You are on page 1of 10

Phân tích bài thơ Đồng chí – Chính Hữu

Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng những gam màu
hiện thực. Văn chương không bao giờ tìm đến những chốn xa hoa mĩ lệ để làm mãn nhãn người đọc,
nó tiếp cận hiện thực và tiếp nhận thứ tình cảm chân thật không giả dối. Người nghệ sĩ đã dùng cả
trái tim mình để đưa bạn đọc trở lại với đời thực để cùng lắng đọng, cùng sẻ chia. Phân tích bài thơ
Đồng Chí, Chính Hữu đã dẫn bạn đọc vào bức tranh hiện thực nơi núi rừng biên giới nhưng thấm
đẫm tình đồng chí đồng đội bằng thứ văn giản dị, mộc mạc.

Khi nhắc đến Chính Hữu, ta thường nhắc đến một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến
chống Pháp.Tác phẩm của ông thường viết về chiến tranh và hình ảnh người lính với những ngôn từ
hàm súc, giản dị. Bài thơ “Đồng chí” là một trong những bài thơ tiêu biểu và thành công nhất của
ông. Bài thơ được viết và in lần đầu trên một tờ báo đại đội ở chiến khu Việt Bắc (1948), dựa trên
những trải ngiệm của Chính Hữu cùng đồng chí đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc thu đông (1947),
đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp vào cơ quan đầu não của ta.

Bằng những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, bài thơ thể hiện ấn tượng hình ảnh người lính thời kì đầu
chống Pháp và tình đồng chí đồng đội thắm thiết, keo sơn giữa các anh.

Ngòi bút tài hoa của chính hữu cùng với những câu thơ tự do, giọng thủ thỉ tâm tình, ngôn ngữ giản
dị, một cách tự nhiên Chính hữu đã từ từ dẫn người đọc đến với cơ sở hình thành tình đồng chí:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi ngèo đất cày sỏi đá”

Hai câu đàu với cấu trúc câu thơ song hành, thành ngữ dân gian “nước mặn đồng chua”, cách nói
sáng tạo từ tục ngữ “đất cày lên sỏi đá”, giọng thơ thủ thỉ tâm tình gợi cảnh hai người lính đang ngồi
kể cho nhau nghe về quê hương mình. Đó là những vùng quê nghèo khó, lam lũ: một người ở miền
biển “nước mặn đồng chua”, một người ở miền trung du “đất cày lên sỏi đá”. Phải chăng chính
nguồn gốc xuất thân của các anh đã làm nên bệ phóng cho tình đồng chí?

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!”

Đồng hoàn cảnh, chung lý tưởng đánh giặc cứu nước, các ạnh đã tham gia đội ngũ bộ đội kháng
chiến. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì của dân tộc chính là nơi hội tụ trái tim những người
con yêu nước, đã đưa các anh từ lạ thành quen “anh với tôi đôi người xa lạ, tự phương trời chẳng hẹn
quen nhau”

Có lẽ chung cuộc sống chiến đấu gian khổ bên chiến hào vì độc lập tự do của dân tộc, đã từ khi nào
các anh trở thành tri kỉ của nhau:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Câu thơ: “súng bên súng, đầu
sát bên đầu” đã gợi lên tư thế của người lính trong đêm phục kích. Họ luôn sát cánh bên nhau trong
mọi khó khăn, nguy hiểm. “Súng bên súng” là chung nhiệm vụ, chung hành động; “đầu sát bên đầu”
là chung chí hướng, chung lý tưởng. Chính Hữu đã dùng các từ “sát, bên, chung” gợi sự chia sẻ của
người lính, ý hợp tâm giao. Hình ảnh “đêm rét chung chăn” là một hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, đã cho
ta thấy được sự sẻ chia những thiếu thốn gian lao trong cuộc đời người lính. Cũng sự sẻ chia ấy, Tố
Hữu từng viết:

“Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”

Tấm chăn tuy mỏng nhưng ấm tình đồng chí, đồng đội mà người lính không thể nào quên. Nó đã vun
đắp lên tình đồng chí của các anh, cái tình ấy ngày một thắm thiết, càng đậm sâu. Các anh giờ đây
không chỉ là tri kỉ than thiết của nhau mà đẫ trở thành những người “đồng chí”.

