch tâm trạng của nhân vật trữ tình. Nhưng
rõ ràng nhân vật trữ tình trong bài thơ không nói về mình mà nói về đồng đội của
mình. Điều đó nghĩa là họ thấu hiểu cảnh ngộ và mối bận lòng của nhau. Từ “mặc
kệ” không phải là vô tâm, vô trách nhiệm. Mặc kệ là ý chí quyết tâm của họ khi
đi theo cách mạng, làm rắn lòng mình để khỏi mềm lòng khi bước vào trận
chiến, là sự lựa chọn dứt khoát. Tâm trạng ấy cũng được Nguyễn Đình Thi nói tới
trong bài “Đất nước”:
“ Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
- Thái độ quyết liệt ấy có vẻ như lạnh lùng nhưng người bạn tri kỉ của anh hiểu được
rằng đó chỉ là những biểu hiện bề ngoài còn trong sâu thẳm tâm hồn người lính vẫn
dành cho hậu phương biết bao yêu mến, vẫn hình dung ra cảnh “Giếng nước gốc đa
nhớ người ra lính”.“Giếng nước, gốc đa” vốn là những vật vô tri, vô giác nay đã
được nhân hóa lên để thể hiện nỗi nhớ thương da diết của quê hương yêu dấu với
những người lính đã rời đi và rất khó để hẹn ngày trở lại.
- Ngoài ra giếng nước, gốc đa còn dùng để ám chỉ những người ở lại, những người vợ
chờ chồng, mẹ chờ con luôn nhớ thương, mong ngóng tới ngày người lính trở về. Tại
sao người lính đang ở trong chiến trường mà lại thấu hiểu hết những tâm sự của quê
hương, gia đình, ấy là bởi vì chính người lính cũng đang nhớ về họ da diết, một nỗi
nhớ hai chiều, nhớ về quê hương chính là cách để họ vượt qua khó khăn. Đấy chính
là vẻ đẹp tâm hồn, những tình cảm chất chứa trong những người chiến sĩ ấy.
- Ba câu thơ với các hình ảnh: ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa, hình ảnh
nào cũng thân thương, cũng ăm ắp một tình quê, một nỗi nhớ thương vơi đầy. Nhắc
tới nỗi nhớ da diết này, Chính Hữu đã nói đến sự hi sinh không mấy dễ dàng của
người lính. Tâm tư ấy, nỗi nhớ nhung ấy của “anh” và cũng là của “tôi”, là đồng chí
họ thấu hiểu và chia sẻ cùng nhau. Tình đồng chí đã được tiếp thêm sức mạnh bởi
tình yêu quê hương đất nước ấy.
Biểu hiện 2:Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, sự sẻ chia những gian
lao thiếu thốn của cuộc đời người lính:
Chính Hữu là người từng trực tiếp tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947.
Hơn ai khác, ông thấu hiểu những thiếu thốn và gian khổ của cuộc đời người lính.
Bảy dòng thơ tiếp, ông đã dành để nói về những gian khổ của các anh bộ đội trong
thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh


Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
- Bằng những hình ảnh tả thực, các câu thơ có cấu trúc sóng đôi: áo anh, rách vai,
quần tôi, mảnh vá, miệng cười buốt giá, chân không giày, tác giả đã tái hiện chân
thực những khó khăn thiếu thốn trong buổi đầu kháng chiến: thiếu lương thực, thiếu
vũ khí, quân trang, thiếu thuốc men…
- Người lính phải chịu “từng cơn ớn lạnh”, những cơn sốt rét rừng hành hạ như cơm
bữa.
* Liên hệ mở rộng: Căn bệnh này cũng được nhà thơ Quang Dũng nói tới trong bài
thơ Tây Tiến:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.
Hay trong bài “Dấu chân qua trảng cỏ”, nhà thơ Thanh Thảo cũng từng viết:
“Những người sốt rét đương cơn
Dấu chân bầm xuống đường trơn ướt nhòe”.
- Căn bệnh sốt rét- nỗi kinh hoàng ám ảnh của người lính trong chiến tranh đã hành
hạ họ khiến họ tiều tụy, xanh xao, vàng da, tóc rụng. Vì thế lúc này chỉ có tình
thương yêu, đùm bọc mới là liều thuốc bổ tinh thần giúp họ vượt qua bệnh tật. Cái
đọng lại trong câu thơ là từ “biết”. Người lính không nói tôi “biết” mà là tôi với anh
“biết” từng cơn ớn lạnh. Nghĩa là họ cùng nếm trải, cùng chịu đựng, cùng trải qua.
