You are on page 1of 5

ĐỀ: Phân tích hình ảnh người lính/tình đồng chí trong tác phẩm “Đồng chí” của

Chính Hữu.

Mở: Nguyễn Đình Thi trong bài tiểu luận “Tiếng nói của văn
nghệ từng nhận định: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng được xây
dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không
những ghi lại những cái đã có rồi mà vẫn muốn nói một điều gì đó
mới mẻ.” Và phải chăng, người nghệ sĩ trên trang thơ Chính Hữu
cũng đã thổi vào kho thơ Việt Nam thời kỳ kháng chiến một làn
gió mới mẻ về (tình đồng chí/hình ảnh người lính) qua tác phẩm “Đồng chí”. Thi phẩm đã gợi nên vẻ
đẹp bình dị cao cả của người lính cách mạng, anh vệ quốc quân và tình đồng chí, đồng đội thiêng
liêng, thắm thiết của họ. (Trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, tình cảm đó thật cảm động, đẹp
đẽ.)/(Là bức chân dung về những chiến sĩ cụ Hồ)

Tổng: - Thi phẩm được viết vào khoảng đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội của mình tham gia
chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947. Với cái nhìn chân thực của người lính – người trong cuộc, người
trực tiếp cầm súng ra mặt trận, Chính Hữu đã khắc họa thành công vẻ đẹp sống động từ hoàn cảnh
xuất thân đến tâm hồn và ý chí nghị lực mạnh mẽ, dũng cảm, chan chứa tình đồng chí của người lính
cách mạng.

Khổ 1: Những người đồng đội ấy thường là những người “nông dân mặc áo lính”. Điểm chung về
cảnh ngộ xuất thân giúp họ dễ dàng gần gũi, đồng cảm với nhau:

Quê hương anh nước mặn, đồng chua


Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

- Hai câu thơ sánh đôi với những thành ngữ “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” đã cho
thấy xuất thân của những người lính. “Anh và tôi” đến từ những vùng quê khác nhau, chỉ giống nhau
cái nghèo khó của đất đai, đồng ruộng:
+ anh từ miền quê ven biển: “nước mặn đồng chua” – nơi đất xấu, khó trồng trọt, cày cấy,
+ tôi từ vùng đất cao khô cằn “cày lên sỏi đá” không thuận tiện cho công việc nhà nông. -
Trong câu thơ đầu chỉ nhắc đến “anh”, trong câu thơ thứ hai chỉ nhắc đến “tôi”, sang câu thơ thứ ba,
“anh với tôi” đã xích lại gần nhau. Hai người xa lạ, từ hai phương trời xa lạ trở thành tri kỉ vì cùng
chung mục đích, lí tưởng:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Những người “nông dân mặc áo lính” ấy gặp nhau trong cuộc chiến đấu vì tổ quốc thân yêu. Họ
cùng đứng trong hàng ngũ những người lính cụ Hồ. Sự nghiệp chung của dân tộc đã xoá bỏ mọi
khoảng cách xa lạ về không gian sinh sống của mỗi người.

- Từ khắp mọi miền của Tổ quốc, vì cùng chung mục đích, lý tưởng, những người nông dân đã tập hợp
lại trong hàng ngũ quân đội cách mạng. Sự nghiệp chung của dân tộc đã xoá bỏ mọi khoảng cách xa
lạ về không gian sinh sống của mỗi người.
- “Súng bên súng” là chung chiến đấu, chung kẻ thù;
- “đầu sát bên đầu” thì chung rất nhiều: “không chỉ là gần nhau về không gian mà còn chung
nhau ý nghĩ, lí tưởng” (Trần Đình Sử). Đến khi đắp chung chăn trong đêm giá rét thì họ đã thực sự là
anh em một nhà, chan hòa, chia sẻ với nhau mọi gian lao cũng như niềm vui.
- Nhà thơ Tố Hữu từng viết: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” để thể hiện tình kháng chiến gắn
bó, bền chặt. Nói về sự gần gũi, sẻ chia, về cái thân tình ấm áp không gì hơn là hình ảnh đắp chăn
chung. Như thế, tình đồng chí đã bắt nguồn từ cơ sở một tình tri kỉ sâu sắc, từ những cái chung giữa
“anh” và “tôi”.
- Với từ “tri kỉ”, câu thơ tuy nói đến cái rét buốt của rừng đêm nhưng người đọc lại thấy tỏa ra từ đó
hơi ấm của tình đồng đội. Cái rét đã kéo xích những người lính lại gần nhau hơn. Để rồi từ đó câu thơ
thứ bảy bật ra chỉ gồm hai tiếng:
Đồng chí
- Câu thơ là một câu cảm thán chỉ vỏn vẹn hai âm tiết với một dấu chấm than làm sáng lên ý nghĩa
của cả đoạn thơ cũng như bài thơ. Nếu không kể nhan đề thì đây là lần duy nhất hai tiếng “đồng chí”
xuất hiện trong bài thơ, lại còn làm thành riêng một câu thơ. Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố
cục của toàn bài. Nó đánh dấu một mốc mới trong mạch cảm xúc và bao hàm những ý nghĩa sâu
xa.
- Đồng chí nghĩa là không chỉ có sự gắn bó thân tình mà còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những
người đồng chí - chiến sĩ hoà mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc. Gọi nhau là đồng chí thì
bên cạnh tư cách những con người cụ thể, những cá thể, họ còn có tư cách quân nhân, tư cách của
“một cây” trong sự giao kết của “rừng cây”, nghĩa là từng người không chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng
chí vừa giản dị, thân mật lại vừa cao quý, lớn lao là vì thế. Nó vang lên đầy mến thương, trân trọng như
một sự phát hiện, một lời khẳng định về tình đồng đội. Đồng chí:
+ đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng và niềm nhớ thương quê hương của nhau.
+đó là cùng nhau chia sẻ những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính và sát cánh bên nhau,
động viên nhau vượt qua mọi khó khăn.

