Professional Documents
Culture Documents
- Chính Hữu tên là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926, quê ở Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
- Ông tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Từ người lính Trung đoàn Thủ đô
trở thành nhà thơ quân đội.
- Chính Hữu làm thơ không nhiều, thơ ông thường viết về người lính và chiến tranh, đặc
biệt là những tình cảm cao đẹp của người lính, như tình đồng chí, đồng đội, tình quê hương
đất nước, sự gắn bó giữa tiền tuyến và hậu phương.
- Thơ ông có những bài đặc sắc, giàu hình ảnh, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ cô đọng, hàm
súc.
- Chính Hữu được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm
2000.
2. Tác phẩm
a) Hoàn cảnh ra đời:
- Bài “Đồng chí” sáng tác đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu
trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông năm 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc
Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Trong chiến dịch ấy, cũng như những năm đầu của cuộc kháng
chiến, bộ đội ta còn hết sức thiếu thốn. Nhưng nhờ tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu và
tình đồng chí, đồng đội, họ đã vượt qua tất cả để làm nên chiến thắng. Sau chiến dịch này,
Chính Hữu viết bài thơ “Đồng chí” vào đầu năm 1948, tại nơi ông phải nằm điều trị bệnh.
Bài thơ là kết quả của những trải nghiệm thực và những cảm xúc sâu xa, mạnh mẽ, tha thiết
của tác giả với đồng đội, đồng chí của mình trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947)
- Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mang của văn
học thời kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954).
- Bài thơ đi theo khuynh hướng : Cảm hứng thơ hướng về chất thực của đời sống kháng
chiến, khai thác cái đẹp, chất thơ trong cái bình dị, bình thường, không nhấn mạnh cái phi
thường.
- Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách
mạng – mà phần lớn họ đều xuất thân từ nông dân. Đồng thời bài thơ cũng làm hiện lên hình
ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kỳ của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp còn rất khó khăn, thiếu thốn. (Đó là hai nội dung được đan cài và thống nhất
với nhau trong cả bài thơ)
Bằng những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, bài thơ thể hiện ấn tượng hình ảnh người lính thời
kì đầu chống Pháp và tình đồng chí đồng đội thắm thiết, keo sơn giữa các anh.
Ngòi bút tài hoa của chính hữu cùng với những câu thơ tự do, giọng thủ thỉ tâm tình, ngôn
ngữ giản dị, một cách tự nhiên Chính hữu đã từ từ dẫn người đọc đến với cơ sở hình thành
tình đồng chí:
Hai câu đầu với cấu trúc câu thơ song hành, thành ngữ dân gian “nước mặn đồng chua”, cách
nói sáng tạo từ tục ngữ “đất cày lên sỏi đá”, giọng thơ thủ thỉ tâm tình gợi cảnh hai người lính
đang ngồi kể cho nhau nghe về quê hương mình. Đó là những vùng quê nghèo khó, lam lũ:
một người ở miền biển “nước mặn đồng chua”, một người ở miền trung du “đất cày lên sỏi
đá”. Phải chăng chính nguồn gốc xuất thân của các anh đã làm nên bệ phóng cho tình đồng
chí?
Cách nhập đề mới thật tự nhiên! "Chúng ta" đều từ những miền quê nghèo nhưng đã là gì đâu
chứ! Dẫu thế nào thì ngay từ đầu "anh" và "tôi" đã là những kẻ xa lạ, nhưng thật kì lạ: ta
không hẹn đợi, ta chăng thân quen, thậm chí còn xa cách quá chừng..., vậy mà giờ đây "quen
nhau" như thể một sức mạnh vô hình nào đó, đã đưa số phận của bao con người từ bao
"phương trời" trở thành một. Sức mạnh nào có thể làm được một điều lớn lao như thế? Phải
chăng chính là sự đồng điệu trong tâm hồn, lí tưởng những người lính, trong mục đích chiến
đấu và hơn cả, là lòng yêu nước sâu nặng - gan liên với lòng căm thù giặc đã cho họ nghị lực
cầm súng chiến đấu. Thật vậy, từ lúc đất nước chìm trong khói lửa, theo tiếng gọi cứu nước,
họ đã từ giã nơi quê hương nghèo khó thần thương để lên đường "quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh". Thì ra, nơi họ hội ngộ, không nơi nào khác ngoài tình yêu nước. Do vậy, cùng với hoàn
cảnh xuất thân, điều đó đã trở thành những cơ sở quan trọng cho sự nảy sinh một thủ tình
cảm thiêng liêng - tình đồng chí.
Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Câu thơ: “súng bên súng,
đầu sát bên đầu” đã gợi lên tư thế của người lính trong đêm phục kích. Họ luôn sát cánh bên
nhau trong mọi khó khăn, nguy hiểm. “Súng bên súng” là chung nhiệm vụ, chung hành động;
“đầu sát bên đầu” là chung chí hướng, chung lý tưởng. Chính Hữu đã dùng các từ “sát, bên,
chung” gợi sự chia sẻ của người lính, ý hợp tâm giao. Hình ảnh “đêm rét chung chăn” là một
hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, đã cho ta thấy được sự sẻ chia những thiếu thốn gian lao trong
cuộc đời người lính. Cũng sự sẻ chia ấy, Tố Hữu từng viết:
Tấm chăn tuy mỏng nhưng ấm tình đồng chí, đồng đội mà người lính không thể nào quên. Nó
đã vun đắp lên tình đồng chí của các anh, cái tình ấy ngày một thắm thiết, càng đậm sâu. Các
anh giờ đây không chỉ là tri kỉ thân thiết của nhau mà đã trở thành những người “đồng chí”.
“Đồng chí!” Là một câu đặc biệt như một bản lề khép mở: khép lại cơ sở hình thành tình
đồng chí và mở ra biểu hiện sức mạnh của tình đồng chí. Nó như nốt nhấn trên bản đàn, buộc
người đọc phải dừng lại suy nghĩ về ý nghĩa mà nó gợi ra. Đó là tiếng gọi thiêng liêng của
những người có chung chí hướng lý tưởng vang lên từ sâu thẳm tâm hồn người lính. Tình
đồng chí là đỉnh cao của tình bạn, tình người, là kết tinh của mọi tình cảm, là cội nguồn sức
mạnh để người lính vượt qua những tháng ngày khó khăn gian khổ. Hai tiếng “đồng chí” đơn
sơ mà cảm động đến nao lòng, làm bừng sáng ý nghĩa của cả đoạn thơ và bài thơ.
Mười câu thơ tiếp theo vẫn là những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, mộc mạc cho người đọc
thấy được biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.
Trải qua những khó khăn nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp các anh có được sự cảm
thông, thấu hiểu nỗi lòng, tình cảm của nhau .Những lúc ngồi cận kề bên nhau, các anh đã kể
cho nhau nghe chuyện quê nhà đầy bâng khuâng, thương nhớ:
Ba câu thơ với giọng thủ thỉ tâm tình cùng những hình ảnh giản dị quen thuộc cho thấy
những người lính vốn là những người nông dân quen chân lấm tay bùn, gắn bó với căn nhà
thửa ruộng. Nhưng khi tổ quốc cần, các anh sẵn sàng từ bỏ những gì thân thuộc nhất để ra đi
làm nhiệm vụ: ruộng nương gửi bạn thân cày, để mặc căn nhà trống trải đang cần người sửa
mái “mặc kệ” vốn chỉ thái độ thờ ơ vô tâm của con người, nhưng trong lời thơ của Chính
Hữu lại thể hiện được sự quyết tâm của người lính khi ra đi. Các anh ra đi để lại tình yêu quê
hương trong tim mình, để nâng lên thành tình yêu Tổ quốc. Đó cũng là sự quyết tâm chung
của cả dân tộc, của cả thời đại. Tuy quyết tâm ra đi nhưng trong sâu thẳm tâm hồn các anh,
hình ảnh quê hương vẫn in đậm, vẫn hằn lên nỗi nhớ thân thương: “giếng nước gốc đa nhớ
người ra lính”. Hình ảnh hoán dụ cũng với nghệ thuật nhân hóa, Chính Hữu đã tạo ra nỗi nhớ
hai chiều: quê hương – nơi có cha mẹ, dân làng luôn nhớ và đợi chờ các anh, các anh – những
người lính luôn hướng về quê hương với bao tình cảm sâu nặng. Có lẽ chính nỗi nhớ ấy đã
tiếp thêm cho các anh sức mạnh để các anh chiến đấu giành lại độc lập cho dân tộc.