- Họ đã đồng cam cộng khổ, chia ngot xẻ bùi trong khó khăn gian khổ. Tất cả những
khó khăn gian khổ được tái hiện bằng những chi tiết hết sức thật, không một chút tô
vẽ. Không dừng lại ở đó người lính ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến,
bộ đội ta thiếu thốn đủ đường, quần áo rách bươm phải buộc túm lại nên người lính
vệ quốc còn được gọi là “vệ túm”. Những hình ảnh “áo rách vai, quần vài mảnh vá,
chân không giày” đã nói lên điều đó. Nhưng trên hết họ vẫn lạc quan, yêu đời
“Miệng cười buốt giá”giữa chiến trường bom rơi đạn lửa.
- Chính nụ cười ấy đã xóa tan cái lạnh lẽo của đêm đông giá rét. Họ đùa vui trong
gian khổ thiếu thốn, động viên nhau qua ánh mắt, nụ cười. Dù đó chỉ là nụ cười
gượng gạo trong “buốt giá” nhưng vẫn chứa chan tình cảm cho thấy sự lạc quan,
mạnh mẽ trong cuộc sống chiến đấu. Đọc những câu thơ này, ta vừa không khỏi
chạnh lòng khi thấu hiểu nhưng gian nan vất vả mà thế hệ cha ông đã từng trải qua,
vừa trào dâng một niềm kính phục ý chí và bản lĩnh vững vàng của những người lính
vệ quốc.
Biểu hiện 3:Là niềm yêu thương gắn bó sâu nặng dành cho nhau (Sức mạnh của
tình đoàn kết)
Nếu điểm nhấn ở khổ thơ đầu là câu thơ “Đồng chí” thì điểm nhấn ở khổ thơ thứ hai
là câu thơ: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
- Hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” là hình ảnh giàu sức gợi. Trong cái buốt giá gian
lao, những bàn tay tìm đến với nhau để siết chặt đội ngũ; để truyền hơi ấm cho nhau;
để động viên, cảm thông, chia sẻ mọi khó khăn; để hứa hẹn lập công. Bàn tay giao
cảm thay cho lời nói. Nhà thơ Lưu Quang Vũ cũng từng viết “Lúc chia tay ta chỉ nắm
tay mình/ Điều chưa nói bàn tay đã nói”. Người ta bảo bàn tay biết nói là thế. Một sự
cảm thông, chia sẻ vừa chân thành, vừa tha thiết làm sao. Câu thơ ấm áp trong ngọn
lửa tình cảm thân thương! Hình ảnh kết thúc đoạn thứ hai này cắt nghĩa vì sao người
lính có thế vượt qua mọi thiếu thốn, gian khổ, xa quê hương, quần áo rách vá, chân
không giày, mùa đông lạnh giá với những cơn sốt rét “run người”... Hơi ấm của tình
đồng chí truyền cho nhau đã giúp người lính thắng được tất cả. => Có lẽ không ngôn
từ nào có thể diễn tả cho hết tình đồng chí thiêng liêng ấy. Chính những tình
cảm, tình đoàn kết gắn bó đã nâng đỡ bước chân người lính và sưởi ấm tâm hồn
họ trên mọi nẻo đường chiến đấu.
3. Bức tranh đẹp về tình đồng chí (Biểu tượng đẹp về tình đồng chí)
- Hình ảnh người lính và tình đồng chí của họ đã kết tinh, tỏa sáng trong khổ thơ cuối
của bài:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
- Ba câu thơ cuối vừa giàu chất hiện thực lại vừa đậm đà chất lãng mạn bay bổng, vừa
gợi tả bức tranh không gian toàn cảnh của núi rừng, lại vừa đặc tả tình cảm ấm áp của
những người lính trong chiến tranh. Đây là biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng đội,
đồng chí. Đó là khoảng thời gian “đêm nay” rất cụ thể với khung cảnh “rừng hoang
sương muối” hiu quạnh, lạnh lẽo và khắc nghiệt. Tuy nhiên, người lính vẫn đứng
cạnh bên nhau để “chờ giặc tới”.
- Động từ “chờ” cho thấy được tư thế chủ động và hết sức đề cao cảnh giác của
người lính trong khi làm nhiệm vụ. Nghệ thuật tương phản đối lập được tạo ra rất cân
đối giữa một bên là không gian núi rừng lạnh lẽo, hoang vu, vắng lặng với một bên là
tư thế chủ động mạnh mẽ như lấn át cả không gian toàn cảnh của người lính. Chính
sức mạnh của tình đồng chí đã làm cho người lính vượt lên trên hiện thực khắc nghiệt
đó. Các từ gần nghĩa “cạnh”-“bên” cho thấy sức mạnh của tinh thần đoàn kết, gắn
bó luôn có nhau của người lính. Trên cao là ánh trăng treo lơ lửng trên bầu trời, dưới
cái nhìn lãng mạn hóa của Chính Hữu, ánh trăng như đang treo ở đầu mũi súng.