“Đồng chí!” Là một câu đặc biệt như một bản lề khép mở: khép lại cơ sở hình thành tình đồng chí và
mở ra biểu hiện sức mạnh của tình đồng chí. Nó như nốt nhấn trên bản đàn, buộc người đọc phải
dừng lại suy nghĩ về ý nghĩa mà nó gợi ra. Đó là tiếng gọi thiêng liêng của những người có chung
chí hướng lí tưởng vang lên từ sâu thẳm tâm hồn người lính. Tình đồng chí là đỉnh cao của tình bạn,
tình người, là kết tinh của mọi tình cảm, là cội nguồn sức mạnh để người lính vượt qua những tháng
ngày khó khăn gian khổ. Hai tiếng “đồng chí” đơn sơ mà cảm động đến nao lòng, làm bừng sang ý
nghĩa của cả đoạn thơ và bài thơ.

Mười câu thơ tiếp theo vẫn là những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, mộc mạc cho người đọc thấy
được biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.

Trải qua những khó khăn nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp các anh có được sự cảm thông,
thấu hiểu nỗi lòng, tình cảm của nhau .Những lúc ngồi cận kề bên nhau, các anh đã kể cho nhau
nghe chuyện quê nhà đầy bâng khuâng, thương nhớ:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay


Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Ba câu thơ với giọng thủ thỉ tâm tình cùng những hình ảnh giản dị quen thuộc cho thấy những người
lính vốn là những người nông dân quen chân lấm tay bùn, gắn bó với căn nhà thửa ruộng. Nhưng khi
tổ quốc cần, các anh sẵn sàng từ bỏ những gì thân thuộc nhất để ra đi làm nhiệm vụ: ruộng nương
gửi bạn thân cày, để mặc căn nhà trống trải đang cần người sửa mái “mặc kệ” vốn chỉ thái độ thờ ơ
vô tâm của con người, nhưng trong lời thơ của Chính Hữu lại thể hiện được sự quyết tâm của người
lính khi ra đi. Các anh ra đi để lại tình yêu quê hương trong tim mình, để nâng lên thành tình yêu Tổ
quốc. Đó cũng là sự quyết tâm chung của cả dân tộc, của cả thời đại. Tuy quyết tâm ra đi nhưng
trong sâu thẳm tâm hồn các anh, hình ảnh quê hương vẫn in đậm, vẫn hằn lên nỗi nhớ thân thương:
“giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình ảnh hoán dụ cũng với nghệ thuật nhân hóa, Chính Hữu
đã tạo ra nỗi nhớ hai chiều: quê hương – nơi có cha mẹ, dân làng luôn nhớ và đợi chờ các anh, các
anh – những người lính luôn hướng về quê hương với bao tình cảm sâu nặng. Có lẽ chính nỗi nhớ ấy
đã tiếp thêm cho các anh sức mạnh để các anh chiến đấu giành lại độc lập cho dân tộc.

Không chỉ thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao và niềm vui bên
chiến hào chiến đấu:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Rét run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đôi đối xứng “anh – tôi”, “áo anh – quần tôi” tạo
được sự gắn kết của những người đồng chí luôn kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ bên nhau. Trong
thiếu thốn, các anh đã cùng chia sẻ ốm đau bệnh tật, cũng trải qua những cơn sốt rét rừng ghê gớm,
cùng chia sẻ những thiếu thốn về vật chất, bằng niềm lạc quan “miệng cười buốt giá”, bằng tình yêu
thương gắn bó “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hình ảnh “miệng cười buốt giá” gợi nụ cười lạc
quan bừng lên trong giá lạnh xua tan đi sự khắc nghiệt của chiến trường. Các anh nắm tay nhau để
chuyền cho nhau hơi ấm, để động viên nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Thật hiếm khi thấy cái bắt
tay nào nồng hậu đến vậy!

Chính Hữu bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ngay giữa một hoàn
cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa núi rừng biên giới trong đêm khuya:
“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận đánh giành thắng
lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một đêm đã đi vào lịch sử khiến người lính
không thể nào quên. Các anh phục kích chủ động chờ giặc trong hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: “rừng
hoang sương muối”

“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi hộp căng thẳng khi
ranh giới của sự sống cái chết rất mong manh. Từ “chờ” đã thể hiện được tư thế chủ động của người
lính trong đêm phục kích cũng là tư thế chủ động của toàn dân ta sau chiến dịch Việt Bắc thu đông
1947.