Không chỉ thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao và niềm vui
bên chiến hào chiến đấu:
Băng những hình ảnh thơ chân thực và xúc động, gợi tả, gợi hình. Tác giả đã làm sống dậy
cuộc sống gian khổ thiếu thốn trong cuộc chiến đầu của người lính thời chống Pháp. Đó là
những gian khổ tột cùng của người lính, những cơn sốt run người vầng trán ướt m hôi, những
trang phục phong phanh giữa mùa đông giá rét. Những gian lao thiếu thốn ấy càng làm nổi
bật sự cao đẹp của anh bộ đội cụ Hô. Trong gian khổ vẫn nổi bật lên nụ cười của người lính
"Miệng cười buốt giá " thật đáng yêu làm sao. Hình ảnh người lính thật đáng trân trọng mỗi
khi ta đọc những câu thơ nói về cuộc sống kham khổ của họ.
Chính Hữu bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ngay giữa một
hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa núi rừng biên giới trong đêm
khuya:
Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận đánh giành
thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một đêm đã đi vào lịch sử khiến
người lính không thể nào quên. Các anh phục kích chủ động chờ giặc trong hoàn cảnh đầy
khắc nghiệt: “rừng hoang sương muối”
“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi hộp căng thẳng
khi ranh giới của sự sống cái chết rất mong manh. Từ “chờ” đã thể hiện được tư thế chủ động
của người lính trong đêm phục kích cũng là tư thế chủ động của toàn dân ta sau chiến dịch
Việt Bắc thu đông 1947.
Khép lại bài thơ là hình ảnh tuyệt đẹp và thi vị, một phát hiện của người lính trong chính đêm
phục kích của mình: “đầu súng trăng treo”. Câu thơ gợi từ hiện thực: đêm về khuya, người
lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên trời, trăng lên cao, ánh trăng trên đầu súng
khiến các anh tưởng như trăng đang treo trên đầu súng của mình. Súng là biểu tượng của
cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh mà người lính đang trải qua, trăng là biểu tượng của
cuộc sống hòa bình trong tương lai mà người lính đang hướng tới. Súng là biểu tượng của
người chiến sĩ, trăng là biểu tượng của thi sĩ. Súng – trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng,
chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thi sĩ, hiện thực và lãng mạn cũng tồn tại,
bổ sung tô điểm cho vẻ đẹp cuộc đời người chiến sĩ. Ánh trăng dường như đang ngập tràn
khắp núi rừng chiến khu, trên bầu trời và chiếu cả trong làn sương huyền ảo. Tâm hồn các
anh, những người chiến sĩ cũng như ánh trăng ấy nồng hậu, lấp lánh ánh sáng lạc quan, luôn
hướng về một ngày mai tươi sáng.
Như vậy, “Đồng chí” giống như một lời ca nhẹ nhàng trong trẻo về tình đồng chí đồng đội.
Chính Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một giai điệu mới mẻ, một bức tranh đẹp về
người lính chống Pháp. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, những tục
ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ trở nên thi vị, mộc mạc, đi thẳng đến trái tim người
đọc. Bên cạnh đó với những hình ảnh biểu trưng, những câu văn sóng đôi, ngòi bút hiện thực
lãng mạn của ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí.
Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái tim. Chính
Hữu đã đưa hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên nhưng đồng thời cũng đặt
vào bức tranh ấy một viên ngọc sáng thuần khiết nhất, đó là tình đồng chí đồng đội keo sơn
thắm thiết. Để rồi khi thời gian trôi qua, tác phẩm trở thành bài ca không quên trong lòng bạn
đọc.
