You are on page 1of 8

BÀI CHỮA BUỔI 9

ĐỀ 1

Câu 1: Những câu thơ trên được trích từ bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu. Bài thơ
được sáng tác năm 1948 khi Chính Hữu cùng với đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc (thu
đông 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của thực dân Pháp.

Câu 2: Từ “mặc kệ” đặt giữa câu thơ cùng với hình ảnh làng quê quen thuộc đã gợi cho em nhiều
cảm xúc về tình cảm của anh bộ đội vốn xuất thân từ nông dân trong cuộc kháng chiến chống
Pháp. Đó là khi những người lính trong kháng chiến cố tỏ ra không quan tâm đến những thiếu
thốn ở quê nhà mình để tập trung làm kháng chiến. Từ “mặc kệ” ấy đồng thời cũng bộc lộ được
rằng những anh bộ đội vẫn đang cố thể hiện ra mạnh mẽ nhưng ở sau bên trong vẫn còn một chút
yếu lòng, thương xót và nhiều hơn cả là sự hi inh cao cả và thầm lặng.

Câu 3: Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” là bút
pháp hoán dụ “giếng nước gốc đa” kết hợp với nhân hóa “nhờ”. Sử dụng nhwuxng biện pháp tu
từ này có tác dụng chỉ người thân ở quê nhà của những người lính, từ đó thể hiện niềm mong
moi của các hậu phương với tiền tuyến; đồng thời cũng thể hiện dược tình đồng chí đồng đội sâu
sắc của những người lính thông qua việc chia sẻ nỗi nhớ quê hương

Câu 4: Cảm nhận của em về biểu hiện tình đồng chí, đồng đội của những người lính trong đoạn
thơ trên

01. Câu mở đoạn: “Đồng chí” là một sáng tác độc đáo của nhà thơ Chính Hữu, trong đó
nổi bật lên là biểu hiện tình đồng chí, đồng đội của những người lính, và điều đó được thể hiện
một cách vô cùng rõ nét trong đoạn thơ trên.

02. Phân tích

LĐ1 – Tình đồng chí là chia sẻ những tâm tư, nỗi niềm của nhau (nỗi nhớ quê hương)

- Những người lính gắn bó với nhau, họ hiểu những nỗi niềm sâu xa, thầm kín của đồng đội
mình: “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày / Căn nhà không mặc kệ gió lung lay / Giếng nước
gốc đa nhớ người ra lính”
- Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê hương: ruộng nương,
gian nhà, giếng nước gốc đa…Từ “mặc kệ” cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người lính.

- Tuy nhiên, sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương. Ở ngoài mặt trận, họ vẫn hình
dung thấy gian nhà không đang lung lay trong gió nơi quê nhà xa xôi. Nói “Giếng nước gốc đa
nhớ người ra lính” nhưng thực ra chính là nói nỗi nhớ của tiền tuyến gửi về hậu phương.

LĐ2 – Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn
của cuộc đời người lính

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh / Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi / Áo anh rách vai / Quần
tôi có vài mảnh vá / Miệng cười buốt giá / Chân không giày”

- Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính những năm kháng chiến chống Pháp
hiện lên rất cụ thể, chân thực: áo rách, quần vá, chân không giày…

- Sự từng trải của đời lính đã cho Chính Hữu biết được sự khổ sở của những cơn sốt rét rừng
hành hạ: người nóng sốt hầm hập đến ướt cả mồ hôi mà vẫn cứ ớn lạnh đến run người, biết được
cảm giác “miệng cười buốt giá”: trời lạnh, môi miệng khô và nứt nẻ, nói cười rất khó khăn, có
khi nứt ra chảy cả máu.

- Thế nhưng, những người lính vẫn cười trong gian lao bởi họ có hơi ấm và niềm vui của tình
đồng đội. Hơi ấm ở bàn tay, ở tấm lòng đã chiến thắng cái lạnh ở “chân không giày” và thời tiết
“buốt giá”. Sức mạnh của tình đồng đội đã truyền cho họ niềm tin, động lực để giúp họ vượt qua
tất cả, đẩy lùi khó khăn, gian khổ.

- Trong đoạn thơ, “anh” và “tôi” luôn đi với nhau, có khi đứng chung trong một câu thơ. Có khi
đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau. Cấu trúc ấy đã diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những
người đồng đội.