Khép lại bài thơ là hình ảnh tuyệt đẹp và thi vị, một phát hiện của người lính trong chính đêm phục
kích của mình: “đầu súng trăng treo”. Câu thơ gợi từ hiện thực: đêm về khuya, người lính đứng gác
trong tư thế chủ động, súng chĩa lên trời, trăng lên cao, ánh trăng trên đầu súng khiến các anh tưởng
như trăng đang treo trên đầu súng của mình. Súng là biểu tượng của cuộc chiến đấu đầy gián khổ, hi
sinh mà người lính đang trải qua, trăng là biểu tượng của cuộc sống hòa bình trong tương lai mà
người lính đang hướng tới. Súng là biểu tượng của người chiến sĩ, trăng là biểu tượng của thi sĩ.
Súng – trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất
thi sĩ, hiện thực và lãng mạn cũng tồn tại, bổ sung tô điểm cho vẻ đẹp cuộc đời người chiến sĩ. Ánh
trăng dường như đang ngập tràn khắp núi rừng chiến khu, trên bầu trời và chiếu cả trong làn sương
huyền ảo. Tâm hồn các anh, những người chiến sĩ cũng như ánh trăng ấy nồng hậu, lấp lánh ánh
sáng lạc quan, luôn hướng về một ngày mai tươi sáng.

Như vậy, “Đồng chí” giống như một lời ca nhẹ nhàng trong trẻo về tình đồng chí đồng đội. Chính
Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một giai điệu mới mẻ, một bức tranh đẹp về người lính
chống Pháp. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, những tục ngữ, thành ngữ
dân gian làm cho lời thơ trở nên thi vị, mộc mạc, đi thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó với
những hình ảnh biểu trưng, những câu văn sóng đôi, ngòi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm
thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí.

Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái tim. Chính Hữu đã
đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên nhưng đồng thời cũng đặt vào bức tranh ấy
một viên ngọc sấng thuần khiết nhất, đó là tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết. Để rồi khi thời
gian trôi qua, tác phẩm trở thành bài ca không quên trong lòng bạn đọc.

Bài viết của Hà Chinh


Đề bài: Phân tích vẻ đẹp của bài thơ Đồng
Chí (Chính Hữu)
I. Mở bài:
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đã chứng kiến bao kì tích của những
người nông dân. Họ đã làm nên lịch sử từ đôi bàn tay cày cuốc, đôi bàn chân lấm lem bùn lầy.
Họ là những chàng “Thạch Sanh của thế kỉ XX”. Đã có biết bao tiếng hát, lời thơ ca ngợi
những anh hùng “chân đất” ấy. Là một chiến sĩ, đồng thời cũng là một nghệ sĩ, với bài thơ
Đồng chí, Chính Hữu đã góp một bản hùng ca hoà vào bản đàn chung về những người lính
anh dũng của một thời kháng chiến gian khổ mà hào hùng.

II. Thân bài:


Năm hai mươi tuổi, Chính Hữu viết về người lính trong “Ngày về” nhưng ở bài thơ này hình
ảnh người chiến sĩ hiện lên với nhiều nét ước lệ, với những thanh gươm, áo bào, đôi giày vạn
dặm, khác xa lắm người lính trong cuộc chiến thực tại:

“Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm

Bụi trường chinh phui bạc áo hào hoa”

(Chính Hữu – Ngày về)

Ba năm sau (1948), khi tham gia vào hàng ngũ cách mạng, được trực tiếp trải nghiệm đời lính,
được chứng kiến những mất mát, hi sinh, những khó khăn gian khổ, được sống trong tình
đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, Chính Hữu đã có cái nhìn, cách cảm nhận khác về người
lính. Điều đó được thể hiện rõ trong bài thơ Đổng chí. Ngay từ khi mới ra đời, Đồng chí đã
được đón nhận nồng nhiệt. Có thể coi đó là một trong những áng thơ đẹp nhất về người lính,
vẻ đẹp của bài thơ chính là vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội được hiện lên qua những “chi
tiết và hình ảnh tự nhiên, bình dị mà cô đọng, giàu sức biểu cảm” (SGK Ngữ văn 9, tập 1).