* Khái quát
* Phân tích:
Trước hết, đọc đoạn thơ ta thấy vẻ đẹp của tình đồng chí được thể hiện ở sự sẻ chia thấu hiểu
đồng cảm với nhau bao nỗi niềm tâm sự thầm kín tình đồng chí đồng đội chân thành đã giúp
các anh thấu hiểu gia cảnh của nhau :
“ Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
Rời nhà đi kháng chiến, họ cùng chung nỗi nhớ quê hương da diết. Nhớ về “giếng nước, gốc
đa, ruộng nương” - những tài sản hết sức quen thuộc, gắn bó với ng dân làng quê Việt Nam.
Đối với họ, đó là những tài sản quý báu nhất. Vậy mà anh sẵn sàng “gửi bạn thân” để lên
đường đi đánh giặc theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Từ “gửi” đặt giữa dòng thơ cho
ta thấy được sự tin tưởng gần như tuyệt đối của những ng “nông dân mặc áo lính” đối với
những con người nơi hậu phương. “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay” là hình ảnh gây xúc
động mạnh mẽ đến những ng độc giả. Từ “mặc kệ” đặt giữ dòng thơ thể hiện thái độ dứt
khoát và đầy quyết tâm của người lính khi ra di vì nghĩa lớn. Họ sẵn sàng hi sinh tất cả mọi
thứ vật chất và tình cảm cá nhân vì tình yêu tổ quốc. Đó là sự hy sinh thầm lặng mà cao cả.
Tinh thần ấy phần nào giống hình ảnh của những người trượng phu ra đi đánh giặc cứu nước
trong thơ Nguyễn Đình Thi:
“ Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Song, dù dứt khoát, mạnh mẽ ra đi, dù mặc kệ tất cả nhưng trong sâu thẳm tâm hồn những
người nông dân chân thật ấy vẫn nặng lòng với quê hương. Các anh đi mang theo nỗi nhớ quê
hương vào trong chiến đấu. Nỗi nhớ ấy kín đáo gửi gắm qua hình ảnh:
“ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. ”
Hình ảnh “giếng nước, gốc đa” gợi ra hình ảnh mộc mạc, bình dị, mà quen thuộc nơi làng
quê. Giếng nước là nơi dân làng tụ họp sớm chiều, gốc đa là nơi ta hẹn hò, là điểm cuối cùng
của cuộc tiễn đưa và cũng là điểm đầu tiên của cuộc hội ngộ. Có thể nói, “giếng nước gốc đa”
là hình ảnh hoán dụ cho xoms làng, quê hương, hậu phương - những gì gần gũi, thân thương
nhớ các anh, tin cậy và truyền thêm sức mạnh cho các anh để các anh được “chân cứng đá
mềm”. Bên cạnh đó, “giếng nước gốc đa” còn được nhân hóa qua từ “nhớ” gợi lên tình cảm
hai chiều giữa ng lính và quê hương. Câu thơ cho ta cảm nhận hình ảnh quê hương luôn sống
trong trái tim người lính, là sức mạnh và động lực cho các anh chiến đấu. Lời thơ ngập tràn
ngọn gió của nỗi nhớ thương quyến luyến, ng chiến sĩ và quê hương có mối giao cảm tuyệt
vời. Có phải vì tình yêu quê hương là biểu hiện cao nhất của tình yêu Tổ quốc ?
Như vậy, ba câu thơ với “ruộng nương, gian nhà, giếng nước gốc đa” hình ảnh nào cũng thân
thương, cũng ấm áp một tình yêu quê hương. Nhắc tới nỗi nhớ da diết này, Chính Hữu đã nói
đến sự hi sinh không mấy dễ dàng của người lính. Ở ba câu trên, Chính Hữu không viết về
mình mà về bạn, không nói về “tôi” mà chỉ nói về “anh”. Có lẽ bởi tôi và anh đã hòa cùng
làm một, nỗi nhớ của anh cũng là của tôi. Những người lính đã trở thành đông chí của nhau,
thực sự thấu hiểu tâm tư, tình cảm của nhau. Cả hai đã hoà chung vào nỗi nhớ quê hương da
diết, tình cảm đồng chí thật sâu nặng, đằm thắm. Ta chợt hiểu thì ra nơi nỗi lòng của bạn
cũng chính là nỗi nhớ của tôi. Do thương bạn mà quên mất bản thân hay bạn cũng chính là
bản thân mình?
