You are on page 1of 5

Đồng chí

Chính Hữu là một trong những nhà thơ xuất sắc trưởng thành trong thời kì kháng
chiến chống Pháp. Trong số những tác phẩm của ông, có một bài thơ đã gây nên tiếng
vang lớn trong lòng độc giả, bởi những xúc cảm dạt dào, chân thực giữa những người
lính, những người đồng đội. Đó là bài thơ Đồng chí. Qua những vần thơ bình dị, bài
thơ đã thể hiện tình cảm gắn bó, tình đồng đội giữa những người chiến sĩ và ngợi ca
tình cảm cao đẹp ấy.
Có những tình cảm thật đẹp trong kháng chiến, nó không chỉ là tình thân gia đình, tình
yêu mà còn là tình đồng chí. Đó là tình cảm của những người có xuất thân giống nhau,
ngày đêm cùng nhau chiến đấu. Bài thơ Đồng chí ca ngợi tình đồng đội gian khổ, vào
sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh
giặc trong những năm đầu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp
Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Đây là câu thơ giới thiệu về quê hương của những người chiến sĩ. cách xưng hô “anh -
tôi” thân mật gần gũi đã thể hiện sự tương đồng về hoàn cảnh của những người lính.
Thành ngữ nước mặn đồng chua gọi tả vùng đất ven biển chiêm trũng, đất đai nhiễm
phèn, nhiễm mặn. Còn nước mặn đồng chua là hình ảnh gợi tả đất cày lên sỏi đá. Gọi
ta vùng đất miền núi trung du, đất toàn phải đã phải rất khó làm ăn. Hai vùng đất đó thì
cách xa nhau về mặt địa lý nhưng đều có một điểm chung là những vùng quê nghèo
khó. Đó là những người chiến sĩ xuất thân từ những vùng quê nghèo khó, họ có chung
giai cấp phải đều là những người nông dân nghèo.Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành,
đối xứng làm hiện lên hai "gương mặt" người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng
nhau. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết
Mượn tục ngữ. thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của mình,
Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn người
trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc
làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.

Anh với tôi đôi người xa lạ - Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau"
Anh với tôi cùng có lòng yêu nước, lên chiến khu Việt Bắc tham gia vào đội quân cách
mạng., Bác cả tháng mới gặp gỡ của tình yêu đất nước. Chính tình yêu đất nước đã
biến họ từ những con người xa lạ lại những người quen nhau Vì sống trong cùng một
đơn vị.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kie
Hình ảnh thơ có sự sống đôi gọi lên tình gắn bó của những người chung một đội ngũ,
chung lý tưởng cao cả. Hình ảnh súng bên súng, đầu sát bên đầu gợi tả lại những giây
phút luyện tập, chiến đấu của những người chiến sĩ. Những khẩu súng sát bên nhau,
những mái đầu cũng sát bên nhau. Câu thơ được ngắt làm hai vĩ tương xứng với nhau,
gợi ra những liên tưởng, súng bên súng là chung nhiệm vụ chiến đấu, đầu sát bên đầu
là chung lý tưởng cách mạng. Còn đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ là Trung những
gian khổ, khó khăn của cuộc đời người lính. Tình cảm giữa những người chiến sĩ cũng
danh này nọ và ngày càng bền chặt. Câu thơ đầy ấp kỷ niệm và ấm áp tình thân hữu
tình tri kỷ. Những hình ảnh thơ ở đây và cụ thể, sinh động, vừa mang ý nghĩa khái quát
gợi liên tưởng sâu sa. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ Bên sát sát,
chung, thành đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỷ, tình đồng chí
Từ Tự xứng đôi của anh và tôi trong từng dòng thơ đến sự gần gũi anh với tôi trong
một dòng thơ và đến thành một đôi đến đôi người xa lạ rồi mới thành đôi tri kỷ đôi bạn
chí cốt, hiểu nhau sâu sắc và cao hơn nữa là đồng chí.