03. Mở rộng

- Biện pháp nghệ thuật: Đoạn thơ được viết bằng thể thơ tự do, bút pháp tả thực, lời thơ giản dị,
mộc mạc, cô đọng; hình ảnh thơ gợi cảm, giàu ý nghĩa…

Câu kết đoạn: Qua đây khắc họa chân thực mà sinh động tình đồng chí gắn bó keo sơn của
những lính vệ quốc trong những ngày đầu kháng chiến, đồng thời thể hiện tài năng của tác giả.
ĐỀ 2

Câu 1: Trong các từ “vai”, “miệng”, “chân”, “tay” ở đoạn thơ thứ nhất, từ “vai” là từ được dùng
theo nghĩa chuyển, chuyển nghĩa theo phương thức hoán dụ - vai ở đây chính là phần vai của áo
(vai người – vai áo). Còn những từ “miệng”, “chân”, “tay” được dùng theo nghĩa gốc, để chỉ
những bộ phận trên cơ thể con người.

Câu 2: Nụ cười trong câu “Miệng cười buốt giá” gợi được âm vang tiếng cười, từ đó thể hiện sự
đồng cảm , sẻ chia của những người lính khi đi xa và nhớ về quê hương. Đối diện với những thử
thách ghê gớm, đáng sợ cùng với cái thời tiết khắc nhiệt, lạnh buốt khi ở trên rừng cùng với sự
khó khăn, thiếu thốn về vật chất, tình thần, nhưng mà cái sự đoàn kết đã khiến họ vượt qua khó
khăn, thử thách vì thế dù có thế nào họ vẫn "miệng cười buốt giá". Đặc biệt nó còn thể hiện tinh
thần lạc quan, yêu đời của những người chiến sĩ trong thời tiết khắc nghiệt trên chiến trường.

- Câu thơ cũng có hình ảnh nụ cười trong chương trình Ngữ văn 9 là câu thơ: “Nhìn nhau mặt
lấm cười ha ha”, được trích từ tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm
Tiến Duật.

Câu 3: Biện pháp liệt kê ở bốn câu thơ trên được thể hiện ở những chi tiết miêu tả áo rách, quần
vá, miệng cười và chân không giày. Sử dụng biện pháp liệt kê này có tác dụng nhấn mạnh sự
thiếu thốn về vật chất trong cuộc sống của những người lính; đồng thời cũng gợi được hoàn cảnh
đồng điệu và sự sẻ chia của những người lính với nhau.

Câu 4: Nêu suy nghĩ của em về tinh thần lạc quan

1. Giải thích

- Lạc quan là một thái độ sống tích cực, lạc quan là luôn vui tươi, vui cười dù có bất kì chuyện gì
xảy ra.

2. Vì sao

- Trong cuộc sống của chúng ta tồn tại nhiều khó khăn, thử thách, nếu không có sự lạc quan, tin
tưởng vào bản thân mình thì chúng ta sẽ dễ gục ngã, thất bại

3. Biểu hiện của tinh thần lạc quan

- Luôn tươi cười dù có chuyện gì xảy ra

- Luôn bình tĩnh xử lí mọi tình huống


4. Ý nghĩa của tinh thần lạc quan

- Lạc quan sẽ tạo nên cuộc sống tươi đẹp cho tất cả mọi người

- Giúp chúng ta biết sống một cách có ý nghĩa hơn

- Giúp con người tránh khỏi những hiểm họa trong cuộc sống

- Những người lạc quan thường thành công trong cuộc sống và công việc

5. Phản đề

- Phê phán những người sống bi quan, không có niềm tin vào bản thân

- Phân biệt giữa lạc quan và tự tin thái quá hoặc quá tự cao về bản thân mình, dù thất bại cũng
không cố gắng vượt qua hoàn cảnh mà lại sống trong sự lạc quan huyền hão

6. Liên hệ bản thân

- Mỗi người được một lần sống, hãy sống hết mình để thấy cuộc đời thật ý nghĩa, tốt đẹp và cống
hiến những giá trị văn minh cho cuộc đời.