Bên cạnh điểm tựa tình cảm vững vàng mang tên “quê hương” một lòng sâu sắc, người lính
còn có thêm điểm tựa chắc chắn với tình bạn, tình đồng chí, cùng nhau vượt qua những khó
khăn đời lính:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Một bức tranh hiện xúc động hiện lên trước mắt ta, đầy rẫy những gian khổ chông gai như
chính cuộc đời người lính. Câu thơ đang vươn dài bỗng rút ngắn, âm điệu thơ bỗng trở nên
chậm rãi, trầm lắng, như khiến tâm hồn người đọc cũng như chùng xuống trước bạo nhọc
nhằn mà người bộ đội phải trải qua. Ra đi từ làng quê nghèo khổ, các anh lại gặp thêm cái
nghèo nàn nơi quân đội. Mấy câu thơ thôi mà phản ánh được một thực trạng, một thời kỳ khó
khăn của cả nước. Đất nước ta nghèo do bị thực dân bóc lột, và vì đất nước nghèo nên con
người, và đến cả quân đội cũng nghèo theo. Bằng phép liệt kê và giọng điệu thơ bùi ngùi
trầm lặng, Chính Hữu đã kể về những thiếu thốn của quân đội và của người lính Việt lúc bấy
giờ: thiếu lương thực, thuốc men, thiếu cả quân trang, quân phục. Kể sao cho xiết hằng hà sa
số những khó khăn kham khổ của các anh chiến sĩ thuở kháng Pháp? Từ những đợt sốt rét
quái ác hành hạ cơ thể con người, dù mình “ớn lạnh”, “sốt run người” nhưng vầng trán lại
“ướt mồ hôi”; đến bộ quần áo rách tả tơi vì dầm mưa dãi nắng, vì gai cào xước chỉ. Ta bỗng
nhớ lại hai câu thơ:
Phi sốt rét bất thành bộ đội
Phi áo vá bất thành bộ đội
mà thấy cay cay làm sao! Trong đời bộ đội có mấy ai là chưa từng nếm qua mùi vì đắng ngắt
của căn bệnh sốt rét đâu, có mấy ai mà quần áo vẫn lành lặn sau bao ngày xông pha chốn
rừng thiêng nước độc đâu. Nhưng, mới thật kì diệu, người lính oai dũng vẫn không hề bị quật
ngã bởi những cay cực nhọc nhằn. Nguồn cội của sức mạnh kì diệu đó chính là tình đồng chí,
tình đồng đội keo sơn khăng khít giữa hai người. Cùng nhau trải qua gian lao cay đắng, khó
khăn tưởng như quá lớn không thể vượt qua đã được chia đôi trong khi sức mạnh tinh thần
của họ lại được nhân lên nhiều lần sức mạnh tinh thần nâng lên lại thúc đẩy sức mạnh thể xác
đi đến ngưỡng cao hơn. Từ “biết” mà nhà thơ sử dụng đã nói lên tất cả sự chia chia ngọt sẻ
bùi của người lính. Tôi biết anh khi đang trong “cơn ớn lạnh”, anh biết tôi khi “sốt run
người”. Tôi biết anh áo rách vai, còn anh lại biết tôi “quần có vài mảnh vá”. Tôi hiểu cho tâm
tình của anh, anh thông cảm cho nỗi lòng tôi. Và cũng vì không cô đơn trong khổ cực gian
khó, hai người đồng chí mới bật tung được hàng bao cảm xúc ấm áp, tự nhiên trong hoàn
cảnh mìn bom chất đống, súng rơi đạn lạc:
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Người nông dân mặc áo lính bỗng trở nên vĩ đại hơn bao giờ hết. Thiếu thốn ngay đến cả
những phương tiện vật chất tối thiểu như quần áo, giày dép, nhưng người lính lại rất giàu có
về tâm hồn. Trong tình thế ngặt nghèo nhất, trong cảnh ngộ tăm tối nhất, thế mà nụ cười vẫn
nở trên môi các anh, dù đó là cái “miệng cười buốt giá”. Đó là cái buốt giá của thời tiết hay
cái lạnh lẽo của cuộc sống vốn lắm trêu ngươi, gieo rắc khó khăn lên đời người lính? Dù là gì
đi nữa thì nó vẫn là nụ cười đáng quý nhất, vì được thắp lên trong gian nan ngặt nghèo, trong
tình huống mà tưởng chừng không thể mỉm cười nổi, tựa như ánh bình minh chiếu sáng cả
một vùng trời đen tối, như đóa hoa bung nở trong khu vườn băng đóng im lìm. Nụ cười ấy
thật đáng yêu, đáng quý và đáng khâm phục. Nụ cười ấy đã nói lên tất cả về người lính: tinh
thần lạc quan, khí phách anh hùng, không đầu hàng số phận. Đâu phải ai cũng có thể cười lạc
quan như các anh trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” của đất nước, con người, dân tộc?