Đồng chí
Câu thơ thứ bẩy chỉ có hai tiếng đồng chí công, một dấu! Tạo nên một câu đặc biệt tạo
một nốt nhấn. Câu thơ ấy đó chính là tiếng gọi thiêng liêng, thiết tha, xúc động phải
được cất lên từ trong sâu thẳm trái tim và những người chiến sĩ. Đồng chí không chỉ là
cùng chung một ý chí, mà còn là sự kết tinh của tình bạn tình người. Hai tiếng đồng
chí khái quát lại nội dung của sáu câu thơ mở đầu, đồng thời mở ra những biểu hiện
của tình đồng chí ở những câu thơ tiếp theo. Hai tiếng đồng chí mang nội dung tư
tưởng của toàn bài, là nhan đề của bài thơ. Đây chính là điểm nhấn nghệ thuật quan
trọng của bài thơ này. Cô thơ ấy như vừa như một bản lề gắn kết hai đoạn thơ, làm nổi
rõ một tất yếu: cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng lý tưởng thì trở thành đồng chí của
nhau và mở ra ý tiếp, đồng chí còn là như thế nào nữa. Năm câu thơ trên nói lên một
quá trình thương mến, từ đôi người xa lạ rồi thành đôi tri kỷ, về sau cái thành đồng
chí. Câu thơ biển hóa 7,8 rồi rút lại, nens xuống hai từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại,
nén chặt lại
Tình đồng chí của những người lính cách mạng dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ
và lí tưởng chiến đấu được thể hiện thật tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn
cảnh, nó góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của những người
lính các mạng,
Bài thơ ''Đồng chí'' của Chính Hữu thể hiện hình tượng người lính cách mạng và sự
gắn bó keo sơn của họ thông qua những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực,
cô đọng, giàu sức biểu cảm.
Chúng ta đã cảm nhận được mối tình đồng chí đậm đà ấy qua những lời thơ nhẹ nhàng
tha thiết như bài hát tâm tình của Chính Hữu. với ngôn ngữ chân thực, hình ảnh lãng
mạn, nụ cười ngạo nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình
đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày
mai hay mãi mãi về sau.

Ba câu thơ tiếp theo nói lên hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ: nhớ ruộng
nương, những gian nhà, nhớ giữ nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết một tình
quê vơi đầy:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày gian nhà không mặc kệ gió lung lay giếng nước
gốc đa nhớ người ra lính
Ba câu thơ chỉ nói về anh, về bác bởi vì họ cùng chung hoàn cảnh, chung nỗi niềm
chung nỗi niềm, đó cũng là tình tri kỷ, hiểu bạn như hiểu mình. Giếng nước gốc đa là
hình ảnh thân thương của làng quê được lợi nhiều trong ca dao xưa., Được chính hữu
vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gọi nhiều, thấm thía. Người lính ra đi
chiến đấu để lại những gì quý giá, thân thiết nhất nơi làng quê. Ha Gian nhà không ở
đây chính là gợi tả cái nghèo nàn, xơ xác, khó khăn, gợi tả sự trống vắng khi không
còn trụ cột nữa, vừa gợi cái trống trải trong lòng người ở lại khi người đàn ông ra trận.
Họ, những người nông dân, những chiến sĩ đã hy sinh tình cảm riêng tư để ra đi vì tổ
quốc, vì đất nước. Chôn sâu trong lòng những trăn trở, những băn khoăn day dứt với
quê hương xóm làng. Đối với chúng ta thì nhà, ruộng vườn của cải đóng vai trò rất
quan trọng nhưng những người lính lại có một quan niệm khác biệt: “ruộng nương” thì
gửi “bạn thân cày”, “gian nhà không” thì kệ “gió lung lay”. “Anh” lên đường ra mặt
trận để lại sau lưng tất cả mọi thứ cả vật chất lẫn tình thương. Trong câu thơ có từ
"mặc kệ” tưởng chừng những người lính vô tâm không nghĩ nhưng thật ra đó là sự
quyết ra đi, thể hiện thái độ dứt khoát của người lính khi ra đi chiến đấu, mang dáng
dấp trượng phu, nhưng vẫn nặng lòng gắn bó với quê hương. Họ hy sinh quyền lợi cá
nhân vì lợi ích của cả một dân tộc, để cả cơ nghiệp của mình khoảng trống mà ra đi.