ĐỀ 3

Câu 1: Mạch cảm xúc của bài thơ là: 7 câu thơ đầu nói đến cơ sở chung tạo nên tình đồng chí,
đến 10 câu thơ tiếp nêu lên biểu hiện của tình đồng chí và 3 câu cuối bài thơ ca ngợi vẻ đẹp và
biểu tượng của người lính.

Câu 2: Từ “tri kỉ” có nghĩa là thấu hiểu mình, hiểu bạn như hiểu bản thân mình. Từ tri kỉ trong
bài đồng chí diễn tả sự thấu hiểu giữa 2 người lính cùng chiến tuyến, cùng lý tưởng chiến đấu,
cùng hoàn cảnh chiến đấu. Cách dùng từ ngữ hình ảnh trong bài thơ nhằm thể hiện tình tri kỉ tuy
hai nhưng một.

- Một bài thơ khác cũng có câu thơ dùng từ “tri kỷ” trong chương trình Ngữ văn 9 là bài thơ
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy

“hồi chiến tranh ở rừng

vầng trăng thành tri kỷ.”

Câu 3: Xét theo cấu trúc ngữ pháp, câu thơ cuối đoạn thuộc kiểu câu đặc biệt. Câu thơ tuy chỉ có
hai từ nhưng đã trở thành bản lề gắn kết cả bài thơ. Hai tiếng “đồng chí” đứng tách riêng thành
một dòng thơ đặc biệt như một kết luận, một phát hiện, một điểm nhấn về một thứ tình cảm mới
mẻ, thiêng liêng, vô cùng cao đẹp – tình đồng chí. Đến đây, ta hiểu rằng đồng cảnh, đồng ngũ,
đồng nhiệm, đồng cảm sẽ trở thành đồng chí. Đồng chí – chính là sự kết tinh giữa tình bạn và
tình người.

Câu 4: Cơ sở tạo thành tình đồng chí keo sơn của những người lính Cách mạng

LĐ1 - Trước tiên, tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Hai câu thơ đầu tiên, tác giả sử dụng nghệ thuật đối “quê hương anh” – ‘làng tôi”, “nước mặn,
đồng chua” – “đất cày lên sỏi đá”, gợi lên sự tương đồng về quê hương của những người lính.
Thành ngữ “nước mặn đồng chua”: gợi lên một miền đất nắng gió ven biển, đất đai bị nhiễm
phèn, nhiễm mặn, rất khó trồng trọt. Cái đói, cái nghèo như manh nha từ trong làn nước. Còn
cụm từ “đất cày lên sỏi đá” lại gợi lên trong lòng người đọc về một vùng đồi núi, trung du đất đai
cằn cỗi, khó canh tác. Cái đói, cái nghèo như ăn sâu vào trong lòng đất. Lời thơ mộc mạc, giản
dị, chân thành đã cho thấy những người lính, họ đều xuất thân từ những người nông dân chân
lấm tay bùn, vất vả và nghèo khó. Các anh tuy có khác nhau về địa giới, người miền xuôi, kẻ
miền ngược thì cũng giống nhau ở cái nghèo, cái khổ. Chính sự tương đồng về cảnh ngộ, sự
đồng cảm giai cấp là sợi dây tình cảm nối họ lại với nhau, là cơ sở ban đầu để hình thành trong
họ tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn.

LĐ2 – Cùng chung chí hướng, lí tưởng cách mạng cao đẹp.

+ “tôi“, “anh” đã chung trong một dòng thơ.

+ Nhà thơ không nói “hai người xa lạ” mà là “đôi người xa lạ“!

– Câu thơ “súng bên súng, đầu sát bên đầu” có sự đối ứng chặt chẽ:

+ “Súng bên súng”: là cách nói giàu hình tượng …

+ “Đầu sát bên đầu”: là cách nói hoán dụ …

Không chỉ tương đồng về hoàn cảnh xuất thân, từ những con người vốn chẳng hề thân quen, nay
cùng chung lí tưởng cách mạng mà gặp gỡ, từ đó mà làm nên tình đồng chí.

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.