Cười ấy hoàn toàn không phải là cái cười thản nhiên lạnh lùng, mà là cười trong buốt giá để
vượt qua cái buốt giá, để tâm hồn ấm lên, để lòng thấy tự tin hơn, vững vàng hơn. Hai người
đồng chí đã vượt lên tất cả, từ cái rét tê tái của thời tiết, cái lạnh run của bệnh sốt rừng, cái
thiếu thốn quan áo (áo rách vai, quần vá, không giày…) để đến được ngưỡng thăng hoa của
tình cảm, của tình đồng chí thiêng liêng, gắn bó: nắm lấy bàn tay nhau. Cao hơn hết thảy mọi
cử chỉ quan tâm, mọi lời nói sẻ chia, hai anh lính chiến nắm tay nhau trong cảnh rừng buốt
giá ấy lại chính là biểu tượng đẹp nhất của sự “thương nhau” giữa người với người, của tình
đồng chí mộc mạc và thấm thía. Giá buốt mà không lạnh lẽo, là khi hai người bộ đội nắm
chặt tay nhau, truyền cho nhau hơi ấm tình người, những khao khát vượt lên số phận, những
niềm tin chiến thắng hân hoan. Tác giả khéo léo sử dụng giọng thơ trầm lắng, cảm động khi
nói về hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” để bộc lộ tình đồng chí chân thành, đậm sâu, hồn hậu
như cây lúa củ khoai, như tấm lòng của anh trai cày ra trận. Bàn tay im lặng như lại nói lên
được tình cảm thiêng liêng, tình đồng chí, tình người, tình anh em, Bàn tay thắt chặt tình
thân, đốt cháy lên ngọn lửa đoàn kết, tinh thần diệt giặc lập công nơi người lính… Một cách
biểu lộ tình cảm tự nhiên, xúc động, nó như làm ta nhớ lại câu thơ:
Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói bàn tay ta đã nói
Biểu hiện của tình đồng chí càng được tô đậm hơn, khắc sâu hơn qua bức tranh chiến đấu
cuối bài thơ:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Với nghệ thuật tả thực sống động, hai câu trên như một lời tự sự nhưng lại mang màu sắc
trữ tình và có giá trị miêu tả rất lớn. “Đêm nay rừng hoang sương muối”_ xót xa thay cho
cuộc đời người chiến sĩ! Đã trải qua bao nhiêu vất vả giờ lại bị thiên nhiên hoành hành bằng
những đợt rét đậm rét hại cắt da cắt thịt; bằng những màn sương muối phủ kín cả một cánh
rừng hoang. Tuy trong thời tiết như thế, các anh vẫn “đứng cạnh bên nhau “ để mà “chờ giặc
tới”. Thật vậy! Tình đồng chí giữa họ cao cả như thế đấy, không chỉ chia sẻ cùng nhau tâm tư
nỗi nhớ, cùng nhau trải qua gian nan khổ cực của cuộc chiến, mà giờ đây còn kề vai sát cánh
bên nhau trên cái nền lạnh giá của “rừng hoang sương muối”, cùng “chờ giặc tới” với tư thế
hiên ngang, chủ động, anh hùng và tinh thần lạc quan, đỏ rực lửa tình đồng đội. Bức tranh
chiến đấu ấy của người lính vừa mang hơi thở hiện thực và thời đại, vừa thấm đẫm cái trữ
tình bay bổng. Con đường kháng chiến của dân tộc hãy còn dài, khi mà mỗi bước tiến trên
con đường lại được đánh đổi bằng xương máu, bằng mạng sống bao con người ngã xuống, thì