Mở đầu bài thơ là sự khái quát về cảnh ngộ của những người lính:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”

Ngôn ngữ thơ giản dị như lời ăn tiếng nói thường ngày của người dân quê. Ta bắt gặp ở đây
những thành ngữ quen thuộc “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”, thể hiện rõ nhất
nguồn gốc xuất thân của những người lính. Họ đến từ mọi miển Tổ quốc, từ những vùng đồng
bằng châu thổ quanh năm ngập lụt đến vùng đồi núi trung du khô cằn. Những con người xa lạ,
cách nhau cả một phương trời nhưng giống nhau ở cái nghèo, sự lam lũ khó nhọc của người
dân quê Việt Nam. Chính sự đồng cảnh ấy đã khiến họ xích lại gần nhau, để từ những “người
xa lạ”, họ tập hợp lại trong hàng ngũ cách mạng và trở thành quen biết, thân thiết với nhau:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”

Những hình ảnh thơ rất thực nhưng cũng đầy sức gợi. Điệp từ “bên” cùng cấu trúc song hành
có tác dụng khẳng định sự gắn bó khăng khít giữa những người lính. Họ cùng chung nhiệm vụ
chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc “súng bên súng” (cùng chung lí tưởng, suy nghĩ – “đầu sát bên
đầu”). “Cái hay của nhà thơ là đã biết đem cái ấm áp của “đêm rét chung chăn” vào bài thơ,
sưởi nóng mối tình đồng chí lên thành mức độ tri kỉ”. Những người lính đến với nhau nhẹ
nhàng bình dị, vừa có cái chung của lí tưởng lớn, vừa có cái riêng của một đôi bạn ỷ hợp tâm
đầu. Và cứ giản dị như thế, những con người cùng chung gian khó ấy trở thành đồng chí của
nhau: Đồng chí!

Hai tiếng “đồng chí” vang lên, như một tiếng gọi thiết tha. Nhịp thơ đang dàn trải, như những
lời thủ thỉ, tâm tình, đến đây chợt lắng lại, ngắt ra thành một câu thơ riêng, chỉ với hai từ và
dấu chấm than, tựa như một nốt nhấn ngân vang. Nó vừa là một định nghĩa giản dị về tình
đồng chí, vừa có ý nghĩa bản lề đóng lại những dòng cảm xúc bên trên và mở ra những nguồn
mạch biểu hiện mới của tình đồng đội. Chính Hữu đã từng có những định nghĩa giản dị như
vậy về tình đồng đội thiêng liêng:

“56 ngày đêm bom gầm, pháo giội

Ta mới hiểu thế nào là đồng đội Đồng đội ta

Là hớp nước uống chung

Nắm cơm sẻ nửa

Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa

Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.”


(Chính Hữu – Giá từng thước đất)

Đồng chí là thế. Là sự gắn bó tha thiết tự trong tim, là sự sẻ chia những tâm tư, những gian
khó cuộc đời, là sự thấu hiểu những tình cảm, nghĩ suy:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”

Đối với những người nông dân, thiết thân nhất là ruộng vườn cả đời cày sâu cuốc bẫm, là
ngôi nhà nhỏ có gia đình thân yêu. Vậy nhưng họ vẫn quyết tâm gạt bỏ lại sau lung, lên
đường theo tiếng gọi của quê hương, đất nước. Từ “mặc kệ” mộc mạc như cách nói quen
thuộc của người dân quê vang lên, ẩn chứa cả ý chí kiên định. Đó không phải là thái độ buông
xuôi, vô trách nhiệm mà là biểu hiện của lòng quyết tâm sắt đá. Họ vẫn gắn bó lắm, vẫn yêu
nhớ lắm cái mảnh đất quê hương nghèo khó, nên mới có thể cảm nhận được nỗi lòng của
người thân nơi hậu phương:

“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Đã bao lần ta bắt gặp hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình trong ca dao xưa, nhưng vẫn thật
mới mẻ trong thơ Chính Hữu. Biện pháp nghệ thuật hoán dụ “giếng nước”, “gốc đa” gợi ta nhớ
tới nơi hò hẹn của những người dân quê, nhắc đến những kỉ niệm một thời gắn bó trên mảnh
đất quê hương. Chúng cũng biết “nhớ” khi cách xa những người con thân yêu của làng quê.
Nghệ thuật nhân hoá được sử dụng thật đắc địa. Bao tình cảm nặng sâu như đều dồn tụ trong
tiếng ”nhớ“ giản dị ấy. Câu thơ gợi ta nhớ đến những tiếng thơ của Hồng Nguyên:

“Ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gao canh khuya.”