Khổ 2: Biểu hiện của tình đồng chí + ý nghịa sức mạnh từ tình cảm ấy
Hai con người xa lạ, từ hai phương trời xa lạ đã nghe theo sự thúc giục của con tim và tiếng gọi của
lòng yêu nước mà bỏ lại sau lưng những gì quý giá, thân thiết của cuộc sống nơi làng quê để ra đi vì
nghĩa lớn:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

- Trong nỗi nhớ quê hương ấy có nỗi nhớ ruộng nương, nhớ ngôi nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Đồng
thời ruộng nương cũng như nhớ tay ai cày xới, ngôi nhà nhớ người trong lúc gió lung lay, và giếng nước,
gốc đa cũng thầm nhớ người ra đi.
- Dù người lính không trực tiếp bày tỏ nhưng ta có thể hiểu nỗi nhớ ở đây là nỗi nhớ hai chiều. Nói
“giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính” cũng là thổ lộ nỗi nhớ cồn cào về giếng nước, gốc đa. “Giếng
nước, gốc đa” không phải là những vật vô tri vô giác mà là hình ảnh nhân hoá, hoán dụ, chỉ quê
hương, chỉ người thân nơi hậu phương. Tình quê hương luôn thường trực, đậm sâu trong người lính,
tình cảm ấy tạo nên sự đồng cảm giữa những người đồng đội.
- Trong đoạn thơ có từ “mặc kệ”, thoạt nghe thì tưởng từ này chỉ thái độ dửng dưng, vô trách nhiệm của
người lính với quê nhà, song thực ra không phải vậy. Ở đây từ “mặc kệ” mang một ý nghĩa hoàn toàn
khác: chỉ thái độ ra đi một cách dứt khoát, không vướng bận, cũng là thể hiện một sự hy sinh lớn,
một trách nhiệm lớn với non sông đất nước.
- Những người lính chung nhau bao nỗi niềm thương nhớ, không chỉ vậy họ còn chung nhau những
gian nan đời lính:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