Hiểu rõ lòng nhau và hiểu cả nỗi niềm của người thân của nhau nơi hậu phương là tình
tri kỷ. Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính là một cách nói tế nhị và dầu sức gợi, vừa
là nhân hóa vừa là hoán dụ, Gợi tả hình ảnh những người thân yêu đang ở tại quê nhà
đang nhớ về các anh, luôn nhớ, luôn mong chò các anh ở lại, Đang ngày đêm theo dõi
bóng hình anh trai cày ra trận. Người ra đi những người ở lại, người ở hậu phương
những người nơi tiền tuyến. Nỗi nhớ hai chiều nên càng thiết tha da diết sâu nặng. Đó
quả là sự hy sinh quá lớn lao, nó cần được thấu hiểu và sẻ chia, dường như nỗi lòng
của “anh” cũng là tâm sự bấy lâu của “tôi”. Anh và tôi cũng nhau dốc bầu tâm sự để
vơi nỗi lòng. Tình cảm với quê hương chính là cội nguồn sức mạnh. Giúp các anh vượt
qua được những gian khổ khó khăn để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.
Những câu thơ tiếp theo là hình ảnh cùng nhau trải qua những gian khổ khó khăn của
những người đồng chí. Trong đời thường, người lính đã gần bò với nhau phải trong
chiến đấu họ càng trở nên gắn bó hơn. Chia sẻ mọi tâm tư nỗi niềm để cùng chia sẻ
những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính biết bao gian khổ:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh sốt run người vầng trán ướt mồ hôi. Các từ ngữ gọi
tả ớn lạnh, sốt, run người gọi tả chân thực căn bệnh sốt rét rừng hành hạ các anh. Vì
thiếu thuốc men nên bệnh càng lâu khỏi. Đây là hoàn cảnh chung của bộ đội ta những
năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ biết chỉ sự nếm trải nỗi khổ của bệnh tật
mang lại, cùng chung chịu gian nan thử thách. Thế nên họ thấu hiểu, đồng cảm với
nhau
Áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá chân không giày.
Tác giả sử dụng nghệ thuật liệt kê, sử dụng những hình ảnh chân thực, cảm động gọi là
sự thiếu thốn về trang phục của các anh. Cặp từ anh tôi đi liền với nhau gọi cả sự gắn
bó, đồng cảm, sẻ chia.
Miệng cười buốt giá. Tình đồng chí cho họ sức mạnh để vượt lên sự bút giá. Hình ảnh
gợi lên hoàn cảnh thiên nhiên, thời tiết khắc nghiệt nhưng các anh vẫn lạc quan, yêu
đời. Họ cười họ nắm lấy tay nhau cùng nhau cố gắng: "thương nhau tay nắm lấy bàn
tay”. Họ nắm chặt lấy tay nhau, thể hiện sự đoàn kết, gắn bó yêu thương. Nắm lấy bàn
tay nhau để ấm đôi bàn chân, để vượt lên gian khổ khó khăn. Những bàn tay như biết
nói. Đó chính là cách thể hiện tình cảm rất mộc mạc, giản dị nhưng chân thành và sâu
sắc của những người lính trong cuộc kháng chiến. Họ gắn bó với nhau để có thêm sức
mạnh, niềm tin, hướng tới lý tưởng cao đẹp. Và đó là tình cảm gắn bó sâu giày suất
trường kỳ kháng chiến.
Nhiệm vụ chủ yếu của của người lính là đánh giặc, vì vậy tình đồng chí cao đẹp nhất là
tình gắn bó thiêng liêng nơi tiền tuyến đầu chống giặc, nơi sự sống và cái chết kề nhau
trong tích tắc. Tình đồng chí đã được tôi luyện trong thử thách gian lao ở đây là thử
thách lớn nhất.: Đêm nay rừng hoang sương muối
Đó chính là hoàn cảnh chiến đấu của những người chiến sĩ. Tác giả sử dụng nghệ thuật
liệt kê làm nổi bật khung cảnh thiên nhiên, thời tiết khắc nghiệt với những khó khăn
chồng chất. Trong cảnh đêm khuya thanh vắng của núi rừng sâu hút, những màn
sương lạnh lẽo giăng đầy cỏ cây, hoa lá, vương trên áo của người lính. Đó là phong
nền để làm nổi bật hình ảnh người lính và tình đồng chí, đồng đội của họ.