(Hồng Nguyên – Nhớ)

Giữa người đi xa và người ở lại luôn có một sợi dây vô hình gắn kết. Những người lính cùng
nhau san sẻ mọi buồn vui, khó khăn của cuộc sống kháng chiến. Không chỉ thế, tình đồng chí
còn tiếp thêm cho họ sức mạnh để họ vượt qua khó khăn, gian khổ của đời lính:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh


Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.”

Câu thơ khắc hoạ hoàn cảnh thực của người lính : thường xuyên phải chống chọi với những
cơn sốt rét rừng triền miên. Hình ảnh thơ chân thực, cụ thể, nhịp thơ 3/5 đều đều như những
lời kể chuyện nhẹ nhàng mang lại cho ta cảm giác se xót trước những gian khó mà người lính
phải trải qua trong cuộc đời chiến đấu.

Những hiện thực trần trụi tưởng như không phải là thơ, nhưng lại gieo vào lòng người đọc bao
cảm xúc:

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày”

Nhịp thơ nhanh, câu thơ ngắn, kết hợp cùng cấu trúc song hành có tác dụng đặc tả sự thiếu
thốn của đời lính trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Ta cũng từng bắt gặp những câu
thơ đậm chất hiện thực như thế trong thơ Chính Hữu:

“Súng nặng

Đường trơn

Vai gầy

Áo rách”

(Chính Hữu – Tháng năm ra trận)

Nhưng bất chấp gian khổ, người lính vẫn cười – tiếng cười ngạo nghễ của những con người
coi thường khó khăn, tiếng cười được sưởi ấm bằng đôi bàn tay nắm chặt:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”


Câu thơ giản dị, nhẹ nhàng, đậm chất lính. Hai tiếng “thương nhau” được đặt lên đầu câu
khiến cho nhịp thơ như lắng lại. “Thương” chứ không phải là “yêu”. Trong “thương” không chỉ
có tình yêu mà còn có sự cảm thông, sự xót xa cho nhau. Chính trong tâm thế đó, người lính
tìm đến nhau trong cái nắm tay tình nghĩa. Đó là cái nắm tay truyền hơi ấm để giúp đồng đội
vượt qua cái giá lạnh nơi núi rừng, cũng là cái nắm tay truyền ý chí chiến đấu, truyền ngọn lửa
nhiệt tình cách mạng. Đây là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh bất diệt của người lính Việt Nam
trong kháng chiến. Những người nông dân vốn chỉ lo “côi cút lùm ăn” (Nguyễn Đình Chiểu),
quanh năm gắn bó với ruộng đồng, con trâu, cái cày. Nhưng tình yêu quê hương lên tiếng giục
giã họ cất bước lên đường. Những gian khổ là nhiều, những hi sinh là không ít, nhưng tình
yêu Tổ quốc và tình đồng chí thiêng liêng đã tiếp thêm sức mạnh để người lính vượt qua
những khó khăn thử thách đó, để họ vững tay súng, hoàn thành nhiệm vụ mà Tổ quốc và
nhân dân giao phó:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Ba câu thơ ngắn là sự kết tinh tình đồng chí. Giữa nơi chiến trường khốc liệt, thiên nhiên khắc
nghiệt : (rừng hoang, sương muối) hình ảnh những người lính kề vai nhau ngời sáng lên đẹp
biết bao ! Nó là sự đối chọi với thiên nhiên khắc nghiệt và sự khốc liệt của hiện thực chiến
tranh. Từ “bên” ở đây tương thích với từ “bên” trong câu thơ: “Súng bên súng, đầu sát bên
đầu”. Nhưng nếu như ở trên, hai cá thể vẫn tách biệt (súng – súng ; đầu – đầu) thì đến đây, từ
“bên nhau” cho ta thấy một sự gắn kết trọn vẹn giữa những người lính. Họ kề vai sát cánh
cùng nhau, truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh và niềm tin để thực hiện nhiệm vụ giữ gìn, bảo
vệ Tổ quốc. Có thể nói, chính hoàn cảnh khắc nghiệt của núi rừng hoang lạnh, hiểm nguy lại
là nơi thử thách tình đồng đội thiêng liêng cao cả của những người lính. Hình ảnh họ toả sáng
trong câu thơ kết bất ngờ, độc đáo:

“Đầu súng trăng treo”

Đây là hình ảnh độc đáo, kết tinh giá trị nghệ thuật của cả bài thơ. Chính Hữu từng tâm sự:
“Trong chiến dịch, nhiều đêm có trăng. Phục kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ có ba nhân
vật : khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật quyện lại với nhau thành
hình ảnh “Đầu súng trăng treo”. Tưởng như không hề có sự dụng công nghệ thuật trong hình
ảnh đó, vậy mà nó đưa lại cho người đọc khoái cảm thẩm mĩ thật đặc biệt. Nhịp thơ 2/2 “như
nhịp lắc của một cái gì lơ lửng, chông chênh trong sự bát ngát” (Chính Hữu). Súng và trăng
như cũng tạo thành một cặp đồng chí, góp phần soi rọi, tô sáng hơn vẻ đẹp của cặp đồng chí
kia, mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Súng tượng trưng cho khói lửa chiến tranh, trăng
tượng trưng cho cuộc sống thanh bình. Súng và trăng vừa đối lập lại vừa hài hoà, một bên là
hiện thực, một bên là ước mơ. Ta nhận ra trong câu thơ sự kết hợp hài hoà giữa tâm hồn
chiến sĩ và thi sĩ, giữa chất hiện thực đằm sâu và chất lãng mạn bay bổng. Đó chính là yếu tố
làm nên giá trị độc đáo của câu thơ này.

III. Kết bài:


“Trong bài Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Suốt cả cuộc chiến đấu, chỉ có một
chỗ dựa dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến đấu, là tình đồng chí, đồng đội” (Chính Hữu).

Cả bài thơ là khúc ca về tình cảm chân thành, thiêng liêng của những người lính nông dân. Từ
những miền quê nghèo khác nhau trên dải đất hình chữ S, cùng chung sự khốn khó, chung lí
tưởng chiến đấu, họ đến với nhau, giản dị mà chân thành. Bài thơ sẽ còn ngân vang mãi trong
trái tim, tâm hồn mỗi người dân Việt Nam như một biểu tượng đẹp về tình đồng chí bất tử!

Lời nhận xét của người chấm điểm:


● Phạm vi yêu cầu của đề bài khá rộng, đòi hỏi người viết phải biết chắt lọc những gì
tiêu biểu nhất để phân tích nếu không sẽ rơi vào tản mạn. Bài viết của Minh Huệ đã
biết đi sâu vào những nét chính, đặc sắc của thi phẩm Đồng chí đó là hình ảnh người
lính và tình đồng đội.
● Văn phong trong sáng, giàu sắc thái biểu cảm :” “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Câu thơ giản dị, nhẹ nhàng, đậm chất lính. Hai tiếng “thương nhau” được đặt lên đầu
câu khiến cho nhịp thơ như lắng lụi. “Thương” chứ không phủi là “yêu”. Trong
“thương” không chỉ có tình yêu mà còn có sự cảm thông, sự xót xa cho nhau. Chính
trong tâm thế đó, người lính tìm đến nhau trong cái nắm tay tình nghĩa”.
● Người viết đã có ý thức so sảnh, đối chiếu, song cần liên hệ sâu hơn với một số bài
thơ khác viết về người lính như Tây Tiến của Quang Dũng; Bài thơ về tiểu đội xe
không kính của Phạm Tiến Duật để thấy sự giống và khác nhau trong cách nhìn và
cách thể hiện hình ảnh người lính

Bài làm của bạn ĐỖ MINH HUỆ. ❤️

You might also like