- Kể sao xiết những gian khổ mà người lính phải trải


qua trong chiến đấu.
- Tác giả đã rất tài tình khi dùng những câu thơ
sóng đôi, đối ứng nhau (“Áo anh...”, “Quần tôi...”) để
thể hiện cái buốt giá của núi rừng Việt Bắc, cái ớn lạnh
toát mồ hôi của bệnh sốt rét. Để chống chọi lại cái rét
ấy, người lính chỉ có “áo rách”, “quần vá” và “đôi chân
không giày”. May làm sao họ còn có tình đồng đội gắn bó. Chính cái rét, cái ác nghiệt của sốt rét đã
làm nổi bật tình đồng đội, đồng chí trong gian khổ và sự thấu hiểu, cảm thông giữa họ. Trong bất cứ
khó khăn nào họ cũng sát cánh bên nhau, san sẻ cho nhau.
- Cái "Miệng cười buốt giá" kia là cái cười trong gian khổ để vượt lên gian khổ, cười trong buốt giá để
lòng ấm lên, cũng là cái cười đầy cảm thông giữa những người đồng đội. Hình ảnh ấy vượt qua cái khắc
nghiệt của chiến trường để đọng lại trong ta một ấn tượng thật đẹp về tinh thần lạc quan, về khí phách
anh hùng, về sức chịu đựng bền bỉ, về sự hy sinh âm thầm của người chiến sĩ. Nó gợi cho ta nhớ đến cái
cười âm vang cả Trường Sơn của những người lính lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật: “Nhìn nhau
mặt lấm cười ha ha”. Người lính có thể thiếu thốn về vật chất nhưng không hề thiếu thốn về tinh thần.
- Câu thơ “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” vừa nói lên tình cảm sâu nặng gắn bó của những
người lính vừa gián tiếp thể hiện sức mạnh của tình cảm ấy. Nếu như trong thơ Phạm Tiến Duật,
người lính “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” để gần nhau hơn trên chặng đường dài thì với Chính Hữu,
cái nắm tay đầy tình thương kia là biểu tượng cao đẹp, nồng ấm và thiêng liêng nhất của tình đồng chí.
Chính nhờ sự yêu thương đùm bọc lẫn nhau mà người lính vượt qua cuộc sống khó khăn gian khổ nơi
chiến trường. Đẹp nhất ở họ là tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, thắm thiết.

Đêm nay rừng hoang sương muối


Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu
súng trăng treo.
- Có thể xem đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính trong thơ ca kháng
chiến. Ba câu thơ phác ra một bức tranh vừa mang chất chân thực của bút pháp hiện thực, vừa thấm
đẫm cái bay bổng của bút pháp lãng mạn.
- Giữa cái tê buốt giá rét luồn vào da thịt, cái căng thẳng của trận đánh sắp tới, trên sắc xám lạnh của
nền cảnh đêm rừng hoang sương muối, hiện lên hình ảnh người lính - khẩu súng - vầng trăng.
- Có đồng đội kề cận, họ không sợ hãi kẻ thù mà hết sức chủ động, ung dung: “chờ giặc tới” – một tư
thế đầy dũng cảm, hiên ngang.

- Dưới cái nhìn của người trong cuộc, người trực tiếp đang cầm súng, trong một
sự kết hợp bất ngờ, đầu súng và vầng trăng như không còn khoảng cách xa về
không gian, để thành: “Đầu súng trăng treo”. Từ “treo” đã nối liền bầu trời
với mặt đất một cách thật bất ngờ và lý thú. Đây là hình ảnh được nhận ra từ
những đêm hành quân, phục kích của chính tác giả. Đồng thời hình ảnh ấy còn
mang ý nghĩa biểu tượng, gợi ra những liên tưởng phong phú: “súng” và
“trăng” là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chiến tranh và hòa bình, chất
chiến đấu và chất trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ,...
- Sự quan sát là hiện thực, còn sự liên tưởng trong miêu tả là lãng mạn. Hình ảnh
“đầu súng trăng treo” mang ý nghĩa khái quát về tư thế chủ động, tự tin trong chiến đấu và tâm
hồn phong phú của người lính. Nói rộng ra, hai hình ảnh tương phản sóng đôi với nhau tạo nên biểu
tượng về tinh thần, ý chí sắt đá mà bay bổng, trữ tình của dân tộc Việt Nam . của người lính nói
riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung. Nguyên cớ của sự lạc quan, của chất lãng mạn trong những
vần thơ còn là nhờ sức mạnh của tình đồng đội.
Hợp: Đề tài đồng chí dễ khô khan nhưng được Chính Hữu biểu hiện một cách cảm động, sâu lắng
nhờ biết khai thác chất thơ từ những cái bình dị của đời thường. Với những chi tiết chân thực, những từ
ngữ, hình ảnh, gợi tả, hàm súc, giàu ý nghĩa biểu tượng, bài thơ Đồng chí đã thể hiện rất rõ vẻ đẹp của
hình ảnh người lính dũng cảm, không ngại khó khăn, gian khổ.

Kết: Qủa nhiên, nhà thơ Chính Hữu đã thổi vào cánh đồng văn chương đất Việt một làn gió mới mẻ,
đầy thiết tha qua bài thơ “Đồng chí”. Đặc biệt, qua khổ thơ… của tác phẩm ta càng cảm thấy hoài niệm
về (hình ảnh người lính/tình đồng chí) trong thời kỳ của văn học chống Pháp – thời ky vàng son của dân
tộc đã có Chính Hữu viết nên những trang thơ sống mãi với thời gian.
Sđt: Email:
0908071282 nga.pham@lehongphong.edu.vn

You might also like