sự lạc quan cùng bao tình cảm ấm nồng đã tiếp thêm sức mạnh cho các anh đi đánh giặc, bên
cạnh lòng yêu nước tràn đầy và ý chí chiến đấu bền bỉ. Tư thế ung dung cùng tình đồng chí
bền vững của hai người lính khi cùng sát cánh bên nhau chờ để đối diện với giặc, để đánh tan
chúng giành lại non sông đất nước đã tạo cho ta một niềm cảm phục sâu sắc. Giặc mà tới,
không ít thì nhiều quan ta cũng phải có người hi sinh. Nhưng các anh đã lại “mặc kệ” chúng,
“mặc kệ” cái chết có thể đến bất kỳ lúc nào với bất kỳ ai, để cùng vui chung niềm vui người
lính: tận hưởng không khí rừng đêm, tận hưởng khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời mà ngay cả
họ cũng là một phần của nó: “Đầu súng trăng treo”
Đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính. Trên nền xám lạnh của cánh
rừng hoang tĩnh mịch đêm khuya rực lên hình ảnh tuyệt đẹp: vầng trăng tròn treo lủng lẳng
trên đầu súng. Là người trực tiếp cầm súng tham gia cuộc chiến nên tác giả Chính Hữu mới
có được cái nhìn tinh tế như vậy, mới có những liên tưởng phong phú và giàu chất bay bổng
như vậy. Trời về khuya gần sáng, trăng xuống thấp dần, thấp dần đến khi trăng chạm vào đầu
súng, tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt diệu “đầu súng trăng treo” ắp đầy ý nghĩa biểu
tượng: súng tượng trưng cho người lính, cho tinh thần quyết chiến quyết thắng, cho sự chiến
đấu hết mình không quản ngại hiểm nguy; còn trăng là sự vật xuất hiện nhiều trong thơ, là
biểu tượng của người thi sĩ, của làng quê hiền hòa, của cái đẹp thanh bình, dịu dàng. Tính
hiện thực đến từ cách quan sát, nhìn nhận của tác giả và chất trữ tình từ một tâm hồn thăng
hoa càng làm cho hình ảnh thêm ý nghĩa, sống động: súng và trăng, là gần và xa, là cứng rắn
và mượt mà, thực tại và mộng mơ, oai dũng và hiền hòa, là thi nhân và chiến sĩ. Súng và
trăng còn là một cặp đồng chí: người lính cầm súng chiến đấu cho hòa bình, cho vầng trăng
tri kỉ mãi tỏa ánh trăng trong trên nền quê hương. Hai hình ảnh đối lập tương phản này lại
được nhà thơ đặt cạnh nhau, sóng đôi cùng nhau, và cũng lại cùng nhau tạo nên một biểu
tượng đẹp trong thơ văn kháng chiến, thể hiện rõ bao phẩm chất tốt đẹp của con người Việt
Nam: cứng cỏi trong chiến đấu nhưng lại hiền hòa trong đời thường, ý chí sắt đá kiên cường
nhưng tâm hồn cũng rất thơ mộng, bay bổng. Hình ảnh trăng lơ lửng treo đầu súng cũng là lời
kết của toàn bài thơ, và lời kết này có giá trị rất lớn: khẳng định vẻ đẹp chân thực của cuộc
chiến vệ quốc, vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ Cách mạng, động thời làm giảm bớt đi cái
ác liệt thảm khốc của chiến tranh, trở thành tiêu biểu của tình đồng chí cao đẹp, thiêng liêng.