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới. Tự đứng ở đây diễn tả tư thế chủ động, sẵn sàng,
chiến đấu. Cụm từ cạnh bên nhau gợi tả sự gắn bó thân thiết đến mức không thể tắt rồi.
các anh đứng cạnh bên nhau, lặng lẽ chờ địch, không một tiếng nói nhưng bên trong
đó là sự đoàn kết, đồng lòng, cùng nhau chủ động làm nhiệm vụ không màng nguy
hiểm, bất chấp sự khắc nhiệt của thời tiết. Điều đó trở thành biểu tượng cao đẹp nhất
của tình đồng chí, sống chết cũng ở bên nhau, có nhau, không thể tách rời, cùng quyết
tâm, chiến đấu và tiêu diệt kẻ thù., Tạo nên sức mạnh để chiến thắng kẻ thù.
Đầu súng trăng treo
Câu thơ như điểm nhấn làm sáng cả bài thơ. Đây là hình ảnh thực, được phát hiện
trong những đêm phục kích chờ giặc. Câu thơ không trực tiếp nói về những người
đồng chí mà vẫn thể hiện tình đồng chí. Rất thực mà cũng rất lãng mạn. Trang chu trên
nền trời, nhìn lên, trăng như treo trên đầu Ngọn súng. Hình ảnh này có nguồn gốc thực
tế: ban đêm đến một thời điểm nào đó, nhìn lên bầu trời, trăng như treo trên đầu súng.
Nhịp 22 gọi sự sóng sóng đôi và như gợi sự bát ngát, lơ lửng, chứ không cột chặt.
Súng và trăng cũng là một cặp đồng chí, tô đậm vẻ đẹp của các đồng chí kia. Tình
đồng chí khiến người lính vẫn bình thản lãng mạn bên thềm cuộc chiến đấu, Khiến họ
thấy cuộc đời vẫn đẹp, thơ mộng ngay giữa nguy hiểm, gian lao, khiến họ có sức mạnh
trong tư thế, có sự đảm thẳm trong tâm hồn tình cảm. Hình ảnh thư ở đây dầu sức khái
quát, gợi lên nhiều liên tưởng. Súng là hình ảnh của chiến tranh, khói lửa. Trăng hình
ảnh của thiên nhiên trong mát cuộc sống thanh bình. Súng và trăng là gần và xa.
Xuống là hiện thực, chắc là lãng mạn. Súng là biểu hiện cho trước chiến sĩ chất chiến
sĩ, trăng là tâm hồn thi nhân. Sự hòa hợp giữa súng và trăng vừa toát lên vẻ đẹp tâm
hồn người lính và tình đồng chí của họ, vừa nói lên ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến
đấu. Người lính cầm súng là để bảo vệ độc lập, tự do, Hòa Bình, hạnh phúc. Súng và
trăng, thực và mộng, cứng rắn và dịu hiền, chiến sĩ và thi sĩ, chất chiến đấu và chất trữ
tình. Đó là các mặt bổ sung cho nhau của cuộc đời người lính cách mạng. Tác giả
chính hữu đã lấy câu thơ này để làm nhanh để cho tập thơ đầu tay của mình. Những
người lính đã trải qua những gian lao, thiếu thốn tột cùng: những cơn sốt rét run người,
trang phục phong phanh giữa mùa đông buốt giá, những gian lao thiếu thốn càng làm
sáng lên nụ cười của họ. Thế nhưng, đẹp nhất ở họ là tình đồng chí, đồng đội keo sơn,
thắm thiết. Tình đồng chí sự ấm lòng người chiến sĩ phải tiếp cho họ sức mạnh để vượt
lên tất cả, chiến đấu và chiến thắng. Hình ảnh người lính và tình đồng chí của họ kết
tinh và tỏa sáng trong đoạn cuối bài thơ. Tình đồng chí suất phát từ tình yêu nước và
cuội nguồn của chiến thắng, kết tinh của những tình cảm xã hội cao đẹp, làm nên vẻ
đẹp tâm hồn của người chiến sĩ. Đó cũng là truyền thống tốt đẹp của quân đội ta.

You might also like