- Đêm khuya, trăng trên vòm trời cao đã sà xuống thấp dần, ở vào một vị trí và tầm
nhìn nào đó, vầng trăng như treo trên đầu mũi súng của người chiến sĩ đang phục
kích chờ giặc. Và “trăng” theo đó đã trở thành người bạn vừa chứng minh cho tình
cảm đồng chí keo sơn của người lính, vừa sáng soi và sưởi ấm cho không gian của
rừng đêm sương muối lạnh lẽo bên trên.
- Hình ảnh “súng”-“trăng” được đặt bên nhau khiến người đọc có nhiều liên tưởng
giữa thực tại - mơ mộng, chiến tranh - hòa bình, chiến sĩ - thi sĩ. Sự đan cài giữa hiện
thực và lãng mạn ấy vừa cho thấy được hiện thực chiến tranh khó khăn, vất vả; lại
vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính: họ vừa là chiến sĩ vừa là thi sĩ, họ cầm
súng chiến đấu để bảo vệ quê hương, đem lại nền độc lập, tự do cho Tổ quốc thân
yêu.
- Có thể nói, ba câu thơ cuối là một bức tranh đẹp, như một bức tượng đài sừng sững
của hình ảnh người lính cách mạng với tình đồng chí thiêng liêng sâu sắc. Chính tình
cảm đồng chí đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ.
- Như vậy tình đồng chí trong bài thơ là tình cảm cao đẹp và thiêng liêng của những
con người gắn bó keo sơn trong cuộc chiến đấu vĩ đại vì một lý tưởng chung. Đó là
mối tình có cơ sở hết sức vững chắc: sự đồng cảm của những người chiến sĩ vốn xuất
thân từ những người nông dân hiền lành chân thật gắn bó với ruộng đồng. Tình cảm
ấy được hình thành trên cơ sở tình yêu Tổ Quốc, cùng chung lí tưởng và mục đích
chiến đấu.
- Hoàn cảnh chiến đấu gian khổ và ác liệt lại tôi luyện thử thách làm cho mối tình
đồng chí đồng đội của những người lính càng gắn bó, keo sơn. Mối tình thiêng liêng
sâu nặng, bền chặt đó đã tạo nên nguồn sức mạnh to lớn để những người lính “áo
rách vai”, “chân không giầy” vượt lên mọi gian nguy để đi tới và làm nên thắng trận
để viết lên những bản anh hùng ca Việt Bắc, Biên giới, Hoà Bình, Tây Bắc…. tô
thắm thêm trang sử vàng chống Pháp hào hùng của dân tộc.
4. Đánh giá, mở rộng
- Bằng nhiều hình ảnh sóng đôi cùng nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, ngôn ngữ thơ hàm
súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính đang tâm sự, tâm tình, vận dụng tục ngữ,
thành ngữ linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà đặc biệt là sự kết
hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, Chính Hữu đã khắc họa thành công bức
tượng đài về người nông dân mặc áo lính rất đẹp, tráng lệ, hào hùng của thời kì đầu
kháng chiến chống Pháp.
- Từ hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí khiến ta liên tưởng đến hình ảnh của
người lính trong bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân hay hình ảnh
người lính trong bài “Nhớ” của Hồng Nguyên, hay hình ảnh người lính trong bài
“Tây tiến” của nhà thơ Quang Dũng… Họ là kết tinh cao độ những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta trong suốt bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Họ mãi là hình
ảnh đẹp nhất trong thơ, mãi là chân dung đẹp nhất của thời đại chúng ta.
III. Kết bài
Cách 1 : Bài thơ “Đồng chí” là một bài thơ hay, độc đáo viết về người lính
cụ Hồ. Qua bài thơ, người đọc thấy được vẻ đẹp của tình đồng đội, đồng chí sâu sắc,
cao cả, thiêng liêng của người lính cách mạng. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã
thắng lợi vẻ vang, trang sử vàng đã sang qua bao nhiêu giai đoạn mới, thế nhưng mỗi
lần đọc lại bài thơ Đồng chí ta như thấy rõ hình ảnh của anh bộ đội Cụ Hồ hiện lên
sáng rực, thật cao đẹp trong những lời thơ của Chính Hữu.
Cách 2 : Bài thơ Đồng chí với ngôn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ
cười ngạo nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Sự mộc mạc
và tinh tế của chính Hữu đã tạo nên dấu ấn đặc biệt cho tác phẩm. Vẻ đẹp của người
lính nông dân sống mãi với quê hương, với tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai
hay mãi mãi về sau.

Cách 3 : Xuân Diệu quan niệm : Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ
nữa. Chính Hữu đã đem hiện thực ấy vào các trang viết của mình một cách tự nhiên,
đồng thời ông cũng khiến con tim người đọc tan chảy khi chứng kiến tình đồng chí,
đồng đội gắn bó keo sơn trong tột cùng gian khổ. Qủa thực văn học chân chính nằm
ngoài sự băng hoại của thời gian, nên hình tượng người lính trong Đồng chí vẫn sáng
ngời cho đến tận hôm nay và mãi mãi về sau

You might also like