Nếu trong 2 câu thơ mở đầu, “tôi“, “anh” đứng ở 2 vị trí độc lập, tách rời thì đến 2 câu thơ này,
“tôi“, “anh” đã chung trong một dòng thơ. Nhà thơ không nói “hai người xa lạ” mà là “đôi người
xa lạ“! Vì thế ý thơ được nhấn mạnh, mở rộng thêm. Đôi có nghĩa là sự gắn bó chặt chẽ, keo sơn,
thắm thiết. Dùng từ đôi, Chính Hữu đã muốn khẳng định tình thân gắn bó không thể tách dời
giữa những người lính chiến sĩ.

Câu thơ “súng bên súng, đầu sát bên đầu” có sự đối ứng chặt chẽ: “Súng bên súng”: là cách nói
giàu hình tượng để diễn tả sự cùng nhau kề vai sát cánh đi bên nhau trong chiến đấu; cùng chung
mục tiêu, cùng chung nhiệm vụ. “Đầu sát bên đầu”: là cách nói hoán dụ tượng trưng cho ý chí,
quyết tâm chiến đấu của những người lính trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.

Câu thơ chia làm 2 vế tiểu đối đã làm nổi bật hình ảnh những người đồng đội luôn sát cánh bên
nhau.

LĐ3 – Cùng trải qua, chia sẻ những khó khăn, thiếu thốn.

Trong cuộc sống nơi chiến trường, họ cùng trải qua những khó khăn, thiếu thốn. Đó cũng là cơ
sở để những người lính thể hiện tình đồng chí đồng đội gắn bó “Đêm rét chung chăn thành đôi tri
kỉ”.

Cuộc sống chiến đấu đã gắn kết những người chiến sĩ. Hai dòng chữ chỉ có một chữ chung mà
cái chung đã bao trùm lên tất cả. Câu thơ đã gợi lên một hình ảnh đẹp đong đầy những kỉ niệm.
Họ cùng nhau chia sẻ vui buồn. Họ kể cho nhau nghe về bản thân mình. Họ cùng truyền cho
nhau hơi ấm tình đồng đội… Và nếu như “anh với tôi” vẫn còn có một chút khoảng cách thì đến
bây giờ, khi “đêm rét chung chăn“, mọi khoảng cách đã không còn.

-> Tất cả những hành động và tình cảm chân thành ấy đã làm nên những người bạn “tri kỉ” tri âm
mà cao hơn là tình đồng chí, đồng đội bền chặt, thiêng liêng.

– Lời gọi “ đồng chí”

+ Câu thơ vang lên như một phát hiện…

+ Thể hiện cảm xúc dồn nén

+ Dòng thơ như một bản lề gắn kết. Khép lại đoạn thơ là một câu thơ có vị trí rất đặc biệt, được
cấu tạo bởi hai từ: “ đồng chí!”.

Câu thơ vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một định nghĩa về đồng chí. Thể hiện
cảm xúc dồn nén, được thốt ra như một cao trào của cảm xúc. Trở thành tiếng gọi thiết tha của
tình đòng chí, đồng đội. Dòng thơ đặc biệt ấy như một bản lề gắn kết. Nó nâng cao ý thơ đoạn
trước và mở ra ý thơ đoạn sau. Dấu chấm cảm đi kèm hai tiếng ấy bỗng như chất chứa bao trìu
mến yêu thương.
*Mở rộng

– Nghệ thuật: Với giọng điệu tâm tình, thiết tha; lời thơ giản dị, nồng ấm. Đoạn thơ đã đi sâu
khám phá, lí giải cơ sở của tình đồng chí. Đồng thời tác giả đã cho thấy sự biến đổi kì diệu từ
những người nông dân hoàn toàn xa lạ trở thành những người đồng chí đồng, đội sống chết có
nhau. Tình đồng chí, đồng đội nảy nở và bền chặt trong sự chan hoà, chia sẻ mọi gian lao cũng
như những niềm vui, nỗi buồn. Đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt. Những người
đồng chí, đồng đội, sống gắn bó bên nhau.

ĐỀ 4

Câu 1:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ

Đồng chí!”

- Hoàn cảnh sáng tác: “Đồng chí” sáng tác năm 1948 - thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống
Pháp, khi tác giả cùng đồng đội vừa tham gia chiến dịch Việt Bắc (thu - đông 1947). In trong tập
“Đầu súng trăng treo”

Câu 2: Theo em, cách hiểu này chưa thể hiện hết ý của nhan đề mà tác giả thể hiện. Bởi “đồng”
là cùng, “chí”: chí hướng => “đồng chí” là người chung chí hướng, ca ngợi tình đồng chí, ca
ngợi vẻ đẹp của anh lính cụ Hồ.

Câu 3: Thành ngữ có trong đoạn thơ trên: “nước mặn đồng chua” => gợi ra vùng quê ven biển
những phèn nhiễm mặn, không thể canh tác nông nghiệp được, từ đó khắc họa hoàn cảnh nghèo
khó, gian khổ ở quê nhà của người lính.

Câu 4:
Câu mở đầu: Đoạn trích bảy câu thơ đầu của bài thơ “Đồng chí” đã gợi ra được tình
cảnh khó khăn, cũng như là tình cảm gắn bó sẻ chia của những người lính; từ đó nhấn mạnh
được tinh thần đoàn kết của những người lính trong chiến tranh. Điều này cũng gợi cho em nhiều
suy nghĩ về tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trong đại dịch COVID vừa qua.

1 Giải thích: Tinh thần đoàn kết là việc con người trong một tổ chức, một tập thể cùng hướng
đến một mục tiêu, một lí tưởng và nỗ lực hết sức để thực hiện mục tiêu chung ấy. Bên cạnh đó,
tinh thần đoàn kết còn là tình yêu thương giữa con người với con người, sẵn sàng đồng cảm, chia
sẻ, thấu hiểu và giúp đỡ người khác khi người ta gặp khó khăn

2. Biểu hiện: Ngay từ khi nước ta có ca nhiễm đầu tiên cho đến thời điểm số người nhiễm bệnh
lên tới hàng chục, hàng trăm người. Từ các cấp chính quyền đến người dân đều thể hiện được
tinh thần đoàn kết một lòng. Những quy định nghiêm ngặt của Nhà nước về việc phòng chống
dịch bệnh lập tức được ban hành. Những người dân từ người già đến trẻ nhỏ đều nghiêm chỉnh
chấp hành các quy định: như đeo khẩu trang khi đi đến nơi công cộng, thường xuyên rửa tay
bằng nước sát khuẩn, hạn chế đi ra nơi đông người… Đặc biệt, trong thời điểm cả nước thực hiện
giãn cách xã hội, toàn dân đều nghiêm chỉnh chấp hành. Nhiều bác sĩ dù còn trẻ hay đã về hưu
đều sẵn sàng xung phong lên tuyến đầu chống dịch, thậm chí còn có cả những sinh viên của
ngành y cũng sẵn sàng giúp sức. Những cây ATM gạo, ATM khẩu trang hay địa điểm phát thực
phẩm miễn phí… được tạo ra không chỉ chứng tỏ tấm lòng tương thân tương ái mà còn là sự
đoàn kết của toàn dân quyết đẩy lùi đại dịch

3. Ý nghĩa:

- Trong vòng chưa đầy 2 năm, nước ta đã đẩy lùi được dịch bệnh;

- Tinh thần đoàn kết gắn kết mối quan hệ giữa con người với con người;

4. Phản đề:

- Tuy nhiên, trái ngược với những người đang cố gắng đồng lòng, đoàn kết để đẩy lùi dịch bệnh
COVID thì cũng có những người đi ngược lại với số đông, sống ích kỷ: không tuân thủ quy định
Nhà nước đề ra (trong thời điểm dịch bệnh căng thẳng thì vẫn đi ra khổi nhà, không đeo khẩu
trang, tụ tập đông người,…); nhân cơ hội dịch bệnh, hàng hóa khan hiếm để nâng giá sản phẩm
(nâng giá khẩu trang…)

- Nếu không có tinh thần đoàn kết, nước ta sẽ không thể vượt qua được đại dịch, số lượng người
nhiễm dịch và tử vong càng nhiều thêm…

5. Liên hệ bản thân

- Không chỉ trong thời điểm dịch bệnh mà trong bất cứ thời điểm nào thì đoàn kết vẫn là một yếu
tố quan trọng để phát triển xã hội, phát triển con người, vì thế, em vẫn luôn cố gắng trau dồi bản
thân, gắn kết mối quan hệ với mọi người và giúp đỡ những người xung quanh.

You might also like